THU DẠ LỮ HOÀI NGÂM -ĐINH NHẬT THẬN

Tác giả Bài
phantien
  • Số bài : 85
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 28.07.2006
  • Nơi: Thanh Chương- Nghệ An
THU DẠ LỮ HOÀI NGÂM -ĐINH NHẬT THẬN - 25.07.2010 19:37:16
THU DẠ LỮ HOÀI NGÂM
( Khúc ngâm đêm thu của người lữ thứ)
--------------------
                                                      Đinh Nhật Thận

          Đinh Nhật Thận, tự Tử Quý, hiệu Bạch Mao Am, sinh năm Ất Hợi 1815, mất năm 1886, người làng Thanh Liêu, nay là xã Thanh Tiên, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Ôngđỗ đầu hàng tam giáp đồng tiến sĩ khoa thi Hội năm Mậu Tuất (1838) niên hiệu Minh Mệnh thứ 19, được triều đinh bổ làm tri phủ, tuy nhiên, sau một thời gian thì ông bị cách chức không rõ nguyên nhân.
          Năm 1843 được phục chức nhưng ông cáo bệnh không nhận. Tính tình ông phóng khoáng, thích làm thuốc, làm thơ giao du đây đó, lấy việc kết thân bạn hữu gần xa làm trọng. Ông là bạn chí thân của Cao Bá Quát (Bắc Ninh) và Nguyễn Hàm Ninh (Quảng Bình). Sau cuộc khởi nghĩa Mĩ Lương của Cao Bá Quát, ông bị liên luỵ, triều đình bắt giữ và kiềm chế gắt gao. Biết ông là người học rộng tài cao nên Tự Đức quyết giữ ông lại trong cung, trước là để kiềm tỏa, sau là nhờ ông dạy cho các hoàng tôn.
          Sống  cảnh gò bó, chán chường, lúc nào ông cũng mang nặng nỗi lòng nhớ cố hương. Vào một đêm thu thanh vắng, độc ẩm, tức cảnh sinh tình, ông viết một mạch “Thu dạ lữ hoài ngâm ”. Khúc ngâm dồn nén tất cả những tâm tư tình cảm với gia đình, với quê hương xứ sở. Tác phẩm  được truyền tụng đến  tai vua. Vì mến phục tài đức của một nhân cách cao thượng, vua Tự Đức đã  hạ chỉ tha cho ông.
          Thu dạ lữ hoài ngâm được sáng tác là tác phẩm có ý nghĩa quan trọng làm nên tên tuổi Đinh Nhật Thận trong lịch sử văn học Việt Nam. Tác phẩm có 136 câu chữ Hán. Bản chúng tôi in ở đây, tương truyền do tác giả tự dịch.
          Thu dạ lữ hoài ngâm là tình thương nhớ quê hương, gia đình của một người bị bắt giam vô cớ, mặc dù ở giữa kinh đô nhưng lòng luôn luôn trống trải, lãnh lẽo và xa lạ.
          Thu dạ lữ hoài ngâm còn là khúc ngâm đặc biệt độc đáo vì tính chất thể loại của nó. Tác phẩm chữ Hán nhưng lại  được viết bằng thể song thất lục bát- một thể thơ hết sức thuần Việt và có ưu thế trong việc giãi bày tâm trạng.
          Chọn in Thu dạ lữ hoài ngâm vào " Thanh Chương, Xưa và Nay", chúng tôi mong muốn bạn đọc được tiếp xúc  trọn vẹn với một tác phẩm của một nhà thơ tài hoa của quê hương mà cuộc đời và sáng tác của ông đã đi vào công chúng như những huyền thoại.
                                                                                      BBT
 
(Bản phiên âm chữ Hán)
 
Thu dạ tĩnh thiên quang ẩn ước
Cách sở liêm đạm chước kim lôi
Thiên thời nhân sự tương thôi
Phù sinh nhược mộng kỷ hồi vi hoan?
Nhân đối cảnh hoa gian nguyệt chiếu
Cảnh liêu nhân, thọ diếu phong xuy
Giá ban liệu thiểu nhân tri
Nhàn lai phong nguyệt  dữ thuỳ vi thu?
 
Thi tứ tuyệt di du nhã ái
Tửu tam bôi tiêu sái li hoài
Đăng tiền độc đối thư trai,
Thương tâm khách địa hữu hoài cổ nhân!
 
Hương thuỷ ngoại hốt văn ngư vận
Tùng hà lai trạo tấn giang biên?
Bồi hồi nguyệt dạ sương thiên,
Hàn sơn cánh nhận khách thuyền cánh phi.
 
Khúc giang thuỷ, hà thì Đại Đỗ?
Nhất cô châu hệ cố viên tâm
Thời lưu bát thủ thi ngâm
Linh nhân lữ tứ chuyển thâm hương tình.
 
Tích ngã vãng thanh thanh liễu nhứ,
Lưỡng tam thanh sơ ngữ hoàng oanh
Nhi kim cúc dĩ hàm anh
Liếu âm đình ngoại hàn minh lưu thiền.
 
Tích ngã khứ phiên phiên đào kiểm,
Lưỡng tam chi sơ chiếm đông phong,
Nhi kim lan dĩ thành tùng,
Đào yêu hiên ngoại lạc tòng hàn sương.
 
Hồ vi hồ thê lương khách xá?
Nhật ưu du kỷ cá quan đồng!
An năng dạ dạ thư phòng?
Ba tiêu khấp lộ, côn trùng minh thu.
 
Hồ vi hồ di do lữ quán?
Tuế thoan tuần dĩ bán sương yên!
An năng mộ mộ tây hiên?
Phong dao đình trúc, nguyệt huyền ốc lương.
 
Bất thị tố hà lang đầu bút
Tương trung can vị quốc tùng quân.
Thử thân không tự phong trần,
Toạ trung hư thị tẩm thần đồ văn!
 
Bất thị tố hà nhân phủng hịch,
Tương hiếu tâm ly thích tùng quan
Tha hương hà sự bàn hoàn?
Bạch vân phi xứ mẫu đan khai thần.
 
Kim nhật tự hải tần viễn cố,
Nhật khinh phàm trực độ quy lăng.
Hương hồn phất phất như tăng,
Trực phàm hốt dĩ phá từng từng ba.
 
Minh nhật tự sơn gia viễn thiếu,
Phiến cô vân đái hiểu phù không.
Hương tâm niểu niểu như bồng
Tuỳ vân hốt dĩ quá trùng trùng san.
 
Hà xứ thị hương quan nhạn tín
Du tai nan tả tận tâm tình
Dạ văn Diệu Đế chung thanh
Hải môn cổ hưởng Ngự thành pháo thôi.
 
Giang khúc khúc trường hồi khúc khúc,
Cảnh du du dạ phục du du.
Tiêu điều quán lữ đình thu
Lân gia thung chữ, giang đầu tạo thanh.
 
Ta khách địa vu oanh tâm sự,
Thán khuê nhân tình tự khả liên.
Canh thâm đăng diệt án tiền
Hàm tình yểm phiến không huyền nguyệt minh.
 
Cô chẩm lý tam canh ngụ mị
Phiến u hoài thuỳ thị vi lân?
Tình đầu dạ bán vô nhân.
Thuỵ lai báo điệp, tỉnh thần minh kê.
 
Hữu thời hoặc hương khưê tịch chiếu
Hạ đường lai dục tạo hoa lâu.
Hốt kinh yến tráp nê sào
Loan tu chiếu kính phượng sầu lại sơ.
 
Hữu thời hoặc chức cơ dạ tĩnh
Hô đồng lai, sơ chính đăng minh
Hốt văn nhạn độ giang thanh
Cơ dung túc đạp, thoan đình thủ phao.
 
Khả lân dạ phần cao đạt đán
Dạ trầm trầm bất kiến giai âm
Trịch thoan vọng vọng đình âm
Sương hàn tất suất thỉnh ngâm thanh sầu.
 
Vọng bất kiến du du ngã độc
Cố khuê môn tái phục ngôn hoàn
Thính gia kê xướng tây lan
Hàm tình ỷ kỷ khiêu tàn cô đăng.
 
Khả lân nhật đăng đình tự tảo
Nhật tà tà bất đáo hồi thư
Lãm y bộ bộ khang cù
Thiền minh dương liễu đái sầu mi khan.
 
Vọng bất kiến phiên phiên ngã độc
Cố cầm hiên cưỡng dục vi tình.
Hốt chiêm điệp hí lan bình
Hàm thê xuyên cược phục hành tây viên.
 
Kim tất vị thu thiên tĩnh hảo,
Ngã lương nhân tương đáo qui kỳ
Hoàng tri thế lộ nghiêu khê!
Quan sơn thiên lý vị kỳ hạt lai!
 
Kim tất vị ngã ly vĩnh cửu
Tự Trường An hoặc bão khâm trù.
Phong tình quán tự phong lưu
Phồn hoa thần hữu hoàng châu đế thành.
 
Cầu phi hữu nhân tình dã  giả
Hồ nhi xuân nhi hạ nhi thu
Do lai tử các hồng lâu
Anh hùng bất trú trượng phu nan trì.
 
Như thử giả, thuỳ tri chi giả?
Yên ba trung sử ngã tâm sầu!
Ngang tàng khởi thiếu niên du
Phong lưu cựu thái, giang hồ cố gia.
 
Lữ cảnh mỗi tùng nga lý thống
Hương hồn không hướng mộng trung du
Giang sơn khách diệc tri hồ
Tình trung cánh thiết lộ đồ gian nan.
Tuy viết dĩ tảo tần phụ sự,
Nội tề gia thượng  tự tổ tiên.
Giản mao hoàng thuỷ vi kiền,
An tri chủ quỹ năng hiền phụ nhân.
 
Khả tri giả thập phần gia ấu,
Nhất môn trung cộng bảo vô nguy.
Biệt thời chính tại hài nhi
Niên lai tưởng dĩ phát thuỳ nha sinh.
 
Khả ái giả kỳ huynh chi tử
Niên thập tam, thập tứ trung lai
Ngô huynh diệc viết hạnh tai
Để kim vị giác thuỳ khai học đường.
 
Khả tư giả đồng song nhị khế
Chi lan hương tế tế do văn
Mã bôi tự ấp khinh trần
Vị thành thử hậu cố nhân diệc từ.
 
Bất tri hậu Bắc kì khởi phỉ
Nhị ngô huynh dĩ vị hồi thần
Ta tai đồng bệnh tương lân
Nhất Tiêu Tương, nhất hướng Tần, nhất phương.
 
Tương hà nhật cánh tương đối ngữ
Tự khuê tình hựu tự khách trung
Nhi kin thu nguyệt thu phong
Thu ngâm thu ẩm tình trung giả thuỳ?
 
Đối ly cảnh lệ thuỳ song nhãn,
Cố hương quan lộ hoạn trùng san,
Tửu tàn độc ỷ lan can
Giác lai nhãn khán dạ hoàn thê lương!
 
 
 
 
 
 
 
 
Bản dịch ( Tương truyền tác giả tự dịch)
 
Đêm thu lặng, bóng trời thấp thoáng
Cách rèm thưa chuốc chén kim lôi
“Thiên thời nhân sự tương thôi”
Kiếp chiêm bao dễ mấy hồi hân hoan?

Người đối cảnh, hoa gian trăng tỏ
Cảnh trêu người ngọn gió rung cây
Nỗi niềm ai biết chăng ai?
Cùng ai trăng gió đêm này với thu?

Thơ nhã ái, bốn câu buông vận
Rượu ly hoài ba chén làm khuây
Trước đèn trong chốn thư trai
Chạnh lòng đất khách, nhớ người đời xưa.

Ngoài Hương thủy tiếng ngư văng vẳng
Thuyền từ đâu chèo thẳng bên giang?
Lờ mờ đêm nguyệt trời sương
Thuyền ai tưởng khách non Hàn, lại không!

Khúc giang thủy nhớ ông Đại Đỗ
Buộc con thuyền lòng cũ bơ vơ[1]
Hứng thu đề tám bài thơ
Xui người đất khách ngẩn ngơ tình làng

Xưa ta đi liễu đang xanh thế
Chim hoàng anh thỏ thẻ ba câu.
Bằng nay cúc đã hoa thâu
Liễu kia nghĩ cũng âu sầu vì ve.

Xưa ta đi đào khoe tiếu kiểm
Ngọn đông phong mới điểm ba hàng
Bằng nay lan đã chồi sương
Đào non nghĩ cũng võ vàng vì thu

Làm chi vậy buồn rầu đất khách?
Ngày quán đồng mượn thích làm khuây
Có đêm nương bóng hồi tây
Tiếng sương khóc lá hơi may gọi trùng

Làm chi vậy lạnh lùng quán lữ.
Năm, sương yên hết nửa đi rồi
Có đêm ngồi nhẫn thư trai
Gió lay bên trúc, nguyệt cài trên lương.

Nào có phải như chàng ném bút
Vì vua mà đồng mác cho cam?
Luống đem thân thế cát lầm
Thấy, ngồi hổ mắt, nghe, nằm thẹn tai!

Nào có phải như ai vâng hịch
Vì thân mà xa cách cho xong?
Bỗng không cách địa bình bồng.
Trông mây lại nhớ, xem bông lại buồn.
 
Ngày nay đứng trông miền bể rộng
Một cánh lá buồm thẳng gióng về cồn.
Lòng quê đâu đã cuồn cuồn
Phút theo buồm vượt mấy ngàn sóng khơi.

Ngày mai đứng trông nơi non thẳm,
Một làn mây sớm ngắm trên không.
Lòng quê đâu đã bồng bồng.
Phút theo mây kéo mấy trùng non xa

Trông tin nhạn biết là đâu tá?
Tâm tình này ai tả cho nên?
Đêm, chùa Diệu Đế chuông rền
Trống vang cửa biển, súng rên thành vàng
 
Sông quằn quại ruột càng quằn quại.
Cảnh đìu hiu đêm lại đìu hiu.
Lữ du ai chẳng tiêu điều?
Tiếng chày trong xóm, tiếng chèo ngoài sông!...

Thân đất khách não nùng tâm sự,
Thương người quê tình tự bây giờ.
Đêm khuya cơn tỏ cơn mờ,
Gẫm tình che quạt luống chờ bóng trăng.

Năm canh những mơ màng trên gối,
Mảnh tình riêng biết nói cùng ai?
Thương thay đêm vắng không người,
Ngủ thời bướm báo, dậy thời gà kêu.

Hoặc có lúc bóng chiều trong khổn,
Bước xuống thềm, lại muốn lên lầu .
Phút nghe con én kêu sầu,
Lược rầu tóc chải, gương rầu mặt soi.

Hoặc có lúc đưa thoi đêm tối,
Gọi con tì vừa tới điểm đăng.
Phút nghe tiếng nhạn khơi chừng,
Máy lơi chân đạp, thoi ngừng tay đưa.

Thương thay có đêm chờ nửa gối,
Đêm gần qua, chẳng thấy thư về.
Gác thoi ra đứng bên hè,
Tai nghe tiếng dế rè rè khóc sương.

Trông chẳng thấy, chán chường than thở,
Đoái phòng khuê muốn trở gót giầy.
Gà ai eo óc hồi tây?
Gẫm tình dựa gối liền tay khêu đèn.

Thương thay có ngày nhìn sáu khắc
Ngày gần tàn chẳng gặp thư sang,
Xuống thềm, ra đứng bên đàng
Mày sầu lá liễu hàng hàng khóc ve.

Trông chẳng thấy, lại về đứng đợi,
Đoái cầm hiên toan gợi ngón đàn.
Bướm đâu trêu cợt bình lan?
Buồn tình mang dép ra vườn hái hoa.

Rày hẳn bảo: "Trời đà mát mẻ,
Lương nhân ta có lẽ gần về..."
Biết đâu đường thế nghiêu khê
Dặm ngàn hồ dễ đi về cho năng?

Rày hẳn nói mình chừng lâu ở,
Ôm chăn mền hoặc đã có người?
Phong lưu tính đã quen rồi,
Phồn hoa lịch sự lại mùi Tràng An!
 
Nếu chẳng thế, bàn hoàn chi mãi,
Hết xuân rồi, hạ lại sang thu?
Lầu hồng cung cấm ấy ru?
Anh hùng lại với trượng phu ai từ?

Như thế ấy, bây giờ, ai biết?
Trông yên ba khôn xiết dạ sầu.
Há còn trai trẻ chi đâu,
Phong lưu thói cũ, giang hồ lối xưa.

Cảnh du lữ câu thơ thổn thức,
Bóng hương quan trước mắt mơ màng
Non sông khách có biết chăng?
Vẫn tình thì nhớ nhưng đường thì khơi.

Tuy rằng nói đã người tần tảo,
Trên tôn đường, trong đạo tề gia.
Rau khe nước suối cũng là,
Mình xa chẳng biết ở nhà làm sao?

Duy biết trẻ đứa nào đứa nấy,
Trong gia đình đều thấy yên vui.
Lúc đi trẻ mới hay cười,
Tóc răng nay đã ra người lớn khôn.

Vài thằng cháu trời thương cũng khá,
Tuổi năm nay chừng đã trưởng thành.
Phúc nhà mừng trộm cho anh,
Năm nay biết đã học hành cùng ai?

Bạn đèn sách một hai tri thức,
Mùi lan chi sực nức một nhà.
Từ phen cất chén quan hà,
Vị thành lúc ấy rồi mà Dương Quan.

Sau chẳng biết ngoài miền Bắc động,
Hai anh ta có chóng hồi hương?
Than ôi đồng bệnh cùng thương,
Một Tần, lại một Tiêu Tương một trời.

Đến bao giờ cùng ngồi kể chuyện,
Kể hương tình cho đến khách trung.
Mà nay nào nguyệt, nào phong,
Nào thi, nào tửu biết cùng ai hay.

Sầu li biệt tuôn đầy hai mắt,
Bóng hương quan xa khuất dặm ngàn.
Rượu rồi ngồi dựa lan can
Chiêm bao tỉnh giấc đêm tàn về thu...
         
      ( Theo Hán văn tinh tuý-NXB TP Hồ Chí Minh-1992)
 

[1] Đỗ Phủ- nhà thơ nổi tiếng đời Đường. Một buổi chiều trên sông Khúc, làm tám bài Thu hứng, trong đó có câu: Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ/ Cô châu nhất hệ cố viên tâm ( Tùng cúc vài phen tuôn lệ cũ / Con thuyền buộc chặt mối tình nhà). Đinh Nhật Thận đã mượn câu thơ trên của Đỗ Phủ
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 25.07.2010 19:40:00 bởi phantien >

phantien
  • Số bài : 85
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 28.07.2006
  • Nơi: Thanh Chương- Nghệ An
THƠ VUI TÔN GIA CÁC - 25.07.2010 19:41:32
Tôn Gia Các
            Giáo sư Tôn Gia Các, dạy học tại Hà Nội, quê Võ Liệt, người luôn một tâm hồn bình thản, vui vẻ,  lạc quan. Nghe nói, từ 60 tuổi, mỗi năm ông làm một bài thơ Di chúc. Đến năm 66 tuổi thì ông mất. Trộm vía ông, chúng tôi xin đăng bài thơ truyền khẩu  này. DI CHÚC 2
 
( Thơ vui)
Chắc rằng cha sắp “quy tiên”
Bởi cha đến tuổi “tri thiên mệnh” rồi
Mặc dầu sức khỏe còn dồi
Nhưng mà sống chết, số trời biết đâu
Nay cha dặn lại mấy câu
Khi cha chết, cứ như sau mà làm:
Thấy cha thẳng cẳng, chỉ nằm
Để bông vào mũi, không còn bay bay
Mấy thằng phải phóng đi ngay
Báo cô Thu biết cha mày hết hơi
Một thằng phi xuống chợ Giời
Mua cha cỗ ván, rộng dài bằng cha
Mua xong chở thẳng về nhà
Thằng đầu, thằng cẳng, khênh cha bỏ vào
Các con đừng khóc, đừng gào
Cha chết là phải, sống nào ích chi
Cỗ bàn bày biện làm gì
Chúng mày không đói, cha thì nghỉ ăn
Cũng đừng mũ, mấn, áo khăn
Mỗi thằng một mẩu khăn tang được rồi
Đừng nên bắt chước mọi người
Khịa ra trướng đối, lôi thôi phiền hà
Mai táng phí, lĩnh cho cha
Làm sao tính toán tiêu pha cho vừa
Cũng nên lưu ý phòng ngừa
Nếu bệnh truyền nhiễm thì đưa đi liền
Mẹ mày cùng với o Tiên
Tuổi già lắm bệnh chớ nên khóc nhiều
Ông mày chắc sống còn lâu
Phải giữ sức khỏe mới hầu được ông
Cha chết đi, rất yên lòng
Ngậm cười chín suối, cha không hận gì
Từ nay thôi hết thị phi
Đổi mới, bảo thủ, kiểu gì cũng xong
Văn chương chôn chặt ngoài đồng
Tung hê, hồ thỉ, tang bồng mặc ai
Nhưng mà có lẽ con ơi
Phải xin bác Mạnh một bài điếu văn
Khi truy điệu đọc một lần
Đến khi hạ huyệt, nếu cần đọc thêm
Nghe người, con hiểu cha hơn
Rằng cha cũng chẳng “tầm thường” lắm đâu
Người ta sẽ nói có câu
Rằng “cha cống hiến rất lâu, rất nhiều”
Rằng “cha đáng kính yêu”
“Cha chết- tổn thất không sao đền bù”
Nghe văn con chớ gật gù
Văn cho người chết bao giờ cũng hay!
Các con ơi! Thôi từ nay
Âm dương cách biệt, chúng mày thiếu cha
Chúng mày sẽ mở mắt ra
“Trăm năm trong cõi người ta” nhọc nhằn
Dễ gì kiếm được miếng ăn
Cha còn sống, nói bao lần chẳng nghe
Phận cha sống gửi, thác về
Thiên đường, địa ngục âm ty mặc dầu!
Đời cha chẳng thiết sống lâu
Các con ơi! đấy là câu cuối cùng!
 

phantien
  • Số bài : 85
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 28.07.2006
  • Nơi: Thanh Chương- Nghệ An
GIÁ MỘT MÉT VUÔNG ĐẤT - 25.07.2010 19:43:02
Trần Nghệ
 
GIÁ MỘT MÉT VUÔNG ĐẤT TRÊN TỔ QUỐC MÌNH
                                      Kính dâng hương hồn đồng đội
Thời nay!
Những kẻ hốt được "tiền chùa"
Những cái đầu hãnh tiến
Giương giương tự đắc
Vênh váo! Trước mặt mọi người
Gặp nhau: ồn ào bàn tán...
Một m2 đất: Mấy cây? Mấy chỉ?
 
Tôi tính mét vuông  đất
                                    bằng
                                                máu- người- chiến- sỹ
Đồng đội tắt thở
                        trên tay
                                    giữa Sài Gòn
                                    Trước rạng đông thành phố
Mỗi  m2  đất
                        thấm tràn       
                                    Máu đỏ!
Tháng tư này biết bao em nhỏ
Thắm đỏ khăn quàng trong gió mai
Đạp mi-ni trên những phố dài
Anh nói cùng em- lời thương mến nhất...
Giá mỗi m2  đất. Tổ quốc mình đây
Lớn lên, em
                        - Chớ tính: Bằng cây
                                                             bằng chỉ
 
Quý vô giá: Máu triệu người-chiến-sỹ
Không thể mua: máu đồng chí, đồng bào.
            ( Rút từ: Mùa vải chín-NXB Nghệ An- 2010)
Nhà giáo (đã nghỉ hưu), quê Thanh Hưng

phantien
  • Số bài : 85
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 28.07.2006
  • Nơi: Thanh Chương- Nghệ An
MƠ HẦU RƯỢU CỤ TẢN ĐÀ - 25.07.2010 19:44:22
Nguyễn Lâm Cẩn*
MƠ HẦU RƯỢU CỤ TẢN ĐÀ
Rượu ư ?
Mấy chén cỏn con
Không người đối ẩm
Rượu ngon bằng thừa.
Xin hầu cụ uống say sưa
Trời cao
Nắng!
Phận thấp
Mưa!
Xá đời!
Uống cho cô độc thành đôi
Đau thì dốc cạn
Buồn trôi vào lòng!
Thơ ư ?
Xin cụ mấy dòng
Đem rao ngoài chợ thêm đồng rượu khê
Cái ngông ư cụ?
Đem về
Ủ men tôi cất vào be giải sầu
Cái tình mau ngấm, say lâu
Chát!
Tom!
Tom!
Chát!
Cô đầu cụ ơi!
Chùa Hương rau sắng già rồi
Giang hồ quảy gánh.
Về thôi!
Cạn ngày.
Xin hầu cụ uống cho say
Nay tôi
Xưa cụ
Đắng cay dồn vào.
( Rút từ Đêm trắng-NXB VHDT)
 

phantien
  • Số bài : 85
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 28.07.2006
  • Nơi: Thanh Chương- Nghệ An
HOÀI NIÊM ĐỒNG LÀNG - 25.07.2010 19:45:48
Trịnh Phương Hà*
HOÀI NIÊM ĐỒNG LÀNG
 Ta vẫn quen ngửi mùi rơm rạ
Khói đốt đồng vẫn ngan ngát đâu đây
Những ruộng đã xoay mùa chuyển vụ
Thì còn đâu bát ngát cánh đồng xưa.
 
Trách chi nữa... đầu ta sương trắng phủ
Trở về làng phố đã kẻ thành ô
Ta đã đi như trốn làng quê cũ
Giờ về mơ gốc sung cũ ao nhà.
 
Em đâu nữa... đuôi sam bờ ruộng vắng
Cỏ may khâu sao kịp váy ngang đùi
Làng với em đây...đâu mùa thu cũ
Rạ rơm kia hết chỗ cháy rồi ư?
 
Không cưỡng nổi đồng làng đành chấp nhận
Những ngôi nhà ngạo nghễ mọc trên lưng
Nhưng mùa thu ơi! Khói đốt đồng vẫn toả
Trong hồn người xưa cũ  của quê hương.
( Rút từ Một mình với mùa thu-NXB Nghệ An-2007)
* Quê Thanh Ngọc, công tác tại Hà Nội(tác giả đã mất)

phantien
  • Số bài : 85
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 28.07.2006
  • Nơi: Thanh Chương- Nghệ An
KHÚC HÁT SÔNG QUÊ - 25.07.2010 19:48:20
Lê Huy Mậu*
            KHÚC HÁT SÔNG QUÊ
Ngỡ như người đã hát thay tôi
Ngỡ như tôi đã lẫn vào câu hát
Tuổi thơ ơi!
Quá nửa đời phiêu dạt
Ta lại về
Úp mặt vào sông quê
Như thuở nhỏ
Úp mặt vào lòng mẹ
Để tìm sự chở che
 
Xin bắt đầu từ hạt phù sa
Ta cúi nhặt tình cờ bên sông tháng chạp
Ôi! phù sa
Những cá thể tự do trong hành trình của đất
Đêm nao chớp bể mưa nguồn
Trong cơn thác lũ
Trong sóng đỏ
Đất đi
Kiến tạo
Sinh thành…
Em ơi!
Quả ớt cay bổi hổi
Trên bãi sông
Thuở chưa dấu chân người
Anh nghe nói có một thời
Tất cả còn hoang dại
Tổ tiên ta chỉ hái lượm mà thôi
Lại nghe nói
Thuở ta chưa biết ăn gì cả
Ta cùng cây cỏ sinh đôi
Rồi cây cỏ ăn ta
Rồi ta ăn cây cỏ
Cũng là khi đắng cay ngọt bùi
Ta và đất kết giao
Lấy dòng sông làm thời thế non nước
Chẳng biết ta đã ăn ở thế nào với đất
Mà đất lở sông ơi!
Nơi ta chăn trâu, thả diều ngày cũ đã đâu rồi
Hạt đất quê ta
Giờ đã bồi về đâu chẳng biết
Có làng xóm nào sinh
Từ hạt đất bờ sông quê ta lở
Như cuộc đời ta khuyết hao
Để đắp bồi rồi rờ rỡ
Những sớm má hồng ríu rít cháu con ta
Này dòng sông
Ai đã đặt tên cho sông là sông Cả
Thế và
Ai đã gọi sông Cả là sông Lam
Ta đơn giản chỉ gọi là con sông
Quê hương
Tháng ba
Phù sa sóng đỏ
Cá mương đớp ngọn lúa đòng đòng
Tháng năm
Ta lặn bắt cá ngạnh nguồn
Tháng chín
Cá lòng bong
Ta thả câu bằng mồi con giun vạc
Tháng chạp
Ta nếm vị heo may
Trên má em hồng…
Để rồi ta đi khắp núi sông
Ta lại gặp
Tháng ba, tháng năm… tháng chạp
Trong vị cá sông
Trên má ai hồng
 
Này dòng sông
Ngươi còn nhớ chốn ta ngồi ngóng mẹ
Phiên chợ Lường vời vợi tuổi thơ ta
Sao ngày ấy ta dễ ngoan đến thế
Mẹ thuê ta một xu bánh đa vừng
Ta ngoan hết một ngày
Ta ngoan suốt cả năm
Ta thương mẹ đến trọn đời ta sống
Quê hương ta nghèo lắm
Ta rửa rau bến sông cho con cá cùng ăn
Ta mổ lợn
Con quạ khoang cũng ngồi chờ chia thịt
Cá dưới sông cũng có tết như người
Trên bãi sông
Ta trồng cây cải tươi
Ta ăn lá
Bướm ong thì hút mật
Lúa gặt rồi- còn rạ, còn rơm
Trâu đủng đỉnh nhai cả mùa đông lạnh
 
Cùng một bến sông
Phía dưới trâu đằm
Phía trên ta tắm
Trong kí ức ta
Sao ngày xưa yên ổn quá chừng!
Một dòng xanh trong chảy mãi tới vô cùng…
      * Quê Thanh Tiên, công tác ở Ban Tuyên giáo Bà Rịa- Vũng Tàu

phantien
  • Số bài : 85
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 28.07.2006
  • Nơi: Thanh Chương- Nghệ An
Hát với sông Giăng - 25.07.2010 19:49:52
Lê Văn Bằng*          
 
            Hát với sông Giăng
Trên bản đồ Tổ quốc
Sông Giăng không có tên
Với tình người xứ sở
Sông Giăng không thể quên.
Nguồn cao từ Trường Sơn
Qua Con Cuông góp nước
Cửa Vều rồi Lộp ốp
Xuôi Hàn qua Đá Gân.
Hợp với nước Rào Con
Sông Giăng làm Thác Muối
Một cái tên chờ đợi
Náo nức người  Hạnh Lâm
Về Chợ Chùa rất gần
Sông biết dòng sắp trọn
Trong xanh và chầm chậm
Ôm Phong Hoa vào lòng!
Tổ quốc biết sông Hồng
Kể từ thời dựng nước
Ôi sông Giăng thân thiết
Ta biết tự khi nào?
Lán trại người dựng đầu
Chợ Giăng chợ Chùa đó?
Cao một hòn Rú Ná
Gợi cái thuở hồng hoang.
* Nhà giáo,  quê Phong Thịnh
            ( Rút từ Hát về sông Giăng- NXB Nghệ An)

phantien
  • Số bài : 85
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 28.07.2006
  • Nơi: Thanh Chương- Nghệ An
TIẾNG NGHỆ - 25.07.2010 19:51:50
Nguyễn Bùi Vợi*
            TIẾNG  NGHỆ
Cái gầu thì bảo cái đài
Ra sân thì bảo ra ngoài cái cươi
Chộ tức là thấy mình ơi
Trụng là nhúng đấy đừng cười nghe em
Thích chi thì bảo là sèm
Nghe ai bảo đọi thì mang bát vào
Cá quả lại gọi cá tràu
Vo troốc là bảo gội đầu đấy em...
Nghe em giọng Bắc êm êm
Bà con hàng xóm đến xem chật nhà
Răng chưa sang nhởi nhà choa
Bà o đã nhốt con ga trong truồng
Em cười bối rối mà thương
Thương em một lại trăm đường thương quê
Gió Lào thổi rạc bờ tre
Chỉ nghe giọng nói đã nghe nhọc nhằn
Chắt từ đã sỏi đất cằn
Nên yêu thương mới sâu đằm đó em.
* Quê Cát Văn, nhà thơ đã quá cố.