Những nẻo đường hà nội
Asin 07.09.2003 08:24:42 (permalink)
Chữ " hàng" gợi cảm
Hà Nội ba mươi sáu phố phường, mỗi phố là một phường hay mỗi phường là một phố? Không hẳn thế. Bởi mỗi nghề còn giữ lại trên tên phố Hà Nội nay đã qua bao thay đổi, còn đến hơn sáu mươi phố bắt đầu bằng chữ Hàng như Hàng Đào, Hàng Tre, Hàng Sắt, Hàng Mành, Hàng Bún, Hàng Bè... trong hơn ba trăm sáu mươi phố của Hà Nội hiện nay. Hà Nội lớn lên không ngừng. Gương mặt từng phố ngày mỗi đổi thay và hẳn trong lòng nó, trong lòng mỗi phố, trong lòng mỗi căn nhà và mỗi con người Hà Nội. Cuộc đời là một dòng sông chảy đi bất tận, mang lớp lớp phù sa mới bồi đắp vào cuộc đời mình. Có những phố nguyên có chữ Hàng nhưng đã được mang tên mới như Hàng Cỏ (Trần Hưng Đạo), Hàng Đẫy (Nguyễn Thái Học), Hàng Giò (Bà Triệu phía trên), Hàng Lọng (Đường Nam Bộ rồi Lê Duẩn), Hàng Nâu (Trần Nhật Duật), Hàng Kèn, (Quang Trung), Hàng Bột (Tôn Đức Thắng) v.v...

Trong ký ức của những người Hà Nội, một căn nhà, một góc phố, một gốc cây, có khi chỉ là một âm thanh, một làn hương, một màu sắc... cũng hiện lên bao hình ảnh thân yêu, gợi cảm. Đương nhiên cái mới phải sinh ra, phải vươn lên, cái cũ phải nhường chỗ. Măng thay tre. Con sông tiếp nhận những dòng suối. Nhưng cây măng chớ quên bụi tre đã ôm ấp che chở mình. Dòng sông hình thành sao được nếu không có những con suối cần cù năm tháng trong rừng sâu im vắng? Người Hà Nội hôm nay đi quanh Hồ Gươm, đi vòng Hồ Tây, đi thuyền trên hồ Thống Nhất, thả hồn trên đường Thanh Niên có hoa phượng hoa ban tím (còn gọi là cây móng bò), vào bảo tàng Hồ Chí Minh, ngắm vườn hồng đường Bắc Sơn, ra Điện Biên nhìn lại Cột Cờ cổ kính, vòng về chợ Đồng Xuân, rẽ ra bờ sông Cái có cầu Chương Dương, bước lên con đê xanh... có bao giờ quên được những tên phố thân thương, gợi nhớ cả một thời xa xưa oanh liệt và trữ tình. Hà Nội có những nghề cổ truyền, có đám, có phường, có những món ăn thanh lịch, những cảnh trí thơ mộng và cả những niềm vui mộc mạc giản dị của một vùng quê Bắc Bộ. Hàng Bài không còn là bài lá, tam cúc, tổ tôm có những cây xe hồng, tịnh vàng xuất hiện trên ổ rơm những ngày tết ấm cúng trong bao gia đình, những cây bát sách, cửu vạn mà câu ca dao đã phải thốt lên: " Làm trai biết đánh tổ tôm, uống trà mạn hảo, xem nôm Thúy Kiều" là ba cái thú, ba sự lịch lãm một thời; những quân bài đã thành kỷ niệm in trong ký ức bao thế hệ. Nay ở đây có trường Trưng Vương, nhà triển lãm, hiệu bán sách khoa học, bán băng nhạc, có cửa hàng bách hóa lớn nhất Thủ đô. Hàng Bạc không còn những cô gái kiêu kỳ kiểu công chúa cấm cung, ăn cái giá đỗ cũng phải ngắt làm đôi, cái phố từng sản xuất những vòng, xuyến, kiềng vàng cho lớp giàu sang, sản xuất những đôi khuyên vàng và tích bạc cho cô dâu về nhà chồng, cho những vùng xa về kinh kỳ kẻ chợ sắm cưới; chỉ còn rạp Tố Như cũ (rạp Chuông Vàng-Văn Lang) nơi sinh ra Trung đoàn Thủ đô bất tử trong những ngày kháng chiến oanh liệt của Liên khu Một năm 1946.

Nhà cô Bé Tý đã thay đổi hoàn toàn, không còn ai nhớ đến nữa, đình Hàng Bạc cũng hoang tàn, những người thợ bạc Châu Khê (Cẩm Bình Hải Hưng) có đình thờ riêng, nay lang bạt đi đâu, hiệu thuốc cam có Con Hươu, còn đấy, nhưng em bé nào còn ăn thứ thuốc cam ấy (có đến bốn năm hiệu cùng có Con Hươu, cũng hơi phiền). Hàng Chuối từng có những bãi chuối bạt ngàn để chăn đàn voi cho nhà vua phủ chúa, nay là một phố dài cây xanh rợp bóng, những biệt thự yên lặng như vầng trán trầm tư trong tịch mịch. Cái màu xanh đất bãi ấy mất đi chăng? Không, nó lại hồi sinh trong màu lá hai bên đường cây, để xuân về, óng ả, tơ non, tạo ra cái mái nhà xanh của thủ đô rất Hà Nội. Trụ sở Hội Phụ nữ lúc nào cũng có bóng cây dịu mát, cái dịu mát của cây hay của người phụ nữ Việt Nam? Bàn tay nào khéo léo, tâm hồn nào giàu rung động, để đã từ một ống tre, một quả bầu khô, một miếng da rắn... tạo ra cây nhị cây hồ nhất là cây đàn bầu bất hủ. Hàng Đàn hẳn một thời náo nhiệt những giai nhân tài tử, nghệ sĩ đến so dây, nắn phím. Những trái tim ấy đã ra đi nhưng tài hoa còn lại với đất nước nghìn năm văn vật. Hẳn họ cũng đã quá bước tạt sang Hàng Quạt bên cạnh để thửa cái quạt thước, chiếc quạt tím trang kim, chiếc quạt gỗ đàn hương thoảng gió thơm, chiếc quạt gỗ trầm ngào ngạt, khiến yêu cái quạt yêu cả người cầm quạt, nói như nữ sĩ Xuân Hương: " Mười bẩy hay là mười tám đây Cho ta yêu dấu chẳng rời tay...

... Yêu đêm chưa phỉ lại yêu ngày..." Quạt tạo ra gió mát, quạt còn che nửa mặt hoa cho khỏi rám má hồng trưa nắng, làm duyên cho tao nhân... Hàng Nón sao lại không từng tặng liền anh liền chị đất Kinh Bắc những chiếc nón thúng quai thao để: " Yêu nhau gửi nón cho nhau Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay..." Những chiếc nón ấy đã ở lại mãi mãi với câu ca say đắm lòng người, trường tồn với dân tộc tài hoa và tha thiết. Hàng Khay có những người thợ khảm trứ danh. Từ mảnh gỗ đơn sơ, từ chiếc vỏ con trai chẳng giá trị gì, họ đã tạo ra những tác phẩm thực sự, óng ánh, bảy sắc cầu vồng; những đường nét, phong cảnh, tưởng như đang hiển hiện trước mắt mà ta đang bước vào đó trên đoạn đường ta đang đi dạo. Bến sông Nhị Hà xưa còn ăn sâu vào đất liền hơn bây giờ nhiều. Từ rừng núi, theo những con ngựa thồ, những chiếc xe thô sơ và cả những con thuyền lớn... những củ nâu xù xì nhưng bền bỉ sắc màu dân dã quê hương đã về đây để nhuộm cho mẹ cho chị những tấm áo che một nắng mấy sương. Dọc Hàng Nâu xuống Hàng Chĩnh, Hàng Mắm, Hàng Muối, Hàng Tre. Nước Mắm Nghệ, muối chợ Cồn Văn Lý, ang chĩnh Thổ Hà, tre vầu rừng Bắc... đã theo những mảnh buồm, những bè nổi lênh đênh về với kinh kỳ. ôi những con thuyền đã rong ruổi bao dặm trường sóng nước, neo vào bến Cầu Đất, gửi cho Hà Nội những món quà bền chắc, nồng mặn đậm đà, để mà nhớ nhau mãi mãi như câu ca dao: " Gừng cay muối mặn xin đừng..."

Người Hà Nội tài hoa, tao nhã, hiếu học, Hàng Giấy, Hàng Bút còn đó. Những khoa thi nào, anh khóa, cậu tú, bác cử đi chọn giấy bút để tung hoành trên trường văn trận bút. Cái " công danh xa mã" ấy từng đã làm khổ bao người, những anh đồ dài lưng tốn vải, những người phụ nữ ước mơ võng anh đi trước võng nàng theo sau, lụi cụi cả một đời cho tuổi trẻ trôi qua lúc nào không biết. Tuy nhiên chúng ta cũng tự hào còn lưu lại được nhiều áng thơ văn thiên cổ kỳ tài, những tuổi tên còn khắc đầy trên hơn tám chục tấm bia đá nơi Văn Miếu kia. Còn cuộc đời thường của người dân lao động với những nhu cầu không thể thiếu được thì đã có Hàng Gạo, Hàng Cá, Hàng Đường, Hàng Khoai, Hàng Đậu, Hàng Dầu, Hàng Bột (Tôn Đức Thắng). Muốn sắm sửa thì lên Hàng Bát Đàn, Bát Sứ, Hàng Đũa (Ngô Sĩ Liên). Cha già mẹ héo cần một cỗ áo thì đã có Hàng Sũ gần kia. Tháng chín tháng mười giở trời, đau cả xương cốt, món rươi của vùng Hải Đông (Hải Dương Hải Phòng ngày nay) đổ về kinh kỳ không ít. Khen ai là người đầu tiên đã biết chọn vỏ quýt làm gia vị cho món chả rươi, quả là tài tình, quả là nghệ thuật. Cái lưỡi con người tinh tế đến thế là cùng. Hàng Rươi cũng là nơi họp chợ hoa ngày tết. Cô gái đi mua hoa, cành đào hay cành mận, nhánh hải đường hay bông vạn thọ, cô có thể sắm thêm gương lược mà điểm trang cho thêm nhan sắc, cho đẹp cả mùa xuân, có Hàng Lược đó. Hà Nội có một cái dốc khá cao. Đó là Hàng Than. Cái thời chưa có điện, chưa có than đá, than quả bàng, hẳn ở đây luôn luôn bận rộn những hàng bán than hoa để thơm lừng vị chả nướng, để ấm nồng những lồng ấp, để thanh tao những chén trà của các cụ đồ trong sương sớm. Sau này, Hàng Than còn nổi tiếng với món bánh cốm ngon lạ thường, một món quà đặc biệt, chỉ Hà Nội mới có tài làm ngon đến thế. Cốm xanh biếc, nhân đỗ xanh vàng hươm, cùi dừa trắng tinh, điểm vài viên hạt sen nhừ tơi; được gói trong lá chuối tươi, lại một màu xanh óng chuốt của quê hương đồng bãi, buộc chặt bằng chiếc lạt đỏ cánh sen, gợi mùa cưới chan chứa ân tình. " Nằm đất với chị hàng hương" ...

Hàng Hương cô hàng, người thơm tho gỗ hoàng đàn, thoảng mùi xạ, phảng phất hương trầm... Tết, ngày giỗ mà không có hương sao còn gọi là tết, là giỗ? Ngôi chùa cổ Việt Nam, ngôi đình làng trang nghiêm sao có thể thiếu được những nén hương đen, những cuộn hương vòng, những cây hương sào thắp một ngày chưa hết, phố Hàng Hương tuy nhỏ nhưng thực sự là một phố mang lại cái cần thiết cho Hà Nội, cho cả vùng về đây mà mua mà cất, một cái duyên riêng vậy. Màu sắc óng ánh trong chiếc thắt lưng hoa lý, hoa đào, hồ thủy, thiên thanh, dải yếm đỏ, áo đổi vai nâu non... cứ phấp phới lên trên phố Hàng Đào, nhất là những ngày phiên chợ tơ. Các thứ lụa tơ từ Ba La Trinh Tiết của tỉnh Đơ, của Đồng Tỉnh Huê Cầu của tỉnh Bắc... mang đến. Còn Hàng Vải thâm là nơi đi về của người dân áo vải. Cô gái Đình Bảng, Cầu Lim mặc váy cửa võng cạp điều mang vải về đây nhuộm hoặc trả cho khách hẳn từng làm xao xuyến bao chàng trai kinh thành. Trung thu, tiếng trống ếch rộn ràng. Trường học nào cần bưng lại mặt trống da trâu để kịp khai trường, đình làng nào cần một chiếc trống đẽi để vào đám giêng hai, Hàng Trống sẵn sàng chờ đón. Phố này đến nay vẫn còn mấy nhà có nghề làm trống cổ truyền, dựng tang trống, thuộc da, lên mặt trống... đều bằng phương pháp thủ công nhưng chiếc trống hàng chục năm vẫn kêu vang, không hỏng. Hà Nội đã sống gần ngàn năm dưới chế độ vua quan. Có bao cái đẹp và cũng có bao cái phải mất đi nhường cho cái mới. Hàng Lọng (phố Lê Duẩn) có ga Hàng Cỏ tấp nập ngày đêm, đón và đưa những con tàu Nam Bắc, ra cảng Hải Phòng, lên tỉnh có chè ngon nổi tiếng Thái Nguyên... Với trên sáu mươi phố mang chữ Hàng, vẻ xa xưa chưa hết, Hàng Mành vẫn làm mành. Hàng Hòm vẫn đóng hòm, va li gỗ, Hàng Thiếc làm thùng tôn, ống máng, cắt kính, làm đồ chơi trung thu cho trẻ, chỉ tiếc đồ chơi ít thay đổi, không theo kịp sự phát triển của xã hội và lớn nhanh của tâm lý thiếu nhi. Hàng Mã vẫn làm đèn lồng hoa giấy. Hàng Bông vẫn còn nhiều nhà làm cốt chăn bông. Bên cạnh đó nhiều phố mang tên cũ nhưng không còn một ai làm nghề cũ ấy nữa: Hàng Gà, Hàng Cá, Hàng Gai, Hàng Bún, Hàng Cót, Hàng Bồ... Vẫn cảm động khi bước chân đến những khu nhà khấp khểnh như tranh Bùi Xuân Phái: Hàng Cân, Hàng Chỉ, Hàng Chai, Hàng Hành, Hàng Bè, Hàng Giấy, Hàng Vôi, Hàng Cháo...

Thế kỷ hăm mốt sắp đến, chưa hình dung nổi những đổi thay. Những con người vừa sinh ra trong thập kỷ cuối này sẽ làm chủ đất nước, làm chủ Hà Nội. Họ thật là hạnh phúc. Họ sẽ sung sướng hơn chúng ta, vừa ý đẹp lòng hơn chúng ta cũng như chúng ta sung sướng hơn cha ông chúng ta xưa. Qua những chữ Hàng, ta càng yêu Hà Nội hơn, yêu như yêu máu thịt mẹ cha cho, bởi chính đó là một trong những khía cạnh của nền văn hóa Việt Nam từ bốn nghìn năm.



Bài thơ áo dài

Đã có không ít người nước ngoài ngạc nhiên đến sững sờ trước vẻ đẹp kỳ diệu của tấm áo dài Việt Nam, mặc dù ở nước họ, người phụ nữ cũng có những bộ áo váy dân tộc thêu rua với nhiều vẻ đẹp. Một nét duyên dáng như mây thu mơ hồ hay cái đẹp lộng lẫy của ngày hè chói chang hoa phượng có gió lộng xào xạc ngọn đề. Khó mà nói được niềm bay nhè nhẹ của tà áo tím bên hồ hay vẻ lâng lâng của màu áo trắng như tung đùa trong sắc xanh cây lá. Ngay giữa cái ồn ào tấp nập đua chen, tà áo dài như hoa cũng mang lại sự thanh thản như sau một tiếng thở dài. Dám đoán chắc không một cô gái Việt Nam nào lại không sung sướng được mặc tấm áo dài trong ngày hội, ngày lễ, ngày tết và nhất là ngày bước xuống chuyến đò hạnh phúc, khẽ cúi xuống nhìn tà áo dài mà mỉm cười e lệ và sung sướng hồi hộp bên người yêu đã thành chú rể ngượng ngùng. Và cũng dám đoán chắc rằng không một người đàn ông nào dù cực tả hay cực hữu, dù đang yêu hay trái tim đã rạn vỡ bao lần, lại không ưa thích tà áo dài, không ngắm cái đẹp đang chập chờn phía trước như cánh bướm trong giấc mộng Trang Chu, để về đến nhà bên người vợ thủy chung vẫn còn bảng lảng bóng hình của câu thơ bất chợt ấy làm xao xuyến.

Tấm áo dài Việt Nam không hẳn hôm nay mới có. Chẳng qua nó bị bỏ quên, bị đánh rơi trong dĩ vãng. Song thực ra nó được sinh ra từ dĩ vãng đầy văn hiến của dân tộc ta đến ngàn đời, kể cả những thế kỷ có kẻ muốn đồng hóa dân ta bằng những tấm " áo khách" . Cụ chúng ta, bà chúng ta, mẹ chúng ta từng chẳng mặc áo dài đó ư? Cái áo năm thân, tứ thân buông tà hay thắt vạt, cái áo mớ ba, mớ bảy đổi vai hoặc không đổi vai đi cùng với váy sồi hoặc quần lĩnh tía... đã vào ca dao, thành câu ví, nên hình ảnh của nét ăn dáng mặc thanh nhã, hào hoa, nền nã. Có thứ huân chương nào tặng cho tác giả cái áo đổi vai. Nối vai nhưng lại so le, một đường gấp khúc, tạo mảnh hình không đăng đối nhưng ưa nhìn, giống như cái răng khểnh trên khuôn mặt trái xoan, hoặc một bên lúm đồng tiền của cô gái dậy thì. Đâu có phải vì nghèo, vì áo rách vai sờn mà phải đổi vai, giữ lại phần lành thay đi phần rách, mà chính là một kiểu khoe khéo, cái khéo tay về đường kim mũi chỉ, về cách chọn màu, về sự cách điệu và đó chính là tài hoa, là sáng tạo vậy. Thời gian dù bao thế kỷ cũng không bào mòn được tinh hoa dân tộc. Nó cứ sừng sững thách thức cùng biến thiên. Tấm áo dài vải rồng, một thứ vải mỏng như sa, như the, sản phẩm của xứ Sơn Nam, rồi được nhuộm màu nâu ở cửa ô Đồng Lầm đất Thăng Long, nên nó thành vải Đồng Lầm, chiếc áo dài Đồng Lầm đã tồn tại bao thế hệ. Từng hình thành nếp sống đi ra đường, đi ra khỏi nhà là không thể không mặc áo dài, dù trắng hay đen, hồ thủy hay thiên thanh, nâu non hay cụ già, dù sang hay hèn, già hay trẻ... Đất Thăng Long -Hà Nội, ngay cả cô bán bún chả rong, chị cắp thúng bán rao quả bưởi, bác đội chăn bông đi đổi, bà hàng xôi cháo bán trưa, chị thuyền chài tạm rời con thuyền nan lên bộ bán mớ cá mới đánh được...

Cũng phải có tấm áo dài trên thân, thong thả thì buông chùng, vội vàng thì thắt vạt trước, mà hối hả hơn thì thắt vạt sau lưng mà chạy gằn cho tiện. Nắng hay mưa cũng vậy. Đầu năm hay sắp tết cũng thế. Những năm ba mươi của thế kỷ này, tấm áo dài được cách điệu đi, không thắt vạt, không đổi vai mà thành áo tân thời. Chữ tân thời đã mang một nghĩa mới, cũng như chữ cải lương trong hát cải lương. áo nhung, áo gấm, áo mình khô hoa ướt, áo lơ-muya, áo cổ thấp rồi cổ cao, tay thụng hay tay bó, tay dài hay tay lửng... đã nhiều thay đổi, nhiều " mốt" tùy thích. Riêng chỉ hai cái tà như hai cánh bướm, như hai dải liễu bay, như hai lá thư tình, như hai nỗi ám ảnh tâm hồn nam giới, như linh hồn của chiếc áo và của người mặc... là vẫn được trân trọng giữ nguyên. Nó vẫn giữ chiều dài gần sát gót để có đà tung bay, có khi nhấp nhô như sóng lượn, để có đà vẫy gọi những con mắt dõi theo. áo dài nhung đỏ đi với kiềng vàng, áo dài nhung đen có chuỗi hạt trai sáng lấp lánh, áo dài trắng có mái tóc đen huyền thả buông lửng sau lưng áo, áo tím hàng Vân có chiếc nón bài thơ ngà trắng... đó là sự tuyệt đỉnh hài hòa hay lộng lẫy khôn cùng, cũng tựa như tấm áo Đồng Lầm có thắt lưng hồ thủy hay hoa đào cũng vậy. Những ai nay còn sót lại của thế hệ nữ sinh trường Đồng Khánh Trưng Vương, chiều hồ Gươm khoan thai nhịp bước, cắp cặp trước ngực, tóc đung đưa sau lưng, còn hai tà áo dài cứ như trêu cợt, như đùa nô, như vô tình mà nghi ngờ, mà nhắn nhủ mà xa xôi... với bao màu sắc từ đậm đến nhạt, như cung bậc cây đàn từ thấp đến cao, gần xa buông bắt. Tà áo dài gần chấm gót những ngày ấy đủ sức chuyện trò cùng gió. Mềm mại, uyển chuyển, run rẩy, lung linh... hình như đã lan truyền sang cả sóng hồ nên hồ cứ lăn tăn, lan truyền cả vào tầng lá nên cây lá cứ rì rầm, lay động.

Có phải lúc này là lúc hồn Hà Nội đã mơ màng như bát rượu nếp sáng mùng năm tháng năm đối với cô thiếu nữ chưa quen men rượu, là lúc cung đàn đã tấu lên với trái tim nhạc sĩ, " toan" đã căng trên giá vẽ trước nhà tạo hình, nàng thơ đã ốp một cách bí hiểm vào nhà thơ, và mùa màng chín rộ làm rạo rực người gieo cấy... Ai gỗ đá để có thể dửng dưng được trước nét thanh tân đầy ma lực của tà áo dài cứ lả lướt như sóng cạn mà bắt mất hồn người ấy, bởi nó vừa ngập ngừng lại vừa thách thức. Mươi năm trở lại đây, tà áo dài Hà Nội bị ngắn đi, chỉ còn trên đầu gối. Nó không còn đủ sức bay, có lúc chết cứng trên nửa thân người, như con bướm bị chặt cụt bộ cánh rực rỡ. Thật tiếc. Tà áo dài với chiều dài cần thiết, là sự truyền cảm của đường kim khâu tay, của nét eo thắt đáy, của sự mở rộng của hai tà xòe ra bốn phía. Rút ngắn phần bay lượn xòe rộng ấy khác nào cắt đi cái tưởng tượng và ảo tưởng của nhà thơ. Phụ nữ mặc áo dài chỉ đẹp thêm. Nam giới cũng được thơm lây. Cuộc đời rực rỡ là điều hẳn ai cũng mong muốn, có phải không hỡi bài thơ áo dài?



Hương đêm Hà Nội

Có những người thích đi ngủ sớm để dậy sớm thì cũng có những người có thói quen ngược lại: thích thức khuya nên thường dậy muộn. Sáng sớm, Hà Nội có những nét đẹp, vẻ nên thơ thì đêm khuya, Hà Nội cũng có những điều dễ làm say lòng người, những điều như trong mơ và đôi khi còn như mơ trong mơ nữa. Nhiều người có nhận xét Hà Nội là thành phố xinh đẹp, duyên dáng. Có những khu vực trầm lặng, cổ kính, đầy vẻ thanh bình tinh khiết. Điều nhận xét này là thực tế vì nó đã gây được ấn tượng tốt đẹp với những con người không mấy ưa ồn ào, ô nhiễm, xô bồ. Nét xinh đẹp duyên dáng ấy còn được bình phương lên trong đêm.

Hà Nội về đêm mang màu áo khác, hơi thở khác, hình dáng khác. Nhất là khi có những làn hương đầy kỳ ảo khiến Hà Nội như mang một tâm hồn khác, đầy vẻ trữ tình thơ mộng. Những mái nhà trăm năm đã tựa vai nhau, rủ nhau vào giấc ngủ chập chờn trước khi gặp những giấc mơ hiện về từ thời con rồng vàng bay lên đón Lý Công Uẩn, từ thời con rùa vàng nổi lên chào Lê Lợi, từ thời tiếng chuông hồ Tây vang khiến con trâu vàng từ phương Bắc phải lồng sang đón con nghé ọ... Những con đường như cũng được thư giãn gân cốt sau một ngày phải gồng lên toàn bộ sức lực dưới guồng xe hối hả. Những tầng cây ban ngày xanh biếc đã chuyển sang màu thẫm như nhuộm ánh đêm. Hoa không cần khoe sắc để gọi bướm ong, để gọi mắt người mà đã làm một việc khác mơ màng hơn: tỏa hương vào bầu trời thanh sạch. Mùa nào Hà Nội cũng có riêng một thứ hương đêm, giống như người phụ nữ biết điểm trang, mỗi thời điểm biết dùng một loại phấn son riêng để ánh nắng để gió mát... hài hòa cùng màu sắc, nâng nhan sắc lên gấp nhiều lần. Cũng không hiểu mùa tạo ra hương hay hương gọi mùa về, hỡi Hà Nội mến yêu ơi. Mùa thu là mùa Hà Nội mang trên mình những nét yêu kiều diễm ảo nhất chăng? Cô gái đã bước qua tuổi thiếu nữ chưa phát triển hết, bước vào tuổi thanh niên rực rỡ nhưng hơi đáng sợ, và cô gái cũng chưa bước vào tuổi thiếu phụ ở dốc đồi bên kia thấp thoáng ánh tà. ôi, sắc đẹp của tuổi vừa đủ độ chín của mặn mà, đằm thắm, nây tròn như quả chín cây. Hà Nội mùa thu là thế chăng? Nhà Hà Nội học còn mải đi tìm một văn bia, một viên đá lát, một cuốn gia phả. Còn người thơ đi tìm gì đó hỡi thi nhân? Mùa thu không bị ẩm ướt của mưa phùn, không bị nắng xém cả lá cây. Cũng không bị gió mùa đông bắc làm tê tái. Lẫn trong lá bay vàng rộm mặt đường, lẫn trong sương lam mơ hồ trên mặt sóng... thời tiết cứ dìu dịu như tơ chăng, lọc gió cho mát vai người, cho dẻo bước chân. Lẫn vào những niềm mê man ấy là những làn hương từ đâu đó lan tỏa vào không gian như từng sợi âm thanh của cây vĩ cầm vô hình mà rất thực. Những làn hương cứ réo rắt qua vòm lá gần xa, qua tầng cây thức ngủ, qua những công trình kiến trúc, những con đường, những ngã tư đầy hào hoa thanh lịch. Hoa dạ hợp nồng nàn trắng muốt, vừa tỉnh khỏi một cơn mộng nồng nàn, khi những ngọn đèn đường sắp thức dậy. Chẳng dễ gì tìm thấy cây nửa thẳng nửa leo ấy, thấy những cành mềm cho bốn cánh hoa mập mạp, cong như móng con rồng thiêng bí mật. Chỉ cảm thấy đâu đây nở bông hoa như sự có mặt của người vô hình, người thích trò ú tim ẩn hiện, người hẹn hò với ta nhưng còn nấp vào chỗ nào để ta phải hồi hộp kiếm tìm. Khu vườn biệt thự nào trên đường Phan Đình Phùng đầy bí ẩn kia cứ xòe bàn tay có năm ngón tay xanh mềm mại để tung ra những con sóng hương hoàng lan thoảng nhẹ, và hương ngọc lan như ngón tay tháp bút, trắng muốt, sắc sảo hơn, khiêu khích hơn. Ngõ Tức Mạc, Cung Thiếu nhi và những nơi nào, cây hoàng lan mấy trăm năm còn bền lòng xức nước hoa cho Hà Nội. Xin những đôi người hãy thủy chung đến bạc đầu nếu một lần đã sóng bước dưới đường thơm hoa sữa phố Trần Hưng Đạo, Nguyễn Du. Hẳn có người khó ngủ nếu bên cửa sổ có xòa một cành sữa mùa thu. Có lẽ sương thu đã lấn át, đã bắt hương sữa chỉ được bay ngang, hoặc sà xuống thấp, sương thu chiếm phần chiều cao? Vì vậy mà hương sữa cứ ướt đẫm tóc những đôi người. Đã có những người tài hoa của Hà Nội ngợi ca hoa sữa bằng kịch thơ, bằng thơ và bằng nhạc. Đã có những em bé ra đời sau đêm hoa sữa của người yêu nhau say đắm và trong sạch. ôi, biết bao tâm hồn đã thao thức khắc khoải khi nhớ về Hà Nội có hoa sữa đêm thu, có hoàng lan, ngọc lan man mác. Dù ở phương trời nào, hương ấy chẳng mất đi, chẳng tan ra, mà nó cứ đọng lại, đậm lại như khối ngọc Trương Chi. Có người nhớ về hoa sữa, hoa hoàng lan, ngọc lan để tưởng niệm tuổi hoa niên của mình, tưởng niệm thời học trò, tuổi yêu đương, những tháng năm mơ mộng...

Thực sự có đôi người đã có cháu nội cháu ngoại năm nào họ cũng phải một lần dắt tay nhau đi trong đêm sương thu đầy hoa sữa. Lúc ấy họ nói gì với nhau, họ nghĩ gì bên nhau, họ nghĩ gì về Hà Nội, hỡi mùa thu đi qua mà chẳng bao giờ mất. Hà Nội đâu phải chỉ có hoàng lan, ngọc lan, hoa sữa, dạ hợp... Vườn Chí Linh có mấy khóm dạ lan hương, đêm hè hoa nở như níu chân người qua lại để tâm sự điều gì. Dọc bao phố cây xum xuê tròn bóng, những hàng sấu cổ thụ cứ tháng ba lại khiêm tốn tỏa một thứ hương ra xung quanh. Không thơm ngát, không tình tứ, chỉ thoảng nhẹ như không có, chợt hiện rồi chợt biến, khi những bông hoa như cái chuông nhỏ xíu trắng ngà rơi nhẹ không một âm vang. Cả hương và hoa cứ bay cứ rơi, còn mang mang như liễu bên hồ, không để ý có khi người vô tình không thấy. Đi trong đêm, nhất là khuya Hà Nội, màu đêm đã lọc đi những âm thanh ồn ã, như lọc đi những tạp chất, để còn lại trong hồn ta sự tinh khiết, thanh tao, cho ta cảm nhận được hoàn toàn chất thiên nhiên tinh khôi trong hương thơm hoa lá. Đôi khi hiếm hoi bắt gặp từ ban công chuồng chim nhà ai một chút hương nhài khêu gợi mà kín đáo, lả lơi mà thắc thỏm, không đủ sức bay xa hoặc qua một ngõ nhà có ngôi chùa cổ kính trăm năm, một gốc bưởi cằn nào đó bỗng tỏa làn hương mộc mạc đồng quê, gợi nhớ đến đĩa bánh trôi bánh chay tháng ba có hội làng rộn rã, và có những làn mưa lây phây làm duyên cho cánh đồng, cây cỏ... Hương đêm Hà Nội không phải là nước thơm nhân tạo, mà là món quà thanh sạch của thiên nhiên, trời đất gửi cho người. Cái lồng nan ngực thiếu dưỡng khí thường xuyên kia được no nê những làn hương này sẽ tươi lại dòng máu, mát dịu lại cảm giác, trẻ trung lại tâm hồn, say đắm lại tình người...

Yêu biết bao nhiêu là những làn hương ấy và cũng là không uổng phí, nếu phải thức những đêm dài để đi dạo trên những con đường ngan ngát của Hà Nội thanh lịch.



Ngõ Hà Nội

Người ở các nơi về Hà Nội thế nào cũng phải đến hai nơi: Bờ Hồ và chợ Đồng Xuân. Có thế mới là hoàn thành chuyến " đi Hà Nội" . Nước xanh cầu đỏ, tháp nhọn đèn thiêng, hoa tươi cổ thụ... như thêu như dệt, như mời như đón. Phồn hoa tấp nập đấy mà lâng lâng thoát tục cũng ngay đấy. Giữa những đua chen mà có nơi trầm lắng tịch liêu. Bật ra khỏi bao chật chội là mây bay sóng đuổi thoáng đãng... Hồ Gươm đã thành niềm ao ước, say mê, lưu niệm của bao người. Đồng Xuân lại khác

-ấy là nói cái chợ chưa xây lại

-thiếu một vật cần dùng, người này dặn, kẻ kia nhờ, cứ đến Đồng Xuân là có, là xong. Nơi tập hợp mọi tài hoa, đủ thời trân, ngồn ngộn sản vật bốn phương tụ hội, từ hoa quả đến con cá lá rau, quí hiếm trái mùa cũng có, từ hàng cao cấp lấp lánh đến cái tầm thường rẻ tiền cho con trẻ như tờ giấy thấm, cái ngòi bút, con giống bằng bột nặn hay ngôi chùa bé bằng ngón tay để ông già gắn lên non bộ... Đồng Xuân đã thành niềm hò hẹn, chỗ đi về, nơi thỏa mãn nhu cầu cho trăm miền đất nước. Ai ở xa về chẳng phải đưa chân đến đó. Với người Hà Nội thì hai nơi ấy đã thành quen thuộc, quen như nét mặt vợ hiền lấy nhau từ thuở đôi mươi nay tóc đã ngả màu sương khói, quen như tấm áo suốt bốn mùa mưa gió nắng nôi, quen như chính tiếng nói, chính hơi thở, chính da thịt mình. Có một nỗi nhớ khác, một niềm vui khác. Khi lòng ngổn ngang, khi trí không yên ổn, cần một nơi tĩnh lặng mà trầm tư, suy lắng, mà hồi tưởng hay kiếm tìm với lòng mình... có ngõ Tràng An kia. Cái ngõ mang tên rất xa xôi như thời gian, như hoài niệm của ngôi chùa cổ gần như bị lãng quên giữa phố phường. Nó hiện hữu đấy. Tràng An không còn là kinh đô, là thành đô, nhưng ngõ Tràng An vẫn gợi trong lòng bao vang bóng. Ngõ Tràng An hiện diện như một nỗi bất ngờ ngay giữa phố Huế làm nhiều người phải ngạc nhiên khi gặp ngõ. Ngôi chùa cổ với ba chữ đẽi tự Tràng An Tự, có gốc ba tiêu, có cây đẽi cổ thụ, có khóm hoa mộc, thoảng một hơi mơ hồ ngâu chín, có thân cau như ngọn ô vẫy xóm thôn gần lại. Phố Huế, chợ Hôm vội vàng chen chúc ngay gần đấy, nhưng chỉ mấy bước chân, ta đã ở một không gian khác, một thế giới riêng. Ngõ tưởng là cụt bỗng mở ra một ngã ba, chợt ngoặt một đường thẳng. Phải chăng ngõ là một cây dương cầm chứa đầy bí mật, hay một sợi đàn bầu, càng chạm đến càng hứng khởi lạ kỳ. Mùi nhang thơm, tượng Phật vàng son lấp lánh, những tấm hình đã phai nước ảnh trong hương khói thời gian. Người thân của ai đó? Người đang vội vã thiết kế cho tương lai chẳng nên vào đây, bởi một chút hoài niệm sẽ níu chân ta, một hương hoa cau làm ta nhớ nhung day dứt một mái tóc xa xưa nào, một tiếng mưa trên tàu chuối làm đêm về khó ngủ. Cổ sơ đến cả ngọn cỏ ven tường, giàn nho hoang dã.

Ngõ Tràng An như một người già ký tên mình vào lặng im tịch mịch. Bầu trời ở đây thu hẹp mấy vuông sân xanh lơ và trắng đục theo mùa làm bâng khuâng cả tiếng chuông tiếng mõ, câu kinh từng khiêm cung nhè nhẹ như sợ đức Phật cũng giật mình, sợ tường nhà xao xuyến. Làng quê nào đó nhỉ, lưng đồi đâu chẳng có đôi bờ lau, ngô mía xạc xào và dòng sông lững lờ xuôi về đâu chẳng biết. Không. Đó chỉ là ảo giác do tiếng chuông tiếng mõ dội trong ta. Vào đây, lòng trần của người phồn hoa của đất bon chen cũng nguôi ngoai đi phân nửa. Hãy đùa chơi đi em bé thơ ngây, chỉ có gió dệt mây trên giàn nho và ô nắng mặt hè, không xe cộ nào đe dọa được. Hà Nội không thể có ngõ thứ hai như Tràng An đâu, dù sau này lớn lên, em phải nhiều công đi tìm đi khảo. Hình như linh hồn người đã khuất chẳng muốn rời ngõ, cứ nhớ thương mà tản mạn bay về, lẩn khuất đâu đây trong ấm cúng khói nhang trong mơ hồ siêu thoát. Bước hài thêu, nét giày nhung khua động không gian thấp thoáng sau cánh cửa ơ hờ chểnh mảng, khiến mình tưởng sắp có một kỳ nữ trong Liêu Trai Chí Dị bước ra. Không có hồ nước mà tim ta sóng sánh. Thảng hoặc một mùi ngô nướng khoai lùi thoáng bay từ đầu ngõ phía phố Huế làm ta chợt tỉnh với đời thường. Nếu ngõ Tràng An là một không gian khép kín đầy bất ngờ thì ngõ Phất Lộc lại có nét khác rất riêng. Tôi từng có một bà chị nuôi sống trong ngõ Phất Lộc. Chị hơn tôi gần chục tuổi, người chẳng đẹp, giữa thị thành mà chị vẫn âm thầm lẻ loi nên chị thường dồn âu yếm cho tôi. Chị ở trong ngôi nhà cổ, thấp, quá giang, câu đầu ám khói, tường vôi long lở. Ngõ cổ hay người cổ mà chị lây chất âm thầm, hở chị Quỳ của em? Ngõ Phất Lộc ăn thông từ Hàng Mắm sang phố Nguyễn Hữu Huân -phố Bắc Ninh cũ -thêm một nhánh ăn thông Lương Ngọc Quáến. ạng giám sinh họ Bùi làng Phất Lộc huyện Đông Quan Thái Bình lên đây dựng lều trọ học. Rồi thành xóm thành làng, thành tên ngõ đã mấy đời, chỉ còn đền thờ và ngôi chùa cổ nhưng hoang phế nửa phần. Kháng chiến chống Pháp, Phất Lộc là trung tâm của Khu Một, từng đón hoa đào Nhật Tân vào ăn tết, từng uống lẫn cả Uátki, Canhkina con Mèo với nước giếng, là thứ giải khát của chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô. Dân tản cư còn đeo kiềng vàng, hoa hột nhưng ngủ trên cánh cửa bức bàn ngả ra, gối đầu bằng tay nải. Không trầm tư không u uẩn. Đời thường đã xâm nhập khá nhiều vào Phất Lộc. Nhà đá rửa, ban công bên này sắp chạm ban công bên kia. Đầu ngõ đủ hàng quà: bánh cuốn, cà phê, bún mọc, phở gà, cháo tim gan... cả chè chén " nước mưa" ...

Tiếng xe lên xuống cầu Chương Dương rất rõ. Phất Lộc không còn im lặng hoài niệm như thời chị tôi ở đó. Tạt vào đây xuyên qua ngõ chữ chi, nhà hai bên như vừa quen vừa lạ, phố chật người đông hòa cùng rêu phong cổ kính. Phất Lộc có vào tranh Bùi Xuân Phái không nhỉ? Ngõ sống mãi nhờ họa sĩ hay họa sĩ sẽ bất tử nhờ vào nét riêng biệt độc đáo của ngõ? Trụ cột trên nóc nhà, tường khấp khểnh nhấp nhô, nhà thò ra thụt vào, đường đi lắt léo, cái nậm rượu cửa chùa bằng xi măng đắp bẹt trông thẳng thì đầy rượu, trông nghiêng chỉ là mảnh bìa... đã thành một mảng tâm hồn Hà Nội hào hoa mà anh dũng, lam lũ mà kiên cường, đắm say mà dữ dội... Hà Nội có bao nhiêu ngõ như Tràng An, Phất Lộc? Còn ai là người sửng sốt khi gặp ngõ như gặp hoa lạ giữa rừng, gặp người yêu xa lâu đúng lúc mình không chờ đợi? Ngõ Tức Mạc có cây hoàng lan cổ thụ thơm suốt đêm thu. Ngõ Huế không có gì đặc biệt lắm, bị Mỹ ném bom tơi tả. Ngõ chợ Khâm Thiên lầy lội chật hẹp vất vả lem luốc. Ngõ Văn Chương ngoắt ngoéo chằng chịt. Ngõ Sầm Công ồn ào náo nhiệt bao nhiêu với mùi xào nấu món ăn tầu thì ngõ Liên Trì lại thanh vắng đạm bạc bấy nhiêu, suốt ngày như ngủ mệt mê. Người Hà Nội có lúc nào nhàn tản, tạm quên dằn vặt lo âu của đời thường lạm phát chóng mặt, quên những cơn sốt giá gạo, giá dầu, giá điện... tự cho mình thả hồn vào cái ngõ để lắng cùng hồn kinh kỳ xưa cũ, cùng hồn đất nước trường tồn, của quê hương ngàn năm văn vật... hẳn sẽ thấy mình giàu thêm cảm xúc, thương yêu thêm, nhân ái thêm, say đắm thêm... Hồ Tây bát ngát quá. Lăng Bác thiêng liêng và lạnh lẽo nữa. Bờ sông rộng dài quá. Cầu Thăng Long xa và cao quá. Viện bảo tàng trang nghiêm quá...

Ngõ Hà Nội thân thương hơn nhiều, nhỏ hẹp mà yên vui, cổ xưa mà đầm ấm, khuất khúc mà chẳng hững hờ... Xin một lần ghé thăm để đừng quên là Hà Nội vẫn còn nhiều ngõ nhỏ rất riêng Hà Nội, như tâm hồn ta vẫn còn những khoảng sâu lắng đôi khi mới có dịp lần giở đến... vào một hôm nào trở gió... Mong sao những ngõ nhỏ ấy, những góc sâu trong tâm hồn ấy đừng bị những ào ạt của xây dựng phá phách, xâm lăng mất. Cần bảo tồn lắm.

1990



Mưa trên phố
Nhìn mưa dễ sinh buồn. Những sợi mưa uể oải mang niềm hoài vọng cho trái tim thi sĩ, những hạt mưa không có hình hài đưa tâm trạng con người vào nỗi nhớ nhung vô cớ. Hà Nội có những ngày mưa khiến đôi người bạn phải bật cửa đội mưa để tìm nhau. Lúc ấy, mưa là tiếng gọi không có âm thanh, là lời thầm thì rất mơ hồ như mây đang tự hóa thân thành một bản thể khác. Tách cà phê tỏa khói thơm, phả hơi nóng vào đôi bàn tay vừa dầm trong mưa lạnh giá. Những giọt cà phê lặng lẽ rỏ vào lòng tách trắng, nó có màu hổ phách, có vị đắng ngọt ngào, có hương mê hoặc... còn ngoài kia mưa đang thảng thốt rào rào, đang âm thầm thánh thót hay đang mơ hồ lơ đãng bay lướt không gian... Đó là trận mưa " tri kỷ" , trận mưa lay phay, không ra một trận, cứ rỉ rả kéo dài, cứ đê mê trầm lắng như cung đàn tân hôn với tiết tấu lạ lùng chỉ riêng mưa có. Giêng hai, mưa bụi phủ trắng những bông cúc muộn, chắc mưa này là hồi quang, là điệp khúc của trận mưa đông làm mờ ảo nhành mai trước tiết đẽi hàn. Hình như tranh phố Phái không có mưa hoặc rất ít mưa.

Phải chăng mưa bay như phấn thông ấy là nét nhòe tài hoa của bức tranh lụa làm bông hoa đã thành cánh bướm, ngọn tháp rêu phong cũng khoác áo choàng voan; không như nét cứng cáp dứt khoát của sơn khắc, nét thô nháp quằn quẽi của sơn dầu, nét vàng son lóe sáng của sơn mài cổ điển. Tháng bảy, nỗi mưa Ngâu còn xa cách nhớ thương làm rộn lòng người đến bao giờ? Con sông trời sông đất cứ duềnh lên vì mối tình thủy chung mà oan khuất của Ngưu Lang Chức Nữ từ nghìn thuở trước đến sau này nghìn thuở. Nỗi cách xa vì ông trời độc ác khiến đàn chim ạ Thước phải động lòng trắc ẩn bắc cầu cho giọt lệ đỡ rơi, cho mưa ngừng nghỉ. Và nỗi cách xa khắc khoải làm người hóa đá hãy còn kia, và bao nỗi xa cách khác nữa mà nếu đong lên hẳn phải đầy tràn con sông Cái Ngân Hà, nỗi cách xa ấy đâu đã hết, mưa đâu đã rửa hết cho người. Nghệ sĩ thích mưa. Nhà doanh nghiệp lại chẳng ưa mưa, bởi mưa thì vắng khách, lợi nhuận cũng vắng theo. Phải nắng. Nắng phải quắt queo cả da thịt thì kem mới nhiều người ăn, quạt điện mới nhiều người sắm, khách sạn và xe du lịch mới đông người dùng, các quán bia bọt mới dập dìu khách nhậu, thậm chí cơm bụi mới lắm khách ăn... Giữa mùa hè chói chang, cỏ cây nặng trĩu cành vì bụi, bỗng một trận mưa ào ào như vội vã, xối xả như mối tình muộn màng của tuổi quá niên, làm trẻ con ùa ra đường mà hò hét lăn lộn, mà té nước mưa nước úng vào nhau giữa đường phố bì bõm. Tuổi thơ, tuổi reo hát cùng mưa, reo hát cùng mọi cái đúng cũng như sai, reo hát cùng những điều người lớn không thể nào hiểu nổi. Đấy. Mưa úng khổ bao người. Công tá thoát nước điên đầu, nhưng trẻ con bất cần, cứ reo hát. Có người hài hước, dí dỏm nói đùa: Trận mưa này là mưa ra trẻ con đây... Khối anh vỡ kế hoạch vì trời mưa mát mẻ... Có những đêm mưa, nằm mãi không ngủ được vì tiếng mưa thì thào trên hàng cây mái phố. Tiếng gì xa vắng thế? Tiếng gì như hơi thở dài to dần lên, xoẹt qua tai rồi lại nhỏ dần đi và mất hút vào mưa? Chiếc xe nào đi vội trong mưa, bánh xe xiết vào làn nước, tưởng như nhìn thấy hai làn nước hình dẻ quạt tóe sang hai bên trong ánh đèn vàng chóe. Sáng mai, trận mưa làm đường phố sáng lên, cây cối tinh khiết sạch sẽ, tươi tắn như gái dậy thì. Bụi bặm đã tan đi trong mưa, chỉ còn lại băng trinh và nõn lộc. Bàn tay của trời thành phép lạ. Và Hồ Gươm đầy lên, chan chứa, như rộng ra, mênh mông hơn, ít xanh hơn nhưng lùa cái mát lạnh lên đường cho áo mình như mỏng đi trong thông thoáng. Có thể đứng trên bờ khỏa bàn chân xuống nước hồ tươi rói nước mưa, cho cái lạnh thấm tận gan bàn chân, chợt nghĩ rằng mình là người thứ bao nhiêu triệu được hưởng cái niềm vui sướng này. Bình rượu trên nóc tháp Hòa Phong kia có đầy lên thứ rượu trời không nhỉ? Nước mưa giữa trời trong vắt, ngọt lành, chạm vào đầu lưỡi đã rùng mình, có làm ngây ngất những linh hồn đang chập chờn bay trên thành phố quê hương, dù ở thế giới bên kia cũng không thể nào từ bỏ những con đường quen thuộc, nơi có bao nhiêu yêu thương kỷ niệm, nơi có những trận mưa nao lòng... Đất Bắc Hà là thế, con người Bắc Hà là thế. Những cơn mưa vui, mưa sạch, những cơn mưa thấm đẫm lòng mình tựa tình bạn thâm giao, như tình yêu viên mãn, như chị bên em, như mẹ cho con, như nỗi thức tỉnh sau cơn mộng đẹp khiến người bàng hoàng. Mùa giông tố, sau cơn bão nặng nề tàn bạo, là những trận mưa rỉ rích tràn đầy, lành lạnh. Mưa đền cây đấy. Khổ thân những gốc cổ thụ ở ngã ba ngã tư nào, thân mục rỗng từ lúc nào không biết, nay đành gục ngã trước phong ba. Thương cho cây non chưa cứng cáp, còn chưa đủ rễ, đã gẫy cành rụng lá trước gió dập mưa vùi.

Trước cảnh ấy trời cũng phải xót thương, cho mưa về đền đáp, cho nước mát tưới nhuần, cho mưa hiu hiu dìu dịu. Sự tàn ác nào, dù là của trời đất cũng phải có thừa trừ. Tựa như sau cơn lũ tàn phá, phù sa đọng lại cho mùa sau tươi tốt. Còn con người thì sao? Tháng mười trời màu bạc, người lạnh hai vai. Con rươi sắp trở về, gọi vỏ quýt thìa là để thơm từ bếp nhà này sang góc phố khác. Cái áo len cất đi từ tháng giêng hai, còn thơm mùi băng phiến trong tủ, ta đi trên phố chẳng sợ có mồ hôi nên không cần một thứ nước hoa nào trên áo. Chợt một trưa nào, trời như chuyển mình, người này người nọ kêu đau xương cốt, mây không tươi sáng cũng không âm u, mà cứ rập rình những đám mây không ra dày không ra mỏng cho lắc rắc chút mưa trêu ngươi. Mưa rươi đấy. Con rươi nhỏ tí mà đủ sức làm bầu trời chuyển động theo mình. Kỳ lạ thế là con rươi cho trời có mưa rươi. Có anh chàng nào hơi tục tử một chút bỗng động lòng, không phải động lòng hồ hải bốn phương như Từ Hải, mà chỉ động lòng nhớ món mộc tồn. Mưa rươi có gọi là mưa thu được không. Những đêm mưa thu buồn phiền rả rích trên mái lá, tầu tiêu. Nếu mưa phùn là hiền dịu, mưa rào là dữ dội thì mưa thu ra sao nhỉ? Mưa trên mái ngói có âm thanh riêng. Mưa trên mái tôn thật phũ phàng. Mưa thu hình như không có tiếng, vậy mà nó có thể làm nát gạch, mủn tường và khốn khổ cho những ai thiếu một mái ấm gia đình mà nương tựa. Họa chăng chỉ có đôi người đang say nhau, đang mơ trong nhau, sẵn sàng choàng chung một tấm vải mưa mà đi, có thể đi đến cùng trời cuối đất, mặc kệ đầu ướt sũng, vai nặng trịch (nặng vì mưa hay nặng vì tựa vào nhau), chân lạnh buốt... Mưa thu trên tầng năm khác mưa thu trên tầng trệt, cũng khác mưa thu trên những đẽi lộ toàn biệt thự, càng khác hẳn trên những ngõ hẹp quanh co lầy lội. Thâm Tâm có câu thơ: Cuối thu mưa nát lòng dâu biển... để tả cái dai dẳng và quái ác này, nhất là khi mùa thu bàn giao không gian cho mùa đông thì những sợi mưa đã biến thành những con dao vô hình nhưng rất thực, cắt vào da thịt người. Quần áo mỏng, màu cũng mỏng phải nhường chỗ cho len dạ, khăn quàng màu sẫm, nặng nề đôi chút. Mưa trên thành phố, trên tầng nhà, trên mái cây là tác phẩm của thiên nhiên điểm xuyết cho cảnh vật, là tặng phẩm của vũ trụ cho con người. Hãy cứ để mưa sống cuộc đời mưa gió của mình, dù mưa đó là của thi nhân đầy cảm hứng, hay cái háo hức của chàng nghiện rượu cần nhậu nhẹt để mưa có thêm nghĩa lý, dù mưa đó vào mùa nào, vào lúc nào...

1991



Hà Nội mùa sương
Nếu mùa xuân rực rỡ các loài hoa có mưa bay ẩm tóc... mùa hè chói chang nắng lóa, ngút lửa trên cành phượng, tím huy hoàng trên ngọn bằng lăng nước, mùa thu có gió heo may nhẹ như nỗi nhớ... thì mùa đông tuy khắc nghiệt vẫn có sắc thái riêng làm lòng người như muốn xích lại gần nhau cho thêm ấm áp. Vào những ngày rét ngọt hanh khô, đi qua phố Tràng Thi, tưởng như nghe thấy tiếng sột soạt của từng trang sách mở ra, trong khi trên đường rặng bàng tung những tờ lá đỏ, như tấm thư trời gửi cho người báo hiệu mùa đông sắp hết, mà đây là những ánh nắng cuối cùng. Hàng phượng vĩ đường Thanh Niên đã tắt hết đèn chỉ còn lại những quả khô như những sợi bấc đen chứa đựng trong đó cái hạt nâu vân vân, đựng lửa cho mùa sau.

Hàng cơm nguội phố Lý Thường Kiệt hình như mẫn cảm với sương đông trước hết. Chúng chỉ còn trơ lại những cành trong bàng bạc màu trời. Nhưng đừng tưởng nhầm, chính chúng lại bật mầm đón mùa xuân trước nhất, mà có lẽ rõ nhất là mấy cây ở trước cửa trụ sở ủy ban Nhân dân thành phố, mà xưa kia gọi là Tòa Thị chính. Cái vườn hoa bé tí tẹo nhưng xinh xắn vô cùng ở Cửa Nam kia mới lạ lùng sao. Chỉ vài bước chân đã hết. Nhưng thử tưởng tượng nếu không có nó, thành phố sẽ trống trải biết bao. Vài năm trước khi những tơ sương bắt đầu giăng mắc trên thành phố, mới giữa mùa đông, mấy cây mận trắng đã thẹn thùng phô ra dăm đóa hoa gầy mỏng manh trắng muốt. ôi những bông hoa mận cốt cách chẳng kém gì hoa mai ấy, bây giờ ở đâu, hồn hoa ở đâu, có nhập vào cuốn truyện Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn Dữ không? Có thể nào không nhắc đến Hồ Gươm, Cầu Thê Húc, Đền Ngọc Sơn. Tháp Rùa lúc nào cũng mờ ảo trong sương như nét nhòe trong bức tranh lụa kiệt tác của người họa sĩ tài hoa. Từng đợt gió chơi trò đuổi nhau, từ phía đảo Ngọc về Hàng Khay, làm cô gái nào phải kín đáo kéo nghiêm tà áo vì cái lạnh trêu ngươi. Thiếu nữ Hà Nội vẫn phát huy truyền thống văn hiến, biết trang điểm giữ gìn và phô trương vẻ đẹp một cách thanh lịch băng trinh. Nhất là những ngày sương lạnh đủ các màu áo được choàng lên vai tròn, từ hoàng yến, tím hoa cà, đỏ rực rỡ đến xanh lục thẫm, và hàng trăm cung bậc của màu như âm thanh của cây đàn diệu kỳ, mà nốt thăng nốt giáng cũng mờ đi không còn phân biệt. Tĩnh lặng là những đêm đông khi gió cứ một mình lồng lên tìm bạn trên nóc cây long não, xà cừ. Sao mà nhớ người bạn đã đi xa, không còn được hưởng những tiếng thì thầm ấy khi sương và gió làm mờ thực tại xô bồ. Phải chăng lời bạn vọng về trong gió ấy bạn ơi.

Hà Nội vẫn mang dáng vẻ trầm tư duyên dáng, gần như hoang sơ trong những đường ngõ quanh co mờ tỏ của mình. Ngõ Tràng An có ngôi chùa như một làng xa. Ngõ Phất Lộc có hình chữ chi. Ngõ Tức Mạc có cây hoàng lan cổ thụ. Ngõ Hà Nội thoắt ẩn thoắt hiện với những ngôi nhà như không bao giờ có ai to tiếng. Rồi ngõ Tạm Thương, ngõ Liên Trì nhỏ bé, rồi đền Quán Thánh có những cây muỗm già trăm tuổi, thả lá khô xuống sân đền không một tiếng vang, làm sương đông cũng không thể giật mình. Phải chăng hồn Thăng Long vẫn còn ẩn hiện trong làn sương mỏng màu lam kia? Đã qua mùa hoa sữa. Cây sữa bây giờ treo mành bằng những chùm quả, thỉnh thoảng lại rắc cái hạt đầy lông nâu ra tứ phía, có lúc mình tưởng nhầm là con sâu, hóa chỉ là cái hạt cây, chắc muốn đậu vào vai người tìm hơi ấm. Có nhiều loài cây vẫn tươi xanh trong sương đông, thản nhiên mặc cho cái gió đùa chơi vật vã. Những tin gió mùa đông bắc liên tiếp như hồi trống báo động, cây vẫn thách thức bằng màu xanh hầu như suốt cả bốn mùa. Hàng đa đường Điện Biên, những cây sao đen phố Lò Đúc, những cây chò xanh từ đền Hùng được di về gần nơi Bác Hồ yên nghỉ, hàng long não lá tròn và thơm nhè nhẹ ở phố Lê Văn Hưu xinh xắn... Màu xanh ấy chính là cuộc đời, là sự sống, dám vượt mọi phiền toái của vũ trụ. Một buổi tối nào ta khoác tay người bạn thân đi dạo trên phố Hà Nội cổ. Bẻ cao cổ áo lên, cảm thấy cả hơi ấm bạn bè bên vai mình, rồi từ một ngã tư chập chờn nào, một cột đèn nào nhòa trong sương có ánh sáng mờ ảo trong sương... Một mùi thơm ấm nóng bay lên. Mùi thơm đã trở nên hữu tình. Ta gặp ánh than hồng lập lòe theo tay cô gái có hơi vẻ nghèo, với chiếc quạt nan cũ. Mặt người cũng lúc sáng lúc tối cũng như lời ai lúc nói lúc ngừng, như trong giấc mơ sáng mai không thể nhớ lại được. Xin một phút được ngồi lại bên chậu than hoa hồng rực, trong mùi thơm chờ đợi đến thắc thỏm, chỉ sợ chưa đến phần mình khi cô gái lật giở bắp ngô vừa chín tới sang một góc, bắp ngô vàng óng gần như trong suốt mà phần ngoài đã lấm tấm đen vì hơi lửa. Ngô đã chín đấy. Cầm cái bắp ngô ấy lại đứng lên đi tiếp đoạn đường sương, vừa đi vừa tỉa từng hạt mà ăn. Mùi thơm quấn quýt với ta, hơi ấm lan truyền từ gân tay vào khắp đường gân thớ thịt. Hình như món ngô nướng sinh ra không phải để cho mùa khác, cũng không phải để cho lúc khác. Trong hơi sương, trong gió rét, trong bước đi thư thả của một đêm đang về, ngô nướng là một phần của đêm sương ấy. Có lẽ Tử Kỳ cần một Bá Nha thì ngô nướng trên đường sương Hà Nội cũng cần có những tấm lòng, những bàn tay... biết thưởng thức nó vào đúng lúc này chăng? Cái bắp ngô mang hương đồng gió bãi ấy đã hóa thân thành niềm vui nỗi ấm cho người Hà Nội vào khuya, để mà yêu thêm cái thành phố không to nhưng lại đầy ngã ba ngã tư cho ta đi từ phố này sang phố khác với cảm giác và suy nghĩ được thay đổi luôn như hình trên màn ảnh. Mấy chục năm trước người Hà Nội còn rủ nhau đi ăn khuya món bánh cuốn bà Hai Tầu phố Huế. Nay không còn nữa. Nhưng vẫn còn những gánh lục tào xá, những gánh mía hấp rao ngân nga ở một ngõ vắng nào.

Những món quà vừa ngọt vừa lành, như tấm lòng thơm thảo của đất quê cho ta, chẳng tốn bao nhiêu tiền mà chẳng thứ cao lương mỹ vị nào lấn át được. Những buổi sáng Hà Nội choàng tấm áo sương làm thành phố đổi khác hẳn như cô gái ngày thường lam lũ, hôm nay choàng tấm voan cưới lên đầu trở thành cô dâu diễm lệ, bất ngờ cho tất cả mọi người dù quen dù lạ. Bờ cỏ bờ Hồ Gươm đâu đó còn vương vấn những viên ngọc li ti. Đêm qua có ai làm tung tóe những hạt ngọc trai vậy nhỉ. Hay là sợi dây chuyền từ cổ cô gái thanh tân đứt ra, vì quá vội về trời không kịp nhặt, mà người trần gian chúng ta cũng không thể nâng lên, vì cô đã yểm phép tiên nó sẵn sàng tan ra cùng trời đất. Hà Nội đã bóc đi gần hết đường tàu điện cổ xưa. Xe cộ dập dìu hơn trước. Màu sắc lấp lánh hơn xưa. Cuộc sống mới có vẻ tấp nập vội vàng, nhất là những ngày gió lạnh hun hút này, mấy ai đi hứng cái lạnh lẽo vào mình. Rau xanh, thì lại khác, vẫn phải vượt qua sương gió để vào thành phố. Su hào xanh mướt, cải bắp cuộn tròn. Cải bẹ mơn mởn. Cà rốt tươi non. Cà chua đỏ mọng. Đậu vàng, đậu xanh mọng nước...

Cả những bó rau cần hẹn một bữa ăn thật hấp dẫn làm sao. ấy là chưa kể đến húng Láng, rau mùi, thìa là, cần tây... làm bữa ăn như được ướp hương thơm của ngoại thành xanh ngát. Rồi một hôm nào, như chợt tỉnh ra, ta thấy mấy cái quán dựng lên. Chợ hoa sắp họp. Mùa sương sắp hết. Xuân đang đợi thập thò ở ngoài thềm Hà Nội... Hàng bia tiến sĩ trong Văn Miếu sắp hết những ngày tắm sương giá buốt. Bao nhiêu cây đang làm nhựa dưới gốc kia để chờ xuân, tung màu xanh vào đời, tiễn một mùa sương giá ra đi. Và Hà Nội lại đẹp cách khác. Hà Nội vẫn cứ đẹp, như chưa từng bao giờ thua thời gian một keo nào.



Cây xanh nét riêng Hà Nội

Càng ngày người thành phố mới càng thấy cây xanh cần thiết cho con người biết chừng nào. Càng chật cội, cây xanh càng quý giá, nó như cảnh vợ chồng nghèo càng biết thương yêu hơn, như cô gái quá thì được yêu càng nồng nàn mê đắm hơn...

Có hai loại cây xanh thường gặp. Một là cây xanh trên vỉa hè công cộng. Hai là cây xanh trên hè trên thềm trong sân mỗi gia đình. Trong những căn nhà cổ Hà Nội cũ, thường lớp nhà trên cách lớp nhà dưới khoảng sân con. ở đó thường có non bộ, một vài chậu cây cảnh như một chậu địa lan, mạc lan, hạc đính lan, một khóm sói, khóm hồng, giò cúc. Có khi là một gốc đinh lăng xanh biếc lăn tăn (lúc ăn gỏi cá khỏi phải đi kiếm), cũng có thể là một cây xương rồng, một cây cúc mốc, một gốc chi mai, một khóm liên đài (hoa đá)... Dăm chục năm trước, hoa giấy (tên chính là hoa móc diều) còn hiếm, chỉ một màu tím thường cho leo trên hàng rào sắt vài biệt thự. Nay hoa giấy thành phổ biến, đủ màu: tím, trắng, cánh sen, cá vàng... có khi còn là cây thế, có hai ba màu hoa ghép. Từ trong nhà đi ra, bước xuống bậc tam cấp là gặp ngay cây xanh tươi mát, bổ khuyết cho cái chật chội tức mắt âm u của màu nâu đồ gỗ, màu đen của câu đối hoành phi, màu xỉn của gạch lá nem, vàng của tường vôi, xám của rui mè trên nóc... Cây xanh thành nốt nhạc phá đi cái trầm lặng của không gian tịch mịch, nó còn thoảng nhẹ một mùi hương cho thanh thoát tâm hồn đôi chút... Cuộc sống phát triển, nhà hộp, đá ốp, đá rửa, những đường thẳng song song nằm ngang hay thẳng đứng cứng đơ, thường đơn điệu, nên nhiều người đã phải phổ chút cây xanh vào cho đỡ trống lạnh bằng cây đa lá đỏ, cây cô tòng, trắc bách diệp, cây vạn niên thanh thẳng đứng mà lá có những chấm trắng li ti như sao mọc trời đêm. Những chủ nhân của thế kỷ trước thường áo the quần ống sớ tưới cây chăm sóc cái mầm xanh như người tri kỷ, lấy cả nước rửa mặt tưới cây, dùng nước điếu tuốt muội cho lá lan quen ẻo lả, chờ từng cái nụ quỳnh mới nhú bằng đầu tăm... Còn bây giờ ông chủ bà chủ sống theo tốc độ xe máy, quần bò váy mốc, mồm đỏ mắt xanh, coi cây là thứ phục vụ, là một thứ làm sang cho mình, chứ không phải là người an ủi mình, nên đối với cây khá phũ phàng. Không trách được họ, bởi họ sống trong cái guồng kéo đi không thể để lừ đừ, đận đà mà được. Còn loại cây trên vỉa hè công cộng thành phố thì sao? Công tá công viên có đội bóng mát để chăm cho cây, nào trồng dặm, bổ sung, hạ những cây sâu mục, tỉa cành mùa bão (chỉ tiếc có khi anh em quá tay, cái cây còn khốn khổ hơn gặp bão). Hà Nội có những hàng cây đẹp lạ lùng, là nỗi nhớ của người đi xa, là niềm yêu của người ở gần, là bâng khuâng cho tình ái, là... nhiều lắm. Lò Đúc có sao đen thẳng vút. Nguyễn Du có hoa sữa. Trần Hưng Đạo có cả hoa sữa, cả sấu um tùm. Phan Đình Phùng có hoàng lan. Ngô Quáền còn sót lại mươi cây me cổ thụ. Điện Biên Phủ có hơn bốn chục cây đa cứ oằn mình mà xanh biếc bốn mùa. Thợ Nhuộm có bằng lăng nước, đường Thanh Niên có xoan tây.

Xung quanh bờ Hồ có bao cây đặc biệt: cây mõ thân thẳng cành xòa rộng, cây lộc vừng như cây thế khổng lồ, lại có cây lộc vừng chín gốc, cây gỗ tếch thẳng vút, bãi vông hoa đỏ rực lúc chớm hè, gốc gạo gọi chim về ríu rít cùng hoa khi cuối xuân, những cây vàng anh rực rỡ những chùm hoa da cam đằm thắm, cây cọ như chống đỡ trời xanh, mấy cây đa hào phóng bóng mát và búp cho con trẻ đùa chơi... Đôi vườn hoa biệt thự thấp thoáng một vài gốc tre đằng ngà thân vàng óng như mạ vàng, kéo những làng quê gần lại. Lâu nay Hàng Dầu có cây sưa, mùa xuân hoa nở trắng như tuyết phủ. Hàng Bè, Hàng Đào có dâu da xoan là loại cây dễ trồng dễ sống, tỏa bóng mát rượi, hoa thơm thoảng xa dù hơi phàm tục.

Cây xà cừ đã khá quen thuộc với Hà Nội, cây cao bóng cả, chỉ tiếc to xác nhưng ít chịu được bão to gió lớn vì rễ ăn ngang, không dẻo dai như cây sấu, gốc có vè có bạnh, lá thường xanh bốn mùa, hoa rụng trắng tháng ba, trẻ nhặt chơi đầy kỷ niệm. Thử tưởng tượng nếu Hà Nội không có cây xanh. Đó là cô thiếu nữ đẹp nhưng lại cạo trọc đầu, không kể chúng ta sẽ ngạt thở khói nhà máy do các thứ của con người thải vào không khí. Hà Nội đẹp một phần chính vì cây xanh, cây làm thành phố mang ý vị của thành phố xinh xắn trầm mặc cổ kính, mát mẻ, đầy nhân tình lưu luyến, là nỗi khắc khoải của người xa thành phố quê hương, là niềm âu yếm của người hàng ngày phải có mặt trên đường phố. Tiếc có lúc có những gốc cây bị xây bó lại làm chỗ bán hàng, bán nước, hoặc có khi bị tàn phá như đêm giao thừa, người ta hái lộc. Người Hà Nội thế hệ này tiếp thế hệ khác không thể nào quên bao kỷ niệm gắn đời mình với những hàng cây quen thuộc. Hoa tím bằng lăng nước trên đường Thợ Nhuộm, hoa phương đỏ chói trên đường Thanh Niên, hoa sấu trên nhiều con đường um tùm rợp bóng, hoa lộc vừng chói đỏ rập rờn trên mặt hồ thu... cả đến cây mít trong chùa ngõ Tràng An, cây muỗn trong Quán Thánh, cây muỗm đơn độc mọc giữa hè trên phố Trần Hưng Đạo (chỗ cửa sứ quán I-rắc). Cây xanh đã thành nét, nếu không nói là chủ đạo thì cũng là một nét màu quan trọng của bức tranh Hà Nội sắp bước vào nghìn tuổi.

2-1992



Tiếng hoa
Tiếng mùa xuân đã rì rầm trong mạch đất. Nắng hanh và mưa bụi. Trăng lạnh và sớm mai hồng. Gió nồm và mây phiêu bạt... Hồn hoa thu nhận tiếng không gian ấy để hóa thành tinh khôi đóa cúc, khi phai tàn còn lên lời trong chén rượu hoàng hoa, thành bông thược dược rực rỡ như thiếu phụ đủ đầy chan chứa, thành cánh hải đường lóe lửa trong kẽ diệp lục xanh ngà, thành bông hoa mảnh như tơ, như lụa, cứ tươi rói lên trong hương xuân rạo rực. Mùa xuân, mùa đẹp nhất một năm. Tuổi xuân, tuổi đẹp nhất một đời và hoa xuân... thiếu hoa xuân thì xuân trở thành góa bụa, cái đẹp muôn lòng chờ đợi kia chỉ còn là nỗi vật vờ, khắc khoải, chia xa, lỡ làng, hiu quạnh... Chiều lâng lâng hoa lý. Đêm bát ngát hương quỳnh. Ngâu đó vô cớ mà bứt rứt. Hoa mộc ơi thơm về đâu mà kín như lời gái quê không ngỏ, khác hẳn dạ lan hương rợn lên từng đợt trêu đùa như cô gái đa tình váy tung bay trong gió lộng... Đường trưa bóng trẻ ven làng, nhẹ bẫng làn sen. Con thuyền thúng lỏng lảnh tay sào, chìm khuất trong những chiếc ô xanh để ngược màu xanh bạc, cứ thả những con bướm vô hình mang đầy hương trên cánh đậu vào má vào ngực ta mà nói những lời đồng quê rộng lòng mở đón, đậu cả sâu thẳm lòng ta thứ hương thứ lời mà thành phố xô bồ làm sao có được. Có lời thu vừa đi qua, dùng dằng nơi cửa sổ, bắt ta hóa thân dõi tìm. Ngọc lan như ngọn bút màu ngà, mực là gì nhỉ hay chỉ là nỗi lênh láng tâm tư, khiến hoa cứ bay, cánh cứ rụng mà viết mãi chẳng thành khúc điệu. Hoàng lan giơ ngón tay ẻo lả vẫy theo ta, rồi vụt biến đi, chỉ còn để lại một hồ lá mềm như tóc đêm sâu vắng vẻ. Người đã xa nghìn trùng. Người đã thành dĩ vãng, vậy mà hoa sữa như mùi quả doi chín mọng đầu môi, như mùi mộng mị... lại về từ lúc chạng vạng đến khi ánh đèn mờ đục phố khuya. Hoa bay đi đâu, về tận nẻo nào có mang đi nỗi ngỏ của ta không thể nói cùng ai. Đừng, đừng vội thế người ơi mà vấp vào gió đấy, ngã trong gió thì ai đỡ nổi. Hoa sữa làm chỗ tựa ư, nhưng hoa sữa cũng ngã theo rồi. Sức nặng của mái đầu ngả bên vai ta còn nặng hơn trái đất, những làn tóc bù tung kia là mây lất phất xoáy vào da thịt đê mê. Nào ta đi bên nhau, suốt mùa hoa, suốt mùa đời, suốt mùa tình ái. Trưa nào đồng quạnh chang chang, hoa súng nói gì trong cánh tím, nhọn sắc như lời ai oán, còn hoa trang trắng tinh lại nhỏ li ti, khiêm tốn như tấm lòng thơm thảo, chỉ biết cho mà không cần nhận, chỉ biết vì kẻ khác mà chả nghĩ đến mình, cái mình nhỏ nhoi tội nghiệp...

Đừng bắt ta ngủ, đêm hoa bưởi nhé. Bờ giếng hay rặng duối đầu thôn, tiếng sương hay tiếng lóc bóc rỏ từ chiếc gầu thủng đáy xuống lòng sâu mặt giếng, có lẽ chỉ là tiếng hoa bưởi hiện nguyên hình tà áo trắng cánh hoa, chút nhị vàng như cái choáng váng của chén rượu mật ong quá liều dại dột. Qua đông rét mướt, mùa đã chuyển sang nồm, không gian ấm như bàn tay, mềm như sự nhận lời trong cái gật đầu rồi ú té chạy. Buồn ơi, không đành đi. Hãy đặt cái vội vàng xuống hè đường, để một lần mặc niệm những vòng hoa đang chậm rãi ra đi. Lời hoa thành màu đen trên dải vải vắt ngang cuộc sống hình tròn hay bầu dục thành tiếng kèn già làm nức nở và tiếng trống cơm não nùng đưa linh đem cả những vòng hoa tươi kia vào héo hắt, mỗi bông hoa còn chứa cả linh hồn nuối tiếc ấm êm đời sống trần gian. Đêm nay, người có trở lại đường này, tìm theo dấu vết những lời hương vang vọng dù màu sắc của hoa đã tan loãng thành đen, để về với căn phòng vui ánh đèn đoàn tụ. Chắc người không đành một đi là mãi mãi bỏi khuôn hình của cuốn phim đời vẫn lên tiếng gọi thiết tha, bởi những nốt nhạc trên cây đàn đã mở nắp chờ tay người bấm phím.

Càng ám ảnh hơn, càng xót thương hơn, khi đó là vòng hoa trắng. Nào huệ nào cúc trắng, nào bạch dương, nào loa kèn... hoa còn ngậm sâu những lời ấp úng chưa hề ngỏ, còn phong kín một tâm hồn như chiếc bầu đàn chưa có bàn tay rung ngón. Xin được khuây khỏa để đi hái một bông đồng thảo, nhỏ nhoi, khiêm tốn, mọc lẫn vào trong cỏ, khiêm tốn đến nỗi người qua không ngoái lại đến độ tên cũng bị lãng quên, không còn ai gọi là viôlét mà cứ nhầm với Chân chim mờ nhạt, có sắc tím mà chẳng có lời hương. Đồng thảo ơi, viôlét ơi, pha cả trời xanh vào sắc tím này, hòa cả ánh hồng pha lam vào cánh mỏng, thế mà vẫn cứ le lói chút lửa vàng, như một chiếc lông con chim hoàng yến khiến ta nghe lảnh lót, lời hót nhỏ như tiếng sương chưa đọng giọt lúc vào đêm. Phong lan sống bằng gió. Địa lan dựa vào đất. Dung dị mà cũng cao sang, khiến đôi khi ta thấy mình chỉ là chàng trai xấu số, xấu người Trương Chi gửi lầm tình yêu vào nàng hoa vương giả Mỵ Nương. Đâu dám sàm sỡ, cũng chẳng dám thô kệch cùng hoa, những lời cứ như bức mành vén nửa trên lầu, còn ta là ngọn cỏ bờ sông. Nhưng ta có thể đam mê bông hồng nhung hàm tiếu, kiêu sa vẫn gần kề có thể nghe những tia mặt trời tỏa ấm trong bông hoa đồng tiền đỏ rực, hay tâm sự cùng khóm păng-xê mơn mởn, lúc nào cũng như đàn bướm sắp bay ra, sà vào lòng ta đầy tím và những lời lưu luyến cũng tím như mơ. Đôi khi ta ngả mình trên bãi cỏ đồng xa, chạm tay vào cây trinh nữ, cây liền vội khép lá mi nhưng bông hoa màu sen vẫn rung rinh như bông hoa tai của ai vừa bỏ quên trước ta giây phút, cứ hững hờ mặc người trêu cợt. Cũng có khi ta gặp đám hoa mua lúp xúp ven đường, hoa lên tiếng mời ta ngắm nghía cho quên mệt nhọc đường dài, mà tận hưởng cái hoang dã trong sắc tím chẳng được ai nâng niu chăm sóc. Bao đêm một mình, ta thả hồn ta lang thang vào gió, hồn gió cũng dăng những tà áo mỏng manh dệt thành cánh võng có lời ru siêu thoát, dẫn ta đến khu vườn mà ban ngày chẳng thể có trên trần, hoa nói cùng ta lời mệt mê của người đi tìm tri âm bị đứt đoạn thuở nào. Ta nghe, hoa ơi. Ta ôm lời hoa vào da thịt cho bật ra cung điệu mà người con gái độc nhất trên đời này đã cho ta, cho ta từ phút chớm run rẩy đầu tiên cho tới vô cùng...



Đêm mưa đọc...

Những ngày đêm Phạm Đình Hổ viết từng câu văn theo chiều dọc, mặc cho mưa gió ngoài kia dẫn dắt ngòi bút đi theo dòng tùy hứng, thì ai mài mực cho ông? ạng rút ngọn bút lông từ cái ống chắc bằng sứ gại gại vào lòng nghiên óng ánh chất mực tàu đen biếc thì đêm Thăng Long ấy mưa gió có não nề lướt thướt như người gái lỡ độ đường, đầm vai áo lạnh, từa tựa như cô Kiều. Trên mui lướt thướt áo là Tuy dầm hơi nước... ạng có nghe ngọn sóng Nhĩ Hà cạnh phường Hà Khẩu nơi con sông Tô đổ vào hay con sông Tô bắt đầu ra đi, sau lưng chưa có ngôi trường hình vuông của Phương Đình, nhưng trước mặt đã có phường hàng Bạc từng diễn ra " mẹo lừa" tinh xảo trong cái cáng điều ngoạn mục, Phạm Quân chắc phải nâng chén trà để rửa sạch tâm hồn kẻ sĩ...

Tùy bút viết trong đêm mưa ấy được sinh ra từ cái án thư có hương trầm lãng đãng trên cái chỏm tóc chú bé tiểu đồng vừa quạt nước pha trà, vừa mài thỏi mực ngát thơm theo lời ông dậy: " Mài mực ru con, mài son đánh giặc" ... không cần biết đời sau thành ra phố Hàng Buồm ngút ngàn một núi ngọt ngon... xô bồ đô thị. Cái làng Đan Loan xứ Đường Hào xa xôi kia, Phạm Quân vẫn mang trong hồn mình hình dáng cây lúa và ngọn tre, để giữa kinh thành, ngọn bút tài hoa và cẩn trọng, làm ra gió táp mưa sa hòa vào mưa trời gió đất cho hậu sinh cảm tạ tiền nhân được thức với thời gian mấy trăm xuân thu là gang tấc.

Mùa xuân là để búp nõn sinh ra, mùa hè cho nó lớn bồng lên khi vào thu hoa nụ tưng bừng... Phạm Quân trồng cây gì trước cửa? Một khóm ngâu hoa chín như viên hoàng ngọc hay chùm hoa mộc li ti muốt trắng một loài hương quân tử, trong khi cái búi tóc trên đỉnh đầu rung rinh vì não cân trào ra đầu ngọn bút, cho nét ngang, nét sổ, nét móc hiện hình lưu hậu với Thăng Long... Cô gái nào Hồ Khẩu seo giấy, bóc từng tờ như lụa phơi vào nắng, ghim thành chục thành trăm cho văn nhân mặc khách sinh tình, mặc kệ gió mưa choàng lên phường phố. Đã xong mấy thế kỷ, Hàng Bạc có nhà Chấn Hưng mặt tường màu đỏ, tự mình nhận là " Nhà Đỏ" , nhưng không phải thứ nhà có đèn đỏ, dấu hiệu của tửu lâu ca quán mà đã khai sinh ra nhà thơ, nhà khảo cổ học Phạm Huy Thông... có hí trường vì chiến chinh mà thành lò hun đúc anh hùng, tạo ra những người " Quáết tử cho Tổ quốc quáết sinh" ... có tiếng ký cốp chạm khắc tên người lên mộ chí ở bao nhiêu vùng có nghĩa trang cỏ vàng thu muộn. Phạm Quân chưa biết sau ông, bao nhiêu thay đổi của " Lò cừ nung nấu" nói theo lời ông Hầu tước ôn Như. Tên ông là Hổ, con hổ đã về với đẽi ngàn, trước hậu sinh ta bao nhiêu mùa gió thổi. Cho đến một đêm mưa, nhiều đêm mưa của tháng năm đang rảo bước đi sang Thiên nhiên kỷ mới. Phải nghìn năm mới có một năm mang tên... 001, ta chứng kiến đầy vui mừng và lo âu của một-con-tàu-Hà-Nội đang tăng tốc độ, chật nặng trong mình nó triệu khóm hoa ngâu, hoa mộc lẫn cả triệu cành xanh đã nở hoa hay đang nụ... ta ngồi một mình, ta đối viện với ta, ta " đánh đồng thiếp" với tiền nhân, ta tâm sự với con người sẽ ra đời trăm năm sau nữa giữa lòng con tàu đô thành lịch sử và phường phố bây giờ, mà cứ băn khoăn, nơi địa linh nhân kiệt này đã đổi thay kỳ vĩ, nhưng mưa gió kia có giống thuở Phạm Quân nâng bút viết câu: " Nhà ta ở phường Hà Khẩu..." Đúng là Hà Nội bây giờ khác lắm. Không chỉ có phố Hiến đứng sau kinh kỳ mới nhiều khách muôn phương, ngay thường Phạm Quân đã có phố Đường Nhân, không hiểu sao nó lại mang tên phố Hàng Ngang, là món gì mà ngang như thế, và bây giờ, trăm nước lạ, nhiều màu da, pha tiếng nói đã hòa vào nơi Phạm Quân êm ắng mặc cho ngọn bút tùy hứng dẫn đi... Có một Hà Nội dù đêm mưa hay ngày nắng, đã khác xưa nhiều lắm, nếu không nói là khác hoàn toàn. Trong đêm mưa này, hòa vào tiếng mưa có hàng triệu con người đang hòa âm thanh riêng của mình vào một Hà Nội kiêu sang và lam lũ, nhàn tản và vất vả, no đủ và thiếu thốn, rong chơi và cần cù... để sáng mai đây, Hà Nội thêm một ngày của riêng mình với trăm nghìn sắc thái riêng Hà Nội có. Biết đâu, ở một góc phố phường hay ngõ nhỏ nào, cũng đang có những hậu thân của Phạm Quân, miệt mài, không phải là gại gại cái bút lông vào nghiên mực óng ánh đen biếc viết hàng dọc trên những trang giấy bản làng Hồ Khẩu mà là cái máy vi tính hiện hình những trang in sáng đẹp, tạo ra hay ghi lại, lấy ra, rút ra từ trang đời phổ thành trang tâm bút để thế kỷ sau những hậu sinh lại yêu mến những tâm hồn đã đi vào hư ảo nhưng vẫn chẳng xa xôi...

Có thể có, mà có thể không những câu: " Nhà ta ở phố Lê" ... " Nhà ta ở phố Nguyễn..." để nói về con phố đang khai sinh dang dở, ngôi nhà chót vót mới khánh thành, rặng cây vừa bén rễ, từ ngữ vừa ra đời... Những Liễu Giai, Ngọc Khánh, những Phương Mai, Tân Mai, những Thanh Xuân, Đồng Tâm hay Giảng Võ, âu Cơ... trùm lên bè rau Bẩy Mẫu, đè lên nghĩa địa Tây đen, sừng sững trên đám mả Tầu... với bao sắc độ lung linh của một đô thành công nghiệp hóa. Mưa lành, mưa tươi đang hòa bản nhạc trời vào bản nhạc người. Đôi khi có cơn mưa u ám là cái ác rập rình, nhưng từ thiên cổ, không cái áo cái xấu nào thắng được niềm thiện và cái đẹp. Giống như cái cáng thêu của " mẹo lừa" đã phải tan đi để còn một phường vàng bạc long lanh trên cái ngực, cái cổ nõn nà Hà Nội. Phạm Đình Hổ viết " Vũ trung tùy bút" để lập ngôn. Hà Nội đang lập ngôn bằng hành động và bao nhiêu từ chương cũng không thể nào ghi hết. Ta đi cùng mưa từ đêm cho tới sáng. Ngọn cây long não cổ thụ ngoài kia như hồi sinh trong ánh nắng vàng tỏ ngày mới. Có lẽ trong cái búp màu bạc kia như thấp thoáng hồn người viết ngày nào, hồn người đã đem viên gạch lá nem lát vào nền Hà Nội, hồn người vẫn theo Hà Nội cùng ta, cùng sau ta và sau nữa nữa...



Mấy nẻo ngoại ô
Đã có một thời chưa xa, Hồ Gươm mênh mông trong mắt, còn nội thành lại tân hoẻn những đường hẹp ngõ nhỏ quanh co. Từ tháp Hòa Phong trầm lặng, từ gốc cây gạo già cửa đền Ngọc Sơn xù những trăm bướu thời gian... ta hướng ra các nẻo ngoại ô mà thấy xa hút những đường trường mỏi ngựa. Ngày nay, Hồ Gươm hình như thu mình lại, hẹp đi, không chứa hết được bóng những ngôi nhà cao tầng soi xuống. Còn những nẻo ngoại ô sao mà gần thế. Giữa đường phố Huế, xuôi chợ Hôm mấy bước chân mà đã phải có cái quán Trung Đồ tức " quán giữa đường" để người dừng chân, ngựa tạm nghỉ khi đưa cỗ linh cữu về cõi vĩnh hằng mù mịt. Nay, chỗ ấy là số nhà 260, một trong những trung tâm thành phố, còn nghĩa trang Quỳnh Lôi cũng chẳng xa gì, thành khu nhà ở, thành nhà máy dệt vải, dệt khăn mặt khăn tay, thành con đường mang tên người nữ liệt sĩ Minh Khai chỉ huy cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ. Đi thêm chút nữa, ta gặp hoa hồng Vĩnh Tuy thay cho Ngọc Hà, Quảng Bá làng hoa nghìn tuổi, và nếu dấn " ga" thêm chút ít, ta gặp làng Thanh Trì bánh cuốn lụa mỏng mát mềm truyền thống quà ngon Hà Nội. Đuôi Cá là đâu, hình như ngút ngàn tít tắp, cái ngã ba có con đường chéo tạo ra chiếc đuôi con người cá chép, cá rô Đầm Sét, còn phảng phất ngôi chùa Sét xây gạch Bát Tràng và đầm ao dập dềnh bèo ong bèo Nhật Bản, sẵn sàng cho nghỉ đôi chân người trên đường thiên lý về Nam. Trước năm 1940, đường sắt quãng ấy gọi là Cầu Tiên, một lần chuyến tàu Văn Điển đâm vào chuyến tốc hành Sài Gòn, hơn hai trăm người tử nạn làm cả nước xôn xao lo lắng, khăn gói quả mướp đi tìm người thân, nhưng rồi " ông Sếp ga" người Tây chỉ bị phạt Một đồng bạc Đông Dương danh dự. (?) Nay ga Giáp Bát là ga lập tàu, nó chưa ngoại ô, nó đầy tấp nập, nó thuộc quận nội thành Hai Bà Trưng đông đúc. Phía Tây thành phố, ngã tư Hàng Lọng, Khâm Thiên đã âm u le lói ngọn đèn dầu, chỉ lóe sáng Măng Sông chát tom son phấn chen vào áo vá chân trần khi những Chu Thị Bốn, Chu Thị Năm, Mộng Hoàn sênh phách cầm ca. Trần Huyền Trân, nhà thơ tài hoa Ngõ Trắng giữa phố mà như lạc loài xa lạ với phồn hoa ồn ã cách xa chỉ dăm trăm thước, nên ông thở than: Tôi ở lều gianh Cổng Trắng này Chạnh niềm cá nhảy với chim bay Đêm đêm kẽo kẹt ngư bà thức Giăng phải hồn tôi một lưới đầy... Khâm Thiên bây giờ là phố thợ may, dài gần hai nghìn thước, bạt ngàn quần áo bình dân, ka ki cỏ úa, bò mài bò mốc, dù nắng đi một vòng cung từ đông sang tây từ sớm đến chiều, mà tán bàng cứ non tơ, không át đi màu nhiệt đới, cả sau trận bom B.52 hơn 250 người ra đi cho Hà Nội đứng thẳng làm người. Chợ Dừa là một cửa ô già hơn bất cứ ai già nhất Hà Nội. Đường hai chiều nhựa phẳng ap-phan, chớp mắt đã đến Ngã Tư Sở từng heo hút chia tay hai tài năng lớn Tản Đà và Vũ Trọng Phụng, liền số nhà nhau, nay không còn dấu vết. Trung tâm thương mại nằm kề bên bờ con sông Tô Lịch một thuở trữ tình, con sông nghe mơ hồ nỗi nhớ nhung như không hề có thực, nay ai vội phóng xe hẳn không kịp nhận ra Cầu Mới bắc ngang, bởi câu Kiều tả đúng: Ngựa xe như nước áo quần như nêm Nghĩa trang Quảng Thiện -Thanh Xuân là đâu, khi mùa xuân ta đi thắp nhang trên mộ người chị gái tóc dài Hà Nội. Nay ta đi tìm nhà bạn khu Thanh Xuân Nam và Bắc, nhà dựa vai nhà. Tỉnh Đơ tức thị xã Hà Đông có làng dệt lụa hình như đã tự di chuyển cho gần kề Hà Nội, bởi sao mà gần thế. Vừa đi khỏi nhà thờ Hàng Bột (Sơ ng-toan), nơi từng dung nạp những cô gái dại dột đến đây mãn nguyệt khai hoa cho kín đáo dưới bàn tay đầy nhân đạo những bà Sơ mũ hồ bột trắng tinh nhưng trái tim suốt một đời đỏ thắm. Vừa qua đây, nay không nhận ra tháp chuông nhà thờ, mà đã đến thị xã

Khái niệm địa dư với năm cửa ô thần thánh không còn chính xác. Ta lẫn lộn hay Hà Nội vươn vai ông Gióng? Con đường Giảng Võ hoang vu, đê cao cỏ rậm, nhà nguyện tên quan năm Pháp Henri Rivière đã chìm vào quá khứ. Hàng xà cừ đã cổ thụ che rợp nghìn nhà bán tủ sách, giường tây mô-đéc, tủ gương choáng lộn. Bên kia đường là Cầu Giấy đi từ Kim Mã " Con ngựa vàng" đã lồng vó phi nước đẽi cho những làn xe dẫn đến cầu Thăng Long, sân bay và Sơn Tây xứ Đoài mây trắng có nhà thơ Quang Dũng, Nguyễn Hà, Doãn Trang, Tản Đà yên nghỉ. Con hổ nào gầm, con voi nào hú, con cá sấu nào quẫy đuôi nơi vườn Thủ Lệ, từng có rừng trúc lao xao, rặng ôi quằn quẽi soi nước hồ trầm mặc lặng tờ như từ mấy nghìn năm. Rặng muỗng hoa vàng và hàng cây bằng lăng hoa tím cứ rờ rỡ đón khách từ Hồ Gươm đến đây thư giãn, và bao lâu nữa, làng Dịch Vọng có món cốm Vòng sẽ là một phường nội thị như làng Láng rau thơm, làng hoa Phú Thượng? Trạm Trôi, phố Nhổn, thị trấn Phùng, trăng xứ Đoài vằng vặc, gió cánh đồng thơm hương... cứ như hàng xóm nhà ta, thoắt đi thoắt đến... chỉ gang tấc đã kề bên, chỉ lát giây đã hàn huyên có thể ăn món nem Phùng thơm nức và nhai ngọn rau muống Sơn Tây xanh rờn giòn tan như pháo. Sông Hồng bao lần đổi dòng từ cầu phao Tôn Sĩ Nghị vỡ toang, đến cầu Long Biên trăm tuổi, cầu Chương Dương thẳng tắp, cầu Thăng Long chênh vênh... Gia Lâm, Bồ Đề, Thượng Cát, Cổ Bi, Dâu Keo, chợ Sủi... lũ lượt rau xanh thành dòng sông mát rượi bữa cơm hàng ngày, cứ kìn kìn đổ vào Hà Nội, không còn chỉ là quang gánh, mà đã xe thồ, xe máy, ô tô cho tươi non đợm từng giọt sương mai thơm thảo. Con đường số 5 tính từ đâu nhỉ? Từ trung tâm Bưu điện Bờ Hồ hay từ cầu Chui đã được nâng cao? Sân bay Gia Lâm nghe xa như lịch sử đã có máy bay lên thẳng đón khách rong chơi ra Hạ Long, Trà Cổ trong nháy mắt. Không ai còn nhớ vết thương rỉ máu ngày dân Gia Lâm, Đông Dư, Thổ Khối ... nhổ lúa trồng đay và sau đó nhổ đay để mở rộng bãi tầu bay cho Nhật.

Ngay nhà ga xe lửa Gia Lâm cũng khuất chìm vào khu nhà giữa phố, những con tàu ngược Đồng Đăng, Yên Bái... kéo còi chẳng làm thơ bé giật mình. Nó cứ đi, nối đoạn đường gần với Hà Nội thênh thang. Những nẻo đường vượt các cửa ô xưa ra ngoại thành hầu như không còn ranh giới. Những Tây Long (hay Tây Luông), Hàng Mắm, Trừng Thanh, Yên Hoa, Thổ Khối, Thạch Tân, Đồng Lầm, Đống Mác, Trung Hiền, Cầu Giền đã mịt mờ tiềm thức chẳng có biển để nhắc nhớ. Chỉ có những con đường vươn dài, vươn mãi, vươn xa cho trung tâm Hà Nội nở bừng như hạt ngô nở ra bông hoa mai xòe rộng. Hồ Gươm chật chội, đương nhiên. Ngoại ô không hiện hình cửa ô cụ thể, ngoại trừ chiếc cổng xây gạch Bát Tràng có lệnh quan Tổng đốc Hoàng Diệu nhắc quân quan không được nhũng nhiễu dân lành: ạ Quan Chưởng, là chứng nhân duy nhất, nơi bà Thị Lộ từ Tây Hồ xuống đây bán chiếu, gặp người tình muôn kiếp là ngôi sao sáng ức Trai. Người Hà Nội hôm nay, ai còn quê quán những nẻo đường đi ra bốn phía, để ngày " ra đi" là ngày trở lại quê nhà? Bánh gai Ninh Giang, bánh dày Quán Gánh, vải Thanh Hà, Lục Ngạn, nhãn Hưng Yên, rau sắng Chùa Hương, hồng Hạc Trì, na Đồng Mỏ, chuối Phú Thọ... đã êm ru như nằm nôi mà vào nội thành Hà Nội. Một ngày bình thường, có ai đi hết được những dặm ngoại ô đã hình thành và còn đang quá hoạch? Từ những cái cổng tre phên có anh tuần đinh canh gác một thời xa thế kỷ đến bốn làn đường, sáu làn đường xe chạy... Hà Nội đang là vận động viên điền kinh thi tốc độ dung nạp người đi bộ ba nghìn bước chân quanh Hồ Gươm, cho đến người lái máy bay vào thành phố Hồ Chí Minh, lên Điện Biên, ra Cát Bà... hay xuôi ngược sông Hồng trên tàu du lịch ghé bến Chèm hay lên bãi Tiên Dung để tự mình đo Hà Nội bằng cái thước đo tình yêu Hà Nội... Ta bỗng cũng muốn làm cuộc đăng trình, ra cùng các nẻo ngoại ô khoáng đạt muôn trùng như thế.

1999



Hồn sâu Hà Nội
Chế Lan Viên có câu thơ hay như một định lý: Khi ta ở chỉ là nơi đất ở Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn... Chữ tâm hồn ở đây là tâm hồn thi sĩ, là day dứt, thương yêu, là nhớ nhung kỷ niệm, là sâu nặng tình người... mà thi sĩ sẽ mang nó trong hồn mình suốt một đời người. Nhưng ngoài ra cũng có thể hiểu một cách khác dù rất chủ quan: Tâm hồn của mảnh đất ấy, mỗi mảnh đất ấy đều có một tâm hồn, ai biết đến hay không, đất ấy vẫn trường tồn. Mỗi lần đi qua Hà Tĩnh, người ta hay nghĩ đến đây là quê hương của Nguyễn Du, người mang nặng đẻ đau ra cô Kiều trăm năm vẫn sống. Đi tàu Hà Nội, Hải Phòng qua ga Cẩm Giàng, nhiều người thầm nhắc lòng mình: Đây là nơi Thạch Lam sinh ra, người để lại những bài văn bất hủ như " Hà Nội ba sáu phố phường, Sợi Tóc, Đêm Giao Thừa, Nhà mẹ Lê..." .

Chỉ riêng trong lòng Hà Nội, cái nôi của văn chương văn hiến, từng mảnh đất phố hay phường cũng có thể làm tâm hồn ta rung lên như sợi dây đàn cảm ứng, nhớ một đồng điệu xa mờ bảng lảng. Hàng Bạc hay Hàng Buồm, nơi cửa sông Tô Lịch, cứ nhắc ta về một ông Phạm Đình Hổ với câu văn giản dị như lời nói thông thường: " Nhà ta ở phường Hà Khẩu" . Hồn Nguyễn Văn Siêu đêm đêm có bay về mài mực và tung ngòi bút trên đài Nghiên Tháp Bút để nước Hồ Gươm sóng sánh long lanh câu thơ và câu văn trong " Tùy bút lục" ? Những bài thơ ngâm vịnh tạc thù giữa bà chúa Liễu Hạnh và ông trạng làng Bùng Phùng Khắc Khoan trong đêm trăng Hồ Dâm Đàm sương phủ là những bài gì giữa phẩm tiên và nho sĩ mà nay mỗi lần ta đến Phủ Tây Hồ, cái mùi, vị bún ốc phàm trần chẳng thể đánh bạt nỗi thuyên quáên tài tử? Đời thường, ngày thường, lúc hoa đào theo người về từng phố ngõ đón xuân hay mùa hoa bằng lăng nước tím lơ mơ, lúc hoa xoan tây đệm cho dàn nhạc ve sầu nỉ non cất tiếng, giữa ngày mưa bong bóng phập phồng hay đêm thu thơm nỗi hoàng lan quí phái và hoa sữa nồng nàn... ta, người dân thường thành phố, thả bước chân vào mảnh đất kinh kỳ nghe hồn mình cũng một chút lênh đênh. Mỗi phố lặng tờ kia hay âm vang tiếng phách gõ rao món ngon " xực tắc" nọ, ta nhớ đến một người nào đã ra đi thành lữ thứ bặt tin, nửa trăm năm không trở lại, hay một bóng hình đã vĩnh viễn trong cỏ thu vàng chẳng bao giờ về lại cùng ta... ta nhớ đến một khuôn mặt trăng rằm, một đôi mắt tinh anh chơm chớp hàng mi như lá điền thanh, lá me keo, hoặc một nụ cười nửa miệng để bắt ta phải trằn trọc hiểu nhiều... Xuân Diệu từng có câu thơ đùa:

Nhà tôi hăm bốn Cột cờ

Ai yêu thời đến ai lờ thì thôi...

mà sau đó cô Thúy Bắc, từng có thơ hay như rút ruột mình thành " Sợi nhớ sợi thương" để " Ngả về phương anh" , kém nhan sắc nhưng tài hoa không kém, cũng mạ lại câu thơ kia thành: Nhà tôi ở xóm Hà Hồi Ai yêu thì đến, ai hời thì không... mà sau này, chị không " ra đi" từ xóm Hà Hồi quanh co chữ chi ấy, nhưng lại ra đi từ tầng 4 khu nhà tập thể Giảng võ, láng giềng nhà văn Hoàng Quốc Hội và nữ sĩ Nguyễn Thị Hồng, người có bài thơ " Lời tượng nhà mồ" ta đọc lại mà gai ghê cảm giác như lạc vào cõi âm hồn Tây Nguyên bập bùng ngọn lửa tình không bao giờ tắt... Cái phố Đình Ngang hơi chéo nơi gần Cửa Nam tức cửa Đại Hưng nhiều triều đẽi trước, Cao Bá Quát đã về đâu? Phải chăng cũng gần kề chốn này, nay có rạp chiếu bóng mang tên Tây loảng xoảng thứ kim khí Mêtal, là nơi từng có gian lều của người bị giam lỏng 10 năm giữa Đông Quan trong câu thơ: " Góc thành Nam lều một gian" từ gần 600 năm về trước? Nguyễn Vang-bóng-một-thời thường để lạc khoản dưới những bài tùy bút " Am sông Tô" , cái am tranh lá bên bờ sông Tô Lịch có thật hay không có thật khi quê ông ở làng Mọc kề bên con sông vừa trong vừa mát để trai gái dừng chèo ghé sát thuyền nhau trong ca dao? Nguyễn đã khoác cái bị cói trong đựng đủ thứ rượu hợp " gu" mình đi về cõi tiêu tao mà nay có kẻ hậu sinh chê ông là không biết uống nước trà. Làng Mọc tức Giáp Nhất vẫn còn, còn cả ngôi mộ đá hoa cương của ông " vua phóng sự đất Bắc Kỳ" Vũ Trọng Phụng rời bỏ kinh thành mới 27 tuổi đầu sầu tủi. Ta đi qua con đường Điện Biên, đã nhìn thấy mấy cây đề cổ thụ, quá nhà Xuân Diệu mươi bước chân, chợt nhớ người bạn gái lớn tuổi mang họ Thạch: Thạch Trang Đạm, không hiểu bà có một chút nào dòng máu Khơ Me của dải đất miền Trung ra tập kết và đã trở lại quê mình sau giải phóng, đã mấy chục năm không còn gặp lại. Bà không phải người nổi tiếng để ai cũng biết như một Hồ-Thơ-Nôm hay Bà-Huyện-Thăng-Long-thành-hoài-cổ, nhưng ít ra bà đã Hà Nội liền mấy chục năm, có tình yêu và hạnh phúc, sinh con đẻ cái ở giữa lòng Hà Nội. Qua phố Quán Sứ, không còn một sứ quán Chiêm Thành Trung Quốc nào, mà chỉ còn ngôi chùa mới xây thế kỷ hai mươi, chợt nhớ nhà báo Thái Cương, mà sinh thời ông hướng dẫn lối vào nhà: Nhà tôi bé nhỏ nằm lọt thỏm giữa hai ngôi nhà lớn hai bên. ôi, Thái Cương, bây giờ ông ở một mình trong gian nhà dài hai mét, rộng sáu mươi phân, có chật hẹp lắm không, và đêm đêm có ngồi dậy viết thêm cho các tờ báo nào nơi ấy? Đi thêm chút nữa, qua phố Triệu Quốc Đạt ngắn ngủi, từng có nhà " lục xì" ngay trên cái sân riêng của bệnh viện Võ Tánh (nay là sân sau của bệnh viện Bà Mẹ và Trẻ em), chợt nhớ người bạn học thuở đầu xanh cùng nhau đi ăn bánh tôm hồ Tây và chia nhau viên phá xanh nóng giòn bờ Hồ Gươm. Anh Chính, anh ở xa Hà nội đúng nửa vòng trái đất. Hà Nội vẫn chờ đứa con xa xứ bằng tấm lòng bao dung và tình bè bạn, bằng tâm hồn của đất đai như ngọn cây hoàng lan đã cao vượt mái nhà, nhưng gốc vẫn nguyên chỗ cũ. Vòng xuống hồ Thuyền Quang, quặt vào ngõ Liên Trì, cái tên nhắc nhở thế kỷ trước đây là " Ao sen" , có hai người con gái đã không-Hà-Nội. Một người rời bỏ chồng con về Văn Điển. Còn cô em lại theo chồng con vào xứ chim yến và trầm hương, kề bờ biển, có Tháp Bà ta gọi Nha Trang... Những người Hà Nội ra đi, lớp này tiếp theo lớp khác, để có một Hà Nội mới, người Hà Nội mới, lớp này tiếp theo lớp khác, từ những đẽi lộ thênh thang đến con ngõ u hoài tịch lặng. Chị Quì ở Phất Lộc, quán bà Tộ Béo (tục danh là Mụ Béo) kề nhà Thủy Tạ, nhà vô địch Đông Dương về bơi lội ở làng Yên Phụ Hùng Nhân, nghệ sĩ Mộng Dần sau đền Bà Kiệu, chú tàu què bán lạc rang ở sát tường đền Bạch Mã, anh em ông giáo Anh văn Lê Bá Kông, Lê Bá Khanh thường đến nhà vợ ở phố Lê Văn Hưu, gọi là hàng kem Bình Minh... hoặc hàng phở Giảng Võ ở phố Cầu Gỗ, hay quán Trung Đồ, tức quán giữa đường, nơi tạm dừng chân của những chiếc xe tang độc mã hay tam mã (260 phố Huế), nhà may Sửu giữa phố Tràng Tiền, trưng biển đề có bằng Hàn Lâm Viện Pháp hẳn hoi (sau thành bố vợ một ông Bộ trưởng của chính quáền chúng ta)... không thể một lúc mà mang hết những gì chứa nặng tâm tình giãi bầy lên trang giấy. Hồn đấy. Hồn đất đấy. Vườn Bách Thảo, nơi buổi trưa ta ngồi học trên bậc cỏ sườn ngọn núi Sưa (tức Sư Sơn), từ mấy thuở, những ai lại ngồi đấy học bài hay ai ngồi choàng vai thủ thỉ, ta bạc tóc vẫn không quên tiếng ve sầu rỉ rả, và có con ve còn động tình, thả giọt nước xuống vai ta mà nó không cần biết đời nó và đời ta, cái nào dài hơn, cái nào có lý.

Nhiều người bận rộn, không còn thì giờ để rong du, Hà Nội hiện lên trong lòng họ ra sao, ai mà biết được. Anh tự vệ Chợ Đồng Xuân dùng dao bầu giết giặc đã thành hồn Hà Nội chìm sâu. Người chuyên viết ca dao, tác giả bài Đóng nhanh lúa tốt do Lê Lôi phổ nhạc, cũng đã rời bỏ ngôi nhà 105 phố Phùng Hưng mà ra đi vĩnh viễn, chắc cả thi nhân và nhạc sĩ đã đồng ca tác phẩm ấy trong chiều sâu Hà Nội khuất chìm...

Đến lúc Hà Nội tròn nghìn năm, con đường Hòe Nhai, Liễu Giai hẳn đẹp hơn, dù nó không còn là đẽi diện cho một kinh thành Đông Hòe, Tây Liễu, mà tưng bừng một " Hà Nội như động tiên sa" kiểu mới, kiểu của những người thế kỷ sau đang chầm chậm đỗ vào ga Hà Nội...
#1
    Asin 07.09.2003 08:29:00 (permalink)
    Quà Hà Nội và người Hà Nội ăn quà
    Loại trừ một vài trường hợp như quà Tết, quà biếu, quà cưới... quà mang một nghĩa khác, còn thông thường quà nghĩa là một món ăn phụ, ăn cho vui, cho ngon, cho thích... chứ không phải món ăn cho no như hai bữa chính mỗi ngày. Những thành phố càng lớn thì càng có nhiều hàng quà. Những nơi càng thanh lịch thì càng có nhiều món quà ngon, đầy hấp dẫn, có khi vượt ra cả một địa phương mà trở thành nổi tiếng trong cả nước, tượng trưng cho cả một vùng. Tôi chưa được ăn nhiều món quà của Huế, thành phố Hồ Chí Minh và các vùng khác, nghe nói có nhiều món rất ngon rất lạ. Riêng quà Hà Nội thì tôi đã được thưởng thức tạm gọi là nhiều. Từ lâu rồi, Hà Nội vẫn nổi tiếng là có nhiều quà ngon, ít nơi sánh kịp. Không phải vì quá yêu thành phố của mình mà tôi thiên lệch, địa phương chủ nghĩa, nhưng từ lâu, dư luận chung và các tác phẩm văn chương, báo chí đã công nhận điều đó. Đương nhiên, Huế cũng như thành phố Hồ Chí Minh cùng nhiều nơi khác đều có quà ngon của mình như bánh bột lọc bao tôm, bánh bèo Huế, chả giò Sài Gòn (món này ra đến Hà Nội lại mang tên Nem Rán, được ghi vào từ điển Larousse), thịt bò bảy món, mì Quảng, bánh canh Đà Nẵng, bánh đậu xanh Hải Dương, bánh cuốn Lạng Sơn v.v... Những Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Vũ Bằng... đã có những trang sách chan chứa yêu mến và tâm hồn say đắm về nhiều món quà Hà Nội như nét văn hóa đáng chân trọng, bảo tồn, như giò lụa, phở, bún chả, bún bung, bún ốc, rươi, bánh dày bánh giò v.v... nói đến Hà Nội người ta liên tưởng đến hoa đào ngày Tết, thiếu nữ bên Hồ Gươm, đồng thời nghĩ ngay đến bánh cuốn Thanh Trì, cốm Vòng, mứt sen trần... Như nhớ một loài hoa là nhớ ngay đến màu sắc và hương thơm của nó. Vũ Bằng viết " thương nhớ mười hai" bằng nước mắt, ông gọi hạt rượu nếp là con rệp, con cà cuống là con rận rồng... tinh tế đến mức khó tính mà trích được ra một câu cho lọn nghĩa. Thạch Lam viết về bún ốc như sau:

    -" Có ai buổi trưa vắng hay buổi chiều, đêm khuya, đi qua các nhà cô đào và các chị em thanh lâu, thấy họ ăn cái quà ấy một cách chăm chú và tha thiết đến đâu không? Nước ốc chua làm nhăn các nét mặt tàn phấn và mệt lả, miếng ớt cay làm xuýt xoa những cặp môi héo hắt, và khiến đôi khi giỏ những giọt lệ thật thà hơn cả những giọt lệ tình..." (Hà Nội băm sáu phố phường -Thạch Lam).

    Sinh thời, Thạch Lam chê phở gà là nhạt nhẽo, và ông còn cho rằng phở thêm hương cà cuống vẫn ngon, ông viết " Rau thơm tươi, hồ tiêu bắc, giọt chanh cốm ngát lại điểm thêm một chút cà cuống thoảng nhẹ như một nghi ngờ..." (Sách đã dẫn). Câu văn ấy đến nay hầu như chưa ai vượt được ông về nghệ thuật ẩm thực và tài hoa. Dù rằng ngày nay phở gà đôi khi lấn át phở bò. Nguyễn Tuân sinh thời cũng ghét phở gà, và không bao giờ ông Nguyễn chịu ăn phở tái, mà chỉ là phở thịt chín có màu nâu, bùi, thơm, mềm... Cho đến thời điểm này, nhiều người Hà Nội vẫn không chịu chấp nhận phở tái, phở chặt tú hụ, phở trứng... Lớp người sau các ông, còn thích thú một món quà đặc biệt. Có lần nhà văn Tô Hoài viết một bài về Hà Nội cho rằng phố Mai Xuân Thưởng gần đường Cổ Ngư là ngắn nhất: 56 mét. Và ông đố xem ai tìm ra một phố ngắn hơn. Vốn là một học sinh Hà Nội, quen thuộc với món quà cực rẻ nhưng cực hấp dẫn, ăn mà chảy nước mắt, mà nồng nàn, cái lưỡi đến hàng giờ là món thịt bò khô của mấy chú Hoa Kiều bán ở một cái phố ngắn nhất Hà Nội: Phố Hồ Hoàn Kiếm, chỉ dài 52 mét, tức khoảng một cột đèn. Nó là cái ngách ngang từ hồ Hoàn Kiếm sang phố Cầu Gỗ, ít ai để ý đến dù Bờ Hồ quen thuộc đến thế.

    Món thịt bò khô bán ở đây thành nét đặc biệt của Bờ Hồ, có lẽ không một học sinh Hà Nội nào, không một người Hà Nội trẻ nào lại không ghé vào ăn món quà chua cay mặn chát ngọt bùi ấy. Nhà văn Tô Hoài đã cười xòa, công nhận phố ấy là ngắn nhất và món quà ấy là đặc biệt, không một chỗ nào ngon bằng. Quà là món ăn mang đầy chất văn hóa, vậy thì nó cũng không là cái gì bất biến, trầm trọng. Nó luôn thay đổi, có thứ mất đi, có thứ sinh ra, có thứ thụt lùi, có thứ tiến bộ. Những năm cuối thập kỷ này, quà nằm trong quá luật ấy. Tuy nhiên, tôi xin phép được điểm qua một vài món đã có mặt từ lâu, vượt qua năm tháng, vượt phạm vi Hà Nội, nó hấp dẫn như một giai điệu trữ tình, như bài thơ được thời gian sàng lọc, như nỗi đam mê của tình trai gái, như bức tranh sơn dầu nóng bỏng cảm giác. Trước hết xin nói về Phở là món quà nơi nào cũng có. Dễ chế biến, dễ ăn, ăn lúc nào cũng được. Nhưng phở Hà Nội có cái duyên riêng, tựa như người con gái ta yêu, thế gian có triệu người con gái nhưng chỉ có một mình nàng là nàng trong sự huyền diệu, nàng mang lại cho riêng ta, ta chỉ nhận thấy ở riêng nàng. Chả thế mà nhiều địa phương làm món phở, cứ phải trương cái biển lên là: " Phở Bắc" , Phở Hà Nội" ... mới đông khách. Có lẽ nó cũng như món bánh bèo Huế, hủ tiếu Sài Gòn chăng? Phở là Hà Nội. Từ đầu thế kỷ này, phở còn bán rong gọi là phở gánh thì nó đã có tâm hồn và khuôn mặt riêng. Mới xuất hiện ở Hà Nội, được công nhận như anh khóa rời làng đi thi, đỗ liền một lúc mấy khoa, như cô gái chẳng cần qua vòng loại cũng được công nhận hoa khôi, hoa hậu tức thì. Bánh phở tráng không mỏng không dày. Thịt bò luộc trong thùng nước dùng, vớt ra để nguội có màu nâu, được thái ngang thớ, mỏng gần như tờ giấy pơlure, nó ngọt, ngậy, bùi, thơm, mềm, không dai, không nát. Bát phở phải đầy đủ gia vị, hành lá thái nhỏ lẫn với rau mùi ta, rau húng Láng (thứ rau chỉ làng Láng mới trồng được) hành chần tái, hạt tiêu, ớt tươi. Nó không chấp nhận mùi tỏi, rau húng dỏi hay còn gọi là húng quế hay húng chó, càng không thể có giá sống trộn lẫn. Linh hồn của Phở là " nước dùng" xương bò, xương lợn ninh từ hôm trước, sau khi sôi sùng sục thì nhỏ lửa để chỉ lăn tăn, một người đứng cạnh, liên tục hớt hết bọt, để nước dùng sẽ trong vắt như nước mưa, như một thứ trà loãng, ngà ngà vàng vì trong đó có nước mắm ngon, loại hảo hạng. Nước dùng không thể thiếu vài xâu tôm he khô, hoặc sá sùng, nhất là một cái đuôi bò.

    Mùi hương của nước dùng là lời mời gọi từ rất xa, làm nôn nao con người, khó lảng tránh nó được. Đó là một chút quế chi, một chút thảo quả (còn gọi là quả tò ho) nướng chín. Mấy tảng gừng già đã nướng, một vốc hành tái cũng nướng qua, thả vào nồi nước dùng âm ỷ sôi đến hết một ngày, hết đến bát cuối cùng, đến lúc về khuya, mấy đồ đệ Lưu Linh tìm phố phường nét đẹp đêm thành phố, ngồi lại để nhà hàng nghiêng cái thùng, dốc toàn bộ số xương đã mềm tơi cả cái đuôi bò chắc đã quẫy đến mệt mỏi trong đó, và họ ăn, họ mút, họ uống, họ khà, họ rung đùi, nhắm mắt. Món khuya ấy, gọi là món " Bốc mả" , thương chỉ có cánh đàn ông thích thú. Còn mấy bà khuê các chẳng đoái hoài.

    Mỗi giai đoạn dăm bảy năm, Hà Nội lại nổi lên một vài hàng phở nổi tiếng, những Trưởng Ca hàng Bạc, Phở Giảng và Đông Mỹ phố Cầu Gỗ, phở Tình, phở Thìn phố Bờ Hồ, phở Tư Lùn phố Ngô Quáền, phở tàu bay phố Bà Triệu v.v... Nhiều hàng trong số này treo cả nửa hoặc một phần tư con bò ngay ngoài cửa, khách được chọn miếng thịt nào tùy thích. Chủ hàng huơ dao như tráng sĩ Lương Sơn Bạc, con dao phay chữ nhật, phăm phăm, rồi miết một cái cho mềm, trộn chút gừng đã thái chỉ, đặt lên bát, chan nước dùng cho thành thứ thịt tái hơi một chút hồng hồng, nằm bên miếng giò, (thứ thịt bò cả mỡ cả nạc, đem hấp chín) miếng gầu miếng nạm... Và nước béo nước trong, tùy ý khách. Cứ đứng mà ăn, ông Phán sở công, cậu ký sở tư, anh nhà báo, chủ xe hàng, chủ hiệu buôn... nối đuôi nhau mà thưởng thức thứ quà vừa nóng ran người, vừa tê đầu lưỡi, vừa ngọt cổ họng, vừa thơm điếc mũi mà giá cả chẳng đáng bao nhiêu. Nhiều nhà văn, nhà thơ rủ nhau đi ăn phở, không gọi là ăn phở, mà bảo nhau là " đi làm hỏng cái lưỡi" , bởi đứng ăn xong một bát phở như thế, cái lưỡi mang cảm giác khác hẳn, không còn nhàn nhạt của sáng sớm mới dậy, không hắc mùi kem răng, và cũng nhất định không được tráng miệng bằng thứ nước trà nhạt thếch của hiệu phở cho người dễ tính súc miệng. Đi loanh quanh đâu đó khoảng nửa giờ, vị phở đã tan đi nhưng cái lưỡi còn dư vị mới " ngã" vào một quán cà phê nào đó, nhâm nhi chất nước màu nâu đỏ, sánh đặc bám vào thành tách sứ, và một khói thuốc thơm " đã đời" . Đã nhiều thời gian, người Hà Nội không dùng thìa để ăn phở. Chỉ một đôi đũa, nào và, nào húp, nào mềm mại giữa hai hàm răng, nào ừng ực... không phải là tục tử phàm phu hay bất lịch sự, mà là để thưởng thức đến cuối cùng cái ngon ngọt. Nay có người cầm đũa sêu sợi bánh phở lên thìa rồi cầm thìa đưa lên miệng, miếng phở đã nguội đi quá nhiều. Thật chẳng khác nào ăn quả chuối tiêu trứng cuốc mùa thu mà chỉ ăn cái vỏ còn thịt chuối thơm lừng vị thu mây gió lại nỡ bỏ đi.

    Hà Nội hiện nay có rất nhiều hàng phở. Phở trong cửa hàng, bên quầy nhỏ, phở chõng vỉa hè, phở gánh bán rong... Phở bò, phở gà, phở ngan, phở vịt, phở chặt, phở trứng... Có người ăn cho no chứ không phải ăn cho ngon. Phở được chiêu bằng mấy chén rượu trắng, với vài vẽi bia căng bao tử... Biết nói thế nào, vì đó là sở thích, là khẩu vị, là túi tiền... Người Hà Nội đành thở dài. Phở là một món quà mặn, phổ thông, hợp với khẩu vị tất cả mọi người. n phở lúc nào cũng được. Điểm tâm buổi sáng, lỡ bữa buổi trưa, thay quà xế chiều, buổi tối rong chơi, đêm khuya cho ấm bụng hoặc mời bạn tỉnh xa về, ăn trong chợ hay ngoài cửa ga, nơi bến xe khách hay trong ngõ nhỏ... Nhưng hiện nay, nếu tôi không lầm thì Hà Nội có rất nhiều hàng phở nhưng không có một hàng nào ngon nổi bật lên, vượt xa các hàng khác. Nó giống như ca nhạc và thơ hiện nay, cứ sàn sàn bằng nhau, có nền mà không có đỉnh, cứ na ná giống nhau. Phở Thìn có đến năm bảy hàng. Phở phố Lý Quốc Sư, phố Nguyễn Hữu Huân, tạm được. Phở gà phố Lê Văn hưu từng nổi tiếng nhưng hình như người ta đến đây để khoe giàu chứ không phải để ăn một bát phở ngon ra phở. ạng Chí chuyên làm phở gà phố Trần Huyền Trân đã không còn. ạng Giảng ở phố Cầu Gỗ bán phở mấy năm đã tậu được nhà cũng đã ra đi... phở Sinh Từ đầy mà nhạt... Ngoài phở, Hà Nội còn rất nhiều món quà khác như bún thang, bún bung, bánh cuốn Thanh Trì, bánh dày bánh giò, xôi lúa xôi lạp sường cho đến chả cá Lã Vọng, bánh tôm Hồ Tây, sủi cảo phố Mai Hắc Đế, gà tần thuốc bắc phố Tống Duy Tân, các quán ốc hấp thuốc bắc và cá vùng Quảng Bá Nghi Tàm, thịt chó Nhật Tân, chân gà nướng phía Trung Tự, chân chó hầm ngõ Lê Văn Hưu, không kể những món ăn với bia như nem chua, nộm v.v... Xin đề cập đến một món quà khác cũng khá đặc biệt Hà Nội: Bún Chả. Nguyên từ những thế kỷ trước, con cá hay miếng thịt lợn đem nướng, nhắm với rượu, gọi là món Khoái Trá. Có lẽ vì khi ăn nó, người ta có cảm giác rất khoái trá chăng? Lâu dần, Trá đọc chệch ra thành Chả. Chả trong bún chả không phải là chả làm bằng thịt lợn nạc giã nhuyễn, hấp rồi rán trong món Cơm Tám Giò Chả. Chả này là thịt ba chỉ của con lợn nhỏ vừa phải, khổ mỡ không dày, hoặc thịt vai, thịt mông sấn, lẫn nạc và mỡ băm nhỏ. Đó là chả miếng và chả băm, cặp vào vỉ sắt hoặc xâu tre, nướng trên than hồng, thứ than hoa, than hầm xưa dùng cho lồng áp sưởi chân quý tộc, chứ nhất thiết không được dùng than đá hay loại than nào khác.

    Than đựng trong chiếc hộp hay chiếc chậu nhôm nhỏ, cứ phừng phừng ánh đỏ theo tay quạt nan, (nay có thể là quạt điện -mà ở phố Nguyễn Khuyến, người ta cạnh tranh nhau bằng cách nhà này quạt khói sang nhà kia, nhà kia quạt mạnh hơn, nhà này quạt mạnh hơn nữa...) ăn bún chả hình như người ta còn ăn cả kỷ niệm, vì trong làn khói mỏng màu lam kia, thức dậy cả những gì nằm im lâu nay, bây giờ nó đánh thức lên, nó gọi hồn người mở cửa. ít thì thật dễ chịu. Nhưng nhiều thì sặc sụa. Vợ giáo sư Nguyễn Tấn Gi Trọng vì sặc khói bún chả từ tầng dưới xông lên, bà góp ý, thế là cãi nhau với người thuê nhà tầng dưới, tức quá, bà đứt mạch máu não...
    #2
      Chuyển nhanh đến:

      Thống kê hiện tại

      Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
      Kiểu:
      2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9