Thơ Trần Đăng Khoa viết ở tuổi trưởng thành

Thơ Trần Đăng Khoa viết ở tuổi thiếu nhi đã được khẳng định, trở thành như một tượng đài, đưa vào sách giáo khoa để giảng dạy, được tặng Giải thưởng Nhà nước năm 2001 về văn học-nghệ thuật với các tác phẩm “Góc sân và khoảng trời”, “Bên cửa sổ máy bay” và “Tuyển thơ Trần Đăng Khoa 1966-2000)”. Có lẽ ấn tượng quá lớn với thơ anh viết khi còn nhỏ và viết cho tuổi thơ nên có người không ngần ngại nói “Trần Đăng Khoa đã nghỉ hưu ở tuổi thiếu nhi(!)”. Tôi không nghĩ vậy. Mặc dù Trần Đăng Khoa thành công với văn xuôi và phê bình, tiểu luận, chân dung văn học qua “Đảo chìm”, “Chân dung và đối thoại”, anh vẫn có nhiều đóng góp cho nền thơ ca hiện đại, giai đoạn thơ anh sáng tác khi ở tuổi trưởng thành.
Chia giai đoạn thơ Trần Đăng Khoa sáng tác khi ở tuổi trưởng thành là tôi dẫn theo Nguyễn Chu Nhạc viết về anh in trong tập tiểu luận và chân dung văn học “Những người thắp lửa” (NXB Văn học-2009). Giai đoạn này tính từ năm 1975, khi Trần Đăng Khoa nhập ngũ phục vụ Quân đội. Anh trải qua năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ-ngụy, thống nhất đất nước và đi dọc hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam, phía Bắc, trong những năm chống chiến tranh phá hoại, rồi trở về thời bình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hơn 35 năm, Trần Đăng Khoa trải nhiều diễn biến trong cuộc đời và vị trí công tác, nhưng anh vẫn lặng lẽ sáng tác thơ, dù không ồn ào. Anh giành giải thưởng cuộc thi thơ Tuần báo Văn nghệ năm 1982, xuất bản tập thơ “Bên cửa sổ máy bay” (NXB Tác phẩm mới-1985). Anh in thơ rải rác trên các báo, tạp chí xuất bản trong nước và nước ngoài, rồi tập hợp trong “Tuyển tập thơ Trần Đăng Khoa” do NXB Lao động xuất bản quý IV-2008.
Sáng tác và in thơ không nhiều nhưng Trần Đăng Khoa vẫn tạo được nhiều ấn tượng với bạn đọc. Tôi nhớ một bài thơ của anh đăng trên báo Phụ nữ Việt Nam mà anh viết cách đây ngót 40 năm. Bài thơ “Mưa Xuân”:
“Mưa bay như khói qua chiều
Vòm cây nghe nhỏ giọt đều qua đêm
Tiếng mưa vang nhẹ khắp miền
Lòng rung như chiếc lá mềm, khẽ sa...
Sáng ra, mở cửa nhìn ra
Vẫn mưa mà đất trước nhà vẫn khô...”
Câu thơ cuối bài khiến tôi liên tưởng đến sự nghiệp sáng tác thơ của anh ở lúc tuổi trưởng thành: “Vẫn mưa mà đất trước nhà vẫn khô...”. Những giọt mưa thơ của anh vẫn thấm lòng người đọc, vậy mà bao người cứ nhắc đi nhắc lại, anh chỉ còn thơ viết cho thiếu nhi, viết thời thiếu nhi, chỉ là bóng của mình?
Tôi không nghĩ thế. Trần Đăng Khoa vẫn là cây bút thơ tài hoa khi ở tuổi trưởng thành. Không nhiều người vượt qua anh trong mấy chục năm nay khi viết về vùng đồng bằng Bắc Bộ. Có khi chỉ mấy nét thơ, anh đã vẽ ra vùng đất nông thôn miền Bắc rất gợi:
“Đường cỏ lơ mơ nắng
Mái tranh chìm chơi vơi
Vài tán cau mộc mạc
Thả hồn quê lên trời”
(Hoa Lư)
Đó là sự tiếp nối với những bài thơ viết về quê hương đồng bằng Bắc Bộ mà anh có được từ thời thiếu nhi như “Hạt gạo làng ta”, hay những câu thần “Ngoài thềm rơi cái lá đa/Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng”, hoặc “Mái gianh ơi hỡi mái gianh/Ngấm bao mưa nắng mà thành quê hương”.
Trần Đăng Khoa nặng lòng với quê hương, nơi sinh thành anh và cho anh nguồn thơ để anh trưởng thành. Trong tập thơ “Bên cửa sổ máy bay”, anh có nhiều bài thơ viết ở làng Điền Trì, xã Quốc Tuấn (Nam Sách) quê anh. Đó là những bài “Về làng”, “Thấp thoi gốc rạ”, “Mưa Xuân”, “Hồn quê”, ngay trong bài thơ lấy tên cho tập thơ của anh “Bên cửa sổ máy bay” anh cũng liên tưởng đến quê hương, nơi có người mẹ lam lũ, tảo tần của mình. Với anh, quê hương là sự vững bền, là cốt lõi tâm thức, là gốc của con người, phải từ tình yêu những người thân, quê hương mới làm nên sự nhân văn, giá trị của con người đích thực.
Từ quê hương anh đi đến mọi miền đất nước, ra nước ngoài. Ở quê người, anh lắng lòng để suy ngẫm về cuộc đời, về nhân tình thế thái, về những mối quan hệ xã hội và quốc tế. Anh từng quan niệm “Cái còn thì vẫn còn nguyên/Cái tan thì tưởng vững bền cũng tan”. Trước nghĩa trang, nơi yên nghỉ của những con người với những số phận khác nhau và anh nhìn ra xã hội với những biến đổi phức tạp qua sự im lặng vĩnh hằng:
“Người hạnh phúc và người đau khổ
Đều gặp nhau trắng toát ở nơi này
Đều dài rộng như nhau vuông cỏ biếc
Đều ấm lạnh như nhau trong hơi gió heo may”
(Ở nghĩa trang Văn Điển).
Câu thơ ngỡ tĩnh và lạnh mà đọc lên thấy động, ấm áp và rất nhân văn, khiến ta phải ngẫm ngợi nhiều. Cũng mạch suy luận ấy, trong bài “Đứng trước chùa Giải oan”, anh viết:
“Và Bụt nữa, những hình người ngơ ngác
Cái thứ đất vô tri được dựng bệ tụng thờ
Thôi hãy cứ tin cho đất mang hồn thánh
Trong sắc màu huyền ảo khói hương đưa”...
Khi sống và học tập ở nước ngoài, chứng kiến những biến cố chính trị, sự thay đổi của những giá trị xã hội, thơ của anh trở nên ưu tư và gợi nhiều suy nghĩ, liên tưởng cho người đọc. Khi đi qua Xu-dơ-đan của nước Nga, anh cảm nhận:
“Tháng năm lừng lững đi qua
Chỉ còn mấy đỉnh tháp già ngẩn ngơ
Chiều buông ngọn khói hoang sơ
Tiếng chuông ngàn tuổi tỏ mờ trong mây”.
Rồi qua Bô-rô-đi-nô anh thấy:
“Trời lặng lẽ yên bình
Mưa tuyết bay lất phất
Người thắng với kẻ thua
Giờ đều thành bụi đất”
Nước Nga có nhiều kỷ niệm với anh, đã từng “Uống rượu với người bạn Nga” cùng “ngồi dưới đất” để có “ngã thì không đau”. Nhưng đến năm 1990, trước nguy cơ tan rã của Liên Xô, ngay ở Mát-xcơ-va anh chứng kiến:
“Thời gian vẫn đi lạnh lùng, khắc nghiệt
Có kiệt tác hôm nay, mai đã bẽ bàng rồi
Bao thần tượng ta tôn thờ cung kính
Mưa nắng bào mòn còn trơ lõi đất thôi”
(Mát-xcơ-va mùa Đông 1990).
Lẽ tự nhiên ở tuổi trưởng thành và khi ngoại tứ tuần, ngũ tuần trở đi, con người ta thường hay chiêm nghiệm về cuộc đời, con người và thế thái. Có thể Trần Đăng Khoa sớm hơn, nên những bài thơ về thời cuộc của anh còn nặng tính diễn giải, chưa thật đến độ thâm thúy. Có bài thơ đã bị tự anh bóc trần ý, lộ rõ hồn cốt, khiến chúng trở thành phản ánh hiện thực, sự kiện, làm mất đi sự hấp dẫn. Ở những bài thơ ấy, bạn đọc cảm thấy anh hơi nhiều lời, những đoạn thơ lắp ghép chưa thật nhuyễn gây nên sự cọc cạch trong cảm xúc. Nhưng đi qua khu rừng rậm rạp của những diễn giải, Trần Đăng Khoa vẫn tài hoa làm nên sự lấp lánh của chiêm nghiệm, sự đúc kết mang tính triết học:
“Nào ta cạn chén đi anh
Đời người mấy chốc mà thành cỏ hoa
Biết bao thành lũy quanh ta
Nhắp đi, ngoảnh lại đã là khói sương...”
(Với bạn).
Nổi bật nhất với thơ Trần Đăng Khoa viết ở tuổi trưởng thành là mảng thơ viết về bộ đội, về cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Khác với những nhìn nhận thời niên thiếu “Cháu nghe chú đánh những đâu/Những tàu chiến cháy, những tàu bay rơi/Đến đây chỉ thấy chú cười/Chú đi gánh nước, chú ngồi đánh bi”, Trần Đăng Khoa đã là người trong cuộc, nên anh đối diện và thấy rõ sự khốc liệt của chiến tranh. Anh viết thay lời người lính ở biên giới Tây Nam trước khi ra trận:
“Có điều gì phấp phỏng thế, rừng ơi ?
Mà nghe rối cả ruột rừng, gió thổi
Ta muốn hít cả đất trời chật căng hai lá phổi
Ôi đêm nay có thể chỉ là một đêm.
Nhưng cũng có khi là cả một đời người”
(Ngày mai ra trận).
Và khi anh giải thích về sự vụng về của người lính bước ra từ chiến tranh, đã trải qua những gian khổ, hy sinh, không chỉ đối diện với bom đạn mà cả là những cơn đói và hóa chất độc:
“Nếu em biết một thời
Tôi đánh giặc dọc miền rừng nước độc
Tai quen nghe tiếng bom chứ mấy khi nghe nhạc
Bụng quen bao trận đói run người”
(Bài thơ nhỏ tặng Hoàng Thu Hà)
Di chứng của chiến tranh còn hiện trong “Cô tổng đài hải đảo”:
“Gió biển mặn mòi bạc bao màu áo
Mà cơn sốt rét rừng vẫn còn run trong da”.
Viết về người lính đi qua chiến tranh và ở trong thời bình, thơ của Trần Đăng Khoa dung dị, chưa thật nhiều hình ảnh độc đáo, nhưng anh vẫn tạo ra điểm nhấn với bạn đọc:
“Đất nước không bóng giặc
Tưởng về gần lại xa
Vẫn gian nan làm bạn
Vẫn gió sương làm nhà”
(Lính thời bình).
Hay:
“Những mùa đi thăm thẳm
Trong mung lung chiều tà
Có bao chàng trai trẻ
Cứ lặng thinh mà già”
(Đỉnh núi).
Thời bình, người lính vẫn gặp nhiều khó khăn, chịu những hy sinh, thiệt thòi khi phải xa nhà, xa vợ con và hiến trọn cả tuổi thanh xuân của mình để làm tròn nhiệm vụ của Đảng, Quân đội và Tổ quốc giao. Họ không chỉ đối mặt với khó khăn, với kẻ thù giấu mặt, mà còn chiến đấu trên mặt trận chống đói nghèo: “Cái nghèo và cái dốt/Bày trận giữa thời bình”. Không những thế, thời bình người lính vẫn xông pha ra tuyến trước, nơi biên giới, hải đảo. Đã có những hy sinh của người lính khi chiến đấu, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ, nơi biên giới, biển, đảo của Tổ quốc. Rất nhiều bài thơ Trần Đăng Khoa viết về bộ đội Trường Sa, về người lính Hải quân khẳng định sự phong phú của anh ở mảng đề tài này.
Người lính trong thơ Trần Đăng Khoa hiện lên sinh động và rất lãng mạn. Trước khi ra trận, họ vẫn thấy “Vầng trăng đêm nay cứ vằng vặc ngang đầu”. Khi làm nhiệm vụ bảo vệ biên giới:
“Lán buộc vào hoàng hôn
Ráng vàng cùng đến ở
Bao nhiêu là núi non
Ríu rít ngoài cửa sổ”
(Đỉnh núi).
Người lính không thể lãng mạn hơn với hình ảnh thơ của Trần Đăng Khoa:
“Bỗng ngời ngời chóp núi
Em xoè ô thăm ta?
Bàng hoàng xô toang cửa
Hoá ra vầng trăng xa.”
(Đỉnh núi).
Trần Đăng Khoa có duyên và rất dí dỏm, hóm hỉnh trong viết văn xuôi, phê bình và chân dung văn học, trong thơ anh không đánh mất đi điều đó, thậm chí đó là đặc sản của thơ anh, nhất là khi viết về người lính. Khi anh kể về buổi sinh hoạt văn nghệ của lính đảo, đọc thơ anh ai cũng tự mỉm cười:
“Sân khấu lô nhô mấy chàng đầu trọc
Người xem ngổn ngang cũng rặt lính trọc đầu.
...Thôi lặng yên nghe có gì đang sóng sánh
Hoá ra là sư cụ hát tình ca”.
...Điệu tình ca cứ ngân lên chót vót
Bỗng bàng hoàng nhìn lại phía sau
Ngoài mép biển người đâu lên đông thế
Ồ, hoá ra toàn những đá trọc đầu...”
(Lính đảo hát tình ca trên đảo).
Chính sự hài hước, hóm hỉnh đã tạo niềm tin, lạc quan cho người lính, kể cả khi khó khăn, gian khổ nhất. Trần Đăng Khoa thể hiện điều đó qua bài thơ “Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn”:
“Ôi ước gì được thấy mưa rơi
Mặt chúng tôi ngửa lên như đất
Những màu mây sẽ thôi không héo quắt
Đá san hô sẽ nảy cỏ xanh lên
Đảo xa khơi sẽ hóa đất liền
Chúng tôi không cạo đầu để tóc lên như cỏ
Rồi khao nhau
Bữa tiệc linh đình bày toàn nước ngọt”.
Rồi sau những diễn biến thời tiết, diễn biến của ước mong, từ háo hức đến phải đón nhận sự thật phũ phàng vì trời không có một giọt mưa:
“Dù mưa chẳng bao giờ đến nữa
Thì xin cứ hiện lên thăm thẳm cuối chân trời
Để bao giờ cánh lính chúng tôi
Cũng có một niềm vui đón đợi...”.
Thơ viết về người lính của Trần Đăng Khoa không cầu kỳ, có thể là mộc mạc, nhưng đằm trong lòng người đọc. Từ sau năm 1975, có nhiều nhà thơ viết về đề tài chiến tranh cách mạng và người lính, nhưng viết về người lính thời bình, đặc biệt là về Trường Sa và Bộ đội Hải quân, Trần Đăng Khoa là một trong số ít nhà thơ đã lĩnh ấn tiên phong và có nhiều thành công. Anh đã từng là người lính, sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, mong rằng nhà thơ Trần Đăng Khoa tiếp tục quan tâm, dành thời gian đầu tư sáng tác và bạn đọc chờ những tác phẩm mới của anh về đề tài người lính, cả trong chiến tranh trước đây và trong thời bình./.
Hà Nội, Giỗ Tổ 2011
Nguyễn Đình Xuân
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.04.2011 22:37:29 bởi nhathoquandoi >