Chào anh Liệt!
Lâu lắm không lên diễn đàn, hôm nay vô tình đọc thư anh muốn gửi cùng anh vài lời chân tình.
Năm 2005, em cũng tham gia gửi cuốn truyện vừa có tên " Nan trần" đi tham gia cuộc thi Văn học tuổi 20, lúc đó mới 22,23 tuổi, khi viết cuốn này nghĩ thì lâu nhưng mãi gần ngày thi mới hùng hục viết ( cả ngày cả đêm) mất 20 ngày được gần trăm trang gửi theo kiểu cầu âu, vì lúc đó em cũng mới chỉ có vài truyện ngắn đăng báo văn nghệ tỉnh thôi. Bất ngờ, khi người của Ban tổ chức gọi thông báo truyện của em đã lọt vào vòng chung khảo ( có đâu 27 tác phẩm ), vui quá và hy vọng nhiều rồi lại thất vọng vì không lọt được vào vòng trao giải ( năm đó có 7 giải). Từ độ đó đến nay, em do công việc, do nhiều cái chi phối nên không viết được cái truyện nào nữa. Hầu như lúc này chỉ viết bài gửi báo, mỗi tháng cũng chỉ được vài trăm ngàn gọi là thêm tiền mua sữa cho con thôi.
Đọc thư anh, thấy anh viết được là mừng rồi. Tuy vậy, ai viết lách chẳng có hoài bão, cũng muốn " làm trai phải lạ ở trên đời, há để càn khôn tự chuyển dời". Tuy nhiên, theo em tuy mới đọc một số truyện của anh thôi nhưng em nghĩ anh viết khá khoẻ và nhanh, tuy vậy có lẽ anh cần để tâm tĩnh tại hơn, tập trung viết về một vấn đề gì, một chủ đề gì nó rõ ràng hơn, đi vào cuộc sống hơn và cần sự trau chuốt hơn. Anh thử nghiền ngẫm lại xem những truyện trên báo, in thành sách và truyện của mình có cái gì khác biệt, có cái gì mình chưa đạt được như họ... biết đâu mình lại tự ngộ ra được cái gì mới, ngộ ra con đường đi mới chăng.
Còn nói chuyện bỏ văn chương, cũng giống như em trước đây từng nói với bạn gái. Cô ấy nói lại:" Nếu bỏ viết văn cậu chỉ là người bất đắc chí". Nó có lẽ là cái nghiệp rồi.Anh thích thì bỏ, thích thì giữ đều tự bản thân anh hết, chả ai cấm cản hoặc khuyên bảo này nọ được.
Em gửi anh bài viết nhỏ của em:
Nợ văn
Một hôm, ngồi đăm đăm chiêu chiêu, bỗng giở mấy bài của ông Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan viết về đời mình ra đọc; đọc xong càng thêm đăm chiêu, rồi bứt rứt, rồi ngứa ngáy chân tay, ở trong lòng có 1 cái gì cứ muốn thoát ra ngoài, trào ra ngoài. Vơ lấy 1 tờ giấy trắng. Ngồi xuống bàn - đầu tiên là cứ phải ngồi xuống bàn đã. Viết cái gì nhỉ? Một mớ những luồng tư tưởng chạy loạn xạ trong đầu, hỗn độn như thời sơ khai của vũ trụ. Bắt đầu nghĩ tới những việc đời mình trải qua, rồi nghĩ tới những con người mà mình đã gặp, rồi nghĩ tới những người hàng ngày sống quanh mình. Nhưng vẫn chưa thấy cái gì rõ ràng ra. Thấy cái người kia có vài điểm hay hay, thấy cái bà này số phận trắc trở. Mừng quá, gom tất cả lại vào 1 chỗ. Rồi bắt đầu lại một quá trình khác. Vận dụng tất thảy những gì về lý luận mình đã được học. Nhồi cho ông kia tư tưởng này, quan niệm nọ. Nhồi cho bà kia tính cách này, tư tưởng khác. Rồi đổ nháo nhào vào 1 cái thùng. Quậy tơi bơi lên, rắc thêm tí nhân văn, cho thêm chút nhân bản, rồi điển hình, rồi tố cáo, rồi .... xem chừng đã hòm hòm.Mới đổ ra khuôn.
Giờ bắt đầu đọc lại từ đầu. Đọc lại từ đầu chợt ớ hớ ra, hình như cái này mình viết hôm kia, hay hình như tuần rồi mình vừa viết. Thấy nó mang máng của mình, thấy nó mang máng của ai. Càng đọc càng bực mình. Tống luôn vào thùng rác.
Lại bắt đầu lại từ đầu. Đăm đăm chiêu chiêu. Muốn giở 1 quyển sách ra mà chữ nghĩa mỗi lúc đọc mỗi lúc càng thêm rối rắm. Tự nhiên nhớ đến ngày bé. Ngày thơ dại lắm hoài bão lắm. Tôi chắc chắn 90% những anh nhà văn, những chị nhà thơ khi bắt tay vào cái ngạch này ai chẳng từng mơ mình sẽ là Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyễn Tuân hay Tố Hữu, Xuân Diệu. Thì ai chẳng mơ thế. Mà có mơ thế mới viết được chứ.
Nhà văn là những người ưa mơ mộng - gọi là đa sầu đa cảm.
Mơ mộng nhiều - nào là buổi đầu tiên nhận 1 nụ hôn nồng nàn của người yêu.
Nào là lúc run run đón bài viết đầu tiên được báo đăng.
Rồi những khung trời xa lạ.
Những ngày tháng viễn du
Những góp nhặt cho đời
Những tên tuổi lưu truyền
Ai chả thế. Tôi thì chắc chắn thế.
Mơ mộng nhiều quá, thành thử đến cả cái chết cũng mơ.
Mơ về cái chết như thế nào nhỉ? Ai lại bắt chước Êxênin, tự cứa mạch máu tay mình. Dã man. Ngang mổ gà không bằng.
Cứ trèo lên một chỗ đứng thật cao. Thả nhào xuống. A! Ta được bay nhé, bay như chim nhé. Có một chú chim sửng sốt bởi người bay cứ đứng gãi mãi cái đầu. Thích quá. Chết thích quá.
Nhưng mấy ai dám thả nhào xuống từ cái chỗ đứng cao vòi vọi ấy.
Tự nhiên thấy tâm trạng mình giống đám mây phiêu dạt trên bầu trời quá. Nhưng mây còn có trời bầu bạn. Chứ người thì chỉ có văn thôi. Không viết được nó ra thì chẳng lẽ gửi đến ban biên tập tờ giấy trắng. Tờ giấy trắng thực cũng chứa đựng nhiều lắm lắm những u uẩn trong tâm hồn mà chẳng biết từ chỗ mô tê nào gửi vào hồn, gửi vào óc lũ người chúng tôi. Nhưng biên tập không phải là Chung Tử Kỳ, mà Chung Tử Kỳ cũng phải nhờ tiếng đàn mới đồng điệu cùng Bá Nha, mà thấu hiểu Bá Nha. Vậy thì không gửi giấy trắng được. Thế thì lại phải viết. Nhưng mà viết cái gì. Lại lôi ông có râu kia ra, bà có tóc này lại, tô vẽ thêm một tí. Đặt thêm những hoàn cảnh trớ trêu, những tình huống giả định mà sao cho tự nhiên, sao cho độc giả đọc mà không biết bị lừa, thôi thế cũng là văn rồi. Chỉ khổ thứ văn này đọc lên chua lòm, không ngửi được. Lại quẳng bút, ngồi ngẩn ra như thằng lên đồng.
Bỗng nhớ ngày trước, đọc những truyện rải rác trên báo, thấy chúng cứ thế nào. Ý dồn vào phía trong như cái nhân bé tẹo của nhà nào gói bánh chưng nghèo. Toàn thị bánh, nhai mãi phát ngán, thèm được cắn một miếng nhân thơm ngậy mỡ, thơm lành đỗ. Anh chàng nhân thì xa lắc xa lơ mà anh hình thức để diễn đạt tất cả cái anh nhân bên trong ấy ra thì ngọng lúi ngọng lơ, đọc như văn học trò. Lắm lúc ngứa tay muốn viết, lại chưng hửng bởi cái ám ảnh:" nhà văn là phải có kinh nghiệm sống và tài năng". Mình thì chẳng có tài, kinh nghiệm thì cũng không có. Biết viết cái gì?
Đợi đến lúc tập tọng vào nghề viết, đọc thử mấy bài mình viết mới bổ chửng ra. Ô hay, sự hoàn thiện mà mình khao khát của cái bánh chưng thơm ngậy nhân hòa với gạo, với mùi lá dong, lá dừa đặc trưng đâu cả rồi. Trơ ra là mấy cái xác chữ, thịt văn. Mấy cái thứ mà người ta phải vắt óc ra mà đọc, mà cố cảm nhận cũng chẳng được bao lả tinh anh, hồn phách. Lại nhớ xưa, hão huyền mơ ước: Văn tôi không cần trí thức đọc, văn tôi sinh ra để cho nhân dân đọc. Thà được 10 triệu người nông dân ít chữ đọc còn sướng hơn 1000 anh trí thức đeo đít kính dày cộm, đọc qua quít như 1 thứ bình luận bóng đá.. một thứ giải trí, rẻ tiền. Để đến bây giờ thì sao, đâu rồi những câu chữ lấp lánh sắc màu với những hình tượng rực rỡ, cảm hứng lộng lẫy, chữ ẩn trong chữ, văn mê trong văn.
Bỗng nhớ đến bài viết của ông Nguyễn Khải về cái độ thần của ngòi bút:" Đã đạt đến cái thần của nó tức là đã phá bỏ được mọi điều ràng buộc, là người tự do hoàn toàn vì không còn gì có thể ngăn trở giữa mình với cái đích. Viết như chơi như bời mà văn chương vẫn như mây như sóng, không còn thể loại, không còn chữ nghĩa, không còn cả mình với người, riêng với chung, to với nhỏ, cao với thấp, bi với hùng. Tất cả đã trở thành 1 khêu gợi, lấp lánh huyền ảo mỗi lúc mỗi khác, mỗi tuổi đọc mỗi khác, như chính nó đã là hiện tượng của tự nhiên, mãi mãi tồn tại cùng với sự sống".
Than ôi! Làm nghề được như thế trăm năm may chừng có độ một, hai người.
Nhưng, con người ta đích thực là một giống vật cao quý nhất. Bởi, nó không bao giờ chịu dễ dàng khuất phục trước khó khăn nào. Khi mà mục đích đã có. Khi mà vẫn còn tràn trề sức lực, tâm hồn tuy cũng có lúc buồn rầu nghĩ đến cái buồn rầu của cái nghề mà mình sắp theo đuổi nhưng vì buồn rầu quá lại hóa thành vui. Vui vì cảm nhận cuộc sống mình không vô nghĩa khi đứng bên cạnh, bước trên cùng đường phố với những con người có nghĩa, hay những con người đang đi tìm nghĩa của đời mình.
Và nhờ đó, trái tim tôi chưa bao giờ thất vọng.
28/3/2001