clietc
-
Số bài
:
217
-
Điểm thưởng
:
0
- Từ: 28.01.2009
|
RE: Y Phục Triều Nguyễn.
-
26.01.2011 08:16:26
III Mấy ngày qua, Trương Vĩnh San thấy mình cũng phần có giảm trọng lượng, việc đó làm cho cô khấn khít hơn là trở thành người mẫu như Thanh Nhã mong muốn. Cô luyện tập là vì chìu chuộng Thanh Nhã hơn là mơ mộng trở thành người mẫu thời trang. Trương Vĩnh San thấy Thanh Nhã kỳ vọng vào mình nhiều việc quá cũng đâm ra lo. Tuy thấy Thanh Nhã có lúc kỳ cục nhưng cũng thương thương "người ấy", tuổi học trò mới lớn ai chiều chuộng thường dễ để lòng. Mỗi sáng Trương Vĩnh San lắc vòng hết sức tích cực, nhưng con đường từ một cô gái quá cỡ trở thành người mẫu thời trang là chuyện dài đằng đẵng. Không biết sao Thanh Nhã một hai buộc công chúa của mình phải cố gắng giảm cân, phải đi con đường "chông gai" là trở thành người mẫu và đâm ra dỗi hờn nếu như Trương Vĩnh San không chịu chơi thể thao. Khẩu phần ăn cũng có những thay đổi khá lớn, gần như là cô chỉ ăn chay...Kiểu này cô thành Phật khi nào không hay. Sẵn dịp, cô van vái cho mình học được tới nơi tới chốn và không quên xin thêm được người yêu thương mình đeo đuổi suốt đời...Cô cũng rầu mình là người quá cỡ, sợ mai này không được như chúng bạn. Lúc đầu không quen ăn uống kham khổ nên dễ đau đường ruột, rồi cũng có bữa bị tiêu chảy. Xót ruột, mẹ của Trương Vĩnh San báo cho Thanh Nhã biết làm cô sượng sùng. Còn Thanh nhã vỗ tay như trúng ý nào đó của mình, nói là có bị đi "re re" như vậy mới mau hết mỡ...Thiệt là hết sức, mẹ của Trương Vĩnh San bận bịu nuôi nấng năm đứa con gái, trách móc rồi mặc cho Thanh Nhã chỉ bảo gì đó thây kệ hai đứa...Dù sao thì cả hai cũng đã lớn rồi. Một thân một mình bán xôi để nuôi năm đứa con gái ăn học quả là một kỳ công, ấy vậy mà bà còn cho là mình có lỗi với chồng không sinh được thằng con trai nào, chồng bỏ đi là phải. Năm đứa con gái thường được ví là Ngũ Long Công Chúa, nên việc Trương Vĩnh San được gọi là công chúa không ai thắc mắc. Tiền nhà trọ mới đó mới đây đã tới tháng, rồi tiền điện tiền nước. Đặc biệt là học phí nhưng bà xoay trở không đứa nào phải nghỉ nửa chừng. Thực sự, các con bà cũng không biết sao bà xoay trở được, chẳng đứa nào dám thắc mắc. Đến tuần sau, mẹ của Trương Vĩnh San đón ông nội lên chơi, nên nghỉ bán một ngày. Ông cười ngặt nghẽo khi thấy mấy cháu ra chào mừng, nhưng có lẻ vì thấy mẹ oán trách người cha bỏ chúng nên cả ông chúng cũng chỉ qua quít. Thật ra, chúng cũng biết có chút phân biệt tình cảm mà ông thiên vị với Trương Vĩnh San, như có bí mật nào đó mà chúng không thể nào biết được. Vừa đến nơi, ông liền hỏi ngay: - Con thương con Vĩnh San nhiều không? Sao để nó mập ú quá, coi chừng không thọ được lâu đó. Mẹ của Trương Vĩnh San không trả lời liền, chỉ xua mấy đứa nhỏ đi nơi khác. Đợi khi mấy đứa ra ngoài, hai người có phần rón rén riêng tư điều gì đó. Vào thời gian mười mấy năm trước, có một sự việc làm cho hai người không thể phai nhoà trong ký ức. Ông Trương Vĩnh Sinh ở vùng Cái Mơn, Bến Tre đi nghỉ mát ở Vũng Tàu. Một hôm mang về một người con gái trẻ hơn mình nhiều tuổi, vì vợ ông mất sớm nên người ta đồn thổi là ông đi bước nữa. Chuyện đó không có gì ầm ĩ, nhưng vấn đề là cô gái ấy trẻ quá, lại thêm đang mang bầu mấy tháng. Chuyện chưa tường tận thế nào, thằng con trai ông lén lút tư tình, rồi chung sống như vợ chồng mà không có cưới hỏi gì cả. Làng xóm nhức đầu, cho là cha ăn rồi thằng con đốp, sao giống Võ Tắc Thiên là thiếp của vua cha mà thằng con cũng tìm cách hưởng. Chắc cũng giống như vậy, thể nào ngày nào đó cha con chết sớm ắt đất đai về tay đứa con gái đó. Lúc đầu hai vợ chồng rất hạnh phúc bên nhau, không tính Trương Vĩnh San là con ai. Hai vợ chồng có với nhau thêm bốn đứa con gái nữa, mà không có lấy một mụn con trai nào. Mấy đứa nhỏ càng lớn càng bị hỏi dồn dập: " Ê! mày là con của thằng nào". Tụi nó ngây thơ trả lời là ba Thành, nhưng mọi người cắc cớ, lại hỏi : "Phải không đó?". Ám chỉ ông nội có phải là ông hay là ba?? Thời buổi kinh tế khó khăn, lại thêm những lời dị nghị ở làng quê cho là "cha làm con chịu" họ không tha thứ. Hai vợ chồng quyết định lên Sài Gòn mướn nhà trọ sinh sống, nhưng thói đời đàn ông hay mèo mỡ. Đi làm hồ rày đây mai đó ở tỉnh Bình Dương, vớ được con nhỏ bán cà phê trẻ trung sinh được đứa con trai, rồi bỏ đứt mẹ con Trương Vĩnh San bán xôi hết sức vất vả. Ông Trương Vĩnh Sinh cúi mình năn nỉ, ông nói lỗi do mình không biết dạy con, rồi móc sấp tiền để trên bàn có hơn chục triệu đồng xem như chuộc lại chút ít lỗi lầm. Mẹ của Trương Vĩnh San mặt mày đỏ ửng, gặp tiền rất muốn lấy nhưng còn giả vờ: - Trước đây, ba đã đem con về nhà cưu mang...Coi như, con đã chết được hồi sinh lại. Giờ ba còn giúp cho con số tiền lớn thế này, con nhận thật không phải... Thấy người mẹ cứ rụt rè e ấp, người nghiên nghiên chẳng dám nhìn thẳng sấp tiền. Ông Trương Vĩnh Sinh thẳng thắn lại bàn, đem tiền dúi vào bàn tay người đàn bà đẹp. Ông nói: - Con hãy cầm tiền này lo cho con cái, nhất là con Trương Vĩnh San. Đó là đứa mà ta đặc biệt ưu ái, cố lo cho tới nơi tới chốn, kẻo công cán đổ sông đổ biển. Nhắc đến Trương Vĩnh San, người mẹ có vẻ mắc cỡ hơn, không biết có nên nhắc lại chuyện xưa hay không, rồi cúi thấp người như sẵn sàng chịu trận. Còn Trương Vĩnh San tưởng như được ông cưng chìu hơn những đứa khác trong nhà, đúng lý ra cô phải nồng nhiệt chào mừng ông tới thăm. Cô lạnh lùng qua quít vài câu, tỏ thái độ bực bội hơn là niềm nở, lúc đó cô muốn gọi Thanh Nhã tới nhà. Cô lúng túng định đi tìm nơi điện thoại công cộng, nhưng cũng không muốn bỏ đi mà rình xem chuyện gì. Hồi nhỏ, nghe hàng xóm dị nghị và giờ khi ba cô bỏ đi thì ông lên thăm là sao?- Trương Vĩnh San cho như vậy là ô nhục, cô rất buồn phiền vì tuổi mình bắt đầu hiểu chuyện người lớn. Mẹ của Trương Vĩnh San cứ thấy con gái lảng vảng, liền sai đi nấu nước cho ông rửa chân: - Mẹ nấu đi...Con không biết. Nước nóng sơ ý, phỏng mình thì sao... Người ông nghe giọng cằn nhằn, cảm giác như mình là người gây phiền: - Thôi con, sai biểu mấy đứa nhỏ làm gì. Mặc cho ta... Mẹ của Trương Vĩnh San ngồi im lặng. Một lúc thì nghe có tiếng của Thanh Nhã phía ngoài, líu nhíu gì đó với Trương Vĩnh San. Cô nàng có vẻ mừng vì có người tới nhà trọ, rồi đẩy vào lưng xô Thanh Nhã vào trong: - Sáng con không thấy bán xôi, bận phải nhanh xuống trường mượn tài liệu photo...Con sắp làm luận án tốt nghiệp, rồi nhanh về ghé đây hỏi thăm. - Cô nghĩ là con mừng mới đúng chứ! Ăn xôi hoài phải nghỉ thở một bữa chứ...Nè ! Nghe cô dặn nè, hôm nay có ông nội của tụi nó ghé chơi, không khéo ông hay la rầy... - Dạ! Thưa chào ông ạ...- Thanh Nhã cỡi giày lễ phép chào hỏi, rồi chờ nghe phán. - Dạ! Thưa ba...đây là bạn trai của con Vĩnh San... - Cái gì! Con San còn học mà có bồ... - Dạ không phải, ở trên này tụi nó có bạn trai là bình thường...Còn yêu đương thì chưa đâu. Ông của Trương Vĩnh San có vẻ bất bình không nói nữa. Ông quay mặt nơi khác, tựa như không thích Thanh Nhã cho lắm. Thanh Nhã mang ghế ngồi gần, cố gắng khoe mẽ mình biết chút ít về lịch sử: - Ông ơi! Mình ở đây có liên quan gì với dòng họ Trương Vĩnh Ký không hở ông... - Mình là ai...Là cậu à? - Dạ dạ không phải...Ý con là, Trương Vĩnh San có đặc thù mấy chữ đầu Trương Vĩnh...Dạ, con muốn hỏi cho biết. Ông Trương Vĩnh Sinh lắc đầu, ý không muốn trả lời với người ngoài nhiều chuyện: - Không có ạ! Vậy là hay rồi...Con biết Trương Vĩnh Ký là một học giả nổi tiếng thời Pháp đô hộ, nhưng có người nói ông ấy là gián điệp của Pháp... Từ đầu, ông Trương Vĩnh Sinh không muốn tiếp chuyện với Thanh nhã. Ông trả lời cho xong nhưng vô tình Thanh Nhã gây hấn. Ông đứng lên, bước lên nắm cổ Thanh Nhã ra mà lắc qua lắc lại: - Thằng nào nói...Tụi bây học lịch sử ở đâu mà hay vậy. Trường tụi bây dạy như vậy à, ăn học như cái ngữ tụi bây lại được trao trách nhiệm giữ gìn đất nước sao? Thanh Nhã mặt mày xanh trành, bất ngờ bị tấn công tới tấp không biết đầu biết đũa, lại không biết vì sao ông nội Trương Vĩnh San nổi điên, cứ nghĩ mình nói chưa hết nên cố bồi thêm: - Dạ! Học giả Nguyễn Đắc Xoan tìm thấy lá thơ ở phòng Nhì Pháp ạ! Dạ...dạ, nội dung lá thơ là thế này ạ... Thanh Nhã hít một hơi, như thuộc làu làu từ khi nào đọc to rõ: - "Tôi vừa minh chứng xong cho các nho sĩ thấy rằng nước An Nam không thể không cần đến nước Pháp, càng không thể chống lại nó được, phải tay trong tay cùng đi, không hậu ý và chúng ta nên chụp ngay lấy những hảo ý nảy nở trong chúng ta, của một người như ngài chẳng hạn". Đó là bức thư của Trương Vĩnh Ký viết cho ngài Paul Bert. Ông còn vài đoạn như sau: "Tôi sẽ trấn áp tất cả các hảnh thần và bao vây nhà vua, tôi sẽ kiếm những người thật sự có khả năng cho Viện Cơ Mật". Ông của Trương Vĩnh San nghe đọc đoạn thư đó, như người bệnh tim. Ông ngồi bệt xuống ghế, tay đưa lên ngực thở hỗn hển: - Ta có nghe người ta nói đến lá thư đó...Thế nhưng, người ta nhìn với trí khôn khác thường thời bây giờ, rồi đem so đo với ông của ta. Nói nghe, ngươi có biết học giả Nguyễn Đắc Xoan lại là người có mặt trong cuộc tàn sát đồng bào hồi Tết năm Mậu Thân 1968 không? Ông ấy là người của Cách Mạng, ám chỉ ông của ta là người câu kết với thực dân Pháp nhưng thử hỏi thuở đó không có ông của ta, bọn thực dân Pháp không chiếm nước An Nam à? - Cái đó thì con không rành lắm, mấy học giả nói lại thì nghe theo thôi...Con chỉ vô tình nói ra. - Nhưng tụi bây nói không suy xét, nói đúng ngay ta là hậu duệ của nhà họ Trương. Ta phải biện minh cho nghe, để thôi nghĩ là muốn nói qua quýt rồi tự hào là người hiểu rõ ngọn nguồn. Thường, con người ta khen chê nghe thì dễ, nhưng mấy ai làm được như ông của ta. - Trương Vĩnh Ký được Pháp nuôi từ nhỏ, được cha đạo cưu mang, được cho sang Nông -Pênh, được đi Malaysia...Ai được như vậy không giỏi sao được... - Hình như mày là thằng nhải ranh, cái gì cũng biết hết. Thế thì, ngươi có biết là thuở đó chỉ mình ông của ta được cưu mang sao? Nhiều vô kể và người Pháp muốn đào tạo để về phục vụ lợi ích cho Pháp. Ông của ta nếu không phải là người trí tuệ siêu phàm, thử hỏi bây giờ người ta có kết tội cho không? Còn một chuyện mà người Việt mình hay mắc phải, đó là cứ thấy là một học giả, thì bổng bắt người ta phải là người cầm cân nẩy mực không khác gì một vị thuộc Đấng Tối Cao, mọi việc đều phải am tường cả. - Nghĩ cũng phải, Pháp cũng đã chiếm miền Nam làm thuộc địa rồi, không tránh được việc xâm chiếm thêm miền Bắc và miền Trung... - Ông của ta có nhiều công tích mà ít thấy ai nói, giả như đem giống cây trồng chỉ có bên Xiêm. Như dừa Xiêm, chuối Xiêm, vịt Xiêm, mảng cầu Xiêm...vân vân và còn nhiều thứ khác nữa. Nhưng đặc biệt nhất là Chữ Quốc Ngữ, ông của ta là một trong những người sáng chế ra chữ Nôm sang chữ La-tin... - Hỏng dám đâu...Mấy trái cây ông vừa kể thì con đây còn tin, chứ chữ viết thì con nghĩ khác... - Cái gì...Ngươi là người ngộm thế nào mà phán xét. - Bởi vì ông là người lớn, nếu ông cho phép con nói "tay đôi" thì con nói. Bởi vì cứ áp chế mấy đứa nhỏ hoài, tưởng là tụi nó không có suy nghĩ sao được... - Ngươi nghĩ sao? Nếu mà nói bừa nói ẩu thì đừng trách ta là người lớn áp chế... - Con không biết là mình có nói bừa nói ẩu không? Nhưng con nghĩ Chữ Quốc Ngữ (chữ Việt Nam bây giờ), nó có từ thời Hán Cao Tổ- Thanh Nhã thấy ông của Trương Vĩnh San trợn mắt nhìn mình, tranh thủ ông uống ngụm nước trà thì lẹ làng giải thích- Ông coi tài liệu đi, thời Hán Cao Tổ đã có tàu con buôn của phương Tây tới. Lúc đó tàu phương Tây, cũng như tàu La Mã sang Ai cập vậy...Ông hãy hình dung như thế này, giữa hai người giao thương buôn bán, chỉ diễn tả tay chân thôi là không đủ. Một món hàng anh bán cho tôi ưng ý, cần thiết ghi nhận lại để lần sau biết chỗ lấy hàng (vì hàng anh này có lời hơn hàng anh kia). Việc ghi nhận đó còn truyền lại đời con cháu, vì tàu buôn bán của người châu Âu ngày xưa cũng có tính gia truyền. Theo nhiều tài liệu, việc giao thương của nguời châu Âu đến Trung Quốc đã có từ đời Hán Cao Tổ. Giữa nguời buôn bán với nhau, cần có sự đánh dấu hoặc ghi nhận lại các loại hàng giao dịch. Một bên là chữ tượng hình, một bên là chữ La-tin. Từ sự phiên âm đó, mà hình thành một dạng chữ trung gian, có thể hiểu đó là một dạng “thủy tổ” của Chữ quốc ngữ. Đến đời Đường, cũng có rất nhiều tài liệu khẳng định người phương Tây đến Trung Quốc, mà hễ có giao thương là có sổ sách, mà hễ có sổ sách thì phải có sự ghi nhận: Tiếng La-tin phiên âm tiếng Hán. Làm sao đó để đọc chữ Hán, người phương Tây cố ghi chữ lại đọc càng giống càng tốt. Phố Hiến vào đời Lê của Việt Nam, cũng có nhiều lần tàu bè người phương Tây ghé trao đổi buôn bán. Một nơi cũng dùng chữ Hán như người phương Bắc, cũng viết chữ tượng hình và âm giống như vậy thì tại sao không lấy chữ phiên âm đã dùng trước đây ra mà dùng. Đến đời Lý hoàn toàn dùng chữ Hán, và cũng có những người phương Tây đến giao thương. Vậy nên chữ phiên âm càng lúc càng nhiều, và người buôn bán giỏi phải có sổ sách. Phải chăng, Alexandre de Rhode đi theo tàu buôn đến Trung Hoa và Việt Nam truyền đạo, đã thấy được kiểu chữ phiên âm đó có lợi. Ông đã cho ra một loại tự điển để dễ bề giao tiếp, chứ không ai vừa sáng tạo chữ vừa làm ra tự điển liền. Chữ nghĩa cũng phải theo âm ngữ và nghĩa của địa phương ấy nữa, đã được sử dụng nhuần nhuyễn từ lâu. Không ai có thể sáng tạo một chữ mới rồi ép người ta nghe theo được. Nhất là các cha đạo, đã là người phương Tây nói tiếng Bồ Đào Nha mà thêm chữ mới sáng tạo lạ hoắc lạ huơ ai mà nghe. Dứt khóat đã có sự ghi nhận tiếng phiên âm từ lâu rồi, nếu muốn truyền đạo thuận tiện hơn thì nên phổ biến rộng rãi cho mọi người cách dùng và Alexandre de Rhodes đã là người làm ra tự điển “tiếng phiên âm” ấy đầu tiên, chứ không phải là người sáng tạo ra chữ quốc ngữ. Chữ quốc ngữ là kết quả của sự giao thương của người phương Tây và phương Đông, chắc chắn có giao dịch thì có phiên âm và bây giờ người ta cũng thấy nhiều người vẫn làm như vậy: Người ta đang dần thống nhất cách đọc bằng chữ phiên âm quốc tế đó...Cho đến lúc xảy ra chiến tranh giữa vua Quang Trung và Nguyễn Ánh, với sự trợ giúp đắc lực của Bá Đa Lộc và đây là thời kỳ Chữ Quốc Ngữ được phô diễn cùng theo sự chiêu mộ quân lính. Tựa như đồng nghĩa với việc theo vua và theo Chúa, cả miền Nam dần ủng hộ theo dòng giống nhà Nguyễn, vì vậy họ cũng dần theo đạo KiTô. Ai theo đạo ít nhiều phải đọc kinh thánh, mà muốn đọc kinh thánh chỉ duy nhất có chữ phiên âm ấy mà thôi. Như Vậy, theo đà thắng lợi của triều Nguyễn và đạo Thiên Chúa, Chữ quốc ngữ cũng theo đó mà phổ biến thêm rộng khắp với nhiều nhà dân theo Đạo. Có lẻ, sau khi Bá Đa Lộc mất chữ quốc ngữ tạm lắng xuống mà chỉ để tâm đến chiến trường đang thắng lợi. Nguyễn Ánh chiến thắng và lập ra nhà Nguyễn, triều đình vẫn dùng chữ Nôm nhưng thực ra ở ngoài người theo đạo thiên Chúa vẫn đang cầu kinh hằng ngày, chữ phiên âm ấy vẫn như được ôn luyện. Lúc nhà bác học Trương Vĩnh Ký ra tờ Gia Định Báo mà cho là tự sáng chế ra chữ, chắc là tờ báo ấy chỉ có ông ấy đọc, không rộng rãi trong dân chúng thì tờ báo đó bán ai mua. Còn Pháp chiếm nước ta mà nghĩ được ra chữ viết đó thì cũng đội ơn, người Pháp chẳng thèm mải mai đến chữ viết mới lạ đó. Nếu họ có chủ trương thì ở AnGiêri hoặc Cameroom cũng có chữ viết La tin rồi...Nói chung Chữ Quốc Ngữ hình thành từ việc giao thương và từ thời xa xưa lắm rồi. Học giả Trương Vĩnh Ký chỉ góp phần làm cho nó kiện toàn mà thôi... Ông của Trương Vĩnh San ngồi nghe mà mắt thì mở to, ngạc nhiên. Ông gật gù cũng có mà lắc đầu cũng có. Ông cũng muốn Thanh Nhã nói để xem tụi nhỏ bây giờ biết được gì nào? - Cái gì mình nói cũng phải có minh chứng...Nói dễ như ngươi thì ai nói không được- Ông hớp ngụm nước trà, rồi gật gù- Xét ra thì cái lý ngươi cũng có phần đúng, nhưng ít ra phải là người có tên tuổi nói người khác mới nghe. - Con cần gì tên tuổi...mà ông cũng lạ là không ào ào bắt phải nín bặt, chứ mấy người con gặp, bắt học sinh học lịch sử không cho nghi ngờ. Học như vậy chán thấy mồ, có nghi ngờ mới thú vị... - Hồi nảy ngươi đòi ta nói chuyện "tay đôi", nên cũng muốn thử xem sức học của ngươi thế nào. - Đó ông thấy chưa? Con cũng đâu phải tay vừa. Ông biết con cũng giỏi, thành ra con có quen Trương Vĩnh San xét ra ông phải hãnh diện mới đúng. - Mồ tổ cha ngươi chứ hãnh diện, toàn ăn nói bậy bạ...Ta mới vừa có lời khen là ngươi ưỡn ngực ra. Chẳng qua là ngươi đưa ra những chuyện lạ hoắc lạ quơ nên ta mới chú ý, thực ra những gì ngươi nói ta nghe toàn những điều tào lao... Lúc này, mẹ của Trương Vĩnh San thấy căng thẳng nên ra hiệu cho Thanh Nhã ngưng tranh luận, dù sao lịch sử đâu đâu nói hoài bà có khỏi bán xôi không. Còn Trương Vĩnh San thì ra vô không biết làm gì, cô tìm cho mình một sợi dây khá chắc chắn, ra trước nhà treo lên mái hiên. Trương Vĩnh San cột thật chắc vào, định đưa người lên đó đu đưa thử. Thanh Nhã liếc thấy hết hồn, cứ nghĩ là mình phô trương kiến thức làm phật lòng ông. Trương Vĩnh San buồn rầu treo cổ, nên lật đật chạy ra ngoài quì gối: - Công chúa!- Thanh Nhã ôm hai chân, làm Trương Vĩnh San không tiếp đất được- Công chúa hãy nghĩ lại. Ở đời rất nhiều người có hoàn cảnh khốn khổ còn hơn thế, không phải do mình gây ra...Hay là...Thằng con trai nào... nếu họ bỏ mình không yêu nữa thì vẫn còn người khác...Công chúa, chẳng như hạ thần đây, hạ thần...yêu...yêu công chúa nhiều lắm...Xin công chúa đừng treo cổ ạ. Ông và mẹ của Trương Vĩnh San thấy Thanh Nhã đột ngột ôm chân, rên rĩ. Cả hai thoáng nghĩ chắc là hai đứa trẻ có gì rồi mới treo cổ, chạy ra cửa ngoài nhìn thấy Trương Vĩnh San tòn ten trên sợi dây. - Gì vậy! Buông ra... - Công chúa! Hạ thần yêu công chúa...Thực lòng từ lâu, hạ thần yêu ngay từ lần đầu gặp gỡ...Chỉ vì công chúa tuổi còn nhỏ xíu...Công chúa ạ! Đừng có làm bậy, hạ thần chỉ nói chuyện với ông thôi, đâu có cãi lẻ gì đâu... - Con định treo cổ sao con- Ông của Trương vĩnh San cũng phụ hoạ theo, rồi như muốn khóc- Con có người bạn trai tốt, ông nói thật là ông đâu có chê mà con phải treo cổ... Trương vĩnh San không biết tại sao mình định treo sợi dây để làm xà đơn, nghe Thanh Nhã nói chuyện với ông cô rất thích. Bỗng nhớ tới lời đề nghị của Thanh Nhã rằng nên tập thể dục dụng cụ. Cô tin tưởng lắm và sợ như thể dễ quên, nên nhớ ra là làm liền... - Con treo cổ? Ai nói... - Con ơi xuống đi...Con treo như vậy là không nên... - Con có xuống được đâu...Tự dưng ôm chân mình cứng ngắt làm sao xuống... - Tại sao con treo cổ... - Hạ thần nói thiệt, hạ thần rất đỗi yêu công chúa. Thằng nào nó không yêu kệ nó, công chúa vẫn còn có người đắm say mà. Thanh Nhã cứ nghĩ người nào treo cổ thường do thất tình, ở tuổi dậy thì dễ xốc nổi. Lại thêm mập quá dễ bị người khác chê ú, từ bỏ ngay khi tình yêu vừa chớm nở: - Công chúa, dù công chúa có mập cỡ nào, hạ thần vẫn cứ yêu... - Con xuống đi, nó nói thế thì con còn treo cổ làm gì... - Ai nói treo cổ vậy, nói nghe thấy ghê quá trời... - Thấy ghê thì công chúa xuống dùm đi. - Xuống sao được, nảy giờ cứ ôm cái chân cứng ngắt... Thanh Nhã như sực nhớ ra, buông hai chân Trương Vĩnh San ra. Thấy Trương Vĩnh San đứng xuống đất, ông lấy cái quạt hất gió liên hồi: - Sao con dại dột như vậy? - Dại dột cái gì ông, chỗ này nó chắc nhất. Con định làm cái xà đơn để tập thể dục mà... Thanh Nhã đứng lên nhìn từ đầu đến chân, tay gãi đầu một lúc. Trương Vĩnh San nói thẳng vô mặt, như té tát: - Vô duyên dễ sợ, ai đời nói con gái mập này mập nọ...Tui treo cái xà đơn là nghe lời anh để tập thành người mẫu đó...Khùng vừa vừa thôi. Bộ tui mập không ai thương nên thất tình treo cổ chứ gì... Ông của Trương Vĩnh San khi nảy đang ghét cay ghét đắng lời lẻ tranh luận của Thanh Nhã, giờ như nhân đôi: - Cái thằng...Làm hết hồn... - Bởi vậy! Mấy người tào lao hay xớn xác. Về nhà cho tui dùm cái đi... Mẹ của Trương Vĩnh San hoàn hồn, hiểu ra chuyện liền đuổi thẳng cẳng. Còn người ông thì khác: - Cho ông hỏi, lý do gì ngươi gọi con San là công chúa. Ta hỏi ngươi phải trả lời thật đó... - Khùng lắm! Ông không biết đâu- Trương Vĩnh San xen vào- Từ hồi con ra Huế chơi, hắn lượm đâu cái áo cứ một hai bắt con chui vô...May mà áo hồi xưa rộng, nên cũng coi đở tí xíu đi...Có điều cái áo đó rách từa lưa, bắt con đi lòng vòng hoài Huế mắc cỡ gần chết... - Cái áo nào? Ông của Trương Vĩnh San hỏi vu vơ. - Để con vào lấy cho ông xem, vá tới đâu bắt con thử tới đó...mệt gần chết. Đợi Trương Vĩnh San lấy bộ đồ một lúc, ông đeo kính lão vào xề xệ để ngắm. Một lúc như nhận ra hiện vật lịch sử, ông đưa sát vào mắt người mẹ: - Con còn nhớ cái áo này không? Lúc mang thai con San con có mặc đến rách bụng... - Cái áo nào? Cái áo công chúa gì đó hả? - Đúng rồi? - Dạ! Con nhớ ra rồi...Hồi lúc sinh con San, con thấy rách nên bỏ ở bệnh viện luôn. Giờ mới gặp lại nó... - Tại sao ngươi có nó...Ngươi nói rõ ràng nguồn ngạnh cho ta nghe, nói đi... - Nảy giờ có ai cho nói đâu... Lúc này, tới phiên Thanh Nhã làm lẻ. Ông của Trương Vĩnh San có phần nào đó nhún nhườn, biết là Hoàng tử vẫn luôn theo sát đứa con rơi của mình cho tới lớn. IV Ông của Trương Vĩnh San ở lại thêm vài ngày, giờ đây ông chấp nhận Thanh Nhã là người yêu của người cháu. Mỗi lần Thanh Nhã tới chơi, ông bắt Thanh Nhã phải nghe chuyện: - Ta có câu chuyện này kể cho ngươi, có tin hay không tin thì tuỳ...Ngươi có tin rằng, lúc ông của ta ra triều đình Huế để dạy học cho vua Đồng Khánh, có gặp một người thanh niên tên là Nguyễn Sinh Sắc...Ngươi có biết người đó là ai không? - Nguyễn Sinh sắc à? Người có tên đó nghe quen quá ta, mà là ông vua nào vậy ông? - Vua nào? Đó là cụ thân sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh... - Dạ quên, đột ngột ông hỏi con quên. Giờ nhớ rồi. Cả hai ông cháu rất thân tình, riêng ông của Trương Vĩnh San tựa như có người để nhắc đến quá khứ. Nhất là lịch sử của dòng tộc, ông rót trà mời Thanh Nhã để nghe mình kể lể: - Ngươi muốn biết chuyện con San ngọn ngành, thì phải nghe câu chuyện ta kể ra đây trước, mới hiểu được dòng họ nhà Trương Vĩnh ta như mắc nợ triều đình vậy. - Ông kể đi, con ghét nhất nghe chuyện nửa chừng rồi nghe chuyện khác bực thấy mồ... - Bực à, bực cũng phải nghe nữa...- Ông của Trương Vĩnh San biết là Thanh Nhã tò mò đầu đuôi câu chuyện, nên dùng thủ thuật cù cưa. Mấy ông già hay lợi dụng mình hay lãng nhãn, để kể chuyện nọ xọ qua chuyện kia đúng như tính ý của mấy ông lão: - Khoảng năm Nguyễn Sinh Sắc hai mươi bốn tuổi, rất thèm muốn được học ở kinh thành Huế nên đã thân hành tới nơi ấy tìm hiểu. Đó là năm 1886, cũng là năm Trương Vĩnh Ký được Đồng Khánh mời ra triều đình dạy mình học. Các sĩ tử đi tới Huế, đều muốn mong muốn được học ở trường Quốc Tử Giám và nhìn thấy được Văn Miếu. Lúc này, hai nơi này đều nằm gần chùa Thiên Mụ, được vua Gia Long cho xây dựng từ năm 1808 ( Sau Quốc tử Giám mới được dời về Nội Thành). Các sĩ tử chưa được tiếng vang, chỉ tham quan bên ngoài rồi sang chùa Thiên Mụ tranh cải mấy từ được khắc trên bia đá tiến Sĩ. Chữ Nôm thuở ấy phải học hành đến nơi đến chốn, không khéo là hiểu sai chữ hoặc dễ bị phạm huý tên vua. Cho nên, sĩ tử tranh luận một thôi một hồi, rồi có ai đó chỉ ra một loại chữ viết mới bảo mọi người coi mà học. Nguyễn Sinh Sắc đang được một sỉ tử chỉ cho một loại chữ viết. Tưởng chữ La-tin phiên âm kia là tiếng Pháp, Nguyễn Sinh Sắc thấy dễ đọc và ngợi khen cách viết chữ đó cũng dễ thuộc, liền thử phiên âm những hàng chữ trên hai cột trước cổng chùa Thiên Mụ. Chàng trai trẻ viết tới đâu, thì nhà Trương Vĩnh Ký đọc được đến đó. Thấy có người ăn mặc y phục triều đình, Nguyễn Sinh Sắc vội vã bôi đi e phạm pháp. Trương Vĩnh Ký cũng đã đến đó và thấy chàng trai xạ lạ có vẻ sáng dạ hơn người. Lúc này, dân gian đã lén lút đố nhau về một loại chữ viết mà triều đình không bao giờ chấp thuận: Đó là Chữ Quốc Ngữ. Trương Vĩnh Ký chẳng những không cho đó là phạm pháp, mà còn thuyết phục chàng trai dùng chữ viết La- tin đó phiên âm những chữ Nôm được khắc quanh chùa, mà còn khen ngợi chàng trai ấy tỏ tường tiếng Hán- Nôm. Sau khi, Trương Vĩnh Ký chỉ bảo thêm cho Nguyễn Sinh Sắc hoàn thiện cách ghép vần và khuyến khích các sĩ tử hãy dùng loại chữ viết ấy, vì miền Nam hoàn toàn sử dụng nó từ lâu rồi. Ông còn nói là lần này tới Huế, muốn thuyết phục vua cải cách chữ viết hẳn sang tiếng La-tin. Chữ viết ấy xem ra tiện lợi hơn chữ viết của Nguyễn Trường Tộ đề nghị với vua Tự Đức. Trương Vĩnh Ký biết người trai trẻ khát khao được học ở Quốc Tử Giám, nơi chỉ giành riêng cho con của vua chúa và quan lại. Trong khi đó, Nguyễn Sinh Sắc có xuất thân từ những người phu nghèo khó, nên Trương Vĩnh Ký có đôi điều thương cảm: " Ta biết ngươi là kẻ yêu học thuật, nhưng luật lệ triều đình xưa khó mà thay đổi. Cho nên, có mấy kế sách hoạch định ngươi trông cậy: Một là, xem trong dòng họ thân thuộc có ai đã từng làm quan của triều đình rồi, nhờ họ giúp cho. Hai là, phải nhờ thầy mình- Người đã dạy ai đó giờ đã thành quan nhất phẩm đang tại vị, người đó đở đầu thì may ra..." Nguyễn Sinh Sắc suy nghĩ một lát, liền thổ lộ: " Nếu vậy, có một việc xin thưa thật với Thị Giảng Học Sĩ. Sĩ tử có một người cha ruột là một người thầy giỏi, dạy được những người đang làm quan trong triều chính. Ngặt nổi ông không biết mình có đứa con rơi, về nguyên tắc giấy tờ thì sĩ tử là con của người khác. Nếu vậy, sĩ tử sẽ nhờ người cha ấy lo liệu được, nhưng e mấy người học trò, giờ họ làm quan không biết có còn nhớ đến cha sĩ tử. Nếu như ngài ở triều chính thì hứa giúp giùm." " Được rồi!- Trương Vĩnh Ký nói- Ngươi cứ về nhà lần theo manh mối đó. Ta ở đây khi hay tin sẽ giúp thêm...Có điều, ngươi hãy kể rõ ngọn nguồn ta mới hiểu. Tại sao có người cha ruột có đứa con như ngươi, lại không công khai công nhận." "Theo mong manh, sĩ tử chính là con của Hồ Sĩ Tạo. Trước đây, lúc còn là cử nhân có tình ý với cô Đèn ( có tên thật là Hà Thị Hy). Cả hai tư tình với nhau nhưng không lấy nhau được, sợ gái có chửa hoang dân làng hành hạ nên gấp rút gã cho ông lão Nguyễn Sinh Nhậm". (Kể đến đó, thấy Thanh nhã ngơ ngác. Ông của Trương Vĩnh San hớp một hớp trà, khề khà): - Theo như ta nghĩ, Nguyễn Sinh Sắc chính xác là con của nhà họ Hồ. Bởi vì có những câu hỏi sau đây: Thứ nhất, theo sử sách ghi lại, không lý gì một thằng bé mới bốn tuổi mà thông minh được. Ở tuổi đó nó nói chưa rành thì làm gì có việc đứng rình ở ngoài xem nhà Hoàng Đường dạy học, rồi đọc làu làu kinh sử để được xem là thông minh. Cho dù là thông minh quá đi nữa, thuở đó con nhà họ nào nhà đó nuôi khó mà cho khơi khơi người ngoài, dù nhà có nghèo khổ mấy đi nữa. Chắc chắn, phải có hoàn cảnh nào đó đặc biệt nên mới có việc xin thằng bé Nguyễn Sinh Sắc một cách dễ dàng như vậy. Thứ hai, xét đoán trở lại việc trước đây ông Nguyễn Sinh Nhậm ở tuổi lão lại nghèo túng, khó mà đi bước nữa với một cô gái con nhà giàu. Chắc chắn phải có sự trau đổi nào đó, bù qua sớt lại giữa hai người. Phải chăng, cô Hà Thị Hy đã có mang thai trước rồi và người đang dạy học tại nhà họ Hà, là Hồ Sĩ Tạo không cớ gì bỗng nhiên nghỉ dạy đột xuất. Vả lại, Nguyễn Sinh Nhậm ở tuổi lão khó bề có con, cái thai ấy chắc chắn của người ngoài. Thứ ba là sự hành hạ của cô con dâu ông Nhậm, có tuổi lớn hơn cô Đèn và biết là cha mình đem về một người con gái chửa hoang, nên có phần tru chéo hai người không thương tiếc. Vì vậy mà ông Nguyễn Sinh Nhậm không sống được thêm mấy năm, còn bà Hà Thị Hy cũng qui tiên khi thằng bé lên ba. Thằng bé Nguyễn Sinh Sắc không máu mủ gì nhà họ Nguyễn Sinh, bắt buộc phải ra ruộng chăn trâu... Bởi thế, Nhà họ Hoàng Xuân Đường mủi lòng khi thấy thằng bé bị đói khát, chỉ vì người lớn gây ra chứ không tội tình gì. Cho nên xin thằng bé về làm con nuôi một cách dễ dàng và sau này còn gả con gái tên là Hoàng Thị Loan cho. Trở lại việc Nguyễn Sinh Sắc gặp ông của ta, giữa hai người có những giao ước và được ông của ta hứa giúp sức. Trương Vĩnh Ký hứa vậy, là vì biết triều đình khó lòng chấp thuận loại chữ viết mới. Ông cố tìm thêm người lôi kéo về phía mình, nhất là các sĩ tử mới vào triều. Ông thích họ vì nhanh nhạy tiếp nhận cái mới, còn những người trong cung e ngại người có công sẽ giành phần bổng lộc, nên cở nào cũng bát bỏ và họ nói chữ viết mới là theo ngoại bang xoá bỏ chữ viết của cha ông. Nói chung, họ viện dẫn rằng sẽ mất nguồn gốc tổ tông, rằng thế hệ tiếp theo đứng trước Văn bia Tiến Sĩ sẽ mù tịt không biết chút thông tin nào, rằng Trương Vĩnh Ký là một tên bịp bợm của Pháp. Nói về Nguyễn Sinh Sắc rất mừng vui, hẹn sẽ về tìm người cha ruột. Về Nghệ An dốc sức học tập để đỗ được Cữ Nhân, nhưng không bao giờ còn gặp lại được người nổi tiếng khắp Tam kỳ lục tỉnh ấy nữa. Trương Vĩnh Ký chỉ ở kinh thành Huế dạy dỗ vua Đồng Khánh chỉ được hai tháng, rồi tìm cách lui bước về Nam để làm nghề báo. Việc không ở lại chốn quan trường, có nhiều lời bàn cãi suốt sau này. Nhưng chung qui, Trương Vĩnh Ký vẫn mãi toàn tâm toàn ý cho người việt Nam. Ông là một học giả, nên ông làm công việc của một học giả. Nhưng mọi người thấy nước mất nhà tan, ghép ông vào con đường chính trị rồi đòi hỏi ông có cách hành xử, làm người "cầm cân nảy mực". Bây giờ đem so sánh ông với những người sau này, trách ông thế này thế nọ vì mọi người nắm được tình huống lịch sử đã diễn ra thế nào, chứ lúc đó ai biết được mọi việc xảy ra tiếp theo ra sao? Ông của ta đi đây đi đó nhiều, sự việc trong triều chính lúc nào cũng mong mỏi có sự cải cách sâu rộng hơn nữa. Nhưng triều đình nào cũng vậy, họ chẳng màng vì bổng lộc đang được thụ hưởng, a dua nịnh nọt để không phải thay đổi gì nhiều. Cho nên, Trương Vĩnh Ký gặp phải trở ngại từ những tư tưởng cố hủ, rồi qui chụp mình là loại người bị bọn Tây tẩy não. Cuối cùng không thể nào có thể hoà mình với những người cứ nhìn về đất Tàu, để vận hành đất nước được, âu cũng là mặt bằng dân trí thuở ấy khó mà đả thông mạnh mẽ và đúng là sự trì trệ đã làm cho nước An Nam phải trả giá. Ông của ta tìm cách từ quan, trong lòng tâm niệm phải có việc gì đó thay đổi lớn cho đất nước. Trương Vĩnh Ký thấy những việc cũ rích mà không chịu thay đổi cho thế giới thấy rõ, lấy đó làm hổ thẹn nhưng là người luôn tôn trọng dòng họ Nguyễn. Trở về Nam thành lập tờ báo chữ quốc ngữ đầu tiên: Tờ Gia Định Báo, hòng tạo dấu ấn cụ thể cho dân trí: Đó là việc làm của một nhà "bác học", góp phần thay đổi chữ viết của người Việt Nam ta tới giờ. Nên nhớ là, mãi đến năm 1910 Pháp mới miễn cưỡng chấp nhận loại chữ viết mới mẽ đó vào trường học, nhìn người An Nam học học chữ viết đó có phần nào tức bực. Vì cũng giống hệt cây đàn Tây Ban Cầm du nhập, người An Nam không chịu học đàn theo cách của Pháp dạy, tự mài mò sao đó thành những bài vọng cổ đang thịnh hành khắp đất nước. Một dân tộc khó đồng hoá, họ kết luận như vậy. Thanh Nhã lắng nghe tới đó, nhưng người nghe chuyện khó mà im mồm lâu được. Bỗng nhớ rằng câu chuyện ấy có liên quan gì Trương Vĩnh San đâu, nên cằn nhằn: - Hồi nảy, ông nói là nghe câu chuyện về Trương Vĩnh Ký gặp ông Nguyễn Sinh Sắc, rồi mới hiểu chuyện tiếp theo. Tui thấy đâu có liên quan gì nhau đâu...hình như là lạc đề rồi... - Lạc đề sao được mà lạc đề? Thời buổi bây giờ có một loại văn hoá sớm vội phê phán quá, tựa như chê bai người khác thì ta sẽ là người am tường mọi việc. Câu chuyện ta kể đây là câu chuyện có tính bước ngoặc lịch sử, cuộc gặp gỡ của hai tiền nhân Cách Mạng. Một người cho cuộc cách mạng Chữ viết, và một người cho cuộc cách mạng Giải phóng dân tộc...Ngươi không thấy sao? - Trương Vĩnh Ký là người trong cuộc cách mạng Chữ Viết thì được, còn ông Nguyễn Sinh Sắc có gì đâu... - Ngươi nói...mà ta nghe đau xót, người đó là thân sinh của Chủ Tịch Hồ Chí Minh. Một con người vĩ đại của dân tộc, sao nói là không có gì... - Con nghĩ là ai làm nấy hưởng, kể lể thêm dài dòng. Nếu nói là phải có đền đáp công lao cả dòng họ mới đúng lẻ, thì tại sao vua Thành thái và vua Duy Tân đánh Pháp, mà con cháu họ như ăn mày lại không thấy ai nói gì... - Đó...đó, ý ta kể chuyện lại để ngươi xét đoán...Coi bộ trúng ý ta rồi đó, chứ nào ta có lạc đề...Ngươi có biết là, ông của ta trước khi mất có căn dặn rằng, hãy giúp đở dòng giống của nhà Vua. Dù thế nào đi chăng nữa, dòng họ Nguyễn cũng là người tôn tạo đất nước hơn ba trăm năm, ngần ấy thời gian đâu phải nhỏ. - Con đồng ý chuyện đó với ông, nhưng nảy giờ ông bắt con nghe chuyện tùm lum thì rốt lại ông có ý gì... - Ý gì đâu, mấy đứa tụi bây ít ngó ngàng gì đến lịch sử. Sẳn dịp đẩy đưa cho biết chút chuyện... - Vậy là không có chuyện gì liên quan tới Trương Vĩnh San à? Không có thì không nghe nữa... - Có sao không? Nhưng nếu như ngươi muốn biết chuyện con San, thì hãy kể lại vì sao ngươi có cái áo rách bơm kia... Thanh Nhã hồi tưởng một lúc, rồi thật thà kể lại: - Con thực tập ở Huế, mong muốn có y phục triều đình để cho buổi lễ Festival có ý nghĩa, bằng việc tìm kiếm đồ thật. Vô tình, con gặp một người khoảng độ năm mươi ngoài. Cho con cái áo này và còn cho một tấm hình nói là của một cô công chúa lúc nhỏ. Hôm diễn ra Festival, con gặp người đó trên cầu Trường Tiền, còn nói là có một cô công chúa thật đang ăn bánh lọt dưới cầu. - Đúng là anh ta rồi!- Ông Trương Vĩnh Sinh như nghẹn ngào- Đó là một hoàng tử cháu của vua Duy Tân...cha của con Vĩnh San đó mà... - Thì từ đầu con biết ngay Trương Vĩnh San là công chúa mà, nhưng có vài điều con chưa nghĩ ra... Ông của Trương Vĩnh San chưa vội giải đáp thắc mắc đó, những điều về Trương Vĩnh Ký vẫn còn âm ĩ trong lòng. Chừng nào, Thanh Nhã hiểu được dòng họ Trương Vĩnh của mình lúc nào cũng tôn thờ vua, thì chừng đó ông mới cho là hiểu được câu chuyện ông kể. V Câu chuyện giữa hai người dần dần hé lộ, nhưng vì nó có kết cuộc quá bi thương nên hai người muốn giữ kín không muốn để ai biết. Thuở đó, mẹ của Trương Vĩnh San đang học lớp mười hai, thường đạp xe đi học ngang Bãi Trước Vũng Tàu. Cô vẫn luôn nằm lòng câu chuyện Cánh Buồm Đỏ Thắm, mong ngóng một ngày có một vị Hoàng tử đến rước đi. Cho nên, sáng sớm khi mặt trời ló dạng cô dậy sớm đi học, nhín chút thời gian ra ngắm mặt trời lên. Một hôm trên đường đi học về, có một chàng trai khá là to cao sấn tới làm quen. Đó là tay thợ máy cho tàu cá Nha Trang, ghé Vũng Tàu tránh bão vài ngày. Cô học sinh còn mãi mê đèn sách nên không mấy bận tâm đến những người đánh cá, nhưng ông chủ quán nhậu chỉ mánh khoé cho người thợ máy đó: - Con bé đó à! Nó rất mê lấy hoàng tử. Nó mong có một con tàu có cánh buồn đỏ thẵm, rồi từ trên tàu một hoàng tử đến lấy nó. Nó mộng mơ như vậy từ lâu rồi, nên thằng con tôi học chung làm quen mà không được, còn bị nó đòi hỏi phải là hoàng tử nó mới ưng, chứ con của người bán đồ nhậu thì không bao giờ. Tay thợ máy nghe vậy, liền nói với ông chủ quán: - Vậy à! Vậy ông có tin tôi là hoàng tử không? - Nếu là hoàng tử thì cậu nhào vô đi...khà khà. Tay thợ máy và ông chủ quán cụng ly một cái, như thách thức nhau đố mày làm được chuyện gì đó. Buổi chiều hôm đó, cô học trò nhỏ đi học về sớm hơn mọi khi. Cô được nghỉ mấy tiết thể dục cuối tiết, lại đạp xe về con đường quen thuộc. Cô lại thấy người đàn ông hôm sáng, tay cầm hoa phượng đỏ thắm chặn đầu xe, rồi để bó hoa nằm vào giỏ cạnh chiếc cặp. Cô sượng sùng muốn vứt nó ra, nhưng lời nói thỏ thẻ không thể nào rứt ra được: - Em...em à! Em có tin anh là hoàng tử cháu của vua Duy Tân không hả? Cho anh một lần làm quen em được hôn... Cô bé ngước lên, ánh mắt xanh xanh như người Tây cũng lấy làm lạ. Người thợ máy biết là mình nói trúng vào tâm nguyện của cô học trò nhỏ, chờ phản ứng tiếp theo thế nào. Cô bé lắc đầu ngơ ngơ: - Hoàng tử nào ở đây! Thời buổi bây giờ nào còn hoàng tử... - Em không tin...Anh biết...Sao em không cho anh có thời gian giải thích rồi về, chừng ấy không tin cũng đâu có muộn... - Vậy anh giải thích liền đi, nói phải thiệt đó nghen... - Ừ! Nhưng giữa đường giữa xá nói thấy kỳ cục quá. Hai là hai ta ghé vào quán cà phê bên đường... - Quán đó à? Thôi em không vào đâu...Quán đó kín mít quá... - Đâu có làm chi đâu mà em sợ! Anh chỉ muốn phân trần đầu đuôi góc ngọn thế thôi... Cô bé ưỡm ờ câu nào đều bị bịt lối câu ấy, nên đi theo người thợ máy để nghe phức câu chuyện cho xong. Cứ nghĩ là mình nghe không hợp lý rồi về, đâu ngờ càng nghe càng thấy hay: - Sao đâu? Anh nói nghe đi, không phải là hoàng tử là biết tay em à... - Ừ! Em muốn bầm dập anh kiểu nào cũng được...Hoàng tử của em sẵn sàng chết vì em... - Hay quá hén, nói mà không rõ ràng là tui bầm dập thiệt à... - Chuyện thế này! Em có nghe mấy người con của vua Duy Tân về sống ở Nha Trang không? Những người đó lai tây, rồi lấy Tây sinh được mấy người con nữa. Trong đó có anh... - Thảo nào, em thấy mắt anh xanh xanh...Tính ra, anh là hoàng tử thiệt rồi... Câu chuyện kể lể tưởng đâu khó khăn, ai dè đơn giản có vậy mà cô học trò nhỏ tin tưởng. Cuối cùng, họ hẹn hò gặp lại nhau và sau nữa có mấy bận cùng nhau tắm biển. Đến khi chuyện vở lỡ, thì hoàng tử đã cao chạy xa bay. Cô học trò biết trong bụng mình có đứa bé, rất khổ tâm định quyên sinh. Hôm đó vào buổi trưa hè, cô ra gờ đá khóc ròng. Ông Trương Vĩnh Sinh là người du lịch, đang lần bước ra xa thì bắt gặp. Kinh nghiệm biết đó là người đang có ý gieo mình, ông thấy nước mắt cô gái đang ràn rụa thì khuyên can. Ông mang cô gái đó về Bến Tre, sẵn thằng con trai chưa vợ con và muốn đở đầu cho cái thai trong bụng kia. Ông sẳn sàng nhận nàng làm con dâu và coi như mình đang giữ gìn giọt máu hoàng tộc. Thằng con trai biết mọi chuyện chứ không như xóm riềng gieo tiếng sàm sở cho ông, còn ông biết mình làm việc gì nghĩa hiệp thì hãy mà làm, tiếng oan tiếng u gì thì ông mặc kệ. Dù sao, ông chính là hậu duệ của dòng họ Trương Vĩnh Ký... Giờ đây nhớ lại, cô học trò năm kia mong trở thành Hoàng hậu, Hoàng thái hậu đâu không thấy, mà chỉ đi bán xôi thấy mồ tổ. Cuộc đời dâu bể khó lường, nhưng dù sao cũng có phương kế mưu sinh tương đối ổn định, đở hơn vợ con của mấy chàng hoàng tử con ông Vĩnh Giu. - Dòng họ Trương Vĩnh Ký ta như vướng mắc nợ nần họ, mới thấy: "Vua chúa chỉ là ở ngôi tạm thời, còn Học giả mới là mãi mãi". Ở Bến Tre ta có một chuyến đi Cần Thơ, thăm những người con cháu của vua Thành Thái. (Đó còn là vua cha của vua Duy Tân). Họ đang sống ở căn nhà nhỏ hẹp ở bến Ninh Kiều, chỉ trừ Bảo Bồi là có việc làm ổn định và ở riêng, còn lại đều hành nghề xe ôm, khổ lắm... Ông Trương Vĩnh Sinh thở dài, rồi kể chuyện Những ông Hoàng chạy xe ôm. Ông kể về Vĩnh Giu, từ lúc ở đảo Réunion cùng với vua Thành Thái, đến lúc được bọn thực dân Pháp mang về Vũng Tàu để làm phụ tá cho tên cảnh sát trưởng, rồi về Cần Thơ cho đến nay. Những đứa con của của ông này (Vĩnh Giu) đều chạy xe ôm, vợ thì đi bán vé số hết sức khó khăn...Chung qui, trước đây ông nội (vua Thành Thái) và bác của chúng (vua Duy Tân) dám chống lại bọn Pháp, khác xa với đám con cháu của Bảo Đại. Thế nhưng, chính quyền mấy ai đoái hoài tới. - Hời... Cuộc đời con người ta thật là nhiều trái khoáy, đôi khi không muốn nhìn lại. - Con hiểu chứ! Hồi đó con cũng mơ tưởng về quá khứ, cũng mong mình thành hoàng hậu, hoàng thái hậu nên mới ra nông nổi này- Mẹ của Trương Vĩnh San cũng đáp lại: Đang là một cô học sinh xinh đẹp, con lại ngã vào lòng anh ấy. Nếu không gặp ba ra ngoài bờ đá, chắc là con cũng quyên sinh, trong khi mang thai con Vĩnh San... - Cuộc đời vua chúa chán thật. Con cố lo cho con cái, nhất là con Trương Vĩnh San học tới nơi tới chốn. Nhớ lời ta căn dặn: "Vua chúa ở ngôi chỉ là tạm thời, còn Học giả như ông của ta mới là mãi mãi", nhớ chứ... * Ông Trương Vĩnh Sinh lặng lẻ, rồi ông cảm giác như mình không kể ra thì không biết câu chuyện rồi sẽ chìm quên vào lúc nào. Ông kể rõ sự tình cho Thanh nhã, một người mà ông bổng muốn cho biết tất cả bí mật mình giấu kín: - Ta không muốn nói tên hoàng tử đó, nhưng con cháu vua chúa cũng phải làm lụng để kiếm sống qua ngày. Trong những công việc kiếm sống thì nghề đi biển vẫn thường được chọn làm kế sinh nhai... - Ông kể lâu quá hà...ông kể thẳng là có một người thợ máy cho tàu cá đi...Con biết tới đó rồi đó... - Ừ! Đừng nóng, chuyện đâu còn có đó...để ta uống miếng trà đã, rồi mọi thứ sẽ mạch lạc. Ông Trương Vĩnh Sinh là người lớn, nếu là bạn ngang tuổi mình chắc Thanh Nhã đã nhảy đến lắc lư cho nước trà trong miệng ông tọt xuống bao tử rồi. Ông kể chuyện thực sự bài bản, có điều tuổi trẻ dễ nóng nảy nên mấy việc uống nước Thanh Nhã muốn điên tiết. Dằn lòng chờ đợi, cuối cùng sự việc cũng được rõ ràng: - Hoàng tử là người có gia đình rồi, nhưng khi ghé Vũng Tàu tránh bão phải lòng cô nữ sinh còn đang đi học. Như mọi người, tuổi trẻ háo thắng muốn ôm ấp được sự trinh nguyên. Hoàng tử cũng như người phàm mình thôi và cô gái cũng trao thân cho chàng. Cô gái đó là mẹ của con San đó, định quyên sinh ở Bãi Trước. Sau khi, hoàng tử bỏ rơi nàng nhưng trong lòng vẫn ray rức. Tàu cá ghé Bến Tre thì đến ngay nhà ta mà cầu cạnh, tựa như nhà Trương Vĩnh ta luôn phải lo những việc rơi rớt của nhà Nguyễn và ta nhanh chóng tìm ra Vũng Tàu để cưu mang cô bé. Khi mẹ của con San mang bụng bầu to ra, hoàng tử ngầm đưa cho ta một chiếc áo để mẹ nó đắp. Đó là chiếc áo ngươi tìm thấy, mẹ của nó mặc rách phần bụng, rồi bỏ quên ở bệnh viện khi sinh nó. Nếu vậy, chiếc áo được cho ngươi...thì chắc là, hoàng tử vẫn âm thầm ghé bệnh viện và thấy chiếc áo mang về cất cho tới giờ. Còn một việc nữa, ta lại muốn gửi gấm cho ngươi. Đó là cái rương chứa toàn là quần áo công chúa, có trên ba mươi bộ vào thời vua Duy Tân. Trước đây vì chưa có siêu âm nên không biết con San là trai hay gái, hoàng tử ngầm theo dõi con mình đến khi sinh. Biết nó không phải là con trai thì lần này đánh bài chuồn hoàn toàn, nhưng lần đó anh ta ghé chỗ hẹn đem theo cái rương quần áo ấy. Ta gửi lại anh ta tấm hình con bé và cứ nghĩ mọi việc sẽ theo thời gian mà quên lãng. Nếu ở Huế anh ta gặp ngươi, vậy thì anh ta vẫn ngầm dõi theo dòng giống hoàng tộc, theo dõi con mình lớn lên như thế nào...Đúng là, ai nào mà bỏ con giống con dòng... - Cho đến lúc sinh Trương Vĩnh San, hoàng tử vẫn âm thầm lặng lẻ...Chắc người ấy rất yêu thương sâu nặng, khổ vì không phải như xưa mà năm thê bảy thiếp: Bởi vậy ở đời, tuy tìm tông tích dòng họ đôi khi lùm xùm ghê lắm. Nghe đâu, thầy Chân Tâm nào đó đi tìm cụ Hồ Sĩ Tạo nhận làm tổ tiên, rồi còn nói Bác Hồ là người bác ruột... - Sao? Ngươi cũng biết chuyện đó nữa à? - Trời ơi...Thời đại internet trên mạng rần rần. Tội nghiệp ở nước ta cứ coi như là không biết gì hết, muốn bịt bùng thông tin đâu có dễ... - Bí mật là phải giữ kín, nhưng đôi khi nhu cầu tìm kiếm dòng tộc mình là có thật...Bởi vậy, mọi người thấy lùm xùm là thế. Trên đời này, khó mà tránh việc trai gái yêu đương nhau ngoài luồng. Cho nên, việc tìm kiếm lại tông tích có khi lại là việc gây sự với người đã khuất... - Thôi ông ơi, việc đó xa xôi rồi. Ông nói lại cái rương đồ công chúa gì đó. Ông nói là đang cất giữ, vậy ra ông có ý cho ai "kế nghiệp" chưa? - Ngươi bóng gió gì...việc thừa hưởng cái rương đương nhiên là con San rồi... - Hết sảy...- Thanh Nhã xoa hai bàn tay, tựa như Trương Vĩnh San với mình là một - Vậy chừng nào ông? Sắp tới có buổi biểu diễn Hoa Học Trò do quận tổ chức, ông mang lên để tụi con còn kịp tập dợt. - Nóng thế!- Ông của Trương Vĩnh San lại uống nước trà, tựa như ông mới là người nóng ruột hơn- Con San nó mập quá, trình diễn Hoa bông bùm bục thì được... - Ông nói...Chứ con quyết chí rèn luyện công chúa thành người mẫu, rồi ông sẽ chờ xem. Ông Trương Vĩnh Sinh nghe nói vậy cười ngất ngây, nhưng ông hy vọng có việc rèn luyện nào đó để Trương Vĩnh San ốm bớt, sức khoẻ tốt hơn thôi. Cuối cùng, ông đồng ý trao lại cái rương với điều kiện là có sự đồng tình "nhận hàng" của Trương Vĩnh San. Vài ngày sau ông về lại Cái Mơn, còn Thanh Nhã ở lại hết sức o bế Trương Vĩnh San, hy vọng mang cái rương chứa đựng Y phục triều Nguyễn giao cho mình quản lý.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.02.2011 22:32:26 bởi clietc >
|