Thi Sĩ Nguyễn Hữu Loan
Thay đổi trang: < 123 | Trang 3 của 3 trang, bài viết từ 31 đến 44 trên tổng số 44 bài trong đề mục
HongYen 07.08.2005 05:52:41 (permalink)
tiếp....



Khu du lịch sinh thái Quảng Cư ( Sầm Sơn)
Khu du lịch sinh thái Quảng Cư nằm ở phía Đông - Bắc thị xã Sầm Sơn, có quy mô 354 ha. Ngoài bãi tắm biển nối liền với bãi tắm Sầm Sơn, Quảng Cư còn có một hệ thống đầm hồ nuôi tôm, cua cá nước lợ và giải rừng phi lao ngăn cát xanh ngát. Đến đây du khách vừa được đắm mình vào thiên nhiên, vừa có thể tham gia vào các loại hình du lịch như câu tôm, cá, du lịch bơi thuyền, du lịch tìm hiểu văn hóa địa phương, du lịch tham quan làng nghề truyền thống... và có thể nghỉ lại tại các bungalow, nhà sàn, lều, lán, làng trại, vừa hấp dẫn vừa mang tính dân tộc, nhưng cũng rất hiện đại.




http://www.thanhhoatourism.com.vn/tiemnang/index.php?action=samson
#31
    HongYen 07.08.2005 06:04:12 (permalink)


    Thành Nhà Hồ ( hay còn gọi là thành Tây Đô, thành Tây Giai) thuộc địa phận hai xã Vĩnh Tiến và Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc, ở phía Tây thành phố Thanh Hóa.

    Thành Nhà Hồ do Hồ Quý Ly-lúc bấy giờ là tể tướng xây dựng vào năm 1397. Tương truyền thành này chỉ xây có ba tháng thì xong. Đây là một công trình kiến trúc độc đáo. Toàn bộ tường thành và bốn cổng chính được xây dựng bằng những phiến đá xanh, đục đẽo tinh xảo, vuông vức, xếp chồng khít lên nhau. Các phiến đá có chiều dài trung bình 1,5m, dày im, có tấm nặng tới 15 - 20 tấn. Thành có hình gần vuông. Chiều Bắc - Nam dài 870,5m, chiều Đông - Tây dài 883,5m. Bốn cổng thành theo chính hướng Nam - Bắc - Tây - Đông gọi là các cổng tiền- hậu- tả - hữu. Các cổng này được xây dựng theo kiến trúc hình vòm. Những phiến đá trên vòm cửa đục đẽo hình múi bưởi, xếp khít lên nhau. Cổng tiền ( phía Nam) là cổng chính, có ba cửa. Cửa giữa rộng 5,82m, cao 5,75m, hai cửa bên rộng 5m45, cao 5,35, (ba cổng còn lại chỉ có một cửa). Tường thành cao trung bình từ 5 -6 in, chỗ cao nhất là cổng tiền cao 10m.


    Thành xây xong, Hồ Quý Ly ép vua Trần Thuận Tông rời đô về Thanh Hóa. Tháng 2 năm Canh thìn ( 1400) sau khi lên ngôi vua thay nhà Trần, Hồ Quý Ly đổi tên nước thành nước Đại Ngu ( 1400 - 1407).

    tiếp...
    #32
      HongYen 07.08.2005 06:07:21 (permalink)
      Theo sử sách ghi lại thì trong thành có điện Hoàng Nguyên, cung Diên thọ, Đông cung, núi Thọ kỳ, Dục tượng ... rất nguy nga, tráng lệ chẳng khác gì kinh đô Thăng Long. Đến nay do thời gian và chiến tranh hủy hoại các kiến trúc khác không còn nữa, chỉ còn tường thành và bốn cổng thành là còn nguyên vẹn.



      Thành Nhà Hồ là một di tích văn hóa - lịch sử được nhà nước xếp hạng cấp quốc gia. Đây là thành cổ duy nhất được xây dựng bằng đá, gắn với một triều vua tuy ngắn (1400 -1407) nhưng đã có những cách tân đáng ghi nhận như cải cách thi cử, mở mang trường học, đề cao chữ nôm, phát hành giấy bạc.

      Ngày nay Thành Nhà Hồ đã và đang được từng bước trùng tu, tôn tạo nhằm trước hết là khôi phục và gìn giữ mọt công trình kiến trúc độc đáo đã có trên 600 năm và là điểm đến hấp dẫn cho du khách trong và ngoài nước mỗi lần đến Thanh Hóa.

      tiếp...
      #33
        HongYen 07.08.2005 06:09:46 (permalink)
        tiếp...

        Lăng Lê Thái Tổ

        Lê Lợi chính thức lên ngôi Hoàng Đế ngày 15 tháng 4 năm Mậu Thân (1428), xưng là “Thuận Thiện thừa Vân Dụê Văn Anh Vũ Đại Vương. Đức Thái tổ Cao Hoàng Đế băng hà ngày 22 tháng 8 năm Quý Mùi ( 1433) hưởng thọ 49 tuổi, trị vì đất nước được 6 năm, mộ táng ở Vĩnh Lăng Lam Sơn.

        Vĩnh Lăng được xây dựng trên một dải đất bằng phẳng cách điện Lam kinh 50m. Theo cách nhìn tinh tế của người am hiểu thuyết phong thuỷ xưa và nay thì Vĩnh lăng được chọn đặt một thế rất đẹp, phía trước có minh đường rộng rãi và tiền án là núi Chúa, phía sau có gối tựa là núi Dầu, hai bên tả, hữu có hai dãy núi tạo thế hổ phục long chầu. Đối diện lại có sông làm bạch hổ.

        Bố cục và phong cách mai táng của Vĩnh lăng đơn giản nhưng tôn nghiêm, tự nhiên và trang nhã. Lăng đắp đất hình lập phương, xung quanh xây chèn bằng đá đục ở bên ngoài, có kích thước 4,4 x 1 m.

        Trước Lăng có hai hàng tượng quan hầu và tượng các con giống tạc bằng đá dựng ở đây để trấn trạch (bốn đôi con giống đối nhau theo thứ tự hai sư tử, hai ngựa, hai tê giác, hai hổ). Giữa hai hàng tượng chầu vào là một lối đi rộng 20m35 gọi là thần đạo.

        Nhìn toàn cánh lăng Lê Thái Tổ ( Vĩnh lăng) thật giản dị, gần gũi song rất tôn nghiêm và trang trọng.

        http://www.thanhhoatourism.com.vn/tiemnang/index.php?action=nhaho
        #34
          HongYen 07.08.2005 14:22:24 (permalink)
          Đền thờ Bà Triệu Thị Trinh, Triệu Ẩu, ở núi Gai, Phú Diên, Hậu Lộc, cách Hà Nội 137 km.
          D6è Bà còn có tên là Bà Chuá Thượng Ngàn.


          Lễ kỹ niệm Bà ngày 24 tháng hai âm lịch.



          Bà sanh ngaỳ 2 tháng 10 năm 226 dương lịch tại Quan Yen, Cuử Trân, hiện nay là Yên Định, Thanh Hoá. Bà đã có công diệt giặt Ngô Phương Bắc.
          #35
            HongYen 08.08.2005 12:55:49 (permalink)
            http://diendan.vnthuquan.net/tm.aspx?m=60503&mpage=1&key=th%e1%ba%a7n

            >>>>>>>>>>>>>>

            KHU DU LỊCH SUỐI CÁ CẨM LƯƠNG CẨM THỦY

            Suối Cá thần Cẩm Lương

            Thuộc địa phận làng Ngọc, xã Cẩm Lương, huyện Cẩm Thủy, ở về phía Tây thành phố Thanh Hóa. Đây là một cảnh quan sinh thái có một không hai ở Thanh Hóa và cả nước. Đàn cá có khoảng 5 loài khác nhau sinh sống tự nhiên dưới một con suối nhỏ, gọi là suối Ngọc. Từ bao đời nay đàn cá gần gũi, thân thiết với người dân bản Ngọc và được họ phong cho là 'cá thần".

            Đến thăm suối cá Cẩm Lương, du khách sẽ được hoà mình vào cảnh núi rừng hùng vĩ của miền Tây Thanh Hóa, được chứng kiến những sinh hoạt mang đậm nét văn hóa Mường của người dân bản Ngọc nói riêng và của Cẩm Thủy nói chung.



            http://www.thanhhoatourism.com.vn/tiemnang/index.php?action=suoica
            #36
              HongYen 11.08.2005 18:22:33 (permalink)


              “Thơ Việt Nam khởi sắc ở châu Á”
              22:18:07, 09/08/2005


              Nhà thơ Hữu Loan với tác phẩm Màu tím hoa sim được giới thiệu trong tạp chí Shi Phyeong
              Đó là nhận định của tờ Shi Phyeong (Thi Bình), một tạp chí chuyên về Thơ và các thành tựu thi ca châu Á cấp tiến ở Hàn Quốc. Ra đời từ năm 2000, như mở đầu cho nghệ thuật "ngôn từ" của thiên niên kỷ mới, Shi Phyeong có tham vọng giới thiệu toàn cảnh những tinh hoa, những đổi mới về thơ của khu vực châu Á như các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Mông Cổ, Hồng Kông, Đài Loan... Thơ Việt bắt đầu được giới thiệu từ số giữa năm 2003 với chuyên đề "Thơ chống Mỹ của các nhà thơ VN", lập tức gây được chú ý với bạn đọc Hàn Quốc.


              Nhà thơ Go Hyung Yeol, Tổng biên tập tạp chí cho biết: "Kể từ số này theo yêu cầu người yêu thơ, số nào Shi Phyeong cũng sẽ giới thiệu một tác giả hay những chuyên đề nổi bật khác về thơ Việt Nam. Đề tài, hình ảnh thơ Việt thuyết phục bạn đọc vì sự gần gũi tâm lý, cảm xúc. Đặc biệt thể thơ tự do của các nhà thơ trẻ VN gần với phá cách của các nhà thơ
              Bìa tạp chí Shi Phyeong (Thi Bình) số Mùa hạ 7/2005 thực hiện chuyên đề Thơ trẻ VN

              trẻ Hàn Quốc".

              Để có được nhiều công chúng yêu thơ Việt, khởi đầu Ban Biên tập Shi Pheong đã mời hai nhà thơ Việt Nam có mặt trong ban "Dự phóng và kế hoạch" của tạp chí là nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và nhà thơ Hồng Thanh Quang. Cùng ở ban này là các thành viên gồm những nhà thơ uy tín từ các quốc gia khác như Mông Cổ, Nhật Bản, Đài Loan. Lần lượt các tác phẩm tiêu biểu của các nhà thơ Hữu Loan (Màu tím hoa sim), Phùng Quán (Lời mẹ dặn), Lê Anh Xuân, Nguyễn Duy, Giang Nam... đã được giới thiệu. Ban biên tập đã nhận được khá nhiều thư bạn đọc cho biết họ rất xúc động "về nỗi đau mà các bạn đã phải trải qua trong cuộc chiến tranh".

              Nỗ lực mới nhất của nhóm biên dịch Shi Phyeong là trong số mới nhất, tiêu đề "Mùa hạ", vừa được phát hành giữa tháng 7/2005 đã tập trung với chuyên đề Thơ trẻ Việt Nam qua phần cước chú, dịch thuật của nhà nghiên cứu, giáo sư Bae Yang Soo. Giáo sư cho biết: "Tôi đã qua lại Việt Nam hơn ba lần, trực tiếp gặp gỡ các nhà thơ trẻ tại Hà Nội và TP.HCM để làm quen, đọc và dịch tác phẩm của họ. Nhiều bạn trẻ viết rất tốt nhưng tôi chỉ mới giới thiệu được vài gương mặt. Hy vọng công việc sẽ tiếp tục trong thời gian tới!...".

              Đông Dương

              http://www3.thanhnien.com.vn/Vanhoa/2005/8/10/118444.tno
              #37
                HongYen 12.01.2007 04:48:36 (permalink)
                Trích đoạn: HongYen

                Nguyễn Hữu Loan
                2006.08.15
                 
                 
                 
                Những đồi hoa sim” Dzũng Chinh phổ thơ Hữu Loan, quý vị đang nghe Trường Vũ trình bày …
                 
                Trở lại quê hương lần đầu tiên, nhạc sĩ Trịnh Hưng về thăm miền Bắc, có ý tìm nhà thơ Hữu Loan nhưng khi đó không người nào dám chỉ đường cho ông vì họ còn e ngại tình trạng nhà thơ Hữu Loan bị cấm liên hệ.

                Đến chuyến về năm 2002, nhạc sĩ Trịnh Hưng mới gặp được người chỉ đường tới chỗ nhà thơ Hữu Loan sinh sống ở thôn Vân Hườn, huyện Nga Sơn. Từ Thanh Hóa vào hai mươi cây số. Thế là sau hơn năm mươi năm trôi dạt theo giòng lịch sử, hai anh em nghệ sĩ mới gặp lại nhau, biết bao điều để nói.

                Như những thanh niên khác, họ đem lý tưởng và tuổi trẻ ra nhiệt thành tham gia kháng chiến chống Thực dân Pháp, nhưng sau khi nước nhà được độc lập thì họ dần hiểu ra về đường lối Cộng sản, và đều thất vọng.

                Từ khi Trịnh Hưng về Hà thành thì Hữu Loan ra sao? Nhà thơ thuật lại rằng chứng kiến tận mắt những vụ đấu tố, thấy sự đảo lộn của đạo lý luân thường, ông quá chán nản chủ nghĩa Cộng sản nên bỏ ngũ, về quê.

                Bài thơ “Màu tím hoa sim” ông viết vào năm 1949 để khóc thương người vợ trẻ vắn số thì bị coi là mang tình cảm “tiểu tư sản” của thành phần trí thức.
                Bài ấy đem lại tiếng tăm cho Hữu Loan nhưng đồng thời cũng kéo theo lắm hệ lụy. Tài làm thơ, học thức cùng với vóc dáng cường tráng đã khiến ông bị ghen ghét.
                 
                Chiếc bình hoa ngày cưới thành bình hương
                Hình của nhạc sĩ Trịnh Hưng
                 
                Năm 1956, phong trào Văn nghệ sĩ đòi tự do sáng tác, bị đẩy thành một vụ án văn học, rồi thành vụ án chính trị. Nhiều văn nghệ sĩ trong nhóm “Nhân văn - Giai phẩm” bị treo bút, bắt đi lao động, cải tạo, tù đày. Hữu Loan thì tham gia các tạp chí “Nhân văn” và “Đất mới” thành ra bị quản thúc tại quê nhà, và cấm không được liên hệ với ai.

                Từ một người trí thức (có Tú tài Tây vào năm 1941 nhưng khước từ làm việc với Tây) xuống thành một kẻ đi đánh giậm kiếm vài con tôm con tép; đục đá, thồ về đổi lấy ngô khoai để sống còn, mà vẫn bị gây cản trở, và luôn bị theo dõi.

                Kế đến trong cuộc chuyện trò với Trịnh Hưng, ông kể lại về các vụ bị đầu độc và cả mưu sát nữa! về bài thơ “Màu tím hoa sim” một trong các nguyên do khiến Hữu Loan bị trù dập, thì nhạc sĩ Trịnh Hưng ghi lại và thuật với ban Việt ngữ đài chúng tôi như sau: (Xin theo dõi trong phần âm thanh bên trên) “Màu tím hoa sim” Hồng Vân diễn ngâm …

                Chúng tôi cũng điện thoại về Nga Sơn hỏi thăm sức khỏe nhà thơ Hữu Loan, và yêu cầu ông đọc tác phẩm “Màu tím hoa sim” gửi đến quý thính giả: (Xin theo dõi trong phần âm thanh bên trên) “Màu tím hoa sim” Hồng Vân ngâm …

                Với những lời xuất phát tự con tim đớn đau, bài thơ ấy đã gây xúc động và chiếm ngay được lòng mến thương của mọi người. Các nhạc sĩ ở Saigon chọn để phổ, là Dzũng Chinh với bài “Những đồi hoa sim”, Phạm Duy soạn thành bài “Áo anh sứt chỉ đường tà”, Duy Khánh với “Màu tím hoa sim”, Anh Bằng với “Chuyện hoa sim”, đều được thâu băng đĩa, và hát đến giờ.
                “Chuyện hoa sim” Như Quỳnh hát …

                Ngoài ra, bài thơ ấy còn là nguồn cảm hứng cho các nhạc bản “Tím cả chiều hoang”, “Tím cả rừng chiều”, …

                Được nhiều người coi là bài thơ tình hay nhất của Việt Nam, bài “Màu tím hoa sim” cũng đã được dịch sang Anh ngữ.

                “Áo anh sứt chỉ đường tà”
                qua giọng hát Thái Thanh …
                Mối tình của Hữu Loan với cô Lê Đỗ thị Ninh ly kỳ thật đấy! Biết từ khi cô bé vừa chào đời, cưới thì chú rể 33 tuổi, còn cô dâu mới 17.

                “Áo anh sứt chỉ đường tà” …

                Theo dòng câu chuyện:

                Nhà thơ Hữu Loan, tình sử “Màu tím hoa sim” và cuộc sống bất khuất (phần 2)

                http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/2006/08/15/AnecdoteOverPoetHuuLoan_TNga/
                 
                < Sửa đổi bởi: TTL -- 20.12.2006 16:20:32 >
                <bài viết được chỉnh sửa lúc 12.01.2007 04:53:10 bởi HongYen >
                #38
                  HongYen 12.01.2007 04:58:11 (permalink)
                  #39
                    HongYen 12.01.2007 05:04:15 (permalink)
                     
                    Thi sĩ Hữu Loan va Nhạc sĩ Trịnh Hưng
                     
                    Kỳ này, mời quý vị nghe chuyện của một gia đình nạn nhân khác, đó là ông Nguyễn Văn Thủ, quê ở tỉnh Hưng Yên, năm nay 72 tuổi, hiện nay đang sống ở Hà Nội. Ông Thủ kể lại với Phương Anh về những tại hoạ bất ngờ đổ xuống gia đình ông hồi cải cách ruộng đất.
                     
                    Và trong phần cuối, nhạc sĩ Trịnh Hưng, người bạn thân của nhà thơ Hữu Loan, tác giả bài thơ Màu Tím Hoa Sim, kể lại hoàn cảnh của chính nhà thơ Hữu Loan. Trước tiên, là trường hợp của ông Thủ. Ông nói về hoàn cảnh lúc bấy giờ:
                    Câu chuyện của ông Nguyễn Văn Thủ
                    Ông Nguyễn Văn Thủ: Dân trí thì thấp, đời sống thì đói…Lúc ấy, miền Bắc được “giải phóng”, còn miền Nam thì…, chia làm hai chế độ. Ngoài này, thực hiện chính sách giảm tô cải cách để có ruộng cho người nông dân cầy.
                    Đường lối đưa ra là đánh đổ địa chủ, cải tạo tư sản, tư bản…để lấy đất chia cho nhân dân, cho những người nghèo. Cho nên, có những người bị thiệt thòi. Lúc ấy, lộn xộn, chẳng ai giữ đạo làm người, con tố bố, vợ tố chồng…mất cả đạo đức con người.
                     
                    Phương Anh: Thưa ông, xin ông cho biết chuyện gì đã xảy ra cho gia đình ông?
                     
                     Ông Nguyễn Văn Thủ: Gia đình tôi, cụ (ông nội) công tác rất tốt, đến lúc ấy tự nhiên qui cho cụ tôi là thành phần đối kháng, bắt cụ đi đấu tố, gia sản bị tịch thu hết. Tôi bị coi là con nhà địa chủ, khổ lắm, đi ra ngoài đường là phải chào ông bà nông dân. Dù nó là con là cháu mình, cũng phải gọi nó là “Ông” là “Bà”.. của cải mất hết, chả còn gì cả.
                     
                    Tôi là con nhà địa chủ, bị trong cảnh xem từng người tố bố mình, toàn bịa chuyện. Lúc ấy dân ngu dốt lắm, chả hiểu gì cả, cứ nói bưà, nói theo kiểu “mớm” lời, toàn là bịa ra, chúng (đội cải cách) bảo thế nào thì người nông dân nói thế. Lúc đó, trình độ của chúng có ra cái gì đâu.
                     
                    Bạn nghĩ gì về cuộc cải cách ruộng đất tại Việt Nam và những hậu quả của chính sách này? Xin email về Vietweb@rfa.org

                    Phương Anh: Thưa ông, biết là năm nay tuổi đã cao, nhưng ông có còn nhớ được cảnh đấu tố những người bị qui là địa chủ không?
                     
                    Ông Nguyễn Văn Thủ: Ôi..Tôi còn nhớ như thế này, tôi chưa bao giờ thấy lịch sử con người lại ngược đời như thế, đến nỗi phải nói là thời đại trâu bò đi “bí tất”, cóc nhái nhẩy lên làm người, mõ sãi ngày xưa nhẩy lên làm chánh án, làm thẩm phán. Thậm chí ngồi trên toà đấu bố mình. Tả lại thì nhiều lắm, khí thế của nhân dân nó vùng lên, đánh đổ địa chủ mà!
                     
                    Ông bà nông dân họp riêng với nhau, người ta họp thế nào đó, xong rồi “đùng” một cái, nhà mình bị qui là đối kháng luôn, mặc dù nhà là một thành phần rất tốt, có công với cách mạng, thế mà “đùng” một cái, ngược lại hết! Nó đến nó tịch thu, nó đuổi mình ra khỏi nhà. Trong người mặc quần áo thế nào thì đi ra thế đấy.
                     
                    Tôi đi học về, cắp cái cặp, là chỉ có thế… thế là hết, và mấy mẹ con dắt nhau ra ngồi một chỗ, nhìn ông bà nông dân chia của. Sau đó, ông bà nông dân tập hợp ra, ngồi đông lắm, cảnh đấu tố đông lắm, các “vị” thì ngồi trên toà, làm cái toà trên cao đàng hoàng, kê ở ngoài đình, cánh đồng, như sân khấu vậy, rồi bắt nông dân lên đấu tố, địa chủ phải cúi mặt xuống, họ trói, cùm kẹp, thậm chí còn tra tấn…
                     
                    Phương Anh: Thưa ông, được biết người đấu tố ông bà nội và bố ông lại chính là bà xui gia và cũng là người láng giềng, từng được ông cụ, tức ông nội của ông giúp đỡ trong nhiều năm. Vậy, ông còn nhớ bà ấy đã làm những gì khi đó? Và kết quả cuộc đấu tố lúc bấy giờ ra sao?
                     
                    Ông Nguyễn Văn Thủ: Bà ấy lên, lật ngửa mặt cụ ra, rồi chỉ vào tận mặt và nói: con Ly, tên bà cụ là Ly, vợ chồng mày ép buộc tao, phải gả con gái cho con mày…rồi bà ấy khóc hu hu lên…rồi xin đội cải cách cho đem con gái về… rồi bà ấy bảo là mày dụ dỗ con tao đi Nam để cho bố mẹ lià con…
                     
                    Lúc ấy, tự nhiên nó như ma quỉ cám dỗ, người ta nhìn thấy nhà tôi, người ta như muốn ăn thịt luôn, họ muốn làm gì thì làm. Lúc ấy, người nào càng hăng hái, càng tốt, càng đấu tố, càng đánh đập, thì càng tốt. Có những người bị tử hình, ông cụ tôi bị kết án tử hình, bắn chết ngay, lôi ra bắn chết ngay, bắn ngay trước mặt mọi người, con cháu…
                     
                    Đấu tố bố mình, bắt phải ra nhìn…Còn những người khác bị tra tấn, bị chết thì cho là họ tự tử, bắn thì rõ ràng rồi, mấy trường hợp…Cuối cùng thì sửa sai, biết là sai lầm, rồi xin lỗi, thế thôi !
                     
                    Phương Anh: Sau khi bị đấu tố, cuộc sống của gia đình ông như thế nào?
                     
                    Ông Nguyễn Văn Thủ: Sau đó thì mò cua bắt ốc mà nuôi nhau, nhà không có, phải đi ở nhờ, nằm đất, không có cái chiếu để nằm. Ông bà nông dân phải tránh xa mình. Ông bà nông dân nào có thương mình đi chăng nữa thì phải để trong lòng, nếu không thì đội nó qui cho, cũng chết luôn!
                     
                    Đi ra ngoài thì phải chào ông bà nông dân, xưng “con”, chả muốn đi đâu cả, nhưng vì cuộc sống, nên lúc ấy, cũng phải đi ra ngoài đồng để kiếm rau, con cua, con cá…mẹ con bắt ốc nuôi nhau, vẫn phải cúi mặt xuống để mà tránh né, cho qua ngày, biết làm thế nào được…Giai đoạn lịch sử nó là thế đấy!
                    Trường hợp của vợ nhà thơ Hữu Loan 


                    Phu nhân nhà thơ Hữu Loan, một nạn nhân trực tiếp của cuộc cải cách ruộng đất. Hình của nhạc sĩ Trịnh Hưng.

                    Vưà rồi là cuộc trao đổi với ông Nguyễn Văn Thủ, hiện đang ở Hà Nội, một nạn nhân trong cuộc cải cách ruộng đất. Một trường hợp khác mà nạn nhân chính là vợ của nhà thơ Hữu Loan, tác giả bài thơ nổi tiếng suốt mấy chục năm qua, Mầu Tím Hoa Sim.
                     
                    Chúng tôi không thể liên lạc với nhà thơ Hữu Loan được vì gia đình ông hiện đang ở một xã nhỏ thuộc tỉnh Thanh hoá, không có điện thoại. Tuy nhiên, được biết nhạc sĩ Trịnh Hưng hiện đang ở Pháp, là người bạn thân của nhà thơ và mới đây có về thăm nhà thơ, chúng tôi liên lạc và được ông kể lại:
                     
                    “Ông ấy kể tôi nghe là: Lúc ấy, ông ấy là Trưởng ban Tuyên Huấn của đoàn 304, do tướng Nguyễn Sơn phụ trách, quân đội thì đói khổ lắm, chỉ có ăn khoai, ăn sắn, không có gạo mà ăn…Ông địa chủ đó thì giầu, tháng nào cũng đem gạo đến, để nuôi quân cho…Chính tướng Nguyễn Sơn tháng nào cũng làm lễ vinh danh cho ông ta, ban thưởng huân chương.
                     
                    Năm 1953, bị đấu tố, lan đến Thanh Hoá, ông bà địa chủ ấy bị giết chết. Nhà thì chỉ có một cô con gái thôi. Nó cấm tất cả mọi người, con trai, hay con gái, không được kết hôn với con nhà địa chủ, không được nuôi con nhà địa chủ.
                    Ông ấy (nhà thơ Hữu Loan) thấy thế bực quá, mới bỏ về làng, đi qua làng ấy, ông ghé vào thăm, ông biết rằng ông bà cụ bị giết chết rồi, cô con gái không ai nuôi cả, cô ấy phải đi mót sắn, mót khoai ở ngoài đồng, ăn sống, để sống thôi, quần áo rách rưới, bẩn thỉu lắm, ngủ ở đường, ở đình làng, ông thấy thế, thương hại và đem về nhà nuôi…và bây giờ là vợ ông ấy!”
                     
                    Trong hai buổi phát thanh vừa qua, quý thính giả đã nghe chuyện của những nạn nhân trực tiếp trong cuộc cải cách ruộng đất diễn ra 50 năm trước đây ở miền Bắc Việt Nam. Không thể biết chính xác số nạn nhân của cuộc cách mạng được gọi là “long trời lở đất” này là bao nhiêu vì nhiều người đã chết, nhiều người không muốn nói ra, và nhiều người không dám nói ra.
                     
                    Tuy nhiên, qua các lời kể, quý thính giả cũng có thể hình dung được những đau khổ tận cùng mà những người dân lúc đó phải chịu đựng, do chính những người cùng làng cùng xóm với mình gây ra theo chỉ đạo của các đội cải cách ruộng đất. Kỳ tới, chúng tôi sẽ nói về đợt sửa sai được phát động sau khi trung ương đảng thừa nhận sai lầm. Mong quý thính giả đón nghe.

                    http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/2006/05/19/LandReform50YearsAgoP8_PAnh/
                     
                    (http://diendan.vnthuquan.net/tm.aspx?m=232946)
                    #40
                      HongYen 12.01.2007 14:37:14 (permalink)

                      vinhsaigon

                       Bài rất hay, mong có thêm nhiều tư liệu về tác giả và tác phẩm
                      Thanks

                       
                      Cám ơn bạn VSG đã đọc bài post trên; khi nào bạn sưu tầm tin nào hay bổ túc cho nhá.  Cám ơn
                       
                      Chào Bạn VSG mời bạn xem post của hienthao
                      http://diendan.vnthuquan.net/tm.aspx?m=240979

                      Chúc Bạn VSG Vui với hoa sim tím.
                      #41
                        HongYen 14.01.2007 05:04:47 (permalink)
                        Hữu Loan
                        Tự phỏng vấn
                        Năm 1988, khi cuộc Đổi mới bắt đầu, nhà thơ Hữu Loan rất phấn chấn. Ông đã viết một bài "tự phỏng vấn" gửi cho báo Lao động Chủ nhật nhưng không được in. Nay, 19 năm sau, nhà thơ 91 tuổi đã đồng ý để talawas công bố bài trên. Các chú thích trong bài được phóng viên talawas ghi trực tiếp theo lời của nhà thơ và gia đình trong cuộc gặp gỡ mới đây tại nhà ông.
                        talawas
                         




                         



                         
                        Nhà thơ Hữu Loan (ảnh: talawas)  Tiểu sử

                        Tên Hữu Loan cũng có tên đời là Nguyễn Văn Dao, Sắt Đỏ, Tốt Đỏ, Binh Nhì… Tên chợ là Ông già Vườn Lồi (Phù Viên Lỗi). Sinh năm Bính Thìn (1916), tại thôn Vân Hoàn, Nga Sơn, Thanh Hóa.

                        Từ 1936 đến 1942 làm cách mạng trong phong trào học sinh và nhà trường.

                        Từ 1943 đến 1945 về đi cày và đánh cá, làm Việt Minh và làm khởi nghĩa huyện nhà [1] . Cùng năm làm Ủy ban Lâm thời tỉnh phụ trách 4 ty Giáo dục, Thông tin, Công chính và Thương chính. Chán lại về đi cày và đánh cá nuôi bố mẹ già.

                        Từ nửa năm 1946 đến 1951, điện mời làm chủ bút báo Chiến sĩ Quân khu IV ở Huế. Gặp Nguyễn Sơn, ủng hộ đường lối ưu tiên với văn nghệ sĩ [2] .

                        Khi Nguyễn Sơn bị đình chỉ công tác, trả cho Trung Quốc, đường lối Nguyễn Sơn bị Lê Chưởng và Hoàng Minh Thi phản đối, Hữu Loan đề nghị giữ Phạm Duy ở lại không được, lại về đi cày cho đến 1954 tiếp quản thủ đô lại có điện mời ra làm biên tập cho báo Văn nghệ, được mời vào làm hội viên Hội Nhà văn. Sau tham gia Nhân văn rồi bỏ về đi cày, đi thồ, từ 1958 cho đến giờ (cuối 1987) [3]

                        Phóng viên: Từ mấy chục năm nay trong dân gian và trong văn học thường hay nói đến "Nhân văn-Giai phẩm", đến "vụ án Nhân văn-Giai phẩm" như là một chuyện gì ghê gớm lắm mà những người đã tham gia vụ ấy là những tên đầu trộm đuôi cướp, lừa đảo không thể dung tha được, những bọn cặn bã xấu xa nhất của xã hội ta. Nhưng trong thực tế thì thơ, nhạc của họ đều được nhân dân truyền tụng ngầm rồi đến công khai, cấm cũng không xong, càng ngày càng lan tràn. Ngay cả đến nhà nước lại cũng đã tuyên bố phục hồi cho họ, in lại thơ, lại nhạc. Như thế là trước kia không phải họ sai mà nhà nước sai hay sao? Nếu nhà nước sai thì làm gì còn có "vụ án Nhân văn"? Có sai mới có án, mà đã không thì cái gọi là "vụ án Nhân văn" là một vụ oan. Nhưng mới gần đây vẫn có người trịnh trọng tuyên bố "vụ Nhân văn" là một vụ án. Chúng tôi là những người cầm bút chuyên môn mà vẫn thấy mâu thuẫn khó hiểu, huống hồ người dân thì lâu nay chỉ được thông tin một chiều… Họ thắc mắc hỏi chúng tôi, chúng tôi rất lúng túng không giải thích nổi. Vậy thì thưa ông Hữu Loan, ông đã là người trong cuộc, xin ông giảng lại cho: Thế nào là "Nhân văn"? Thế nào là "Vụ án Nhân văn"?

                        Hữu Loan: Tất cả mọi cái này, tôi đã có ý kiến đầy đủ trong bản kiểm điểm của tôi ở trại chỉnh huấn Nhân văn. Các anh nên đến qua Công an Hà Nội tìm đọc thì hơn.

                        Phóng viên: Bác ngại sao?

                        Hữu Loan: Cũng ngại chứ!

                        Phóng viên: Vì sao vậy?

                        Hữu Loan: Vì tuổi tác cũng có. Nhất là vì mới đây thấy hưởng ứng lời kêu gọi tự do báo chí, Nguyên Ngọc chỉ cho đăng số bài của các nơi gửi về mà đã bị kết tội là sai phạm lệch lạc nghiêm trọng hơn nhiều, rồi hết cuộc họp này đến cuộc họp khác, để kiểm điểm, để bàn cách đối phó. Nhưng dù sao, khắp nơi các báo chí đều dám lên tiếng ủng hộ Nguyên Ngọc.

                        Còn hồi tôi về thì không một người bạn nào dám đến đưa chân ngay ở nhà chứ đừng nói ra ga, mặc dù có những bạn tôi đã đấu tranh cho được vào biên chế, được vào Hội Nhà văn mà mới cách đây vài năm đi công tác qua nhà tôi cũng vẫn còn sợ liên quan không dám vào. Họ đều đổ cho là tại chế độ, tại tình hình. Nhưng nếu chế độ là chế độ thì người cũng phải là người chứ. Cái gì cũng có giới hạn của nó. Đấy là bè bạn, là người ngoài. Ruột thịt đối với tôi còn tàn nhẫn hơn nhiều.

                        Những năm 1943, 1944, 1945, Nhật đánh Pháp ở ta dữ dội, trường tư tôi dạy phải đóng cửa, tôi về quê vừa làm ruộng, đánh cá để nuôi bố mẹ và để hoạt động Việt Minh bí mật. Mấy năm ấy đói to. Bố mẹ tôi vẫn phải nhịn cháo rau cho cán bộ Việt Minh bí mật về ăn. Những người cùng ở ban khởi nghĩa với tôi làm to cả, gia đình nào bố mẹ cũng sung sướng, nguyên tôi lại về. Mẹ tôi buồn ốm chết. Bố tôi chửi tôi:

                        “Mày làm Việt Minh chặt hết của tao một giặng tre để rào làng, rào giếng.”

                        Các cháu trong nhà trong họ không đứa nào không chửi:

                        “Ông về là đúng! Trời làm tội ông. Lúc ông phụ trách 4 ty còn ai nhiều chức hơn ông mà con cháu chả đứa nào được nhờ. Ông cho trong huyện hơn bốn mươi người ra làm giáo viên, con cháu xin thì ông bảo: ‘Chúng mày rồi hẵng…’ Ông chỉ toàn khuyên các cháu đi bộ đội. Nghe ông, bốn đứa xung phong đi, giờ còn có một đứa về… Hồi Việt Minh còn đang bí mật, ông đứng ra lãnh gạo, muối, diêm về phát cho dân. Ông phát cho dân trước, đến lượt ông và con cháu ông lần nào cũng hụt, có lần hết sạch. Bây giờ ông coi họ lãnh sữa bột, dầu cải của quốc tế cho trẻ em, họ chia nhau trước, đến lượt trẻ em thì hết. Không ai dại như ông. Khi ông có tiêu chuẩn xe con, đi các huyện khác thì ông còn đi xe con chứ khi nào về huyện ta ông toàn đi xe đạp, trong khi những người không có tiêu chuẩn xe, họ mượn xe của ông để về vênh váo với làng nước. Ông bảo ông làm cách mạng, để cho cả làng được đi học. Khi cách mạng thành công thì thằng con ông thi đại học đậu thừa điểm đi nước ngoài họ không cho đi ngay cả trong nước và chúng đã thay vào chỗ con ông một tên Cường không đậu, tên na ná với tên con ông là Cương.”


                        Có đứa nó như phát điên và nó đã chửi tôi:

                        “Ông là loại ngu nhất. Ông bảo ông mẫu mực, cái mẫu mực ấy đem mà vứt cho nó ăn. Chả đứa nào nó thương ông. Ông tự làm khổ ông lại làm khổ lây đến con cháu…”

                        Mỗi lần như thế tôi phải đấu dịu với chúng:

                        “Thôi tao van chúng mày, nếu mẫu mực mà lại được ngay ô tô nhà lầu thì chúng tranh chết nhau để làm mẫu mực chứ chả đến phần tao. Ngay ngày 2/9, bên xã mổ thịt bán tự do cho dân về ăn Quốc khánh, tao biết thân phải đến rất sớm mà cũng chả đến phần. Những ông Đảng ủy, Ủy ban v.v… được mua trước, đến mình thì hết phần…”

                        Phóng viên: Như vậy là bác chán không muốn nói đến chuyện "Nhân văn-Giai phẩm" nữa?

                        Hữu Loan: Ai mà chả phải chán. Mình đấu tranh cho họ, bênh vực họ, khổ vì họ, họ lại đè mình họ chửi, họ oán. Những kẻ gây tai họa cho họ, họ lại cho là đúng, là gương để cho họ noi theo.

                        Phóng viên: Xưa nay bác vẫn là người nói thẳng, nói thật, lúc trẻ bác còn dám nói, giờ già rồi không lý nào bác lại sợ, lại hèn?

                        Hữu Loan: Anh kích tôi đấy phỏng? Tôi là người không bị động bao giờ.

                        Phóng viên: Cháu không dám hỗn thế đâu, nhưng đây là một vấn đề của lịch sử, trước sau rồi cũng phải đưa ra ánh sáng. Chỉ có bác là người trong cuộc, bác giúp cho bọn cháu thì nó cụ thể hơn, sát hơn, để các cháu có thể hiểu được những cái vô cùng rắc rối của giai đoạn xã hội hiện nay…

                        Hữu Loan: Thực ra nếu bên Liên Xô không có Khrushchev lật Stalin, đưa ra phong trào chống sùng bái cá nhân thì bên Tàu không làm gì Mao Trạch Đông đưa ra chuyện “Bách gia tranh minh, bách hoa tề phóng" và bên ta hưởng ứng tức thời bằng phong trào mang tên dịch lại nhãn hiệu Trung Quốc “Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”. Tên nôm na của ta là “Chống sùng bái cá nhân”.

                        Trước đó thì ở ta có hiện tượng rất phổ biến này: Khi gặp nhau, trước bất cứ câu đối đáp nào đều phải có nhóm thành ngữ “ơn Đảng ơn Bác" đứng đầu. Thí dụ:

                        “Ơn Đảng ơn Bác, đồng chí có khỏe không?”

                        “Dạ, ơn Đảng ơn Bác lâu nay tôi ốm mãi, ơn Đảng ơn Bác tôi mới xuất viện được 2 hôm nay.”

                        “Ơn Đảng ơn Bác thế mà em không hay biết gì…”

                        Sau hàng tháng phát động đấu tranh kiểm điểm ở từng cơ quan để bỏ chữ Bác đi và thay thế bằng: “Ơn Đảng ơn Chính phủ”:

                        “Ơn Đảng ơn Chính phủ vụ mùa này thu hoạch có đủ nộp không?”

                        “Ơn Đảng ơn Chính phủ nhà em có con lợn mới độ 30 ký đang lớn, thanh niên cờ đỏ vào bắt nợ rồi, được bao nhiêu thóc đong hết sạch mà còn thiếu phải bù bằng lợn…”

                        Dân tộc Việt Nam là một dân tộc liên tiếp bị đô hộ, hết Tàu đến Tây, đến Nhật, đến Mỹ… Cái khao khát, cái đói cố hữu của dân tộc này là đói độc lập, tự do, cơm áo. Khi thấy Đảng hứa đem lại những thứ ấy cho thì người dân tin tuyệt đối vào Đảng. Đảng bảo gì họ theo nấy, bảo phá nhà thì phá nhà, bảo bỏ ruộng thì bỏ ruộng, bảo bỏ bố bỏ mẹ, bỏ vợ bỏ chồng, bỏ Trời bỏ Phật, bỏ được tất, còn dễ hơn từ bỏ đôi dép rách. Anh đội trưởng cải cách chỉ là một sứ giả của Đảng mà dân cũng đã tin hơn trời: “Nhất đội nhì trời”.

                        Lòng dân tin vào Đảng không thước nào đo được, nên khi phát động để phủ nhận một điều gì Đảng đã chủ trương trước kia, thật là vô cùng khó khăn. Nguyên chỉ để thay đổi câu “Ơn Bác ơn Đảng” và kiểm điểm những việc làm trước kia có tính chất sùng bái cá nhân mà cũng mất hàng tháng phát động ở mọi cơ quan.

                        Khẩu hiệu là “Nói thẳng, nói thật, nói hết để xây dựng Đảng!” Không những nói mồm mà còn viết lên các báo. Không những viết lên các báo nhà nước mà còn khuyến khích mở báo tư nhân để viết. Vì thế mới có Nhân văn, Giai phẩm của chúng tôi. Và Trăm hoa của Nguyễn Bính.

                        Bài thơ “Màu tím hoa sim” của tôi (từ trước vẫn do dân tự tiện truyền tụng ngầm, bất chấp lệnh nghiêm cấm của những tướng trấn ải giáo điều), được đăng công khai lần đầu tiên báo Trăm hoa. Nguyễn Bính còn cho thuê taxi có loa phóng thanh đi quảng cáo khắp Hà Nội là Trăm hoa số này có thơ “Màu tím hoa sim” của Hữu Loan. Mấy tháng sau tôi đi cải cách ruộng đất, làm bài thơ “Hoa lúa”, 22 anh em nhà báo nhà văn đi cải cách truyền tay nhau chép. Chị Bạch Diệp báo Nhân dân xin chép đầu tiên, nhưng ý trung nhân của chị là anh Xuân Diệu ở báo Văn nghệ không đăng, bảo là thơ tình cảm hữu khuynh, mất lập trường. Trần Lê Văn đến mách với Nguyễn Bính, Bính đến xin ngày bài “Hoa lúa” về đăng Trăm hoa. Anh Bính còn làm một cử chỉ rất hào hùng là đem đến trả cho vợ tôi 15 đồng nhuận bút, trong khi đăng Văn nghệ chỉ được 7 đồng.

                        Anh bảo với vợ tôi: “Hữu Loan ở nhà thì tôi xin (tôi vẫn viết không lấy nhuận bút để giúp những tờ báo nghèo, mới ra) nhưng Hữu Loan đi cải cách chị cũng cần tiêu (15đ bằng 150.000đ bây giờ). Một chỉ vàng lúc ấy mới 20 đ. Nói ra điều này để thấy rằng mức sống của người cầm bút hiện nay đã vô cùng xuống dốc. Nhuận bút của cả một quyển sách hiện nay không bằng tiền của một bài thơ Nguyễn Bính trả cho tôi. Nhà thơ Tố Hữu đã có dự báo thiên tài: “Chào 61 đỉnh cao muôn trượng!” Từ ấy đến giờ xuống dốc tuồn tuột không phanh, không thắng…

                        Chính sự xuống cấp thảm hại trong đời sống đã là nguyên nhân chính trong việc lưu manh hóa một số nhà văn, họ đã phải uốn cong ngòi bút, cũng như trong việc in sách đen sách trắng vừa rồi.

                        Phóng viên: Xin bác cho biết lại về vụ "Nhân văn".

                        Hữu Loan: “Nói thẳng nói thật, nói hết, để xây dựng Đảng”. Không những chỉ có Nhân văn hay Trăm hoa mới nói thật, mà cả nước nói thật. Cả nước kêu oan. Những “Ban Giải oan” đã thành lập để vào trong các nhà tù giải oan cho hàng vạn người bị cải cách quy oan….

                        Nhưng đã ăn thua gì. Đơn từ kêu oan từ các nơi gửi về tòa soạn Nhân văn thật đã cao bằng đầu, như “đống xương vô định”. Nhân văn đã xếp thành văn kiện chuyển cho Trung ương Đảng nghiên cứu để thay đổi chính sách. Thật ra Nhân văn chỉ khái quát tình hình để đúc thành lý luận. Bài báo bị cho là phản động, phản Đảng, phản dân nhất của Nhân văn là bài “Vấn đề pháp trị” do Nguyễn Hữu Đang viết [4] .

                        Trong bài ý nói: sở dĩ chỗ nào cũng có áp bức chà đạp lên con người là vì chưa có pháp luật rõ ràng. Tòa án là một tòa án tha hồ tùy tiện còn hơn Tôn giáo Pháp đình của giáo hội La Mã hồi Trung Cổ. Muốn bắt ai thì bắt, muốn xử ai thì xử, bịa ra luật nặng nhẹ tha hồ để xử… Bài báo kêu gọi cần phải phân quyền thì người dân mới có bình đẳng trước pháp luật… Sau hơn ba mươi năm do tình trạng pháp luật tùy tiện mà xã hội xuống cấp một cách tệ hại như hiện nay. Vấn đề hàng đầu đang đặt ra để giải quyết cũng là mấy vấn đề pháp trị mà Nguyễn Hữu Đang đã đặt ra cách đây hơn 30 năm (mà phải nói đây là vấn đề sống còn của chế độ).

                        Không có một cộng đồng nào mà thành viên nào cũng chứa toàn âm mưu đen tối để chủ hại người bên cạnh, không người nào biết phải biết trái, mà sống nổi lâu dài. Nhân loại sinh ra để hợp tác với nhau, để tin nhau là chính, mới sống được đến giờ. Ngày xưa, ngay hồi Pháp thuộc cả một vùng lớn như một huyện mới có độ 5 – 6 tên trộm mà trộm không được pháp luật bênh như thế, mà dân cũng còn lo ngay ngáy cho số phận trâu bò của cải của mình. Còn bây giờ thì chỉ một thôn thôi cũng có hàng vài chục tên trộm cướp công khai, coi thường pháp luật thì hỏi người dân còn an cư thế nào để lạc nghiệp được?

                        Một vấn đề nữa Nhân văn đặt ra là “Vấn đề Trần Dần” đăng trong Nhân văn số 1, có chân dung Trần Dần to tướng với một vết dao lam cứa cổ to tướng do danh họa Nguyễn Sáng vẽ [5] .

                        Từ trước ai cũng một lòng tin Đảng, cả trong lĩnh vực văn học. Tự Liên Xô đưa về rồi tự Diên An đưa sang, tài liệu hiện thực xã hội chủ nghĩa, tức là con đường đi lên trong văn học nghệ thuật. Nghĩa là văn nghệ chỉ được nói đến cái xã hội thiên đường vô cùng đẹp chưa có, chưa biết bao giờ mới có chứ không được nói đến những cảnh trộm cướp áp bức bóc lột đang diễn ra trước mắt. Rất hiếm những bí thư, chủ nhiệm, thủ kho, cửa hàng trưởng tốt, phải nói hầu hết là ăn cắp, thi nhau để ăn cắp, nhưng văn học không được nói thực mà phải dựng lên toàn là những người lý tưởng. Luận điệu thuộc lòng là: Không có ăn cắp mới lạ, có ăn cắp là tất nhiên. Đấy là thứ sốt rét vỡ da của nhân vật khổng lồ, của một chế độ khổng lồ!

                        Cũng thành khổng lồ thật nhưng lại là khổng lồ đi xuống, một thứ quỷ khổng lồ hay một thứ khổng lồ không tim như đã dự báo trong một truyện ngắn ở Nhân văn. [6]

                        Đường lối đó ở ta đã được ông Trường Chinh tiếp thu và bảo vệ, và truyền giáo như một thánh tông đồ xuất sắc.

                        Một người nhà báo hỏi ông:

                        “Như vậy là Cách mạng đã cấm tự do ngôn luận.”

                        Ông Trương Chinh sửng sốt:

                        “Anh nói sao? Các anh được tha hồ tự do chửi đế quốc đó thôi.”

                        Như thế là đường lối hiện thực xã hội chủ nghĩa đã cấm hẳn hiện thực phê phán là thứ vũ khí sắc bén nhất của báo chí để cải tạo kịp thời xã hội. Lý luận hiện thực XHCN này được học tập ráo riết trong quân đội, trung tâm đào tạo những tông đồ để áp dụng và đi phổ thuyết về “con đường đi lên” là Tổng cục Chính trị lúc bấy giờ do ông Nguyễn Chí Thanh làm Tổng cục trưởng và ông Tố Hữu làm Tổng cục phó. Trong số văn nghệ sĩ phản đối đường lối hiện thực xã hội chủ nghĩa có Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Tử Phác… Có lẽ quyết liệt nhất là Trần Dần, nên Trần Dần bị bắt giam và trong nhà giam Trần Dần đã dùng dao lam cắt ven cổ nhưng chỉ toác da, chưa đứt đến ven thì đã kịp thời chặn lại.

                        Vì thế mà có bài “Vấn đề Trần Dần” trong Nhân văn số 1 như đã nói trên. Đây là một vấn đề văn học, hoàn toàn văn học. Đây là một cử chỉ khí tiết của nho sĩ Việt Nam trước cường quyền không bao giờ là không có, dù cường quyền có thiên la địa võng đến đâu thì cái truyền thống đáng tự hào ấy, cái hồn thiêng của sông núi ấy không tà khí nào làm mờ nổi. Trần Dần chỉ là hậu thân của những người đã viết “Vạn ngôn thư”, “Thất trảm sớ”… Cũng như vấn đề pháp trị của Nguyễn Hữu Đang, vấn đề văn học mà Trần Dần đòi xét lại cách đây hơn 30 năm hiện giờ vẫn đang rất là thời sự. Cái tai họa lớn nhất hiện giờ vẫn là do khuyến khích tô hồng, đề cao người giả, việc giả, hàng giả… Những người thấy trước tai họa, chân tình muốn ngăn chặn tệ nạn xã hội tô hồng thì bị gán ngay cho cái tội bôi đen.

                        Đáng nhẽ những người như Nguyễn Hữu Đang và Trần Dần phải được một giải thưởng quốc gia, một cái giải vinh quang là đã đưa ra được giải pháp để cứu nguy cho dân tộc.

                        Nhưng trái lại, lại vu oan giá họa, đặt lên đầu họ cái án gọi là "án Nhân văn".

                        Thực ra Nhân văn hưởng ứng lời Đảng gọi: “Nói thật, nói thẳng, nói hết để xây dựng Đảng", và chỉ đấu tranh cho tự do báo chí, tự do ngôn luận mong thực hiện tự do bầu cử vào quốc hội, vào chính phủ. Chỉ cần thực hiện thật sự dân chủ nội dung của Hiến pháp là cũng đã lý tưởng rồi.

                        Hiện nay báo Văn nghệ cũng đang làm cái việc như Nhân văn ngày xưa làm, cũng do được kêu gọi, được giao trách nhiệm Nguyên Ngọc mới dám làm, và báo Văn nghệ cũng đang bị khép tội là mắc những lệch lạc nghiêm trọng.

                        Có điều khác là: Nhân văn ngày xưa đơn độc, khi bị đánh không ai dám bênh, ngậm cái miệng cúi đầu mà mang án. Còn bây giờ thì hoàn cảnh trong nước và ngoài nước đã khác. Không thể đóng cửa mãi ở trong nhà và ngủ yên được mãi trên những sai lầm vô định. Khi Nguyên Ngọc bị đánh, đã có báo chí khắp nơi lên tiếng, những bản kiến nghị đang tiếp tục gửi về…

                        Nếu phong trào tự do báo chí, phong trào ủng hộ Nguyên Ngọc và báo Văn nghệ mà bị dập, tức là bọn quan liêu cơ hội thắng thế, kết quả là xúc tiến sự sụp đổ toàn diện, sự tổng khủng hoảng kinh tế cũng như chính trị và uy tín của Đảng sẽ bị mất hoàn toàn vì bọn chúng. Quần chúng sẽ mất hết tin tưởng vào Đảng.

                        Từ trước tới giờ: làm sai cũng là bọn cơ hội, kêu gào sửa sai cũng là chúng, rồi đàn áp sửa sai cũng lại là chúng. Khi sai quá rồi không sửa thì dân không chịu nổi phải nổ. Nhưng sửa đến triệt để thì cháy nhà lại ra mặt chuột, nên cứ nửa chừng thì lại đàn áp sửa sai; chúng vu cho những người đã từng làm theo chúng tội rất nặng, càng nặng thì quần chúng càng dễ quên tội của chúng và cho rằng những rối loạn trước kia là do âm mưu bọn sửa sai gây ra. Chúng bàn nhau mưu kế dựng chuyện theo bài bản, những ông trên không sát cũng phải tin như thật.

                        Chính Nguyễn Hữu Đang đã rơi vào trường hợp như vậy.

                        Đang là người giác ngộ cách mạng sớm. Anh là linh hồn của Hội Truyền bá Quốc ngữ mà cụ Nguyễn Văn Tố là danh nghĩa. Dựa vào Hội TBQN, Nguyễn Hữu Đang đã hoạt động cho mặt trận Văn hóa Cứu quốc. Những nhà văn như Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi, đều do Đang tổ chức vào mặt trận. Khi chính phủ vào Hà Nội, Nguyễn Hữu Đang là trưởng ban tổ chức lễ Tuyên ngôn Độc lập, sau làm Bộ trưởng Bộ Thanh niên. Khi rút khỏi Hà Nội năm 1952-1953 vào Thanh Hóa, Nguyễn Hữu Đang là Tổng thanh tra Bình dân học vụ. Năm 1954 tiếp quản thủ đô, Trung ương cho xe vào Thanh Hóa mời Đang ra, muốn nhận bộ trưởng nào thì nhận, mời sinh hoạt Đảng, anh đều khước từ. Tôi hỏi vì sao, anh bảo:

                        “Nội bộ thiếu dân chủ trầm trọng, mình bây giờ chỉ một mình một Đảng.”

                        Sau hỏi anh làm gì, anh xin về làm nhà in, trình bày cho báo Văn nghệ.

                        Mãi đến gặp phong trào "Trăm hoa", Đảng phát động cho viết báo tự do, lại cho mở báo riêng thì anh Đang mới ra làm Nhân văn.

                        Anh Đang là một người rất có khả năng về chính trị cả về lý luận lẫn tổ chức, lại là một người rất hay giúp đỡ anh em và rất giữ lời hứa. Để một người có tài có đức như vậy thì bọn cơ hội hết đường xoay xở nên phải đánh. Một mặt phải phát động tố điêu dựng tội (như hồi cải cách dựng địa chủ) để đưa Nguyễn Hữu Đang lên thành phản động đầu sỏ. Một mặt sai điều động từ Thanh Hóa ra, từ các nơi về, hàng 6 sư đoàn để về vây thủ đô đề phòng bọn Nhân văn làm phản (trong khi Nhân văn chỉ mấy thằng đi kháng chiến về, đói rách trói gà không nổi). Việc điều động một lực lượng quân đội lớn như vậy mãi sau tôi về quê gặp những người ở trong các đơn vị ấy nói lại tôi mới biết.

                        Khi học tập, dựng tội cho Nguyễn Hữu Đang xong, cả lớp học sát khí đằng đằng hò hét nào là tên Đang, nào là thằng Đang phản động đầu sỏ. Mọi người ký vào kiến nghị lên Trung ương Đảng đòi xử tội đích đáng Nguyễn Hữu Đang. Tôi là người duy nhất đã ký như sau: “Khi Nguyễn Hữu Đang hoạt động với tôi, tôi thấy Nguyễn Hữu Đang là người có tài, có đức, tội trạng mới đây của Nguyễn Hữu Đang tôi chỉ tai nghe, mắt không thấy, tôi không dám kết luận. Ký tên: Hữu Loan"

                        Thế là Nguyễn Hữu Đang bị kết án 17 năm tù, mới đi được 7 năm thì nhờ đâu có sự can thiệp của Nhân quyền Quốc tế nên anh được tha. Đáng nhẽ không thưởng, không giải oan cho Nguyễn Hữu Đang thì im quách đi cho nó xong, đừng nay gào mai gào “Vụ Nhân văn là một vụ án chính trị!”. Gào như vậy nhưng nếu có ai hỏi đến để tìm hiểu lịch sử thì lại bảo “Đó là vụ án đã qua, bọn Nhân văn đã nhận tội không nên nhắc đến nữa!”.

                        Nếu không nhắc Nhân văn, sao người ta vẫn nhắc đến phát-xít, Hitler, đến Stalin, đến Pol Pot? Thậm chí bọn vua chúa hay Pháp Nhật Mỹ đã đi từ lâu rồi, mà bao nhiêu vụ ăn cắp cũng là do phong kiến đế quốc, bao vụ cưỡng hiếp phụ nữ trong cơ quan cũng là do phong kiến đế quốc, mặc dù những người thực hiện các vụ ấy đều thuần túy xã hội chủ nghĩa gốc Việt.

                        Hitler, Stalin, Mao Trạch Đông có cấm nói đến mình được mãi không, dù là những bạo chúa, những nhà độc tài cỡ quốc tế?

                        Ngoài Nguyễn Hữu Đang còn có thêm những người này:

                        Phùng Cung, tác giả truyện ngắn “Con ngựa già của chúa Trịnh” [7] : 7 năm tù giam. Vũ Duy Lân (Bộ Nông lâm, bị nghi là cho Nguyễn Hữu Đang một áo len khi đang đi tù): bị giam 7 năm mới tha.

                        Giám đốc Nhà xuất bản Minh Đức: 17 năm như Đang.

                        Nhà nước xuất bản thì lúc nào cũng kêu lỗ, mặc dù in nhiều hơn Minh Đức mà trả quyền tác giả lại rất rẻ mạt. Nhà Minh Đức xuất bản Vũ Trọng Phụng, mời con gái của Phụng lên lĩnh nhuận bút mà còn bỏ tiền về Hà Đông xây mộ cho Vũ Trọng Phụng. Minh Đức định xuất bản Kiều để vào xây mộ cho Nguyễn Du nhưng bị bắt. Ngoài ra từ 1954 đến 1956 Minh Đức còn mua được ½ nhà ưu giá 30.000đ (bằng 150 cây vàng). Nhà Minh Đức làm ăn lời lãi như vậy mà ngoài anh ta ra chỉ có thêm vài người giúp việc. Còn những nhà xuất bản của nhà nước thì nhà nào cũng rất đông người làm mà chả được bao nhiêu việc, nhà nào cũng kêu lỗ, nhưng vẫn cứ cố bao nhiêu rơm cũng ôm.

                        Xưa nay bất cứ ai nhận một công việc gì đều phải có trách nhiệm với công việc ấy, công việc càng khó khăn, lớn lao trách nhiệm càng nặng nề, ở ta lại toàn chuyện ngược đời. Một lái xe chặn chết người muốn sửa sai không được, anh phải đi tù, phải tước bằng. Anh bác sĩ chữa bệnh làm chết người cũng thế, phải tước bằng và đi tù. Đấy là những người làm chết ít người. Còn những người cầm vận mệnh của cả nước đã làm cho đồng bạc mất giá hàng vạn lần, làm cho hầu hết công nông trường xí nghiệp phá sản, cho 90% con cái gia đình thành lưu manh, cho 50% trẻ em mất dinh dưỡng, còn giết oan bao nhiêu người có tài, có đức, còn phá phách bao nhiêu công trình văn hóa lịch sử. Những con giun bị đạp gào lên: "Sai rồi!" thì họ rất bình tĩnh trả lời: "Sai thì sửa!" hoặc bất đắc dĩ phải sửa thì không sửa chân thành.

                        Họ vẫn núp dưới cờ Đảng để đi từ sai lầm tày trời này đến sai lầm tày trời khác. Họ đang làm cho dân không còn tin vào Đảng. Họ xúc phạm vào anh linh những đảng viên ưu tú đã nằm xuống. Họ coi thường những Đảng viên ưu tú đang sống, đang không ngớt đấu tranh để thể hiện những tính cách vô cùng cao quý của người cộng sản cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, khổ trước sướng sau v.v…

                        Hỡi những người Đảng viên quang vinh của Đảng Cộng sản vô cùng quang vinh, người dân đau khổ lâu đời lúc nào cũng đứng bên các bạn.


                        *


                        Phụ lục:

                        Hữu Loan
                        Giai thoại về một bài thơ

                        Hồi ấy vào đầu năm 1955. Tôi lúc ấy là cán bộ biên tập báo Văn nghệ ở Hà Nội. Tôi được cử đi cải cách ruộng đất ở xã Tứ Kỳ, Hải Dương. Cán bộ ai cũng “được” đi cải cách. Đấy là một vinh dự vì “chưa qua cải cách thì chưa thể làm người được".

                        Ngoài việc đi để làm người, tôi còn có nhiệm vụ viết bài cho báo. Theo tinh thần trong những buổi học tập trước khi đi thì nông dân được phát động vô cùng vui sướng phấn khởi. Ngay cả giai cấp địa chủ là có tội mà cũng không oán Đảng vì Đảng rất công minh. Nhưng thực tế thì khác nhiều. Địa chủ không dám oán đã đành nhưng nông dân, chính nông dân thì lại kêu ca rất nhiều về những hành động của anh em cốt cán, nhất là những gia đình liệt sĩ lại càng bị sách nhiễu hết mức như thu gian thuế, hay bắt phải làm cơm rượu cho hàng chục người ăn thì mới cho người đem giúp đến kho độ 5 yến thóc… Họ đều kêu là bao nhiêu từng áp bức, kêu trời, trời xa, kêu Bác Hồ còn cao hơn trời…

                        Tôi bèn làm một bài thơ gửi về tòa soạn.

                        Ngày hôm sau tôi nhận được điện khẩn của anh Xuân Diệu: “Hữu Loan về tòa soạn ngay!”. Chai lì như tôi mà vẫn thấy lo lắng. Vừa về gặp anh Xuân Diệu tôi hỏi ngay:

                        “Cái gì đấy anh? Lành hay dữ?”

                        Xuân Diệu trấn an ngay:

                        "Bài thơ hay quá!"

                        Tôi không khỏi lạ. Hay sao lại phải điện khẩn về, ai mà không khỏi hoảng.

                        “Nhưng phải sửa một câu thì mới đăng được.”

                        Tôi vội hỏi:

                        “Câu nào?”

                        “Câu: Cụ Hồ như trời cao / Kêu làm sao cho thấu!"

                        Tôi hơi bực:

                        “Đăng thì đăng cả, bỏ bỏ cả, cả bài tôi chỉ thích có câu ấy.”

                        Một lúc rồi Xuân Diệu mới rủ rỉ như tâm sự:

                        “Để câu ấy thì ra Bác kính yêu của chúng mình lại xa quần chúng à?”

                        Tôi khẳng định:

                        “Bác là thánh là trời thật, nhưng khi có những người cản mắt Bác thì Bác thấy quần chúng làm sao được. Chính những người như anh đang che mắt Bác đấy. Làm như tôi, lại không che. Tôi đề nghị anh thỉnh thị Bác, tôi sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm về bài thơ này.”

                        Tôi không hiểu anh Xuân Diệu có dám thỉnh thị Bác không, nhưng bài thơ của tôi không được đăng. Tôi chắc lý do không đăng là vì Bác lúc nào cũng quan tâm đến quần chúng, khi quần chúng khổ đã phải thét lên thành tiếng thì Bác không thể nào bình tĩnh được.

                        © 2007 talawas





                        [1]Ông gửi thư cho tên Bang tá ở huyện, vận động quan quân ở huyện hàng Việt Minh, không mất một viên đạn (theo lời kể của con trai út ông là Nguyễn Hữu Đán trước mặt ông).
                        [2]Ông cho biết là chính ông đi hỏi vợ cho tướng Nguyễn Sơn.
                        [3]Bà Phạm Thị Nhu, vợ ông, kể trước mặt ông một số chi tiết sau: "Khi ông nhà tôi quyết định bỏ về quê, gia đình rất túng bấn, bản thân tôi phải may khâu kiếm thêm. Lúc ấy ở quê lại đang chuẩn bị lên hợp tác xã, ông nhà tôi chỉ băn khoăn là về quê vợ con sẽ khổ, song ông bảo tôi: ‘Thôi thì bà với các con chịu khổ để cho tôi được sống lương thiện. Tôi mà chịu khó hót thì nhà lầu xe hơi sung sướng đấy, nhưng tôi không làm được.’ Ông ấy viết 4 lá đơn xin về, trong vòng hai năm mới được giải quyết. Lần cuối còn có hai anh cán bộ đến nhà vận động ông ở lại. Họ nói từ sáng đến trưa, ông bèn cầm cây bút lên bẻ làm đôi, bảo: ‘Làm cán bộ, làm nhà văn khó lắm. Viết vừa lòng nhà nước thì dân chửi cho, viết vừa lòng dân thì có thể đi tù như chơi. Thôi tôi về đi cày.’ Hai anh ấy lại nhờ tôi khuyên ông. Tôi bảo: ‘Nhà tôi đã quyết thì không ai nói được đâu.’ Chúng tôi nuôi 10 đứa con khôn lớn thật vô cùng vất vả. Ông nhà tôi đi thồ đá, tôi làm 2 sào ruộng, lại xay bột làm bánh bán ở chợ. Hôm nào bán ế là gánh về một gánh nặng, cả nhà ăn trừ bữa. Tôi cứ xào một xoong to toàn các thức rau, các con đi học về là nhào vào múc ăn thay cơm. Ba đứa trai lớn thì hàng ngày phải dậy từ 3 giờ sáng, kéo 3 xe chuyến xe cải tiến chở đá từ trên núi xuống hồ cách 2 cây số, bán cho các thuyền rồi mới ăn vội bát cơm độn để chạy bộ 7 cây số đi học."
                        [4]Chú thích của talawas: Tên bài viết này của Nguyễn Hữu Đang là “Cần phải chính quy hơn nữa”, đăng trên Nhân văn số 4, ở vị trí xã luận, trang 1 và trang 2, ngày 5.11.1956
                        [5]Chú thích của talawas: Tên bài hồi ký này của Hoàng Cầm là: “Tiến tới xét lại một vụ án văn học: Con người Trần Dần”, đăng trên Nhân văn số 1, trang 2 và trang 4, ngày 20.9.1956
                        [6]Chú thích của talawas: Truyện ngắn “Thi sĩ máy” của Châm Văn Biếm, Nhân văn số 5, trang 3 và trang 4, ra ngày 20.11.1956
                        [7]Chú thích của talawas: Truyện ngắn này đăng trên Nhân văn số 4, trang 3, ngày 05.11.1956
                        http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=8950&rb=0102
                        #42
                          HongYen 30.01.2007 09:07:00 (permalink)
                          Lão thi sĩ Hữu Loan: Trái sim tím ruột cả khi chín muồi
                          21:57:41, 15/07/2005
                           
                           
                          Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, nhưng giờ đây mỗi lần nhắc đến Màu tím hoa sim, tâm hồn lão thi sĩ Hữu Loan vẫn còn rướm máu. Nỗi đau mất mát cùng với những thăng trầm, dâu bể cuộc đời của Hữu Loan đã để lại cho nền thơ ca Việt Nam một tác phẩm bất hủ...
                           

                          Ngần ngại mãi, cuối cùng tôi mới "đánh liều" về làng Vân Hoàn thăm lão thi sĩ Hữu Loan. Ngại chẳng phải bởi đường xa cách trở, mà ngại bởi đã từng nghe về sự khí khái, khó tính đến cực đoan của thi sĩ. Tóm lại là sợ ông... không tiếp. Nhưng thật bất ngờ, khi được bà Nhu, vợ ông báo có phóng viên Thanh Niên đến thăm, lão thi sĩ đã ra tự tay mở cổng mời tôi vào nhà.
                          Ông nói: "Báo Thanh Niên à? Nghe nhiều rồi. Chắc anh định viết về lão già này chứ gì?". Tôi mừng thầm trong bụng vì sự cởi mở của thi sĩ. Đột nhiên Hữu Loan hỏi tiếp: "Hay là anh đến để xem tôi còn sống hay đã chết rồi?". Cặp mắt tinh anh của ông lóe lên một chút khinh bạc. Tôi thưa với ông rằng mình đến trước hết là vì mến mộ tác giả Màu tím hoa sim, sau nữa là muốn viết một cái gì đấy về ông... Hữu Loan cười: "Nói đùa anh vậy thôi, bạn đọc, anh em cầm bút còn nhớ, còn đến thăm lão già này là hạnh phúc lắm rồi. À, mà cách đây mấy năm Báo Thanh  Niên còn gửi biếu tôi 5 triệu để uống rượu kia đấy...". Nói rồi ông với tay vào gầm bàn lôi ra một chai rượu trắng, rót một chén đưa cho tôi, nói: "Rượu Nga Sơn đấy. Uống đi, rồi tôi sẽ kể về đời tôi, về Màu tím hoa sim cho anh nghe". Ông đưa cả  chai rượu lên miệng tợp một ngụm nhỏ rồi đưa tay vuốt mái tóc dài chớm vai trắng muốt. Cái dáng cao gầy, đạo cốt mà phong trần của lão thi sĩ ngồi bất động trước hiên nhà gợi rất nhiều cảm xúc... Sau tợp rượu, Hữu Loan nhìn lên bầu trời trong ráng chiều đỏ rực. Hình như quá khứ đang dồn dập kéo về. Cặp mắt ông đỏ hoe ngấn lệ. Tôi không nỡ giơ máy ảnh lên để chụp khoảnh khắc đầy tâm trạng ấy của lão thi sĩ...
                           
                          ...Bài thơ Màu tím hoa sim ra đời trong một hoàn cảnh đau thương, một biến cố lớn trong đời Hữu Loan. Năm 1949, Hữu Loan kết hôn với bà Lê Đỗ Thị Ninh, cưới xong, ông lại tất tả trở về đơn vị mang theo hình ảnh người vợ trẻ - một tiểu thư con nhà khuê các theo gia đình sơ tán nơi ấp nhỏ Thị Long (Nông Cống). Xa nhau chưa được 2 tháng, Hữu Loan nhận được hung tin người vợ trẻ chết đuối khi giặt quần áo ngoài sông. Bàng hoàng, đau đớn, ông vô hồn cầm cây bút trong tay và những vần thơ như máu và nước mắt cứ trào ra: "Nàng có ba người anh đi bộ đội - Những em nàng có em chưa biết nói - Khi tóc nàng xanh xanh…". Cái hình ảnh hoa sim tím ngắt chạy ngút ngàn trên những triền đồi vốn đã báo hiệu sự chia ly nhạt nhòa nước mắt. Thời chiến, cái chết đối với người lính nào có sá gì. Họ chỉ lo mình "không về" thì thương cho "người vợ chờ - bé bỏng chiều quê". Thật nghiệt ngã, giữa cái thời loạn ly chinh chiến ấy, khách chinh phu không ngã nơi sa trường mà "người gái nhỏ hậu phương" đã ra đi... Và người chiến sĩ - thi sĩ Hữu Loan vẫn tiếp tục hành quân để làm tròn nhiệm vụ của người lính thời chiến. Giữa những cuộc hành quân ấy, hình ảnh người vợ hiền bé bỏng lại hiện lên mỗi khi nhà thơ đi qua những đồi sim tím: "Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím - áo nàng màu tím hoa sim - Ngày xưa - một mình - đèn khuya - bóng nhỏ - Nàng vá cho chồng tấm áo - ngày xưa…".
                           
                          Chiều dần buông, lão thi sĩ Hữu Loan vẫn say sưa nói chuyện văn chương và kể chuyện cuộc đời cho tôi nghe. Xen kẽ giữa những câu chuyện  không đầu không cuối, tôi thấy ông nhắc nhiều đến những cái tên Văn Cao, Hoàng Cầm, Chế Lan Viên, Nguyễn Huy Tưởng, Trần Dần... Đặc biệt, ông nói về tướng Nguyễn Sơn - vị "lưỡng quốc tướng quân" văn võ toàn tài - với một niềm trân trọng, tin yêu hết mực. Ông bảo, chính ông là người đã đi hỏi vợ cho tướng Nguyễn Sơn. Cái ngày tướng Nguyễn Sơn mất, ông đã viết  "Nguyễn Sơn như một con tàu biển khổng lồ - Đi đến đâu không cho sóng ngủ...". Hữu Loan gật gù: "Ở đời có những người tuy mất rồi nhưng cái tên của họ vẫn tạc vào trời xanh thăm thẳm, mà người đời sau phải cúi đầu bái phục. Nguyễn Sơn là như vậy!".
                           
                          Sự đột ngột trở về quê, bỏ lại sự nghiệp văn chương dang dở và những buồn vui thế sự nơi Hà thành những năm đầu giải phóng của Hữu Loan đã khiến cho những người yêu mến ông bất ngờ và tiếc nuối. Ở quê nhà, ngày ngày thi sĩ Hữu Loan vẫn nhẫn nại làm anh tiều phu lên rừng đốn củi, chở xuống chợ huyện bán để lấy tiền nuôi một bầy con khôn lớn... (Năm 1953, sau 4 năm người vợ trẻ mất, Hữu Loan đã cưới bà Phạm Thị Nhu ở xã Nga Văn, huyện Nga Sơn, Thanh Hóa. Hai ông bà có với nhau 10 người con và giờ có tới 40 cháu nội, ngoại).
                           
                          Khi được hỏi ông có "ân hận" gì sau 50 năm ẩn dật nơi thôn dã hay không, Hữu Loan cười, nụ cười độ lượng của ông già ở tuổi 90 đã trải qua bao giông bão, trầm luân của thế sự. Ông bảo: "Nói làm gì những chuyện buồn não đã qua. Đời tôi nó y như cái anh Màu tím hoa sim ấy. Nhưng ơn trời - giờ đây tôi có cả một đàn con, cháu... Người đời vẫn nhắc đến Màu tím hoa sim, đến Đèo Cả là Hữu Loan này  mãn nguyện lắm rồi. Vả lại, số tôi là cái số mục đồng nên làm sao có thể xa bờ tre, con trâu cho được...".
                           
                          Ngọc Minh
                           
                          http://www3.thanhnien.com.vn/Doisong/2005/7/16/116001.tno
                          #43
                            HongYen 05.02.2007 20:47:21 (permalink)
                            Đỗ Hoàng
                            Gặp nhà thơ Hữu Loan ở Đồng Nai
                            Tôi vào Đồng Nai tháng 8 năm 1987, sang năm 1988, tôi được kết nạp vào Hội Văn học Nghệ thuật Đồng Nai. Tháng 6 năm đó, hội mở trại sáng tác văn học Long Hải – Bà Rịa (lúc này Bà Rịa đang thuộc Đồng Nai). Về dự trại là niềm vui lớn của anh em văn nghệ, vì họ được viết, được giao lưu gặp gỡ, làm quen anh em, bạn bè. Ở trại này ngoài những bậc đàn anh kính thân từ trước như nhà văn Hoàng Văn Bổn, Lê Huy Khanh, anh em bạn hữu như Nguyễn Thái Hải (Khôi Vũ), Đàm Chu Văn, Cao Xuân Sơn, Nguyễn Đức Thọ, Lê Đăng Kháng, Phạm Thanh Quang, Hoài Tố Hạnh, tôi còn được quen thêm Trương Nam Hương, Nguyễn Hoài Nhơn, Nguyệt Cầm… Các anh Hoàng Văn Bổn, Đàm Chu Văn, Khôi Vũ, Cao Xuân Sơn đã tận tình giúp đỡ tôi những ngày tha phương cầu thực. Đa phần các cây viết ngày ấy đều đã trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Và thật may mắn trong đời tôi, tôi được gặp nhà thơ lừng danh: “Màu tím hoa sim” – Hữu Loan! Tôi không thể nào diễn tả nổi lòng cảm mến kính phục của mình trước một bậc thật tài, thật nổi tiếng mà cũng thật chua chát đớn đau trước nghịch lý của đời!

                            Tôi nhớ khi lên Biên Hoà thì xe của Hội chở anh em sáng tác đã đi rồi, tôi đành nhảy xe đò xuống Long Hải. Khoảng chập choạng thì về đến nơi, anh em tay bắt mặt mừng hỏi han đủ chuyện và kéo nhau đi ăn cơm. Thật là những bữa ăn ngon mà những người làm mướn như tôi không thể tưởng tượng được.

                            Lúc về phòng viết, tôi đi ngang qua phòng khách, thấy một ông lão dáng người tầm thước, mảnh mai, tóc trắng như cước xoã ra hai bên thái dương. Người ấy đang đưa nhẹ hai tay vuốt cho hai mái tóc chảy xuôi. Dưới ánh nê-ông trắng bạc trông ông như một ông tiên trong truyện cổ tích của trẻ em. Tôi tự lẩm bẩm “Tiên lão có tướng thật đẹp” và nghĩ chắc đó là bậc trưởng lão của tỉnh hay của trung ương đến an dưỡng ở đây.

                            Định bước đi thì Đàm Chu Văn, Cao Xân Sơn, Nguyễn Đức Thọ, Trương Nam Hương, Hoài Tố Hạnh, Nguyệt Cầm gọi với ra bảo tôi vào chơi.

                            Nguyễn Đức Thọ giới thiệu đây là nhà thơ Hữu Loan. Ôi nhà thơ Hữu Loan! Người vừa đứng ở phòng khách là ông đấy? Tôi ngắm nhìn ông. Ông năm ấy cũng đã 70 tuổi rồi nhưng trông ông còn nhanh nhẹn, nhẹ nhàng, không như nhiều người ở vào độ tuổi ông thường run rẩy, mỏi mệt. Tôi khẽ khàng chào ông và ngồi xuống cùng bạn bè nghe ông trò chuyện. Từ bé tôi đã nghe danh nhà thơ “Màu tím hoa sim”. Bây giờ được gặp ông, tôi thật xúc động. “Màu tím hoa sim", mẹ tôi và các anh chị trong làng tôi thường hay hát bài hát này cùng với các bài “Đêm đông” , “Hồn vọng phu”, “Tiêu tương”. Sau này học lên, qua chuyền tay, tôi có dịp đọc và thuộc bài thơ “Màu tím hoa sim”: “Ngày hợp hôn, nàng không đòi may áo mới. Tóc nàng chưa kín búi… Nàng có hai người anh đi bộ đội .. Được tin em gái mất trước tin em lấy chồng”… “Không chết chàng trai khói lửa, mà chết em gái nhỏ hậu phương!” Thuở bé, tôi chưa hiểu được nội dung và nghệ thuật nhưng tôi cũng như bao người đều bị cuốn hút từ trong tâm linh bài thơ được phổ nhạc. Tuy các anh chị phải hát chui, nghĩa là không được hát trên loa phóng thanh, hát giữa hội nghị nhưng rồi ai cũng thuộc, ai cũng hát. Khi nhập ngũ, xung phong tham gia cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc, tôi càng thấm thía cái bất tử của thi phẩm. Dù phải qua bao thăng trầm vì sự hiểu biết hạn hẹp của con người nhưng những giá trị nhân văn đích thực thì dân tộc nâng niu và chấp nhận. Tôi đồng cảm và hiểu được lòng nhân đạo, nhân ái vượt qua nhận thức thời đại của nhà thơ! Hữu Loan không chỉ nổi tiếng với “Màu tím hoa sim”, nhà thơ còn có “Đèo Cả”, “Người không chết” viết về tướng Nguyễn Sơn: “Một đám tang đi. Đi không bao giờ đến huyệt”. Hữu Loan không viết nhiều. Trong đời thơ dài như vậy, ông có chừng trên dưới 30 bài thơ được in nhưng sức nặng và tiếng vang của những bài thơ ấy thì các nhà thơ nghìn bài cũng phải nể trọng! Bây giờ tôi đã được gặp nhà thơ ngoài đời thật. Tôi kính cẩn đến bắt tay và chào nhà thơ. Ông nắm chặt tay tôi. Bàn tay ông cứng chắc và thực là gân guốc, khác hẳn với dáng dấp tiên phong đạo cốt của ông. Ông vẫn tươi cười rạng rỡ, còn tôi thật bồi hồi xúc động trước một kỳ nhân mà chân tình giản dị dễ cảm mến ngay vừa gặp gỡ! Trừ nhà văn Hoàng Văn Bổn, còn tất cả anh em chúng tôi lúc đó chưa ai thành danh mà sau này có chút tên tuổi văn chương thì làm sao so được với “Màu tím hoa sim”! Mà Hữu Loan cũng chưa nghe trên văn đàn tên ai trong đám chúng tôi. Thế nhưng ông vẫn đối đãi với chúng tôi như những thi hữu bằng vai, bằng lứa. Cho đến bây giờ tôi vẫn thấy vui và vinh dự: Trại sáng tác văn nghệ Long Hải được khai mạc từ lúc có cuộc tiếp xúc với nhà thơ Hữu Loan.

                            Đêm ấy thực sự là đêm thơ văn nghệ Đồng Nai. Sau khi tôi, Cao Xuân Sơn, Đàm Chu Văn, Nguyễn Đức Thọ, Trương Nam Hương, Hoài Tố Hạnh, Nguyệt Cầm đọc thơ… là đến lượt đại thi nhân Hữu Loan đọc thơ và nói chuyện thơ. Ông đọc nguyên bản bài thơ “Màu tím hoa sim” mà không có sách báo nào lúc ấy in đúng. Ông đứng lên giữa cử toạ. Dù đây chỉ là cuộc tao ngộ ngẫu hứng. Giọng ông đọc thơ vang và khoẻ, mang nặng âm sắc Thanh Hoá không pha trộn. Trước khi nói hoặc khi đọc, ông đều đưa tay vuốt hai mái tóc bạc như cước cho ngay ngắn rồi mới cất giọng. Lúc này tôi mới nhìn kỹ ông. Tại sao một con người tài ba đỗ tú tài Tây toàn phần, khi cách mạng thành công giữ chức Ty trưởng bốn ty mà toàn những ty “có chữ” như: Ty Giáo dục, Ty Tuyên truyền, Ty Canh nông, Ty Văn hoá, mà cuộc đời ba đào làm vậy? Thời điểm ấy và cả ngay bây giờ ít người tin vào tướng số tử vi nhưng nhìn ông tôi thấy ông cũng bị nhân tướng học chi phối. Ông có trán rộng nhưng hơi thấp, hàm én ngang tàng nhưng cằm ngắn. Mái tóc nhô ra giữa đỉnh trán thành hình chữ V thì không thể hanh thông trên đường hoạn lộ. Nhưng bù lại giữa hai lông mày của ông được đóng chữ Xuyên và có một nét lớn dài như vành trăng khuyết giống như dấu trên trán Bao Công, tỏ rõ ông là người kỳ tài và trường thọ!

                            Sau cuộc hội ngộ giữa các anh chị hậu sinh với lão thi nhân thì hầu như lúc nào rảnh viết chúng tôi đều tụ tập đến hầu chuyện ông. Ông đủ khối chuyện. Chuyện các nhà thơ Trần Mai Ninh, Hoàng Lộc, Trần Hữu Thung, Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán, chuyện Trương Tửu, Nguyễn Mạnh Thường… Hay nhất là chuyện Trương Tửu hầu rượu Tản Đà. Sau này Trương Tửu có viết về việc này và trở thành một tư liệu quí về đại thi sĩ Nguyễn Khắc Hiếu. Và thứ nữa là chuyện thi sĩ Hoàng Cầm diễn vở kịch Kiều Loan của mình mà lấy được người đẹp.

                            Hữu Loan có sự đánh giá khá chính xác thơ ca kháng chiến chống Pháp. Đấy là cuộc cách tân mạnh dạn và thành công. Không kể các bậc khai quốc công thần nền văn nghệ kháng chiến thì những tên tuổi như: Trần Mai Ninh, Hữu Loan, Hoàng Lộc, Trần Hữu Thung, Hoàng Trung Thông, Chính Hữu… có vị trị xứng đáng trong nền văn học cách mạng!

                            Biết tôi có dịch thơ Đường, ông khen tôi dịch bài “Chiến thành nam” của Lý Bạch có hai câu xuất sắc là: “Rửa gươm trong sóng bể dâu, Ngựa ăn cỏ máu tận đầu Thiên Sơn”. Ông bảo thơ Đường là đỉnh cao của thơ ca Trung Quốc và cũng của nhân loại. Không nhà thơ Việt Nam nào không học thơ Đường, không ảnh hưởng Đường thi! Rồi ông đọc bài thơ ông dịch, “Tương tiến tửu” của Lý Bạch. Bài thơ dịch sát nghĩa và giữ đúng hình thức trong nguyên bản. Tôi còn nhớ mở đầu Lý Bạch viết: “Quân bất kiến! Hoàng Hà chi thuỷ thiên thượng lai”. Hữu Loan dịch: “Thấy chăng ai! Dòng nước Hoàng Hà từ trên trời chảy xuống!” Đó cũng là một bài dịch thành công của Hữu Loan.

                            Đàm đạo, tâm tình với Hữu Loan tôi mới biết đời ông thực sự trầm luân sau vụ Nhân văn-Giai phẩm. Ông thì không bị liên luỵ và hệ luỵ gì như các bậc đàn anh khác, nhưng với tính khí cương cường thẳng thắn, trung thực, ông ghét cay, ghét đắng đám hãnh tiến xu thời, nhân cớ dậu đổ bìm leo bán rẻ bạn bè để mưu cầu lợi ích cá nhân. Với lại người đời chưa hiểu hết sức nghĩ, sức cảm trong “Màu tím hoa sim”, vu cho ông hết tội này đến tội khác, ông chán đám quan tham ô lại, ông phủi tay bỏ về quê thồ đá nuôi vợ con!

                            Kể đến năm 1988, ông đã có thâm niên hơn 30 năm thồ đá. Một vóc dáng thư sinh như ông mà làm cái công việc của lực điền trong hơn 30 năm qua là một việc hi hữu. Nhưng đám trương tuần, hương vệ đời mới có để cho ông yên thồ đá kiếm sống đâu. Khi thì chúng xầm xì: “quân Nhân văn-Giai phẩm”, khi thì chúng hỏi giấy tờ gốc chuyển về. Không có giấy tờ, dù ông ở giữa bổn quán chúng vẫn nói ông là dân lậu. Chúng không cho ông nhập khẩu dài dài. Ngay bây giờ không có hộ khẩu đã khó sống, huống hồ thời ấy, huống hồ người có dính líu đến Nhân văn– Giai phẩm và có bài thơ “nhạc vàng”!

                            Ông đau xót kể lại:


                            Có một lần mình thồ đá dọc bờ sông Mã, đám công an xóm đến hạch sách mình. (Hồi ấy và cho đến năm 2004 công an địa phương chưa có sắc phục riêng như bây giờ nên không dễ phân biệt với người thường). Chúng nó bảo: “Cho xem giấy tờ”. Mình quát: “Tôi người làng đây giấy tờ gì!” Chúng bảo: “Vẫn biết ông là người làng, nhưng ông bỏ làng bao nhiêu năm, ông làm gián điệp cho Mỹ –Diệm thì ai biết!” Tôi tức quá tôi chưởi: “Mồ cha chúng mày, chúng mày nhìn ai cũng là gián điệp cả!”. “Không gián điệp thì cũng Nhân văn–Giai phẩm, nhạc vàng, còn hơn cả gián điệp!” Chúng xỉa xói. “Bọn mày chưa vỡ bọng cứt mà đã học đòi tố láo! Gọi cha mày ra đây!” Tôi chưởi lớn. Thế là chúng xông vào đánh tôi nằm bẹp trên mặt đê, còn hai sọt đá chúng xô xuống sông!

                            Bài học vỡ lòng chua chát ấy tôi khắc ghi khi trở lại sống ở bổn quán. Cuộc sống thôn dã cũng có nhiều mặt tốt của nó nếu như dân trí được nâng lên. Còn với dân trí thấp, bạo lực lộng hành thì sống ở nơi thôn dã quả là rùng rợn. Tôi biết những kẻ thừa hành công vụ cũng chỉ là người ngu tối. Vì những ngày đó có nhiều kẻ làm to gấp nhiều lần công việc của tôi mà nhận thức xã hội, học lực, văn hoá còn quá yếu huống gì đám trương tuần, dân quân, du kích, công an xóm, công an xã. Đến như tôi, tôi cũng chưa hiểu Nhân văn-Giai phẩm sai lầm ở chỗ nào và bài hát “Màu tím hoa sim” nhạc vàng ở đâu, huống gì người mù chữ.

                            Nhiều anh em mà đời gọi là Nhân văn–Giai phẩm thật ra là những con người tốt, muốn đất nước mình tiến nhanh hơn, cuộc sống tươi đẹp ơn, chống bạo quyền, chống tham ô, lãng phí. Khi tôi bỏ về quê, tôi đã biết có nhiều người vì quá cực đoan mà vu oan cho họ.

                            Còn đối với tôi, chưa bao giờ tôi nghĩ “Màu tím hoa sim” là thơ vàng hay nhạc vàng gì cả. Đây là bài thơ hoàn toàn riêng của tôi, tôi viết cho người vợ hiền thảo của mình chết còn quá trẻ. Người thật, việc thật, chi tiết nào trong bài thơ đều cũng là sự thật. Đến như sự mất mát hy sinh cũng là sự thật nữa là. Vợ tôi tên là Lê Đỗ Nhật Ninh, khi cưới tôi thì hai người anh trai của nàng là bộ đội đang chiến đấu ở vùng Đông Bắc không về dự cưới em gái được. Đám cưới kháng chiến, mà nhà tôi cũng khó khăn nên nàng đã phá vỡ tục lệ là không may áo cưới. Đúng thật trăm phần trăm như vậy. Còn nàng ở hậu phương lại bị chết còn tôi người lính xông pha lửa đạn thì không chết. Cuộc chiến tranh xảy ra ở đất nước ta nó dữ dội là vậy và sự thật là vậy, có gì khác nữa!

                            Thời điểm năm 1988 không được như bây giờ nhưng cũng hơn vạn lần thời Hữu Loan bỏ về quê thồ đá. “Màu tím hoa sim” tuy không được phổ biến nhưng người ta cũng không nặng nề nữa. Xã hội đã có cái nhìn cởi mở. Điều ấy cũng là may mắn cho Hữu Loan và nhiều người như ông.

                            Hữu Loan ở trại sáng tác Long Hải đến ngày thứ năm, tôi mới biết ông đến dự trại cũng với “tư cách” chui. Nghĩa là không phải tiêu chuẩn hội viên Hội Văn nghệ tỉnh Đồng Nai, cũng không phải khách mời của Hội Văn nghệ hay là của tỉnh! Lúc này nhiều người như ông cũng chưa được phục hồi hội tịch. Tức là danh hiệu nhà thơ chưa được Nhà nước công nhận. Nhân dân công nhận mà Nhà nước chưa công nhận thì đi dự trại sáng tác của Hội Văn nghệ địa phương cũng không có tiêu chuẩn. Lúc này cả nước đang đói to. Lương cán bộ chỉ sống khoảng dăm bảy ngày, gạo rất hiếm, người ta phải bán bo bo thay gạo. Ở Nam bộ có đỡ hơn ngoài Bắc nhưng cũng không thể phóng khoáng mời tất cả anh em văn nghệ sĩ dự trại được. Khi tâm tình, tôi hỏi nhà thơ vào du lịch Nam bộ do ai mời thì Hữu Loan nheo mắt cười khỉnh: “Ma nào nó mời, tớ có hai đứa con trai là thợ xẻ, chúng nó vào Nam bộ đi xẻ thuê, tớ bám vào luôn.”

                            “Bác thì như vậy, còn con cái bác có sao không?” Tôi tò mò hỏi.

                            “Tôi có đứa con gái học giỏi lắm, thi đỗ đại học nhưng trên cũng chỉ cho đi dạy cấp hai. Đám con trai lớn thì như vậy đấy.”

                            Nghe ông kể, tôi rưng rưng nước mắt. Đến con chó nó cũng được du lịch vũ trụ, còn nhà thơ tài danh của mình theo con tha phương cầu thực!

                            Ông sống được nhiều ngày ở Nam bộ là nhờ được hai người đẹp mến mộ tài danh ông là Hoài Tố Hạnh và Nguyệt Cầm. Hai nữ sĩ đầy nghĩa hiệp mời ông về nhà, chăm lo ăn ở cho ông mấy tháng trời. Nguyệt Cầm thì tôi không biết nhà riêng, nhưng Hoài Tố Hạnh thì tôi được Hạnh mời về nhà riêng ở lại lúc tôi đang lang thang cơ nhỡ tại Biên Hoà. Đó là một buổi chiều đẹp nhưng tôi lại rất buồn vì tiền đã hết mà việc không xin được. Ông phó tổng biên tập Đài Phát thanh Đồng Nai nói rằng: “Đài rất cần người, Nam bộ rất thiếu cán bộ nhưng nhận cán bộ là phải qua Ban Tổ chức tỉnh và phải có hồ sơ chuyển đến đầy đủ, chứ không nhận tay ngang”. Hoài Tố Hạnh lúc này đang làm phóng viên cho Đài Phát thanh Đồng Nai thấy tôi đang lang thang, cô bảo tôi về nhà nghỉ rồi sáng mai đi tiếp. Tôi đã nhờ Hạnh viết giấy bảo lãnh cho tôi thay chứng minh thư, để bảo đảm an ninh mà địa phương cư ngụ của Hạnh yêu cầu. Tôi được Hạnh cho ăn cơm và tối đó được ngủ riêng tại nhà Hạnh.Tôi nghĩ chỉ những người bỏ quê kiếm sống mới có những nghĩa cử vượt qua nếp thường như vậy và đẹp như vậy. Tôi là người con trai đã có vợ con, Hạnh lúc đó là gái chưa chồng. Tôi hết sức trân trọng, cảm kích sự cưu mang của Hạnh.

                            Với Hữu Loan, Hoài Tố Hạnh và Nguyệt Cầm cũng cưu mang như vậy! Khi họ đi dự trại văn nghệ tỉnh, họ kéo ông đi theo luôn. Tôi đồ rằng nếu không có cuộc cãi vã to tiếng giữa hai người đẹp vì Hữu Loan thì chắc rằng nhà thơ cứ yên tâm dự trại cho đến mãn khoá. Nhưng tối thứ năm xui xẻo ấy, hai nữ sĩ lại túm tóc, lôi áo nhau ra giữa hội trường của nhà sáng tác mà thượng cẳng chân, hạ cẳng tay, giống hệt cảnh trong tranh đánh ghen dân gian. Hữu Loan đứng giữa hai người phải khóc và nói thơ hoà giải: ”Đừng ghét nhau chóng già, Hãy thương yêu nhau như ngày qua!”

                            Với người giữ tay hòm chìa khoá, lo ăn uống cho trại sáng tác thì không thể “nghệ sĩ” mãi được. Cái gì đến thì nó đến. Nó đến thì Hữu Loan phải ra đi. Sáng ngày thứ bảy, Hữu Loan phải ôm gói trái bưởi lên đường. Anh em thương lắm nhưng không làm gì được. Lúc này tôi lại nhớ đến bài thơ “Mưa thu làm tốc mái nhà” của Đỗ Phủ, học Đỗ Phủ ước có nhà nghìn gian để che cho vạn hàn sĩ trong thiên hạ đang cơ nhỡ.

                            Đêm trước khi chia tay, anh em đến với ông rất đông. Tôi cũng được cùng anh em lại hầu chuyện Hữu Loan. Ông chép thơ ông vào sổ tay nhiều người bạn. Tôi cũng được ông chép một bài hiện còn trong sổ tay ở quê nhà. Bài ấy có tựa đề là “Lời cây gỗ vuông”. Chữ ông nghiêng nghiêng, kiểu chữ người học trước Cách mạng tháng Tám, nét hơi to nhưng dễ đọc. Tôi nhớ mấy câu kết như thế này:


                            “Tôi cây gỗ vuông chành chạnh suốt đời.
                            Lăn long lóc,
                            Chân tín đấy!
                            Mặc rìu, bào phó mộc!”

                            Rồi ông ký cẩn thận và viết cho tôi thêm một vài lời: “Chép tặng Đỗ Hoàng - Một người có tâm mà tôi tin tưởng sau này!”

                            Sáng chia tay nhà thơ lại là một sáng rất đẹp. Biển Long Hải nắng nôi tràn trề, cây cối giữa mùa mưa lá nõn non xanh bất tận. Bà Rịa như một cõi Bồng Nhược. Và cảnh trời nước như thế này thì chỉ có Niết Bàn mới xứng đáng, chứ đâu phải cảnh chia ly đói nghèo với nhà thơ kính yêu đã và đang chịu khổ nạn!

                            Hữu Loan vẫn măc bộ áo quần nâu cố hữu, tay cầm bọc áo quần gói bằng tấm ni lông đã ngả màu vàng úa, chân đi dép tông, gót dép đã mòn như lỡi dao cạo, đầu không đội mũ. Chiếc mũ cói rộng vành ông treo hờ sau lưng trông như tráng sĩ Kinh Kha vượt sông Dịch báo thù cho chủ. Mái tóc bạc như cước nổi bật giữa vạt nắng vàng không lẫn vào cảnh vật cỏ cây lúc này. “Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên, Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên“ (Người tráng sĩ bạc đầu buôn rầu ngẩng nhìn trời. Chí lớn và đường sống hai cái đều mờ mịt). Tuy hình hài bên ngoài trông quá trần ai như vậy nhưng dáng dấp ông vẫn toát lên sự cao thượng, vẫn xứng với phong cách đạo cốt tao nhân mặc khách. Cảnh chia tay diễn ra trong sự buồn thương, bi hùng.

                            Hữu Loan đi đã khuất sau các trảng đồi bát úp nhưng mái đầu bạc của ông như vẫn còn trước mặt chúng tôi. Biển Long Hải vẫn xô vào bờ từng đợt sóng bạc trắng như tóc của thi nhân. Bất giác tôi nhớ lại bài thơ “Bên sông tiễn Hạ Chiêm“ của Đỗ Phủ viết gần hai nghìn năm trước:


                            “Bi quân lão biệt lệ triêm cân
                            Thất thập vô gia vạn lý thân.
                            Đãn kiến chu hành phong hựu khởi.
                            Bạch đầu lãng lý, bạch đầu nhân!”

                            Tạm dịch:


                            Thương anh già cả lệ trào
                            Mái nhà không có sống sao giữa đời?
                            Con thuyền, ngọn gió chia phôi.
                            Bạc đầu sóng, bạc đầu người ra đi!

                            Hà Nội 12-8-2005

                            Nguồn: Tạp chí Nhà Văn tháng 11/2006. Bài đăng trên talawas được biên tập lại đôi chỗ với sự đồng ý của tác giả. http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=8837&rb=0101 
                            #44
                              Thay đổi trang: < 123 | Trang 3 của 3 trang, bài viết từ 31 đến 44 trên tổng số 44 bài trong đề mục
                              Chuyển nhanh đến:

                              Thống kê hiện tại

                              Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                              Kiểu:
                              2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9