TRUYỆN TRINH THÁM TQ: ĐỀ THI ĐẪM MÁU
Nhu Tam 17.10.2010 00:42:58 (permalink)
0
GIỚI THIỆU CUỐN TIỂU THUYẾT TRINH THÁM TRUNG QUỐC

ĐỀ THI ĐẪM MÁU

Đối với bạn đọc Việt Nam, tiểu thuyết trinh thám Trung Quốc vẫn còn khá mới lạ, bởi chúng ta quen đọc truyện trinh thám phương Tây. Cuốn tiểu thuyết trinh thám TQ mang tên “Đề thi đẫm máu” do công ty Cổ Nguyệt Books liên kết với NXB Văn học ấn hành chuẩn bị ra mắt độc giả vào ngày 15/10/2010 sẽ đem đến cho các bạn một cái nhìn hoàn toàn mới về tiểu thuyết trinh thám TQ.

Tựa đề: Đề thi đẫm máu
Tác giả: Lôi Mễ
Dịch giả: Hương Ly
NXB: Văn học
Khổ 14,5 x 20,5cm
Số trang: 488 trang
Giá: 79.000đ

Một tên sát thủ có sở thích uống chất hỗn hợp máu nạn nhân với sữa tươi, hắn có căn bệnh gì đặc biệt hay là con quỷ hút máu bất tử nghìn năm trong truyền thuyết?
Trong thành phố C liên tiếp xảy ra 4 vụ cưỡng hiếp giết người, nạn nhân đều là những cô gái trí thức từ 25 - 35 tuổi, đây rốt cuộc là giết người trả thù hay chỉ đơn giản là cưỡng dâm?
Hàng loạt cái chết bí ẩn thảm khốc của những người sống trong trường Đại học J liên tiếp xảy ra. Ở mỗi hiện trường vụ án, hung thủ đều để lại gợi ý cho vụ án tiếp theo, nhằm mục đích gì?
Trong hàng loạt các vụ án ly kỳ khiến cảnh sát bàng hoàng bó tay, cậu sinh viên Phương Mộc trầm mặc kiệm lời đột nhiên bị cảnh sát lôi vào cuộc. Tên ác quỷ giấu mặt lần lượt giết hại những người bạn của cậu, vì sao? Khi câu trả lời được vén màn bí mật, thì đề thi tàn khốc đã bị tích 5 dấu X đẫm máu. Một cuộc đấu trí so tài khốc liệt đầy kịch tính nổ ra… Ai sẽ là người thắng cuộc?

Cuốn tiểu thuyết với cấu tứ chặt chẽ, tình tiết hợp lý, không thừa hay sơ hở bất cứ chi tiết nào, khiến độc giả bị cuốn hút từ câu chữ đầu tiên đến cuối cùng.
Tác phẩm này hiện đang rất hot ở TQ, nhiều khi “cháy” hàng. Theo thông tin tác giả cung cấp, tác phẩm đã được bán bản quyền phim tại TQ.
Sở dĩ tác phẩm gặt hái được thành công lớn như vậy, là do tác giả - Lôi Mễ, là giảng viên một trường Cảnh sát của Trung Quốc. Do đặc thù nghề nghiệp, tác phẩm của anh rất chuyên nghiệp, cẩn mật, rất đáng để tìm đọc.
Trước khi xuất bản thành sách, tác phẩm “Đề thi đẫm máu” đã nổi danh trên mạng, được độc giả đón nhận nồng nhiệt, các fan đều gọi tác giả là “thầy”.

Đề thi đẫm máu đã nhận được nhiều lời khen ngợi của độc giả:
- Trong số rất nhiều những cuốn tiểu thuyết trinh thám phạm tội trong nước tôi đã đọc, “Đề thi đẫm máu” chính là cuốn xuất sắc nhất. Tác giả dùng ngòi bút tinh tế và chuyên nghiệp, đã kể lại cho chúng ta một câu chuyện phạm tội hết sức ly kỳ rùng rợn.

- Chúng tôi cam tâm tình nguyện lạc vào mê cung mà Lôi Mễ đã dàn dựng. Sau khi bò được ra, nhắm mắt lại, tưởng đã kết thúc, kết quả là những nhân vật trong truyện đều ở ngay bên cạnh chúng ta. Mong rằng tác phẩm này sớm được dựng thành phim truyền hình!

- Cuốn tiểu thuyết có kết cấu chặt chẽ, tiết tấu căng thẳng gấp gáp, khiến tôi quên ăn quên ngủ, bị cuốn hút vào từng câu từng chữ trong tác phẩm, không thể thoát ra được!


Cuốn sách được Công ty Cổ phần Văn hóa và Truyền thông Phương Đông phát hành độc quyền trên toàn quốc. (ĐT: 043. 39334654)

Ngoài ra, các bạn độc giả sẽ được giảm giá 30% nếu đến tận trụ sở Công ty Cổ Nguyệt Books - B12 lô 12 khu ĐTM Định Công, Hoàng Mai, Hà Nội
(Công ty chúng tôi hiện có 2 tác phẩm: Mẹ chồng ăn thịt cả nhà nàng dâu và Đề thi đẫm máu.)

Để tìm hiểu thêm về nội dung cuốn tiểu thuyết, mời các bạn truy cập vào địa chỉ bên dưới:
http://vn.myblog.yahoo.com/conguyetbooks
Quý vị độc giả nếu có nhu cầu đặt mua sách online, xin vui lòng đăng ký bằng cách:
- Liên hệ với Công ty CP Đầu tư và Phát triển Cổ Nguyệt qua số điện thoại: 043. 6407125/ 0983110418 gặp Hương Ly
Địa chỉ: B12 lô 12 Khu ĐTM Định Công- quận Hoàng Mai - Hà Nội
- Hoặc gửi email tới hòm thư: conguyetbooks@gmail.com;

Trân trọng kính báo,
Công ty CP Đầu tư và Phát triển Cổ Nguyệt
Địa chỉ: B12 lô 12 Khu ĐTM Định Công - quận Hoàng Mai - Hà Nội
Điện thoại: 043.6407125 – 0983110418 (gặp Hương Ly)

Nếu bạn yêu thích cuốn sách, hãy gửi thư này cho các bạn của mình nhé! Thanks!

PHẦN DẪN

QUÁI VẬT

Đêm hôm qua, bọn họ lại đến tìm tôi!
Họ vẫn không nói gì, chỉ im lặng đứng bên đầu giường tôi. Còn tôi thì vẫn cứng đờ người, nằm bất động trên giường, cứ trơ mắt nhìn những cơ thể bị cháy đen, không đầu, vây xung quanh mình. Còn anh ta, anh ta cũng vẫn thì thầm bên tai tôi: “Thực ra, cậu cũng giống tôi thôi!”
Tôi đã quá quen với việc gặp gỡ bọn họ lúc đêm khuya, thế nhưng, toàn thân vẫn đầm đìa mồ hôi.
Cho đến khi họ lặng lẽ bỏ đi, tôi mới lại nghe thấy hơi thở đều đều của Đỗ Ninh bên giường đối diện.
Ánh trăng lạnh lẽo ngoài cửa sổ soi vào, ánh đèn trong phòng ký túc xá đã tắt từ lâu, cảm thấy hơi lành lạnh.
Tôi gắng gượng trở mình, sờ được con dao găm để dưới gối, cảm nhận được sự thô ráp, sần sùi của cán dao, hơi thở dần bình thường trở lại.
Rồi tôi chìm vào giấc ngủ mê man.

Thỉnh thoảng tôi cũng quay về thăm trường cũ - trường Đại học Sư phạm. Tôi ngồi bên vườn hoa trước cổng ký túc xá nam sinh số 2, ở đó trước đây có một cây hòe cổ, bây giờ là những loài hoa sặc sỡ đang rung rinh trước gió. Tôi thường trầm ngâm ngắm tòa nhà ký túc xá hiện đại 7 tầng trước mắt, cố hình dung lại dáng vẻ trước đây của nó: gạch đỏ đã bạc màu, những cánh cửa sổ gỗ lung lay như sắp rụng, cánh cổng sắt to nặng nề han gỉ.
Và cả những khuôn mặt trẻ trung đã từng đi ra đi vào tòa nhà này. Đột nhiên, tôi thấy lòng mình trĩu nặng nỗi thương cảm, giống như bị một thứ tình cảm yếu mềm tấn công. Và cánh cửa ký ức lại bất giác thoáng hé mở, liên miên không dứt, không thể nào khép lại được.

Nếu bạn quen biết tôi, bạn sẽ cảm thấy tôi là một người kiệm lời, ít nói. Phần lớn thời gian, tôi đều cố gắng được ở riêng một mình, ăn một mình, đi lại một mình, thậm chí khi lên giảng đường, tôi cũng cố tránh ngồi cùng với người khác.
Đừng có lại gần tôi! Tôi thường dùng ánh mắt này để ngăn cản những người có ý tìm hiểu, tiếp cận tôi. Tất cả mọi người đều có vẻ kính trọng nhưng rất xa cách tôi. Còn tôi, tôi đã quen thuộc tính cách và thói quen sinh hoạt của những người xung quanh. Nếu trong giảng đường, nhà ăn hay trong vườn trường, bạn nhìn thấy một kẻ sắc mặt nhợt nhạt, mặt mày khinh khỉnh nhưng luôn chú ý đến người khác, người đó chính là tôi đấy.
Tôi ở phòng 313 tòa nhà B, khu ký túc xá 5 Nam Phạm của trường Đại học J. Bạn cùng phòng tôi tên Đỗ Ninh, đang học thạc sĩ chuyên ngành Pháp lý. Chắc là vì ở chung một phòng, cậu là một trong số ít người hay trò chuyện với tôi trong Học viện Pháp lý. Cậu là người tính tình lương thiện, có thể nhận thấy được rằng, cậu đã cố gắng tạo mối quan hệ tốt với tôi, để tôi không trở nên quá cô độc trong học viện - mặc dù tôi cũng chẳng mấy để tâm đến điều này - nhưng, tôi không khước từ việc thỉnh thoảng trò chuyện với cậu và cả với cô bạn gái có vẻ nũng nịu thái quá của cậu.
“Nào, cùng ăn nhé!”
Tôi đang cầm bát, vừa ăn bát mì cay trộn, vừa tập trung tinh thần xem một bức ảnh và lời chú thích dưới bức ảnh trên máy vi tính, không để ý thấy Đỗ Ninh và bạn gái cậu vào phòng từ lúc nào.
Đó là một xiên thịt dê nướng, bên trên rắc ớt cay và các hương liệu tẩm ướp, nước mỡ vàng đang nhỏ xuống, tỏa ra mùi nướng cháy.
Tôi nghĩ, lúc đó chắc mặt tôi phải trắng bệch hơn bức tường đằng sau. Tôi ngẩn người nhìn xiên thịt dê đang giơ ra trước mặt tôi, trong cổ họng kêu lục bục mấy tiếng, sau đó, tôi nôn hết nửa bát mì vừa ăn xuống cái bát đang cầm trong tay.
Tôi bịt miệng, bê cái bát đầy đồ nôn còn bốc khói lao ra khỏi phòng, đằng sau thấy vang lên giọng nói kinh ngạc của Trần Giao: “Anh ấy sao thế nhỉ?”

Tôi rũ rượi cúi người vào bồn rửa trong nhà vệ sinh, lấy nước vã sơ qua lên mặt. Ngẩng đầu lên, nhìn thẳng vào tấm gương bị hoen ố trên tường, trong gương hiện ra một khuôn mặt bợt bạt, lấm tấm nước và mồ hôi lạnh, ánh mắt đờ đẫn, khóe miệng còn dính ít thức ăn vừa nôn chưa rửa sạch. Tôi cúi người, lại nôn khan mấy tiếng, cảm thấy dạ dày trống rỗng, quả thực không còn gì để nôn nữa, bèn gắng gượng run rẩy đứng dậy, lại gần vòi nước, uống ngụm nước lạnh, súc súc miệng, rồi nhổ đi.
Ném bát mì vào sọt rác, tôi lảo đảo trở về phòng.
Trong phòng, một mớ hỗn độn. Trần Giao đang khom người ngồi trên giường Đỗ Ninh, dưới đất là bãi nôn, khắp phòng nồng nặc mùi ô uế. Đỗ Ninh bịt mũi, đặt cái chậu rửa mặt trước mặt cô. Thấy tôi vào, Trần Giao ngẩng khuôn mặt đầm đìa mồ hôi và nước mắt, giơ tay chỉ vào tôi, định nói gì, nhưng lại bị một trận nôn mửa dâng lên, không thể nói gì được.
Đỗ Ninh ngượng ngùng nhìn tôi: “Vừa rồi, Giao Giao không hiểu cậu bị làm sao, rất tò mò, bèn đến nhìn xem cậu đang xem gì trên máy vi tính, kết quả là…”
Tôi không tiếp lời cậu, mà đi thẳng đến máy tính. Đó là một trang web tôi đang xem, trong đó có mấy bức ảnh. Trong số đó, có một bức ảnh là một cái đầu lâu đã bị thối rữa, da ở cổ và đầu đều bị lột. Còn ba bức ảnh khác là thân thể bị chặt bốn chi và hai cánh tay của nạn nhân. Đây là ảnh chụp hiện trường vụ án giết người xảy ra tại bang Wisconsin của Mỹ năm 2000. Tôi đã download mấy bức ảnh này và lưu vào trong file “hủy hoại nghiêm trọng”.
Tôi đứng dậy, bước đến cạnh Trần Giao, cúi người xuống nói: “Em không sao chứ?”
Trần Giao giờ đã mệt lả, nhìn tôi, sợ hãi co rúm lại phía sau.
“Anh đừng có lại gần em!”
Cô run lẩy bẩy giơ tay lên, chỉ vào vi tính, rồi lại chỉ vào tôi, đôi môi run rẩy, cuối cùng cũng ép ra được hai từ: “Quái vật!”
“Giao Giao!” Đỗ Ninh hét lớn, rồi nhìn tôi lo lắng.
Tôi cười với cậu, tỏ ý là tôi không để tâm đến.
Tôi thực sự không hề để tâm đến. Tôi là quái vật, tôi biết điều đó!

Tôi tên Phương Mộc, hai năm trước, trong một trận hỏa hoạn, tôi là người duy nhất may mắn sống sót.


CHƯƠNG 1

CƯỠNG HIẾP CẢ THÀNH PHỐ

Mùa xuân ở thành phố J nóng nực bức bối vô cùng. Mặc dù mầm non còn chưa nhú ra trên các cành cây, nhưng nhiệt độ đã lên đến 17, 18 độ . Thái Vĩ đang ngồi trong xe Jeep lao nhanh trên đường phố, bực bội cởi cúc áo.
Anh rất buồn bực, nhưng không phải chỉ vì cái thời tiết xuân oi ả này. Là một người cảnh sát, Thái Vĩ đang gặp phải một vụ án khó khăn nhất trong 10 năm làm nghề cảnh sát của mình.
Ngày 14 tháng 3 năm 2002, cư dân Trần Mỗ (nữ, dân tộc Hán, 31 tuổi) sống tại phòng 402, tòa lầu số 32, tiểu khu Minh Châu, số 83 đường Thái Bắc, khu Hồng Viên, thành phố J đã bị giết ngay trong căn hộ của mình. Theo kết quả xét nghiệm tử thi, thời gian tử vong khoảng từ 14 giờ - 15 giờ, nguyên nhân tử vong là do nghẹt thở. Trên cổ nạn nhân phát hiện ra hai vết hằn bị bóp cổ, có thể khẳng định, nạn nhân đã bị hung thủ dùng tay bóp chặt cổ cho đến chết. Qua điều tra hiện trường, nhận thấy, trong phòng không có dấu vết bị lục lọi, tài sản cũng không bị mất, bước đầu có thể loại trừ khả năng đột nhập giết người cướp của. Phần thân trên của nạn nhân để trần, thân dưới trang phục ngay ngắn, không hề có dấu vết bị xâm hại tình dục, cũng không có vẻ là đột nhập cưỡng dâm giết người. Điều đáng kinh ngạc là, nạn nhân sau khi chết, bị hung thủ mổ bụng, con dao dùng để mổ được để lại hiện trường. Chồng nạn nhân đã xác nhận, đây là con dao thái trong nhà nạn nhân.
Hiện trường tang thương, không nỡ nhìn, trên sàn là nội tạng và máu của nạn nhân. Cảnh sát tìm thấy một chiếc cốc trong bếp, qua xét nghiệm, xác định đây là thứ hỗn hợp giữa sữa tươi và máu của nạn nhân.
Điều này không thể không khiến chúng ta liên tưởng đến con quái vật trong truyền thuyết - quỷ hút máu.
Trong khoảng thời gian hơn một tháng sau đó, tại thành phố J lại liên tiếp xảy ra hai vụ án đột nhập vào nhà giết người, nạn nhân đều là những cô gái ở độ tuổi 25 - 35. Nạn nhân đều bị mổ bụng, đồng thời ở hiện trường, đều phát hiện ra chất hỗn hợp giữa máu của nạn nhân và những chất khác.
Sở Công an thành phố thành lập một tổ chuyên án phụ trách việc phá vụ án này, nhưng gần một tuần lễ trôi qua, việc phá án không hề có chút tiến triển. Đúng lúc tổ chuyên án đang vò đầu bứt tai lo lắng, thì Đinh Thụ Thành - một cảnh sát từ thành phố C đến thành phố J công tác đưa ra một đề nghị khiến tất cả mọi người đều tròn mắt kinh ngạc: đi tìm một cậu sinh viên đang học thạc sĩ ngành Tội phạm học tại một trường đại học trong thành phố J.
Thái Vĩ - với vai trò là người phụ trách tổ chuyên án, lúc đầu còn tưởng anh ta nói đùa, nhưng Đinh Thụ Thành đã nghiêm túc kể lại cho Thái Vĩ nghe một câu chuyện như sau.
Mùa hè năm 2001, trong thành phố C liên tiếp xảy ra bốn vụ cưỡng hiếp giết người. Bốn nạn nhân đều là nhân viên công sở có độ tuổi từ 25 - 30. Sau khi cưỡng hiếp nạn nhân, hung thủ dùng sợi dây thừng thắt cổ nạn nhân cho đến chết. Nơi xảy ra án mạng là trên sân thượng bốn tòa nhà cao ốc đang xây dựng trong thành phố C. Lúc đó, cấp trên của Đinh Thụ Thành là Trạm trưởng Trạm An ninh thành phố Hình Chí Sâm vừa mới được thăng chức lên làm Phó Sở Công an thành phố C. Quan chức mới nhậm chức, muốn lập công, Phó sở Hình đã tiết lộ một chút tình tiết vụ án cho giới truyền thông, đồng thời, trên tivi, ông còn đảm bảo với nhân dân thành phố, sẽ phá xong vụ án trong vòng nửa tháng. Hai hôm sau, có một bức thư do nhân dân gửi đến được đặt ngay ngắn trên bàn làm việc của tổ chuyên án. Trong thư nói, hung thủ là một kẻ biến thái có tâm lý bệnh hoạn, bởi vì không thể gây dựng mối quan hệ bình thường với nữ giới, nên đã thông qua việc cưỡng hiếp giết người để phát tiết dục vọng của mình. Hơn nữa, còn đoán định hung thủ không quá 30 tuổi. Tổ chuyên án ban đầu cũng chỉ nghĩ rằng, đây chẳng qua chỉ là một liên tưởng bột phát của một người say mê tiểu thuyết trinh thám, nên không để tâm đến. Phó sở Hình sau khi nghe về việc này, lại thấy rất hứng thú, sai người đi điều tra thông tin về người gửi thư. Khi ông hay tin, người viết thư tên Phương Mộc, là sinh viên sắp tốt nghiệp đại học, thì rất phấn khởi, lập tức sai người gọi cậu ta đến Sở Công an thành phố. Hai người trò chuyện khoảng nửa tiếng trong phòng làm việc. Phó sở Hình còn tự mình lái xe đưa Phương Mộc đến lần lượt từng hiện trường bốn vụ án. Sau khi trở về, lại lấy toàn bộ hồ sơ vụ án vào phòng làm việc để Phương Mộc nghiên cứu thật tỉ mỉ những tài liệu đó. Vào một đêm (kết quả xét nghiệm tử thi cho thấy, thời gian gây án thường xảy ra lúc 10 giờ - 11 giờ đêm), Phương Mộc đi đến hiện trường một vụ án, lần này Đinh Thụ Thành cũng đi cùng cậu. Cậu trai trẻ đứng trên sân thượng tòa cao ốc (đây cũng chính là tòa kiến trúc cao nhất trong hiện trường các vụ án) thật lâu, cuối cùng thốt ra một câu khiến Đinh Thụ Thành khắc ghi mãi.
“Anh ta không phải là cưỡng hiếp phụ nữ, anh ta đang cưỡng hiếp cả thành phố này!”
Sau khi trở về Sở, Phương Mộc đưa ra lời đề nghị với tổ chuyên án như sau: Thứ nhất, điều tra tất cả các phòng chiếu phim bình dân trong toàn thành phố, đặc biệt là những phòng chiếu phim ở gần các khu công trường xây dựng, tìm kiếm một cậu thanh niên có độ tuổi từ 20-25, hơi gầy, tóc cắt ngắn, chiều cao từ 1m60 - 1m70, thuận tay phải, hơn nữa, tay trái đeo đồng hồ, trên cổ tay trái có một vết xước, đeo kính, có trình độ văn hóa hết cấp 3; Thứ hai, tìm kiếm một người có những đặc điểm trên ở những khu công trường đang thi công trong toàn thành phố; Thứ ba, tìm kiếm ở các làng quê, thị trấn xung quanh thành phố C một thanh niên thi trượt đại học vào thành phố làm thuê có các đặc điểm nêu trên, đặc biệt là những gia đình con một hoặc hai anh em trai chỉ sống với bố. Thậm chí cậu còn nói, khi bị bắt, hung thủ có thể sẽ mặc một chiếc áo sơ mi trắng.
Các thành viên trong tổ chuyên án đều bán tín bán nghi trước những lời phỏng đoán dường như vô căn cứ này, nhưng Phó sở Hình lại ra lệnh cho cấp dưới của ông tìm kiếm nghi phạm có những đặc điểm mà Phương Mộc cung cấp. Hai ngày sau, một bà chủ của phòng chiếu phim bình dân gần ga tàu nói, bà có biết một người như vậy, cậu ta đang làm trong khu xây dựng ở gần ga. Những công nhân ở đây thường rủ nhau đến phòng chiếu phim, thế nhưng cậu ta đều chỉ đi một mình, và luôn chọn lúc chiếu phim cấp 3 vào ban đêm mới đến xem. Có một lần, khi cậu đang xem phim cấp 3, gặp một người cùng công trường, cậu đỏ bừng mặt, rồi lén bỏ đi, do đó, bà chủ có ấn tượng sâu sắc đối với cậu.
Đội cảnh sát tìm đến công trường đó, và tìm được cậu thanh niên này trong công trường dưới sự giúp đỡ của chủ thầu xây dựng. Cậu ta tên Hoàng Vĩnh Hiếu, là nhân viên đo lường của công trường này. Khi cảnh sát giơ thẻ, yêu cầu cậu giơ cổ tay trái ra, Hoàng Vĩnh Hiếu đột nhiên bỏ chạy, nhưng cậu ta nhanh chóng bị cảnh sát bắt giữ. Sau khi đưa về Sở thẩm tra, Hoàng Vĩnh Hiếu đã khai nhận cả bốn vụ án cưỡng hiếp giết người đều do mình gây ra.
Hoàng Vĩnh Hiếu, nam, 21 tuổi, học lực tốt nghiệp cấp 3, người làng Tiền Tiến, thị trấn Bát Đài, thành phố C. Năm 2000, sau khi thi trượt kỳ thi đại học, Hoàng Vĩnh Hiếu ôn thi lại một năm rồi lại tiếp tục tham gia kỳ thi, kết quả là vẫn bị trượt. Sau đó, cậu theo chú ruột ra thành phố, đã từng làm thuê cho nhiều công trường xây dựng, nhưng mỗi công trường đều làm không lâu. Về sau, chú cậu giới thiệu cậu đến làm tại công trường này. Do có chút trình độ văn hóa, nên Hoàng Vĩnh Hiếu được làm nhân viên đo lường.
Khi Hoàng Vĩnh Hiếu bị bắt, đúng là đang mặc một chiếc áo sơ mi trắng rất cũ, song đã được giặt rất sạch sẽ.
Sự miêu tả của Phương Mộc về ngoại hình, hoàn cảnh gia đình, môi trường làm việc, thói quen sinh hoạt của nghi phạm giống y như Hoàng Vĩnh Hiếu. Điều khác biệt duy nhất là bố mẹ Hoàng Vĩnh Hiếu đã ly dị từ lâu, cậu ta không có anh em trai, chỉ có một người chị gái đã đi cùng mẹ đến vùng khác, và không còn liên hệ gì nữa. Nhưng tất cả những điều này đã đủ làm cho các nhân viên cảnh sát phải trầm trồ thán phục chàng trai trẻ Phương Mộc có tướng mạo bình thường không lấy gì làm nổi bật này. Thậm chí, họ còn nghi ngờ lúc Hoàng Vĩnh Hiếu gây án, Phương Mộc đã có mặt ngay tại hiện trường, nếu không, sao cậu có thể miêu tả chính xác đến thế.
Phương Mộc giải thích như sau: Qua quan sát hiện trường, quần của các nạn nhân đều bị cởi xuống dưới đầu gối, hơn nữa, chỗ đầu gối đều bị thương, đồng thời còn phát hiện một chút da của nạn nhân dính trên lan can của tầng thượng, vừa vặn với vết thương trầy xước trên ngực nạn nhân. Điều này chứng tỏ, khi hung thủ tiến hành hành vi cưỡng dâm, đã chọn tư thế từ phía sau.
Đây là một tư thế có dụng ý sâu xa.
Trước tiên, khi nữ giới bị vào từ phía sau, nếu bị nam giới từ phía sau ấn người xuống hoặc túm chặt hai tay, biên độ giãy giụa là nhỏ nhất, cộng thêm, quần bị cởi đến đầu gối, phạm vi hoạt động của hai chân bị hạn chế tối đa. Do đó, đây là tư thế ít bị phản kháng kịch liệt nhất.
Tiếp đến, đứng từ góc độ tâm lý học, kiểu vào từ phía sau là tư thế tình dục nguyên thủy nhất. Khi tiến hành quan hệ tình dục, nam giới nảy sinh cảm giác chinh phục và thỏa mãn, do đó, kiểu vào từ phía sau đem đến cho nam giới sự kích thích cao độ vượt xa những tư thế khác.

Đêm hôm đó, Phương Mộc đứng trên sân thượng tối đen tĩnh mịch, khung cảnh đêm toàn thành phố như thu vào trong mắt cậu. Cậu nhìn những tòa nhà cao tầng đèn điện sáng trưng, dưới kia, đoàn xe cộ nườm nượp nối đuôi nhau.
Hành động một cách thô bạo, lên xuống thật mạnh, người phụ nữ ăn mặc sang trọng đang giãy giụa một cách bất lực phía dưới. Ở vị trí trên cao, tầm nhìn khoáng đạt, phóng vụt ra đầy sảng khoái...
Phương Mộc nhắm nghiền đôi mắt.
Trong ngôi nhà sang trọng nào đó trong thành phố này, người đàn ông đó đang lo lắng chờ đợi vợ mình, ngươi không thể ngờ được rằng, vợ ngươi đang bị ta chà đạp, sỉ nhục như một sinh vật dưới chân có phải không?
Có thể, trong mắt cậu ta, cả cái thành phố này chính là một bộ phận sinh dục nữ khổng lồ. Chắc chắn, trong khoảnh khắc ngắn ngủi đó, cậu ta đã có được khoái cảm khi chinh phục cái thành phố này.
Vậy thì, trong đời sống thực, chắc chắn cậu ta là một kẻ thất bại.
Lựa chọn hành vi cưỡng hiếp giết người khác thường để phát tiết mối thù hận đối với xã hội, điều này chứng tỏ, tình dục có ý nghĩa rất đặc biệt đối với cậu ta. Nó khiến cậu ta cảm thấy hiếu kỳ, thần bí, hưng phấn tột cùng, đồng thời cũng khiến cậu ta cảm thấy nhục nhã. Nếu như nam giới có thể thiết lập được mối quan hệ bình thường với nữ giới, thì loại cảm giác khao khát tình dục này sẽ dần biến mất khi có nhiều kinh nghiệm sống. Do đó, hung thủ rất có thể là một người không thể thiết lập được mối quan hệ bình thường với nữ giới. Mà kiểu người này thường là sống trong gia đình thiếu đi bàn tay chăm sóc của phụ nữ. Đồng thời, những người có loại tâm lý này, độ tuổi thường không quá lớn. Một là, nếu đã có tuổi, thì có thể thông qua những trải nghiệm xã hội để kịp thời tiêu trừ loại tâm lý này; hai là, loại tâm lý này thường hay xuất hiện trong giai đoạn dậy thì. Vậy thì, nếu anh ta khá lớn tuổi, thì đã gây án từ lâu, nhưng mấy năm nay không hề xảy ra những vụ án tương tự.
Do đó, hung thủ là nam giới, không quá 25 tuổi, trong nhà không có nữ giới, hoặc chỉ có anh em trai, đã từng nếm trải thất bại.
Còn về địa điểm gây án: trên sân thượng tòa lầu công trình, tất nhiên là địa điểm lý tưởng để thỏa mãn tâm lý chinh phục toàn thành phố của hung thủ, đồng thời cũng do sự quen thuộc loại địa bàn của anh ta. Do đó, hung thủ có lẽ là một người có kinh nghiệm làm việc tại các công trường xây dựng.
Một người có thu nhập thấp, tâm lý méo mó, rất có khả năng đi đến những nơi có liên quan đến sex. Chơi gái? Chắc là không, mà dù có thì cũng không thể thường xuyên được, bởi điều kiện kinh tế không cho phép.
Nơi phù hợp nhất chính là những phòng chiếu phim bình dân thường chiếu phim cấp 3 vào ban đêm.
Qua xét nghiệm tử thi, nhận thấy móng tay trái của một nạn nhân bị gãy, và phần móng bị gãy đó rơi ngay cạnh xác nằm ngửa của cô. Điều đáng ngạc nhiên là, trong số tất cả bốn nạn nhân, vết thương tích trên cơ thể cô gái này ít nhất. Điều này chứng tỏ, nạn nhân không phản kháng quá quyết liệt đối với hành vi bị hãm hiếp. Kết hợp với việc tìm thấy móng tay bị gãy ở gần thi thể nạn nhân, có khả năng, sau khi hung thủ cưỡng hiếp nạn nhân, trong lúc bóp cổ nạn nhân, cô ra sức giãy giụa, kháng cự đã làm gẫy móng tay. Trong miếng móng tay đó, phát hiện thấy một mảng da không phải của nạn nhân (nhóm máu A), vậy thì móng tay của nạn nhân rất có khả năng bị gãy sau khi tiếp xúc với cơ thể hung thủ. Do hung thủ chọn cách bóp cổ từ phía sau, nên vị trí mà đôi tay nạn nhân có thể tiếp xúc tới rất hạn chế, khả năng lớn nhất là đôi tay của hung thủ. Phương Mộc chú ý thấy móng tay bị xé gãy chứ không phải gập gãy. Điều này có nghĩa là, khi móng tay cào rách da của hung thủ, chắc chắn bị xé gãy sau khi cọ sát với một vật gì đó. Thứ gì trên tay mà có thể xé gãy móng tay đây? Phương Mộc nghĩ ngay đến đồng hồ đeo tay, hơn nữa, rất có thể là kim loại. Một người làm việc trong công trường xây dựng, đeo một chiếc đồng hồ kim loại, chỉ riêng điều này đã có vẻ hơi khác thường. Vậy thì, người này chắc chắn muốn thể hiện sự khác biệt của anh ta với mọi người.
Có lẽ anh ta là một người có trình độ văn hóa nhất định.
Làm thuê tại công trường xây dựng - có trình độ văn hóa nhất định - đã từng gặp thất bại trong cuộc sống - không quá 25 tuổi.
Đáp án gần nhất là: một người thi trượt đại học đến từ nông thôn.
Nếu là một người như vậy, anh ta chắc chắn sẽ dùng những cách khác để thể hiện sự khác biệt của mình so với những người từ nông thôn ra thành phố làm thuê tại công trường. Ví dụ, tóc ngắn gọn gàng để khác hẳn so với những anh công nhân tóc dài đầm đìa mồ hôi, đôi kính để tỏ ra “phần tử trí thức”, cũng có thể mặc một cái áo sơ mi trắng khác hẳn bộ quần áo công nhân dính đầy vôi vữa.
Tổng kết lại, anh ta là một người tóc ngắn, hơi gầy, đeo kính, có một chiếc áo sơ mi trắng, tay trái đeo chiếc đồng hồ kim loại (trên cổ tay trái có thể có vết xước do nạn nhân cào cấu, và người đeo đồng hồ tay trái thường thuận tay phải).

Sau khi Phương Mộc trình bày xong lý lẽ của mình, tất cả cảnh sát trong tổ chuyên án đều im lặng, trên mặt mỗi người đều thể hiện những cảm xúc vô cùng phức tạp. Rõ ràng, sau khi cả quá trình suy đoán được hé mở từng bước từng bước, việc phá án dường như là tất yếu, là việc dễ như trở bàn tay. Thế nhưng, liệu có mấy ai có thể bước được bước đi chính xác đầu tiên trong quá trình này đây?
Hình Chí Sâm phá tan sự trầm mặc: “Ha…ha, ngay lúc đầu cậu nói luôn cho chúng tôi tên của Hoàng Vĩnh Hiếu là xong, chúng tôi cũng đỡ được bao nhiêu việc.”
Mọi người cùng bật cười sảng khoái.
Phương Mộc không cười, cậu cứ nhìn chăm chú xuống dưới đất.

Vụ án được giao lên Viện Kiểm sát một cách thuận lợi. Người dân trong thành phố C đều ra sức khen ngợi cảnh sát phá án thần tốc.
Hình Chí Sâm muốn tặng thưởng vật chất cho Phương Mộc (trước đó, Hình Chí Sâm cũng đã khéo léo giải thích với Phương Mộc, cảnh sát không thể tuyên bố với mọi người rằng vụ án này phá được là nhờ vào sự giúp đỡ của một sinh viên 22 tuổi, Phương Mộc cũng tỏ ra thấu hiểu), bị Phương Mộc từ chối. Hình Chí Sâm hỏi Phương Mộc có yêu cầu gì không, câu trả lời của cậu rất đơn giản: muốn được nói chuyện riêng với Hoàng Vĩnh Hiếu trước khi cậu ta bị ra tòa.
Mặc dù rất nhiều người tò mò về cuộc nói chuyện này, nhưng dưới sự kiên quyết của Phương Mộc, Sở vẫn bố trí cho Phương Mộc và Hoàng Vĩnh Hiếu trò chuyện tự do, không bị làm phiền. Cả cuộc nói chuyện kéo dài hơn 2 tiếng đồng hồ, Phương Mộc đã ghi chép lại hết nửa cuốn sổ tay và thu âm hai băng đài. Đinh Thụ Thành đã từng nghe một đoạn ghi âm, nội dung cuộc nói chuyện đề cập rất ít đến vụ án. Phương Mộc dường như quan tâm nhiều hơn đến cuộc đời của Hoàng Vĩnh Hiếu từ khi cậu có thể ghi nhớ đến năm cậu 21 tuổi.
Khi Hoàng Vĩnh Hiếu lên 5 tuổi, bố mẹ ly dị, mẹ dẫn theo chị gái hơn cậu một tuổi đi lấy chồng ở vùng khác. Từ đó, Hoàng Vĩnh Hiếu chung sống cùng bố. Từ nhỏ, cậu đã sống hướng nội, không thích trò chuyện với người khác, nhưng cần cù chịu khó học tập, vẫn luôn được mọi người khen ngợi, là người có khả năng nhất thi đỗ đại học trong cả thôn. Năm lên 8, Hoàng Vĩnh Hiếu vô tình bắt gặp bố cậu thông dâm với một phụ nữ đã có chồng trong thôn. Vì việc này mà cậu bị bố đánh một trận thừa sống thiếu chết. Năm 14 tuổi, khi đó Hoàng Vĩnh Hiếu đang học cấp 2, bị một nữ sinh cấp 3 đưa lên núi. Khi cô nữ sinh đó cầm tay Hoàng Vĩnh Hiếu ấn thẳng vào ngực mình, cậu đã sợ chết khiếp, cuống cuồng vừa lăn vừa bò lao xuống núi. Nhưng hai năm sau, khi Hoàng Vĩnh Hiếu 16 tuổi, trong một lần lao động trên ruộng, cậu đột nhiên đè ngửa cô bạn cùng lớp (cô bạn này có mối quan hệ khá tốt với Hoàng Vĩnh Hiếu) xuống ruộng, rồi hôn hít sờ mó khắp cơ thể cô bạn. Cô gái đó sợ hãi kêu khóc toáng lên, mọi người trong thôn kéo đến, mới giải cứu được cô gái. Sau đó, bố cậu phải bồi thường cho nhà cô bạn đó một con lừa, và các vị trưởng bối trong thôn đích thân đứng ra hòa giải, sự việc này mới tạm lắng xuống. Nhưng từ đó, thành tích học tập của Hoàng Vĩnh Hiếu sa sút nghiêm trọng. Sau hai lần thi trượt đại học, Hoàng Vĩnh Hiếu liền theo chú ruột ra thành phố làm thuê. Trong vòng hơn một năm, Hoàng Vĩnh Hiếu đã chuyển năm công trường, đã hứng chịu biết bao sự khinh bỉ và hắt hủi của người dân thành thị. Do tính cách hướng nội, cô độc và có phần kiêu ngạo, nên thời gian lưu lại ở mỗi công trường đều không lâu. Lúc rảnh rỗi, Hoàng Vĩnh Hiếu thường đến phòng chiếu phim bên đường để xem phim chưởng. Cũng chính ở đây, lần đầu tiên Hoàng Vĩnh Hiếu xem phim cấp 3. Và từ lúc đó, trong đầu cậu luôn hiện lên thân thể đầy khiêu gợi của những cô gái trong phim cấp 3, cho đến một đêm, cậu bám theo một phụ nữ công sở về nhà muộn…
Từ đó, Phương Mộc gần như trở thành “cố vấn” của Sở công an thành phố C. Dưới sự giúp đỡ của cậu, tất cả đã phá được một vụ án bắt cóc, một vụ án lừa đảo tống tiền, hai vụ án giết người. Trong tất cả các vụ án nêu trên, Phương Mộc đã miêu tả những đặc điểm của nghi phạm, điều này có tác dụng rất lớn đối với việc phá án.


CHƯƠNG 2
NGƯỜI BỊ ĐÁNH DẤU

Nghe xong câu chuyện ly kỳ gần đến mức hoang đường về Phương Mộc, Thái Vĩ bán tín bán nghi.
“Cậu ta, cái cậu sinh viên có tên Phương Mộc,” Thái Vĩ cân nhắc một chút câu chữ của mình. “Cậu ta đã khắc họa chân dung nghi phạm?”
Đinh Thụ Thành gật gật đầu.
“Thực sự tài giỏi vậy sao?”
Đinh Thụ Thành cười, anh tiến lại gần, hỏi một cách bí hiểm: “Anh có biết tại sao Ronaldo lại trở thành tiền đạo xuất sắc nhất thế giới không?”
“Ơ? Anh nói gì thế?” Thái Vĩ không hiểu.
“Tại sao Hách Hải Đông lại không thể trở thành tiền đạo xuất sắc nhất thế giới?”
Thái Vĩ mở tròn mắt nhìn Đinh Thụ Thành.
“Thiên phú! Cậu trai trẻ đó có tài năng thiên phú về việc nhận biết tội phạm.”

Thái Vĩ tra ra được Phương Mộc ở phòng 313 tòa nhà B, khu ký túc xá 5 Nam Phạm của trường Đại học J, nhưng khi đến nơi thì không gặp được cậu. Cậu bạn cùng phòng nói Phương Mộc đi chơi bóng rổ. Thái Vĩ hỏi Phương Mộc trông như thế nào, cậu nam sinh cười, nói: “Anh không cần hỏi dáng vẻ của cậu ấy, anh chỉ cần nhìn thấy một người luyện ném bóng rổ một mình trên sân bóng, thì đó chính là Phương Mộc.”
Thời tiết rất đẹp, có cơn gió nhẹ thổi qua, đem theo mùi hương hoa thơm ngát. Các bạn sinh viên hầu như đã trút bỏ bộ quần áo mùa đông dày cộm, mặc những bộ trang phục nhẹ nhàng đi lại trong trường, thỉnh thoảng còn có thể nhìn thấy mấy cô gái đã sốt sắng mặc quần soóc. Chiếc áo khoác gió màu đen trên người Thái Vĩ rõ ràng là không hợp thời, mới đi bộ một lúc đã toát cả mồ hôi. Anh kéo tay một cậu sinh viên hỏi đường đến sân bóng rổ, cậu ta vui vẻ nhiệt tình dẫn đường cho anh.
Sân bóng rổ nằm ở góc tây nam của trường học, là một bãi xi măng rộng, được những dây thép vây xung quanh, tất cả có 8 sân bóng rổ hoàn chỉnh. Thái Vĩ lần lượt đi qua những sân bóng rổ tập hợp toàn những chàng trai sôi nổi hào hứng, cố lưu ý tìm một cậu thanh niên luyện ném bóng rổ một mình.
Tìm cậu không khó! Trên sân bóng phía rìa ngoài nhất, có một cậu thanh niên đang đứng trên vạch ném phát bóng, giơ cao tay, ném bóng, trái bóng tạo nên một đường vòng cung trên không trung, rơi chính xác vào rổ.
Thái Vĩ bước đến rìa sân bóng, nhìn cậu thanh niên liên tục lặp đi lặp lại cùng một động tác, giơ cao tay, ném bóng, bóng rơi vào rổ, nhặt bóng, đi đến vạch ném phạt bóng, giơ cao tay, ném bóng, bóng rơi vào rổ… Động tác của cậu rất chuẩn xác, tuyệt đẹp, điêu luyện, những trái bóng cậu ném vào rổ gần như trúng hết.
“Có chuyện gì sao?” Đột nhiên, cậu nam sinh bật ra câu hỏi, mắt không thèm liếc nhìn anh lấy một cái.
“Ồ!” Thái Vĩ trở tay không kịp. Anh ngượng ngùng hắng giọng: “Hừm, cậu là Phương Mộc phải không?”
Đôi tay cậu đang giơ lên thoáng ngừng lại, sau đó hất ngón tay, quả bóng bay đi, không rơi vào rổ, mà đập vào thành rổ, bật trở lại trong tay cậu.
Cậu thanh niên ôm bóng, quay người lại. Mặt cậu đỏ bừng, trên chóp mũi lấm tấm giọt mồ hôi, má hóp, cằm nhọn, đôi lông mày rậm lúc này đang nhíu vào nhau, nhưng ánh mắt cậu… lạnh lùng, mệt mỏi song lại vô cùng sắc bén, dường như có thể đâm xuyên qua ánh nắng gay gắt để tiến thẳng vào cơ thể đối phương.
Gặp phải ánh mắt này, Thái Vĩ bất giác rùng mình, anh tránh ánh mắt của đối phương, đang định nói, chợt nhận ra mình không hề chuẩn bị lời giới thiệu thích hợp cho lần gặp mặt đầu tiên với Phương Mộc.
“Cậu… cậu quen Đinh Thụ Thành chứ?”
Đôi lông mày của Phương Mộc nhíu chặt hơn, cậu nhìn chằm chằm Thái Vĩ, nói: “Anh là cảnh sát?”
Nói xong, không đợi Thái Vĩ trả lời, đã tự đi đến chiếc ghế dài bên cạnh sân bóng. Thái Vĩ ngập ngừng giây lát, rồi cũng đi đến đó ngồi.
Trên ghế để một chiếc cặp sách cũ kỹ, Phương Mộc lấy từ trong túi ra một túi giấy ăn, rút ra một tờ để lau mặt, rồi lại lấy kính ra, đeo vào.
“Có gì cần tôi giúp đỡ sao?” Trên mặt cậu vẫn không thể hiện chút cảm xúc nào.
Thái Vĩ cảm thấy không vui, nhưng nghĩ đến mục đích chuyến đi lần này của mình, nên vẫn rút từ trong cặp da ra một tập tài liệu, đưa cho Phương Mộc.
“Tôi là cảnh sát trong đội cảnh sát hình sự của thành phố, tôi tên Thái Vĩ. Từ tháng 3 năm nay đến nay, ở thành phố này đã liên tiếp xảy ra ba vụ án đột nhập vào nhà giết người. Đây là một số tài liệu của ba vụ án. Tôi nghe nói cậu…” Nói đến đây, Thái Vĩ phát hiện ra Phương Mộc vốn không hề nghe anh nói, mà dồn toàn bộ tâm trí vào tập tài liệu trên tay, thế nên anh giận dỗi, không nói thêm gì nữa, chiếc thẻ cảnh sát vừa định giơ ra để chứng minh thân phận cũng lặng lẽ nhét trở vào trong túi áo.
Không còn việc gì đáng chán ghét hơn việc ngồi cả buổi chiều với thằng nhóc khó ưa này. Phương Mộc vẫn không nói một câu nào, cứ ngồi chăm chú xem tài liệu. Lúc đầu, Thái Vĩ còn kiên nhẫn tạo tư thế luôn sẵn sàng lắng nghe, lâu dần, đôi vai mỏi nhừ, cũng bắt đầu mất hết kiên nhẫn. Anh duỗi tay chân, dựa vào ghế một cách thoải mái, rảnh rỗi ngắm nhìn xung quanh.
Sân bóng rổ Phương Mộc vừa mới ném bóng đã bị mấy cậu nam sinh khác sử dụng. Những chàng trai mới ngoài đôi mươi này đang hăng hái rượt đuổi, tranh bóng, liên tục phát ra những tiếng hét đầy hưng phấn, còn liên tục tranh luận xem có phạm quy hay không, điểm số có được tính hay không. Thái Vĩ nhìn những chàng trai trẻ tràn đầy sức sống, bất giác hồi tưởng lại những năm tháng sinh viên của mình trong trường Cảnh sát, khóe miệng dần dần xuất hiện nụ cười.
Bất chợt, anh nhận ra, người đang ngồi cạnh anh thực ra cũng là một thành viên trong số thanh niên này, nhưng cậu ta lại không giống với những cậu nam sinh vô tư thoải mái kia! Như thể bị đánh dấu một thứ ký hiệu gì đó, khiến cậu trở nên khác biệt với mọi người xung quanh. Anh đành phải quay sang nhìn Phương Mộc.
Phương Mộc nghiên cứu tài liệu rất lâu. Cậu cúi đầu, đôi mắt cứ luôn dán chặt vào mấy bức ảnh hiện trường, báo cáo hiện trường và báo cáo xét nghiệm tử thi. Đã mấy lần cậu ngẩng đầu lên, Thái Vĩ tưởng cậu định nói gì, vội vàng ghé đầu vào. Nhưng Phương Mộc chỉ trầm ngâm nhìn phong cảnh phía xa xa, vẫn không lên tiếng, một lúc sau, lại cúi xuống đọc tài liệu. Thái Vĩ để ý thấy, cậu đặc biệt chú ý đến mấy tấm ảnh hiện trường.
Cuối cùng, cậu đứng dậy, thở phào một tiếng. Sau đó bỏ kính ra, xoa xoa mắt, trả tài liệu cho Thái Vĩ đang chằm chằm nhìn cậu nãy giờ.
“Người này, nam giới, tuổi chừng 25-35, chiều cao không quá 1m75, có lẽ hơi gầy.”
Thái Vĩ chăm chú nhìn Phương Mộc, mấy giây sau, anh không kìm nổi, lên tiếng hỏi: “Chỉ có thế thôi sao?”
“Đúng vậy, chỉ có thế!” Phương Mộc trả lời gãy gọn.
Thái Vĩ vô cùng thất vọng. Anh vốn tưởng Phương Mộc sẽ miêu tả thật cụ thể, kỹ lưỡng về chân dung, hoàn cảnh sống, hoàn cảnh gia đình của hung thủ giống như Đinh Thụ Thành đã kể. Nhưng Phương Mộc chỉ đưa ra chút kết luận chung chung mơ hồ thế này. Nói thực, những điều Phương Mộc vừa phán đoán, chẳng có chút giá trị manh mối nào: Thủ đoạn giết người tàn nhẫn này, phần nhiều là nam giới, hơn nữa, hầu hết sát thủ liên hoàn đều không quá 40 tuổi. Còn về chiều cao và cân nặng của hung thủ, theo như vết chân của nghi phạm để lại hiện trường, cũng có thể suy đoán ra được. Ngoài ra, những dấu vết để lại trên hiện trường cho thấy, hung thủ và những phụ nữ bị hại đã giằng co quyết liệt với nhau, điều này chứng tỏ hung thủ không phải là người cường tráng.
“Dựa vào số tài liệu và ảnh chụp hiện trường này, tôi chỉ có thể phán đoán được như vậy thôi.” Phương Mộc như thể đã nhìn thấu tâm sự của Thái Vĩ. Nhưng cậu liền bổ sung thêm: “Ngoài ra, tôi cảm thấy người này có vấn đề về tinh thần, cụ thể là vấn đề gì, tôi không thể khẳng định.”
Hừ, Thái Vĩ nghĩ thầm, ngay cả tên ngốc cũng có thể nhận thấy hung thủ này là một kẻ biến thái!
“Biến thái và trở ngại về tinh thần là hoàn toàn khác nhau!”
Thái Vĩ không tránh khỏi kinh ngạc, anh nhận ra, chỉ trong vài phút ngắn ngủi, Phương Mộc đã hai lần nhìn thấu suy nghĩ của anh. Để che giấu nỗi kinh ngạc của mình, anh đứng dậy, giơ tay về phía Phương Mộc.
“Được rồi, cảm ơn cậu, nếu còn có điều gì cần cậu hỗ trợ, chúng tôi sẽ lại tìm cậu. Hẹn gặp lại!”
Phương Mộc nắm tay Thái Vĩ. Thái Vĩ cảm nhận thấy bàn tay đó rất lạnh, không có chút nhiệt độ ấm áp nào.
“Tốt nhất chúng ta không nên gặp lại nữa!”
“Ồ?” Thái Vĩ rướn cặp lông mày.
“Khi chúng ta gặp lại, đồng nghĩa với việc lại có thêm người chết.”
Thái Vĩ há miệng, nhưng lại không nói được gì, đành phải gật gật đầu, quay người bước đi.
Khi bước ra khỏi sân bóng, Thái Vĩ không kìm lòng nổi, quay đầu nhìn lại, Phương Mộc đã không còn ngồi trên ghế nữa. Nhìn sang bên cạnh, Phương Mộc đang quay lưng lại phía anh, cô độc ném trái bóng rổ của cậu. Lúc này, trời đã tối sẫm, trên sân bóng chỉ còn thưa thớt vài người. Bóng hình Phương Mộc càng lúc càng mờ nhạt trong sắc trời tối, chỉ có thể nhận ra đôi tay cậu liên tục giơ cao và quỹ đạo bay của trái bóng.

CHƯƠNG 3

NỖI SỢ HÃI

Hôm nay là tiết đầu tiên của môn Luật Tố tụng hình sự. Giáo sư giảng dạy môn này là giáo sư Tống Huy Dương vừa mới từ Nhật Bản giao lưu phỏng vấn trở về, cho nên, môn học này đã bị hoãn đến tận hôm nay mới bắt đầu.
Phương Mộc vẫn ngồi dãy cuối cùng của lớp học. Giáo sư Tống mặc dù đã bị chậm bài giảng hơn một tháng, nhưng ông không hề vội giảng bài ngay, mà còn trò chuyện rôm rả về nền kinh tế phát triển, cuộc sống thư thái dễ chịu của Nhật, và cả “Những câu chuyện không thể không kể” của ông và mấy vị chuyên gia Luật tố tụng hình sự của Nhật.
Đang hào hứng kể, một sinh viên gõ cửa bước vào.
Thầy Tống đang hào hứng, nên cũng dễ dãi bỏ qua, phất phất tay cho phép cậu sinh viên đó vào lớp.
Cậu ta đi thật nhanh, thật khẽ xuống dãy cuối cùng, ngồi xuống cạnh Phương Mộc, còn quay sang gật đầu thân thiện với cậu. Phương Mộc quen cậu ta, cậu ta tên Mạnh Phàm Triết, nghiên cứu sinh chuyên ngành Luật dân sự.
Trên giảng đường đại học, đi học muộn vốn là một việc hết sức bình thường, và phần lớn đều được giáo viên bỏ qua. Điều khiến Phương Mộc thấy băn khoăn là: sao nét mặt Mạnh Phàm Triết lại có vẻ vừa trút đi được gánh nặng ngàn cân, như thể... như thể cậu vừa mới thoát khỏi được một kỳ thi nghiêm ngặt.
Cuối cùng, thầy Tống cũng đã hoàn thành xong “Hội thảo báo cáo cảm nghĩ sau chuyến du lịch Nhật Bản” của mình. Ông cầm sổ điểm danh, rồi chớp chớp mắt giả vờ tỏ ra thân thiện với học sinh: “Trước khi giảng bài, chúng ta hãy làm quen với nhau một chút!”
Các sinh viên vừa rồi hãy còn lờ đà lờ đờ buồn ngủ, bây giờ đều hăng hái hẳn. Đây là môn học bắt buộc, đương nhiên ai cũng muốn có được học phần. Theo sau tiếng đọc tên từng người thoát ra từ miệng thầy Tống, là một góc nào đó trong lớp lại vang lên tiếng: “Có!” Phương Mộc vô tình liếc sang Mạnh Phàm Triết, bỗng giật mình sửng sốt.
Vừa nãy, cậu ấy thư thái thoải mái là thế, sao giờ đây lại căng thẳng như sắp lâm trận: đôi tay nắm chặt mép bàn, khớp giữa các ngón tay trắng bệch, đôi mắt nhìn chằm chằm vào giáo sư Tống, răng cắn chặt môi, như thế thứ thốt ra từ miệng giáo sư Tống không phải là tên người, mà là từng viên đạn.
“Mạnh Phàm Triết.”
Những giọt mồ hôi to tròn lăn dài từ trên trán Mạnh Phàm Triết xuống, môi cậu mấp máy, nhưng lại không phát ra bất cứ âm thanh gì. Thầy Tống nhìn lướt khắp phòng, rồi đọc lại: “Mạnh Phàm Triết.”
Nhiều bạn khẽ gọi cậu, nhưng Mạnh Phàm Triết lại có vẻ như không nghe thấy, cứ nhìn thầy Tống chằm chằm, người ngả về phía trước, miệng há ra một nửa, như thể muốn nói nhưng lại không thể nói được.
“Không đến à? Buổi học đầu tiên mà đã trốn à?” Thầy Tống tức giận, lấy bút mực ra, định đánh dấu vào sổ điểm danh.
Mạnh Phàm Triết lúc này đứng bật dậy, mặc dù vẫn không nói gì, nhưng lại giơ tay thật cao.
“Ồ, cậu là Mạnh Phàm Triết?”
“Là em ạ.” Cuối cùng, mấy chữ cũng đã thoát ra được khỏi miệng cậu.
“Ngồi xuống đi, lần sau tập trung một chút!”
Dường như mấy chữ vừa rồi đã hút cạn toàn bộ sinh lực của cậu, Mạnh Phàm Triết rệu rã thả phịch người xuống ghế. Mấy người trong lớp che miệng cười rúc rích, còn lại, mọi người đều nhìn cậu với ánh mắt kinh ngạc.
Mạnh Phàm Triết có vẻ như muốn trốn tránh những ánh mắt đó, suốt cả buổi học, cậu đều cúi đầu ủ rũ ghi chép bài. Nhưng có thể nhận thấy, cậu không còn căng thẳng như lúc điểm danh nữa.
Rốt cuộc là cậu ấy sợ hãi điều gì?

Thành thật mà nói, thầy Tống giảng bài rất bình thường, không có gì thực sự ấn tượng. Trong lúc nghỉ giải lao giữa giờ, nhân lúc thầy ra ngoài hút thuốc, một số sinh viên đã lén ra về. Thầy Tống quay lại, phát hiện ra thiếu một số người, nổi giận lôi đình, lại lấy sổ ra điểm danh.
Phương Mộc chú ý thấy Mạnh Phàm Triết vừa mới khôi phục được trạng thái bình thường, giờ lại có vẻ như sắp rơi xuống vực sâu thăm thẳm, trên mặt thể hiện bao trạng thái phức tạp đan xen giữa sự tuyệt vọng, căng thẳng, căm hận. Khi gần đến tên cậu, Mạnh Phàm Triết càng run rẩy mạnh hơn.
Phương Mộc vẫn luôn lặng lẽ quan sát Mạnh Phàm Triết, đồng thời cũng để ý đến thứ tự danh sách gọi tên.
“Trần Lượng.”
“Có!”
“Sơ Tiểu Húc .”
“Có!”
Người tiếp theo sẽ là Mạnh Phàm Triết.
“Mạnh Phàm Triết.”
Khi thầy Tống mới đọc ra một chữ “Mạnh”, Phương Mộc đã đập mạnh Mạnh Phàm Triết một cái.
Mạnh Phàm Triết giật mình, quay đầu sang, và đúng lúc đó, hai chữ “Phàm Triết” cũng vừa vặn được vang lên. Mạnh Phàm Triết nói ngay: “Có!”
Thầy Tống không dừng lại, mà tiếp tục điểm danh. Mạnh Phàm Triết ngẩn người một lát, rồi nhanh chóng trở lại trạng thái thoải mái. Cậu giơ tay lên lau mồ hôi trên trán, hơi ngượng ngùng, quay sang hỏi: “Có chuyện gì vậy?”
Phương Mộc nghĩ giây lát rồi hỏi: “Mấy giờ rồi?”
Mạnh Phàm Triết nhìn đồng hồ, trả lời: “9 giờ 5 phút. Ồ, 38 giây.” Cậu vội vàng bổ sung thêm một câu.
Phương Mộc cười, Mạnh Phàm Triết cũng đỏ bừng mặt như thể bị người khác lật tẩy bí mật.
Bữa trưa, Phương Mộc ăn rất no, lại thấy buồn ngủ. Nhìn đồng hồ, chỉ còn chưa đầy một tiếng là đến giờ học buổi chiều, bèn lên trên sân thượng khu giảng đường hóng gió. Khi đi lên sân thượng, Phương Mộc mới phát hiện ra trên đó đã có một người. Là Mạnh Phàm Triết.
Cậu ta ngồi trên bậc xi măng trên sân thượng, hai chân thả thõng xuống, ngắm nhìn phía xa xa, hình như đang suy ngẫm điều gì.
Phương Mộc không muốn để cậu ta nhìn thấy mình, đang định lặng lẽ rời khỏi đó, chợt nhìn thấy Mạnh Phàm Triết đột nhiên đứng bật dậy.
Cậu ta thận trọng đứng trên bậc xi măng, bậc xi măng đó rộng chưa đến 20cm, mũi giày và gót giày của cậu đã vượt ra bên ngoài. Mạnh Phàm Triết đứng lắc la lắc lư trên bậc xi măng, hai tay dang ra, hít thở sâu, như thể đã hạ quyết tâm cúi đầu xuống dưới.
Phương Mộc nín thở. Đây là tầng 7! Nhìn thẳng xuống dưới sẽ thấy gì?
Đầu người to bằng chiếc cúc áo? Chiếc xe ô tô to bằng đồ chơi trẻ em? Hay là dường như chuẩn bị trở về với đất mẹ?
Không, không thể hét gọi cậu ấy lúc này được, nếu không, chắc chắn cậu ấy sẽ bị hoảng sợ, không khéo lại rơi xuống mất.
Phương Mộc thận trọng bước lên một bước, đế giày và cát cọ vào nhau tạo nên thứ âm thanh vang vọng như sấm rền.
Thân thể Mạnh Phàm Triết lắc lư càng lúc càng mạnh, cậu đã sắp mất thăng bằng! Phương Mộc không kịp suy nghĩ, lao nhanh lên trước, nhắm trúng thắt lưng da của cậu ta, giữ thật chặt, rồi kéo cậu trở vào. Mạnh Phàm Triết kêu lên thất thanh, rồi cùng Phương Mộc ngã nhào xuống sân thượng.
“Cậu đang làm gì thế? Muốn chết à?” Phương Mộc giận dữ nhìn khuỷu tay bị trầy xước.
“Xin, xin lỗi!” Mạnh Phàm Triết hoảng hốt ngồi bệt xuống, miệng lẩm bẩm.
Phương Mộc thấy mặt cậu ta trắng bệch, bèn giơ tay kéo cậu đứng dậy.
Chân Mạnh Phàm Triết nhũn như con chi chi, cậu run rẩy, gắng gượng đứng lên, phủi phủi bụi dính trên người, thân người lại lắc lư, như thể có thể ngã khuỵu bất cứ lúc nào.
Phương Mộc thở dài, dìu cậu ta đến một chiếc ghế đá trên sân thượng, lấy cốc nước trong cặp sách ra, đưa cho cậu ta. Mạnh Phàm Triết uống liền mấy ngụm, hơi thở dần ổn định trở lại.
“Cảm ơn!” Cậu ta lấy một tờ giấy ăn, lau thật kỹ miệng cốc, rồi trả lại cho Phương Mộc.
Phương Mộc cũng ngồi xuống cạnh cậu ta, rút bao thuốc ra, lấy một điếu đưa lên miệng, nghĩ một lát, rút thêm một điếu nữa, đưa cho Mạnh Phàm Triết. Mạnh Phàm Triết do dự giây lát, rồi mới giơ tay ra nhận. Vừa mới hít hơi đầu tiên, cậu đã ho sặc sụa.
Hai người cùng ngồi yên lặng, Phương Mộc hít những hơi thuốc thật sâu, Mạnh Phàm Triết chỉ nhìn chăm chăm vào điếu thuốc càng lúc càng ngắn dần trên tay mình.
“Chắc cậu nghĩ mình là thằng điên phải không?” Mãi lâu sau, Mạnh Phàm Triết mới lên tiếng trước.
“Ồ, gì cơ?”
Mạnh Phàm Triết ném mạnh mẩu thuốc, “Chắc cậu cảm thấy mình không bình thường?”
“Sao cậu lại nghĩ như vậy?”
“Nếu không, sao cậu không hỏi vừa nãy mình đang làm gì?”
“Ừ, được thôi, vừa nãy cậu đang làm gì?” Phương Mộc cảm thấy hơi buồn cười.
“Mình à, khà khà, thực ra cũng chẳng có gì, mình chỉ là muốn thử nghiệm một chút cảm giác sợ hãi.” Cậu ta quay sang nhìn Phương Mộc, cố tình nở nụ cười tỏ vẻ thoải mái thư thái, như thể hy vọng Phương Mộc sẽ thấy mình rất có bản lĩnh.
Phương Mộc cười, châm cho mình một điếu thuốc khác.
Mạnh Phàm Triết nhìn Phương Mộc chờ đợi, dường như chờ Phương Mộc nói những câu đại loại như: “Thì ra là thế!”, “Cậu thật rỗi hơi!”… Nhưng Phương Mộc vẫn im lặng, lúc sau mới chợt ngẩng đầu lên hỏi: “Cậu sợ cái gì?”
Mạnh Phàm Triết há miệng kinh ngạc, nhìn Phương Mộc trừng trừng. Ánh mắt đó dường như muốn hỏi: Sao cậu lại biết?
Đương nhiên là mình biết, nếu không, lúc điểm danh, mình đã không đập vai gọi cậu.
Một người, khi anh ta cảm thấy sợ hãi đối với một sự vật, sự việc nào đó, sẽ biểu hiện ra sự quan tâm chú ý và mẫn cảm khác thường đối với sự vật, sự việc này. Đúng lúc đó, nếu đột nhiên cắt ngang sự chú ý của anh ta, sẽ khiến anh ta tiêu trừ được cảm giác sợ hãi đối với sự vật, sự việc đó trong chốc lát. Đương nhiên, cũng chỉ được trong khoảnh khắc này thôi.
Mạnh Phàm Triết có lẽ là sợ điểm danh, cho nên, khi điểm danh sẽ biểu hiện ra sự khủng hoảng, càng sợ hãi, càng không thể trả lời. Đúng lúc gọi đến tên cậu, Phương Mộc đã đập vai gọi cậu, khiến sự chú ý của cậu chuyển từ việc “điểm danh” sang Phương Mộc, tự nhiên có thể trả lời được.
Thái độ của Mạnh Phàm Triết chuyển từ kinh ngạc sang ủ dột, cậu cúi đầu không nói.
“Cậu sợ cái gì?”
Mạnh Phàm Triết ngẩng đầu, Phương Mộc nhìn thấy ánh mắt yếu đuối của cậu ta, cậu ta chăm chăm nhìn Phương Mộc hồi lâu. Phương Mộc mỉm cười, thậm chí nhìn lại cậu với ánh mắt thản nhiên.
Trong ánh mắt đó dần dần xuất hiện sự tin tưởng và thân thiện.
“Mình,” cậu gãi gãi đầu: “Hơi sợ điểm danh, ha…ha… có phải rất kỳ lạ không?”
“Tại sao?”
“Không biết!” Mạnh Phàm Triết nhìn ra xa, “Mình cũng không biết mình bắt đầu sợ điểm danh từ khi nào. Cứ đến lúc điểm danh là mình lại căng thẳng, càng căng thẳng, mình càng không thể trả lời được chữ “có”, thường xuyên đỏ mặt tẽn tò đứng dậy, nhưng lại không thốt ra được chữ nào, mọi người trong lớp đều nhìn mình khó hiểu.” Cậu ta cúi đầu, giọng nói cũng trầm hẳn xuống: “Rất nhiều người cười nhạo mình.”
“Cậu bị nói lắp à?”
”Không, cậu thấy mình nói chuyện có vấn đề à?”
”Không!”
“Mình cũng thấy rất lạ, tại sao mỗi chữ “có” mà lại không thể nói ra được. Có lúc, mình đã lén tự luyện tập, tự gọi tên mình, tự trả lời “có”, thì không vấn đề gì, nhưng khi ở trên lớp, vẫn không thể nói ra được.”Cậu ta hạ giọng: “Cho mình điếu thuốc!”
Phương Mộc đưa thuốc cho Mạnh Phàm Triết, châm lửa cho cậu ta.
Cậu ta thận trọng hút một hơi.
“Bốn năm học đại học, cậu trải qua thế nào?”
“Mình tự nghĩ cách thôi, ha…ha…” Cậu ta thoáng mỉm cười: “Thường thì hay điểm danh lúc đầu giờ, mình bèn giả vờ đi muộn, đợi điểm danh xong mới vào, sau đó, lúc hết giờ, mình gặp giáo viên giải thích. Hồi đó, mình có biệt danh là Vua đi muộn. Các thầy cô giáo có ấn tượng rất xấu về mình, may mà thành tích học tập của mình cũng khá ổn.”
Phương Mộc cười, tỏ vẻ thấu hiểu.
“Có một môn học Luật Kinh tế quốc tế, thầy giáo đó giảng bài rất tệ, chỉ dựa vào việc điểm danh để duy trì quân số. Hai tiết học, điểm danh bốn lần. Bốn lần, cậu biết lúc đó mình có cảm giác gì không?”
Cậu ta đưa điếu thuốc lên miệng bằng bàn tay run rẩy, hít mạnh một hơi, sau đó ho sặc sụa như rút gan rút phổi.
Phương Mộc đấm lưng cho cậu ta, đợi hơi thở của cậu dần bình thường trở lại, Phương Mộc hỏi: “Cậu chưa đến khám bác sĩ tâm lý sao?”
Mạnh Phàm Triết do dự một lát: “Cũng coi như là khám rồi. Sao cơ, cậu cảm thấy mình có vấn đề về tinh thần à?”
“Không, cậu chỉ là có chút trở ngại về mặt tâm lý. Hầu như mỗi người đều có trở ngại tâm lý, nhưng mức độ khác nhau mà thôi. Cậu sợ điểm danh, có người sợ độ cao, sợ cầu thang máy, sợ những đồ vật nhọn… Đây chẳng phải là việc gì to tát cả.”
“Thật sao?” Mạnh Phàm Triết bán tín bán nghi, nhưng trông cậu đã thoải mái hơn nhiều. “Vậy thì,” cậu ta nhìn Phương Mộc đầy tò mò, “Cậu sợ điều gì?”
Phương Mộc không trả lời, cậu trầm ngâm hút hết điếu thuốc, nhìn đồng hồ: “Mình phải đi học rồi, lần sau nói chuyện tiếp nhé!”
Nói xong, liền để Mạnh Phàm Triết lại với sự thất vọng, hụt hẫng, rời khỏi sân thượng.
Nỗi sợ hãi. Thực ra, cậu không biết cái gì gọi là nỗi sợ hãi!




#1
    Nhu Tam 23.10.2010 00:04:41 (permalink)
    0
    CH ƯƠNG 4
    QU Ỷ HÚY MÁU

    Ông Tần xách hai con cá trắm cỏ, bước chậm rãi lên cầu thang. Đúng là đã có tuổi rồi, mới leo lên tầng 4, đã không thở ra hơi nữa rồi.
    Ông Tần tay vịn lan can, muốn nghỉ một chút rồi mới đi lên tiếp. Bất giác, ông liếc nhìn thấy cửa phòng 401 hé mở. Ông Tần đi đến cửa, hiếu kỳ nhìn vào trong, ngay sau đó, ông ngồi phịch xuống đất. Hai con cá trắm cỏ đã bị mổ bụng, bóc mang rơi xuống đất, đang cố gắng giãy giụa, một con còn nhảy hẳn vào trong phòng 401. Nó đang nhảy giữa vũng máu đỏ nhầy nhụa, mở to mắt, há to miệng, không hề nhận ra điểm tận cùng của vũng máu - một sinh vật đang nằm im và cũng bị mổ bụng giống như nó.
    Cảnh sát tuần tra nhanh chóng đến hiện trường. Trưởng nhóm cảnh sát chỉ mới nhìn lướt qua hiện trường, đã yêu cầu đồng nghiệp gọi điện cho Sở Công an thành phố.
    “Con quỷ hút máu đó lại xuất hiện rồi!”

    Thái Vĩ đã thay đổi quyết định trong lúc lái xe lao nhanh đến hiện trường. Anh bảo các đồng nghiệp khác đi trước, còn mình lái xe đến trường Đại học J.
    Cho dù cuộc nói chuyện lần trước với Phương Mộc không đem lại sự gợi mở và manh mối gì mới cho việc phá án, nhưng Thái Vĩ vẫn quyết định lắng nghe lần nữa cách nghĩ của cậu. Muốn cảm nhận được tình tiết vụ án, không gì bằng đến tận hiện trường xem xét.

    Phương Mộc đang học tiết tiếng Nhật thì bị Thái Vĩ gọi đi.
    Trên đường, Thái Vĩ không nói gì, Phương Mộc cũng luôn giữ im lặng.
    Quả đúng là, khi gặp lại, chính là lúc lại có người mất mạng. Cuộc gặp gỡ này khiến Thái Vĩ khó tìm được lời nói phù hợp. Lạ hơn cả, là cậu nam sinh bên cạnh chỉ lặng lẽ nhìn ra ngoài cửa xe, chẳng buồn thắc mắc xem đã xảy ra chuyện gì? Bây giờ đi đâu?
    “Nơi đó là tiểu khu Minh Châu phải không?” Bất ngờ, cậu nam sinh lên tiếng hỏi.
    Thái Vĩ nghiêng đầu nhìn: “Đúng vậy!” Anh chợt nhận ra, đó chính là hiện trường của vụ án mạng đầu tiên.
    Mấy phút sau, xe Jeep dừng lại trước khu nhà dành cho công nhân viên xưởng chế tạo ô tô của thành phố C trong Vườn Quang Minh. Vườn Quang Minh được xây dựng từ những năm 80. Hồi đó, xưởng chế tạo ô tô là doanh nghiệp nhà nước cỡ lớn nổi tiếng khắp toàn quốc, công nhân viên ở đây được đãi ngộ rất tốt. Trong thời kỳ hưởng phúc lợi bằng việc phân chia căn hộ, khu nhà dành cho công nhân viên xưởng chế tạo ô tô là tòa nhà 7 tầng hiếm có lúc bấy giờ. Chỉ có điều, thời thế đã thay đổi, trong thành phố ngày càng mọc lên nhiều tòa cao ốc, nên khu nhà 7 tầng cũ kỹ này đã đứng sừng sững 20 năm nay bỗng trở nên tàn tạ vô cùng.
    Hiện trường vụ án xảy ra ở phòng 401, đơn nguyên 2, tòa lầu số 3. Hiện trường đã bị những cảnh sát đến trước phong tỏa. Phương Mộc và Thái Vĩ bước qua đường cảnh giới, vội vàng đi lên tầng 4. Các nhân viên cảnh sát bận rộn đi lên đi xuống, nhiều người nhìn cậu thanh niên đeo kính, khoác cặp sách đi bên cạnh Thái Vĩ với ánh mắt nghi hoặc.
    Thái Vĩ bước vào phòng 401, đây là căn nhà kiểu kiến trúc cũ có một phòng khách và một phòng ngủ, chắc khoảng hơn 40m2. Mấy vị bác sĩ pháp y và nhân viên kỹ thuật đang bận rộn kiểm tra tử thi, chụp ảnh, xem xét hiện trường, trong phòng vô cùng chật chội.
    Một người cảnh sát nói với Thái Vĩ, đây là căn hộ cho thuê, nạn nhân vừa mới dọn đến đây, là một phụ nữ độc thân, chủ nhà đang trên đường đến đây.
    Nạn nhân là nữ giới, trông vẻ không quá 35 tuổi, thân trên để trần, từ cổ họng đến phần ngực, bụng bị xẻ bởi một vật sắc, có thể nhìn thấy cả xương sườn và nội tạng.
    “Thế nào?” Thái Vĩ vỗ vỗ vai một vị pháp y.
    “Nguyên nhân dẫn đến cái chết là do bị nghẹt thở, hung khí là một sợi dây thừng nilon, đã được người ở tổ Khám nghiệm cất giữ. Thời gian tử vong cách đây không quá 2 tiếng đồng hồ.”
    Thái Vĩ nhìn đồng hồ: “Thế tức là, thời gian tử vong khoảng từ 2 giờ đến 2 giờ 30 phút?”
    “Đúng thế!”
    “Gây án giữa ban ngày ban mặt, tên hung thủ này cũng thật quá ngông cuồng.” Thái Vĩ vừa lầm bầm, vừa quay người tìm kiếm Phương Mộc, thấy cậu đang đứng ở cửa, nhìn chăm chăm vào xác nạn nhân, sắc mặt rất nhợt nhạt.
    “Đến đây!” Thái Vĩ gọi cậu.
    Phương Mộc rùng mình như là đang sợ hãi. Cậu gật gật đầu, nhưng lại không hề nhúc nhích.
    “Cậu sợ à?” Thái Vĩ nhíu mày. Phương Mộc nhìn Thái Vĩ, hít thở sâu, bước vào.
    Các bác sĩ pháp y đang kiểm tra tỉ mỉ vết rạch ở phần ngực và bụng tử thi, thận trọng nhấc phần da thịt đã bị rạch. Phương Mộc nhìn chằm chằm vào vết thương, rồi lại nhìn xuống vũng máu đã bị đông lại trên sàn nhà, chợt lao nhanh ra ngoài hành lang, suýt nữa đâm phải một cảnh sát đang cầm túi vật chứng, bị anh ta mắng cho một câu.
    Thái Vĩ vội vàng đi theo, thấy Phương Mộc vịn tay vào tường, khom lưng nôn xuống một góc hành lang.
    Thái Vĩ chửi thầm một câu “đồ bỏ đi”, nhưng vẫn dặn người cảnh sát cạnh mình lấy nước cho cậu, rồi quay trở lại hiện trường tiếp tục công việc.
    Phương Mộc biết sẽ có một ngày mình phải đến hiện trường vụ án kẻ hút máu, nhưng cậu cũng không thể ngờ là mình lại bị mất mặt đến nhường này. Cho dù thường ngày có thể vừa ăn cơm vừa xem những bức ảnh hiện trường khiến nhiều người phát buồn nôn, nhưng khi cậu bước chân vào tòa nhà này, hành lang u tối bẩn thỉu, bao nhân viên cảnh sát sắc mặt nặng nề vội vã đi qua đi lại, đường cảnh giới chói mắt, những công cụ lạnh lẽo của pháp y, tử thi nằm giữa vũng máu và cả mùi máu tanh tràn ngập trong không khí đều khiến cậu có cảm giác rùng mình dù trời không lạnh. Tranh ảnh dù sao vẫn chỉ là tranh ảnh, nó không bao giờ có thể giống như hiện trường trực tiếp dùng đến thị giác, xúc giác và mùi vị truyền tải được thứ thông tin này: tại nơi đây, một sinh mạng vừa mới biến mất vĩnh viễn. Thứ thông tin này khiến cậu rùng mình, dường như bị đánh mạnh vào vị trí sâu xa trong kí ức mà cậu không bao giờ muốn động tới.
    Cần phải bình tĩnh, không được làm ảnh hưởng tới sự phán đoán của mình. Cậu vừa nôn, vừa kiên quyết nhắc nhở mình.
    “Cậu không sao chứ?” Bên cạnh vang lên giọng nói có vẻ mất kiên nhẫn của Thái Vĩ.
    Phương Mộc thở dốc, yếu ớt dựa vào tường, uống hết cả nửa chai nước anh cảnh sát vừa đưa cho cậu. Cậu lấy ống tay áo lau miệng, nói khó khăn: “Có thể còn có một người nữa!”
    “Gì cơ?” Thái Vĩ kinh ngạc mở tròn mắt.
    Phương Mộc không trả lời, mà lảo đảo đi đến phòng 401, ngồi xổm xuống bên cửa chính, ở đó có một chiếc cúc áo nho nhỏ, bên trên in hình đầu chuột Mickey. Vừa rồi, trong lúc chạy đến góc hành lang để nôn, cậu vô tình nhìn thấy thứ này. Phương Mộc nhặt chiếc cúc lên, đưa cho Thái Vĩ, sau đó đi vòng qua tử thi, bước vào phòng ngủ.
    Phòng ngủ bày biện rất đơn giản, chỉ có một chiếc giường, một chiếc ghế, một bàn làm việc, ở góc tường có một chiếc tủ gỗ để quần áo. Trên sàn đầy quần áo vứt bừa bãi, trên giường có bốn túi đựng đồ cỡ lớn căng phồng, kẻ carô các màu đỏ, lục, lam, cam. Trong đó, có một túi đã bị mở, mấy chiếc áo sơ mi nữ được gấp ngay ngắn để bên cạnh. Phương Mộc nhìn đống quần áo dưới đất, rồi lại nhìn mấy túi để đồ, quay người hỏi người cảnh sát đang chụp ảnh: “Anh đã chụp xong chưa?” Sau khi nhận được câu trả lời đã chụp xong, Phương Mộc lập tức mở mấy cái túi đựng đồ đó ra. Người cảnh sát đang đeo máy chụp ảnh vội ngăn cản cậu, nhưng bị Thái Vĩ ngăn lại. Sau khi lục lọi trong đống quần áo, Phương Mộc vội vàng chạy vào trong bếp.
    Bên cạnh bếp ga có một giá gỗ để dao, trên đó cắm dao gọt hoa quả, dao thái to, dao chặt xương, chỉ thiếu duy nhất một con dao thái loại trung bình, chắc là loại dao thái dài khoảng 15 cm, lưỡi dao dài, mảnh, cán gỗ. Phương Mộc hỏi nhân viên kiểm định đang lấy mẫu dấu vân tay: “Đã tìm thấy con dao đó chưa?”
    Người cảnh sát đột nhiên bị hỏi, ngẩn người, nhìn Phương Mộc với ánh mắt dò xét.
    “Đã tìm thấy chưa?” Giọng nói của Phương Mộc rất gấp gáp.
    “Chưa.” Người cảnh sát đó do dự rồi trả lời.
    Lúc này, Thái Vĩ cũng kịp đến, anh giơ chiếc cúc lên hỏi: “Cậu nói vẫn còn một người, là có ý gì?”
    Phương Mộc không trả lời, tiếp tục hỏi người cảnh sát đó: “Các anh có phát hiện ra chiếc cốc hay vật dụng nào đựng thứ hỗn hợp giữa máu và các chất khác không?”
    Người cảnh sát đó nhìn Thái Vĩ: “Không có.”
    Phương Mộc nhắm chặt mắt lại, chửi thầm một câu, sau đó quay đầu lại nói với Thái Vĩ: “Còn có một người bị hại, hơn nữa có khả năng là một đứa trẻ.”
    “Còn có một người, lại còn là một đứa trẻ?” Thái Vĩ nhíu mày, “Cậu dựa vào đâu mà đưa ra phán đoán như vậy?”
    “Anh muốn tôi nói cho anh nghe bây giờ sao?” Phương Mộc đã bắt đầu chạy ra ngoài, “Đứa trẻ đó có khả năng vẫn còn sống, hãy bảo người của anh đi theo tôi!”
    Thái Vĩ, Phương Mộc và mấy người cảnh sát cùng lên xe, vừa mới đi đến cổng tiểu khu, Thái Vĩ vội vàng thắng phanh.
    “Tìm ở đâu?”
    “Lấy đây làm trung tâm, cứ đi lượn từng vòng tìm kiếm một nam giới tuổi chừng 25-30, cao khoảng 1m70, hơi gầy, đầu tóc xõa xượi, tay cầm một túi đựng đồ cỡ lớn kẻ carô, ánh mắt đờ đẫn.” Phương Mộc ngừng lại giây lát: “Có thể anh ta sẽ mặc một chiếc áo khoác dày.”
    Mấy vị cảnh sát đưa mắt nhìn nhau.
    Thái Vĩ hắng giọng, nói với mấy người cảnh sát phía sau: “Nghe thấy chưa? Chú ý người như vậy đấy!”
    Vừa mới đi được hai vòng quanh Vườn Quang Minh, Thái Vĩ phát hiện ra mình đang ở vị trí ngã tư đường. Anh lái chậm lại, quay sang hỏi Phương Mộc: “Đi thế nào đây?”
    Phương Mộc nhìn đường vài giây, rồi quả quyết chỉ: “Hướng này!”
    Lúc này, sắc trời đã tối, đám mây đen đang trôi lơ lửng phía góc trời, giữa tầng mây dày, thấp thoáng nghe thấy tiếng sấm rền.
    Đây là con đường mới sửa thông sang khu vực ngoại thành, trên đường người qua lại rất thưa thớt, hai bên đường là những căn nhà mái bằng thấp và sạp bán hoa quả. Gió thổi càng lúc càng mạnh, những hạt cát và đá vụn đập lạo xạo vào cửa xe. Những người đi bộ rảo bước, người đi xe đạp thì gồng mình đạp thật nhanh, trận mưa lớn đang sắp sửa ập xuống.
    Mọi người trong xe đều dán chặt mắt vào cửa sổ xe để nhìn ra bên ngoài. Lòng bàn tay Thái Vĩ toát đầy mồ hôi, mấy lần suýt nữa không nắm chắc được vô-lăng. Anh liên tục nhìn đồng hồ, đã cách thời gian xảy ra vụ án 3 tiếng, liệu đứa trẻ đó có còn sống không?
    Mấy phút sau, từng hạt mưa nặng trịch cuối cùng cũng rơi xuống, trên đường lập tức xuất hiện vô số những hố nhỏ đang bốc khói trắng. Bên ngoài xe là một mảng mịt mùng, nhưng đã chẳng còn ai nhìn ra ngoài đó nữa, dù thị lực có tốt đến mấy cũng không thể nhìn thấy được bất cứ ai bên ngoài nữa.
    Không ai nói gì, xe Jeep lao nhanh trên con đường dường như dài vô tận này. Bầu trời sà xuống thấp như thể sắp sụp đến nơi, những tia sét như không cam tâm, liên tục xé toang bầu trời đen đặc, sau những tia chớp chói lòa, là những tiếng vang rền.
    “Dừng xe!” Phương Mộc chợt kêu lên.
    Thái Vĩ cuống cuồng giẫm phanh, chiếc xe trượt nhanh trên đường một đoạn dài mới dừng lại được. Xe còn chưa kịp dừng hẳn, Phương Mộc đã nhảy xuống khỏi xe, chạy lùi lại phía sau.
    Hai bên đường xếp đầy những viên ngói vỡ, xem ra đây có vẻ như là một nhà xưởng đã bị bỏ hoang từ lâu. Có thể, trước đây ở nơi này đã từng vang lên tiếng kêu vang của các loại máy móc, người người ra vào tấp nập, nhưng giờ đây, nó đã bị nhấn chìm trong đám cỏ dại cao đến thắt lưng. Toàn thân Phương Mộc bị cơn mưa xối xả làm ướt sũng, cậu nhìn đám cỏ bị mưa rơi đổ rạp, tạo nên những âm thanh lao xao, cậu thoáng run rẩy.
    Thái Vĩ lấy áo trùm lên đầu, chạy đến bên Phương Mộc, anh còn chưa kịp hỏi, đã nghe thấy tiếng Phương Mộc nói: “Tìm đi! Chính là ở đây!”
    Không chút do dự, mấy người liền chia nhau đi tìm trong đám cỏ cao đến thắt lưng người.
    Mấy phút sau, phía tây vang lên tiếng hét thất thanh của một người cảnh sát, rồi tiếng hét to: “Tìm thấy rồi!”
    Tất cả mọi người đều ngẩng đầu lên, mấy đôi mắt đều nhất loạt hướng về phía anh cảnh sát đó. Anh biết hàm ý ánh mắt của mọi người. Nuốt nước bọt, anh nói một cách khó khăn: “Chết rồi!”

    Là một bé gái. Thi thể bị nhét vào trong một đoạn ống bê tông, phần ngực và bụng bị xẻ ra. Bên cạnh xác có một chai nước, trong đó là chất nhầy nhụa màu đỏ, trông giống như máu. Trong đám cỏ cạnh đó, phát hiện ra một túi đựng đồ cỡ lớn kẻ carô màu vàng và một con dao nhọn cán gỗ.
    Thái Vĩ ra lệnh cho mấy người cảnh sát phong tỏa hiện trường, đồng thời xin cứu viện của Sở. Sau khi làm xong hết mọi việc, anh cảm thấy vô cùng mệt mỏi. Mở cửa xe, anh nhìn thấy Phương Mộc đang ngồi trên ghế lái, toàn thân ướt sũng, tóc còn đang nhỏ từng giọt nước mưa. Mắt cậu nhìn chăm chăm vào cửa kính xe phía trước đã bị nước mưa làm cho mờ tịt, điếu thuốc trên tay cũng chỉ còn thừa lại một đoạn rất ngắn.
    Thái Vĩ cũng không nói gì, mặc dù anh có vô số nghi vấn muốn hỏi Phương Mộc, nhưng anh vẫn châm thuốc trước, từ từ sắp xếp lại dòng suy nghĩ của mình.
    “Nam giới,” Phương Mộc đột nhiên lên tiếng, âm thanh khản đặc, “Tuổi không quá 30, rất gầy, ăn mặc lôi thôi, nhà ở gần đây, bố mẹ có thể nguyên là công nhân viên doanh nghiệp nhà nước, đã mất hoặc không chung sống cùng anh ta. Anh ta mắc phải sự trở ngại trầm trọng về tinh thần, máu có ý nghĩa vô cùng đặc biệt đối với anh ta.”
    Cậu hít một hơi thật mạnh, sau đó kéo cửa sổ xe xuống, ném đầu thuốc lá ra ngoài.
    “Tôi có hai đề nghị: Một là, tìm trong phạm vi toàn thành phố xem trong năm năm trở lại đây, những ai bị bệnh về máu đến bệnh viện để chữa trị. Trong số những người đó, tìm kiếm người có đặc điểm vừa nêu trên; Thứ hai, tìm kiếm trong tất cả các bệnh viện những người truyền máu trong vòng ba năm nay, đặc biệt là những người không hẳn đã cần, nhưng lại chủ động yêu cầu truyền máu.”
    Thái Vĩ ghi những điều này vào sổ tay, nghĩ một lát, rồi dè dặt hỏi: “Sao cậu biết vẫn còn một người bị hại?”
    “Chiếc cúc áo đó. Nạn nhân tại hiện trường khoảng 30 tuổi, không thể nào dùng chiếc cúc có hình nhân vật hoạt hình. Hơn nữa, tôi không phát hiện ra chiếc áo nào phù hợp với chiếc cúc này.”
    “Chiếc cúc này hoàn toàn có khả năng do người thuê cũ làm rơi lại.”
    “Không đâu. Trên chiếc cúc không dính một chút bụi nào. Ngoài ra,” Phương Mộc nhìn ra ngoài cửa sổ, “Nạn nhân vừa mới chuyển đến căn hộ này, còn chưa kịp mở túi để đồ, nhưng dưới đất lại có một đống quần áo rơi vãi, mà lại không tìm thấy cái túi đựng số quần áo đó. Trong bếp thiếu mất một con dao, có lẽ là con dao dùng để mổ bụng nạn nhân. Nạn nhân mặc dù bị mổ bụng, nhưng ở hiện trường không phát hiện thấy dấu vết nạn nhân bị hung thủ uống máu. Điều này chứng tỏ, chắc chắn hung thủ đã tìm thấy được nguồn máu có sức hấp dẫn hơn, sau đó dùng túi đựng đồ đưa nạn nhân đi.”
    Phương Mộc quay sang Thái Vĩ: “Nguồn máu trẻ trung hơn, anh nghĩ đến điều gì?”
    Thái Vĩ bị hỏi, ngẩn người: “Không, không biết!”
    Dường như Phương Mộc cũng không kỳ vọng Thái Vĩ trả lời, quay ra nhìn chăm chú bầu trời càng lúc càng tối sẫm.
    Thái Vĩ nghĩ ngợi, lại mở miệng hỏi: “Vậy, sao cậu lại biết hung thủ sẽ giết hại đứa bé ở đây?”
    Phương Mộc không trả lời ngay, mà một lúc lâu sau mới từ tốn nói: “Đối với hắn, đây là nơi thích hợp nhất.”


    #2
      vittroi 12.11.2010 04:20:19 (permalink)
      0
      Bạn ơi, truyện hay quá. Bạm post thêm được hông?
      #3
        Nhu Tam 16.11.2010 02:49:46 (permalink)
        0
        CH ƯƠNG 5

        B ÁC S Ĩ

        Một tuần trước.
        Lúc này là giờ ngủ trưa, hành lang trong thư viện vô cùng yên ắng. Một cậu thanh niên thận trọng bước lên cầu thang, dựa vào lan can, dần dần điều tiết hơi thở của mình.
        Hành lang trông có vẻ rất dài. Cậu ta chỉnh sửa cặp sách, dường như đã hạ quyết tâm, bước gấp gáp tới trước một cánh cửa, nhìn xung quanh, không có ai. Cậu nhìn lên tấm biển trên cửa: “Phòng tư vấn tâm lý”. Cậu hít thở thật sâu, giơ tay gõ cửa.
        Tiếng gõ cửa vang lên chói tai giữa hành lang vắng lặng. Không ai trả lời. Cậu lại gõ lần nữa, vẫn không ai trả lời. Cậu ghé sát tai vào cửa, bên trong im ắng không chút động tĩnh. Cậu thở hắt ra, nét mặt không rõ là thất vọng hay nhẹ nhõm. Cậu định quay người bước đi, cánh cửa chếch đối diện lại chợt bật mở, một người đàn ông thò đầu ra.
        “Cậu tìm ai?”
        Cậu thanh niên giật mình, cậu chỉ tay vào cánh cửa bị khóa chặt, nhưng không thốt ra được tiếng nào.
        Người đàn ông bước tới, nhìn cánh cửa đó: “Tìm thầy Kiều à? Thầy ấy không có ở đây.” Anh ta nhìn cậu thanh niên: “Cậu tìm thầy ấy có việc à?”
        “Tôi… không có gì!”
        Người đàn ông cười.
        “Có việc thì hãy nói ra, nếu không, kìm nén trong lòng, dễ gây bệnh lắm.”
        Cậu thanh niên ngước lên nhìn anh ta. Đầu tóc gọn gàng, đôi mắt thân thiện, hàm răng trắng muốt, khi mỉm cười, khóe miệng hơi cong lên.
        “Tôi, có đôi khi tôi cảm thấy sợ hãi.”
        Người đàn ông khẽ cười, “Ai cũng đều có lúc cảm thấy sợ hãi. Có thể nói cho tôi biết, cậu sợ điều gì không?”
        Cậu thanh niên cúi đầu, mím chặt đôi môi.
        Người đàn ông thấy cậu không có ý định nói ra, cũng không miễn cưỡng.
        “Cậu có thể khắc phục loại cảm giác này.” Anh ta nhẹ nhàng đặt tay lên vai cậu thanh niên: “Ví dụ, cậu có thể tưởng tượng ra mọi tình huống nguy hiểm, hãy để tình huống nguy hiểm nhất xuất hiện trước tiên, đồng thời lặp đi lặp lại, dần dần, cậu sẽ cảm thấy không hề sợ hãi trước bất cứ tình huống nguy hiểm nào. Tự nhiên, cậu sẽ không còn sợ hãi cái việc mà cậu vẫn luôn sợ hãi đó nữa.”
        Cậu thanh niên ngẩng đầu lên, anh ta chớp chớp đôi mắt với cậu thể hiện sự thân thiện, dường như đang nói: hãy tin tôi!
        Đúng lúc đó, tiếng chuông vào học chợt vang lên trong hành lang. Cậu thanh niên giật mình, cậu vội vàng cảm ơn người đàn ông, rồi quay người bước đi.

        Trong cuộc họp phân tích tình hình vụ án, Thái Vĩ đã hội báo tỉ mỉ về tình hình điều tra bước đầu của vụ án đột nhập giết người này.
        Có tất cả hai nạn nhân. Người thứ nhất là Diêu Hiểu Dương, nữ giới, 32 tuổi, đã ly dị, là giảng viên Học viện Sư phạm thành phố J. Hai hôm trước khi xảy ra vụ án, cô ta vừa mới thuê phòng 401, đơn nguyên 2, tòa lầu 3, Vườn Quang Minh. Qua xem xét hiện trường, nạn nhân Diêu Hiểu Dương có lẽ vừa mới chuyển đến chính ngày hôm xảy ra vụ án, hơn nữa, lúc đó cô đang sắp xếp đồ. Cửa nhà không có dấu vết bị cậy phá, tổ chuyên án đã từng nghĩ đến khả năng người quen gây án, nhưng sau khi đối chiếu dấu vân tay lấy được tại hiện trường với chủ nhà và những người thân thiết với nạn nhân, đã loại bỏ khả năng này. Suy đoán bước đầu, sau khi hung thủ vào được trong phòng, đã giằng co quyết liệt với Diêu Hiểu Dương, cuối cùng, hung thủ đã lấy sợi dây thừng nilon để trên bàn ở phòng khách (Diêu Hiểu Dương đã dùng sợi dây thừng nilon này để buộc hành lý), thít chặt cổ nạn nhân cho đến chết. Sau đó, hung thủ lấy một con dao thái trong nhà bếp mổ bụng nạn nhân, hành động này gần như giống y như mấy vụ án trước. Nhưng điều đáng ngạc nhiên là, hung thủ không uống máu nạn nhân giống như các vụ án trước. Qua phân tích, hung thủ không làm như vậy, vì đúng lúc đó đã phát hiện ra nạn nhân thứ hai.
        Nạn nhân thứ hai tên Đồng Hủy, nữ giới, 6 tuổi, sống tại phòng 402, đơn nguyên 2, tòa lầu 3, Vườn Quang Minh. Hôm xảy ra vụ án, bố mẹ Đồng Hủy đều đi làm tại công xưởng, trong nhà chỉ có bà ngoại chăm sóc cô bé. Theo lời kể của bà ngoại cô bé, hôm xảy ra vụ án, bà và Đồng Hủy sau khi ăn trưa xong bèn đi ngủ trưa, bà mơ màng nhận ra Đồng Hủy chạy đi chơi, bà ngoại liền dặn bé, “Đừng đi chơi xa quá”, rồi lại ngủ tiếp. Khi cảnh sát điều tra hiện trường vụ án căn hộ bên cạnh, bà mới tỉnh dậy. Cũng chính lúc đó, bà không thấy Đồng Hủy đâu cả. Còn về việc đã có tiếng động gì trong căn hộ bên cạnh trong khoảng thời gian đó, bà không hay biết gì. Qua phân tích, rất có khả năng, khi Đồng Hủy chạy đi chơi hoặc chạy về nhà, đã vô tình gặp phải hung thủ, và hung thủ đã thay đổi ngay kế hoạch, quyết định chọn cô bé làm đối tượng để hút máu. Qua phân tích hiện trường thứ nhất (phòng 401, đơn nguyên 2, tòa lầu 3, Vườn Quang Minh), hiện trường thứ 2 (trước đây là công xưởng kính Đại Minh) và báo cáo kiểm tra tử thi, có lẽ, hung thủ sau khi dùng sợi dây thừng này thắt cổ Đồng Hủy cho hôn mê (trong quá trình này, một chiếc cúc áo trên váy Đồng Hủy mặc đã bị rơi ở cửa ra vào), lấy một chiếc túi để đồ trong phòng (cỡ lớn, kẻ carô màu vàng), sau đó nhét Đồng Hủy vào đó, rời khỏi hiện trường thứ nhất. Hung thủ sau khi đi bộ 40 phút về hướng đông nam, đã giết hại Đồng Hủy tại công xưởng kính Đại Minh cũ bên vệ đường, sau đó xẻ bụng Đồng Hủy, uống khoảng 200 cc máu của nạn nhân.
        Không thu được manh mối có giá trị sau khi phỏng vấn những người sinh sống gần khu vực Vườn Quang Minh, bởi vì, lúc xảy ra vụ án, phần lớn mọi người trong khu đều đang đi làm tại công xưởng. Cho nên, ngay giữa ban ngày ban mặt, hung thủ ngang nhiên đem nạn nhân đi mà không bị ai để ý. Khi phỏng vấn những người trên đường đi từ hiện trường thứ nhất đến hiện trường thứ hai đã thu được manh mối quan trọng: Qua lời kể của một chủ quán ăn nhỏ ven đường trên đường Hồng Viễn (quán ăn này cách hiện trường thứ 2 khoảng 3000 mét), hôm đó, có một người đàn ông đến quán ông mua một bình nước khoáng. Người đàn ông này cao khoảng 1m72, rất gầy, tóc tai rũ rượi, thần sắc lo lắng bất an, đem theo một chiếc túi đựng đồ cỡ lớn. Hiện nay, đã phác họa chân dung nhân vật theo lời mô tả của chủ quán, đồng thời tiến hành ra lệnh truy nã người đàn ông này.
        Sau khi tan cuộc họp, Thái Vĩ đang định đi, Cục trưởng gọi anh lại: “Tiểu Thái, cậu ở lại một chút!”
        Cục trưởng người to béo, đang cố gắng thay đổi tư thế trên chiếc ghế da xoay, thấy Thái Vĩ vẫn đang đứng, liền huơ huơ tay ra hiệu cho anh ngồi xuống. Ông xoay cốc trà trong tay, lên tiếng hỏi: “Nghe nói, cậu để một sinh viên giúp cậu phá án?”
        “Vâng ạ. Đinh Thụ Thành, người của Sở Công an thành phố C đã giới thiệu cho em, nghe nói rất tài giỏi.”
        “Thế cậu thấy sao?”
        Thái Vĩ cân nhắc câu chữ: “Con người này khá thú vị. Chúng em đã phát hiện được ra nạn nhân thứ hai qua sự chỉ dẫn của cậu ta. Ngoài ra, sự miêu tả nghi phạm của cậu ta cơ bản đồng nhất với những điều ông chủ quán nói. Cậu ta nói, mấy hôm nữa sẽ liên hệ với em, em cũng muốn nghe ý kiến của cậu ta về những vụ án này.”
        “Không!” Cục trưởng giơ ngón tay trỏ lên, lắc lắc ngón tay, giọng kiên quyết: “Không được để cái cậu được gọi là thiên tài đó tham gia vào vụ án này. Không chỉ là vụ án này, mà sau này không được dùng đến biện pháp này nữa.”
        “Tại sao ạ?” Thái Vĩ vô cùng kinh ngạc.
        “Chuyện đó đã khiến chúng ta thiệt thòi vẫn chưa đủ sao!” Sắc mặt Cục trưởng trở nên rất khó coi, giọng cũng cao vút lên.
        Thái Vĩ càng không thể hiểu nổi, anh ngẩn người nhìn Cục trưởng. Cục trưởng đập đập vào sau gáy mình, hình như chợt nhớ ra điều gì, bèn hỏi anh: “Cậu đến đây bao lâu rồi?”
        “Bốn năm ạ!”
        “Chẳng trách,” sắc mặt Cục trưởng dịu đi đôi chút, “Người không biết, không có tội. Nhưng, lời tôi nói, cậu phải ghi nhớ cho thật kỹ. Đây là mệnh lệnh.” Nói xong, ông hất hất tay ra hiệu cho Thái Vĩ đi.
        Thái Vĩ trở về phòng làm việc, vô cùng băn khoăn, đang định tìm đồng nghiệp đã công tác ở đây lâu năm hỏi cho rõ tình hình, thì điện thoại chợt vang lên. Là Phương Mộc gọi.

        Qua những tài liệu mà cậu đọc được trong lần gặp đầu tiên với Thái Vĩ và việc tận mắt quan sát hiện trường vụ án thứ tư, Phương Mộc đã hình thành kết luận bước đầu về tên sát thủ liên hoàn hút máu người này. Nếu như nói các sát thủ liên hoàn thường hay để lại “ký hiệu” của riêng mình nơi hiện trường vụ án, vậy thì, ký hiệu của kẻ hút máu này là gì?
        Khỏi cần băn khoăn, gọi tên sát nhân này là quỷ hút máu, vì ký hiệu hành vi của hắn chính là mổ bụng nạn nhân, rồi uống máu của họ. Rõ ràng, kiểu hủy hoại thi thể này không phải để phát tiết sự phẫn nộ hay che giấu thân phận của nạn nhân, mà là xuất phát từ một loại nhu cầu đặc biệt.
        Vậy thì, loại nhu cầu này là gì?
        Uống máu của nạn nhân, có thể được hiểu là một kiểu “bổ sung” cho lượng máu trong chính cơ thể mình. Điều này có nghĩa là chắc chắn hung thủ thường nảy sinh cảm giác sợ hãi và lo lắng vì sự “thiếu” máu trong cơ thể mình. Nguyên nhân gây nên tâm lý này hiện chưa được làm rõ, nhưng có thể khẳng định được rằng, sự lo lắng và sợ hãi này đã đến mức vô cùng trầm trọng, nếu không, anh ta cũng không đến nỗi phải dùng đến hành vi giết người uống máu để giảm bớt loại tâm trạng này.
        Tình trạng hiện trường vụ án cũng có thể chứng minh được cho kết luận này.
        Nạn nhân đầu tiên bị giết khi cô vừa mới tan ca đêm. Khi cảnh sát đến, chiếc chìa khóa vẫn còn cắm trên ổ khóa. Có khả năng hung thủ đi theo cô vào trong khu nhà, sau đó, nhân lúc cô mở khóa liền ra tay, sau khi đập mạnh nạn nhân vào cửa, bèn bóp cổ cô đến chết, tiếp đến là mổ bụng nạn nhân, rồi uống thứ dung dịch hòa trộn giữa sữa và máu nạn nhân.
        Nạn nhân thứ hai là một phụ nữ đang học thạc sĩ, hôm xảy ra vụ án, lẽ ra cô cần phải đến trường học. Hàng xóm lúc đi đổ rác phát hiện ra cửa phòng để mở, cô bị giết chết trong phòng khách, hung khí là chiếc lọ hoa được bày trên tủ giày.
        Nạn nhân thứ ba là một phụ nữ thất nghiệp vừa mới trở về sau khi bán đồ ăn sáng ở chợ. Cô bị giết chết trong nhà trệt của mình. Trước tiên, hung thủ túm chặt tóc cô, đập mạnh vào lò bếp, sau đó cùng dây điện thắt chặt cổ cô cho đến chết, cuối cùng, uống thứ hỗn hợp giữa máu của cô và sữa đậu nành cô bán chưa hết.
        Nạn nhân thứ tư là một cô giáo đã ly dị chồng. Hung thủ lấy một sợi dây thừng mà nạn nhân dùng để buộc hành lý thắt cổ cô cho đến chết. Khi đang định uống máu của nạn nhân, hắn ta chợt phát hiện ra đứa bé gái đang đi ở hành lang. Thế là, đứa bé trở thành vật hy sinh.
        Nếu như không có hành vi ký hiệu “uống máu”, thì rất khó mà tưởng tượng nổi, bốn vụ án này là cùng một hung thủ. Thân phận và tuổi tác của nạn nhân khác biệt; địa điểm gây án lúc thì trong căn hộ, lúc thì ở nhà trệt; cách giết người lúc thì dùng sợi dây thừng thít cổ, bóp cổ, lúc thì lấy lọ hoa đập chết; còn dụng cụ mổ bụng thì đồng nhất: đều tìm thấy vật sắc tại hiện trường vụ án, sau khi dùng xong, đều để luôn lại hiện trường. Hơn nữa, hắn ta còn không hề cố ý tiêu hủy chứng cứ phạm tội: tại hiện trường, khắp nơi đều có dấu vân tay của hắn ta, thậm chí, còn không thèm đóng cửa mà đã bỏ đi ngay.
        Đối với hiện trường này, Phương Mộc chỉ có thể nghĩ đến một cụm từ: Hỗn loạn.
        Không hề chủ tâm chọn lựa nạn nhân; không đem theo công cụ gây án; không xóa dấu vết sau khi gây án.
        Tên hung thủ này, nếu không phải là một người vô cùng cẩu thả, thì là một người tinh thần thường xuyên ở trong tình trạng hoảng loạn. Vậy thì, kiểu trở ngại về mặt tâm lý dẫn đến thần kinh hoảng loạn, rốt cuộc là có mối quan hệ mật thiết với máu như thế nào?
        Phương Mộc gõ từ khóa “máu”, “trở ngại tinh thần” vào máy vi tính trong thư viện. Trên máy tính hiện ra thông tin: trong phòng đọc số 3 của thư viện có mấy cuốn sách về phương diện này. Phương Mộc ghi lại tên mấy cuốn sách đó, đi đến thẳng phòng đọc số 3.
        Do Phương Mộc thường xuyên đến thư viện mượn sách, nên khá thân quen với mấy giáo viên ở đó. Hỏi han vài câu qua loa, Phương Mộc đưa tên sách cho thầy Tôn đang ca trực, hỏi thầy xem có thể tìm được những cuốn sách này ở đâu.
        “Ồ?” Thầy Tôn nhìn tên các cuốn sách: “Chẳng phải em học ngành Luật sao, sao đây toàn là sách dành cho người học ngành Y, em nghiên cứu những thứ này làm gì vậy?”
        “Em rảnh rỗi, muốn xem cho vui thôi.”
        Thầy Tôn chăm chú nhìn cậu qua đôi kính trên sống mũi, mỉm cười: “Trên giá sách giữa Z1 và Z3, chính là ở cái góc đó.”
        Phương Mộc tìm thấy mấy cuốn sách đó theo sự chỉ dẫn của thầy Tôn. Trong khi làm thủ tục mượn sách, Phương Mộc tiện tay cầm một tờ báo để trên bàn, trong đó giới thiệu một vụ án đột nhập giết người mới xảy ra, cạnh đó còn có cả bức tranh vẽ chân dung nhân vật.
        “Em nói xem, báo đăng như vậy, còn có cả lệnh truy nã, con quỷ hút máu này lại còn không mau chạy trốn sao?” Một cô giáo thấy Phương Mộc đọc báo, nói đầy cảm thán.
        “Không đâu.” Phương Mộc không ngẩng đầu lên, buột miệng nói: “Loại người này thường không hay quan tâm đến tin tức truyền thông.”
        “Ồ, thật sao?” Cô giáo đó chợt có hứng: “Sao em biết? Thầy giáo dạy à?”
        “Ha… ha, em cũng chỉ đoán thôi.” Phương Mộc không muốn nói nhiều, nhận lấy mấy cuốn sách từ tay thầy Tôn, rồi bước nhanh ra khỏi thư viện.

        Sau cả một ngày đóng cửa nhốt mình trong phòng, Phương Mộc gọi điện cho Thái Vĩ. Trước tiên, cậu hỏi về tình hình điều tra bệnh viện, Thái Vĩ trả lời cậu, do số lượng bệnh viện cần điều tra quá đông, nên cần chút thời gian, trước mắt vẫn chưa có manh mối nào đáng giá. Và vẫn đang tiến hành điều tra dò hỏi xung quanh hiện trường vụ án. Phương Mộc nói với Thái Vĩ, mình đã đọc một số sách về các căn bệnh về máu và trở ngại tinh thần, cậu cảm thấy, hung thủ rất có khả năng đã đến chữa bệnh hoặc xin được tư vấn ở bệnh viện tâm thần.
        “Cho nên, nếu có thời gian, chúng ta hãy cùng nhau đến bệnh viện tâm thầm điều tra.” Phương Mộc ngừng lại giây lát: “Nhưng tốt nhất là phải nhanh lên, hung thủ chuẩn bị lại gây án.”

        “Cậu đến rồi à?”
        “Thầy rất bận phải không? Có làm phiền thầy không ạ?”
        “Ha… ha, không có gì, vào đây ngồi!”
        “Thầy đang đọc sách à?”
        ”À, đọc linh tinh thôi. Uống gì nhỉ? Trà hay cà phê?”
        “Cà phê đi.”
        “Tôi chỉ có cà phê tan thôi, có được không?”
        “Cũng được!”
        “Mà thôi, tôi thấy cậu nên uống nước trắng, cậu vốn ngủ không được ngon giấc.”
        “Ha… ha, cũng được!”
        “Cẩn thận, hơi nóng.”
        “Cảm ơn. Ồ, thầy đọc sách phức tạp quá. Bệnh tật về máu và trở ngại tinh thần, Trở ngại tinh thần do tâm lý xã hội, cuốn này là The study on…”
        “The study on agoraphobia - nghiên cứu chứng sợ hãi cuồng nộ”.
        “Chứng sợ hãi cuồng nộ là gì?”
        “Nói một cách đơn giản, chứng sợ hãi cuồng nộ chính là chỉ nỗi sợ hãi của anh ta đối với bất cứ hoàn cảnh nào khiến anh ta nảy sinh sự sợ hãi và bất lực. Ví dụ, sợ độ cao.”
        “Ồ, chính là chứng sợ hãi phải không ạ?”
        “Khà khà, cũng gần như thế.”
        “Thầy giỏi quá, hiểu biết rộng.”
        “Cũng chỉ là rảnh rỗi đọc cho vui thôi. Phải rồi, phương pháp lần trước tôi dạy cậu, thế nào, có tác dụng không?”
        “Cũng tạm được.”
        “Thế thì, cậu có thể nói cho tôi biết, rốt cuộc cậu sợ cái gì không?”
        “… Không có gì!”
        “Khà khà, thả lỏng chút đi. Rất nhiều việc, chỉ cần cậu đứng ở góc độ khác, thì cách nghĩ của cậu về nó cũng sẽ khác đấy. Ví dụ…”
        Tiếng ấn chuột ở máy vi tính.
        “Trong số những động vật này, cậu sợ những con nào?”
        “Ừm, con chuột.”
        “Ha… ha, được. Nhìn xem, đây là một bức ảnh về con chuột. Này, đừng quá căng thẳng, nhìn vào màn hình, cậu có sợ không?”
        “Đương… đương nhiên.”
        “Được, đừng quá căng thẳng. Lúc nhỏ, cậu đã từng bị chuột cắn bao giờ chưa?”
        “Chưa.”
        “Vậy thì, trong nhà cậu, có ai sợ chuột không?”
        “Mẹ tôi.”
        “Lúc cậu còn nhỏ, mẹ cậu thường xuyên dẫn cậu đi chơi phải không?”
        “Đúng vậy.”
        “Khi ở cạnh mẹ, cậu đã nhìn thấy chuột chưa?”
        “Có nhìn thấy.”
        “Lúc đó thế nào?”
        “Có một lần, mẹ tôi ôm tôi đến trường mầm non. Khi đi qua vườn hoa, một con chuột chạy lao qua trước mặt mẹ. Mẹ tôi lúc đó kêu thét lên, vội vàng bỏ chạy, sém chút nữa là vứt cả tôi. Còn có một lần, có một con chuột chết trước cửa nhà tôi, mẹ tôi sợ quá, không dám đến gần, nắm tay tôi đứng ở bên ngoài rất lâu, đến tận khi bác hàng xóm vứt con chuột chết đó đi, chúng tôi mới về nhà.”
        “Khà khà, hiểu rồi. Cậu rất yêu mẹ cậu phải không?”
        “Đương nhiên!”
        “Mẹ cậu bao nhiêu tuổi rồi?”
        “Ồ, 51 tuổi.”
        “Được, cậu hãy tưởng tượng ra một khung cảnh như sau, người mẹ tóc bạc trắng, tóc mẹ cậu đã bạc chưa?”
        “Hai bên mai đã bạc trắng rồi.”
        “Được, chúng ta tiếp tục. Bây giờ là mùa đông, bên ngoài gió thổi rất to, người mẹ tóc bạc trắng của cậu đang đứng run rẩy giữa cơn gió, phía trước là một con chuột đang chắn lối đi của bà. Con chuột đó rất to, lông đen sì, đôi mắt đỏ, cứ nhìn mẹ cậu chằm chằm. Cậu đừng run, dũng cảm lên!”
        “Được… được!”
        “Mẹ cậu vòng sang trái, vòng sang phải, cũng không thể nào đi qua được, lại vừa lo vừa sợ, nước mắt tuôn rơi, miệng lẩm bẩm: “Làm thế nào bây giờ, làm thế nào bây giờ.” Cậu có bằng lòng bảo vệ mẹ cậu không?”
        “Tôi bằng lòng!”
        “Ngồi xuống! Cậu nhìn xem, nó chưa dài đến một thốn, chỉ cần giẫm một cái là nó nát bét, nó không thể hù dọa mẹ cậu được nữa.”
        “Đúng vậy!”
        “Được, cậu hãy bảo vệ mẹ cậu! Đi lên và giẫm chết nó!”
        Trong phòng vang lên tiếng ghế bị xô đổ, tiếp theo là những tiếng giẫm chân “bịch… bịch”.
        “Được rồi, được rồi, bình tĩnh một chút! Cậu muốn uống gì?”
        “Không, không cần đâu, cảm ơn!”
        “Hít thở sâu. Tốt, tốt lắm. Nào, bây giờ cậu hãy xem lại bức ảnh này. Cậu còn thấy sợ nữa không?”
        “Đã khá hơn một chút rồi!”
        “Nó không hề đáng để cậu phải sợ hãi chút nào, nó chỉ là một con vật nhỏ bẩn thỉu đáng ghét thôi. Vì mẹ cậu, hãy dũng cảm lên!”
        “Đúng vậy, đã ổn hơn nhiều rồi!”
        “Lau mồ hôi đi!”
        “Cảm ơn. Thầy nên làm một bác sĩ tâm lý.”
        “Bác sĩ tâm lý? Không, tôi chỉ là thích thăm dò tâm lý con người thôi.”
        “Thật đấy. Ở cùng thầy, tôi cảm thấy rất thoải mái, rất vui.”
        “Thế thì tốt, tôi rất muốn giúp đỡ cậu.”
        “Thầy biết không, trông thầy rất giống một người bạn của tôi.”

        Còn nữa... Hiện nay cuốn sách này đã được bán ở các hiệu sách trên toàn quốc
        #4
          Chuyển nhanh đến:

          Thống kê hiện tại

          Hiện đang có 0 thành viên và 3 bạn đọc.
          Kiểu:
          2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9