Anh Nguyên
-
Số bài
:
1747
-
Điểm thưởng
:
0
- Từ: 21.10.2008
|
RE: Dòng thơ ngoài nước
-
27.12.2010 06:45:46
LÊ-ĐỨC-MINH-HOA TẾ TRƯNG-VƯƠNG Từ thuở Mê-Linh dấy nghĩa, Đánh đuổi quân thù, Đến khi sông Hát tự trầm, Đền ơn tổ quốc. Hồn linh hiển thiên thu cân quắc, Gương anh thư vạn thế soi chung, Trải ba năm vuơng nghiệp lẫy lừng, Bỗng một sớm cột trời nghiêng đổ. Nùng, Nhị, hắt hiu nỗi mhớ, Tản, Đà man mác niềm thương. Than ôi! Nhớ Đức Trưng Vương Vốn dòng thế phiệt, Cha: Lạc Tướng, võ công kiệt liệt, Mẹ: Man Thiên, ngôn, hạnh, công, dung. Song sinh hai liệt nữ anh hùng Giữa mùng một mùa thu Giáp Tuất. Chị, mệnh danh Trưng Chắc, Em, đặt hiệu Trưng Nhì, (1) Vẻ đoan trang, tú mục, thanh mi, Tài quán thế, lục thao, tam lược. Chu Diên Lệnh, một phen đính ước, Thi Sách cùng Trưng Trắc nên duyên, (2) Chí kình thiên nay gặp bạn hiền, Mầm cách mạng đấu tranh càng mạnh. Đại cuộc còn đang trù hoạch, Không may Lạc Tướng qua đời, Trao quyền vợ góa con côi, Rể quí ra tay phụ chính, Thuở ấy tham quan Tô Định Hung tàn, bạo ngược, hiểm sâu, Máu mỡ dân, bóc lột, Mặc sức làm giàu, Moi vàng bạc, ngọc châu, Chuyên dần về nước. Nào lông trĩ, nào ngà voi, Bắt săn cho được, Một con trâu, một đấu muối, Dân chúng điêu linh. Nào đắp lũy, xây thành, Nào sưu cao, thuế nặng; Trai chẳng rảnh lo toan đồng áng, Gái không yên tính việc tầm tang, Dìm dân trong kiếp sống điêu tàn, Bất kể mối nguy vong sớm tối. Nhân tâm càng hận tủi, Sĩ khí lại càng cao; Giết Đặng Công Như lửa cháy thêm dầu, Lửa cách mạng Đã châm ngòi bột phát. Bảo kiếm phục thù, Bành voi thiêng bất khuất, Uy quyền nương tử, Vó ngựa chiến dập dồn. Bạch Hạc phấp phới bóng cờ vàng, Mê Linh hiên ngang đoàn dũng sĩ. Vang trời câu quyết tử, Phong Châu, Giao Chỉ; Dậy đất bước quân hành, Hợp Phố, Cửu Chân. Quân uy rúng động cả núi rừng xanh, Sát khí bừng bừng như than lửa đỏ. Địa lợi, thiên thời, nhân hòa, gồm đủ, Thù nhà, nợ nước, chính nghĩa rõ ràng. Loa gọi về Nam Nhân dân hưởng ứng, Kiếm vung sang Bắc Quân địch khiếp oai. Tham quân hết cả mưu tài, Thái thú còn đâu chước giỏi? Sáu mươi lăm thành không cứu nổi, Ba mươi sáu kế, chạy là cao. Bỏ phăng ấn kiếm lẫn chiến bào, Vứt cả quân trang cùng binh mã. Trông hướng biên cương bôn bả, Thoát vòng chiến địa tháo thân. Thế quân ta như trúc chẻ, ngói tan, Lũ cường địch phải hồn bay, mật vỡ. Vĩnh Phúc lầy đường máu đổ, Long Biên chật đất thây phơi, Tuyên Quang quân mã tơi bời, Lãng Bạc vô phương chống đỡ. Chiến tích, quân công rực rỡ Non sông, xã tắc huy hoàng, Nhân dân chấm dứt lầm than, Đệ nhất anh thư kim cổ. Đô Mê Linh, lên ngôi Cửu ngũ, Đất Lĩnh Nam riêng một góc trời, Phong cho em: Công chúa Bình Khôi, Thưởng Tướng sĩ, quân dân rộ rã. Rửa quốc nhục, nêu cao đại nghĩa, Trả phu thù, giữ vẹn cương thường. Nhưng uy danh chấn động Bắc phương, Loài dương cẩu quyết tâm phục hận. Quang Vũ lệnh sai Mã Viện, Đoàn Chí sửa soạn lâu thuyền; Vừa ra quân, Đô đốc sợ, chết liền, Khiến hổ tướng phải men theo đường bộ. Phó tướng Lưu Long hăm hở, Tham quân Hàn Vũ rộn ràng, Theo đường hiểm Quỷ Môn Quan, Trực chỉ trung châu Bắc Việt. Tưởng tặc tướng uy phong lẫm liệt, Thua Thanh Thiên, về thủ Mã Giang, Dâng sớ tâu, xin viện binh sang, Đành nói rõ: ‘‘Thanh Thiên quá giỏi.’’ Chán thay! Thân trai sao đến nỗi Thất trận, bẽ bàng chưa? Chí anh kiệt bgày xưa: ‘‘Chết bọc thây da ngựa;’’ Câu danh ngôn muôn thuở, Giờ biết tính sao đây? Kẻo ngày lụn tháng chầy, Làm ô danh Đại tướng. Được binh viện, Bắc quân bèn đổi hướng, Né Thanh Thiên, ngầm tiến ngả Cao Bằng, Đường Bảo Châu, quân hùm sói tràn sang Như thác lũ, xuống Tuyên Quang đốt phá. Trận kế tiêp, nơi Phong Châu nghiêng ngửa, Quân Trưng Vương, Thái Hậu với Trưng Nhì, Xua voi thần ra tốc chiến một khi, Quân Mã Viện lại thất điên bát đảo. Chí quyết chiến, quân ta như vũ bão, Lũ hùm, beo, kình, ngạc, cũng phải lùi, Thêm sơn lam, chướng khí khắp nơi nơi, Bọn cuồng khấu phải thiên về Lãng Bạc. Lưu Long thân sơ xác, Hàn Vũ đã bỏ mình, Lại thêm quân ba Nữ kiệt vây thành, Cơ nghiệp Mã chắc phen này hưu hĩ. Thôi, đành rằng vận bĩ, Lại dâng sớ xin binh. Cả triều đình Đông Hán hoảng kinh, Vội tức tốc thêm quân năm vạn. Ban mật lệnh hành quân thích đáng, Quyết tung quân xung sát Hồ Tây, Khói chiến chinh mờ mịt trời mây, Niềm căm phẫn tỏa nhòa nhật nguyệt. Tiếc thay! Trưng Vương tuy dũng liệt, Nhược vẫn không thắng nổi cường, Quân thế chẳng tương đương, Nghĩa nhân đành thua cường bạo. Hao tốn biết bao xương máu, Rút quân về giữ Mê Linh. Nơi kinh khuyết, Mã Viện lại công thành, Đất Cấm Khê, Trưng Vương lo phòng giữ. Thành bị phá, ngôi Đế Vương sụp đổ, Bến Nam Nguyên, Đức Thái Hậu gieo mình, Nơi Hát giang, em cùng chị hy sinh, Thân ngà ngọc, mặc cát vùi sóng lấp. Ôi đau đớn! thực trời nghiêng đất sập, Tướng Lê Chân cũng tuẫn tiết theo vua, Gương trung trinh, sao Bắc đẩu phải mờ, Tài đảm lược, lũ xâm lăng còn khiếp. Chiến tường chót, theo sử xanh ghi chép Truyện Thanh Thiên ngăn đường tiến địch quân, Giúp thêm uy, có nữ tướng Bát Nàn, Hai công chúa cùng quyết tâm tử thủ. Ôi thôi! Trời xanh kia sao nỡ Dứt sự nghiệp từ đây, Vòng vây mỗi phút thêm dày, Dẫu cánh chim bay chẳng lọt, Trong cảnh nguy nan cùng tột Nam quân phải rút hai đàng: Thanh Thiên về giữ Ngọc Lam Cùng mấy trăm quân thủ túc, Giao chiến đến khi kiệt lực, Thày trò đều chết vinh quang. Về phần công chúa Bát Nàn, Thí phát, tu chùa Tiên Lữ, Quyết chí không hàng giặc dữ. Quên mình trong kiếp nâu sồng. Đô Dương oai trấn Cự Phong, Mấy trận trổ tài hùng liệt, Rút cuộc, thành vây, lương hết, Cũng đành xếp giáp qui hàng. Thế là triều đại Trưng Vương Đến đó tan tành mây khói. Cột trụ đồng được dựng lên trong cõi, Ghi chiến công cho bè lũ hung tàn. Than ôi! Yêu nước thương dân, Chí tài siêu việt, Toàn danh, toàn tiết, Thiên cổ vĩ nhân! Sức vẫy vùng giữa chốn muôn quân, Đời xuôi ngược trên trường chinh chiến. Năm hăm bảy, đã nên vinh hiển, Tuổi ba mươi, Vương vội về Trời, Để lòng người thương tiếc khôn nguôi, Hương khói tỏa muôn đời thờ phụng. Trước uy đức, chúng con cảm phục, Cùng cúi dâng lên tấc lòng thành, Vương cùng tướng sĩ anh linh Xin hãy giáng lâm chứng quả. Thượng hưởng, thượng hưởng! ~Lê-Đức-Minh-Hoa~ Nhân ngày húy kỵ Trưng Vương lần thứ 1954 Năm Đinh Sửu (Tây lịch 1997) Tháng Hai, ngày Ất Mão. Giao chỉ Viễn thần, Lê Đức Minh Hoa Báo Việt Nam Mới vọng bái. (1) Bà Man Thiên Trần Thị Đoàn gốc nghề tầm tang, nên lấy tên kén chắc (kén dày) và kén nhì (kén mỏng) đặt tên hai con là Chắc và Nhì. Sau bị chép sai thành Trưng Trắc và Trưng Nhị. (2) Ông Thi Sách họ Đặng, gọi kính trọng là Đặng Công.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.01.2011 12:32:17 bởi Anh Nguyên >
|