Anh Nguyên
-
Số bài
:
1747
-
Điểm thưởng
:
0
- Từ: 21.10.2008
|
RE: Dòng thơ trong nước
-
20.05.2012 12:12:46
PHẠM-CÔNG-TRỨ 1953 Quê Hải-Thanh, Hải-Hậu, Nam-Định, sống ở Hà-Nội, Tiến sĩ Luật, làm thơ, viết báo. LÀNG PHỐ GIAO DUYÊN (Trường ca) Nhà quê khí huyết tràn trề Tớ đi rung cả vỉa hè Đồng Xuân I. Mở Anh sinh ra từ Tam-Giác-Hồng Chỗ hợp giao giữa Sông và Biển Tình biển duyên sông Vừa dài vừa rộng Hoá mênh mông Anh lớn lên nơi xứ gạo có tên “Hải-Hậu” Xứ phở mệnh danh “Nam-Định-Gia-Truyền” Sơn-Nam-Hạ trấn xưa phù sa miền châu thổ Sông bồi Biển rút Hiện dần lên Này đây Những “Cồn Mu”, “Cồn Mờ” gợi cái thủa hồng hoang Những “Thương Điền”, “Tang Điền” nhắc một thời dâu bể Những “Thượng Trại”, “Hạ Trại” đánh dấu quân chiêu mộ Những “Quần Anh”, “Quần Phương”ghi nhớ buổi tứ xứ hợp quần Những địa danh phương đang chào mời, thách đố Sử gia nào cùng múa bút với văn nhân Này đây Phong-Ninh-Giang nức nở vị tám xoan Hà-Phúc-Lộc ngát hương hoa vàng nếp cái Quang-Thanh-Hưng nồng nàn chiếu cói Thịnh-Triều-Đông muối cá thương thuyền Tằm tơ Hải Trung, cam quýt Hải Đường Thong thả vắt ngang nhịp cầu Yên Định Nhà xứ Đông Biên vi vút mấy tầm chuông Bong! Bính! Bong... Bính... Bong...! “Ai ra Văn Lý - Chợ Cồn...” Câu phương ca ấy bắt hồn từ đâu? Anh - kẻ chân đất hành hương Đi tìm cái một thời một thuở Trong cái hằng nhiên vô thường Như chân trắng dã tràng mênh mang trên cát Trước biển đời ngợp sóng gió đại dương Như cánh xanh cào cào miên man trên cỏ Cánh đồng quê nặng nỗi tổ tông truyền Trong cõi diệu linh ảo huyền nhà Phật Một chữ “về” là“nghiệp” cũng là “duyên” Liên làng con đê ưỡn cong một dáng thuyền Trong đê: ruộng đồng Ngoài đê: biển cả Ngút ngàn một dải phì nhiêu Dằng dặc một miền dân dã (Phì nhiêu xứ bãi xứ đồng Dân dã mớ rau con cá) Nhịp nhàng lên xuống sông nương nhịp thủy triều Nông nổi cuộn trào biển một mình cãi vã Không ngừng nghỉ sông cuồn cuộn bao nhiêu phù sa Biển thâu nhận cần mẫn tháng ngày đắp bồi sinh hạ Phồn thực: gái xứ đồng cả vú, bự mông Tráng dương: trai miền biển đùi săn, ngực nở Chật căng sự muốn tỏ bày E thẹn vẻ còn như để ngỏ Lưng đê dài phơ phớt hoa cỏ may Tim tím ngàn thiên kim xâu gió Khâu đêm vào ngày Khâu làng vào phố Đính những từng trải vào với thơ ngây Anh đâu ngờ thứ dã thảo quê mùa lam lũ đó Không giồng mà nên Không gieo mà có Như khúc giao duyên này Đã bắt anh vui buồn, sướng khổ Như dằm khó khêu Như gai khó nhổ Găm vào ký ức chính anh đây Dáng hình anh mộc thô, vạm vỡ Phóng túng như sông Buông tuồng như gió Tượng hình thi ảnh chính anh đây Câu thơ anh cũng điệp hồn xứ sở Giăng hoa như loã thần Chân truyền như bún phở Cấu thành thi pháp chính anh đây Thay cho đề từ Vòng vo mấy lời xin được xem như “mở” Thơ phú giao duyên cho nó dễ dãi bày Cỏ may, sao lại cỏ may Không hương, không sắc dựng đầy bờ đê Nhớ đồng, nhằm biển anh về Gỡ cỏ sống lại lời thề ngày xưa II. Ngày xưa Ngày xưa Kéo cưa lừa xẻ Chẳng hám cơm Vua Chỉ mong được thua Về bú tí mẹ (!) Ngày xưa Mặc quần thủng đít Chi chi chành chành Quả khế quả chanh Gốc ổi gốc mít Ríu ra ríu rít Ngày xưa Đung đưa hoa bìm Lim dim hoa khế Sao mẹ đi chợ lâu thế? Ngày xưa Đi trốn Đi tìm Đống rơm, đống rạ Góc bếp, cánh cửa He hé mắt nhìn "ù oà", "ù ập" Thế là ú tim! Ngày xưa rất bướm Ngày xưa rất hoa Nào thuyền gấp giấy Nào trâu lá đa Ngày xưa rất bạn Ngày xưa rất ta Lăn tăn cỏ chỉ Rung rung cỏ gà Ngày xưa rất sâu Ngày xưa rất xa Quanh quanh bể nước Men men thềm nhà Rón rén là rón rén ơi Chú chuồn ớt mới đậu rồi, tóm ngay Rón rén là rón rén này Nàng bướm trắng lại vút bay mất rồi III. Tự bạch Ngày sinh anh không vầng hào quang chớp sáng nóc nhà Không đàn thiên sứ hiện về nghiêng cánh báo mộng Không nhà hộ sinh áo bờ-lu trắng toát khoa phụ sản Một chéo vải cho ra hình tã lót cũng không! Chỉ rạ rơm là có Chỉ những cơn đau sinh nở của mẹ là có Trên manh chiếu sờn nửa giường, nửa ổ Bà đỡ vườn gập nửa tấm lưng còng (Phải lăn lóc giữa rạ rơm đời thường như vậy Lấp lánh hồn anh luôn bảy sắc cầu vồng?) Cầu vồng đi đón cơn mưa Mống dài, mống cụt đi đưa cầu vồng Tập tầm vó, tập tầm vông Tay nào có tay nào không... tay nào Đêm ấy Sông cuồn cuộn trôi Biển ầm ào động (Đời anh sau này đồng vọng nhiều tiếng sóng) Phía bốt Đông Biên súng đạn nổ đì đùng (Đời anh sau này hơn một lần âm vang tiếng súng) Khói đạn bom trùm lên khói đốt đồng Dưới căn hầm bịt bùng Đêm tháng năm hầm hập nóng Le lói đèn dầu hôi mù bất động Anh đã oe oe vào đời Loạn lạc ấy là thời Gian nan rồi là số Cái quay búng sẵn rồi Quyền chi mà chọn lựa! Trùng với tên danh nhân, chẳng hiểu vì sao, cha lại đặt là Công Trứ (Chữ Trứ có “bộ thảo”- ấy là theo lời người biết Hán tự) Chỉ họ Phạm khác biệt thôi Ngày tháng giờ sinh mẹ cũng đâu nhớ rõ (25 tháng 7 chỉ là khai theo toạ độ) “Thời đao binh sống được cũng phúc rồi!” (Mẹ “nựng” bảo thế vào một đêm tối trời Biển lừng sóng bờ phi lao rúng động Bốt Đông Biên bộc phá nổ liên hồi) Như con sông quê bên lở bên bồi Quý Tỵ (1953) tuổi anh cầm tinh con Rắn Rắn là một loài bò... mơ gì như Rồng có ngày cất cánh Phải ẩn mình ngay giữa thanh thiên khi bất ngờ đối mặt với con người “Trường lưu thuỷ” mệnh anh là một dòng chảy dài Buồn thay, tuổi lại thuộc cung “hoả” “Mệnh” với “tuổi” như nước với lửa Ngũ hành gọi là tương khắc, hỡi ôi! Tử vi phán: tiền vận coi như vứt bỏ May mà “thuỷ” khắc được “hoả” Hậu vận bù lại cũng chẳng kém chi người (“Tri thiên mệnh” đã qua, “Nhi nhĩ thuận” sắp rồi “Cổ lai hy” chắc gì mong được thấy) Thiên cơ sắp bày huyền vi đưa đẩy Tường trình bản thân xin được “bạch” đôi lời Từ trong bụng mẹ sinh ra Chẳng dòng quý tộc chỉ là thường dân Thường dân thân tự lập thân Chẳng mơ có được quý nhân độ trì IV. Trích ngang Lý lịch anh “thành phần cơ bản” Nguyên quán thôn Hà Nam, xã Hải Thanh Gia đình không có ai làm gì cho đế quốc, phong kiến Bố đảng viên Đảng Lao động Việt Nam Thời chống Pháp còn được thưởng “Huy chương Kháng chiến” Mẹ thuần túy nông dân Ông nội sinh thời làm thầy đồ xóm Ông bà đều chết trước Cách mạng Anh tự khai, cam đoan và đã ký tên như thế biết bao lần (Có khi khai là một việc cần Nhiều khi khai chỉ là lấy le lấy lệ Nhà nước ta là “nhà nước của dân, do dân, vì dân” Dân chủ, cộng hoà... vốn dĩ là chính thể) Cụ nội nhà nho từng đỗ “nhị trường” (ấy là vào khoa thi cuối cùng) Cũng vì cái danh hờ này mà về già còn bị bần cố nông đem ra đấu tố Mực tàu giấy bản bao năm phút chốc hóa tanh bành! Cụ Tổ đầu quân theo “Vua Ba Vành” Tử chiến mất thây, mộ “xương dâu đầu gáo” (Triều đình nhà Nguyễn gọi là lũ giặc cỏ bất hảo Sử sách hiện hành tôn vinh là khởi nghĩa nông dân) Cụ thuỷ Tổ họ Phạm, tương truyền, gốc Hoa Đường, Đường An, Hải Dương Chẳng rõ vì cơn cớ gì dạt xuống miền đất hoang ngập mặn Sát cánh cùng các họ Vũ, Trần, Hoàng quai đê lấn biển Rửa mặn, thau chua lập nên xóm nên làng Không bút tích, văn bia, gia phả Rần rật trong mình dòng huyết hệ Con cháu “Phạm-đại-tộc” hôm nay vẫn thầm lặng truy tầm Bao giả thiết đặt ra mong được làm sáng tỏ: Phải vì đây là đất cửa sông hợp khoai, thịnh lúa Phải vì đây là nơi ven biển nhiều muối, lắm cá Hay do làm quan mà được bổ nhiệm xứ người Hay do bị truy bức nên buộc phải rời bỏ cố hương thôi Hay như hoa cỏ may Cuốn theo chiều gió Gặp đâu bám đó Chọn gì điểm rơi Đã là phận cỏ Sá chi váy người Đã rằng dân dã Kể chi miệng đời Chẳng để làm gì, chỉ để bám trêu chơi? Không rõ! Không sắc lại cũng không hương Chân cắm xuống đất, ngọn dương lên trời Nhỏ nhoi cọng cỏ, kiếp người Vẫn mong đứng thẳng dù đời đạp lên V. Làng Ký ức tuổi thơ anh: Lên hai lẫm chẫm tập đi Lên ba bi bô tập nói Lên bốn khóc thầm đứng đợi Mẹ buổi chợ muộn về Lên năm chân trần thám hiểm cánh đồng quê Tôi là con của cánh đồng Cánh đồng con của dòng sông trước nhà Cỏ lăn, cỏ lác, cỏ gà Tổ tiên cây lúa cũng là cỏ thôi Đồng quê tràn ngập lúa khoai Ngô đỗ bạt ngàn bờ bãi Dọc ngang đỗi Nhất, đỗi Nhì Cao thấp tùng Trên, tùng Dưới Sông quê nước chảy rầm rì Mặt sông sẫm màu nước vối Gái quê đi làm đồng về Kéo nhau ra sông tắm tối Sớm ra vạn chài hành nghề Rộn rịp vãi chài tung lưới Đôi cánh buồm nâu ven đê Mất hút vào miền chưa tới Vài rặng núi xanh mờ xa Thôi thúc một lời mời gọi Đường quê lắm cát dễ đi Thoang thoảng hoa xoan, hoa bưởi Ngõ quê tre trúc rậm rì Lập lòe hoa dong, hoa chuối Lách chách chim sâu, chim ri Thập thò quả dâu, quả ruối Láo lơ rắn ráo, thằn lằn Chung chiêng tổ kiến, tổ mối Trai quê tán gái về khuya Trêu nhau chạy như ma đuổi Tỏ tình trước mặt người yêu Bẽn lẽn như là thú tội Người quê chân lấm tay bùn Suốt ngày trên đồng cắm cúi Chăm lúa như chăm con thơ Rảnh rang đôi ngày lễ hội Trai làng rước kiệu, múa cờ Gái làng hát đúm, hát đối Tháng năm vào vụ gặt chiêm Dân làng ăn tết cơm mới Trước là tạ ơn đất trời Sau để cầu cho vụ tới Tháng bảy lắc thắc mưa ngâu Lễ gọi “vong nhân xá tội” “Trần sao âm vậy” bảo nhau Quỷ ma cũng không để đói Tạnh mưa vừa độ trăng tròn Trung thu lòng người thơ thới Trẻ con đánh trống rước đèn Chia nhau miếng bánh, múi bưởi Người lớn tam cúc, tổ tôm Phát bài chiếu trên, chiếu dưới Tháng chín bước sang tháng mười Cốm mới thơm mùi mời gọi Rải đồng chim ngói từng đàn Thôn xóm bước vào mùa cưới Cô dâu nửa khóc nửa cười Chú rể mong trời chóng tối Lúa chiêm cấy hái xong xuôi Tết Ta cũng vừa kịp tới Nhà nhà gói bánh, đồ xôi Giồng nêu, quét lại tường mới Sân đình náo nức cờ người Ao làng om thòm diễn rối Thôn nữ váy ngắn nhún đu Các cụ ngước nhìn không nói Tháng giêng là tháng ăn chơi Lũ lượt dân quê trẩy hội Gần thì Cổ Lễ, Phủ Giầy Xa tận Hương Sơn, Hà Nội… Cảnh quê nghìn đời không đổi Trâu bò gặm cỏ triền đê Lông mượt vo ve ruồi muỗi Nối đuôi từng đàn chiều về Thậm thịch chìm vào ngõ tối Mục đồng tóc gió vàng hoe Sáo trúc lưng trâu nhẹ thổi Bập bùng ánh lửa bên hè Mùi cơm quyện vào mùi khói Lấp ló trên đầu ngọn tre Trăng non cong hình lưỡi hái Dưới trăng trai gái nguyện thề Thầm thì bãi dâu, ruộng cói Vi vu suốt cả đêm quê Sáo diều rót vào tận cửa Làm tắt những tiếng ve ve Xua tan một ngày nắng lửa Đuổi nhau đom đóm nhập nhoè Ôm nhau ếch nhái sấp ngửa Cót két gió vặn thân tre Tưởng tiếng dân nghèo than thở Lấp loáng cánh dơi đi về Mèo hoang từng hồi nức nở Lửa chài thấp thoáng ven đê Bờ bụi nhọc nhằn tiếng cú Kẽo kẹt bên sông vó bè Ma trơi trên cồn nhảy múa Say rượu giọng ai lè nhè Vu vơ đôi tiếng chó sủa Đều đều mẹ kể con nghe Cái thời ngày xưa ngày xửa Bến sông trăng ném thia lia Thôn xóm chìm vào giấc ngủ Ngoài ngõ sương giăng đầm đìa Trong nhà tiếng người nói mớ Mảnh mai tiếng hạc về khuya Chém màn đêm thành hai nửa Thoạt tưởng tinh cầu đang rơi Sau ngỡ bình vàng chợt vỡ… Như tôi bạn đã từng nghe Bản giao hưởng của đồng quê không lời Như tôi bạn có từng chơi Li ti với kiến, tơi bời cùng giun? * Làng quê bước vào mùa gặt Thuyền, xe rộn rịp ra đồng Hạt sương sớm đánh đu đầu bông lúa Thoả tay liềm thuở vừa cấy... vừa trông Này là cơn đằng Đông (Cơn đằng Đông vừa trông vừa chạy) Này là cơn đằng Tây (Cơn đằng Tây mưa giây bão giật) Này là cơn đằng Nam (Cơn đằng Nam vừa làm vừa chơi) Này là cơn đằng Bắc (Cơn đằng Bắc đổ thóc ra phơi) Này, bầy cào cào đầu nhọn Đàn châu chấu đầu vuông Bọn muồm muỗm béo nhẫy vàng hươm Lũ cà cuống xập xè rú rít Núc ních chuột đồng Hôi mù bọ xít Ngoe nguẩy đỉa trâu Thập thò rắn nước Chàng bọ ngựa vung vẩy thanh gươm óng ánh những nàng cánh cam, cánh quít Gánh, đội người lớn mải miết Ta tha thẩn mót bông rơi Buổi đầu đời thấm thía giọt mồ hôi Biết câu “đắng cay muôn phần.... dẻo thơm một hạt” Biết câu“làm như ngày mùa để đâu cho hết” Đối với câu “ăn như ăn tết lấy gì mà ăn” Thế nào là “tháng tám đói qua, tháng ba đói chết” Vì sao lại “bán anh em xa mua láng giềng gần” Biết chuyện bất hoà giữa“cái cò cái vạc cái nông” Đám cưới chuột muốn xuôi thì phải lo lót miệng mèo già cá chép Lọ xương Bống thần kỳ đã đưa cô Tấm đến hội làng trong bộ quần áo đẹp Tránh sao khỏi nỗi oan khi Thị Kính giữa trưa cầm dao toan xén “râu rồng” Trê Cóc kiện nhau nguyên cớ đâu chỉ vì lũ con giống lạ giống lùng Thạch Sanh tha Lý Thông nhưng giữa đường sét đâu có tha tội chết Trương Chi đã trầm mình thì ích gì khi Mỵ Nương để rơi nước mắt Nàng Thúy Vân vô tâm lại cưới được chàng Kim Trọng hào hoa hỏi có ức không Là thiếu phụ Nam Xương đây sẽ không bao giờ lấy kẻ đa nghi như chàng Trương làm chồng Là nàng Châu Long đây sẽ không bao giờ nghe lời chàng tân quan Dương Lễ Một năm một lần như vợ chồng Ngâu (con Trời) thì thà làm thảo dân cho khoẻ Sơn Tinh thắng Thủy Tinh vì bói đâu ra dưới nước những “voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao” Chử Đồng Tử trần truồng mà lấy được nàng Tiên Dung (con Vua Hùng) chuyện tình xứ mình mới kỳ lạ làm sao Có bất công không khi thần Kim Quy bảo Thục Vương rằng“chính kẻ ngồi sau lưng nhà ngươi là giặc” Phá tan giặc Ân rồi sao Thánh Gióng vội bay về trời làm Phù-Đổng-Thiên-Vương cùng ngựa sắt Mê người trong tranh mà Tú Uyên cưới được Giáng Kiều thật đúng là kỳ ngộ thiên duyên Duyên cớ gì mà Lạc Long Quân lại bảo với Âu Cơ rằng “ta là giống Rồng còn nàng là giống Tiên...” Bánh chưng, bánh dầy đã khiến Lang Liêu được vua cha nhường ngôi quả là trời kia có mắt “Nhất sĩ nhì nông...” Đã hết gạo chạy rông thì sĩ cứ là chết trước Ân oán giang hồ, Nợ nần mộng ước Chuyện nhỏ chuyện to Việc nhà, việc làng, việc nước Nhà nông cùng đưa ra bàn luận công khai ngay giữa cánh đồng Nhà nông muôn thuở muốn gì? Muốn ruộng ngoài bãi, muốn nghề trong tay Vào mùa tối mặt cấy cày Nông nhàn rỗi rãi lại bày việc ra Nung nống nu na Thợ nề xây nhà Thợ đấu đóng gạch Thợ cạo tay dao tay kéo lanh tanh Thợ mộc tay đục tay chạm ký cách Thầy cúng ngắc ngư bắt ma Thầy lang trầm ngâm bắt mạch Thầy cò, thầy kiện đơn từ Thầy giáo, thầy đồ bút sách Gặp thời gặp thế ăn nên làm ra Thất cơ lỡ vận bí ba bí bách Ăn đố làm khoán nồi bảy nồi ba Thùng bất chì thình nhí nha nhí nhách * Phía đầu làng ngày trước có bến Trâu Đằm Vào mù lũ nước bất ngờ chảy xiết Trẻ làng thường tụ tập bên bờ sông chơi trò chọi cỏ gà Thằng nào cũng thủ một quân “Vua” quật nhau cho biết (Nếu có ai đó hỏi Vua là gì Thì chúng bảo Vua chính là huỷ diệt Đến hôm nay có đứa vẫn mơ làm Vua Mở miệng là “bệ hạ” với “nô tài” nghe mà sôi tiết) Rồi cả bọn rủ nhau bắt chuồn chuồn cắn rốn tập bơi Thật đúng là quân “giời đánh, thánh vật không chết” Trần truồng vài đứa vật lộn giữa dòng Cả lũ đứng trên bờ vỗ tay hò hét Có đứa xẩy chân xuýt bị nước cuốn trôi May mà người lớn chạy tới cứu không thì hết phép (Ai ngờ mấy năm sau thằng ấy lại thành anh hùng Đeo huân chương về làng khối gái làng mắt la mày lét) Nghe đồn trước đây dưới sông có cả hà bá, thuồng luồng Những thần sông chỉ rình bắt gái đẹp, trẻ con Mỗi năm một mạng người, nghe mà phát khiếp Cạnh đình làng là đền miếu thờ các thần linh, cô hồn Dưới gốc đa già “người âm” thường mở dạ tiệc Trống mõ thoát y lũ ếch nhái nhảy nhót uôm uôm Đàn nhị giỡn trăng bọn dế mèn cờ ri cờ ríc Năm dịch bệnh xác người la liệt chẳng có người chôn “Quan-ôn” các ngài đi tuần rậm rà rậm rịch Chuyện nạn đói “bốn lăm” bạt vía kinh hồn Bọn trẻ bấm nhau cười bảo nghe cứ như là “cổ tích” (!) Bạo mồm trai làng trổ tài kể chuyện “tiếu lâm” E lệ đấm lưng nhau gái làng khúc kha khúc khích Chuyện năm bộ đội kéo về diệt bốt, phá đồn Đền, miếu thành nơi đi về của dân quân du kích Trên bệ thờ nghi ngút khói hương Dưới hầm tối súng đạn lịch kịch Bây giờ dưới gốc đa già Đền, miếu còn trơ nền gạch Nhân danh chính quyền mới từ công nông mà ra Những gì của đế quốc, phong kiến người ta đốt sạch, phá sạch Chữ Nho, chữ Pháp Lửa chỉ một mồi Ngựa đá, bia đá Vào lò nung vôi Tượng Thánh, tượng Phật Giữa dòng nước trôi Ai mà luyến tiếc Là không thức thời Kẻ nào chống đối Đừng có trách trời! Các “ngài” cùng các “cô hồn” bỗng nhiên không cửa không nhà Dắt díu bồng bế nhau dạt về nơi bãi bờ lau lách Lấp ló giữa những cành đa quả chín vàng hoe Chim sẻ lau chau Chim sâu loách choách Chìa vôi quẹt cái đuôi chào khách Đom đóm hoa đăng hội mở lập loè Quấn lấy nhau nhảy múa trên nền bệ thờ Một đôi bạch xà hiện hình vào đêm mãn nguyệt Thoáng thấy bóng người là liền biến mất Đàn sáo canh khuya đâu đó chợt nổi lên… (ấy là theo lời các thảo dân thân Cò thân Vạc ăn đêm Bờ bụi đó đăng kiếm con lươn, con rạm) Mới đây dân làng bàn tính chung tay tái dựng lại miếu, đền Người này góp vôi Người kia cúng gạch Người lo dựng văn bia Người lo làm văn sách Có người ở tận Đà Nẵng, Sài Gòn cao hứng lên Cúng cả voi đá, ngựa đá để công trình không kém gì ngày trước Có người gốc quê định cư ở nước ngoài biết tin Cũng gửi đô-la về gọi là có chút công đức Cả những người đã từng ra tay triệt phá một thời Nay cũng đứng ra dứng dả như đang làm một việc cực kỳ công tích! Hơn thế, lại còn đưa ra sáng kiến trên cả tuyệt vời Sẽ hoàn thiện hồ sơ xin công nhận di tích lịch sử để rồi sớm mở dịch vụ du lịch Nếu biết tân trang lại khéo tiếp thị biết đâu sẽ thu hút rất nhiều du khách (?) Người quê nhân hậu bao đời Đền miếu cho cả cõi người âm ty Ai bảo đã chết còn gì Họ rằng xác chết hồn thì thăng hoa * Anh lớn lên cùng lúa khoai Sớm đánh bạn với cua cá Tròn năm tuổi đã biết buông câu Hơn mười tuổi đã biêt vác vó Tôm-cua-ốc-ếch lởn vởn trong đầu Toán-văn-sử-địa đêm về mới ngó Câu chầu văn hương nến phủ điện lung linh Điệu xẩm soan khăn áo sân đình óng ả Trưa, rộn rã chuông nhà xứ Đông Biên đổ Tối, chuông chùa Thanh Quang thảng thốt buông Cùng nghe chuông đâu kể bên “Giáo” bên “Lương” Chung một dòng sông chẳng cứ họ “Đời” họ “Đạo” Niên hoa chưa cập tuổi cắp sách tới trường Thôn ổ lòng đã thấm nỗi buồn dịu nhẹ Đánh đáo, chơi bi anh như bao đứa trẻ Tắm ao chưa thoả thì ra tắm sông Ao nhà lao xao Sông quê mênh mông Bè cây chuối ngao du cùng chúng bạn Lặn xuống đáy sông nhô lên cùng sen, súng Ê hề những là cua, ốc, cá, tôm, lươn Túm tụm giữa đồng rơm rạ nhóm lửa lên Mặt mũi nhọ nhem mắt cay xè vì khói Đứa tiếp rạ rơm đứa phùng mồm lên thổi Một đứa kêu lên “tao thấy thơm rồi” Cả lũ đồng thanh “đánh chén đi thôi” Bới tro trấu cùng chia phần thơm nóng Này là củ khoai: ngọt bùi nghẹn họng Này là củ súng: chẳng mất tiền mua Này là con cua: hai càng, tám cẳng Này là con ốc: di chuyển bằng mồm Này là con tôm: đi lùi lúng búng Nếu mà trời nắng: lá sen đội đầu Nếu mà trời ngâu: tàu chuối làm nón Nếu mà mưa rào: trần truồng cùng tắm Nếu mà giá lạnh: đốt lửa cho nhiều Thả trâu ra đồng Lũ con gái tìm chỗ chuyền chắt, thùa thêu Chia phe “địch-ta” Lũ con trai bày binh bố trận Thắng hay thua cũng cứ phải hò reo Tiếng “pằng” “pằng” chen tiếng trâu bò rống Bê nghé giật mình ngỡ mẹ gọi lồng theo Buổi kiếm được đánh chén cho tới số Hôm không gì mặt thưỡn bụng đói meo Lều chăn vịt trưa hè nằm tránh nắng Bếp quả thông hun khói ấm đông chiều Nép ánh trăng xuân cùng đứng rình đom đóm Đón gió đầu thu xé trộm vở thả diều Về nhà muộn bị bao phen mẹ mắng Mông nổi lươn cha đánh chẳng dám kêu Bên kia dậu thập thò đôi mắt thỏ Cứ khi nào chọc tức lại “lêu lêu...” Hồn quê vi vút phiêu diêu ấy là mộng ước trẻ nghèo thả lên Nghèo là nghèo bạc, nghèo tiền Dưng mà giăng gió thiên nhiên chẳng nghèo * Tiếng sóng dội Gọi anh chạy ra với biển Mịt mùng chẳng thấy bến bờ đâu Biển là một cái ao cực lớn Lô xô cánh buồm Biển là một cải chảo cực to Rán mẻ cá không bao giờ chín Ngàn lưỡi chó dưới chân sóng liếm Trăm tay mèo trên đầu gió mơn Lũ còng gió ườn mình nằm phơi nắng Đàn dã tràng miệt mài xe cát lấp đại dương Người đi te chân kheo cao nghễu nghện Dân bắt còng giỏ nặng kéo lệch sườn Gái làm muối bịt mặt cười lấp loá Trai kéo rùng cơ bắp cuộn như lươn Anh quỳ xuống ô nề trưa nắng toé Lưỡi thấm mùi mặn chát kiếp gío sương Anh soi lên ánh mặt trời nhiệt đới Những long lanh tinh kết giữa ngày thường Anh chạy vồ những con còng gọng đỏ Những mắt lồi sắp chết vẫn còn giương Anh áp tai vào những vỏ sò, vỏ ốc Nghe u u hồn biển giục lên đường Anh leo lên những con thuyền tả tơi trên cát Như chiến binh say sóng gió muôn phương Anh trà trộn vào đám người hôi tôm cá Ngồi ngóng thuyền nhấm nháp vị ẩm ương Nhập cuộc cùng bọn trẻ anh xây lâu đài cát Ghé tai nhau thầm bảo ấy “thiên đường” Lâu đài đổ kéo theo bao mộng ước Nơi đại đồng thế giới của tình thương Đứa đa cảm lén đưa tay chùi nước mắt Tiếc thương cho đời “hoàng tử” với “công nương” Đứa cười bảo dựng thiên đường trên mặt đất Hoạ có là kẻ đầu óc đẫm văn chương Đứa nghiêm mặt bảo sau những gì còn mất Là nỗi đau xin đừng có xem thường Chẳng khóc cười anh xoài mình trên cát Gío xạc xào vi vút lướt cành dương Cánh hải âu chớp sáng đầu sóng bạc Biển đổi màu tím ngắt lúc chiều buông Gió lồng lộng đẩy hồn lên bát ngát Biển tiễn ngày đỏ rực phút hoàng hôn Trút bỏ quần đùi cùng nhào xuống biển Tuyệt vời làm sao giây phút được trần truồng! Tắm truồng thú của trẻ quê Ra phố là hết đam mê tắm truồng Về quê tìm lại cội nguồn Hoà cùng lũ trẻ “diễn tuồng” trên sông * Lên sáu anh cắp sách đến trường Trường làng xinh xinh Bạn gái cùng bàn be bé Đôi lần mạnh miệng ghẹo chòng Khiến bạn khóc oà chạy về mách mẹ Trước người lớn đã hứa rằng “không” Quen mùi rồi hôm sau vưỡn thế Tan học rồi bắt chước “văn công” Chia vai nhau diễn tích ông Hoàng bà Chúa Đóng hoàng tử con trai gài mũ lông chim Giả công chúa con gái đội vương miện cỏ Nửa đầu còn “như ta đây” hề chèo, hề hoạn, hề mồi Nửa sau đã “trẫm”, “ái khanh” nhuốm mùi cải lương, tuồng cổ Rồi thì bày trò gán ghép vợ chồng Chẳng dè hai đứa lại thành ra xứng đôi hợp lứa (Xứng đôi vì thường cho nhau nhìn bài Hợp lứa vì cứ luôn miệng mình mình, tớ tớ) Thế rồi khi má bạn biết hồng Ngực bạn đã chớm thì nhu nhú Thi thoảng gặp nhau ngoài bãi, ngoài đồng Bạn ngúng nga ngúng nguẩy bảo rằng: - Sao “đằng ấy” lại nhìn tớ như thế? - Như thế là như thế nào? - Như thế là như thế chứ sao! (Ôi “đằng ấy” của một thời thơ trẻ Bao năm rồi nhớ lại vẫn nôn nao Ôi “như thế” của một thời mộng mị Đến bạc đầu cũng chẳng hiểu vì sao) Nhắc lại chuyện công chúa, hoàng tử ngày nào Mặt đỏ lên hai đứa cùng cười mắc cỡ Hoàng tử gì mà quần xắn phân gio gồng gánh ra đồng Công chúa chi mà suốt ngày khom lưng bắt sâu nhặt cỏ Cười cười nói nói giả bộ như chẳng có gì trước đám đông Chân tay mồm mép cứ như thừa khi còn trơ hai đứa Phận nhà nghèo bạn phải bỏ học giữa chừng Mộng ước tuổi thơ thành chuyện giữa đường dang dở (Bạn ước sau này là kỹ sư canh nông Lai giống lúa một năm có thể gieo cấy bốn vụ) Thế rồi chẳng biết gì đâu bạn vội lấy chồng Chú rể là ngoại kiều nghe đâu rất là giầu có Đám cưới rất to sao bạn cứ khóc ròng Gặp lại nhau chắc chẳng còn bao giờ nữa! Bạn gái ơi có bao giờ nhớ tới tôi không? Cái thằng răng lợi vêu vao, mắt thì hơn một mí Rất nhát gái nhưng lại thích trêu chòng Ôm mộng sau này sẽ trở thành văn nhân, thi sĩ Làm thơ chỉ để ca ngợi cỏ nội, hương đồng Phồn hoa thị thành quyết không thể quyến rũ Bạn gái ơi cũng có hiểu cho không? Cái thằng ngồi cùng bàn hôm xưa vì sao lại muộn vợ Vẫn còn nhớ mấy câu thầy giáo bắt học thuộc lòng Mỗi khi trái gió trở trời vẫn thường rên lên khe khẽ Khe khẽ là khe khẽ thôi Xin người chầm chậm để tôi theo cùng Hiếm hoi một giấc phiêu bồng Nữa rồi tỉnh dậy lại không có gì! “Cứ mỗi độ thu sang Hoa cúc lại nở vàng…” (Hoa cúc năm nào chẳng nở Chỉ lòng ta không còn vàng tươi nữa) “Luỹ tre xanh xanh Làng tôi làng anh…” (Luỹ tre bao đời vẫn xanh như thế Chẳng biết ma quỷ nào xui khiến bỏ quê đi) “Chú mèo trèo cau Trong ba phút đầu…” (Ta đã từng háo hức trèo cây thơ như vậy Để rồi như chú mèo tụt hậu những phút sau) “Hải Thanh là anh Hải Hà Hải Hà là bà Hải Phú Hải Phú là chú Hải Quang Hải Quang mà quàng Hải Hưng Hải Hưng lại bưng Hải Thắng Hải Thắng lại mắng Hải Thanh Hải Thanh là anh Hải Hà…” (Huyện ven biển biết bao nhiêu là “Hải” Ngỡ là đùa chạm nọc lại đánh nhau) Ký ức như khuôn đúc hằn sâu Những trích đoạn bất phân văn-sử-địa Huyền ảo sự tích con Rồng cháu Tiên Chìm nổi sắc màu đất nung, bi ký Xa xăm như thời khai sáng Lý-Trần-Lê Gần gặn như hồi quyết chiến Pháp-Nhật-Mỹ Nối tiếp những Bạch Đằng, Hàm Tử, Chương Dương, Chi Lăng, Gò Đống Đa Là những Biên Giới, Điện Biên, Bầu Bàng, Khe Sanh, Thành Quảng Trị Thà hy sinh đến người cuối cùng Quyết không chịu sống đời nô lệ Ta đâu có thích làm kẻ anh hùng Vì thời thế thế thời phải thế Mặc người đời đàm tiếu chuyện “cát hung” Về thế kỷ đã quá nhiều “dâu bể” “Bà Trưng quê ở Châu Phong Giận phường tham bạo thù chồng chẳng quên…” (Mình voi một chị một em Hai nghìn năm phố đứng đầu tên hai Bà) “Ta cùng các ngươi sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi gian nan…” (Ai ngờ sau đấy ngót nghìn năm Loạn lạc vẫn còn, gian nan vẫn lắm) “Như nước Đại Việt ta từ trước Vốn xưng nền văn hiến đã lâu….” (Sau hào hùng là thảm khốc thương đau Lệ-chi-viên ròng ròng máu rỏ) “Bát cơm manh áo ở đời Mắc mớ chi ông cha nó…” (Chúng nó đã quấn cờ về rồi Nợ áo cơm sao vẫn còn nguyên đó?) Những đứt nối thăng trầm mờ tỏ “Chiếu” anh minh “Hịch” hùng hồn “Cáo” hào sảng “Tế” bùi ngùi “Chiêu hồn” lãng đãng Men lịch sử sống lại cùng dĩ vãng Day dứt buổi tìm đường, dõng dạc phút nhân danh: “Dân tộc Việt nam có quyền hưởng Tự do và Độc lập Và sự thật đã thành một nước Tự do và Độc lập…” ấy là cáo: biết bao là hào sảng ấy là hịch: đâu thiếu sự hùng hồn ấy là thơ: chẳng khuyết phần lãng mạn Trong “phút giây lịch sử sáng Tuyên ngôn” Ghé vai vào cuộc chiến tranh Tổ tiên đã trải, cha anh đã tường Mịt mù đạn lửa chiến trường Vững lòng biết có “đồng hương”… đồng hành * Làng ơi, ta đã về đây! Trường làng mái đỏ, tường xây Thầy giáo già đã thành người thiên cổ ở đâu, hỡi chân đất đầu trần bạn bè một thuở Luỹ tre xanh xanh, con sáo nhỏ thanh thanh ở đâu, hỡi những mái hầm kèo chìm nổi thuở chiến tranh Sáng đến lớp đầu đội mũ rơm, vai mang túi thuốc ở đâu, hỡi chiều lưng trâu mải chơi bài về nhà không thuộc Thầy giáo phạt giam rấm rứt khóc một mình ở đâu, hỡi người cuốc cày vất vả nuôi tôi, nuôi anh Hun hút nghĩa linh hương khói nhập nhoà bia mộ ở đâu, hỡi những thuyền câu rập rình bến đỗ Mùi mắm chượp hôi rình, mùi khô cá nồng tanh ở đâu, hỡi cái liềm, cái quang, cái sọt, cái trành Đã chia ngọt sẻ bùi giữa những ngày gian khó ở đâu, hỡi cái dậm, cái nơm, cái lờ, cái đó Chân đất đầu trần tập tẹ chuyện mưu sinh ở đâu, hỡi em gái chưa một lần nói ra câu “yêu anh” Ta đã thầm trao nhau tất cả Nóng bỏng, tình như ngô rang Êm ái, tình như rơm rạ Như muối tình còn mặn mòi Như mắm tình không rớt giá Anh trót ký gửi đời mình cho phố xá Lòng vẫn thầm thương nhớ chỉ em thôi Em không son phấn, Em ít nói cười Tóc thề vương hương rơm cỏ Lưng áo thường rịn mồ hôi Ban ngày chăm lo việc đồng áng Đêm bên nhau thầm đếm sao trời Đám dã thảo thơ ngây vụng dại ấy Ngờ đâu đã thành chứng nhân của mối tình hoa cỏ buổi đầu đời Cái hôm anh bỏ làng ra phố Em khóc bảo: coi như em đã chết rồi! Mỗi người chỉ có một quê Khi đi để nhớ, khi về có nơi Hài hoà như đất với trời Như sông với biển, như người với nhau * Trường huyện vẫn đây Đồn bốt cắm một thời Nhà dòng Đông Biên tân trang thành trường lớp Em xóm Đạo mắt bồ câu hàng mi dài khẽ chớp Tay làm dấu thánh miệng “Jêsume, lạy Chúa tôi” Lạy Chúa tôi! Hiệu làm đầu đã thay cho Hiệu sách nhân dân tự lâu rồi Cô bán sách tóc bạc phơ giờ bán hàng khô trước cửa Hỏi cái thằng bé mê sách năm xưa cô lắc đầu không nhớ Cô có lỗi gì đâu người có lỗi là chính cái thằng tôi Cái thằng tôi cứ thích lôi thôi Cái thằng tôi quầy tây dây rút Cái thằng tôi mũ lá dép lốp Túi chẳng bao giờ có lấy đủ một đồng Mê mẩn những kim cổ Tây - Đông Chẳng tuần nào là không mon men nơi hiệu sách Thỉnh thoảng cao hứng lại còn tập tành viết lách Rất khoái tích mất ngựa của Tái Ông Tâm đắc với sự lười biếng kiểu Lãn Ông Bắt chước hiền nhân thập thành triết luận “Thấy ai ai thì mình cũng ai ai Ai ai ấy thì mình cũng ấy Thấy ai ai thì mình cũng ai ai Ai ai vậy thì mình cũng vậy” Chư Bát Giới, Sa Tăng, Tôn Ngộ Không chia tay vừa mới đấy Đã lao ngay vào Quan Vân Trường, Trương Dực Đức, Triệu Tử Long Thương cho Phăngtin, Giăngvangiăng Ghen với Côdet, Mariuýt Cứ tưởng bạn trai mình ai cũng là những công tước Anđờrây Bônkônxky, Pie Bêdukhốp Còn bạn gái mình ai cũng là những Natasa Rôxtốpva, Tachianna tiểu thư “Không ai tắm hai lần trên cùng một dòng sông” Lời của triết nhân nào vẫn nhớ “Đời người chỉ sống có một lần” Lời của một nhà văn nào vẫn nhớ “Tượng thờ dù đổ vẫn thiêng” Lời của nhà thơ nào vẫn nhớ Dòng ký ức xưa dù bên bồi bên lở Bụi thời gian có phủ xám miếu thờ Cỏ quên lãng có trùm xanh bia mộ Thì tận đáy sâu vẫn vang vọng những vần xưa “Ta lớn lên đời không là trang sách Trong khổ đau Bụt chưa hiện bao giờ Chẳng vì thế ta hoài nghi cổ tích Và phàn nàn rằng đã trót yêu thơ!” * Như vẫn còn đâu đây Thím Biềng, thím Lược, chú Cừ, Chú Lộ, chú Kiến, chú Cân Bác Tiệm, bác Ba, bác Tập, bác Cật Rì Mạc, cậu Tiền, bá Mùi, bá Vịnh Ông Tầm, ông Mạo, bà Điếm, bà Quýnh, bà Chương, bà Thấu, bà Nô Anh Thứ, anh Điền, anh Biều, anh Phô Chị Nụ, chị Nhung, chị Xuân, chị Yến Bạn Dũng, bạn Vô, bạn Dung, bạn Thắng Em Mận, em Hồng, em Nết, em Na … Những con dân của châu thổ sông Hồng Lam lũ mà tươi vui Hồn hậu mà khí khái Chẳng kể bên Đạo, bên Đời Không phân kẻ Đồng, người Bãi Họ đã dậy ta lẽ sống làm người Quý trọng anh em, thương yêu đồng loại Có thể không chức quyền, giầu sang Nhưng không được lọc lừa, cơ hội Có người cả đời chưa đi quá gốc đa đầu làng Còn nói chi đến những Nam Định, Hải Phòng, Hà Nội… Có người cả đời đi làm thuê làm mướn xứ người Ba mươi tết mới chen chúc về quê sấp ngửa dập dụi Có người thất học vì mải lo tìm kiếm miếng ăn Cầm tờ khai mà cũng không tự điền được tên được tuổi Có người phát âm con trâu thành “con tâu”, đi làm thành “đi nàm” Cũng do nói ít làm nhiều nên lâu dần hoá ra ngọng mồm cứng lưỡi Có người bán cả gia tài quyết chí nuôi con ăn học nên người Hy vọng sau này chúng có quyền được ăn được nói Có người gặp thời gặp vận vừa mới chập chững phất lên Biết tin nhà báo, nhà đài đã thay nhau tìm tới thăm hỏi Đã từng nghe “Nông dân là đội quân chủ lực của cách mạng” chao ôi biết mấy là vinh quang Lại từng nghe “Tiểu nông từng giờ từng phút tự phát đẻ ra chủ nghĩa tư bản” cha chả là nặng tội Kinh điển đã dậy rồi ấy năm, ấy tập, ấy trang Chỉ có quán triệt thôi không được hoài nghi xét lại(?) Làng xóm tiêu điều hợp tác tan hoang Loay hoay mãi rồi cũng đến thời “cải tổ”,“đổi mới” Đã từng thấy Quai đê lấn biển người dân quê đã làm ra bao nhiêu mùa vàng Thế mà cái nghèo cái khó vẫn chưa thôi bám đuổi Bán lưng cho trời đổi hạt lúa, củ khoai Giong buồm khơi xa bắt con nhụ, con bẹ Mưa nguồn, bão bể có người đi mãi không về Trắng khăn tang quấn quanh đầu con, đầu mẹ Đã từng thấy Biển, đảo nước mình ngư dân vẫn chài lưới xưa nay Bỗng nhiên bọn cướp biển xông tới bao vây hăm doạ Có những ngư dân bị bắt giam hàng tháng trời Phải mất hàng trăm triệu tiền chuộc mới mong được thả Tàu chúng kia, cờ chúng kia, lơ lớ tiếng chúng kia ấy thế mà chẳng hiểu sao “người phát ngôn” xứ mình lại nhất mực gọi là “tàu lạ” (?) Đã từng thấy Làm ăn, chống giặc người dân quê oằn nặng vai Hết thiên tai, nhân tai, lại rập rình địch hoạ Từ bên kia biên giới ngựa xe ngênh ngáo chúng sang Từ ngoài khơi xa tàu chiến rùng rình chúng đến Rốc két chúng phóng xuống từ trên trời Đại bác chúng câu vào từ cửa bể Đứa đe áp đặt lại ách “đô hộ phủ” xưa Đứa doạ bắt phải quay lại “thời đồ đá” cũ Sao dân Việt lại phải đương đầu với nhiều loại giặc thế? Vì kẻ thù lòng sói dạ lang Vì trớ trêu môi trường địa lý Vì láng giềng nói chẳng như làm Vì dân mình “dĩ hoà vi quý” Vì chủ thuyết đến vận suy tàn Vì cung đình thấp cơ, rối trí Hay vì tất cả những cái đó cộng lại, nhân lên? Không rõ! Chỉ biết rằng: Sau nhiều cuộc huyết chiến ác liệt và không cân sức ấy Rốt cuộc kẻ tháo chạy vẫn là “chúng” - thật là thảm hại Chúng là Thoát Hoan hèn nhát chui vào ống đồng Chúng là Hoàng Phúc tự trói tay để mong được tha mạng sống Chúng là Tôn Sĩ Nghị đang đêm mình trần trốn lủi thoát thân Chúng là Đơcat Xtơri cùng lũ hàng binh cờ trắng run rẩy Chúng là Matin cùng bọn tàn quân cuống cuồng cướp máy bay tháo chạy… Trong cuộc huyết chiến ác liệt và không cân sức này Một vài người được phong tặng dũng sĩ, anh hùng Rất nhiều người đã hoá thành liệt sĩ, tử sĩ Bao nhiêu nghĩa trang cũng chưa tìm hết cốt xương Bấy nhiêu tượng đài tuổi tên cũng không ghi xuể Hàng vạn bà mẹ mất con, mất chồng Hàng vạn cô gái không cơ may làm vợ, làm mẹ Hàng triệu thương binh, trẻ mồ côi, người tàn phế Những quái thai - nạn nhân của chất độc điôxin Đến hôm nay vẫn trên lộ trình đi kiện đòi công lý Bác đơn, toà án phía bên bị tuyên bố “không đủ chứng cớ đòi bồi thường” Củng cố hồ sơ, phía bên nguyên quyết kiện ra Toà án Quốc tế Cả những cựu binh một thời ở chiến tuyến phía bên kia Cũng chia sẻ đau thương dù chỉ là góp thêm chữ ký Có những nạn nhân trước khi nhắm mắt lìa đời Còn giối giăng lại rằng các “chiến hữu” quyết không được giữa đường nhụt chí Thương thay những hương hồn nơi biên giới, hải đảo mới rồi Chẳng được chính danh như lớp cha anh chống Pháp, chống Mỹ Những Xướng Cau, Hoàng Quất, Nguyễn Chẩm, Nguyễn My Ba Loan, Hoan Huỳnh, Trần Cường, Thức Tới, Lưu Tuỳ… Tên liệt sĩ ghép thành tên thôn xóm Xao xuyến lòng thầm gọi phút nhớ quê ấy là chưa kể còn bao nhiêu những “thuyền nhân” bỏ làng ra đi Ai làm mồi cho giao long Ai cập “miền-đất-hứa”? Có ngoái lại một lần bến quê Vào cái phút xẻ đàn tan nghé Rời đất mẹ những con Lạc cháu Hồng nghĩ suy gì? Vì đói nghèo Vì kỳ thị Vì quyết chí thành kiêu Vì phẫn chí hoá liều Hay còn vì những gì gì đó nữa? Không rõ! Nay thấp thoáng có đôi ba người trở về Trong vị thế “Việt-kiều-yêu-nước” thật là danh giá Người đầu tư mở nhà máy, nhà hàng Người bỏ tiền nâng cấp cầu cống, đường xá Có người bảo có thể còn nâng cấp cả những nếp nghĩ, cách làm Nếu chính quyền sở tại không cảm thấy lăn tăn cấn cá Đã ngấp nghé trọn một vòng đời Càng sống càng thấy nhiều chuyện lạ! “Còn non, còn nước, còn người Thắng giặc Mỹ ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay” Tóc giờ sắp trắng như mây Bao giờ cho đến cái ngày… hơn xưa? VI. Đấng sinh thành Bóng dáng sinh thành như còn ẩn khuẩn đâu đây Mẹ là chợ là chùa Cha là đồng là bãi Chợ là chỗ bán mua Chùa là nơi chiêm bái Đồng là chỗ cấy cày Bãi là nơi lượm hái Làm chung, ăn chung những năm tháng ấy Từ tổ đổi công lên hợp tác xã đầu tiên Được bầu làm chủ nhiệm bởi bố là đảng viên Mà đảng viên nghĩa là “đầy tớ của nhân dân” “Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc” Suốt ngày đánh vật với đất đai ngoài đồng Đêm về lại liên miên học hành, hội họp Mỗi người làm việc bằng hai vì đồng bào miền Nam ruột thịt “Gạo không thiếu một cân, quân không thiếu một người” “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” là lương tâm, lẽ sống một thời Cả nước hành quân dân làng mình cũng hướng lên phía trước Là cán bộ bố phải phân thân cho việc nhà, việc làng, việc nước Vừa buông tay cuốc tay cày Lại cầm cuốn sổ cái thước Chỗ này kêu thiếu phân Nơi kia réo thiếu nước Ruộng cạn bừa không xong Đồng sâu cày không được Rồi bố lại cuốn sổ cái cân Cân thóc ăn chia, cân lợn nghĩa vụ Những năm ấy cái gì cũng phải chia thành suất, thành phần Kẻ khen người chê là chủ nhiệm thôi thì lĩnh đủ Bắn máy bay, lứa thanh niên thay nhau trực chiến dân quân Quai đê biển, đám người già hăng hái nơi đầu sóng ngọn gió Hợp tác xã lên cao, cần có chủ nhiệm năng nổ được việc hơn Bố sang làm trại trưởng chăn nuôi suốt ngày đánh vật với phân gio, lợn gà, cám bã Trại chăn nuôi tập thể nhanh chóng hết thời Người ta lại điều bố về làm đội trưởng trồng cây trong xã Người lại cùng các cụ sớm hôm lỉnh kỉnh quang gánh, xô thùng Chỉ dăm năm bạch đàn, phi lao lại mướt xanh bờ vùng bờ thửa (Ai bây giờ giễu cợt mỉa mai Biết đâu rằng thời ấy nó thế!) Người ta làm cán bộ mái ngói, tường xây Bố làm cán bộ gia cảnh càng thêm bấn khó Nhà đông con thành ra thiếu ăn thường xuyên (Vì lẽ này mà cha mẹ bất hoà liên miên) Bù lại nhà phải phụ thêm hàng xay hàng xáo Ban ngày thay phiên nhau chúng con xay thóc ù ù Ban đêm nối đuôi nhau anh em thình thịch giã gạo Những phiên chợ xa mẹ phải đội gạo ra đi từ sáng tờ mờ Mẹ lại đội thóc về khi trời đã tối nham nhám Đường về qua bãi tha ma Rờn rợn vẽ vờn đom đóm Chân mỏi mẹ cố tới nhà Chúng con ra đầu ngõ đón Quê mình chợ Quán, chợ Cầu, chợ Đông Biên, chợ Đình, chợ Chùa Chợ Quán vì quanh chợ lắm quán Chợ Cầu vì chợ họp gần cầu Chợ Đình vì bên chợ có đình Chợ Bến vì trên bến dưới thuyền Chợ Chùa vì cạnh chợ có chùa Xa hơn nữa là chợ ấp, chợ Trâu, chợ Cồn, chợ Viềng, chợ Bể… Chợ họp có phiên, có buổi đông đúc kẻ bán người mua Sản vật xứ bãi, xứ đồng thôi thì lớn bé đủ cả Mớ cá, mớ tôm, xâu ếch, giỏ cua Sọt bưởi, sọt bòng, thúng na, rổ khế Hàng thóc, hàng gạo chỗ khảo chỗ đong Hàng lợn, hàng gà, lồng to lồng bé Thơm thảo hàng bãi, hàng đồng Tanh tưởi hàng sông, hàng bể Nơi này đon đả chào mời Chỗ nọ đôi co chí choé Những hôm đắt hàng mặt mẹ rất tươi Thoáng mặt mẹ buồn chắc là hàng ế Quà cho con sang thì bánh đúc, bánh đa Mèng thì cũng là quả bỏng, gióng mía Chia nhau anh em thường thì cười nói hì hà Có hôm phần kém phần hơn có đứa ỉ eo chạy đi mách mẹ! Về già mẹ năng đi lễ bái đền phủ, chùa chiền (Việc này cũng khiến cha mẹ không ít bất đồng) Gần thì chùa thôn, chùa làng, rộng ra tới chùa Keo, Cổ Lễ Đôi lần mẹ đã góp mặt nơi Chùa Hương, Phủ Giầy Có năm mẹ còn lên cả Vạn Kiếp, Yên Tử Bảo mẹ già rồi đường xá xa xôi núi non cách trở mẹ cố làm gì Mẹ bảo có Thần Phật độ trì vừa đi vừa tụng kinh càng leo càng khoẻ Một ngày trời rước mẹ đi Thế là chúng con mất mẹ Đau lòng tử biệt sinh ly Dù biết luật đời là thế Bố sớm mất việc xóm việc làng thiếu người dậy sớm thức khuya Mẹ ra đi việc họ việc nhà khuyết thêm kẻ lo toan dứng dả Đã quy y nên chúng con rước mẹ lên chùa nương cửa Bồ đề Là người duy vật bố chấp nhận dãi dầu cùng đất đai cây cỏ Gặp lại nhau ở cõi trời phiêu diêu cực lạc kia Bố mẹ hoà hợp bên nhau hay vẫn thường xuyên cãi cọ? Không rõ! Thưa đấng sinh thành! Sáu anh chị em chúng con: một gái, năm trai Nhờ trời đến nay vẫn đang sống cả Đứa đủ chi tiêu Đứa còn túng khó Đứa tha phương tìm kế sinh nhai Đứa cắm chốt chăm nom phần mộ Đua tranh với đời không dám nói rằng khôn Nhưng không làm gì đến nỗi phải tủi hổ Trước khi nhắm mắt chẳng hiểu bố có những buồn vui gì Nhưng có ba điều băn khoăn về “Thằng-Hà-Nội” thì là quá rõ: “Một là vì sao nó không là đảng viên?” (Trong khi các anh chị em lần lượt đứng vào đội ngũ) “Hai là vì sao nó mãi không chịu lấy vợ?” (Trong khi nó đã bước sang tuổi bốn mươi) “Ba là vì sao đã là giáo viên trường Luật rồi Nó lại rẽ ngang đi làm văn làm báo?” (Cái nghiệp viết lách ở nước mình không khéo thì vào tù ra tội chứ chẳng chơi!) Kính thưa bố: Không là đảng viên thì con lại được là chính mình (Là chính mình ở vào thời buổi này cũng đâu có dễ) “Đảng viên” những từ viết hoa vẫn được xem là vẻ vang, cao quý Người gàn dở như con đâu dám nguyện “xin thề” Con chậm vợ vì chuyện bếp núc đời thường vụng về (Nếu duy tâm thì cũng có lẽ tại vì con cao số) Dẫu muộn mằn, nay con cũng đã hai con, một vợ Các cháu vẫn chăm về quê nhang khói từ đường Nghiệp văn chương ít nhiều do gien di truyền Là nông dân song con biết trong bố có dòng máu văn nghệ Nếu gặp thời bình yên lại được học hành Thì chắc bố cũng khó thoát được nỗi nhục vinh chữ “sĩ” Đã sớm mồ côi lại trải mấy cuộc chiến tranh Bố hy vọng các con sau này sẽ có ngày nối chí Tiếc thay khi đất nước vừa chớm thanh bình Bắt đầu “đổi mới”, “mở cửa” thì bố cũng về nơi tiên tổ Nhưng dù có hay dở như thế nào Thì thằng Tr. vẫn là con của bố Không làm to cũng chẳng leo cao Nhưng việc học hành không đến nỗi lỡ dở Lấy câu văn, câu thơ vui thú thanh tao Chức tước, lợi quyền thật không dám đua chen ham hố Gót rỗ kỳ khu trên bước đường hoạn lộ Cái bả vinh hoa đâu dám dấn thân vào! Thưa bố: Thú thực con cũng đã từng có lúc so sánh, ước ao Nếu bố là thị dân hoặc là quan chức cấp cao, doanh nhân thành đạt Mình chắc đã sớm có thẻ thông hành vào giới quan trường đa phương lắm cực Nay mới thấy sao mà ấu trĩ tầm phào Cúi xin người hai từ “lượng thứ” Những dòng này thay cho một nén tâm hương Cầu cho được âm phù, dương trợ! Làng quê nguồn cội bao đời Ông bà cha mẹ nằm ngoài tha ma Nay người mai đến lượt ta Bao giờ trời gọi ấy là… phải “vâng”! VII. Cho các con Ngoài bốn mươi tuổi bố mới có các con Gốc gác nhà quê nên thân mật gọi là Tít, Mít Mít là chị chân chất lành hiền Tít là em lém lỉnh láu lít Các con sinh ra trong yên ả thanh bình Không đại bác cầm canh, máy bay rú rít Xích-lô ta-xi đón đưa Nội ngoại mừng thăm tíu tít Nấu nướng giặt giũ chợ búa linh tinh Giúp việc người quê hàng ngày bấn bít Ăn thì những thịt nghiền nát, xương ninh nhừ cùng với nước cháo nước cơm Uống thì những sữa Hươu Cao Cổ, Cô Gái Hà Lan lại còn nước cam, nước quýt Nhức đầu sổ mũi đã sẵn thuốc uống, thuốc bôi Đau bụng đau bão đã có kẻ đấm người xoa rối rít Thèm gấu bông thì có gấu bông Thích chó kít thì có chó kít Lớn lên đến trường mẫu giáo Hoa Hồng, Hoa Mai Sớm làm quen với xe máy, xe buýt Không biết đến ngọn đèn dầu hoả là gì Chẳng bao giờ phải mặc áo vá, quần bít-kê Kim chỉ vá may chỉ là chuyện của Lọ Lem trong truyện cổ tích Cứ mỗi khi nghe bố nhắc đến chuyện gian khó năm xưa Các con lại bụm miệng cười rích rích Lâu lâu một bận các con về thăm quê Chẳng phân biệt nổi con trâu với con bò Lầm con nghé với con bê Lẫn lộn con rạm, con ra, con cua, con còng, con cáy Thắc mắc rằng cùng là loài tám cẳng hai càng Mà sao lại “đời cáy cáy đào, đời cua cua máy”? Trố mắt nhìn vào cái cối xay Tò mò trèo lên cái cối gạo Reo lên khi thấy chú cá mắc câu Hét lên khi thấy con đỉa đeo bám Bằng tuổi các con bố đã ra đồng xuống sông Biết làm sao khi đã là con cái nhà nông Không chịu khó lam làm thì sẽ đói “Đói” là gì ư? Các con sẽ hỏi “Tháng tám đói qua, Tháng ba đói chết” “Được mùa chớ phụ ngô khoai Đến khi thất bát lấy ai bạn cùng” Những câu ấy người dân quê chân lấm tay bùn thường lấy làm lòng Các con là dân phố ăn trắng mặc trơn khó lòng mà cảm nổi Từ ngày có chính sách “giao ruộng”, ”khuyến nông” Dù chậm chạp nhưng làng quê đã ít nhiều thay đổi Đã đèn điện dẫu còn phập phù Đã ti vi dẫu chỉ đen trắng Đã xe máy dẫu là đồ Tàu Đã computơ dù chưa nối mạng Viễn cảnh “tam nông” nghị quyết đã vẽ ra Năm năm, mười năm, hai mươi năm... nông thôn rồi cũng phải văn minh, hiện đại Hiện đại phải chăng là nhà nào rồi cũng hon đa, tủ lạnh, ti vi Ngoài đồng dọc ngang toàn những cày máy, gặt máy Văn minh có nghĩa là không chửi tục, ỉa đồng, đái đường “Hân hạnh”, “cảm ơn” sẽ thành câu đầu môi đầu lưỡi ấy là nôm na mấy điều Cái gì tới ắt rồi sẽ tới Tuy nhiên, nó tới sớm thì người “chân đất mắt toét” còn có phận nhờ Còn nếu muộn mằn thì các “lão nông tri điền” sẽ chẳng còn gì để nói! Cái nhà gỗ cũ năm gian của ông bà để lại Có cột có kèo Sau nhà có vườn Trước nhà có ao Vườn thì trồng đỗ trồng rau Ao thì thả muống thả cá Trong chuồng ủn ỉn con lợn con gà Ngoài sân xăng xái con mèo con chó Chó mèo nhà quê thường tên “Mướp”, tên “Vện”, tên “Vàng” Chẳng lịch sự là “Jon”, là “Mik”, là “Bob” như chó mèo thành phố Phung gio cái rế cái kiềng Gác bếp cái lờ cái đó Trên tường cái thớt, cái dao Dưới đất cái nồi, cái chõ Trải mưa nắng bão gió nay cái nhà đã hư hao Nhưng với bố con mình vẫn là một gia tài vô giá Là gia tài vì đó là mô hôi nước mắt của ông bà Nó vô giá vì như người quê gọi là “hương hoả” Thật khó giải thích rõ “hương hoả” là gì, “truyền thống” là gì Cũng như khó lý giải “chân quê” là gì, “hồn làng” là gì Chỉ biết rằng nó không thể đếm đo, không dễ dứt bỏ Ngỡ quên rồi thì nó lại hiện ra Tưởng chôn đi nhưng nó vẫn đứng đó Trước nhà ta có một chốn linh thiêng gọi là “từ đường” Nơi một năm đôi ba lần các cụ làm cỗ gọi là “việc họ” Trong từ đường có một thứ lưu truyền gọi là “tộc phả” Cái cây có cội có cành Con người có hàng có họ Cây có cành có cội cây mãi mãi tươi xanh Người có họ có hàng người đời đời khấm khá Nhiều họ cùng chung một thôn (Như thôn Đông thôn Đoài, thôn Thượng, thôn Hạ) Nhiều thôn hợp thành một làng (Như làng Bãi, làng Chài, làng Đồng, làng Bể) Nhiều làng làm thành một xã Những cái thiêng liêng lớn lao như Tổ quốc, Đất nước, Nhân dân Thì cũng hình thành từ một thôn, một xóm, một làng Thì cũng bắt đầu từ một nhà, một họ “Cây có gốc mới nở cành xanh ngọn Nước có nguồn mới biển rộng sông sâu Người ta nguồn gốc từ đâu Có tổ tiên trước rồi sau có mình...” Các con hãy ghi nhớ đinh ninh Những câu mở đầu gia phong, gia phả Trong gia phả có tuổi tên của cụ kỵ ông bà lẽ dĩ nhiên rồi Tên tuổi của bố con mình sau này cũng sẽ ghi vào đó Đây là thông điệp truyền lưu của gia đình, dòng tộc thôi Nó không họ hàng gì với “sổ hộ khẩu” ở ngoài thành phố Không dám mong sau này các con làm rạng danh cha mẹ họ hàng Chỉ mong các con sống lương thiện và không làm điều gì thất thố Cùng với từ đường Còn là lăng mộ Những cái thuộc về thể phách, tinh anh Vừa “vật thể” vừa “phi vật thể” Tưởng hư vô nhưng lại rất hữu hình Lăng thường nằm trong “nghĩa trang”, “nghĩa địa” hay là“nghĩa linh” Xưa kia gọi là “bãi tha ma” thì cũng thế Đây là chỗ để làm việc hiếu việc nghĩa Nghĩa địa quê mình nằm ở giữa cánh đồng trước làng Quanh năm tắm gội gió trăng Bốn bề ngát hương ngô lúa Mỗi dòng họ quy vào một “lăng” Trong lăng táng các phần mộ Họ lớn lăng to Họ bé lăng nhỏ Họ nghèo lăng trồng cỏ, trồng hoa Họ giầu lăng ốp gạch, ốp đá Họ bình dân lăng là nơi chăm sóc phụng thờ Họ thành đạt lăng là chỗ phô trương giàu có Trong số đó có lăng của chi họ Phạm ta Kích cỡ trung bình không nhỏ không to Cảnh vẻ phong quang bốn mùa lộng gió Bia mộ khắc tên cụ kỵ ông bà Bố các con rồi có ngày cũng sẽ về nằm đó “Lá rụng về cội” các cụ nói rồi “Sống gửi, thác về” có chi là lạ Sau này các con có ở đâu làm gì Dù trong nước hay sang tận Anh quốc, Hoa Kỳ Là thường dân hay là làm đại diện ở Liên Hợp Quốc Thì cũng đừng lãng quên nơi này Nơi này gọi là “nguyên quán” hay “chính quê” Nơi này do sông bồi mà nổi lên Nơi này do biển rút mà phát lộ Tiền nhân vì sinh tồn mà đến đây Tổ tiên vì dài lâu mà khai mở Ông bà đã vì cháu chắt mà dựng xây Bố mẹ đã vì các con mà gìn giữ Dù các con không sinh ra và lớn lên ở nơi đây Nhưng nó vẫn thiêng liêng và cực kỳ gắn bó Với bố thì là nơi “cắt-rốn-chôn-nhau” Với các con thì nó có tên là “quê-Cha-đất-Tổ” Nhờ ơn âm đức mà dài lâu Cần cù đắp xây mà rạng rỡ VIII. Phố Bắt đầu là làng Có sông, có chợ Có thị có thành Làng dần hóa phố Này là phố Cổ Nép mình dưới cây Này là phố Cũ Nửa gỗ, nửa xây Này là phố Tây Vuông như sắp cỗ Này là phố Ta Vữa vôi dang dở Phố nhà có số Số một, số hai.. Phố xếp theo hàng Hàng ngang, hàng dọc Hàng Tiện thợ mộc Hàng Bạc kim hoàn Lem luốc Hàng Than Trằng tinh Hàng Muối Thơm lừng Hàng Chuối Thơm ngát Hàng Hương Ngọt ngào Hàng Đường Nặng mùi Hàng Mắm Hàng Sắt thì cứng Hàng Bún lại mềm Rộn rã Hàng Kèn Vang lừng Hàng Trống Hàng Buồm chẳng rộng Hàng Đẫy chẳng to Hàng Da chẳng bò Hàng Cỏ chẳng ngựa Hàng Lược chẳng lựa Hàng Vải chẳng đo Hàng Thùng chẳng gò Hàng Hòm chẳng đóng Hàng Cót thì đứng Hàng Bồ thì ngồi Hàng Mã lên ngôi Hàng Mành nấp bóng Kia là Hàng Lọng Phố của vua quan Nọ là Hàng Đàn Phố của tài tử Có phố bán chữ Chữ “Nhẫn” chữ “Tâm” Có phố bán dâm Tiếng “Tom”, tiếng “Chát” Phố nhà san sát Nhà nát, nhà sang Phố người chan chan Người khinh, người trọng Phố đường không rộng Cách một câu chào Phố nhà không cao Gác trên, gác dưới Phố cũng có tuổi Sắp nghìn năm tròn Phố cũng có hồn Rì rầm ngõ tối Phố cũng có bụi Bụi đất, bụi người Phố cũng có mùi Mùi hoa, mùi rác Phồn hoa, đạm bạc ấy là phố tôi! Phố tôi có ngõ có người Ngõ thì rất nhỏ người thời rất đông Phố tôi có bãi có sông Sông đỏ màu gạch bãi trồng đỗ ngô * Anh không có tuổi thơ ở đây Rình chim, bắt ve Săn chuột, đào dế Trèo sấu, trèo me Chọc ổi, chọc khế Ngô nướng mùa đông, kem mút mùa hè Lớn lên không là đứa con của đại lộ Sáng một ly cà phê Tối vài vòng bát phố Bập bùng dăm nốt ghi ta Điệu đà đôi nụ hôn gió Tài hoa nhảy tàu điện ngã bảy ngã ba Lịch lãm đứng ngồi nơi công viên công sở Chưa từng sống cảnh hai nhà đối nhau cửa sổ Chẳng hiểu vì sao “không khép lại bao giờ” Những năm Hà Thành bom đạn mịt mờ Không ôm be bé bằng bông sơ tán về làng Cổ Tích Buổi uy thế không lực Hoa Kỳ rơi tõm xuống hồ Trúc Bạch Không chạy theo tự vệ thành xem mặt giặc lái Giôn Mắc-kên Những ngày pháo đài bay bê-năm-hai rải thảm phố Khâm Thiên Cũng là lúc anh có giấy gọi vào khoa Văn Tổng hợp Giống như rất nhiều số phận tuổi trẻ của một thời Thay cho giảng đường anh đã vượt Trường Sơn nhập cuộc (Đâu dám nói là đã từng vào sinh ra tử, dũng cảm như ai Nhưng không đảo ngũ để mang tiếng là kẻ tham sống sợ chết) Anh chỉ biết phố sau khi xe tăng húc đổ cổng dinh Độc Lập Bản thân cũng đã nếm ít nhiều mùi vị chiến tranh Hơn ba chục năm rồi ký ức vẫn long lanh Tiếng tàu điện leng keng bến Bờ Hồ - Cầu Mới Tiếng xe lửa tu tu kéo còi vào ga Hàng Cỏ - Hà Nội Sương mù giăng Nhấp nháy phố lên đèn Hun hút ngõ lầy những tiếng rao đêm - Ai bánh mì nóng đ…ơi! - Ai bánh khúc đ…ơi! - Ai xôi nếp, bánh giò đ… ơi! Đêm ôn thi bụng đói sôi thèm một cái bánh mì giòn Túi sinh viên đếm đi đếm lại tiền vẫn còn chưa đủ Những câu thơ “giường tầng” viết vào những đêm Thượng Đình khó ngủ Vẫn dạt dào thao thiết những… yêu em Em Mễ Trì điệu đà, môi đỏ, tóc ngắn, kính trắng ôm cặp làm duyên Em Làng Vòng chân chất, da nâu, tóc dài, nón mê bán cốm kiếm sống Hiện hữu đời thường đan xen mơ mộng Vừa chân chất thôn quê, vừa hoa lệ phố phường Mọc ra Những “Tôn Đản”, “Chợ giời” đẳng cấp bất công Những “đổi tiền”, “giéc ba mươi” tối tăm mặt mũi Những “vua lốp”, “núi điện” sớm tra tay vào còng Những “phò phạch”, “con phe” sống chui sống lủi Mọc ra Những “quần loe”, quần bó”, “ áo Nato”, “áo phông” Những đội “văn hoá học đường”, “thanh niên cờ đỏ” Những xóm thơ “Thanh Xuân”, “Hoa lạ”, “Làng Vòng”, Những “Bút tre giả cầy”, “Tiếu lâm hiện đại” Trần Côn bẩn nhất trần đời Mình trần như nhộng ở nơi trần nhà Tổng hợp có Bạn là thù Có Thiện là ác, có Khu là hiền Giữa Quán Gánh cạnh đường đi Là trường Đại học Pháp Ly Hạ Nồi Bên kia là trại Văn Hoà Bên này Pháp Lý cũng là trại giam (!) Một yêu anh có may ô Hai yêu anh có cá khô ăn dần Mười năm lao động quang vinh Không bằng chó giống xuất tinh một lần... Hỡi cái thời “tem phiếu” khốn khổ, khốn nạn của bạn của tôi! Người ta gắp thăm một cái xăm xe, chia nhau một mảnh quần đùi Người ta cân nhắc lương tâm nhau qua một lần chia thịt Người ta có thể cấu xé nhau chỉ vì đã xí phần viên gạch Bìa A, bìa B cũng là phần quan trọng cấu thành nên nhân cách Người ta tranh luận xem “người nuôi lợn” hay là “lợn nuôi người” * Quên được sao Đời sinh viên Tổng hợp cơm tập thể, giường tầng Những bốc đồng khoa Văn, đăm đăm khoa Triết Khoa Luật cãi nhau không bao giờ chấm hết Quên được sao Thuở hàn vi phố Cát Linh cơm bụi, nằm bàn Không tính toán so đo những gì được mất Thời gian khó cũng là thời lòng ta trong trẻo nhất Quên được sao Thuở tụ tập văn chương nhóm bạn làng Vòng Cùng Trần Hoà Bình, Châu Hồng Thuỷ, Văn Giá, Chu Sơn… thập thành thơ phú Nay đứa thành “nhà”, đứa thành “ma” ngoài nghĩa địa Đứa lặn lội xứ người tuyết trắng rợn chiều đông Quên được sao Buổi “Tiền Phong” đăng cho bài thơ về mối tình đầu Trăng vàng bờ đê in bóng người ngồi gỡ lời thề với cỏ Hỏi, đã “chân quê” bao giờ thì “chân phố”? Thưa, phố váy ngắn chân dài cỏ biết bám vào đâu! Quên được sao Buổi lên lớp đọc bài giảng Luật Lao động lần đầu Ta chẳng phải là cha tinh thần, em cũng không là con chiên ngoan đạo Thầy vãi hết cả linh hồn trước câu hỏi của trò rất chi là táo bạo Tóc bạc, da mồi ký ức thuở Đại học Pháp lý vẫn tươi nguyên Quên được sao Một sáng đầu thu chuyển về báo “Pháp Luật thường thức” số 5b Ông ích Khiêm Với cây bút nguyện thề quyết chiến đấu cho công lý Buồn thay, hơn hai chục năm sau khi đã mang danh phó giáo sư, tiến sĩ Vẫn chưa thôi day dứt công lý là gì? Công lý có hay không? Quên được sao Những tháng năm lãng du nghiên cứu luật lệ ở xứ người Mùa đông lê thê một mình ngồi sau cửa kính ngắm tuyết rơi Nhớ nước nhớ quê nhớ Hà Nội nhớ quay nhớ quắt Thèm trăm thứ linh tinh nhưng “phở” là thèm nhất Từ Ông ích Khiêm chuyển về Cát Linh Rồi Thái Hà - Quốc Tử Giám - Phan Văn Trị… Dăm lần chuyển cơ quan là mất toi tuổi trẻ Sắp hồi hưu vẫn loanh quanh nửa đạo nửa đời! * Trái đất tròn Anh đã từng diện kiến khá nhiều nơi Những cổ kính đền đài, vút cao điện tháp Chẳng có hình dung từ nào tương xứng hơn ngoài những “hoành tráng”, “vĩ đại”, “tuyệt vời” Hà Nội không tháp Epphen, không đồng hồ Bichben, hay bảo tàng Ermitát Nhỏ nhắn, khiêm nhường làm sao những Cột Cờ, Tháp Rùa, Khuê Văn Các Những điện cũ, đài xưa đã đổ nát mất rồi Phần do nước lửa, binh đao, phần bởi chính tay người Báo Thiên tháp ngất trời Chỉ còn chân cốt móng Quy Điền chuông trùm đời Đã vào lò đúc súng Cửu Trùng đài ra tro Vũ Như Tô vỡ mộng Kinh đô hoá cố đô Hà Thành bị san phẳng Hồng Hà không rộng dài như Von Ga, Dương Tử, Tigơrat Cũng chẳng trong xanh êm đềm như Đôngơ, Đunai, Đờnhiep Về mùa lũ nước sông đỏ quạch màu gạch non Phi như đàn chiến mã cuồng say bạt gió tung bờm Mang phù sa của trăm suối sông đắp bồi nên rộng dài châu thổ Sông Đà nước đen Sông Thao nước đỏ Sông Lô dạt dào sóng vỗ Mở ra một Nhị Hà - sông Mẹ - vạm vỡ mênh mang Thấp thoi nhô lên những cồn trắng, đảo xanh, ngút ngát bãi vàng Nhằm thẳng hướng đại dương mà hành tiến Thoáng trầm tĩnh khi sông về gần biển Sông là cái biển chờ Biển là nơi sông đến Biết biển nuốt sông Sông vẫn về với biển Chính con sông nửa hung dữ, nửa trữ tình Vừa phá phách ngang tàng, vừa bối đắp phồn sinh Là nơi khu trú cộng cư của người Việt cổ Từ đó thăng hoa lên “Nền-Văn-Minh-Sông-Hồng” rực rỡ Bên kia là Cổ Loa thành Không đầu Tượng Mỵ Châu đêm đêm vẫn chưa thôi nức nở Bên này là Thăng Long thành Xoáy sâu Lỗ đạn cửa Bắc vẫn ngày ngày nhắc nhớ Đất này Đã bao phen bị thiêu trụi bởi binh đao, đạn lửa Cùng bao lần bị nhấn chìm trong mưa giông, bão lũ Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội, với riêng ta, vẫn cứ trên cả tuyệt vời Dù là tuyệt vời một cách bộn bề, khấp khểnh, lôi thôi “Hà Nội có cầu Long biên Vừa dài vừa rộng bắc trên sông Hồng” (Đã thêm những Thăng Long, Thanh Trì, Vĩnh Tuy… Long Biên dĩ nhiên vẫn là cây cầu thứ nhất) “Hà Nội có hồ Gươm Nước xanh như pha mực” (Có người bảo xanh màu rau muống luộc Thì có sao đâu, thi sĩ có quyền mà) “Hà Nội toàn phố ngắn Bắt đầu từ Hồ Gươm” (Bây giờ biết bao nhiêu phố dài hơn Đã vượt quá sông Tô, cập bờ sông Nhuệ) Thăng Long - Hà Nội còn biết bao nhiêu linh vật, linh địa Chùa Một Cột thanh thoát như một bông sen từ bùn nước nhô lên Sân Văn Miếu có đàn rùa đá lầm lũi đội hàng bia khắc những tuổi tên Cạnh đền Ngọc Sơn là đài Nghiên, tháp Bút Cột Cờ cửa Nam, Đoan Môn cửa Bắc Bạch Mã trấn Đông, Voi Phục trấn Tây Những cửa ô còn lưu dấu đâu đây Đống Mác, Cầu Dền, Yên Phụ, Quan Chưởng, Chợ Dừa, Đồng Lầm, Cầu Giấy... Là năm là bảy hay là mười cửa ô đến nay vẫn còn chưa thôi tranh cãi Khói hương nghi ngút trùm phủ Tây Hồ Mõ thảm từ bi vọng chùa Trấn Quốc “Thăng-Long-tứ-trấn” sử sách còn ghi “Bích-Câu-kỳ-ngộ” đạo quán vẫn đó Cổ kính rêu phong với ba mươi sáu phố phường Hiện đại trẻ trung cùng những khu đô thị mới khai trương Sau những nói cười hào hoa thanh lịch Hà Nội ẩn tàng lắng sâu long mạch “Thành phố vì hoà bình” chưa nguội chuyện vinh danh Trầm tích ngàn năm bỗng hiển lộ một Hoàng Thành Này là đất nung đầu rồng, đầu phượng thời Lý Này là men ngọc, hoa lam gốm sứ thời Trần Đế cột chạm hoa sen to dầy gợi nhớ điện Kính Thiên Viên gạch khắc Đại Việt cho biết thời Đinh Lê chế tác Đài điện nguy nga Vàng son lầu gác Ngút ngát cùng hồ Lung linh cùng tháp Chim uyên ương tiết lộ một thời phồn thịnh thái bình Súng thần công cảnh báo những đận binh đao trận mạc Trầm tích bao thời cái này gợi nhớ cái kia Văn hoá đa tầng lớp này chồng lên lớp khác * Em trách anh đã nhiều năm ở phố Sao chẳng rõ những điều giản đơn đến thế Phố Hoè Nhai do ngõ xưa mọc lắm cây hoè Phố Liễu Giai bởi thuở trước trồng nhiều cây liễu Phường Nghi Tàm vì một thời thịnh nghề trồng dâu chăn tằm Phường Trúc Bạch vì làng tre trúc lại có nghề dệt lụa Tên Cầu Giấy vì nơi đây có nghề xeo dó làm giấy Phố Hàng Buồm do ngày trước nơi này bên bờ sông Tô Cửa Hà Khẩu thuyền bè thương nhân tấp nập vào ra Qua sông không luỵ đò nên nay mới có phố Cầu Gỗ Buổi Lý Thái Tổ từ Hoa Lư ngược sông Hồng tìm chỗ mới định đô Thoáng thấy rồng vàng bay lên nhà Vua mới đặt là Thăng Long thay cho Đại La Ba mươi sáu phố phường cũng manh nha các “hàng” từ đó Anh tài tứ xứ kéo về hợp thành chốn phồn hoa Kinh kỳ - kẻ Chợ Này là chợ Mơ Đua chen vào sáng Này là chợ Hôm Rộn rịp về chiều Này là chợ Bưởi Chen chúc nông dân Này là Đồng Xuân Leng keng tàu điện Này nữa chợ Giời Bán buôn tứ chiếng... * Em trách anh khá về các môn văn - sử Mà sao “Thiên đô chiếu” của Lý Thái Tổ lại không thật rõ rành “Trên vâng mệnh trời, dưới làm theo ý dân”, lại còn “xin ý kiến các khanh” (Ai bảo đã là “Trẫm” thì không thể đề cao dân chủ) Đất ấy rộng rãi mà bằng phẳng, cao ráo mà sáng sủa Lại có cái thế địa linh của “rồng phục hổ ngồi” Thật xứng là nơi đặt làm Kinh sư cho Đại Việt muôn đời Việc trọng đại ngàn đời mà gói gọn trong vẻn vẹn hai trăm mười bốn chữ “Xem khắp nước Việt…” tài đức ấy hỏi được mấy ai? Em trách anh khá thông kim bác cổ Việc chuyển đổi vương triều từ Lý sângTrần sao lại hoang mang Thì lịch sử vô tình mượn tay vua gái Lý Chiêu Hoàng Té nước vào cậu bé Trần Cảnh mà Thái sư Trần Thủ Độ đã một tay sắp đặt Nếu không thế thì làm sao chống lại được vó ngựa lũ cường xâm Thát Đát Làm nên Đông Bộ Đầu, Chương Dương, Hàm Tử… âm vang hào khí Đông A Lịch sử, đến lượt mình, lại quá độ từ nhà Hồ chuyển sang nhà Lê Đông Đô, Đông Quan, Đông Kinh… mới vang danh từ đấy Sự tích rùa vàng đòi Gươm gắn liền với người anh hùng đất Lam Sơn - Lê Lợi Mười năm nằm gai nếm mật chống quân cường bạo nhà Minh Gò Đống Đa mồ chôn xác quân tướng nhà Thanh Là chiến tích của người anh hùng áo vải ấp Tây Sơn - Nguyễn Huệ Xưa Phú Xuân sau này là thành phố Huế Đã từng là kinh đô của vương triều Nguyễn mấy trăm năm Khiến bà Huyện Thanh Quan hoài cổ thành Thăng Long Than khóc cho những nền cũ lâu đài, dấu xưa xe ngựa Nguyễn Du lăn lóc gió bụi mười năm sau trở về Long Thành chốn cũ Nghe tiếng đàn xưa đã nhỏ lệ xót thương cho mệnh bạc cô Cầm Em bảo anh vẫn không quên chứ? Sự kiện tàu chiến Pháp ngược sông Hồng hai lần vây hãm Hà Thành Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu đã nối nhau tử thủ Đau đớn thay khi đất nước ở vào vận bi, thế bĩ Thì anh hùng, hỡi ôi, cũng đành chỉ than trời Tám mươi năm nối tiếp nhau bao nhiêu máu chảy đầu rơi Để đến một ngày Cách Mạng sục sôi Mùa Thu Tháng Tám Rồi Ba Đình Tuyên ngôn sáng Mồng Hai Tháng Chín Hiến pháp đầu tiên khai sinh nền Dân chủ - Cộng hoà Đến lượt mình, cố đô, lại trở về với vị thế Thủ đô Cờ đỏ sao vàng thành Quốc kỳ Tiến quân ca thành Quốc ca “Đoàn quân việt Nam đi…” âm vang từ đó Em bảo rằng Sấm Trạng nói “Thăng Long phi chiến địa” ấy thế mà Hà Nội còn thêm nhiều lần khói lửa Khi kẻ thù muốn áp đặt lại ách thực dân xưa Thì câu trả lời là “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” Từ cảm tử quân ôm bom ba càng lao vào xe tăng Pháp “mùa Đông năm bốn sáu” Đến chiến sĩ tên lửa trong 12 ngày đêm “mùa Đông năm bảy hai” nhằm thẳng vào pháo đài bay B52 bấm nút phóng Vẫn âm vang hùng khí đất đế đô Có mất mát đau thương nhưng không than khóc bao giờ! Em trách anh đã mang danh thi sĩ Sao vẫn nhạt mùi hoàng lan, vắng hương hoa sữa trong thơ Đâu những mái chiều xao xác hơi mưa Những trưa gác bập bùng phượng cháy Thánh thót Văn Cao đứt nối suối mơ Liêu xiêu Mã Mây hút rêu Xuân Phái Nguyễn Huy Tưởng “sống mãi với Thủ đô” Nguyễn Đình Thi âm vang “người Hà Nội” Quang Dũng lang thang cùng “mây đầu ô” Quang Vũ ngẩn ngơ với “vườn trong phố” Em bảo sao anh cứ loanh quanh mãi với vườn xưa ngõ cũ Sáng phải quần soóc áo phông dưỡng sinh quanh Hồ Gươm như thể người ta Chiều ra bờ Hồ Tây lắng chuông chùa Trấn Quốc ngân nga Tối vào nhà Hát Lớn thưởng một vài trích đoạn giao hưởng Thứ bảy vác máy ảnh đi rình cụ Rùa Hồ Gươm bất ngờ nhô đầu đội sóng Chủ nhật ra bãi sông Hồng hóng gió thưởng thức mùi vị ngô non Tuần đôi lần ghé thăm Viện Gớt, Nhà Việt- Pháp, Nhà Việt-Nhật, Trung tâm Đông - Tây… để đầu óc được mở mang Tháng dăm bận lui tới New Century, Hồ Gươm Xanh, Tràng An Quán… cho tâm hồn thêm tươi trẻ Em bảo chính cạnh Hồ Tây mịt mờ trời bể Nguyễn Trãi đã thử tài thôn nữ “bán chiếu gon” Nguyễn Huy Lượng đã từng viết “Tụng Tây Hồ phú” Hồ Xuân Hương treo biển “Cổ Nguyệt Đường” Anh bảo rằng anh cũng cũng có thơ về Hồ Tây Anh sẽ đọc em nghe dù dở dù hay Thơ rằng: Trăng lên nghiêng một tứ thơ Hồ nâng gió dậy, gió chờ trăng cao Sâm cầm cánh ướt lao xao Nghi Tàm Quảng Bá chỗ nào cũng trăng Trăng là thuyền mộng chở đêm Thuyền là trăng nổi êm êm mặt hồ Thuyền trôi vàng vỡ lô xô Mặt thuyền đầy gió mặt hồ đầy trăng Anh bảo rằng anh cũng có thơ về Văn Miếu Anh sẽ đọc em nghe dù thừa dù thiếu Thơ rằng: Khuê văn gác không rộng Hồ văn nước không sâu Miếu văn tượng không lớn Bia văn chữ không làu Hỏi rùa lưng mải đội Hỏi rồng râu mải chầu Hỏi hạc cánh mải múa Hỏi tượng mặt mải cầu Chuông nhắc đừng quên lễ Trống giục hội khai mau Cờ bảo đề chữ “sĩ” Văn mạch rồi dài lâu * Ẩm thực Hà Thành chẳng thiếu những thứ thơm ngon Em bảo sao anh cứ vội vàng “thực bất chi kỳ vị” Những bún ốc Hồ Tây, chả cá Lã Vọng Cay xè cà cuống, xanh ngắt húng thơm Bánh cuốn Thanh Trì mỏng như giấy lụa tẩm sương Lá chuối bọc xanh nhuyễn như giò chả ước Lễ Bánh cốm Hàng Than, Phồng tôm phố Huế Cà phê Hàng Hành Kem cốc Thuỷ Tạ Giòn tan là nem Nức thơm là phở Phở có tự bao giờ? Cả những gánh phở gia truyền hàng chục đời cũng không thật rành rõ Quê phở gốc gác đâu như từ đất Nam Định - cố hương anh Nhưng phải ra kinh kỳ phở mới thực là “quốc hồn quốc tuý” Đã là con dân Hà Thành Hỏi xem có ai là người chưa từng một lần ăn phở Du khách - anh là người nước nào chưa tỏ Nhưng nếu chưa phở thế thì chưa thực biết Hà Nội đâu nhé! Hà Thành biết bao nhiêu những thứ có biển hiệu “gia truyền” Kể cả “xích lô gia truyền”, “tẩm quất gia truyền” Có “phở gia truyền” lừng danh nhập họ Phở Chất được mùi Phở Thìn được vị Phở Tư Lùn một dạo nhà hàng không kịp xếp ghế Phở “Hai Tư” thời nay thật lịch sự khang trang Phở “Bát Vuông” có băng rôn biển hiệu đàng hoàng Nghĩa là đã bắt được nhịp sành điệu ở thời mở cửa Nhưng lại vơi đi cái tinh thần bình dân một thuở Cứ hôm nào thấy nhạt miệng nhạt mồm Em lại bảo hay là hôm nay ta phở ! ừ, đi thì đi! Nào, phở thì phở! Quà Hà Thành hôm nay vẫn vui vẫn đông Sao vẫn thấy như thiêu thiếu một cái gì đó Thanh lịch, hào hoa, chung đúc, lắng trong “Vang bóng” kinh kỳ một thời, một thuở Một Tản Đà cầu kỳ Một Thạch Lam tinh tế Một Nguyễn Tuân nhâm nhi Một Vũ Bằng chí lý Đã có một Nguyễn Bính tinh cất “hồn quê” Ai sẽ là người sẽ vinh danh “hồn phố”? Hồn phố cổ kính lắng đọng rì rầm Hồn phố trẻ trung vỡ giọng đâu đó Chưa rõ! IX. Hà Thành hồi cố Hà Thành cổ bằng phố Hà Thành rộng bằng hồ Hà Thành cao bằng tháp Hà Thành thiêng bằng rùa Này Hàng Bồ, Hàng Bạc Này Cầu Gỗ, Mã Mây... Người mê phố đã mất Ai lưu hồn phố đây? Đây Bảy Mẫu, Hoàn Kiếm Đây Thủ Lệ, Hồ Tây... Người yêu hồ cũng khuất Ai lắng hồn nước mây? Báo Thiên: tháp đã đổ Cửu Trùng: đài không thành Trên nền xe ngựa cũ Siêu thị vờn trời xanh Chứng tích cho truyền thuyết Còn sót một Cụ Rùa Lâu lâu ngoi lên thở Rồi lặn sâu đáy hồ Chẳng như thơ Bà Huyện Than "tạo hoá gây chi..." Gọi một ấm trà nóng Quán cóc ngồi nhâm nhi X. Hai khúc sông Tô I. Chảy cùng huyền thoại Một Tô Giang trong ngần Cánh buồm trắng in dấu Thăng Long Đông Đô... Hỡi người, khuất lấp như sông Lật câu ca cổ tìm dòng Tô xưa Thuyền rồng ngự kín mui Vua Cung tần, mĩ nữ mắt đưa nghiêng thành Trời xanh sông nước cũng xanh Thuyền em ghé sát thuyền anh tự tình Không Vua thì cứ là mình Trồng rau, xeo giấy cũng xinh nét cười Thế rồi cửa lấp, bến bồi Hàng Buồm nhường chỗ cho thời hộp đêm Thế rồi Chợ Bưởi mọc lên Tô Giang xắt khúc lỡ duyên về chiều Thế rồi đất chật người nhiều Sông thơ bỗng hóa sông tiêu bao giờ... II. Nhà anh ở cạnh sông Gần Cầu Giấy (nay là tên quận mới) Sống lại rồi ư, con sông huyền thoại Đá đổ đầy bờ kè cọc nhấp nhô? Tên sông giờ vẫn là Tô Vàng son vang bóng đế đô một thời Tên sông gợi nhớ dáng người Tô sóng với Lịch, Lịch ngồi cùng Tô Hà Thành sót một khúc thơ Đá xanh kè xám đôi bờ cỏ len Bây giờ Chợ Bưởi liền phiên Người ta đến chợ đờ-rem, a-còng Bây giờ Cầu Giấy mở thông Nhiều xe lắm biển, chỉ không thấy thuyền Bây giờ Phường Láng thành tên Giã từ mẹt húng em lên sạp hàng Bây giờ lỗi nhịp thi đàn Anh thành phụ việc chạy bàn cho em! XI. Làng trong phố Đất này vốn đất ngoại ô Thoắt thôi nâng cấp nội đô thật rồi Bán mua rặt những khóc cười Đất thì lạ chủ, người thời lạ nhau Làng xưa vãi húng, trồng rau Phố giờ cắt tóc, gội đầu như ai Ngõ xưưưa thoang thoảng ngâu, nhài Ngách giờ lởm chởm mảnh chai, mảnh sành Cửa thiền cát-xét tụng kinh Nhà hàng khuất lấp mái đình, cây đa Tình xưa gắn bó dưa cà Tình nay động tý ra toà ly hôn Bảo buồn thì có hơi buồn Bảo vui thì cũng lấy "phồn" làm vui Chưa qua một cuộc đổi dời Ngoái trông vời vợi một thời đã xa * Chỗ này xưa gọi làng Hoa Đẹp duyên Hữu Tiệp - Ngọc Hà sánh đôi Từ ngày hoa bướm về trời Thay cho tỉa cảnh anh ngồi… vặt râu Chỗ này xưa gọi làng Rau Lừng danh húng Láng, mát câu chào mời Từ ngày làng - phố đổi ngôi Thay cho quang gánh chị tôi…. cháo lòng Chỗ này xưa gọi làng Vòng Tiếng chày giã cốm uốn cong trăng vàng Từ ngày phố nuốt mất làng Những em giã cốm chuyển sang… làm đầu Chỗ này nữa… có còn đâu Chỗ kia cũng sắp nhuốm màu phôi pha “Trăm năm trong cõi người ta” Mười năm bãi biển đã là nương dâu! * Yêu em biện một cơi trầu Đến nay chữ “biện” tìm đâu chỗ ngồi Ai xui danh thiếp lên ngôi Để cho hồng cốm đến hồi lãng quên? Yêu em yêu bởi cái duyên Nét “duyên” nay cũng biến thiên theo thời Ai xui dầu gội lên ngôi Để cho hương bưởi thẹn mùi săm-pul? Yêu em yêu xóm, yêu thôn Cảnh “thôn” nay nhuốm hoàng hôn mặt người Ai xui số hoá lên ngôi Nhà nhà gắn biển để rồi “một”… “hai”...? Hôn em, em bảo: anh ơi Kiểu hôn cũng phải tân thời, chứ anh? “Tân thời”… đâu phải… “tân thanh” Đoạn trường thoáng bóng áo xanh hiện về! XII. Phố nửa làng Ban ngày phố như làng Em tóc vương rơm cỏ Đêm về làng hoá phố Em mắt nâu môi trầm Hội đến đã bao lần Vẫn nửa quen nửa lạ Xe lướt trên rơm rạ Tai nghe nhạc xập xình Đi tìm cây trúc xinh Tang tình… cây còn gốc Chị Hai đứng một mình ố tình… chị Hai khóc Nhấn ga lên quán Dốc Cây đa ngả xuống rồi Anh Hai túm tụm ngồi Tính chuyện đào cả gộc Dỗ chị Hai đừng khóc Chị Hai bảo “ứ vào” Van anh Hai đừng đào Anh Hai bảo “xem đã” Rẽ thăm chủ tịch xã Ngài sửa soạn ra đồng Lệnh giải phóng mặt bằng Không được chậm tiến độ Quay xe về thành phố Ngang qua phía đình làng Tiếng các cụ râm ran: “Quê mình đất văn vật…” XIII. Chợ quê mở giữa nội đô Chợ quê mở giữa nội đô Trên phố đu nhún, dưưưới hồ thuyền bơi Dăm nàng yếm thắm tân thời Váy bò cạp trễ chào mời vắt ve Vài chàng khăn xếp, áo the Kính tròng lap-top lập loè văn nhân Nơi này "gút gút" làm thân Chỗ kia "hảo hảo" thêm phần cố tri Hỡi em, bánh cuốn Thanh Trì Đắt thì bảo đắt, ăn thì vẫn ăn Này anh, phở tái phở lăn Gia truyền Nam Định miếng thăn, miếng gầu Nem Thanh lưưườm nguýt chả Tàu Vạn Vân rưưượu hũ đấu nhau Jôn thùng Pep-si, bảy-ăp tưng bừng Quà quê ngô nướng, kẹo vừng nằm không Tò he xanh đỏ đứng trông Nhật Tân cầy quán quạt hồng bánh đa Rủ nhau vào hiệu mat-sa Ra cửa mấy bác làng ta thất thần: Có "mới" song chẳng thấy "tân" Vẫn "quê" nhưng liệu còn "chân"… mà về ! XIV.Thị dân Sống lâu ở phố Hoá thành thị dân Thị dân trong mặc Váy áo ngắn dần Thị dân trong ăn Chán cơm có phở Thị dân trong ở Nhà ống mái tôn Thị dân phát ngôn Cám ơn! Hân hạnh! Thích coi phim ảnh Thuê đĩa xi-đi Muốn uống cà phê Quán vưườn mờ ảo Rất chăm đi dạo Vì ngại bụng to Cần gọi xích-lô Thì ra đầu phố Thuê một tốp thợ Cứ đến chợ ngưười Cả đến khóc cưười Cũng có dịch vụ Sống lâu ở phố... XV. Mê hồn phố Thơ thẩn tìm chân quê Lạc vào mê hồn phố Từ ngày khơi mạch “phồn” Thấy bao nhiêu chuyện lạ: Xuân trước gặp chị Hai Chùa Hương ngồi gõ mõ Chị Hai xinh nhất phố Bỗng xuống tóc đi tu Xuân này thấy anh Ba Phủ Giầy ngồi viết sớ Anh ba giầu nhất sở Thoắt sắm vai “thủ từ” Đêm nào gặp chú Tư Bích Câu ngồi tom, chát Chú Tư soạn “giáo trình” Giờ tay đàn, tay tráp Tối qua đụng thím Năm Xe hơi vào nhà hát Thím Năm tay đầy vàng Trước là dân bãi rác Nhớ lần gặp bác Sáu Tay xách va ly tiền Bác Sáu từng vượt biên Nay chuyên làm từ thiện Sáng bắt tay cháu Bảy Cháu Bảy xưa phụ nhảy Giờ tuyển thủ cầu mây Cháu vừa thắng cả Tây Đi tìm gặp bác Cả Kể bấy nhiêu chuyện lạ “Phỉ phui cái mồm anh!” Bác Cả cười ha hả XIV. Duyên kỳ ngộ Nhớ biển tìm ra sông Chẳng sông suối thì hồ ao cũng được Nhớ đồng tìm ra bãi Chẳng bãi thì sân thượng cũng xong Đến hồ ao, sân thượng cũng không Thì miễn là có nước Có nước là có hàng cây, Có nước là có bể cá Nhớ núi: đắp non giả Nhớ rừng: trồng bon-sai Không núi, không cây Một cóng-bơ-hoa treo ngoài cửa sổ Đung đưa, đung đưa, đung đưa Những chiều cả gió, những trưa vắng người Gió thì chỉ biết rong chơi Người xây nhà hộp để rồi… cóng bơ Rưới một chút nước Thấy đời xanh thêm Lắng tiếng chim hót Từ lồng nhà bên Chạm vào đôi mắt Vừa tròn vừa đen Bắt được cái miệng Vừa xinh vừa duyên Thế là trưa ấy Nói cười huyên thuyên Thế là đêm ấy Thức thi với đèn Chập chờn bắt gặp Giáng Kiều - Tú Uyên Ngờ rằng đã mất từ lâu Kỳ ngộ còn một Bích Câu chốn này Cổng ngoài "xổm bệt" hàng bày Sân trong "đạo quán" thờ thầy Tú Uyên Lách qua ồn ã mặt tiền Tĩnh tâm mờ ảo mặt thiền hiện ra Động cành bưướm nép vào hoa Ngưười nấp vào giấy, trần nhoà mất tiên Cầu tranh mà hoá cầu duyên Giáng Kiều hiển sánh Tú Uyên, ý trời Tâm hương một nén thay lời Trời rằng: "Ta kén chọn người để cho Thời nay rốn trễ cạp bò Gặp "quỷ" thì có, đừng chờ gặp "tiên" Bích Câu cũng thể Đào Nguyên Duyên kỳ ngộ ấy là duyên một lần!" Lời truyền vừa dứt tiếng ngân Từ trong hương khói bần thần bước ra Hỡi ơi, lại phố lại nhà Lại chìa vé số, lại rà xe ôm Thập thò cửa kính khung nhôm Đậu phụ lại chấm mắm tôm dậy mùi Cái mất thì đã mất rồi Cái còn nhấp nhổm đứng ngồi chẳng an XVI. Làng phố tương giao Tuổi trẻ ra phố bỏ quê “Tri thiên mệnh” bỗng nhớ về điền viên Dẫu không thẹn với Đào Tiềm Cũng theo Nguyễn Khuyến tái duyên quê nhà Đường làng vẫn đường làng ta Đèn cao áp đã đuổi xa trăng vàng Đầy đường xe máy dọc ngang Cái luồn ngõ Huyện, cái sang chợ Cầu Mẹ già mới mất ít lâu Chợ giờ trống chỗ bán trầu, bán vôi! Đầu đường thoáng dáng em tôi Mắt xanh, môi đỏ đang ngồi đợi ai “Người ta Hàn Quốc, Mã Lai Thì em cũng phải liệu bài chứ anh?” Giữa đường dưới tán cây xanh Bạn tôi đang cúi gập mình bơm xe “Con đông, ruộng hết, chân què…” Bạn cười khoé mắt đỏ hoe cả chiều Cuối đường rộn tiếng hò reo Đuổi theo trái bưởi trẻ nghèo cùng vui “Nhà hàng hoá giải sân chơi Chúng em đành phải ra nơi mặt đường” Thăm quê lòng dạ vấn vương Phần buồn cảnh sắc, phần thương nỗi đời Toét!… toe! Giật thót cả người Đoàn xe quan khách hú còi lướt qua Rẽ tìm lối cũ về nhà Ngoáy đuôi chú Vện chạy ra đón mình * Đêm nay rời bỏ thị thành Về nghe ếch nhái kêu quanh ao làng Khi chẳng chuộc, lúc rộn ràng Đêm càng sâu lắng, tiếng càng lâm ly Tiếng rằng, mới đó nhà quê Trúc tre soi bóng liền kề đầm ao Sông tôm cá, bãi chấu cào Tháng ba trời đổ mưa rào sấm vang Từ ngày cơ giới về làng “Công nông” đầu dọc, đầu ngang hãi hùng Lấp ao, đổi thửa, khoanh vùng Ai còn cấn cá là không thị trường Tiếng rằng, vui lắm hội làng Dưới ao rối diễn, trên đường rồng bay Sân đình cô Tấm rơi hài Để cho Hoàng Tử trổ tài… ướm chân Điệu chèo từ độ cách tân Ba phần rốk-rép bảy phần ơí a: “Gái làng í í í gái làng ta Lấy chồng Đài-Bắc… ắc ắc ắc… hoá ra Việt kiều”! Tiếng rằng, ruộng ít người nhiều Trông vào hạt thóc trăm điều lo xa Lo con học, lo sửa nhà Nữa lo cha héo, mẹ già nay mai Hàng xóm sắm xe, lên đài Nhà mình không có cũng dài mặt ra Vay vốn phải thế chấp nhà Xuất khẩu thì ngại đường xa xứ người Tiếng rằng, dự án lập rồi Không khu công nghiệp, cũng thời sân gôn Số ít bảo thế là khôn Không đô thị hoá thì còn nghèo lâu Số đông ngờ vực hỏi nhau Không dưng mình cũng nhà lầu, xe hơi? Đồng làng sắp hoá sân chơi Muốn nghe tiếng ếch nữa rồi tìm đâu! XVII. Là ếch Là ếch, ta chỉ mong mưa Trước tìm bạn gái, sau thưa với trời Vô tư nào biết có người Bụi bờ rình rập chờ thời chộp ta Ta đâu phải lão ba ba Cậy mình vỏ cứng thò ra, thụt vào Ta đâu phải gã cào cào Áo xanh, áo đỏ lao xao bờ đầm Ta - kẻ lĩnh xướng giọng trầm Giữa dàn giao hưưởng tiễn xuân sang hè Ta - kẻ réo gọi hồn quê Sông xưa khuất lấp hiện về trong mơ Trần truồng vũ điệu mừng mưa Trong dạ tiệc nước khởi mùa "phồn thê" U uôm... ộp oạp... tê mê Ôm nhau chết bởi lăng-xê chính mình! Xưa nay trong kiếp phù sinh Hỏi rằng đưược chết vì tình, mấy ai Tìm xem khắp chốn tượng đài Thấy đâu hình bóng của loài lưỡng thê Buồn cho những kẻ về quê Chẳng vang “chẳng...chuộc” còn gì là đêm XVIII. Cỏ Cùng nhau men lối bờ đê Giữa bao la cỏ em mê cỏ nào? Thuở ấy tóc để chỏm đào Cầm tay cỏ dắt anh vào xưa xa Hồn nhiên nhất đám cỏ gà Chọi nhau túi bụi để mà cười vui Mập to đích thực cỏ voi Cỏ mật thì ngọt, nhọ nồi lại đen Cỏ may xiên một mũi kim Chân vịt mỏng mảnh, chân chim loè xoè Cỏ lăn, cỏ lác, cỏ le Khoẻ như cỏ gấu lại e cỏ gừng... Trâu bò lúc lắc cặp sừng Bên nhau gặm cỏ thung dung chiều hè Mục đồng tóc gió vàng hoe Vật nhau trên cỏ để khoe đùi lườn Chắp tay vái cỏ dọc đường Hẳn là mấy bác tha hương về làng Lúa là một giống cỏ hoang Ông cha thuần dưỡng mùa màng trĩu bông Quê mình hoa cỏ đầy đồng Ngoài thành phố cỏ phải trồng đó em. XIX. Là trâu Gặm cỏ để rồi kéo cày Kéo cày gặm cỏ lâu ngày thành chai Buồn thì lại ợ ra nhai Lắc mông xua muỗi, vẫy tai đuổi ruồi Sướng thì cong tớn cái đuôi Chân cẳng dậm dựt, “của giời” lắc lư “Hùng hục như họ nhà tru” May đời chưa rủa là ngu với đần Từ ngày về với thảo dân Trên thừng xiên mũi, dưới chân lội bùn Trưa hè nước bỏng như đun Chiều đông sương muối rét run từng hồi Vụ năm cho chí vụ mười Hạt vàng người hưởng, rơm mời trâu ăn Lòng riêng thoáng chút lăn tăn Vẫn thề đi với thảo dân trọn đời Là trâu tớ cũng thích cười Đánh lừa lão cọp hỏi người “trí khôn” (!) Là trâu tớ chịu anh Bờm Ba bò chẳng đổi, đổi hòn xôi to (?) Tớ mà có cái quạt mo Gạ người đổi lấy một vò rượu ngon Uống say vằn mắt, gếch mồm Hỏi rằng: “máy hoá” người còn dùng ta? Có thịt nhớ chừa sừng, da Góp vào bộ gõ cùng là bộ hơi Kiếp trâu đưa tiễn kiếp người Tùng! Bi… ri! Cắc! Thế rồi… nấc lên! XX. Mục đồng “ Mục đồng là trẻ chăn trâu Ăn sống ăn sít vật nhau cả ngày…” Mục tử là chúng anh đây Lưng trâu từng cưỡi, liềm tay đã cầm Cắt cỏ không sợ gai đâm Lội ruộng chẳng hãi âm thầm bùn rêu Con gái nhóm lửa, thùa thêu Con trai đánh trận hò reo dậy trời Đóng bè chuối để tập bơi Phất diều mong thả lên trời ước mơ Trâu thì bữa đói, bữa no Người chăn quần áo khét mù như trâu… Một ngày chẳng hiểu vì đâu Đua nhau kéo đến cả Tàu lẫn Tây Kẻ đóng cọc, người chăng dây Biển treo: đất này đã chủ đầu tư (?) Thế rồi đường xá bụi mù Đen ngòm nước thải lừ đừ sông quê Thế rồi đứa đi làm thuê Đứa theo chồng ngoại chẳng về thăm nhau Đường làng hết vết chân trâu Đồng làng hết cỏ, tìm đâu…. mục đồng! XXI. Dã tràng tự bạch Xe duyên giữa biển với bờ Cớ chi lũ sóng xoá mờ tình tang Để cho miệng lưưưỡi thế gian Dệt thêu nên "chuyện dã tràng" kể chơi Vì không giữ được bạn đời Xe cát lấp biển cho vơi hận mình Thế là từ gã thưưư sinh Ta thành một kẻ thất tình, dở hơi Thế là từ kẻ yêu đời Ta thành một gã biển trời bằng vung Chẳng tin hỏi họ nhà Thông Trót phải lòng biển ta không muốn về Chôn chân mãi chốn thôn quê Hay ra phố thị hành nghề thưưương gia Bãi bờ riêng một mình ta Dẫu thân cua cáy nhưưưng mà thanh tao Đời tẻ nhạt, đời ca dao Thì ta xe cát tôn cao miệng đời Miệng đời tròn méo theo thời Dù rằng đang khóc hay cười đều thương Dã tràng hay đấng quân vương Gẫm ra thì cũng vô thường cả thôi! XXI. Tễu: ba trong một I. Cởi trần đóng khố múa chơi Hát rằng, giữa đất và trời có ta Đất là mẹ, trời là cha Chính danh gọi Tễu, tự là Thảo Dân Gia tài độc một chữ "cần" Trọng thực thường lấy chữ "ăn" làm đầu Bạn thì những chó cùng trâu Những bí cùng bầu, những lúa cùng ngô Người ta bầu rượu, túi thơ Mình thì khuya sớm bụi bờ đó đăng Vui cùng con diếc, con măng Buồn thì gõ bát hát nhăng giải sầu Ra trận đành phận tốt đầu Về làng thì lại cưỡi trâu ra đồng Ai nhanh hoá hổ, hoá rồng Ta tuy trâu chậm nhưng không sá gì Kéo cày đã cực chai lì Khi giương sừng nhọn hổ thì ngán ta Đã cười, cứ phải ha! ha! Đã hát, cứ phải í a... tình rằng... Đã ngắm, cứ phải Thị Hằng Đã uống, cứ phải tính bằng hũ, ang Giáo trò nhân lúc xuân sang Tễu tôi xin được trình làng đôi câu II. Độc một mảnh khố che thân Giấc mơ xuất ngoại đâu phần Tễu tôi Ai ngờ dân giã lên ngôi Thế rồi Tễu cũng được ngồi máy bay Ngất ngư trên chín tầng mây Giật mình nhòm xuống nhà Tây chọc trời Lung linh mặt nước xứ ngưười Diễn ra đủ cả khóc cười xứ ta: Mình voi lẫm liệt tướng bà Rồng thiêng phun lửa, rùa già đớp gươm Nào là đánh dậm, úp nơm Cày bừa, tát nưước, nhào rơm, cất nhà Nào là đám cưới, đám ma Hát chèo, đấu vật, chọi gà, đánh đu... Miền "gà trống", xứ "sương mù" Ngữ ngôn dẫu khác, gật gù giống nhau Thì ra Tây cũng như Tàu Cũng thèm của lạ, cũng giàu hồn nhiên Thì ra lắm của, nhiều tiền Cũng cười cùng Tễu cho quên sự đời Cũ ta lại hoá mới người Hồn quê “rối nưước” một thời, kém ai! Thực là có một, không hai Tễu tôi xuất ngoại chuyện dài... hơn sông III. Dưới khố, trên áo gi-lê Đầu mang mũ phớt Tễu đi xứ người Âu-Tây gô-tích chọc trời Âm dương ngói úp nghìn đời Á-Đông Chán chê xúc-xích, dăm-bông Màn-thầu, sủi-cảo cũng không lạ gì Nơi nâng bát, chỗ cụng ly Trả lời phỏng vấn rồi thì ôm hôn Người rằng: “rối nước hớp hồn Đã câu “giã bạn” liệu còn gặp nhau?” Tễu rằng: “chắc cũng chẳng lâu!” Chắp tay đáp lễ, nghiêng đầu gút-bai! Người tung mũ, kẻ vẫy tay Ngất ngư lại chín tầng mây trở về Bỏ mũ phớt, cởi ghi-lê Phất phơ giải khố ao quê thật mình Này nước tre trúc lung linh Này mây lồng bóng thuỷ đình gần xa Này người dân giã quê ta Cắc tùng nhịp trống, ối a điệu chèo Trò xưa, tích cũ trong veo “Trình-diễn”, “xếp-đặt” ăn theo ngập ngừng Ngàn năm vận hội phục hưng Tễu mang hồn Việt sánh cùng thế gian XXIII. Hồn Hôm xưa em đi tỉnh về "Tách" hàng khuy bấm... buồn tê cả lòng Em giờ "roạt" cái là xong Phéc-mơ-tuya hẳn làm ông... hết hồn! Dẫu gì, hiện đại vẫn hơn Van ông, ông chớ nặng buồn làm chi Kể nhưưư cái chuyện "chân quê" Đã xưưa nhưư thể "lời thề cỏ may" Đến như cái chuyện lấy Tây Vào thời mở cửa sự nay cũng thường Còn như cái chuyện văn chương Nặng phần xếch xéc, nhẹ đường thanh tao Lại như cái chuyện thấp cao Mái bằng mái nhọn, cái vào cái ra Xác mình hồn của người ta Cố hương cũng khác chi là tha hương Nhịp nhanh cơ chế thị trường Muốn buồn cũng chẳng kịp buồn, thưa ông: Lục bát người viết vẫn đông Đúng vần, đủ điệu chỉ không thấy... hồn Mồng tơi dậu vẫn xanh rờn Chỉ bươm bướm trắng không còn đưa thư! Sông xưa cầu đã thay đò Sang ngang lỡ bước bây giờ… mình tôi! Hồn làng xác phố hỡi ơi Giao duyên một khúc ai người tri âm? XXIV. Hỏi Đã “thơ phú giao duyên”, lại “làng phố giao duyên” Có “giao” không, khi phú khác thơ, khi làng khác phố Có “duyên” không, khi thơ nép phú, khi phố nuốt làng? Gã đầu bạc ơi! Thương tiếc mà làm chi mái đình cây đa, bến đá trăng vàng Những bèo dạt mây trôi, cò la cò lả Cánh cò trắng từ lâu đã chết khô trong sách vở Muốn biết thân cò con trẻ thời nay phải lặn lội vào thảo-cầm-viên Thay chỗ cây đa hôm nào là cây-ống-khói ngạo nghễ vút lên Phun những đen sì mà cụ Đồ Chiểu năm xưa muốn “chạy ra cắn cổ” Chí Phèo thời nay đi làm vệ sĩ bảo kê cho vũ trường, nhà hàng trên phố Về quê tậu đất lập trang trại là những chàng Xuân Tóc Đỏ mới phất lên Cụ Cố Hồng bây giờ xe hơi về gặp cụ Bá Kiến thường xuyên Giữa chiếu rượu làng Hiện Đại cụ cứ gật gù: “chưa biết, sướng lắm, nói nữa, nói mãi!” Lão Hạc sau khi bán chó, bán vườn chẳng những thôi kiếp cô đơn thui thủi Mà nghe đâu còn thường cặp kè với đám thằng Mục, thằng Xiên Giáo Thứ từ lâu cũng đã dứt bỏ lũ học trò cùng đèn sách, bút nghiên Hoà vào đội quân xuất khẩu lao động mãi đâu tận xứ I-rắc, Cô-oét Hỡi ôi, nói gì đến làm giầu, làm sang, làm đẹp Chỉ để làm người lương thiện thôi cũng đã đủ nhọc nhằn Người ta bảo: Thời nay, đã cũ lắm rồi những “tiên học lễ, hậu học văn” Hãy nhớ lấy chữ “đoạt”, chữ “tranh”, chữ “quyền”, chữ “biến” Thay cho chữ “hiếu”, chữ “trinh”, chữ “cần”, chữ “kiệm” Những bảo tàng, nhà hát, thư viện… tốt thôi, nhưng xin quý vị cứ thư thư Phải có ngay những ri-zót, plaza, sân golf để thu hút vốn đầu tư Khi đã có tiền rồi thì, “mèo trắng mèo đen” có lo gì không vồ được chuột! Người ta bảo: Thời nay, nếu không là tứ trụ triều đình, văn võ quan viên Thì cũng phải là người mẫu chân dài, doanh nhân bụng nở Nếu không có bố làm to, có nhà mặt phố Thì cũng phải có sổ tiết kiệm ngân hàng, có ki-ốt cho thuê Thế mới biết chữ “thời”, chữ “thế” thực là gớm ghê “Thác lộ”, “phùng thời” “tốt” hay “xe” ai mà biết được! Chẳng thế mà: Mãn Giác, thời Lý, răn rằng “sự trục nhãn tiền” Đặng Dung, thời Trần, cảm hoài “thời lai đồ điếu” Nguyễn Trãi, thời Lê, di hận “hoạ phúc hữu môi” Nguyễn Bỉnh Khiêm, thời Mạc, luận giải “thất thế đắc thời” Ngô Thì Nhậm, thời Nguyễn, cắn răng “thế thời phải thế” Phan Bội Châu, thời Tây, nghiến răng “giang sơn tử hĩ” Chẳng thế mà: Ai có quyền thì nguời đó sẽ độc tôn chân lý Sẽ áp đặt bóng mình trong phê văn, chép sử Ai có tiền thì người đó sẽ cầm trịch luật chơi Sẽ “Suối mơ”, “Thiên thai” ngay giữa trần đời Không quyền, không tiền thì cứ ngồi mà sáng tác, tối tác Tự huyễn hoặc rằng sẽ có ngày di cảo, hồi ký vươn mình sống dậy… lên ngôi! Chẳng thế mà: Tú Xương giật mình tưởng nghe tiếng ếch kêu sông Lấp Thì ra giữa dòng Mê vẫn ngóng ai một tiếng gọi đò Á Nam thác lời người vợ nơi bến tàu tiễn đưa anh Khoá Cái khăn trầu bao lần ngập ngừng đã thắt lại mở ra Nguyễn Bính khóc than cho thân phận mình sang ngang lỡ bước Với bao kiếp người đương thời đổ bóng xuống sân ga Đoàn Văn Cừ níu giữ một đám rước xuân, một phiên chợ tết Về đâu hỡi những cư dân nô nức dưới trăng tà? Này, gã cỏ may! Đã quá nửa cuộc đời hãm mình trong thành, chung thân với phố Mùa đông trải đệm Kim-đan, mùa hè bật Nick-ko điều hoà nhiệt độ Có phải đạo không khi ngồi Quan-Hoa-Các mà thương nhớ đồng quê? Lại còn cao giọng “bồi tụng” những văn minh này, những hiện đại kia Khi sông làng mình đang chết dần vì ô nhiễm Khi biển quê mình cá tôm ngày một hiếm Khi đảo nước mình láng giềng mưu độc chiếm Trai gái làng đang lũ lượt kéo nhau đi Thì thơ phú giao duyên như vậy để làm gì? XXV. Khép Sao người lại hỏi làm chi Giao thì phải hợp, duyên thì phải nên Chữ rằng “thập nhị nhân duyên” Đá vàng cũng lắm, biến thiên cũng nhiều Làng từng tìm thật mà yêu Phố nay lấy khéo làm điều vinh danh Không làng tự đánh mất mình Thiếu phố thật khó đua tranh với đời Biết rằng có một chữ “thời” Chẳng quên chữ “thế” tuyệt vời dịch kinh Chữ “lý” bắt bí chữ “tình” Chữ “yêu” chữ “gét” lình sình cả hai Cậy chi đến chuyện chữ “tài” Khi mà liền với chữ “tai” một vần Chữ “may” chữ “rủi” cùng sân Chữ “được” chữ “mất” cũng gần hỡi ôi Công nghiệp hóa mốc cắm rồi Hiện đại hóa cũng men thời mà lên Bão bùng thời đại thông tin Toàn cầu hóa vẫn dò tìm luật chơi Luật chơi tung hứng đầy vơi Hỏi kẻ cầm trịch là người nào đây Gió Đông xoắn xuýt gió Tây Thuở trước che chắn, thời nay đón mời Thật thà có chốn có nơi Khéo khôn cũng phải chờ thời lựa cơ Thực dụng nuôi lớn mộng mơ Mười tin bởi có một ngờ đó thôi Chữ nghĩa thông tỏ lẽ đời Ậm ừ ra vẻ như người thấp cơ Ngẫm xem trong cõi mộng mơ Tựu thành thì ít ất ơ thì nhiều Nói chi những “khoản” những “điều” Càng cao quyền lực càng teo tình người Biết thân thấp thế, lỗi thời Giữa làng và phố đành ngồi giao duyên Sâu sắc phát lộ hồn nhiên Rạ rơm khuất lấp một miền phồn hoa Áo xiêm mớ bảy mớ ba Khép vào tưởng phố mở ra thấy làng. ~Phạm-Công-Trứ~ 12/2008 - 7/2009 LỜI THỀ CỎ MAY Làm sao quên được tuổi thơ Tuổi vàng, tuổi ngọc - tôi ngờ lời ai Thưở ấy tôi mới lên mười Còn em lên bảy, theo tôi cả ngày Quần em dệt kín bông may Áo tôi đứt cúc, mực dây tím bầm Tuổi thơ chân đất đầu trần Từ trong lấm láp em thầm lớn lên Bây giờ xinh đẹp là em Em ra thành phố dần quên một thời Về quê ăn Tết vừa rồi Em tôi áo chẽn, em tôi quần bò Gặp tôi, em hỏi hững hờ "Anh chưa lấy vợ, còn chờ đợi ai ?" Em đi để lại chuỗi cười Trong tôi vỡ ... một khoảng trời pha lê Trăng vàng đêm ấy, bờ đê Có người ngồi gỡ lời thề cỏ may ... ~Phạm-Công-Trứ~ PHẠM-DOANH TRƯỜNG CA CHO KẺ ĐƠN HÀNH Dáng ai đứng tạc lưng đồi Đơn sơ thủy mạc nét người hay tranh Khói lam từ cánh rừng xanh Lững lơ đầu núi, mong manh nắng chiều Thả hồn theo nỗi tịch liêu Có niềm cô độc theo diều lên không Tìm trong nơi cặn bã lòng Còn chi đâu nữa mà mong ngóng gì Một ly, rồi lại một ly Vì em ta cứ ly bì đấy em Nắng Xuân rọi sáng trên thềm Mà ta say quá, bắt đền em đây Vòng tay, đã thiếu vòng tay Dù hoa xanh thắm, trong ngày tháng tư Tình ơi, sao vẫn chần chừ Để ta ngóng đợi, mỏi nhừ tim ta Vì em không bỏ tháp ngà Vườn cây quên nước phù sa sông Hồng Lúa vàng quên tuổi đơm bông Măng tre quên mọc, mục đồng quên trâụ Hoàng hôn tím mộng ban đầu Niềm vui chớm nụ đã sầu biển khơi Này em, tình khuất sau đồi Giăng chi mối lụa để rời rạc tơ Gót hài vết lạnh ơ thờ Ánh trăng khung cửa hững hờ phận đau Một người trên bến giang đầu Một người ngấn lệ canh thâu héo mòn Dù say vẫn biết mất, còn Dù tê dại vẫn thấm đòn trên da Coi như mật đắng, khổ qua Cho khờ cảm giác như là đồng đen Phong trần gió bụi dần quen Bảo mình bỏ cuộc bon chen mệt nhoài Gió chiều lộng ải quan ngoài Biên cương quán nhỏ gọi hoài tên xưa Tỉnh say, say tỉnh, tỉnh chưa ? Quanh đời những trận gió lùa bên tai Mộng du mờ mịt trần ai Trải lòng trên những ngắn dài nhân duyên Lâu rồi chưa được bình yên Tràn trong tâm khảm cơn điên vật vờ Có chăng chỉ cuộc tình cờ Có chăng là chuyện dạt bờ rong rêu Một lần đau, một lần yêu Đổi sao cho được trăm chiều ngây ngô Nguội lòng đá tảng đáy hồ Phía trên mặt nước giả vờ sóng chi? Cho nhau ngôn ngữ từ bi Để theo cơn gió bay đi cuối trời Bọt bèo trên sóng ngàn khơi Có chua cay lắm thiệt lời dối gian Tỉnh ra canh rượu chóng tàn Bình ngang chén ngửa bàng hoàng phế tâm Lâu rồi chẳng nói thành câm Nhờ say quên hết thăng trầm đó thôi Phù vân hết cõi con người Bóng trăng sóng nước làm khơi mạch buồn Người về xứ thượng bản buôn Tìm trên lối sỏi có nguồn vị tha Phải chăng dưới cội cây già Có chân thiền bỏ ta bà thế gian Ngút ngàn đâu chẳng ngút ngàn Lần theo dấu cỏ vẫn hoang vu đầy Nhiều khi đang giữa cơn say Nghe dòng nước lạnh dội ngay tâm hồn Bỏ chai rượu chẳng hết buồn Bỏ em chẳng hết cội nguồn khổ đau Nhiều khi đang giữa canh thâu Trong cơn mộng mị biết đâu lối về Tưởng chừng trăm chiếc bóng đè Có niềm hoảng sợ bốn bề vây quanh. Hình như trời đã bình minh Sao người vẫn đứng một mình bên song Sóng ngoài khơi, sóng trong lòng Lập lòe ngọn nến nhỏ dòng lệ rơi Đăm đăm nhìn phía chân trời Hải đăng ngần ngại, dõi đời phiêu linh Đằng sau vừa dứt cuộc tình Bước chân mỏi mệt, thể hình hư hao Rừng tràm, gió bắc lao xao Biển đông khơi sóng tạt vào rong rêu Một vùng dĩ vãng tiêu điều Còn trong tâm khảm ít nhiều ưu tư Tình quên lời cuối tạ từ Hoang vu chợt thấy đã hư con người Bước đi về chốn xa vời Dáng đầy khắc khoải như thời xa xưa Mắt buồn loáng đọng hạt mưa Còn đâu màu nắng khi chưa vướng sầu Đường gió bụi, biết về đâu Tóc sương pha lẫn với màu áo đen Lá bay tan tác bên thềm Bóng người mờ nhạt trên nền khói lam Nhìn quanh chỉ thấy mây ngàn Gió về từ đỉnh Tháp Chàm vi vu Lạc loài một kiếp phiêu du Nay đây mai đó bụi mù bước chân Khi trên bản thượng rượu cần Khi miền gió cát thấy gần cõi ma Mười năm lao khổ phong ba Nhiều khi nghĩ lại lòng ta nguội tàn Trả người giấc mộng tơ vàng Ta ôm định phận ngút ngàn trong tay Ngày xưa thần tượng là đây Năm năm trụy lạc hao gầy xác thân Trả lại tôi những tượng thần Tôi lên xứ thượng, rượu cần, đổi, say! Rượu cần đắng, rượu cần cay Phải chăng kỷ niệm, lá bay qua đời Thôi em, ngày mộng xa vời Còn đâu vạt nắng chiếu ngời áo xưa Còn đâu lúc dưới cơn mưa Hàng hiên quán nhỏ, mái dừa giọt sa Chuyện mình giờ đã phôi pha Em yên phận gái lên phà sang sông Sóng như còn dậy trong lòng Chiều bên sông nước, xuôi dòng, lá trôi Bao năm, thần tượng trong đời Là em với mắt môi cười đắm say Là em tràn suối tóc mây Tình yêu gói trọn vòng tay ngọt lời Thế mà mất hết, em ơi Chỉ còn trống vắng quảng đời mênh mông Niềm đau lắng đọng trong lòng Bóng nghiêng nghiêng đổ bên dòng hắt hiu Áo sờn vai, bạc đã nhiều Trên đầu mái tóc muối tiêu lẫn màu Chiều nay tạm trú nơi đâu Bao la một cõi giang đầu biên cương Thở dài, người lại lên đường Cát bay trong gió, mắt dường như caỵ ~Pham-Doanh~ CHINH PHỤ KHÚC Dòng sông đưa nước về đâu? Cho em gửi chiếc lá sầu tương tư Từ chàng chinh chiến diệt thù Đã ba năm chẳng có thư một lần Thương chàng sương gió bụi trần Ngựa hồng chắc đã ngại ngần vó câu Em hằng khấn nguyện đêm thâu Mong ngày nối lại nhịp cầu phu thê Hôm nay gió bấc trở về Hàng dương liễu lạnh, tái tê khuê phòng Thêm một ngày mãi chờ mong Thêm một ngày mãi ngóng trông bóng chàng Từng đêm chăn gối ngỡ ngàng Hơi người ấp ủ đã ngàn giấc mơ Giờ đây xa cách đôi bờ Nhớ thương biết đến bao giờ mới nguôi Từ chàng biền biệt chân trời Tóc tai biếng chải, mắt môi nhạt mầu Cứ trông về phía hàng dâu Ngóng chừng bóng ngựa qua cầu hồi hương Nhưng ngày lại khuất tà dương Cho hoa héo nhụy tàn hương giữa mùa Mình em trong bức màn thưa Gục đầu lên gối lệ mưa mấy dòng Chàng đi từ độ sầu đông Đã ba lần tuyết chập chùng chốn quê Ba năm chàng hẹn quay về Ba lần con nước tràn đê vỡ bờ Xuân sang lòng vẫn ơ hờ Từng mùa nắng hạ lặng lờ trôi qua Thu vừa xong nữa là ba Giờ này năm ấy chàng xa thiếp rồi Người đi, nhà vắng tiếng cười Có ai để thiếp chuốc mời rượu ngon Sân nhà lặng lẽ không còn Bóng chàng tập luyện quay tròn đường đao Tưởng chừng mới độ hôm nào Chàng vừa ướm thử áo bào em may Mà nay đã quá ngàn ngày Chợt nghe khóe mắt dâng đầy lệ em . Nắng vàng chênh chếch trên thềm Nhớ người và những êm đềm năm xưa Bên nhau dù nắng hay mưa Dù đông thi hữu hay thưa khách chào Đời ta vẫn rộ hoa đào Cho nhau đằm thắm ngọt ngào yêu đương Hai bên phụ mẫu mến thương Khen chàng võ nghệ văn chương vẹn bề Từ em ở lại miền quê Nuôi tằm dệt vải chẳng nề khó khăn Biết chàng ngàn dặm xa xăm Gió sương rừng núi dãi dằng nắng mưa Mong đồng lúa lại được mùa Góp lương nuôi lính vẫn thừa nuôi dân Việc nhà gánh vác tảo tần E chừng nhan sắc có phần kém xưa Năm nay chàng sẽ về chưa ? Em mang lễ vật lên chùa hỏi xâm Quẻ lành, sư cụ nói rằng Tàn cơn gió bấc, mùa xuân tái hồi Đêm nay trong dạ bồi hồi Mong tình quân đến đứng ngồi chẳng yên Cầu xin trời độ người hiền Cầu cho loan phụng nối liền dây tơ . ~Phạm-Doanh~ BÌNH KHÔ ĐẬP CHÉN CẢ CƯỜI VỚI NHAU Đêm nay ánh trăng vàng lơ lửng Gió nhẹ lay hờ hững cành cây Ddắng cay lời cuối là đây Ngày mai xa cách cho đầy nhớ thương Ta cùng em Quỳnh Tương chén cạn Nhớ bao ngày bầu bạn bên nhau Cung đàn gieo tiếng oán sầu Yêu chi cho lắm mà đau thế này Thôi em nhé chia tay nhau nhé Một người đi làm kẻ phiêu bồng Một người áo cưới theo chồng Còn đâu chén ngọc rượu nồng cho nhau Trăng mười chín bắt đầu khuyên khuyết Thương cuộc tình và tiếc ngày xanh Từ nay chiếc lá xa cành Anh về miền gió cát đành quên thôi Thôi cứ để chôn vùi kỷ niệm Nhắc làm chi những chuyện u hoài Coi như tích Nhị Độ Mai Giấc mơ thoáng nhẹ, dâú hài cỏ hoang Bâù rượu cạn xoay ngang cười ngất Em hỏi ta dám bất chấp đờỉ Thôi, mai đám cưới em rồi Trả em nguyên vẹn về người lạ xa Đêm nay ánh trăng tà lạnh lắm Sưởi cho nhau canh vắng thế thôi Em về bên phía kia đôì Còn ta diện bích, mộng đời u minh Ta chẳng tiếc cuộc tình dang dỡ Chỉ nghe tim đã vỡ tan rôì Coi như duyên nợ lứa đôi Cầm bằng sông nước cuốn trôi mịt mùng Cùng một nỗi niềm, chung tâm sự Uống cho đầy tư lự đêm nay Lâu rồi chẳng có dịp say Rôì đây như khói mây bay cuôí trời Ừ thôi nhé ta rời phố vắng Đếm tháng ngày cho trắng bàn tay Trong lần nửa tỉnh nửa say Tên người ta gọi vơi đầy hồn hoang Còn đâu đó hương thoang thoáng nhẹ Tiếng kinh hòa tiếng kệ điêu tàn Trách trời cắt đứt tơ vàng Tình vưà chớm mộng, đoạn tràng lên ngôi Uống đi em, nữa rồi là mâý Mỗi khi say lại thâý người xưa Mai này trên bước nắng mưa Đêm nay nhớ mâý cho vừa em ơi Uống chung hết dạ quang bôi Bình khô đập chén cả cười với nhau . ~Phạm-Doanh~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.05.2012 12:11:11 bởi Anh Nguyên >
|