KHÔNG BIÊT
ANH LÀ LÍNH
Giã từ nghiên bút mang đồ trận,
Lưng vác ba lô giữ nước nhà,
Nón sắt như nửa vầng trăng lạnh,
Tay súng - anh giày trận bước ra.
Chân giẫm đường quê giữa bóng đêm,
Rừng khuya sương lạnh ướt vai mềm,
Rền trời đại bác không ngừng nổ,
Anh thức cho người dân ngủ yên.
Mặc cho đạn réo, mặc mưa bom,
Gian khổ theo anh khắp nẻo đường,
Hy vọng, tình yêu và nỗi nhớ,
Đặt trên đầu khẩu súng thân thương.
Xa lạ anh qua những địa danh:
A Shau, A Lưới, La Drang,
Dòng sông Thạch Hãn trôi lừng lững,
Ấp Bắc, Đồng Xoài tới Phước Long.
Máu tươi anh đổ cho đồng xanh,
Những lóng xương khô, những chí tình,
Trải khắp đường quê hương muôn ngã,
Cho người dân no ấm, an lành.
Hạnh phúc của anh rất giản đơn,
Mái gia đình nhỏ để yêu thương,
Tiếng khóc con thơ, người vợ trẻ,
Hình ảnh anh mơ giữa chiến trường.
Dù anh chết trên cao nguyên lộng gió,
Hay bước cuối đời cổng thủ đô,
Cuộc chiến đổi thay không báo trước,
Hàng binh buông súng thật không ngờ.
Trái tim người lính như tan vỡ,
Lịch sử sang trang - nước thái bình,
Ai biết tháng Tư ba mươi ấy,
Cả đất trời vần vũ hãi kinh!
Anh lưu vong giữa lòng dân tộc,
Anh lưu đày ở chính quê hương,
Mẹ Việt Nam đoạn trường tiếng khóc,
Con - hàng binh - chịu kiếp trầm luân.
Chiến trường mới không nghe tiếng súng,
Từ trong tim, trong óc tù nhân,
Người chiến sĩ sức cùng lực kiệt,
Treo cuộc đời trên mốc thời gian.
Đói trên vồng khoai, khát nơi suối sâu,
Anh chết cuộc đời cô đơn buồn tủi,
Chết gữa trùng vây hai chữ căm hờn,
Không!...
Anh sống chờ qua ngày tăm tối.
Trả cho tròn món nợ non sông,
Cám ơn anh và các bậc cha ông,
Một phút ngẩng đầu - Vinh danh người lính.
~Không Biết~
Thụy An NGUYỄN VĂN HẠP
Hà-Thượng-Nhân cảm đề khi đọc tập
“Lửa Oan Cừu” (thơ viết trong tù của
Thụy-An Nguyễn-Văn-Hạp)
Nguyễn-văn-Hạp là người tử tế
Suốt cuộc đời ưu thế ưu dân
Yêu người chẳng nghĩ đến thân
Là tay trí thức dù dân võ biền *
Nguyễn Văn Hạp kẻ hiền sĩ ấy....
Là bạn anh tôi lấy làm vinh
Muôn sau lưu lại chút tình
Văn chương chữ nghĩa chúng mình có nhau
Ta cùng đau nỗi đau Cộng sản
Hoàng Liên Sơn đọc bản thơ anh
Anh đi thôi thế cũng đành
Còn lời thơ ấy thì dành cho ai?
Duy một tiếng than dài gửi lại
Ðể chứng cho thời đại chúng ta
Hồn anh dù ở đâu xa
Cầu xin chứng giám lòng ta nghẹn ngào
Tập thơ có nhờ vào họ Ðỗ **
Nhờ cô Bùi là chỗ yêu thơ ***
Tay này đọc đến không ngờ
Con người dạo ấy bây giờ lại đây
* Anh Nguyễn-Văn-Hạp Ðạ-tá giám đốc nha
Hành- chánh bộ Quốc-Phòng vốn là Tham-tá
thong-sứ Bắc kỳ. Anh phụng sự trong quân
đội ngành Quân-Nhu và Hành-Chánh
** Ðỗ-Kế-Hoàn là bạn thân thiết với tôi,
anh rất yêu thơ và hiểu thơ
*** bùi ht
~Hà-Thượng-Nhân~
LỬA OAN CỪU *
Lời thưa trước:
Bài thơ này được làm trong thời gian tác giả bị giam tại các trại tù của Cộng sản ở Hoàng-Liên-Sơn (nháp và sửa đi sửa lại chỉ trong đầu chớ không viết trên giấy, vì bọn cán bộ C.S. thường xuyên khám xét đồ đạc và giấy tờ).
Nay ngồi nhớ và ghi chép lại, y như đã làm hồi đó. Những cảm nghĩ và suy luận của bài thơ là những cảm nghĩ, suy luận, rồi kết luận chỉ có trong thời gian đó, chưa bị ảnh hưởng bởi những biến cố sau này, khi mà chúng huênh hoang gọi là “chiếc nôi của cách mạng thế giới”, “Ba dòng Cách Mạng”, “Hệ thống XHCN” liên tiếp theo nhau sụp đổ.
Xin bạn đọc coi bài thơ này như một chứng tích của một thời điểm lịch sử. Tác giả hy vọng rằng lời kết luận viết vào thời điểm đó sẽ là những lời ứng nghiệm, như những biến cố dồn dập sau đó đã chứng minh, một phần lớn, rằng: ta có thể vững tin vào những thắng lợi sau cùng của những giá trị nhân bản và văn minh đối với sự ác độc .
~Thụy An Nguyễn Văn Hạp~
* Mượn chữ trong bài văn tế của cụ Phan
Bội Châu viếng cụ Phan Chu Trinh trong
đó có câu '”đảo Côn Lôn rực lửa oan cừu”
LỬA OAN CỪU
Kính tặng các chiến hữu VNCH, với ước
vọng là các bạn không bao giờ quên những
ngày tủi hận và đau xót nghẹn nấc của cuộc
đời chúng ta ...
1
Tiết cuối thu mưa ngàn tầm tã,
Hàng nối hàng lã chã tuôn rơi,
Mây chì phủ kín bầu trời
Núi rừng Việt bắc xa xôi ngàn trùng
2
Ếch nhái kêu não nùng văng vẳng
Hòa tiếng mưa dai dẳng nghẹn ngào.
Cây rung lá đổ xạc xào,
Màn mưa giăng trắng một màu thê lương .
3
Nghe mưa rơi tiếng buồn day dứt
Tưởng tiếng lòng u uất bấy nay.
Gục đầu đếm bước đọa đầy,
Con đường lao lý đã dài tháng năm...
4
Nhớ từ buổi ầm ầm giông tố,
Hồng thủy dâng!... hung dữ bạo tàn!
Móng nền rường cột tan hoang,
“Ngọn cờ ngơ ngác” bẽ bàng đổ xiêu!
5
Non sông đã sớm chiều đổi chủ
Khung trời Nam vụn vỡ tả tơi,
Thảm thương thay cuộc đổi đời!
Biết bao “cát dập, sóng vùi từ đây” (1)
6
Bọn đắc thế tác oai tác quái ...
Lệnh truyền: cho “học tập” mấy tuần,
Gọi là “cải tạo bản thân
Rồi về sống với nhân dân, hòa đồng”
7
Trong cảnh ngộ đường cùng nghẽn lối,
Cũng đành thôi...khăn gói “nhập trường” (2)
Tâm hồn trĩu nặng bi thương,
Tư duy tràn ngập chán chường mênh mông...
8
Bỗng giữa khuya đùng đùng súng nổ,
Lùa lên xe lũ lũ tàn binh
Tin lời bịp bợm gian manh,
”Hàng thần lơ láo” thật thành tù nhân !(3)
9
Ngao ngán nỗi sa chân vào bẫy
Nhìn chân trời chỉ thấy phong ba,
“Một phen thay đổi sơn hà
Mảnh thân chiếc lá biết là đi đâu?” (4)
10
Ðời phát vãng lao đao trôi nổi,
Qua bao lần thay đổi trại giam,
Lặc lè vai gánh hành trang,
Chân chồn thất thểu trên đàng lưu ly
11
Nơi đâu cũng bốn bề giăng lưới
Kẽm gai cùng rừng núi bao la...
Thôi thì thân thế tiêu ma,
”Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh “ (5)
12
Nơi đâu cũng điêu linh khổ ải,
Cũng cuộc đời tê tái thảm thê.
Nơi đâu cũng cảnh não nề,
dày vò thể xác, ê chề tâm tư.
Chú Thích: (1) truyện Kiều - (2) anh Hà
thượng Nhân đề nghị sửa : “thôi thì thôi” cho
đúng luật thơ - (3) Truyện Kiều - (4) văn tế
Thập Loại Chúng Sinh - (5) Truyện Kiều
13
Nơi đâu cũng ngục tù đày đọa
Cũng làm thân trâu ngựa khổ sai
Lê thê ngày tháng kéo dài,
Sống theo tiếng kẻng như loài vô tri!
14
Nơi đâu cũng khoai mì, bo, bắp,
Chút muối, rau, mắm ruốc cầm hơi,
Nhà xiêu mái dột tả tơi,
Chỗ nằm ổ rệp, lèn người như nêm.
15
Quần áo mặc luốc lem, nhơ nhớp,
Lấm phân, tro, vá đụp vá chằng,
Ðồ dùng nhặt nhạnh lăng nhăng,
Bới trong đống rác như thằng ăn xin.
16
Ðau yếu chẳng thuốc men chạy chữa,
Nước lá cây, rễ cỏ, uống liều,
Nhọc nhằn tủi hận trăm chiều,
Cai tù hành hạ đủ điều khắt khe.
17
Ngày chí tối nặng nề lao tác,
Quần quật làm, kiệt sức tàn hơi,
Miếng ăn “trả đến hình hài” (a)
Cơ hàn “khắc phục”, khổ sai không ngừng (b)
18
Mặc nắng rát, sương rừng, mưa lũ,
Cực hơn xưa “Trấn thủ lưu đồn”
”Chém tre, đẵn gỗ trên ngàn,
Ðèo trơn, vác nặng, phàn nàn cùng ai ?”(c)
19
Khuân tảng đá, đường dài gối mỏi,
Nước ngâm mình vớt sỏi dưới khe,
Ðắp đường đào giếng, kéo xe
Vét mương, hái củi, hái chè, hót phân ...
20
Cắt cỏ xắc tay chân cứa nát,
Ði ngày đường xúc cát ven sông,
Cưa cây, rén sắt, phạt rừng
Tắm heo, nấu cám, rửa chuồng, chăn trâu ...
21
Khai hoang rẫy, trồng rau, nung gạch,
xây cất nhà, dựng vách, đan phên,
Nấu, đun, bất kể ngày đêm,
Xẻ đồi, đắp đập, san nền, đào ao ...
22
Còn nhiều nữa kể sao cho hết,
Ðủ khổ hình một kiếp lao lung,
Thương thay cá chậu, chim lồng,
Cuộc đời đến mức tột cùng khổ đau!
23
Thể xác đã lao đao khổ cực,
Còn khổ tâm cái nhục “học hành”!
Mấy thằng ngọng líu trẻ ranh
Dạy cho mình sớm trở thành... ngựa trâu!
24
Ðã bao người ngủ sâu lòng đất,
Nắm xương khô vùi lấp xó rừng,
Thương bao Tô-Thị mong chồng,
Vẫn nuôi ảo vọng chờ trông ngày về!
Chú thích: (a) Văn tế Trận Vong Tướng Sĩ
(b) muốn hành hạ tù nhân trong bất cứ khó
khăn thiếu thốn nào bọn cán bộ cũng tung
ra một câu nghe chán tai: “phải khắc phục!”
(c) thơ dân gian
25
Kẻ vẫn sống kéo lê cuộc sống,
Kiếp cừu non trong móng sài lang,
Chết mòn thể xác tinh thần,
Ðể rồi gục ngã khỏi cần gươm đao.
26
Trong canh huống thương đau dường ấy...
Tự nguyện lòng giữ lấy chữ “Tâm”,
Thiên lương, nhân cách vẹn toàn,
Niềm tin “thiên lý” không sờn mảy may.
27
Cảnh ngộ cũng chua cay bi đát
Trái tim càng ăm ắp tình thương
Ngày đêm nung nấu tâm hồn,
Chưa nguôi thương cảm đã dồn cảm thương.
28
Có những đêm canh trường thao thức
Lọt phên thưa gió bấc từng cơn,
Thương người nội trợ cô đơn
Một mình chèo chống biết còn nổi không?
29
Có những trưa oi nồng nắng hạ
Tay rã rời đập nứa đan phên,
Thương con chân yếu tay mềm,
Giờ đang quần quật kiếm tiền độ thân.
30
Có những bữa miếng ăn chẳng đủ
Nghĩ đến thằng cháu nhỏ phương xa,
Ðói cơm, rách áo, thiếu quà,
Ghê thay “cải tạo” không chừa trẻ thơ! (1)
31
Có những buổi trời mưa tầm tã
Khom lưng gầy khuân đá, vác cây,
Nhìn quanh: bạn cũng tù đầy
Cũng đang ngựa kéo, trâu cày,...vinh quang! (2)
32
Chiêm bao đẹp họa hoằn, chợt tới
Thấy nhà xưa sớm tối đi về,
Thấy con, thấy cháu đề huề,
Trở mình thức giấc, buồn tê tái lòng!
33
Nhớ thương chẳng vơi cùng năm tháng,
Mà ngày càng đè nặng tâm tư,
Trong vùng bóng tối ngục tù,
Ngày về khuất nẻo mịt mù thời gian...!
34
Chỉ gượng vui mỗi lần thư đến,
Những tờ thư gói ghém nỗi lòng,
Ưu tư, hoài vọng thương mong,
Của người xa cách muôn trùng quan san.
35
Ðọc lời thư ngại ngần e ấp
Cũng thấy niềm u uất từng trang,
Tờ thư đôi chữ ố vàng,
Tưởng như trên giấy động hàng lệ rơi...!
36
Xếp mớ thư để hoài túi áo,
Ngàn vàng không quí báu cho bằng
Ðọc đi, đọc lại trăm lần
Nếp thư càng rách, càng hằn lòng đau!
Chú thích: (1) Cán bộ quản giáo thường nói:
cải tạo trước tiên là phải cải tạo cái dạ dày
(2) câu đầu lưỡi của bọc CS là “lao động là
vinh quang” để dụ và buộc mọi người phải
lao động thật nhiều để phục vụ ý đồ bọn chúng
37
Vui nhận thư mà sầu khôn dứt,
Mừng nhận quà cũng thắt ruột gan,
Thương nhà đói phải nhịn ăn,
Ốm đau nhịn thuốc. tiện tằn từng xu...
38
Trong bao nhỏ gói đồ nhật dụng,...
Là gói bao chịu đừng hy sinh,
Mồ hôi, nước mắt gia đình,
Gói niềm thương xót nghĩa tình bao la.
39
Giọt sữa ngọt, như pha giọt lệ,
Trong miếng đường có vị chua cay,
Lại còn...thực quá mỉa mai:
Món quà “kim chỉ” gửi người ...“kiếm cung”!
40
Tàn thân thế long đong đất trích
Bao thâm tình chia cách hai phương,
Nhà tan, nước mất thảm thương
Cao xanh thấu nỗi đoạn trường này chăng?
41
Ngày sườn núi chang chang nắng Hạ
Ðêm đỉnh đồi buốt giá mưa Ðông
Xuân, Thu sương vẫn mịt mùng,
Bốn mùa tẻ ngắt, lạnh lùng, buồn tênh ...
42
Tù hãm giữa rừng xanh núi đỏ
Quẩn quanh cùng cây cỏ hoang sơ,
Chuyện trò: chỉ áng mây đưa,
Thở than: chỉ ánh sao thưa cuối trời.
43
Những đêm lạnh ngập đồi sương phủ
Co ro bên ánh lửa bập bùng,
Thẫn thờ nghe tiếng chim rừng
“bắt cô trói cột” não nùng kêu than.
44
Liều sáu khắc miên man sầu xứ
Dài năm canh giấc ngủ vật vờ
Giải buồn gọt giũa câu thơ
Tìm quên ngày tháng đã thừa đắng cay.
45
Nhưng thơ dẫu gieo hoài trăm vận
Mà thành sầu trơ vẫn một thành
Cuộc đời vẫn núi vây quanh
Thời gian vẫn chảy, vô tình vô tâm...!
46
Nỗi tức tưởi âm thầm vẫn đó,
Căm giận quân dã thú mặt người,
Gây bao tội ác tầy trời
Nhân luân chà đạp, chôn vùi tự do.
47
Một chế độ con đồ hiểm ác
Xây dựng trên: máu sắt, lọc lừa
Dân tình thống khổ xác xơ
Bắc, Nam: một trại khổng lồ tù nhân ...
48
Một chế độ bạo Tần, Kiệt, Trụ
Một vết nhơ lịch sử ngàn đời,
Biển đông sóng cũng thở dài,
Trường Sơn, gỗ cũng cau mày nghiến răng...!
49
“Nhớ nước” bầm gan “con quốc quốc”
Thương nhà thắt ruột “cái gia gia” (1)
Giờ đây tâm sự người xưa
Phổ vào cảnh mới càng chua xót lòng!
50
Bao ai oán căm hờn, phẫn nộ...
Giữ riêng mình, biết ngõ cùng ai?
“Chắc chi thiên hạ đời nay
Mà đem non nước làm rầy chiêm bao!” (2)
51
Có những chiều rừng gào gió thét
Lưới mưa giăng mù mịt núi đồi
Nhớ câu “thiêng võng khôi khôi” (3)
Mà suy tưởng tới Lẽ Trời Chí Công
52
Ngẫm triều đại xuôi dòng lịch sử
Có hôn quân bạo chúa nào bền?
Những phường bạo địa nghịch thiên
Cái ngày đền tội nhãn tiền không lâu:
53
Triều bạo Tần tưởng đâu muôn thuở
Chỉ một anh lính thú châm ngòi
Lửa thù bùng cháy khắp nơi
Mộng muôn đời mới hai đời đã tan!
54
Robespiere hung tàn điên loạn
Xô bao người lên đoạn đầu dài
Kinh hoàng gieo rắc một thời,
Ðược hai năm...cũng đầu rơi pháp trường
55
Sử cận đại tên trùm Quốc Xã
Gây vô vàn thảm họa chiến tranh
Xây lò thiêu đốt sinh linh,
Cuối cùng, mình tự thiêu mình thành tro!
56
Gương kim cổ sờ sờ trước mặt
Mà chúng còn quá quắt hơn xưa,
Quàng thêm cái ách vong nô
Rước voi về để dày mồ ông cha !
57
Vâng thượng lệnh Nga Hoa quỷ quyệt
Chúng thẳng tay ức hiếp đồng bào
Ðống xương vô định chất cao (4)
Mồ hôi nhão đất,lệ trào dềnh sông
Chú thích:
(1) thơ bà Huyện Thanh Quan - (2) thơ
Nguyễn Trãi - (3)Lưới trời lồng lộng (4)
Kiều dịch từ Ðường thi : khả lân vô định
hà biên cốt
58
Nòi giống này: con Hồng cháu Lạc
Núi sông này: nhân kiệt địa linh,
Thì bầy chiên ghẻ lưu manh
Sớm chiều ắt phải tan thành bụi tro...
59
Chẳng còn nữa những trò man rợ,
Chẳng còn “quân cờ đỏ” cướp ngày,
Chẳng còn tà thuyết ngoại lai,
Chẳng còn khẩu hiệu chiêu bài viển vông.
60
Chim lạc đàn lại càng hợp nhất,
Cùng chung lưng đâu cật, gắng công,
Tiếng nhau dựng lại non sông,
Tự do no ấm lại cùng chung vai
61
Ðồng lúa mướt xanh tươi hy vọng,
Vườn hoa thơm trái mọn tình người,
..........................................
Một cơn ác mộng tàn rồi!
Tung tăng cá nước chim trời cao bay ...
Làm tại trại tù Hoàng Liên Sơn 1977 – 1978
~Thụy-An Nguyễn-Văn-Hạp~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 12.10.2012 12:25:18 bởi Anh Nguyên >