Dòng thơ miền bắc
DÒNG THƠ MIỀN BẮC
1954-1975
MUC LUC
HỒ CHÍ MINH
- Ngục trung nhật k ý
- Nạn hữu xuy địch
- Vọng nguyệt
- Nguyên tiêu
XUÂN THỦY
- Ngôi nhà kháng chiến
LÊ ĐẠT
- Cha tôi
HỮU LOAN
- Màu tím hoa sim
- Đèo cả
- Hoa lúa
ANH THƠ
- Tôi đón tin vui từ Hà-Bắc
- Cun đã về nơi Bác ở ngày xưa
- Dưới bong ô-liu
- Hai nhăm năm
- Ở vườn thực vật Clouj
NGUYỄN ĐỨC GIỚI
- Lên Cấm Sơn
HUY CẬN
- Gửi bạn người Nghệ-Tĩnh
- Tổ Quốc
- Xem triển lãm tượng gỗ nhân gian
- Về thăm quê xã Đức-Ân
QUANG DŨNG
- Đôi mắt người Sơn Tây
- Đôi bờ
- Tây tiến
- Cố quận
- Lính râu ria
- Quán bên đường
- Mưa
- Chabbi Chabbi
HOÀNG LỘC
- Viếng bạn
HOÀNG CẦM
- Đêm liên hoan
- Bên kia song Đuống
- Đêm thổ
- Em bé lên sáu tuổi
VŨ CAO
- Núi Đôi
NGUYỄN ĐÌNH THI
- Đất nước
TRẦN DÂN
- Nhất định thắng
- Bài thơ Việt Bắc
PHẠM HỔ
- Những ngày xưa thân ái
YÊN THAO
- Nhà tôi
VIỆT PHƯƠNG
- Muôn vàn tình thương yêu
trùm lên khắp quê hương
LÊ ĐẠT
- Cha tôi
HOÀNG CÁT
- Trong mảnh vườn xưa
PHÙNG QUÁN
- Chiều hành quân
- Lời mẹ dặn
- Cây mận Vĩnh Linh
TỐ HỮU
- Ta đi tới
- Bài ca mùa xuân 1961
- Việt Nam máu và hoa
- Bài ca quê hương
- Đời đời nhớ ông
- Có một người yêu thích
- Dậy mà đi
TẾ HANH
- Vườn xưa
- Nhớ con sông quê hương
- Bài thơ tình ở Hàng Châu
BẰNG VIỆT
- Bếp lửa
- Em đừng ghen
HOÀNG TRUNG THÔNG
- Bao giờ trở lại
- Những cánh buồm
- Bài ca vỡ đất
XUÂN DIỆU
- Những đêm hành quân
MINH HUÊ
- Đêm nay bác không ngủ
NGUYỄN BễNH
- Xuân nhớ
- Hành phương nam
THU TRANG
- Nói sao cho vợi
TRẦN HỮU TRUNG
- Thăm lúa
CẦM VĨNH ÙI
- Nhớ vợ
CHẾ LAN VIÊN
- Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng
PHẠM NGỌC CẢNH
- Sư đoàn
CHÍNH HỮU
- Đồng chí
- Ngọn đèn đứng gác
THU BỒN
- Tạm biệt Huế
- Bài ca chim chơrao
NGUYỄN CHÍ THIỆN
- Anh gặp em
- Sẽ có một ngày
- Đồng lầy
- Không có gì quý hơn Độc lập Tự do
- Ngày Tết
- Ta nhớ
- Đau đớn lắm
ĐOÀN VĂN NGHIÊU
- Chiếc gáo dừa
- Vài khoảnh khắc tháng tư
NGUYỄN DUY
- Đò Lèn
LÊ CHÍ
- Nếu một ngày anh ch ẳng còn em
LÊ ANH XUÂN
- Nhớ cơn mưa quê hương
- Trở về quê nội
- Dừa ơi
BÀNG SĨ NGUYÊN
- Một mái nhà đỉnh núi
SONG HÀO
- Bên cửa sổ
CẦM GIANG
- Núi Mường-Hung dòng sông Mã
LÂM THỊ MỸ DẠ
- Anh đừng khen em
VŨ CAO
- Núi Đôi
GIANG NAM
- Quê hương
LƯU QUANG VŨ
- Vườn trong phố
- Những ngày chưa có em
- Những bong hoa không chết
- Việt Nam ơi!
BẠC VĂN ÙI
- Em tắm
NGUYÊN MY
- Cuộc chia ly màu đỏ
HỮU THỈNH
- Nghe tiếng quốc kêu
NÔNG QUỐC CHẤN
- Dọn về làng
TÚ MỠ
- Khóc người vợ hiền
THÔI HỮU
- Lên Cẩm-Sơn
NGUYÊN HỒNG
- Cửu-Long-Giang ta ơi
NGUYỄN ĐỨC MẬU
- Một vị tướng về hưu
HOÀNG TRẦN CƯƠNG
- Miền Trung
- Quặng lửa
CA LÊ HIÊN
- Trở về quê nội
TRẦN ĐĂNG KHOA
- Hạt gạo làng ta
- Bàn chân thầy giáo
- Gửi bác Trần-Nhuận-Minh
- Thơ tình người lính biển
- Giã biệt Matxcơva
PHẠM TIẾN DUẬT
- Cô bộ đội ấy đã đi rồi
- Trường sơn đông Trường sơn tây
- Người ơi người ở
- Gửi em, cô Thanh niên xung phong
NGUYỄN BÁ CHUNG
- Quê hương
TRẦN HUYỀN TRÂN
- Mưa đêm lều vó
- Độc hành ca
NGUYỄN NGỌC OÁNH
- Mẹ
HỒNG NGUYÊN
- Nhớ
VĂN LÊ
- Tháp Chàm
TRẦN VÀNG SAO
- Bài thơ của một người yêu nước mình
VĂN CAO
- Năm buổi sáng không có trong sự thực
THANH THAO
- Một người lính nói về thế hệ mình
LÊ THỊ KIM
- Viết cho chuồn chuồn kim
- Đừng nhìn em như thế
- Khi tình yêu đến
- Gần lắm Trường-Sa
NGUYỄN VŨ TIÊM
- Ảo ảnh giai nhân
BÙI CÔNG MINH
- Ngày và đêm
LÊ GIANG
- Em vẫn đợi anh về
HỒ CHÍ MINH
1890-1969
Tức Nguyễn Sinh Cung, Quê Kim
Liên, sinh tại quê ngoại Hoàng Trù,
Chung Cự, Lâm Thịnh, Nam Đàn,
Nghệ An. Chủ tịch Ban chấp Hành
Trung Ương Đảng Lao Động VN
1951-1969, Chủ Tịch nước 1945-
1969.
NGỤC TRUNG NHẬT KÝ
Thân thể tại ngục trung
Tinh thần tại ngục ngoại
Dục thành đại sự nghiệp
Tinh thần cánh yếu đại
~Hồ Chí Minh~
Dịch:
Nhật ký trong tù
Thân thể ở trong lao,
Tinh thần ở ngoài lao.
Muốn nên sự nghiệp lớn,
Tinh thần phải càng cao.
~Nam Trân~
NẠN HỮU XUY ĐỊCH
Ngục trung hốt thính tư hương khúc
Thanh chuyển thê lương điệu chuyển sầu
Thiên lý quan hà vô hạn cảm
Khuê nhân cánh thượng nhất tằng lâu
~Hồ Chí Minh~
Dịch:
Trong lao vẳng khúc nhạc tình quê,
Âm chuyển sầu, thương, điệu tái tê.
Nghìn dặm quan hà, khôn xiết nỗi,
Lên lầu, xa ngóng, khách phòng khuê.
~Huệ Chi~
VỌNG NGUYỆT
Ngục trung vô tửu diệc vô hoa,
Đối thử lương tiêu nại nhược hà.
Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt,
Nguyệt tòng song khích khán thi gia.
~Hồ Chí Minh~
Dịch:
Ngắm trăng
Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ
~Nam Trân~
NGUYÊN TIÊU*
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên
Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.
~Hồ Chí Minh~
Dịch:
Rằm tháng giêng
Rằm xuân lồng lộng trăng soi
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân
Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.
~Xuân-Thủy~
ĐỀ ĐỀN KIẾP BẠC
NƠI THỜ ĐỨC THÁNH TRẦN
Bác anh hùng, tôi cũng anh hùng
Tôi, bác cùng chung nghiệp kiếm cung
Bác diệt quân Nguyên thanh kiếm bạc
Tôi trừ giặc Pháp ngọn cờ hồng
Bác đưa một nước qua nô lệ
Tôi dắt năm châu đến đại đồng
Bác có linh thiêng cười một tiếng
Mừng tôi kách mệnh sắp thành công.
~Nhà kách mệnh Ái Quốc Hồ-Chí-Minh Nguyễn-Tất-Thành~
HOÀNG VĂN THỤ
1906-1944
Người dân tộc Tày, quê Nhân-Lý, Văn-Uyên,
Lạng-Sơn, làm Cách Mạng, gầy dựng được nhiều
Cơ sở Đảng ở Long-Châu, Cao-Bằng, Lạng-Sơn,
Ủy viên ban Thường vụ Trung ương Đảng, bị Pháp
bắt câm tù, ông còn để lại bài thơ:
Việc nước xưa nay có bại thành;
Miễn sao giữ trọn được thanh danh.
Phục thù chí lớn không hề nản,
Ngọc nát còn hơn giữ ngói lành.
Thân dẫu lao tù lâm cảnh hiểm,
Chí còn theo dõi buổi tung hoành.
Bạn hỡi gần xa hăng chiến đấu,
Trước sau xin giữ tấm lòng thành”.
~Hoàng-Văn-Thụ~
XUÂN THỦY
1912-1987
Quê Hà-Tây
NGÔI NHÀ KHÁNG CHIẾN
Mái nứa thanh thanh mấy nếp nhà
Cây xanh phủ kín lối vào ra
Trong veo con suối từ đâu lại
Đám cải chân đồi loáng thoáng hoa.
Lưa thưa vách nứa, giường phên nứa
Bàn nứa mong manh, ghế nứa gài
Người đứng người ngồi say thảo luận
Vù vù gió bấc mặc bên tai.
Trời nắng trời mưa chi sá kể
Tay dao tay cuốc phạt rừng quang
Vườn rau bãi bóng ngày thêm rộng
Dưới núi dừng chân, tiếng hát vang.
Tinh tươm cơm nước dọn ra bàn
Trời lạnh sao lòng thấy ấm ran
Đĩa muối, bát canh, thêm quả ớt
Hơi cơm nghi ngút, chuyện giòn tan!
~Xuân-Thủy~
Việt Bắc,1949
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.12.2012 10:24:02 bởi Anh Nguyên >
HỮU LOAN
1916-2010 Mai-Linh, Nga-Sơn, Thanh-Hóa
MẦU TÍM HOA SIM
Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những đứa em nàng, có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh,
Tôi: người chiến binh, xa gia đình,
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo cưới,
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giầy đinh bết bùn đất hành quân.
Nàng cười xinh xinh, bên anh chồng độc đáo.
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi.
Từ chiến trường xa, nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến chinh
Mấy người đi trở lại?
Lỡ khi mình không về
Thì thương người vợ chờ, bé bỏng chiều quê!
Nhưng không chết người trai khói lửa
Mà chết người em gái nhỏ hậu phương.
Tôi về không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối.
Chiếc bình hoa ngày cưới
Thành bình hương tàn lạnh vây quanh.
Tóc nàng xanh xanh, ngắn chưa đày búi.
Em ơi, giây phút cuối,
Không được nghe em nói,
Không được trông thấy nhau một lần...
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím,
Áo nàng màu tím hoa sim.
Ngày xưa, một mình, bóng nhỏ,
Nàng vá cho chồng tấm áo ngày xưa!
Một chiều rừng mưa
Ba người anh, từ chiến trường Đông Bắc
Biết tin em gái mất
Trước tin em lấy chồng.
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ ngỡ ngàng trông ảnh chị
Khi gió sớm thu về, cỏ vàng chân mộ chí...
Chiều hành quân qua những đồi sim,
Những đồi hoa sim, những đồi hoa sim
Màu tím hoa sim...tím cả chiều hoang biền biệt
Nhìn áo rách vai, tôi hát trong mầu hoa:
- Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chết sớm, mẹ già chưa khâu!
~Hữu-Loan~
TÌNH THỦ ĐÔ
Việt Bắc âm u
Đường dài Thanh Nghệ
Người Thủ đô tản cư
Đoàn xe đi
Chở nặng tâm tư
Một góc nhà
Một hè phố
Mắt em biếc
Một chiều xưa
Quan Thánh
Cổ Ngư
Bạch Mai
Bóng liễu Tháp Rùa
Một thằng bạn
Một thằng con
ở lại
*
Khấp khểnh xe đi
Vấp vào đêm tối
Thủ đô
Ngày mùa thu
Thủ đô
Cờ bốc lửa
phố dài
Cờ bốc lửa
công trường Nhà Hát lớn.
Thủ đô
Ngày Tổng Khởi Nghĩa
Ngày Thủ đô chờ đón
Đoàn Giải phóng quân về
Qua cầu Long Biên
Sông bóng người đi
Vai cao rộng
Mặc núi rừng Việt Bắc
Ai về Thủ đô
Khăn thầm nước mắt
Quốc ca mình
Đoàn lính Việt đầu tiên
- Có người làng đi
Trong đoàn lính trẻ.
Thủ đô
Tuần Lễ Vàng
Hà Nội dãy dọc toà ngang
Quên giai cấp
Trong căm thù dân tộc
Thủ đô
Ngày Tuyên Ngôn Độc Lập
Thủ đô
Ngày Tổng Tuyển Cử đầu tiên
Những ngày Thủ đô
Như ộc máu triền miên
Máu những người Tây giết
Chảy về từ lịch sử
Tiếng hát
Vùng lên
Xích xiềng rơi vỡ.
Thủ đô
Ngày Tàu trắng
Quốc dân đảng
Và thực dân
Nghênh ngang phố chật
Bắt cóc
Tống tiền
Khiêu khích
Bắn người
Đám ma đi
Cờ đỏ phủ quan tài
Phố Ôn Như Hầu
Những người bị giết
Xác quăng đầy hố
Đoàn Giải phóng quân đi
Như gại dao trên đường nhựa.
Thủ đô
Quân lệnh đêm
Lựu đạn đen ngòm trong nắm tay
Rình sau mái ngói
Nắng loé tường vôi
Chữ cào xương nhức nhối:
THANH NIÊN SỐNG CHẾT VỚI THỦ ĐÔ!
Mắt em thiếu nhi
Hồ trăng Trung Thu:
Các anh hãy giữ non sông
Cho chúng em!
Bàn tay lớn
Nhận lòng tin bé nhỏ.
Cụ Hồ hỏi anh em bộ đội:
- Các chú liệu giữ được Thủ đô
Bảy ngày?
Một rừng nắm tay
Thét tiếng:
- Thề với Bác!
*
Lửa cháy Thủ đô
Chân trời hấp hối
Xác thằng bạn
Xác thằng con
Trên hè phố Thủ đô
Giặc khởi hấn rồi!
Đường tản cư khuya
Lửa toé sắt bánh xe bò
Một Quyết tử quân hy sinh
Là một đoàn giặc chết
Một Quyết tử quân hy sinh
Và bắt đầu từ đó
Những ngày đêm Thủ đô
Tàn sát
Khu Đồng Xuân
Lính Trung đoàn Thủ Đô
Đâm giặc trên bàn thịt
Như chọc tiết bò
Đuổi giặc
Vật lăn trên nóc chợ
Hai tháng giết nhau
Một đêm thủ đô
Có đoàn Quyết tử
Cắt máu tay ăn thề
Ngõ vắng Thủ đô
Những đơn vị rút đi
Góc phố Thủ đô
Bóng những người ở lại
ánh hoàng hôn lên
Liệm tròn huyết thệ
Người Quyết tử quân
cuối cùng.
*
Những người dân Thủ đô
Về với giặc ở chung
Phải đốt cờ đỏ sao vàng
Thức đêm may cờ ba sắc
Và những sớm mai
Tay xót xa
Đem treo cờ giặc trước nhà
Ai về Hà Nội
Thấy Hà Nội xa hoa
Thấy hà-nội hơn Hà Nội trước
Nhưng Hà Nội
Giặc xây thêm ngục tù
Xe Phòng Nhì
Chở từ ngoại ô
Từng đoàn người xiềng tay
Về qua phố tối.
Ai về Hà Nội
Thấy Hà Nội xa hoa
Thấy hà-nội hơn Hà Nội trước
Nhưng Hà Nội Ngã-Tư-Sở
Hà Nội Khâm-Thiên
Đèn khuya chảy vàng
Những hộp đêm
Mọc theo tiếng giày đinh
Của đoàn Tây mũ đỏ
Tiếng xe tăng viễn chinh
Chiều đi bụi phố
Và giữa trưa Hà Nội yên lành
Hồi còi rú thất thanh
Kêu như người tắc họng
Một xác Việt gian
Ngã tư
nắng đọng
Lũ lượt kéo nhau về Hà Nội
Từng đoàn thiêu thân
Mang trong mình định mệnh
Mủ đờm nhớt lạnh
Và uế khí hôi tanh
Sợ ánh sáng và gió lành
Tôi thành thép
Cánh tay người Kháng Chiến
Từ vùng tự do
Có người vào nội thành
Ném chứng thư Việt Minh
Trên dòng sông
Chào thằng bạn chiến khu
Mà phục tấm lòng.
Đêm Thủ đô
Rét đến
Trong chăn bông
Nghe lạnh chiến khu Vũ
Cơm gia đình
Đũa bát nhớ người đi.
Và những sớm mai
Từng đoàn phi cơ giặc
Chở tóc tang đầy trong thân sắt
Ra những miền quê xanh
Tiếng bom dội về
Chuyển Hà Nội mênh mông
Tìm người Hà Nội
Rung lên như đất chuyển
- Những người Thủ đô tản cư
- Những đồng bào kháng chiến.
Những em mùa thu
Đi trong đoàn thiếu nhi
Lớn lên
Tìm đường chiến khu Việt Bắc.
Những người ngày xưa
Ghét Việt Minh
Bắt đầu chờ đợi
Bao giờ Việt Minh
Mới đánh vào Hà Nội
Cho ánh sáng xa hoa
Vỡ rơi thành bóng tối
Trên xác người máu me
Ngổn ngang gạch ngói?
Đến bao giờ Việt Minh
Mới đánh vào Hà Nội?
Những người bắt sống Le Page
và Charton
Những chiến sĩ Cao Bằng - Đông Khê
Những binh đoàn biên giới
Đang chuyển về Trung Du
Như đi từng dãy núi
Kẹp vòng quanh ngoại vi Thủ đô.
Mắt vời xa
Cô gái Hà Nội tản cư
Đẹp trong màu áo vải quê mùa
Sẽ còn những ai
Trong đoàn quân trở lại
Ngày thủ đô chiến thắng tưng bừng?
*
Em về Thủ đô
Chân phố cũ
Ngập ngừng.
~Hữu-Loan~
Khoảng cuối 1950 đầu 1951
(Dương Tường & Mạc Lân ghi lại theo
trí nhớ. Tác giả Hữu Loan đã xem lại)
ĐÈO CẢ
Đèo Cả!
Đèo Cả!
Núi cao ngút!
Mây trời Ai Lao sầu đại dương
Dặm về heo hút
Đá Bia mù sương
Bên quán "Hồng quân" người ngựa mỏi
Nhìn dốc ngồi than thương ai lên đường
Chầy ngày lạc giữa núi
Sau chân lối vàng xanh tuôn
Dưới cây bên suối độc
Cheo leo chòi canh như biên cương
Tóc râu trùm vai rộng
Không nhận ra người làng
Ngày thâu vượn hú
Đêm canh gặp hùm lang thang
Rau khe cơm vắt
Áo phai màu chiến trường
Gian nguy lòng không nhạt
Căm thù trăm năm xa
Máu thiêng sôi dào dạt
Từ nguồn thiêng ông cha
"Cần xây chiến lũy ngất
Đây hình hài niên hoa
- Xâm lăng!
Xâm lăng!
Súng them gươm khát..."
Ai ngân lung lay đêm quê nhà
Nhớ lần thăm Đèo Cả
Hậu phương từ rất xa
Ăn với nhau bữa heo rừng công thui chấm muối
Trên sạp cây rừng
Ngủ chung nửa tối
Biệt nhau đèo heo canh gà
Râu ngược chào nhau bên dốc núi.
Giặc từ vũng Rô bắn tới
Giặc từ trong tràn ra
Nhưng Đèo Cả vẫn đứng vững
Đèo Cả Nam máu giặc mấy.lần nắng khô
Sau mỗi lần thắng
Những người trấn Đèo Cả
Về bên suối đánh cờ
Người hái cam rừng ăn nheo mắt
Người vá áo thiếu kim mài sắt
Người đập mảnh chai vểnh cằm cạo râu
Suối mang bóng người soi những về đâu?
~Hữu-Loan~
HOA LÚA
Em là con gái đồng xanh
Tóc dài vương hoa lúa
Đôi mắt em mang chân trời quê cũ
Giếng ngọt, cây đa
Anh khát tình quê ta trong mắt em thăm thẳm
Nhạc quê hương say đắm
Trong lời em từng lời
Tiếng quê hương muôn đời và tiếng em là một
Em ca giữa đồng xanh bát ngát
Anh nghe quê ta sống lại hội mùa
Có vật trụi, đánh đu, kéo hẹ, đánh cờ
Có dân ca quan họ
Trai thôn Thượng, gái thôn Đoài hai bên gặp gỡ
Cầm tay trao một miếng trầu
Yêu nhau cởi áo cho nhau
Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay
Quê hương ta núi ngất, sông đầy
Bát ngát làng tre, ruộng lúa
Em gái quê hương mang hình ảnh quê hương
Xa em năm nhớ, gần em mười thương
Còn bàn tay em còn quê hương mãi
Em mang nguồn ân ái
Căng ngực trẻ hai mươi và trong mắt biếc nhìn anh
Em gái quê si tình
Chưa bao giờ được yêu đương trọn vẹn...
Anh yêu em muôn vàn như quê ta bất diệt
Quê hương ta ơi từ nay càng đẹp
Tình yêu ta ơi từ nay càng sâu
Ta đi đầu sát bên đầu
Mắt em thăm thẳm đựng màu quê hương.
~Hữu-Loan~
THÂM-TÂM
1917-1950
Tức Nguyễn Tuấn Trình, sinh tại Hải Dương, tỉn. Năm 1938, lên Hà Nội sống bằng nghề vẽ tranh và bắt đầu làm thơ. Viết cho "Tiểu thuyết thứ bảy" của Vũ đình Long. Thơ làm theo dạng "Hành" - một lối thơ cổ lai của nhà thơ Trung Quốc gồm : ''Can trường hành'', ''Vọng nhân hành'', và nổi bật là "Tống biệt hành" . Ngoài ra có ''Tráng ca''. CHIỀU MƯA ĐƯỜNG SỐ 5
Chiều mưa đồng rạ trắng Đất tề sông quạnh vắng Ngồi kín dưới nhà gianh Nghe gió lùa ắng lặng Chiều mưa đường số 5 Đôi mắt sao đăm đăm Chứa cả trời mây nặng Miền Việt Bắc xa xăm? Ôi núi rừng thương nhớ Rét mướt đã hai năm! Chiều mưa ngàn hoa nở Hoa phới bay mùa xuân Bếp sàn gây ngọn lửa Chén trà ngát tình dân Chiều mưa lùa các cửa Ngày bộ đội hành quân Mẹ già không nói nữa Nước mắt nhìn rân rân... Ôi đâu rồi sơn nhân Đâu rồi anh du kích Chiều mưa manh áo rách Vác súng vượt lên đèo Giao thông qua mũi địch Đâu rồi “nhình” với “a” Tiếng cười reo khúc khích Đón chiến sĩ quay về Sau trận đi phục kích Chiều mưa giã gạo mau Chầy tập đoàn thình thịch Ôi núi rừng thẳm sâu Trung đội cũ về đâu Biết chăng chiều mưa mau Nơi đây chăn giá ngắt Nhớ cái rét ban đầu Thắm mối tình Việt Bắc ~Thâm-Tâm~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.12.2012 10:31:28 bởi Anh Nguyên >
ANH- THƠ
1918-2005
Sinh tại Ninh Giang, Hải-Dương.
Cha là công chứcđây đó, thay đổi
3 trường mà chưa xong Tiểu học.
Rất thích văn chương, làm thơ từ
nhỏ.
TÔI ĐÓN TIN VUI HÀ BẮC
Tôi đón tin vui Hà-bắc
GIữa trời Hà- nội trăng tròn.
Con số trăm linh hai biết mấy yêu thương.
Tôi thầm để lòng tôi lắng đượm.
Quê hương! Những đồng bằng sông Đuống
Mùa về năm tấn cầm tay
Nhrmg đồi sỏi Hiệp-hòa đã khoác xanh cây!
Những mương máng Bạch đằng hắn dang dậy sóng
Khoai Trung-hòa đã đi từng luống rộng.
Ruộng chia bờ thửa, bờ vùng.
Mía ngọt An-châu.
Quýt đỏ sông Thương
Con số hơn trăm tô ngời rực rỡ.
Tôi bâng khuâng thầm nhủ
Bàn tay cầm bút? Cầm cày?
Của những chàng trai Yên-thế
Những cô gái cầu Lim? Nội-duệ?
Tóc Bạch-đầu quân sáng ngọn Ninh-sơn.
Trung-đội Bão-đài trên đỉnh thượng nguồn.
Những bàn tay ba đời giết giặc.
Những bàn tay làm nên nước bạc, cơm vàng.
Nay hạ máy hay thù hơn trăm chiếc.
Con gái nhớ thương ơi! mẹ biết.
Hôm nay con cắp sách đến trường.
Bím tóc ngoắt tin vui.
Có bàn tay con múa
Có bàn tay con tô đậm chữ.
“Quê ta giết giặc hơn trăm!’’
Con về sơ tán hai năm
Quê hương nuôi lớn
Mẹ muốn hôn con
Khuôn mặt nhỏ hồng hơn hớn
Một trăm linh hai chiếc hôn mừng
Xa Hà-nội - Về con đã góp chiến công chung.
Hà-nội đêm 17 tháng 10 năm 1967
Kỷ niệm ngày Hà-bắc bắn rơi
chiếc máy bay thứ 102
Anh-Thơ
CON ĐÃ VỀ NƠI BÁC Ở NGÀY XƯA
I
Con đã về nơi Bác ở ngày xưa
Đường biên giới rậm dài đá dốc.
Nơi Bác hôn nắm đất giữa nương ngô.
Ôi! nắm đất về với tay “Người’’ dựng nước.
Giữa rừng núi còn dấu chân giặc cướp.
Láng ẩn cheo leo, rải rác hốc thông già.
Đỏ bấu ngâm đầy cho dòng suối trôi qua
Suối rửa miếng ăn người dân đói khổ.
Bác về, mời cụ “Các Mác’’ về, trên núi đá
Trong cả lòng hang, Bác tạc tượng người.
Như tạc niềm tin cho con cháu đời đời
Từ thẳm rừng sâu ngời lên chủ nghĩa.
Noọng gái nào năm xưa gạt lệ
Địu chăn về, lo hang gió mông mênh.
Noọng đâu biết: trời tháng tám từ dây xóa mù
mới hé
Và cũng tự nơi đây ươm sắc nắng Ba Đình.
Dòng suối âm u hồng dậy ánh bình minh.
Mang tình cảm Lê-nin tràn đất nước.
Dòng suối từ ba mươi năm trước.
Từng đau gót chân thường, qua, lại đôi bờ.
Đàn cá về độp hạt cơm ngô.
Bơi hớp cả lời thơ cảm khái.
Ta mượn gương xanh lắng lại
Buổi chiều nào râu Bác trắng ưu tư?
Để đến hôm nay thủy điện ngợp bờ.
Khắp nẻo rừng cao trào ra ánh sáng.
II
Bàn đá chông chênh còn ngồi coi sử Đảng
Chim rừng ơi, ngươi có lắng nghe?
Khắp bốn phương bí mật những ai về?
Theo tay Bác viết thêm trang sử.
Những làn rêu không phủ chân quá khứ
Mà trải nhung vàng chào đón bước tương lai.
Ghé đá còn đây hơi ấm Bác ngồi
Với những anh hùng ngàn xưa cứu nước.
Cây ngót rừng còn nhớ tay người phát
Ngọn cằn rơi, cho mầm nẩy mỡ màng
Rặng trúc thanh cao vươn thẳng lên ngàn.
Cây đứng nương cây mặc cơn bão táp.
Ô cải xoong cho suối thêm tươi mát
Sắn xanh nương trùm cỏ dại, lau hoang.
Lá ổi mỗi ngày thay cánh chè thơm.
May mạ xum xuê che mù mắt giặc.
Những hàng cây đầu tiên cho “Tổ quốc’’
Từ nắm đất Bác mang về chăm bón gốc yêu thương.
III
Cháu gái nào mang bóng dáng quê hương?
Vương thi Hú, leo đèo, lội suối.
Gói cơm ngô, ống canh gừng nóng hổi:
“Ông Ké à.,đừng bỏ bữa rau măng!’’
Những bữa nghèo san sẻ, kính dâng.
Nào đâu biết mình nuôi cách mạng!
Người gái Nùng quen khâu giầy, tìm bột báng.
Được Bác đặt tên mang sắc sen vàng.
Hòm thư cao lăn đá níu, víu dây sang
Ghét đế quốc nên không chờn con rắn
Nông thị Bảy vượt ngục, bỏ nhà đi từ buổi sáng
Làm cháu già Thu, được học mỗi ngày.
Mang nặng thù chồng, lòng chị có hay
Được Bác luyện rên nối dòng Trưng nữ.
Và khi Hoàng thị Nga bụng từng đỉnh rú
Leo giữa mây mù nhịn đói, tìm dân.
Chị đâu biết giữa muôn ngàn, gian khổ
Như cô gái Nga xưa, nhớ Bác vững tinh thần.
Rồi những cô Hoa, cô Đào, từ Pắc-Pó
Giắt súng võ trang giải-phóng từng miền
Đến em lái xúc quặng tìm vàng trên mỏ.
Cô chủ tịch vùng cao, chị chánh án tòa trên.
Tất cả người gái Tày, Nùng đảm đang hậu tuyến
Còn nhớ ngày xưa không biết làm người.
Góc núi đầu nguồn cuộc đời sâu kiến.
Từ cụ Ké về, như hoa nở rừng tươi.
IV
Ngoài tiền phương, anh Giải phóng chưa nguôi
Mối thù bản năm nào trên địu mẹ
Vượt biên giới, tránh Tây càn, khóc ré
Không áo quần sưởi lá, ủ than tro.
Đầu lở, thân lem ra đón Bác Hồ.
Ai biết tấm lòng “Người’’ đau xót
Bàn tay già rửa từng mụn trốc
Đun từng thuyền nước nóng tắm yêu thương.
Giữa những ngày đói rét, tha phương.
Rau má nhai khô, đau hàng răng yếu.
Dân thương ông Ké, làm riêng bát cháo.
Bát cháo trứng thơm, lành, Bác nuốt sao trôi?
Tay nâng lên, nhường bà cụ tám mươi.
Công cuộc sống gần trăm tuất khổ
Ôi những giọt nước mắt già, nóng nhỏ.
Cho cháu con căm uất đuổi xâm lăng.
Bác Hồ ơi, đã mấy mươi năm.
Từ nắm đất Bác đem về dựng nước.
Rừng Pắc-Pó uy nghiêm đài Các Mác
Suối Lê-nin trong vắt, xanh nguồn.
Con đã về đây, đi giữa lúa vàng thơm
Lòng nhớ Bác như nương đồng ơn nước.
Ôi, nếu được trở về ngày tháng trước.
Bác lại về như Bụt hiện giữa rừng cây.
Mùa cốm lên hương, vang đất nước nhịp chày.
Anh-Thơ
Hà Nội, tháng 9 năm 1969
DƯỚI BÓNG Ô-LIU
Tôi đã nghe...
Tiếng vó ngựa của Scăng-đéc-béc còn vang từng mây ở Cơ-rui-da.
Vang trên thung lũng Ti-ra-na.
Vang trên ngọn rừng ô-liu lá bạc.
Vang trên những đồi nho bát ngát.
Tiếng vó ngựa đi đạp xác quân thù
Từ năm thế kỷ xa xưa
Trong lòng bạn tự hào biết mấy!
Người bạn An-ba-ni ơi!
Tôi đến đây
Gặp rất nhiều đài liệt sĩ
Gặp những bà mẹ gầy thương nhớ chồng con.
Gặp những em bé gái giống con tôi, xách giỏ đi chợ
Sỏi đá hãy còn
Đồi trọc chưa phủ xanh cây
Nhưng điện đã về tận rừng sâu hẻo lánh.
Ruộng không còn bờ
Nước đang leo núi.
Nhà năm tầng, bảy tầng
Mang cửa kính mặt trời sáng chói.
Cuộc sống bạn đang lên
Xe ủi đất bật tung núi đá
Rừng ô-liu. tiếp rừng nho xanh lá.
Những nhà máy tự động, tối tân.
Những đồng lầy xưa, nay ngập lúa mì vàng
Người phụ nữ đã rứt khăn chàng mạng
Đeo súng theo cách mạng.
Lưới búa chim giơ cao
Tự hào
Lao động như nam giới.
Những cụ già đi giày mới
Vui vì cỏ nước tự do
Đất nước tuy còn cảnh giác bóng thù
Cánh Đại bàng bay vút.
Việt- nam chúng tôi ở rất xa.
Nhung rất gần bạn hôm nay
Trong chiến hào từng trong nước trái vả.
Bạn gửi sang từng cốc ngọt đầy.
Cám ơn tình bạn thân yêu
Dưới bóng ô-liu
Tôi đã nghe mối tình đoàn kết
Từ Scăng-đéc-béc
Chúng ta tay nắm chặt tay
Là quân thù phải chết!
An-ba-ni, những ngày tháng 5-1970
Anh-Thơ
HAI NHĂM NĂM...
Gần năm mươi năm, tôi vẫn tuổi hai nhăm.
Bởi chỉ mới hai nhăm năm là tôi được sống.
Có nước mà yêu: núi cao, biển rộng.
Có Đảng, Bác Hồ chỉ lối đi lên
Ôi! cái ngày ta được nắm chính quyền
Bụng đói lả, mà cuộc đời no hạnh phúc.
Anh yêu ơi! khi đọc trang thơ em nóng rực
Có lửa căm thù, có tiếng tình yêu.
Hai nhăm năm, không phải giấc chiêm bao.
Ta dựng lại đời ta, trên hai lần giặc phá.
Nhà Hạnh-phúc vẫn khói cơm thơm tỏa.
Con gái ta lại cắp sách tới trường xưa.
Những dòng sông, cầu lại nối đôi bờ.
Xe rầm rập ngày đêm vận chuyển
Dồn sức của, sức người ra trên tuyến
Trận cuối cùng, ta biết sức riêng ta.
Tôi muốn nói cùng các bạn bè xa
Từ người con gái anh hùng Xô-viết.
Trên giường bệnh ôm trái tim da diết
Bút giấy bên mình, lo viết cho Việt-nam
Đến người con trắng giải băng tang.
Thương nhớ Bác từ phương trời Thụy điền
Hẳn hôm nay các chị càng xao xuyến.
Với những lời vẫn trang sách sáng ngời.
Đã góp phần chiến thắng cho quê tôi.
Hai nhăm năm Bác kính yêu ơi!
Nói sao hết lời chúng con ơn nhớ Bác.
Hôm nay bao bốt đồn đổ sập
Bao quân thù ngã gục ở miền Nam.
Những đứa con tuổi chẵn hai nhăm
Càng lớn mạnh với sức vươn cường tráng
Ở nơi xa, hẳn Bác vui, vì chúng con đang chiến thắng.
Hà Nội –Thái Bình
Những ngày đầu tháng 8-1970
Anh-Thơ
Ở VƯỜN THỰC VẬT CLOUJ
TÔI MUỐN NÓI...
Tôi đến Clouj
Những ngọn dồi bao quanh thành phố
Những nhà thờ cò
Thấp chuông nhọn hoắt trời xanh.
Từng từng cửa nắng long lanh...
Những mắt người xinh gặp gỡ.
Tất cả... và tất cả...:
Đều làm tôi yêu mến thân tình.
Nhưng làm cho lòng tôi xao xuyến.
bâng khuâng..
Trong nhà kính, rèm xanh mát rợi.
Tôi đến đây, lại gặp những cỏ hoa miền nhiệt đới :
Khóm chuối la đà, bên gốc cọ, lá tròn xoe.
Hoa súng tím hồng, dưới những bóng tre.
Cả những lẵng phong lan lá rủ.
Cám ơn bàn tay ai nâng niu, gìn giữ.
Sự sống tươi hồng từ đất nước tôi xa.
Tàu chuối kia, hẳn các bạn không ngờ
Từng đã ngụy trang ụ pháo.
Và lá cọ che giao thông hào chiến dấu.
Hoa súng này, cô gái dân quân
Đã tặng thương binh với cả trái tim mình.
Tôi muốn nôi với những cặp tình nhân tha thiết
Những nghệ sĩ dâng cả cuộc đời cho cái đẹp.
Những mẹ già dắt cháu tung tăng :
Các bạn đang đi trong bóng mát hòa bình.
Hẳn các bạn phải căm thù lũ giặc.
Nếu chúng đến đây làm cỏ hoa tan nát!
Các bạn ơi, giặc Mỹ đem bom hóa học, lân-tinh
Hoa cỏ trước tôi tuy cô hy sinh
Nhưng chúng không giết được sắc hồng.
xanh thắm.
Và khóm chuối, bóng tre, vẫn đến đây với cả
màu tươi hoa súng.
Clouj, 20-4-1970
Anh-Thơ
NGUYỄN-ĐỨC-GIỚI
1919-1950 Quê Hoằng-Hóa, Thanh-Hóa, làm thợ điện, tham
gia tổ chức bí mật ở HN, bị bắt, vượt ngục, tham gia
Hội văn hóa cứu quốc, bị máy bay Pháp oanh tạc,
mất mới 31 tuổi. LÊN CẤM SƠN Tôi lên vùng Cấm Sơn
Đi tìm thăm bộ đội
Đây bốn bề núi, núi
Heo hút vắng tăm người
Đèo cao rồi lũng hẹp
Dăm túp lều chơi vơi
Bộ đội đóng ở đó
Cách xa hẳn cuộc đời
Ngày ngày ngóng đợi tin xuôi ngược
Chỉ thấy mây xanh bát ngát trời
Họ đã từng dự trận
Từ Tiên Yên, Đầm Hà
Về An Châu, Biển Động
Thấm thoắt hai năm qua
Cuộc đời gió bụi pha xương máu
Đói rét bao lần xé thịt da
Khuôn mặt đã lên màu tật bệnh
Đâu còn tươi nữa những ngày hoa!
Lòng tôi xao xuyến tình thương xót
Muốn viết bài thơ thấm lệ nhoà
Tặng những anh tôi từng rỏ máu
Đem thân xơ xác giữ sơn hà
Quây quần bên nến trám
Chúng tôi ngồi hàn huyên
Bao giờ vinh nhục
Bao nhiêu phút ưu phiền
Của đời người chiến sĩ
Đêm thâu kể triền miên:
"Có khi gạo hết tiền vơi
Ổi xanh hái xuống đành xơi no lòng
Có đêm gió bấc lạnh lùng
Áo quần rách nát lá dùng che thân
Khó khăn đau ốm muôn phần
Lấy đâu đủ thuốc mặc dần bệnh nguôi
Có phen chạy giặc tơi bời
Rừng sâu đói rét, không người hỏi han".
Đến nay họ về đây
Giữ vững miền núi Cấm
Thổ phỉ quét xong rồi
Đồn Tây xa chục dặm
Kiến thiết lại bản xóm
Bị giặc đốt tan tành
Trên nền tro đen kịt
Vàng hoe màu mái gianh
Họ đi tìm dân chúng
Lẩn trốn trong rừng xanh
Về làm ăn cày cấy
Tiếp tục đời yên lành
Tiếng hát lừng vang trong gió núi
Ngày vàng ngân giọng trẻ ê a
Ở đây bản vắng rừng u tối
Bộ đội mang gieo ánh chói loà
Ở đây đường ngập bùn phân cũ
Xẻng cuốc khua vang điệu dựng nhà
Ở đây những mặt buồn như đất
Bộ đội cười lên tươi như hoa.
Họ vẫn gầy, vẫn ốm
Mắt vẫn lõm, da vàng
Áo chăn chưa đủ ấm
Ăn uống vẫn tồi tàn
Nhưng vẫn vui vẫn nhộn
Pháo cười luôn nổ ran
Lòng tôi bừng thức tình trai mạnh
Muốn viết bài thơ nhộn tiếng cười
Tặng những anh tôi trong lửa đạn
Qua nghìn gian khổ vẫn vui tươi.
~Nguyễn-Đức-Giới~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 15.12.2010 20:10:16 bởi Anh Nguyên >
HUY-CẬN
1919-2005
Ân-Phú, Hưng-Sơn, Hà-Tĩnh. Kỹ sư canh nông
Thứ trưởng, Bộ trưởng Văn hóa, Văn nghệ
GỬI BẠN NGƯỜI NGHỆ TĨNH
Ai ơi, cà xứ Nghệ
Càng mặn lại càng giòn
Nước chè xanh xứ Nghệ
Càng chát lại càng ngon
Khoai lang vàng xứ Nghệ
Càng nhai kĩ càng bùi
Cam Xã Đoài xứ Nghệ
Càng chín lại càng tươi.
Ông đồ xưa xứ Nghệ
Càng dạy, chữ càng nhiều
Tính tình người xứ Nghệ
Càng biết lại càng yêu.
Ai đi vô nơi đây
Xin dừng chân xứ Nghệ
Ai đi ra nơi này
Xin dừng chân xứ Nghệ
Nghe câu vè ví dặm
Càng lắng lại càng sâu
Như sông La chảy chậm
Đọng bao thuở vui sầu
Ăn, xứ Nghệ ăn đặm
Đã nói, nói hết lòng
Đất này bền nghĩa bạn
Đất này tình thuỷ chung.
Đất này mẹ dạy con
Yêu anh hùng nghĩa khí
Giữ lòng đỏ như son
Nuôi thù sâu tựa bể.
Đất này đất Xô-viết
Đảng mở hội cờ hồng
Tự tuổi vàng đá biết
Mặn mãi tình công nông.
Tình xứ Nghệ không mau
Nhưng bén rồi sâu lắng
Quen xứ Nghệ quen lâu
Càng tình sâu nghĩa nặng.
Ôi xứ Nghệ, xứ Nghệ
Đất cổ nước non nhà
Đã trăm, nghìn thế hệ
Vẫn ưa nhút, ưa cà.
Dân thời đại Bác Hồ
Sống xã hội chủ nghĩa
Vẫn dáng dấp ông đồ
Hay chữ lại hay nghĩa
Ôi tâm hồn xứ Nghệ
Trong hồn Việt Nam ta
Có gì tự ông cha
Rất xưa mà rất trẻ
Giống như Bác của ta
Một con người xứ Nghệ
Một con người xứ Nghệ.
~Huy-Cận~
Nghệ Tĩnh, 10-1967
TỔ QUỐC
(Tâm sự yêu nước của kiều bào tại Pháp)
Yêu mến tặng kiều bào ở nước ngoài
Việt Nam ơi! Mẹ nghìn đời yêu dấu
Tên thiêng liêng đau đáu lòng con
Mẹ có biết tâm hồn con chảy máu
Thuở đau thương, mẹ nuốit tủi, nuôi hờn.
Tổ quốc ơi! Bởi vì sao mỗi bước
Chân con đi xa mẹ nhói bàn chân
Cũng ánh sáng, cũng trời mây, gió nước
Xa quê hương sao nhạt nhẽo muôn phần!
Ai có biết làm sao nói được
Lòng tha hương trằn trọc nhớ quê hương
Mắt có ngủ mà hồn ta vẫn thức
Tình non sông da diết máu xương.
Đêm khuya vắng, bỗng nhớ mùi hương bưởi
Ướt ánh trăng thơm suốt mấy canh gà
Cả tuổi nhỏ lại trở về mát rượi
Bóng dừa xanh, hàng tre mượt quê ta.
Những đứa con phải xa rời Tổ Quốc
Mẹ biết chăng, chỉ sống nửa tâm hồn
Một nửa khác gửi với theo sóng nước
Về quê cha đặng giữ thắm lòng son.
Việt Nam ơi! Nuôi đàn con những thuở
Mẹ cắn răng không cho nước mắt trào
Mẹ lấy sức vùng lên trong biển lửa
Mẹ hôm nay sừng sững giữa trời cao.
Vẫn xa nước lòng nay sao rạng rỡ
Lửa quê hương soi ấm tấm lòng con
Bao con mẹ bấy nhiêu hòn máu đỏ
Mẹ lại cho con vẹn cả tâm hồn.
Anh em ơi, bởi vì sao mỗi bước
Chân ta đi ngang dọc khắp trời tây
Không lủi thủi, chẳng ngỡ ngàng như trước
Cái thuở cha, anh lê gót đoạ đày.
Mẹ Việt Nam, mẹ nghìn đời yêu dấu
Ôi quê hương, máu của máu lòng ta
Lòng yêu nước bốn nghìn năm nung nấu
Chia đều con như sữa mẹ cơm cha.
Xa đất nước, vẫn cành xuân phơi phới
Quyết đơm hoa góp mùa rộ quê nhà.
Ánh dương sớm chân trời ta chiếu rọi
Theo đàn con vững gót nẻo đường xa.
~Huy-Cận~
Tuludơ (Pháp), 1969
XEM TRIỂN LÃM TƯỢNG
GỖ NHÂN GIAN
Vui Tết nhớ cha ông
Ta đi xem tượng gỗ
Vàng son sơn có bong
Nét đời còn lồ lộ
Chạm con cua con cá
Chạm đánh vật đua thuyền
Nỗi lòng bác thợ cả
Trăm nhát đục đầy duyên.
Tac voi trận, voi cày
Tạc voi lồng, nổi gió
Nhẹ như mây voi bay:
Vui phập phồng thớ gỗ.
Cảnh nhà ai đánh ghen
Tóc đuôi gà kéo cắt
Nỗi hai vợ khổ chưa!
Gỗ cười hay cáu gắt?
Ai treo buồm giằng cột
Ai lên mái dựng nhà
Đất bằng hay sóng nước
Bền vững thế ông cha.
Chị em tắm hồ sen
Tránh thằng quan dâm đãng
Một chị tay hái liền
Lá sen làm lá chắn.
Quan quân phường cứop bóc
Lợn béo bắt đi rồi
Trẻ sợ không dám khóc
Mẹ than thở kêu trời....
Bà ơi, thúng gánh con
Bán con hay chạy giặc?
Vai dạn lại lưng còng
Gỗ cười ra nứoc mắt.
Cuộc sống cay, đắng, chát
Cũng xen lẫn ngày vui
Khi hội làng múa hát
Gỗ bừng muôn thớ tươi
Đời trăm nỗi bất bình
Cũng lắm điều thú vị
Cất cao tận mái đình*
Trên đầu bọn hào lí
Cha ông xuân đánh Mỹ
Cũng về họp ba gian**
Cuộc đời thêm gân guốc
Nhát đục khắc thời gian.
~Huy-Cận~
---------------------
* Phần lớn những tượng này đều chạm trên
những xà của các đình, cao sát mái.
** Các tượng dân gian được trưng bày trong
ba phòng lớn của Viện Bảo tàng Mĩ thuật.
VỀ THĂM QUÊ XÃ ĐỨC ÂN
Về thăm quê xã Đức Ân
Êm êm đất cát bước lần bãi sông.
Ngô non lá mượt màu nhung
Mía ken san sát, khoai vồng rậm dây.
Trống hồi trường học cấp hai
Đàn em tan lớp như bầy bướm non.
Qua từng ngõ gặp bà con
Biết sau trận lụt hãy còn khó khăn
Nhưng bao công việc làm ăn
Cũng lo thu xếp trong năm cả rồi.
Quen tên nhưng chửa biết người
Các em xúm xít nô cười hỏi han
Cụ già mời bát lạc rang
Lâu năm gặp mặt bàn sang truyện Kiều
Ra về sau núi trăng treo.
Ai còn buộc đó chiều diều tuổi thơ...
~Huy-Cận~
Hà Tĩnh, 1971
QUANG-DŨNG
1921- 1989
Tức Bùi-Đình-Diệm, quê Phượng Trì, Đan-Phượng,
Sơn Tây, vào bộ đội, chiến đấu khắp các chiến trường
bắc bộ, vừa cầm bút vừa cầm súng, từng là đại đội
trưởng trung đoàn Thủ Đô trong kháng chiến chống
Pháp. Sau 1954 sống như là vô danh ở miền Bắc.
ĐÔI MẮT NGƯỜI SƠN TÂY
Em ở thành Sơn chạy giặc về
Tôi từ chinh chiến cũng ra đi
Cách biệt bao ngày quê Bất-Bạt
Chiều xanh không thấy bóng Ba-Vì
Vầng trán em mang trời quê hương
Mắt em dìu dịu buồn Tây phương
Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm
Em đã bao ngày em nhớ thương?
Mẹ tôi em có gặp đâu không
Những xác già nua ngập cánh đồng
Tôi nhớ một thằng em bé nhỏ
Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông
Từ độ thu về hoang bóng giặc
Điêu tàn ôi lại nối điêu tàn
Đất đá ong khô, nhiều suối lệ
Em đã bao ngày lệ chứa chan?
Đôi mắt người Sơn Tây
U ẩn chiều lưu lạc
Buồn viễn xứ không khuây
Tôi gửi niềm nhớ thương
Em mang giùm tôi nhé
Ngày trở lại quê hương
Khúc hoan ca rớm lệ
Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
Về núi Sài Sơn ngó lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn qua phủ Quốc
Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng
Bao giờ tôi gặp em lần nữa
Chắc đã thanh bình rộn tiếng ca
Đã hết sắc mùa chinh chiến cũ
Còn có bao giờ em nhớ ta.
~Quang-Dũng~
ĐÔI BỜ
Thương nhớ ơ hờ, thương nhớ ai?
Sông xa từng lớp lớp mưa dài
Mắt kia em có sầu cô quạnh
Khi chớm heo về một sớm mai
Rét mướt mùa sau chừng sắp ngự
Bên này em có nhớ bên kia
Giăng giăng mưa bụi qua phòng tuyến
Quạnh vắng chiều sông lạnh bến tề
Khói thuốc xanh dòng khơi lối xưa
Đêm đêm sông Đáy lạnh đôi bờ
Thoáng hiện em về trong đáy cốc
Nói cười như chuyện một đêm mơ
Xa quá rồi em người mỗi ngả
Bên này đất nước nhớ thương nhau
Em đi áo mỏng buông hờn tủi
Dòng lệ thơ ngây có dạt dào?
~Quang-Dũng~
TÂY TIẾN*
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu ngươi.
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Doanh trại bừng lên hội đuốc, hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ.
Khèn lên man điệu nàng e ấp,
Nhạc về Viên-Chăn xây hồn thơ.
Người đi Châu-Mộc chiều sương ấy,
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ.
Có nhớ dáng người trên độc mộc,
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà-ội dáng kiều thơm.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Áo bào thay chiếu anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Tây Tiến người đi không hẹn ước,
Đường lên thăm thẳm một chia phôi.
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy,
Hồn về Sầm-Nứa chẳng về xuôi.
~Quang-Dũng~
CỐ QUẬN
Trăng sáng sân vờn đôi bóng cau
Ngồi đây mà gửi nhớ phương nào
Gió mát long lanh vầng Bắc Đẩu
Tiết hè ếch nhái rộn bờ ao.
Ngồi đây năm năm miền ly hương
Quê người đôi gót mỏi tha phương
Có những chiều trăng tròn đỉnh núi
Nhà ai chày gạo giã đêm sương
Tịch mịch sầu vơi bèo râm ran
Chuối vườn khuya lọt ánh trăng tàn
Người ơi quê cũ đèn hoe ngọn
Tóc bạc trông chừng cổng héo hon.
Ngõ trúc quanh quanh sâu bóng lá
Trăng vàng rơi rắc nẻo nào xưa
Ngõ cũ không mong người trở lại
Mà mùi hoa mộc vẫn thơm đưa.
Em ơi, Em ơi đêm dần vơi
Trông về phương ấy ngóng trông người
Trăng có soi qua đầu tóc bạc
Nẻo chừng Cố Quận nhớ thương ời!
Trăng sáng năm năm mùa lại mùa
Hạ này vơi lại nhớ thu xưa
Người đi người đi đường quạnh quạnh
Ngày tháng thương vay kẻ đợi chờ.
~Quang-Dũng~
LÍNH RÂU RIA
Khuya khoắt bờ sông vắng
Lửa hồng quán tản cư
Lính mấy chàng vất vả
Tìm sống một đêm thơ
Một anh gọi cà-phê
Một người kêu thuốc lá
Một anh nhìn sau trước
ỀChị ơi ly rượu nhỏỂ
Rượu nhỏ một ly thôi
Đời lính đã kham rồi
Một ly cho đỏ mặt
Cho lên hương cuộc đời
ỀChị ơi! Cháu ngủ đâu?Ể
Thế rồi bế con chị
Anh lim dim cúi đầu
Cô bé cười chúm chím
Mắt non nhìn như sao
Má hồng như trái mận
Mùa đang độ ngọt ngào
Bàn tay như rễ cây
Bộ râu như bàn chải
Anh hôn con người ta
Anh ôm ghì bé mãi
Cô bé năm tháng trời
Anh tuổi vừa ba mươi
Con anh giờ nơi đâu?
Anh mỉm cười rười rượi
Khi anh về đã xa
Chị dọn hàng đi ngủ
Chép miệng trong hơi chăn
Chị buồn chi không rõ
Khuya khoắt bờ sông vắng
Tiếng súng rền xa xa
Bước chân người rạo rực
Tiếng hát chìm đêm xa
~Quang-Dũng~
Kênh đào, cuối thu đông 1948
QUÁN BÊN ĐƯỜNG
Tôi khách qua đường trưa nắng gắt
Nghỉ nhờ đây quán lệch bốn tường xiêu
Giàn mướp nghèo không hứa hẹn bao nhiêu
Mùa gạo đắt, đường xa trưa khách vắng
Em đắp chăn dày, tóc em trĩu nặng
Tôi mồ hôi ra ngực áo chan chanẨ
Đường tản cư bao suối lạ sương ngàn
Em mê sảng sốt hồng lên má đỏ
Em có một mình nhà hoang vắng quá
Mảnh chăn đào em đắp có hoa thêu
Hàng của em chai lọ xác xơ nghèo
Tôi nhìn lại mảnh quần xưa đã vá
Tôi chợt nhớ chúng ta không nhà cửa
Em tản cư, tôi là khách mười phương
Biệt cố đô cùng nhau từ một thuở
Lòng rưng rưng thương nhau quá dọc đường
Tiền nước trả em rồi trưa nắng gắt
Đường xa xa mờ mờ núi và mây
Hồn khách vương vài qua sợi tóc
Tôi thương mà em đâu có hay...
~Quang-Dũng~
MƯA
Chợt mưa phùn gió lạnh
Càng lạnh cành hoa mơ
Ưất trắng ngàn cánh rụng
Tiếng quân hò thôn xa
Súng cầm nhịp thu đông
Chiều chiều tin chiến sự
Loa vang trên cành đa...
Càng mưa phùn gió lạnh
Càng lạnh cành hoa mơ!
Càng yêu màu trấn thủ
Mờ bạc qua màn mưa
Ôi những bàn chân nhỏ
Từng đau khổ bao giờ!
Ưường tản cư lầy lội
Run run leo cầu tre
Trời mưa giăng màn xám
Mầu thê lương lại về
Hoa mai dầu nở trắng
Người người còn ra đi
.......
Mai mùa xuân xanh tốt
Mùa xuân chẳng lỗi thề...
Trời mưa giăng màn xám
Bởi vì đâu thê lương?
Chăn đơn chiếc khôn ấm,
Già càng đau nhớ thương...
Bao nhiêu vành khăn trắng
Ưằng đẵng tin sa trường...
Trời mưa giăng nước mắt
Sông Tề bến quạnh hiu,
Tin dù qua lén lút
Người sao hết đăm chiêu?
Ngày xuân dầu hứa hẹn
Cỏ hoa biết gì đâu!
Mấy mùa xuân vắng lạnh
Mấy mùa đông tiêu điều
.......
Càng mưa phùn gió lạnh
Càng lạnh cánh hoa mơ
Càng xa xôi nhớ lắm
Những con đường chạy dài,
Những nẻo đường phục kíck
Từ biên giới xa xôi...
Lau cao mờ đợt gió
Cỏ hoang mồ những ai ...
Lả tả trong mưa lạnh
Âm thầm hoa viếng người
Quê hương chừng xa lắc
Thăm mồ mấy cành mai...
Nay mai lại mùa xuân
Từ đầu rừng cuối bể
Qua trùng dương mấy lần
Chúng ta dù cách biệt
Cùng chung một mùa xuân
Cùng chung một thế kỷ
Cùng đau khổ vô ngần...
Quê anh không khăn trắng
Nhưng chắc có mầu tang
Những người con đi vắng
Những mẹ già nhớ thương...
Trời mưa giăng màn xám
Bởi vì đâu thê lương
Hoa cỏ dâng màu trắng
Ười còn đang chiến trường
Trời mưa giăng nước mắt
Mầu thê lương lại về
Hoa mai dầu nở trắng
Người người còn ra đi
...Mai mùa xuân xanh tốt
Mùa xuân chẳng lỗi thề.
~Quang-Dũng~
CHABBI CHABBI
Ngày đầu tiên hoà bình trở lại
Trên đường về quê hương
Tôi đã dừng chân
Bên một nghĩa địa dài
Nơi yên nghỉ
Cả một tiểu đoàn lính giặc
Mồ cao mả thấp ngổn ngang
Trắng loáng những cây chữ thập
Có cái đã xây
Thành nhà mồ vững chắc
Vẽ quốc kỳ nước Pháp
Và đôi dòng chữ tiếc thương
Những nghĩa địa này
Tôi đã gặp trên đường
Rải rác bên những boongke nham nhở
Những bốt đồn hình thùquái gỡ
Nhưng cả quan và lính
Đã không ở trong để mà cố thủ
Dắt nhau nằm hết ra đây
Trên bãi cỏ tìm bình yên bảo đảm
Mỗi người đều để lại tên mình
Như những câu sấm truyền định mệnh
Khắc vào mộ chí đôi dòng
Có cả ngày đi - chức tước - quê hương
Trời mưa thu, mới hôm qua
Ai đã thấy cái buồn nghĩa địa
Khi cỏ nằm trong nước ngập mồ hoang
Cái tiếng ễnh ương
Làm khúc nhạc lữ hành
Nhoi nhóp kêu trên bãi mộ
Lại thêm đầu cỏ may
Phất phơ rung trước gió
Có một nhành cúc dại
Cánh vàng gió lung lay
Trước tấm bia đen
Ghi mấy dòng chữ trắng
"Chabbi Chabbi
Trong tiểu đoàn Âu Phi
Đã hy sinh cho nước Pháp"
Chabbi Chabbi
Tên như một bài thơ rất đẹp
Bằng thứ tiếng nước nào
Chabbi đã nằm dưới mộ
Còn bao giờ về tới quê hương...
Chabbi Chabbi
Tuổi còn xanh, mắt còn tha thiết
Có phải quê ở bờ sông Nin
Hay là nơi trăng sáng
Trên bãi cát dài bóng cây "bao báp"
Trai gái nhảy bamboula
Theo nhịp trống gợi hồn sa mạc
Chabbi Chabbi
Có bao giờ qua biển
Để về với đất trời bên ấy
Hai mươi tuổi trẻ nằm đây
Lòng đất Việt Nam hiền hậu
Thôi những ai bên kia chân trời
Đừng dành góc nhà nhỏ thân yêu
Đừng mong bóng trang phục quân nhân
Hiện về quê cũ
Mang những tấm hình
Những thành phố viễn chinh
Về làm quà cho em nhỏ, họ hàng
Hỡi mẹ nghèo ơi!
Thôi cũng đừng mong
Món tiền lương của Chabbi dành dụm
Đổi bằng xương máu nằm đây
Cho đến bây giờ
Mỗi khi qua một vùng nghĩa địa
Quân thù gửi đất chúng ta
Tôi vẫn hình dung
Bóng dáng Chabbi
Lúc buông súng trả mình về cho đất
Mà không là đất quê anh
Chabbi có bao giờ hiểu nữa
Những người bạn thương anh
Dầu chỉ gặp tên người
Khắc trên mộ chí
Nằm trên đất nước của mình
~Quang-Dũng~
Yên Vì, 1954
MÂY ĐẦU Ô
Mây ở đầu ô mây lang thang
Ôi! Chật làm sao
Góc phố phường
Mây ở đầu ô
Hẹn những chân trời xa lạ
Qua một ngọn cột đèn
Chiều tối lại bừng con mắt đỏ
Cành bàng mái cũ khẳng khiu
Vườn đẹp khi mùa rụng lá
Cành bàng lại mở tàn xanh
Mùa hạ về theo chim sẻ
Nhưng ta có gì
Tự thấy những ngày không tẻ ?
Mây trắng lang thang
Gió đuổi bời bời phố chật
Những lớp người hai mươi tuổi
Ca nước đập vỏ bình toong
Khăn mặt thấm mồ hôi
Bụi đỏ
Bụi vàng
Trung du bóng cọ
Nắng đốt màu da họ
Là nắng triền cao
Tay sém ngấn mặt trời
Là trời công trường xa tít tắp
Áo ngực xanh yếm biển
Bay bay dãi mũ Hải Quân
Những gã hai mươi mùa xuân
Từ đâu thổi vào thành phố ?...
Mây mùa thu
Lọt qua trời hẹp ngõ
Lướt nhanh qua mái ngói ba tầng
Tiếng dương cầm...
Ta theo tiếng nhạc
Bay khỏi mái nhà
Ta mê xanh thẳm
Như cánh chim trời
Thấy
Mình còn sức trẻ
Ơi ! Những bạn tôi
Vào lớp tuổi năm mươi
Mây ở đầu ô
Trời xanh lộng thế...
~Quang-Dũng~
1970
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.01.2011 07:25:48 bởi Anh Nguyên >
HOÀNG-LỘC
1920-1949
Quê Châu-Khê, Ninh-Giang, Hải Dương,
Vào bộ đội, làm phóng viên mặt trận, mất
mới 29 tuồi vì bệnh lao.
VIẾNG BẠN
Hôm qua còn theo anh
Đi ra đường quốc lộ
Hôm nay đã chặt cành
Đắp cho người dưới mộ
Đứa nào bắn anh đó
Súng nào nhằm trúng anh
Khôn thiêng xin chỉ mặt
Gọi tên nó ra anh!
Tên nó là đế quốc
Tên nó là thực dân
Nó là thằng thổ phỉ
Hay là đứa Việt gian?
Khóc anh không nước mắt
Mà lòng đau như thắt
Gọi anh chửa thành lời
Mà hàm răng dính chặt.
Ở đây không gỗ ván
Vùi anh trong tấm chăn.
Của đồng bào Cửa Ngăn
Tặng tôi ngày phân tán.
Mai mốt bên cửa rừng
Anh có nghe súng nổ
Là chúng tôi đang cố
Tiêu diệt kẻ thù chung.
~Hoàng-Lộc~
HOÀNG-CẦM
1922-2010
Tức Bùi-Tằng-Việt, quê Lạc-Thổ (Song-Hồ),
Thuận-Thành, Bắc-Ninh, gia đình nhà Nho, làm
thuốc Đông y, làm thơ từ 8 tuổi, vào quân đội,
hoạt động trong lãnh vực văn hóa , tham gia nhóm
Nhân văn Giai phẩm, viết kịch, thơ, văn và dịch.
ĐÊM LIÊN HOAN
Anh ơi! Đêm nay đầu người nhấp nhô như gợn sóng
Đang trào lên sức sống muôn đời
Niềm vui bát ngát trăng soi
Mảnh trăng úa máu chân trời Việt Nam
Đêm Liên Hoan ! Trời ơi, đêm Liên Hoan!
Đầu người nhấp nhô như sóng bể ngang tàng
Ta muốn thét như vỡ toang lồng ngực
Vì say sưa tình thân thiết Việt Chính Đoàn
- Anh từ phương nào lại?
- Tôi từ đất dấy lên
Anh có nghe ngọn thủy triều Đông Hải
Đang hờn ghen cùng thúc máu triền miên
Thúc máu không tên dội tràn bốn nẻo
Cỏ không gầy, cây không già, hoa không héo
Ngàn năm đất nước vững bền
- Anh từ phương nào lại?
- Tôi từ đất dấy lên
Chúng ta cùng một mẹ hiền
Lúa thơm bầu sữa bông mềm áo tơ
Chúng ta chung một mối thù
Gươm tung uất hận đạn vù đắng cay
- Anh đi từ đâu đến đó?
- Tôi đi giết giặc đây
Đêm nay gặp bạn cùng nhau chén
Máu giặc đang nồng ta phải say
Đây ruộng đồng Trung Nam
Kia núi rừng Việt Bắc
Cỏ cây đang căm hờn như vùng lên đuổi giặc
Tôi với anh gặp nhau trong ngày hội Liên Hoan
Tay bắt tay, mừng trên giải đất Việt-Nam
- Gia đình anh ở đâu?
- Mẹ hiền tôi đã khuất
Nhưng trước khi nhắm mắt
Mẹ mừng cho đàn con
Máu tôi mai sẽ chảy
Trôi phăng hết kiếp ngựa trâu
Xương tôi, tôi bắt nên cầu
Cho đàn con bước lên lầu Tự Do!
- Anh giết bao nhiêu giặc mà mắt anh long lanh?
Mời anh lên rừng xanh
Hỏi những cành lá biếc
Rừng âm u đang tưng bừng mở tiệc
Bằng thịt, xương và máu của quân thù
- Trong tiểu đội anh, những ai còn ai mất?
- Không, không ai còn ai mất
Ai cũng chết mà thôi!
Kẻ trước người sau lao vào giặc
Giữ vững ngàn thu một giống nòi
Dù cho thịt nát xương phơi
Cái còn vĩnh viễn là người Việt Nam!
Đêm Liên Hoan, trời ôi, đêm Liên Hoan!
Đầu người nhấp nhô như sóng vỗ ngang tàng
Ta muốn thét cho vỡ toang lồng ngực
Vì say sưa tình thắm thiết Việt Chính Đoàn
Người bạn mến thương ơi!
Nắm chặt lấy tay tôi
- Kìa, sao anh lại khóc?
- Tôi quá mừng anh đó thôi!
Lần thứ nhất trên đời
Tôi quay cuồng nhảy múa
Giặc kia ơi! Không bao giờ còn nữa
Ta đếm từng ngày
Ta trông từng phút, ta đợi từng giây
Lửa hờn nghi ngút chờ người đêm nay
Chờ người đến đây
Ta băm, ta giết!
Giặc kia phải chết
Núi đồng phơi thây
Anh đi hỏi núi
Anh về hỏi cây
Anh hỏi biển rộng
Anh hỏi sông dài
Anh hỏi ngô non
Anh hỏi lúa bé
Anh đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ
Rằng ta là Việt Chính Đoàn
Đêm nay say tiệc liên hoan
Ngày mai xé xác moi gan quân thù!
Tiệc liên hoan lại tưng bừng hiển hiện
Giữa đoàn quân bách chiến
Đổ về thủ đô như nước vỡ bờ!
Từ mũi Cà Mau cho đến biên giới Lạng
Từ nắng sớm Sơn La cho đến mưa chiều Vạn Tượng!
Muôn đội đội hùng binh phất phới cờ bay
Đoàn quân bách chiến đi suốt đêm ngày
- Mẹ ơi! Con đã về đây!
Chị hiền từ tốn đưa tay đón mừng...
...Anh ơi! Anh tỉnh lại
Nước mắt tôi rưng rưng
Hình như tôi đã mơ màng
Phải rồi, anh Việt Chính Đoàn
Đêm nay say tiệc Liên Hoan
Ngày mai xé xác moi gan quân thù
Bao giờ thu lại tới thu
Liên Hoan bừng nở bốn mùa Non Sông!
~Hoàng-Cầm~
BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG*
Em ơi! Buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lỳ
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ
Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay
Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm đồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu?
Ai về bên kia sông Đuống
Cho ta gửi tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thoáng
mộng bình yên
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thai
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu
Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em xột xoạt quần nâu
Bây giờ đi đâu? Về đâu?
Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng
Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen
Bãi Tràm chỉ người dăng tơ nghẽn lối
Những nàng dệt sợi
Đi bán lụa mầu
Những người thợ nhuộm
Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Bây giờ đi đâu? Về đâu?
Bên kia sông Đuống
Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy dầm hoen sương sớm
Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giầy đinh đạp gẫy quán gầy teo
Xì xồ cướp bóc
Tan phiên chợ nghèo
Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vết máu loang chiều mùa đông
Chưa bán được một đồng
Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong
Bước cao thấp trên bờ tre hun hút
Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu?
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ
Bên kia sông Đuống
Ta có đàn con thơ
Ngày tranh nhau một bát cháo ngô
Đêm líu díu chui gầm giường tránh đạn
Lấy mẹt quây tròn
Tưởng làm tổ ấm
Trong giấc thơ ngây tiếng súng dồn tựa sấm
Ú ớ cơn mê
Thon thót giật mình
Bóng giặc dày vò những nét môi xinh
Đã có đất này chép tội
Chúng ta không biết nguôi hờn
Đêm buông xuống dòng sông Đuống
- Con là ai? - Con ở đâu về?
Hé một cánh liếp
- Con vào đây bốn phía tường che
Lửa đèn leo lét soi tình mẹ
Khuôn mặt bừng lên như dựng giăng
Ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể
Những chuyện muôn đời không nói năng
Đêm đi sâu quá lòng sông Đuống
Bộ đội bên sông đã trở về
Con bắt đầu xuất kích
Trại giặc bắt đầu run trong sương
Dao loé giữa chợ
Gậy lùa cuối thôn
Lúa chín vàng hoe giặc mất hồn
Ăn không ngon
Ngủ không yên
Đứng không vững
Chúng mày phát điên
Quay cuồng như xéo trên đống lửa
Mà cánh đồng ta còn chan chứa
Bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân
Gió đưa tiếng hát về gần
Thợ cấy đánh giặc dân quân cày bừa
Tiếng bà ru cháu buổi trưa
Chang chang nắng hạ võng đưa rầu rầu
"ầu ơ... cha con chết trận từ lâu
Con càng khôn lớn càng sâu mối thù"
Tiếng em cắt cỏ hôm xưa
Hiu hiu gió rét mịt mù mưa bay
"Thân ta hoen ố vì mày
Hờn ta cùng với đất này dài lâu..."
Em ơi! Đừng hát nữa! Lòng anh đau
Mẹ ơi! Đừng khóc nữa! Dạ con sầu
Cánh đồng im phăng phắc
Để con đi giết giặc
Lấy máu nó rửa thù này
Lấy súng nó cầm chắc tay
Mỗi đêm một lần mở hội
Trong lòng con chim múa hoa cười
Vì nắng sắp lên rồi
Chân trời đã tỏ
Sông Đuống cuồn cuộn trôi
Để nó cuốn phăng ra bể
Bao nhiêu đồn giặc tơi bời
Bao nhiêu nước mắt
Bao nhiêu mồ hôi
Bao nhiêu bóng tối
Bao nhiêu nỗi đời
Bao giờ về bên kia sông Đuống
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trảy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.
~Hoàng-Cầm~
Việt Bắc, tháng 4, 1948
ĐÊM THỔ
Cúi lạy mẹ con trở về Kinh Bắc
Chiều xưa giẻ quạt voi lồng
Thân cau cụt vẫy đuôi mèo trắng mốc
Chuồn chuồn khiêng nắng sang sông
Đê mười tám khúc Văn Giang
Chuông Bách môn đổ xô gò má
Mây thành thổi lửa
Nẻo Đông Triều khép mở gió kỳ lân
Chớp rạch dáng tiên vén xiêm xõa ngủ
Thoắt chìm
Gấu đẩy đá Thiên thai
Đi đâu
Tràng mày xếch vòng cung
bắn nát chiều mai ráng đỏ
Châu chấu ma vờn cổ yếm xây
Không gặp người quen
hờ
ngõ cũ
Đêm xuống
làm lầu hoang
Trò chuyện gì ai đâu
Mồ tháng giêng mưa sũng
Đằm ca dao sáo diều chiều lịm tím lưng trâu
Bưởi Nga My sao Mẹ bắt đèo bòng
~Hoàng-Cầm~
EM BÉ LÊN SÁU TUỔI
Em bé lên sáu tuổi
Lủi thủi tìm miếng ăn.
Bố: cường hào nợ máu
Đã trả trước nông dân.
Mẹ bỏ con lay lắt
Đi tuột vào trong Nam.
Từ khi lọt lòng mẹ
Ăn sữa, ngủ dường êm,
Áo hoa lót áo mềm,
Nào biết mình sung sướng.
Ngọn sóng đang trào lên
Ai nghĩ thân bèo bọt;
Như ngườì với con người
Vẫn sẵn lòng thương xót.
Có cụ già đói khổ
Lập cập đi mò cua:
Bố mẹ nó không còn,
Bỗng thương tình côi cút;
Cụ nhường cho miếng cơm.
Chân tay như cái que,
Bụng phình lại ngẳng cổ,
Mắt tròn đỏ hoe hoe;
Đói nhìn đời bỡ ngỡ:
‘‘Lạy bà xin bát cháo
Cháu miếng cơm thầy ơi!’’
Có một chị cán bộ
Đang phát động thôn ngoài,
Chợt nhìn ra phía ngõ
Nghe tiếng kêu lạc loài
Chị rùng mình nhớ lại
Năm đói kém từ lâu
Chị mới năm tuổi đầu
Liếm lá khoai giữa chợ.
Chạy vùng ra phía ngõ
Dắt em bé vào nhà,
Nắm cơm dành chiều qua
Bẻ cho em một nửa.
Chị bần cố nông cốt cán
Ứa nước mắt quay đi:
- ‘‘Nó là con địa chủ
Bé bỏng đã biết gì;
Hôm cho em bát cháo,
Chị ba ngày hỏi truy.’’
Chị đội bỗng lùi lại
Nhìn đứa bé mồ côi
Cố tìm vết thù địch.
Chỉ thấy một con người.
Em bé đã ăn no
Nằm lăn ra đất ngủ;
Chị nghĩ: ‘‘sau lấy chồng
Sinh con bồng bú sữa.’’
Chị phải đình công tác
Vì câu chuyện trên kia.
Buồng tối lạnh đêm khuya
Thắp đèn lên kiểm thảo.
Do cái lưỡi không xương
Nên nhiều đường lắt lẻo;
Do con mắt bé téo
Chẳng nhìn xa chân trời;
Do bộ óc trây lười
Chỉ một mầu sắt rỉ,
Đã lâu năm cũ kỹ
Trên trang sách im lìm;
Do mấy con người máy
Đầy gân, thiếu trái tim!
Nào ‘’liên quan phản động’’
‘‘Mất cảnh giác lập trường’’
Mấy đêm khóc ròng rã
Ngọn đèn soi tù mù,
Lòng vặn lòng câu hỏi:
‘‘Sao thương con kẻ thù?
Giá ghét được đứa bé
Lòng thảnh thơi biết bao nhiêu!’’
~Hoàng-Cầm~
LÁ DIÊU BÔNG
Váy Đình-Bảng buông chùng cửa võng
Chị thẫn thờ đi tìm
Đồng chiều
Cuống rãy
Chị bảo: Đứa nào tìm được lá Diêu Bông
Từ nay ta gọi là chồng
Hai ngày em đi tìm thấy lá
Chị chau mày:
Đâu phải Lá Diêu Bông
Mùa đông sau em tìm thấy lá
Chị lắc đầu
Trông nắng vãn bên sông.
Ngày cưới chị
Em tìm thấy lá
Chị cười xe chỉ ấm trôn kim.
Chị ba con
Em tìm thấy lá
Xòe tay phủ mặt chị không nhìn.
Từ thuở ấy
Em cầm chiếc lá
Đi đầu non cuối bể.
Gió quê vi vút gọi
Diêu Bông hời
Ới Diêu Bông!
~Hoàng-Cầm~
1993
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.12.2010 19:22:56 bởi Anh Nguyên >
VU-CAO
1922
Tức Vũ-Hữu-Chỉnh, sinh tại Vụ-Bản,
Nam Định, làm thơ, viết truyện ngắn.
NÚI ĐÔI
Bảy năm về trước em mười bảy
Anh mới đôi mươi, trẻ nhất làng
Xuân Dục Đoài, Đông hai cánh lúa
Bữa thì anh tới, bữa anh sang.
Lối ta đi giữa hai sườn núi
Đôi ngọn nên làng gọi là Núi Đôi
Em vẫn đùa anh: Sao khéo thế
Núi chồng núi vợ đứng song đôi.
Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới
Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau
Mới ngỏ lời thôi đành lỗi hẹn
Đâu ngờ từ đó mất tin nhau.
Anh vào bộ đội lên đông bắc
Chiến đấu quên mình năm lại năm
Mỗi bận dân công về lại hỏi
Ai người Xuân Dục, Núi Đôi chăng?
Anh nghĩ quê ta giặc chiếm rồi
Trăm nghìn căm uất bao giờ nguôi
Mỗi tin súng nổ vùng đai địch
Sương trắng người đi lại nhớ người.
Đồng đội có nhau thường nhắc nhở
Trung du làng nước vẫn chờ trông
Núi Đôi bốt dựng kề ba xóm
Em vẫn đi về những bến sông?
Náo nức bao nhiêu ngày trở lại
Lệnh trên ngừng bắn, anh về xuôi
Hành quân qua tắt đường sang huyện
Anh ghé thăm nhà, thăm Núi Đôi.
Mới đến đầu ao, tin sét đánh
Giặc giết em rồi, dưới gốc thông
Giữa đêm bộ đội vây đồn Thứa
Em sống trung thành, chết thuỷ chung,
Anh ngước nhìn lên hai dốc núi
Hàng thông, bờ cỏ, con đường quen
Nắng lụi bỗng đưng mờ bóng khói
Núi vẫn đôi mà anh mất em!
Dân chợ Phù Linh ai cũng bảo
Em còn trẻ lắm, nhất làng trong
Mấy năm cô ấy làm du kích
Không hiểu vì sao chẳng lấy chồng.
Từ núi qua thôn đường nghẽn lối
Xuân Dục Đoài, Đông cỏ ngút đầy
Sân biến thành ao, nhà đổ chái
Ngổn ngang bờ bụi cánh dơi bay.
Cha mẹ dìu nhau về nhận đất
Tóc bạc thương từ mỗi gốc cau
Nứa gianh nửa mái lều che tạm
Sương nắng khuây dần chuyện xót đau.
Anh nghe có tiếng người qua chợ:
Ta gắng mùa sau lúa sẽ nhiều
Ruộng thấm mồ hôi từng nhát cuốc
Làng ta rồi đẹp biết bao nhiêu!
Nhưng núi còn kia anh vẫn nhớ
Oán thù còn đó, anh còn đây
Ở đây cô gái làng Xuân Dục
Đã chết vì dân giữa đất này?
Ai viết tên em thành liệt sĩ
Bên những hàng bia trắng giữa đồng
Nhớ nhau anh gọi: em, đồng chí
Một tấm lòng trong vạn tấm lòng.
Anh đi bộ đội, sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
Em sẽ là hoa trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm.
~Vũ-Cao~
1956
Nhà xuất bản Giáo dục, 2005
NGUYỄN-ĐÌNH-THI
Sinh tại Luang Prabang, Lào, quê Vũ-Thạch,
(phố Bà Triệu, q. Hoàn Kiếm, HN), năm 1931
về nước học ở Hải-Phòng, Hà-Nội, đại biểu
tham dự Quốc dân Đại hội Tân-Trào, Ủy viên
Tiểu ban dự thảo Hiến pháp, Tổng thư ký Hội
Nhà Văn VN, làm thơ, viết tiểu thuyết, truyện
ngắn, tiểu luận, kịch.
ĐẤT NƯỚC*
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy
Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha!
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm ngát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về!
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Từ những năm đau thương chiến đấu
Đã ngời lên nét mặt quê hương
Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu
Đã bật lên những tiếng căm hờn
Bát cơm chan đầy nước mắt
Bay còn giằng khỏi miệng ta
Thằng giặc Tây, thằng chúa đất
Đứa đè cổ, đứa lột da...
Xiềng xích chúng bay không khóa được
Trời đầy chim và đất đầy hoa
Súng đạn chúng bay không bắn được
Lòng dân ta yêu nước thương nhà!
Khói nhà máy cuộn trong sương núi
Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng
Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng
Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội
Mỗi bước đường mỗi bước hy sinh
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh.
Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa!
~Nguyễn-Đình-Thi~
LÁ ĐỎ
Gặp em trên cao lộng gió
Rừng lạ ào ào lá đỏ
Em đứng bên đường như quê hương
Vai ác bạc quàng súng trường.
Ðoàn quân vẫn đi vội vã
Bụi Trường Sơn nhòa trời lửa.
Chào em, em gái tiền phương
Hẹn gặp nhau nhé giữa Sài Gòn.
Em vẫy cười đôi mắt trong.
~Nguyễn- Đình-Thi~
Trường Sơn, 12/1974
VIỆT NAM QUÊ HƯƠNG TA
Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều
Quê hương biết mấy thân yêu
Bao nhiêu đời đã chịu nhiều thương đau
Mặt người vất vả in sâu
Gái trai cũng một áo nâu nhuộm bùn
Ðất nghèo nuôi những anh hùng
Chìm trong máu lửa lại vùng đứng lên
Ðạp quân thù xuống đất đen
Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa.
Việt Nam đất nắng chan hòa
Hoa thơm quả ngọt bốn mùa trời xanh
Mắt đen cô gái long lanh
Yêu ai yêu trọn tấm tình thủy chung
Ðất trăm nghề của trăm vùng
Khách phương xa tới lạ lùng tìm xem
Tay người như có phép tiên
Trên tre lá cũng dệt nghìn bài thơ
Nước bâng khuâng những bến đò
Ðêm đêm còn vọng câu hò Trương Chi
Ðói nghèo nên phải chia ly
Xót xa lòng kẻ rời quê lên đường
Ta đi ta nhớ núi rừng
Ta đi ta nhớ dòng sông vỗ bờ
Nhớ đồng ruộng, nhớ khoai ngô
Bát cơm rau muống quả cà giòn tan…
~Nguyễn- Đình-Thi~
(Trích đoạn trường ca Bài thơ Hắc Hải)
TỬ-PHÁC
1923-1982
Tức Nguyễn-Anh-Chấn, tên thật Nguyễn-Anh-Kim,
là nhà văn, nhà tơ, nhạc sĩ, tác giả bài "Tiếng hát quay tơ"
làm năm 1948, một trong những nhân vật trụ cốt của
phong trào Nhân Văn Giai Phẩm.
"Tiếng Hát Quay Tơ" đã được hoan nghênh nhiệt liệt:
Chiều không hương buông mây lắng xuống đồng quê
Trời mênh mông tím ngát, thoi thóp pha hồng
Hàng nước mắt, lá rơi bên thềm, vun vút bóng cau
Khắp trời bát ngát khói sương
Thì thào lá biếc có thương lá vàng
Tre ngà đưa võng heo may hòa đàn...
......
Ngập ngừng xe quay rung rinh in bóng dáng người
Aàm ầm... gió rét... mưa bay...
... ... ...
Chàng ra đi...
Em về xa vắng thầm lo cho cánh chim bay
Chiều nghe vang lá xiết em run
Ngỡ tiếng ngỡ tiếng bước ai về
Quay quay thương nhớ quyến vào tơ
Quay quay se áo rét dâng chàng...
......
Quay quay thương nhớ quyến vào tơ
Quay quay chăn ấm quấn thân chàng
Mỗi một đường tơ là mỗi dây tình
Trong lòng em dâng người hiên ngang
Nhịp xe quay vang trong tiếng gió đìu hiu
Mình tơ êm óng chuốt như nắng hanh vàng
Mùa lá trút sắp qua nhớ chàng quay gấp bánh xe
Tơ vàng chắn lối gió đông chọ..đêm không lạnh lùng
...... Gửi cùng áo ấm
Muôn vàn nhớ nhung...
(Tử Phác, 1948)
Khi nói về bài "Tiếng Hát Quay Tơ" nhà văn kiêm thi sĩ Hoàng Cầm đã viết: "Cả đoàn Việt Bắc đều thích hát cả ngày ca khúc Quay Tơ, có anh còn nhảy "valse"theo nhạc Quay Tơ nữa, nghe thật sang trọng hào hoa cuốn hút thắm thiết... "
Tử Phác nổi tiếng từ đó, nhưng cũng từ đó Tử Phác không còn thường sáng tác thơ nhạc vì được điều động vào cương vị tổ chức điều khiển làm Trưởng Phòng Văn Nghệ Quân Khu 3.
Năm 1950 lên Trung Ương giữ chức Trưởng Phòng Văn Nghệ thuộc Tổng Cục Chính Trị và năm 1952 làm Tổng Phụ Trách Văn Công Quân Đội cùng với Chính Hữu, Trần Dần và Hoàng Cầm trong Ban Chỉ Huy Tổng Đoàn.
Khi Trung Quốc tung ra phong trào "Trăm Hoa Đua Nở" Việt Nam cũng hùa theo và một số văn nghệ sĩ cùng nhau làm tờ báo "Nhân Dân Giai Phẩm" vào những năm 1957-1958.
Tử Phác là Thư Ký Toà Soạn của báo Nhân Dân Giai Phẩm.
Khi chính quyền dẹp Nhân Dân Giai Phẩm những người có liên quan tới Nhân Dân Giai Phẩm đều bị trừng phạt và đối xử tàn tệ. Riêng người bị trừng trị tàn nhẫn nhất là Tử Phác.
Tử Phác bị hạ tầng công tác mất hết quân hàm không còn được quân đội trả lương và cấp dưỡng, phải đi cải tạo ở Hòa Bình trong hai năm 1959-1960. Nếu không có gia đình giúp đỡ thì Tử Phác đã bị bỏ chết đói ở Hòa Bình. Gia đình gửi cho Tử Phác một chiếc xe đạp để Tử Phác làm nghề "thồ đồ" kiếm sống. Sức khoẻ của Tử Phác từ đó cứ sút giảm dần liên miên hết bệnh nầy sang bệnh khác.
Khi được thả về Tử Phác không tìm được một việc làm nào, các báo và nhà xuất bản bị cấm không được đăng và trả tiền nhuận bút những bài văn thơ nhạc của Tử Phác. Con cái không cho đi học ở những cấp cao.
Trong 30 năm, Tử Phác như tù giam lỏng không ra khỏi nhà. Các người lại thăm, có người Tử Phác tiếp đón niềm nở, có người Tử Phác không chào hỏi để mặc ngồi đó hàng giờ không trả lời một câu, ngồi chán rồi đi, Tử Phác không để ý tới. Các con hỏi tại sao thế? Tử Phác đáp: "Những thằng đó đến xem bố nói gì để viết báo cáo".
Không có sinh kế, vợ con nheo nhóc, sống vất vưởng nhờ tiền trợ giúp của gia đình nội ngoại ở Pháp, đồ đạc trong nhà bán dần dần đến cả chiếc dương cầm, cái hương án...
"Tôi biết đi đâu biết về đâu
Tuy không reo ác lại hái sầu
Đất lửa khi nao là đất thánh
Cát bụi bơ vơ giữa địa cầu
Nay bạn mai thù không hiểu nổi
Chuyện đời nhân nghĩa lộn đầu đuôi
Tôi muốn hỏi trên đường vạn nẻo
Đâu đất lành dung lũ chúng tôi.
Tôi hỏi bình minh tôi hỏi mây
Hỏi sóng biển hỏi trời giông bão
Hỏi tình yêu hay hỏi niềm đau
Đâu đất lành dung lũ chúng tôi."
(Tử Phác, 12-1979)
Chính vì đâu đất lành dung lũ chúng tôi? Nên khi phong trào vượt biên lan ra ngoài Bắc, Tử Phác dành để vợ con vượt biên chỉ có người con đã lập gia đình ở lại trông nom Tử Phác.
Nghịch cảnh nên thơ cũng nghịch thường. Xa quê hương ai ai chẳng nhớ thương nhưng Tử Phác đã viết: "Vui sướng reo mừng. Biệt ly nào không buồn?" Nhưng Tử Phác lại viết: Vui Biệt Ly, trong những câu thơ sau:
Đất đuổi tôi ra biển
Biển quẳng tôi về đâu
Chỉ nghe trong sóng gió
Thảm thiết tiếng hải âu
......
Ai xa quê hương mà nghe náo nức
Ai biệt chồng con vui sướng reo mừng
......
Ai đã chắc biệt ly là khổ
Ai cầm bằng đến được bờ vui
Vui ly biệt mà buồn thân phận
...... (Tử Phác, 12-1979)
Nỗi niềm lo lắng cho những người vượt biên Tử Phác gói ghém trong những câu thơ:......
Xưa tiễn Kinh Kha có sá gì
Sá gì tiếng sáo Cao Tiệm Ly
Sầu thế kỷ muôn lần hơn chuyện cổ
Máu nhuộm hồng triệu mắt héo phân kỳ
Tìm em nơi nao trên biển Đông
Thuyền con như lá rớt giữa giòng
Lòng biển tối đen lòng đời hiểm độc
Em lênh đênh theo định mệnh hãi hùng
Tìm em nơi nao trên biển Đông
Đâu Macao, Tân Đảo, đâu Hồng Kông
Một trời một nước bờ xa khuất
Tìm em nơi nao trên biển Đông
(Tử Phác, 12-1979)
Và may thay......
Những người vượt biên tới Hồng Kông và sau được định cư ở Pháp vì có thân nhân bảo lãnh. Nhớ vợ thương con, có đêm Tử Phác nằm mê thấy vợ về thăm trong vườn hồng tặng một tấm hình còn Tử Phác tặng vợ một bài thơ:
Cố nhân mặc áo hoa
Lẫn muôn hoa vườn hồng
Mắt lão nhìn chưa ra
Đã mờ đi lệ nhòa
Ba mươi năm chiến tranh
Không lạc nhau bom đạn
Thế mà nay về già
Lại lạc nhau trong vườn hoa
Bà tặng tôi tấm hình
Rẽ hoa tìm cố nhân
Tôi tặng bà vần thơ
Vẫn rành rành tôi đó
Tuổi già tưởng suôi sẻ
Ai ngờ vẫn phong ba
Bão táp trong vườn hoa
Vẫn ương ương vậy mà
(Tử Phác, 29-7-1980)
Đám tang của Tử Phác có công an chìm nổi canh chừng cẩn mật vì có nhiều người tới tham dự. Trong bài văn tế của Trần Dần có những câu như sau:
Ngày xửa, ngày xưa... có một chàng trai...
trong ầm ầm... gió rét... mưa bay...
động tâm vì những người chiến trường áo mong manh...
liều lấy cả tuổi xanh mình... tim thật mình...
quay tơ... may áo...
ai ai đều nhớ...
mỗi một đường tơ là mỗi dây tình...
dâng người hiên ngang...
thế là khúc tâm ca thành áo ấm trữ tình
cho hơn một thế hệ những người áo mong manh chiến trường
những người hồi ấy hiên ngang kháng chiến...
Sự tích chàng trai chỉ cần có thế:
Tử Phác... Le Fier... Từ đầu...
Rồi khổ ải... khổ ải... 30...
Hơn 30 năm sau... anh nằm đây...
Vẫn anh... Tử Phác... Le Fier...
Anh đã sống- đã đau-anh đã thác
Yêu nghệ thuật-yêu thơ-yêu nhạc
Một đời anh thác chỉ vì... yêu
......
Anh để lại cho chúng tôi một thái độ
Chúng tôi ở lại... anh đi...
Âm dương không cách trở...
(Trần Dần, 12-05-1982)
Mười năm sau, tờ báo Âm Nhạc số 4 năm 1992 ở Hà Nội mới đăng bốn trang nói về Tử Phác kèm theo ảnh.
Và mười sáu năm sau, tờ báo Lao Động số 11 năm 1998 mới đăng ảnh của Tử Phác và một bài ngắn coi Tử Phác như một "nghệ sĩ có tầm vóc văn hóa sâu sắc thuộc số người sớm nhất mở đường "sân khấu hóa" cho một điệu múa dân gian là điệu múa sạp."
Hai chục năm qua thoáng tới ngày
Kỵ linh thanh khí có về đây?
Gia phong nhang khói tình vương vấn
Sứ điệp ngàn thu mộng đắng cay.
Non nước tiếc thương tài mệnh bạc
Nhạc thi âm hưởng lụy trần ai
Bến xưa chìm bóng trăng đồng nội
Sương phủ mù đêm lệ ứa đầy...
Vân Uyên, 12/5/02
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.01.2011 07:50:25 bởi Anh Nguyên >
TRẦN-DẦN
1926-1997
Tức Trần-Văn-Dần, sinh tại Nam-Định,
làm thơ, viết tiểu thuyết và phiên dịch.
Ông viết ‘‘Biểu hiệu cao nhất của trách
nhiệm người viết là thái độ tôn trọng,
trung thành với sự thực…Tôn trọng,
trung thành với sự thực vừa là trách
nhiệm, vừa là lập trường, vừa là phương
pháp làm việc của người viết…Nếu như
sự thực ngược lại chính sách, chỉ thị, thì
phải viết sư thực chứ không phải là bóp
gò sự thật vào chính sách!’’
NHẤT ĐỊNH THẮNG Tôi ở phố Sinh Từ:
Hai người
Một gian nhà chật.
Rất yêu nhau, sao cuộc sống không vui?
Tổ Quốc hôm nay
tuy gọi sống Hòa Bình
Nhưng mới chỉ là năm thứ nhất
Chúng ta còn muôn việc rối tinh…
Chúng ta
Ngày làm việc, đêm thì lo đẫy giấc
Vợ con đau thì rối ruột thuốc men
Khi mảng vui – khi chợt nhớ – chợt quên
Trăm cái bận hàng ngày nhay nhắt
Chúng ta vẫn làm ăn chiu chắt
Ta biết đâu bên Mỹ Miếc tít mù
Chúng còn đương bày kế hại đời ta?
Người ta nói thằng ngô con đĩ
Ở miền Nam có tên giặc họ Ngô
Tài của hắn là: Khuyển Ưng của Mỹ
Bửu bối gớm ghê là: một lưỡi đao cùn
Hắn nhay mãi cố xẻ đôi Tổ Quốc Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc
Đất hôm nay tầm tã mưa phùn
Bỗng nhói ngang lưng
máu rỏ xuống bùn
Lưng tôi có tên nào chém trộm?
A! Cái lưỡi đao cùn!
Không đứt được – mà đau!
Chúng định chém tôi làm hai mảnh
Ơi cả nước! Nếu mà lưng tê lạnh
Hãy nhìn xem: Có phải vết đao?
Không đứt được mà đau!
Lưng Tổ Quốc ngày hôm nay rớm máu. 2.
Tôi đã sống rã rời cân não
Quãng thời gian nhưng nhức chuyện đi Nam
Những cơn mưa rơi mãi tối sầm
Họ lếch thếch ôm nhau đi từng mảng
Tôi đã trở nên người ôm giận
Tôi đem thân làm ụ cản đường đi
- Đứng lại!
- Đi đâu?
- Làm gì?
Họ kêu những thiếu tiền thiếu gạo
Thiếu Cha, thiếu Chúa, thiếu vân vân
Có cả anh nam chị nữ kêu buồn
- Ở đây
khát gió, thèm mây…
Ô hay!
Trời của chúng ta gặp ngày mây rủ
Nhưng trời ta sao bỏ nó mà đi?
Sau đám mây kia
là cả miền Nam
Sao nỡ tưởng là non bồng của Mỹ!
Tiệm nhảy, rượu nồng, gái tơ
Tha hồ những tự do tự diếc
Tưởng như ở đấy cứ chìa tay
là có đô-la
Có trâu ruộng, – Có ngày đêm hoan hỷ!
Mặc dầu sao nỡ đổi trời ta?
Tôi muốn khóc giữ từng em bé
- Bỏ tôi ư? – Từng vạt áo – Gót chân
Tôi muốn kêu lên – những tiếng cộc cằn…
- Không! Hãy ở lại
Mảnh đất ta hôm nay dù tối
Cũng còn hơn
non bồng Mỹ
triệu lần…
Mảnh đất dễ mà quên?
Hỡi bạn đi Nam
Thiếu gì ư? Sao chẳng nói thực thà?
Chỉ là:
- thiếu quả tim, bộ óc!
Những lời nói sắp thành nói cục
Nhưng bỗng dưng tôi chỉ khóc mà thôi
Tôi nức nở giữa trời mưa bão.
Họ vẫn ra đi
- Nhưng sao bước rã rời?
Sao họ khóc?
Họ có gì thất vọng?
Đất níu chân đi,
gió cản áo bay về.
Xa đất Bắc tưởng như rời cõi sống
Tưởng như đây là phút cuối cùng
Giăng giối lại: – Mỗi lùm cây – hốc đá
– Mỗi căn vườn – gốc vả – cây sung
Không nói được, chỉ còn nức nở
Trắng con ngươi nhìn lại đất trời
Nhìn cơn nắng lụi, nhìn hạt mưa sa
Nhìn con đường cũ, nhìn ngôi sao mờ
Ôi đất ấy – quên làm sao được?
Quên sao nơi ấm lạnh ngọt bùi
Hôm nay đây mưa gió giập vùi
- Mưa đổ mãi lên người xa đất Bắc…
Ai dẫn họ đi?
Ai?
Dẫn đi đâu? – mà họ khóc mãi thôi
Trời vẫn quật muôn vàn tảng gió
Bắc Nam ơi, đứt ruột chia đôi
Tôi cúi xuống – Quỳ xin mưa bão
Chớ đổ thêm lên đầu họ -
Khổ nhiều rồi!
Họ xấu số – Chớ hành thêm họ nữa
Vườn ruộng hoang sơ – Cửa nhà vắng chủ
Miền Nam muôn dặm, non nước buồn thương
Họ đã đi nhưng trút lại tâm hồn
Ơi đất Bắc! Hãy giữ gìn cho họ 3.
Tôi ở phố Sinh Từ
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
Không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ. Gặp em trong mưa
Em đi tìm việc
Mỗi ngày đi lại cúi đầu về
- Anh ạ.
Họ vẫn bảo chờ…
Tôi không gặng hỏi, nói gì ư?
Trời mưa, trời mưa
Ba tháng rồi
Em đợi
Sống bằng tương lai
Ngày và đêm như lũ trẻ mồ côi
Lũ lượt dắt nhau đi buồn bã…
Em đi
trong mưa
cúi đầu
nghiêng vai
Người con gái mới mười chín tuổi
Em ơi!
Em có biết đâu
Ta khổ thế này
Vì sao?
Em biết đâu
Mỹ Miếc, Ngô Nghê gì?
Khổ thân em mưa nắng đi về
lủi thủi
Bóng chúng
đè lên
số phận
từng người
Em cúi đầu đi, mưa rơi Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ 4.
Đất nước khó khăn này
sao không thấm được vào Thơ? Những tủ kính tôi dừng chân dán mũi
Các thứ hàng ế ẩm đợi người mua
Nhưng mà sách – hình như khá chạy
À quyển kia của bạn này – bạn ấy
Quyển của tôi tư lự, nét đăm đăm
Nó đang mơ: – nếu thêm cả miền Nam
Số độc giả sẽ tăng dăm bảy triệu
Tôi đã biến thành người định kiến
Tôi ước ao tất cả mọi người ta
Đòi Thống Nhất phải đòi từ việc nhỏ
- từ cái ăn
cái ngủ
chuyện riêng tư
- từ suy nghĩ
nựng con
và tán vợ
Trời mưa mãi lây rây đường phố
Về Bắc Nam tôi chưa viết chút nào
Tôi vẫn quyết Thơ phải khua bão gió
Nhưng hôm nay
tôi bỗng cúi đầu
Thơ nó đi đâu?
Sao những vần thơ
Chúng không chuyển, không xoay trời đất
Sao chúng không chắp được cả cõi bờ?
Non nước sụt sùi mưa
Tôi muốn bỏ thơ
Làm việc khác
Nhưng hôm nay tôi mê mải giữa trời mưa
Chút tài mọn
tôi làm thơ chính trị Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ 5.
Em ơi! – ta ở phố Sinh Từ
Em đương có chuyện gì vui hử
À cái tin trên báo – Ừ em ạ
Hôm nay bọn Mỹ Miếc, lũ Ngô Nghê
Chúng đang phải giậm chân đấm ngực!
Vượt qua đầu chúng nó,
mọi thứ hàng
Những tấn gạo vẫn vượt đi
Những tấn thư, tài liệu
Vẫn xéo qua đầu chúng, giới ranh gì?
Ý muốn dân ta
là lực sĩ khổng lồ
Đè cổ chúng mà xóa nhòa giới tuyến
Dân ta muốn trời kia cũng chuyển
Nhưng
Trời mưa to lụt cả gian nhà
Em tất tả che mưa cản gió
Con chó Mực nghe mưa là rú
Tiếng nó lâu nay như khản em à
Thương nó nhỉ – nó gầy – lông xấu quá
Nó thiếu ăn – Hay là giết đi ư?
Nó đỡ khổ – Cả em đỡ khổ.
Em thương nó – Ừ thôi chuyện đó
Nhưng hôm nay anh mới nghĩ ra
Anh đã biến thành người định kiến
Mực ơi!
đừng oán chủ, Mực à!
Mày không hiểu những gần xa Mỹ Diệm
Chúng ở đâu – mà lại núp bên ta
Chính chúng cướp cả cơm của khuyển Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa.
trên màu cờ đỏ 6.
Hôm nay đài tiếng nói Việt Nam
Lại có chuyện tên Ngô Đình Diệm
Hắn sai con em là lũ du côn
Đi ném đá nhà Ủy ban Quốc tế.
Hắn bảo hắn Giơ-ne không ký
Hắn bịt tai, không biết chuyện hiệp thương!
Ô hay! Cái lưỡi uốn càn
Cả thế giới vả vào mõm hắn
Hắn giậm chân khoa lưỡi đao cùn:
- Mặc kệ! Giết ta chết hẳn
thì thôi
Ta chẳng giả miền Nam!
Chứ
giả miền Nam cho nước Việt Nam
Thì ta chết
– thầy ta cũng chết
Hắn thét lên ộc máu mũi máu mồm
Hắn lồng lộn, ôm miền Nam mà cắn!
Thịt dân ta từng mảng nát bươm
Nhưng không!
Hôm nay
Cả thành phố Sài Gòn
Đóng cửa!
Không họp chợ!
Không ra đường!
Những mảng thịt
Những đọi máu đào
đang rầm rập kéo nhau
đi ngoài phố
Hôm nay
hàng triệu mối thù sâu
tới đập cửa lão già Ngô đòi mạng
Vung đao cùn chém phải quãng trời không!
Hắn đi ngủ,
muôn tiếng kêu xúm lại quanh giường
Hắn ngồi ăn
tiếng khóc nổi trong cơm
Hắn nhắm mắt
tiếng kêu vào giấc ngủ
Hắn rong chơi
tiếng rủa bước theo chân
Hắn hội họp
tiếng kêu ngồi cạnh
giơ bàn tay đòi mạng nghều ngào
Tên tội nhân kia!
Lịch sử vạch tên mày!
Tên đứa tay sai!
Chẳng có lâu đâu!
Hắn sẽ sống như tên mắc tội tử tù
Óc điên dại
- chân lê vòng xích
Trốn đi đâu?
Đất trời sâu
đương vẩy máu
đuổi theo chân hắn.
Hắn run sợ – Quỳ xin đã muộn!
Dù đêm khuya, bóng tối đặc ngầu ngầu
Máu vẫn đỏ
trúng đầu trúng mặt
Tên tội nhân kia!
Lịch sử vang tên mày! 7.
Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc
Tai bỗng nghe những tiếng thì thầm
Tiếng người nói xen tiếng đời ầm ã.
- Chúng phá hiệp thương
- Liệu có hiệp thương?
- Liệu có tổng hay chẳng tổng?
- Liệu đúng kỳ? Hay chậm vài năm?
Những câu hỏi đi giữa đời lỏng chỏng
Ôi! Xưa nay Người vẫn thiếu tin Người
Người vẫn thường kinh hoảng trước Tương Lai
Người quên mất Mỹ là sư tử giấy
Người vẫn vội – Người chưa kiên nhẫn mấy
Gan người ta chưa phải đúng công nông
Người chửa có dạ lim trí sắt
Người mở to đôi mắt mà trông!
A tiếng kèn vang
quân đội anh hùng
Biển súng
rừng lê
bạt ngàn con mắt
Quân ta đi tập trận về qua
Bóng cờ bay đỏ phố đỏ nhà…
Lá cờ ấy là cờ bách thắng
Đoàn quân kia muôn trận chẳng sờn gan
Bao tháng năm đói rét nhọc nhằn
Từ đất dấy lên
là quân vô sản
Mỗi bước đi lại một bước trưởng thành
Thắng được Chiến Tranh
Giữ được Hòa Bình
Giặc cũ chết – lại lo giặc mới
Đoàn quân ấy – kẻ thù sợ hãi
Chưa bao giờ làm mất bụng dân yêu
Dân ta ơi! Chiêm nghiệm đã nhiều
Ai có LÝ? và ai có LỰC?
Tôi biết rõ đoàn quân sung sức ấy
Biết nhân dân
Biết Tổ Quốc Việt Nam này
Những con người từ ức triệu năm nay
Không biết nhục
Không biết thua
Không biết sợ!
Hôm nay
Cả nước chỉ có một lời hô:
THỐNG NHẤT
Chúng ta tin khẩu hiệu ta đòi
- Giả miền Nam!
Tôi ngửa mặt lên trời
Kêu một tiếng – bỗng máu trời rơi xuống
Vài ba tia máu đỏ rơi vào tôi
Dân ta ơi!
Những tiếng ta hô
có sức đâm trời chảy máu.
Không địch nào cưỡng nổi ý ta
Chúng ta đi – như quả đất khổng lồ
Hiền hậu lắm – nhưng mà quả quyết… 8.
Hôm nay
Những vần thơ tôi viết
Đã giống lưỡi lê: đâm
Giống viên đạn: xé
Giống bão mưa: gào
Giống tình yêu: thắm
Tôi thường tin ở cuộc đấu tranh đây
Cả nước đã bầu tôi toàn phiếu
Tôi là người vô địch của lòng tin.
Sao bỗng đêm nay,
tôi cúi mặt trước đèn?
Gian nhà vắng – chuột đêm nó rúc.
Biết bao nhiêu lo lắng hiện hình ra.
Hừ! Chúng đã biến thành tảng đá
chặn đường ta!
Em ơi thế ra
Người tin tưởng nhất như anh
vẫn có những phút giây ngờ vực
Ai có LÝ? Và ai có LỰC?
Ai người tin? Ai kẻ ngã lòng tin?
Em ơi
Cuộc đấu tranh đây
cả nước
cả hoàn cầu
Cả mỗi người đêm ngủ vẫn lo âu
Có lẫn máu, có xót thương, lao lực.
Anh gạch xóa trang thơ hằn nét mực
Bỗng mắt anh nhìn thấy! Lạ lùng thay!
Tảng đá chặn đường này!
Muôn triệu con người
Muôn triệu bàn tay
Bật cả máu ẩy đá lăn xuống vực!
Anh đã nghĩ: không có đường nào khác
Đem ngã lòng ra
mà thống nhất Bắc Nam ư?
Không không!
Đem sức gân ra!
Em ơi em!
Cái này đỏ lắm, gọi là TIM
Anh dành cho cuộc đấu tranh giành THỐNG NHẤT 9.
Hôm nay
Trời đã thôi mưa
Thôi gió
Nắng lên
đỏ phố
đỏ nhà
đỏ mọi buồng tim lá phổi
Em ơi đếm thử bao nhiêu ngày mưa!
Bây giờ
Em khuân đồ đạc ra phơi
Em nhé đừng quên
Em khuân tất cả tim gan chúng mình
phơi nắng hết.
Em nhìn
cao tít
trời xanh
Dưới phố bao nhiêu cờ đỏ!
Hôm nay em đã có việc làm
Lương ít – Sống còn khó khăn!
Cũng là may…
Chính phủ muôn lo nghìn lắng
Thực có tài đuổi bão xua mưa
Không thì còn khổ
Em treo cờ đỏ đầu nhà
Lá cờ trừ ma
Xua được bóng đen chúng nó!
Tiếng gì ầm phố em à?
A! Những người đi Nam trở ra
Phải rồi! Quên sao đất Bắc!
- Khổ! Trong ấy loạn
Phải đi đồn điền cao su
Chúng tôi bị lừa
Bà con muốn ra không được.
Đồng bào vui muốn khóc
Ô này lạ chưa?
- Mây ngoài này không đen
Mây đen vào trong ấy cả
Đúng rồi! Đó là công sức của nhân dân ta
lùa mây đuổi gió
Những vết thương kháng chiến đỏ lòm
Đã mím miệng, lên da lên thịt.
Tôi bỗng nhói ở nơi lồng ngực
Em ơi
Chúng đốt phố Ga-li-ê-ni
và nhiều phố khác.
Anh đã sống ở Sài gòn thuở trước
Cảnh miền Nam thành một góc tim anh
Chúng đốt tận đâu
mà lửa xém tim mình
Tim nó bị thui đen một nửa
Từ dạo ấy
mà em chẳng rõ.
- Em hãy đỡ cho anh khỏi ngã
Đứng đây
Một lúc!
Cờ bay
đỏ phố
đỏ nhà
Màu cờ kia là thang thuốc chữa cho anh.
Em có thấy bay trên trời xanh
Hàng triệu tâm hồn?
Họ đã bỏ miền Nam
ra Bắc!
Chúng đem súng mà ngăn
Đem dây mà trói!
Giữ thân người
không giữ được nhân tâm
Người Nam gửi tâm hồn ra Bắc cả.
Bọn Mỹ Diệm ôm đầu sợ hãi
Đổ lên chúng nó
Mây đen
lửa loạn
bão thù
Ai thắng ai thua?
Ai có LÝ và ai có LỰC? Em ơi
Hôm nay
trời xanh
xanh đúc
Nắng lên
đỏ phố
đỏ cờ
Cuồn cuộn mít tinh
Những ngày thương xót đã lùi xa
Hòa bình
thêm vững
Anh bước đi
đã thấy phố thấy nhà
Không thấy mưa sa
Chỉ thấy nắng lên
trên màu cờ đỏ Ta ở phố Sinh Từ
Em này
Hôm nay
đóng cửa
Cả nhà ra phố
mít tinh
Chúng ta đi
nổi bão
biểu tình
Vung cờ đỏ
hát hò
vỡ phổi…
Hỡi những người
thành phố
thôn quê
Đói no lành rách
Người đang vui
Người sống đang buồn
Tất cả!
Ra đường!
Đi!
hàng đoàn
hàng đoàn
Đòi lấy tương lai:
HÒA BÌNH
THỐNG NHẤT
ĐỘC LẬP
DÂN CHỦ
Đó là tim
là máu đời mình
Là cơm áo! Là ái tình
Nhất định thắng! ~Trần-Dần~
1955
<bài viết được chỉnh sửa lúc 12.06.2012 04:25:22 bởi Anh Nguyên >
PHẠM-HỔ
1926
Quê An-Nhơn, Bình-Định, làm thơ,
viết tiểu thuyết, truyện ngắn NHỮNG NGÀY XƯA THÂN ÁI Tôi bắn hắn rồi Những ngày xưa thân ái Không ngăn nổi tay tôi Những ngày xưa thân ái chắc hắn quên rồi riêng tôi, tôi nhớ: Đồng làng mênh mông biển lúa Sương mai đáp trắng cỏ đường Hai đứa tôi, Sách vở cặp chung Áo quần nhàu giấc ngủ Song song bước nhỏ chân trần Gói cơm mo mẹ vắt sách tùng tơn Nón rộng hỏng quai Trong túi hộp diêm nhốt dế những ngày xưa êm đẹp thế không đem chung hai đứa một ngày mai Hắn bỏ làng theo giặc mấy năm nay Tôi buồn tôi giận, Đêm nay gặo hắn, Tôi bắn hắn rồi những ngày xưa thân ái Không ngăn nổi tay tôi Xác hắn nằm bờ ruộng Không phải hắn thưở xưa Tôi cúi nhìn mặt hắn tiếc hắn thời ấu thơ ~Phạm-Hổ~ 1957
YÊN-THAO
1927
Tức Nguyễn-Bảo-Thịnh, sinh tại Sơn-Tây.
NHÀ TÔI
Tôi đứng bên này sông
Bên kia vùng địch đóng
Làng tôi đó, xám đen màu tiết đọng
Tre cau buồn tóc rủ ướt mưa sương
Màu trắng vôi nồm nộp mấy khung tường
Nếp đình xưa, người hỡi đau gì không?
Tôi là anh lính chiến
Rời quê hương từ độ máu khơi dòng
Buông tay gầu, vui lại thuở bình Mông
Chặt tay súng, ôi mơ ngày đắc thắng
Chân đã vẹt trên nẻo đường vạn dặm
Áo nào không phai lạt chút màu xưa!
Đêm hôm nay tôi trở về lành lạnh
Sông sâu mờ lấp lánh ánh sao thưa
Mảnh quần nâu đã vá mụn giang hồ
Ghì nấc súng tôi mơ về Nguyễn Huệ
Làng tôi đó, bên trại thù quạnh quẽ
Trông âm thầm như một đám mồ ma
Có còn không em hỡi, mẹ tôi già?
Những người thân đã khóc buổi tôi xa!
Tôi có người vợ trẻ đẹp như thơ
Tuổi chớm đôi mươi, cưới buổi dâng cờ
Má trắng mịn thơm thơm mùi lúa chín
Ai đã ra đi mà không bịn rịn
Rời yêu đương nào đã mấy ai vui?
Nàng lặng buồn nhìn với lúc chia phôi
Tôi mạnh bước mà nghe hồn nhỏ lệ!
Tôi có người mẹ
Tóc ngả màu bông
Tuổi già non thế kỷ
Lưng còng uốn nặng kiếp long đong
Nắng mưa từ độ tang chồng
Tơ tằm rút mãi cho lòng héo hon!
Thôi xa rồi, mẹ tôi
Đã mòn con mắt trông con phương trời
Cơ hồ chợt tỉnh đêm vơi
Nghe dòn tiếng súng nhớ lời chia ly
Mẹ ơi, con mẹ tìm đi
Bao giờ hết giặc con về mẹ vui!
Đêm hôm nay tôi trở về lành lạnh
Sông sâu mừng lấp lánh ánh sao thưa
Tôi là anh lính chiến
Theo quân về giải phóng quê hương
Đôi chân đất đạp xiêu đồn lũy địch
Này anh bộ đội - người bạn pháo binh -
Đã đến giờ chưa nhỉ?
Mà tôi nghe như trại giặc đã tan tành
Này anh rót cho khéo nhé
Kẻo lại nhầm nhà tôi
Nhà tôi ở dưới chân đồi
Có dàn hoa lý có người tôi thương.
~Yên-Thao~
TRƯỜNG-CHINH
1907-1988
Tức Đặng-Xuân-Khu, quê Hành-Thiện,
Xuân-Trrường, Nam-Định, Ủy viên bộ
Chính trị, Tổng Bí Thư, Chủ Tịch Hội
Đồng Nhà Nước. YÊU CON GÁI ĐỊA CHỦ Anh bạn ạ! Anh đã trót yêu con Địa chủ, Quá yêu rồi dứt bỏ sao đành. Đêm qua trằn trọc năm canh, Cũng không dứt nổi mối tình vấn vương! Anh yêu nó đẹp, nó ngoan, Anh yêu mặt nó trái soan hồng hào. Yêu văn hóa nó cao, nó giỏi. Đàn nó hay, giọng hát nó trong, Mắt đen răng trắng môi hồng. Anh yêu lòng đã xiêu lòng từ lâu. Sao anh chẳng đào sâu suy kỹ, Vì đâu nó đẹp, nó xinh. Vì đâu quần áo nó lành. Vì đâu nó được học hành giỏi giang? Biết bao kẻ lầm than đói khổ, Còng lưng làm nuôi nó ăn không. Kẻ thù giai cấp Công, Nông. Sao anh lại nỡ sống chung cho đành? (...) Anh yêu nó, anh nghe lời nó, Anh xa dân, anh bỏ lập trường, Anh xa Cách mạng giữa đường Anh xa rời Đảng, đầu hàng nó cơ! Không, không thể khi nào thế được! Anh đã nguyền vì nước hy sinh, Vì dân Lao động đấu tranh. Anh nên dũng cảm tiến lên, chớ lùi! ~Trường-Chinh~ (1950)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.12.2010 20:28:16 bởi Anh Nguyên >
VIỆT-PHƯƠNG
1928
Sinh tại Nà Nội, làm thơ.
MUÔN VÀN TÌNH THƯƠNG YÊU
TRÙM LÊN KHẮP QUÊ HƯƠNG
I
Trời đổ mưa, đi viếng Bác, đồng bào chờ, bị ướt
Bác thương đồng bào, con biết Bác không vui
Ngừng đập trái tim tột bậc con người
Cây cỏ đất trời không thật nữa
Mắt ta nhìn sắc màu cũng giả
Ôi ước gì không thật cả nỗi đau mồ côi
Con đóng cửa buồng, ở mình con với Bác
Chưa muốn cùng ai chia bớt nỗi đau này
Quanh người con và trong con
tất cả đều bỗng khác
Bác qua đời rồi sao con vẫn ngồi đây
Con không thể nghĩ rằng Bác Hồ đã mất
Mà nắng vẫn chuyền như sóc giữa lùm cây
Con chim đuôi dài được Bác che chở
vẫn bay về trước cổng
Cây vú sữa đầu nhà đang xoè rộng tán xum xuê
Bầy cá rô phi nhớ giờ Bác cho ăn
lại ngoi lên đớp sóng
Con ra đường quen đứng ngóng Bác quay về
Hôm nay trên vườn ta trời uy nghi lồng lộng
Hàng bụt mọc trầm tư vút thẳng bên bờ ao
Gió heo may trong cành đa lao xao tìm gọi nắng
Lê-nin trên bàn đang chờ đón Bác đi vào
Bác ơi lúa mùa này đồng thấp đồng cao
lên đẹp lắm
Cơn bão vào đất liền đi chậm lại rồi tan
Mua bia đã bớt xếp hàng và anh em còn cố gắng
Đêm qua 140 bốt đồn thù bị ta đánh trong Nam
Con trữ các loại tin đứng chờ đây
mong từ Bác một lời ánh sáng
Như từ lâu nay con thường vẫn hay làm
Bác lại về đi Bác ơi sau mấy ngày đi vắng
Khỏe mạnh hồng hào trong ánh nắng vườn cam
II
Đêm nay nghìn vạn chúng con
xếp thành hàng đi viếng Bác
Ôi làm sao nguôi được nhớ thương này
Chúng con đi cho cả người vắng mặt
Người chưa sinh, người đã khuất cũng về đây
Việt Nam đau cả lòng người dạ đất
Sao mùa thu như nước mắt trời mây
Chúng con đi theo tiếng người phía trước
Đường Hùng Vương dân tộc đi
từ dựng nước đến ngày nay
Hãy về đây lũ làng Tây Nguyên
đánh tiếng cồng thương xót
Những con nước Cửu Long bát ngát đợi Cha về
Đội áo tím sông Hương diệt Mỹ xong
bỗng bồi hồi kinh ngạc
Khi biết tiếng súng mình tai Bác vẫn hằng nghe
Về đây những tấm lòng trung kiên
trong chuồng cọp
Vết tím bầm thâm ghi tạc những câu thề
Về đây bà mẹ nghèo ở miền cao Hát Lót
Đã nhiều đêm gặp Bác giữa cơn mê
Hãy về đây những thợ xúc và lái xe khu mỏ
Vùng than ơi Người nhắc nhở bao lần
Những O gái Vĩnh Linh đầu tuyến lửa
Mơ Bác Hồ thương gian khổ vào thăm
Ông ké già nhà bên chân Pác-bó
Còn bàng hoàng hôm gặp gỡ đầu xuân
Những chiến sĩ trẻ măng trên Cồn Cỏ
Đài Bác cho đưa đất mẹ thêm gần
Muôn dòng sông chảy về lòng biển cả
Bác nằm đây nhớ rõ mỗi người thân.
III
Bác thường để lại đĩa thịt gà mà ăn trọn
mấy quả cà xứ Nghệ
Tránh nói rất to và đi rất nhẹ cả trong vườn
Tim đau hết nỗi đau người ở chân trời góc bể
Đến bên người ta thở dễ dàng hơn.
Khi đã quyết rất kiên cường mạnh mẽ
Đốt cháy Trường Sơn đánh Mỹ cũng không sờn
Lòng trời biển dịu hiền khi gặp trẻ
Sấm sét im cho nắng ấm chồi non.
Bác không bằng lòng gọi trận đánh
chết nhiều người là "đánh đẹp"
Con xoá chữ "đẹp" đi như xoá sự cạn hẹp
trong lòng con
Thêm hiểu lòng Người đối với quân
thù như sắt thép
Mà tình thương mênh mông ôm hết mọi linh hồn
Ngoài bảy nhăm, Bác vẫn thường ném bóng
Cái gạt tàn thuốc lá đã hàng năm
thôi không nóng trên bàn
Mỗi ban mai Bác luyện chân như ngày xưa
tập trèo sườn núi vắng
Con biết lòng Người quyết sống cho miền Nam
Con biết lòng Người quyết sống cho Việt Nam
và thế giới
Đầu bạc phơ trăm mối nước non nhà
Căn nhà nhỏ những canh khuya vời vợi
Vẫn lo toan tháo cởi những bất hoà
Trái tim lớn đêm ngày quên mệt mỏi
Dệt dải hồng chắp nối bạn gần xa
IV
Ôi lòng Bác bao la trong Di chúc
Vẫn hạt lúa củ khoai chân chất bình thường
Cả dân tộc khóc Người thương mình nhất
Người được thương trên tất cả người thương
Người suốt đời quên mình cho Tổ quốc
Khi ra đi chỉ dép lốp chiến trường
Nguồn ánh sáng đến muôn đời chẳng tắt
Vượt cao hơn sự chết vẫn soi đường
Ba Đình nức nở và ròng ròng nước mắt
Muôn vàn tình thương yêu trùm lên
khắp quê hương
Ôi ta khóc tim ta dường như xé
Từ trái tim giọt lệ hoá câu nguyền
Ta chẳng giấu trước bạn bè quốc tế
Nỗi đau này cao cả thiêng liêng
Ta khóc cho mọi nơi còn xích xiềng áp bức
Cho đời ta và lớp lớp đời sau
Cho Trường Sơn, cho Tháp Mười, cho miền Nam
ân hận chưa được chào đón Bác
Ta khóc những lỗi lầm làm tim Bác thêm đau
Ta tự biết sức ta trong những dòng nước mắt
Cho ta khóc hôm nay để từ mai ta lao lên
đánh giặc ở tuyến đầu
Sau bao năm đồng chí với Người,
con gọi Người: Đồng chí
Là khi con vĩnh biệt Người, đồng chí, Bác Hồ ơi!
Con nguyện làm một mảnh của Người,
đến trọn đời tận tuỵ
Hồ Chí Minh, người cộng sản rất mực Việt Nam
và vô cùng chung thuỷ con người
Ta gạt nước mắt ngẩng đầu lên,
vẫn nắng Ba Đình trong veo
Người đem về năm trước
Ta thề mang ánh nắng này
đến nhà mẹ già ở tận trót Cà Mau
Những biên đội không quân
như hình ảnh dân tộc ta
lượn quanh Người, lớn vượt
Cất cánh bay cao theo tay Bác vẫy trên đầu.
~Việt-Phương~
4-10 tháng 9 năm 1969
NXB Lao động - 2001
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.01.2011 07:17:59 bởi Anh Nguyên >
PHÙNG-CUNG
1928-1997
May lắm là chỉ biết sơ sơ - anh đã tham
gia trào lưu Nhân Văn - Giai Phẩm hồi
giữa thập niên 50, đã cho đăng truyện ngắn
«Con Ngựa Già Của Chúa Trịnh» trên báo
Nhân Văn số 4, tháng 10 năm 1956, sau đó
bị đấu tố tơi bời, rồi bị cầm tù ròng rã 12
năm, ra tù còn bị hành hạ, sách nhiễu cho
đến ngày qua đời.
...Tôi đứng trong đêm
Ngửng đầu nhìn cao xa
Vọng hỏi
Có phải nước mắt con người
Đằm đằm dội xuống
Mà trên thiên cầu
Bao vì sao xao xuyến đổi ngôi.
Lòng ái quốc, tinh thần nhân bản
sáng ngời trên mỗi vần thơ!
Đất nước ơi
Tôi mến người
Như khi nhìn em bé ngủ
Tôi thương người
Như thương mẹ ốm
Vì đâu
Người khoác manh áo đỏ
Thừa sai - cũn cỡn
Tủi nhục tháng ngày
Long đong chiều sớm
Ôi! có bao giờ
Người đau đớn như thế này không.
Tổ quốc kính yêu ơi!
Văn hiến - thuần phong mỹ tục
Phút chốc bàn tay cộng sản dập vùi...
Quê hương ơi!
Đường quan lầy nước mắt,
Ơi đất nước sa cơ
Già - trẻ bơ vơ nheo nhóc...
Ơi quê hương
Hỡi những ngày xưa!
Thuỷ chung - nhân ái Tất cả chìm - ngâm
Trong lừa dối cuồng điên...
"Quê nôi" ơi!
Dối trá đê hèn Trùm muôn cửa ngõ ...
SÔNG THƯƠNG - SAO THƯƠNG
...Ôi! lòng đã ưu tư
Lại thai nghén chiến tranh
Hoạ cơm áo!
Vẫn giằng co súng gươm oan trái
Chăn viện trợ phủ kín biên thuỳ...
...Chính chúng nó
Phường cộng sản
Lái buôn binh lửa
Ôi! Binh lửa triền miên
Tuổi trẻ gái - trai
Bị lôi đi - đi hết...
...Quan hà lộng gió chinh phu
Rừng thu tắm máu
Máu thu gội chiều
Tơ vàng nhỏ giọt lệ điều
Đăm đăm tay vẫn chiều chiều quay xa...
... Khe Sanh - Dốc miếu là đâu
Vắng con nhớ đến bạc đầu cô đơn
Máu chiều gội đỏ hoàng hôn
Nghĩa trang mồ giả, nắm xương không mồ
Đồng chiều gió tím mấp mô
Nén hương đẹn khói, mấy mùa khóc vay.
... Tôi biết em khóc nhiều
Vì chồng em tử trận
Em khóc lúc hừng đông
Nước mắt cử hành
Mặt nạ tay hèn
Lẻn vào đong đếm...
... Em khóc lúc hoàng hôn
Thì quanh em
Lộng gió cô đơn
Từng giọt rực sáng
Trong nhiều thế giới...
... Não lòng thay!
Mảnh đất bán khai
Tình nguyện tiền đồn
Đăng cai binh lửa...
... Tổ quốc kính yêu ơi!
Khói lửa ngút trời
Cháy gia phả
Cháy tình bằng hữu
Cháy cơi trầu bách niên giai lão
Cháy tia trăng thơm
Trên làn tóc trẻ thơ
Hiếu chiến thừa sai
Ruổi cờ dẫn lộ
Giàn cầu lửa
Di lăn - bách hại
Ngập máu!
~Phùng-Cung~
64
TRĂNG NGỤC
Ôi,
cái ngày tự do xưa kia,
sao mà cứ xa mãi,
biết bao giờ quay trở lại!
~Phùng-Cung~
Trăng qua song sắt
Trăng thăm ngục
Bỗng ta chợt tỉnh - sững sờ
Trên vai áo tù
Trăng vá lụa
Ngày xưa ơi !
Xa mãi đến bao giờ.
Mà không chỉ một bài Trăng Ngục đó! Còn bao nhiêu bài hay nữa, như Biển Cả, Em Quỳnh, Tổ Quốc, Quê Hương, Nước Mắt, Cung Trời, Thu Xa, Dòng Sông, Quê Xa, Mỏi Xanh, Mẹ, Sông Thương - Sao Thương, Sống Chết, Bước Vô Định, Tội Nghiệp...
Về thơ Phùng Cung, còn có thể viết nhiều nữa, nhưng ở đây tôi chỉ xin giới thiệu vài đoạn dể thấy rõ cái tình cảnh bi thảm của nhà thơ, cũng như ý chí bất khuất của anh.
...Ta một con người
Nạn nhân đang vòng tù ngục
Đêm ngày chân rỉ máu cùm lim
Linh hồn bất khuất
Trên đầu là thượng đế
Dưới chân là mặt đất hiếu sinh
Bức xúc lương tri
Ta phải xuống đường...
...Còng sắt cùm lim ngấy máu tù
Vầng dương mãi bỏ quên ta
Bóng du nguyệt chưa qua đã khuất
Thâu ngày đêm
Bị sự im lặng quấy rầy
Tóc mủn trạt vai chờ di chúc
Trái tim vẫn đều đặn
Mô phỏng nhịp trữ tình...
Đất nước tôi
Triền miên bất hạnh
Tụi mặt dày - tay bẩn
Tim rắn - lời cừu
Văn hoá lớp hai
Điều hành cuộc sống
Tránh làm sao
Khỏi nát ngọc nhân quyền...
Ngay cả lúc chúng thét gào dữ tợn thì thái độ nhà thơ vẫn ung dung, tự tại, không chút khiếp sợ:
...Ôi! Bao yên lặng thanh cao
Đang chìm lăn
Trong thét gào man rợ
Thì nhắm mắt
Thì bưng tai
Phải đâu khiếp sợ
Chỉ điếc đui vừa đủ
Để làm ngơ...
Và anh suy tư, suy tư rất nhiều, nghiễm nhiên thành triệu phú trầm tư, vất vả lặn lội để kiếm tìm sứ mệnh trong sáng tuyệt vời của thi ca!
...Nhà thơ chân đất
Đãy vải - gió đưa
Kiếm tìm sứ mệnh
Mỗi ý nghĩ trong ta
Đều trải qua lặn lội
Như phận chiếc cò
Lặn lội trong phong dao...
Bài "Xuống Đường", làm trong xà lim biệt giam Lao Cai hồi năm 71, là một trong những bài thơ vừa có sức mạnh tố cáo, vừa nêu bật ý chí mãnh liệt của nhà thơ.
Lãnh thổ mến yêu ơi!
Nai lưng trần dưới vòm trời nhiệt đới
Xứ sở của thi ca
Của lòng cả tin - nhẹ dạ
Của đói nghèo nhẫn nhục
Úp mặt - rủi may - đắp đổi
Khóc mếu tối ngày...
Thế rồi, cái "học thuyết Rắn-hổ-mang-vua" (tôi đoán nghĩa của chữ lạ trong bài như thế) đội lốt công nông từ trời Tây du nhập vào, lúc đầu - khi chưa nắm được chính quyền - nó làm ra vẻ ngoan ngoãn, hiền lành lắm, thậm chí còn tình nguyện làm ngựa làm trâu cho người dân (cái ý này có xuất xứ của nó: tôi còn nhớ trong một cuộc kỷ niệm của Đảng cộng sản Việt Nam - hồi còn đội lốt Đảng lao động - ông Hồ có đọc hai câu thơ của một tác giả Trung Quốc để ví với Đảng lao động, không sợ bất kỳ kẻ địch nào, nhưng lại nguyện làm trâu ngựa cho nhân dân: Liếc mắt xem khinh nghìn lực sĩ, Cúi đầu làm ngựa đứa nhi đồng):
Học thuyết King-cô-bra
Đội lốt công nông - rình rập
Từ trời tây ập tới
Lúc thoát thai
Nó vờ xin rửa tội
Trộm cắp ánh tà dương
Trước mọi người
Nó khoanh tay - quỳ gối - cúi đầu
Tình nguyện đời đời
Làm ngựa làm trâu
Khi gấp khúc nó ngoan ngoãn
Giành hoàn thiện chức năng gia cẩu
Hầu hạ phấn son
Len lỏi trong lẵng hoa
Trong đồ chơi em bé...
Thế nhưng, khi nắm được chính quyền rồi thì nó gây biết bao thảm hoạ cho nhân dân...
Mong hiện nguyên hình
Như dưới vòm trời bất hạnh - hôm đây
Bản chất nó là cuồng bạo
Huênh hoang lấp biển vá trời
"Kiến tạo địa đàng - hạnh phúc"
Tiếc thay, những người thường dân ngây thơ, mộc mạc đã trót lỡ chìa tay cho nó, nên nó càng mặc sức gây ra muôn vàn đau thương cho dân chúng. Có những đoạn trong thơ làm người đọc liên tưởng đến cuộc cải cách ruộng đất đầy tội ác ở miền Bắc...
...Khốn nạn thay!
Chân đất đầu trần chót chìa tay
Đã lỡ!
Thảm hoạ triền miên
Ôi! tay chúng cầm lê
Đâm người - dấu mặt
Lại vội lau tay - vu cáo - gây thù
Cha con nghi ngờ
Vợ chồng cảnh giác
Già trẻ xóm giềng
Nhìn nhau len lén
Di hoạ đứng rình
Trong tối lửa tắt đèn
Ngột ngạt - tối tăm - quằn quại
Vô phương khả đảo...
Bắt chước "thiên triều" đỏ ở Liên Xô và Trung Quốc, tập đoàn thống trị đã làm biết bao điều bạo ngược.
...Nhịp bước thiên triều
Giày xéo thuần phong mỹ tục
Lăng nhục miếu đền
Sừng sững dựng khải hoàn môn máu
Quay quắt đổi đầu
Thò lò muôn mặt Lê-mác-mác-lê...
Còn người dân Việt Nam khốn khổ thì
Lầm than buộc bụng vác cờ
Tung hô bỏng họng
...Thiên triều tiếp sức
Õng ẹo điệu ương ca
Mạ màu mao-ít
Ma thuật ngoan tay
Tạt độc dược vào tâm - vào não...
Và khi người dân trúng độc rồi, chúng lại càng thêm bạo ngược:
...Cờ máu ngợp trời
Lợm gió!
Tiếng quốc thiều
Tăng âm cực đại thét gào
..."Thề phanh thây uống máu!..."
Ta lùng trong kho nhớ
Nhẩm biên niên sử
Xin hỏi loài người
Có quốc thiều nào man rợ thế không
Trước mặt sau lưng
Ngàn trùng khóc lóc
Ôi! mỗi tiếng chim kêu
Đếm từng đọi máu
Sóng máu ào ào
Tràn bờ thế kỷ...
Trong tình cảnh đó, nhà thơ dù đang trong vòng tù ngục cũng thấy lương tri giục giã phải xuống đường tranh đấu, cái ý chí đó vô cùng mạnh mẽ, quyết hy sinh mình vì sự sống của muôn dân. Hình ảnh mài gươm dưới nguyệt của Đặng Dung trong bài Cảm Hoài hồi đầu thế kỷ 15, đã được Phùng Cung khéo dùng lại để tạo nên một tứ thơ mới nói lên ý chí của mình - nước mắt mài gươm, vừa hợp với hoàn cảnh của nhà thơ, lại gây ấn tượng mạnh.
...Phải xuống đường
Tìm sinh trong tử
Nước mắt mài gươm
Gươm bén dân lành
Ta chắp tay - ngửa mặt
Cầu xin các đấng linh thần
Cho ta sức mạnh phi trần
Đủ tung hoành, xông xáo
Tận cùng hang ổ
Băm xả vào đầu con rắn đỏ
Cây cỏ vươn reo
Mượn gió nhắn bốn phương
Con rắn đỏ tử thương - rãy giụa
Nó lí nhí van xin chôn cất...
Còn có thể nói rất nhiều nữa về thơ Phùng Cung, nhưng thiết tưởng với chừng ấy cũng đủ để bạn đọc thấy chúng ta đang có trong tay những di sản quý báu của thi ca nước nhà. Chỉ riêng việc những vần thơ này được trân quý, bảo trọng còn lại cho đến ngày nay và tới tay bạn đọc đã là một điều kỳ diệu! Chắc điều đó đáp ứng được phần nào ước nguyện thầm kín mà nhà thơ hằng ấp ủ mấy chục năm trường khi còn ở cõi trần.
Hy vọng rằng những hạt ngọc quý mà người nghệ sĩ Phùng Cung chiết ra từ máu và nước mắt của mình để hiến cho đời, sẽ càng thêm phô sắc, thêm rực rỡ dưới ánh mặt trời và đem lại cho bạn đọc Việt Nam nhiều xúc động và khoái cảm, đồng thời cũng đem lại những suy tư về trách nhiệm và hành động của mỗi người trong sự nghiệp cứu nước, cứu dân./.
Hè Moskva 03.08.03
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.01.2011 06:07:32 bởi Anh Nguyên >
LÊ-ĐẠT
1929-2008
Sinh tại Yên-Bái, sống ở Hà-Nội, sinh hoạt
văn học cùng với các nhà thơ chiến hữu Trần
Dần, Phùng Quán, Văn Cao, thành viên sáng
lập HNVVN. Viết bài “Ông bình vôi” trong Nhân
Văn Giai Phẩm, được nhiều người cho là ám chỉ
các lãnh tụ đảng, bị lên án phản động, bị truất
quyền đảng viên, bị khai trừ khỏi Hội Nhà Văn,
30 năm sau mới được phục hồi hội viên HNV. CHA TÔI*
Đất quê cha tôi đất quê Đề Thám
Rừng rậm sông sâu
Con gái cũng theo đòi nghề võ
Ngày nhỏ cha tôi dẫn đầu lũ trẻ đi chăn trâu
Phất ngọn cờ lau
Vào rừng Na Lương đánh trận
Mơ làm Đề Thám
Lớn lên, cha tôi đi dạy học
Gối đầu trên cuốn Chiêu hồn nước
Khóc Phan Chu Trinh
Như khóc người nhà mình
Ôm mộng bôn ba hải ngoại
Lênh đênh khói một con tàu
Sớm tối ngâm nga mấy vần cảm khái
Đánh nhau với Tây
Bỏ việc lang thang vào Nam ra Bắc
Cắt tóc đi tu nhưng quá nặng nghiệp đời
Gần hai mươi năm trời
Tôi vẫn nhớ lời cha tôi cháy bỏng
Dạy tôi làm thơ, ước mơ, hi vọng
Những câu Kiều say sưa đưa cuộc đời bay bổng
Tiếng võng trưa hè mênh mông
Phong trần mài một lưỡi gươm
Những phường giá áo túi cơm sá gì.
Nhưng công việc làm ăn mỗi ngày mỗi khó
Cuộc đời chợ đen chợ đỏ
Thù hằn con người
"Muốn sống thanh cao đi lên trời mà ở
Mày đã quyết kiêu căng
Níu lấy cái lương tâm gàn dở
Dám không tồi như chúng tao
Suốt đời mày sẽ khổ".
Quan lại trù cha tôi cứng đầu cứng cổ
Người "An Nam" dám đánh "ông Tây"
Mẹ ỉ eo dằn vặt suốt ngày
Chửi mèo, mắng chó
"Cũng là chồng là con
Chồng người ta khôn ngoan
Được lòng ông tuần ông phủ
Mang tiền về nuôi vợ".
Bát đĩa xô nhau vỡ
Cha tôi nằm thở dài
Cha nhịn đi cho đỡ
Anh em tôi, bỏ cơm
Hai đứa dắt nhau ra đường tha thẩn
Trời mùa đông trăng sáng
Sao nở như hoa
Không biết Ngưu Lang trên kia
Có bao giờ cãi Chức Nữ.
Rồi cha tôi lui tới nhà quan tuần, quan phủ
Lúc về, gặp tôi đỏ mặt quay đi
Một hôm, tôi thấy chữ R.O treo ngoài cửa
Cha tôi không dạy tôi làm thơ nữa
Người còn bận đếm tiền ghi sổ
Thỉnh thoảng nhớ những ngày oanh liệt cũ
Một mình uống rượu say
Ngâm mấy câu Kiều, ôm mặt khóc
Tỉnh dậy lại loay hoay ghi sổ đếm tiền
Hai vai nhô lên
Đầu lún xuống
Như không mang nổi cuộc đời
Bóng in tường vôi im lặng
Ngọn đèn leo leo ánh sáng
Bóng với người như nhau
Mùi ẩm mốc, tiếng mọt kêu cọt kẹt
Ở chân bàn hay ở cha tôi?
Cuộc sống hàng ngày nhỏ nhen tàn bạo.
Rác rưởi gia đình miếng cơm manh áo
Tàn phá con người.
Những mơ ước thời xưa như con chim gẫy cánh
Rũ đầu chết ngạt trong bùn
Năm tháng mài mòn bao nhiêu khát vọng.
Cha đã dạy con một bài học lớn
Đau thương kiên quyết làm người.
Không nên lùi bước cuộc đời phải thắng. ~Lê-Đạt~ NHÂN CÂU CHUYỆN MẤY NGƯỜI TỰ TỬ (Trích) Báo Nhân dân số 822
Có đăng tin mấy người tự tử
Vì câu chuyện tình duyên dang dở
Trưa mùa hè nóng nung như lửa
Tôi ngồi làm thơ
Vừa giận vừa thương những người xấu số
Chân chưa đi hết đường đời
Đã vội nằm dưới mộ. Chết là hết
Hết đau hết khổ
Nhưng cũng là hết vầng trăng soi sáng trên đầu
Hết những bàn tay e ấp tìm nhau Người con trai ngồi trên gò đất
Thổi sáo gọi người yêu
Bắt nắng chiều đứng lại
Lúa đang thì con gái…
Xôn xao gió thổi
Đầu sát bên đầu tính chuyện tương lai Anh công an nơi ngã tư đường phố
Chỉ đường cho
xe chạy
xe dừng
Rất cần cho luật giao thông
Nhưng đem bục công an đặt giữa trái tim người
Bắt tình cảm ngược xuôi
Theo luật lệ đi đường nhà nước
Có thể gây nhiều đau xót
ngoài đời" ~Lê-Đạt~
ÔNG BÌNH VÔI Những kiếp người sống lâu trăm tuổi Y như một dãy bình vôi Càng sống càng tồi Càng sống càng bé lại... ~Lê- Đạt~
Sau khi bị vụ Nhân văn-Giai phẩm trong
vòng 30 năm, Lê Đạt đi vào viết về thân
phận của mình, của xã hội thời kỳ cấm
đoán và tìm tòi cách tân thơ.
CẢNG CẤM
Hai vợ chồng ghế đá đêm suông
Cảng Cấm còi tàu u ú
gió oà
Đất nước mẹ mình
hay mẹ ghẻ ~Lê-Đạt~
THU NHÀ EM
Anh đến mùa thu nhà em
Nắng cúc lăm răm vũng nhỏ
Mà cho đấy rửa lông mày
Nông nỗi heo may từ đó Mưa đêm tuổi nổi ao đầy
Đồi cốm đường thon ngõ cỏ
Bướm lượn bay hoa ngày
Tin phấn vàng hay thuở gió Tóc hong mùi ca dao
Thu rất em
và xanh rất cao ~Lê-Đạt~
ÁC MỘNG
Mơ tôi một giấc mơ khiếp sợ
Đường phố cả căn nhà tôi ở
Mặt sắt chữ vàng biển đỏ
“Không phận sự miễn vào” ~Lê-Đạt~
BƯỚC KỶ XXI Năm 2000
năm chiếu cố
những địa đầu thiểu số Các nhà cầm quyền
đối đám nghi can
đúng trước giờ công bố
hãy nhẹ tay. ~Lê-Đạt~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 31.01.2011 10:43:12 bởi Anh Nguyên >
PHÙNG-QUÁN
1932-1995
Quê Thủy-Dương, Hương Thủy, Thừa-Thiên,
học ở Huế, vào Bộ đội, chiến đấu ở Bình-Trị-
Thiên, làm thơ, viết tiểu thuyết, truyện ngắn,
ra Bắc làm văn hóa văn nghệ ở Trung ương,
tham gia nhóm Nhân-Văn Giai-Phẩm.
CHIỀU HÀNH QUÂN
Chiều mưa hành quân
Nước đầm chấn thủ
Qua những ngôi nhà bé nhỏ
Như tổ chim mọc rải rác bên đường
Quanh bếp lửa hồng
Vợ chồng con cái
Ngồi so đũa bên nồi cơm mới xới
Trắng dẻo ngọt ngào thơm.
Chúng tôi quên mưa lạnh đường trơn
Thấy lòng ấm lại
Trong niềm vui no ấm của nhân dân.
Em bé bỏ bát ăn
Chạy ra cửa
Tranh nhau đếm bộ đội
Đếm ba lô
Đếm súng
Nhoẻn miệng cười, mắt sáng như trăng.
- Súng nớ của mi!
- Súng ni của tao!
- Súng tao to hơn!
- Súng tao dài hơn!
Chúng tôi cười:
- Súng của các em tất cả
Trao cho anh đi giành lại áo cơm.
Em cười như ngô rang
Ấm cả chiều mưa lạnh
Vành môi em lấp lánh
Cất tiếng hát tình tang:
- Hoan hô anh vệ quốc đoàn
Ăn sương nằm đất đánh tan quân thù
Tính tình tang, tang tính tình.
Tiếng hát thanh thanh
Ngọt mùi sữa mẹ
Như nhắc chúng tôi
Giữ lấy hòa bình các anh nhé
Cho em vui hát mãi điệu tính tang.
~Phùng Quán~
LỜI MẸ DẶN*
Tôi mồ côi cha năm hai tuổi
Mẹ tôi thương con không lấy chồng
Trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải
Nuôi tôi đến ngày lớn khôn.
Hai mươi năm qua tôi vẫn nhớ
Ngày ấy tôi mới lên năm
Có lần tôi nói dối mẹ
Hôm sau tưởng phải ăn đòn.
Nhưng không, mẹ tôi chỉ buồn
Ôm tôi hôn lên mái tóc
- Con ơi
trước khi nhắm mắt
Cha con dặn con suôt đời
Phải làm một người chân thật.
Mẹ ơi, chân thật là gì?
Mẹ tôi hôn lên đôi mắt
Con ơi, một người chân thật
Thấy vui muốn cười cứ cười
Thấy buồn muốn khóc là khóc.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu.
Từ đấy người lớn hỏi tôi:
Bé ơi, Bé yêu ai nhất?
Nhớ lời mẹ, tôi trả lời:
Bé yêu những người chân thật.
Người lớn nhìn tôi không tin
Cho tôi là con vẹt nhỏ
Nhưng không! Những lời dặn đó
In vào trí óc của tôi
Như trang giấy trắng tuyệt vời
In lên vết son đỏ chói.
Năm nay tôi hai mươi lăm tuổi
Đứa bé mồ côi thành nhà văn
Nhưng lời mẹ dạy thuở lên năm
Vẫn nguyên vẹn màu son chói đỏ.
Người làm xiếc đi giây rất khó
Nhưng chưa khó bằng làm nhà văn
Đi trọn đời trên con đường chân thật.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu.
Tôi muốn làm nhà văn chân thật
Chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn trên đá.
~Phùng Quán~
1957
CÂY MẬN VĨNH LINH
Lấp hố bom giữa nhà
Tôi ươm một trái mận
Trái mận tôi cạy ra
Từ bàn tay vợ nắm
Vợ tôi sắp làm mẹ
Thèm ăn rở của chua
Túi áo nàng không khế
Thì cũng mận, cũng mơ
Ôi trái mận, trái mận
Cắn dở còn vết răng
Nảy mầm trong xót thương
Đâm chồi trong thù hận
Vĩnh Linh im tiếng súng
Tôi trở lại ngôi nhà
Nơi vợ tôi nằm xưa
Xum xuê một cây mận
Ôi cây mận, cây mận
Trái chín trĩu cành cong
Trái nào tôi cũng thấy
Cắn dở một vết răng!
~Phùng-Quán~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 31.01.2011 11:04:08 bởi Anh Nguyên >
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 3 bạn đọc.
Kiểu: