Dòng thơ miền bắc
        
        
    
    
    
	
        
    
        
        
            
            
               
  DÒNG THƠ MIỀN BẮC 
                         1954-1975 
   
   
  MUC LUC 
   
  HỒ CHÍ MINH 
  -    Ngục trung nhật k ý 
  -    Nạn hữu xuy địch 
  -    Vọng nguyệt 
  -    Nguyên tiêu 
  XUÂN THỦY 
  -     Ngôi nhà kháng chiến 
  LÊ ĐẠT 
  -    Cha tôi 
  HỮU LOAN 
  -    Màu tím hoa sim 
  -    Đèo cả 
  -    Hoa lúa 
  ANH THƠ 
  -    Tôi đón tin vui từ Hà-Bắc 
  -    Cun đã về nơi Bác ở ngày xưa 
  -    Dưới bong ô-liu 
  -    Hai nhăm năm 
  -    Ở vườn thực vật Clouj 
  NGUYỄN ĐỨC GIỚI 
  -     Lên Cấm Sơn 
  HUY CẬN 
  -    Gửi bạn người Nghệ-Tĩnh 
  -    Tổ Quốc 
  -    Xem triển lãm tượng gỗ nhân gian 
  -    Về thăm quê xã Đức-Ân 
  QUANG DŨNG 
  -    Đôi mắt người Sơn Tây 
  -    Đôi bờ 
  -    Tây tiến 
  -    Cố quận 
  -    Lính râu ria 
  -    Quán bên đường 
  -    Mưa 
  -    Chabbi Chabbi 
  HOÀNG LỘC 
  -    Viếng bạn   
  HOÀNG CẦM 
  -    Đêm liên hoan 
  -    Bên kia song Đuống 
  -    Đêm thổ 
  -    Em bé lên sáu tuổi 
  VŨ CAO 
  -     Núi Đôi 
  NGUYỄN ĐÌNH THI 
  -    Đất nước 
  TRẦN DÂN 
  -    Nhất định thắng 
  -     Bài thơ Việt Bắc 
  PHẠM HỔ 
  -     Những ngày xưa thân ái 
  YÊN THAO 
  -    Nhà tôi 
  VIỆT PHƯƠNG 
  -    Muôn vàn tình thương yêu 
   trùm lên khắp quê hương 
  LÊ ĐẠT 
  -     Cha tôi 
  HOÀNG CÁT 
  -    Trong mảnh vườn xưa 
  PHÙNG QUÁN 
  -    Chiều hành quân 
  -    Lời mẹ dặn 
  -    Cây mận Vĩnh Linh 
  TỐ HỮU 
  -    Ta đi tới 
  -    Bài ca mùa xuân 1961 
  -    Việt Nam máu và hoa 
  -    Bài ca quê hương 
  -    Đời đời nhớ ông 
  -    Có một người yêu thích 
  -    Dậy mà đi 
  TẾ HANH 
  -    Vườn xưa 
  -    Nhớ con sông quê hương 
  -    Bài thơ tình ở Hàng Châu 
  BẰNG VIỆT 
  -    Bếp lửa 
  -    Em đừng ghen 
  HOÀNG TRUNG THÔNG 
  -    Bao giờ trở lại 
  -    Những cánh buồm 
  -    Bài ca vỡ đất 
  XUÂN DIỆU 
  -    Những đêm hành quân 
  MINH HUÊ 
  -    Đêm nay bác không ngủ 
  NGUYỄN BễNH 
  -    Xuân nhớ 
  -    Hành phương nam 
  THU TRANG 
  -    Nói sao cho vợi 
  TRẦN HỮU TRUNG 
  -    Thăm lúa 
  CẦM VĨNH ÙI 
  -    Nhớ vợ 
  CHẾ LAN VIÊN 
  -    Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng 
  PHẠM NGỌC CẢNH 
  -    Sư đoàn 
  CHÍNH HỮU 
  -    Đồng chí 
  -    Ngọn đèn đứng gác 
  THU BỒN 
  -    Tạm biệt Huế 
  -    Bài ca chim chơrao 
  NGUYỄN CHÍ THIỆN 
  -    Anh gặp em 
  -    Sẽ có một ngày 
  -    Đồng lầy 
  -    Không có gì quý hơn Độc lập Tự do 
  -    Ngày Tết 
  -    Ta nhớ 
  -    Đau đớn lắm 
  ĐOÀN VĂN NGHIÊU 
  -    Chiếc gáo dừa 
  -    Vài khoảnh khắc tháng tư 
  NGUYỄN DUY 
  -    Đò Lèn 
  LÊ CHÍ 
  -     Nếu một ngày anh ch ẳng còn em 
  LÊ ANH XUÂN 
  -    Nhớ cơn mưa quê hương 
  -    Trở về quê nội 
  -    Dừa ơi 
  BÀNG SĨ NGUYÊN 
  -    Một mái nhà đỉnh núi 
  SONG HÀO 
  -    Bên cửa sổ 
  CẦM GIANG 
  -    Núi Mường-Hung dòng sông Mã 
  LÂM THỊ MỸ DẠ 
  -    Anh đừng khen em 
  VŨ CAO 
  -    Núi Đôi 
  GIANG NAM 
  -    Quê hương 
  LƯU QUANG VŨ 
  -    Vườn trong phố 
  -    Những ngày chưa có em 
  -    Những bong hoa không chết 
  -    Việt Nam ơi! 
  BẠC VĂN ÙI 
  -    Em tắm 
  NGUYÊN MY 
  -    Cuộc chia ly màu đỏ 
  HỮU THỈNH 
  -    Nghe tiếng quốc kêu 
  NÔNG QUỐC CHẤN 
  -    Dọn về làng 
  TÚ MỠ 
  -    Khóc người vợ hiền 
  THÔI HỮU 
  -    Lên Cẩm-Sơn 
  NGUYÊN HỒNG 
  -    Cửu-Long-Giang ta ơi 
  NGUYỄN ĐỨC MẬU 
  -    Một vị tướng về hưu 
  HOÀNG TRẦN CƯƠNG 
  -    Miền Trung 
  -    Quặng lửa 
  CA LÊ HIÊN 
  -    Trở về quê nội 
  TRẦN ĐĂNG KHOA 
  -    Hạt gạo làng ta 
  -    Bàn chân thầy giáo 
  -    Gửi bác Trần-Nhuận-Minh 
  -    Thơ tình người lính biển 
  -    Giã biệt Matxcơva 
  PHẠM TIẾN DUẬT 
  -    Cô bộ đội ấy đã đi rồi 
  -    Trường sơn đông Trường sơn tây 
  -    Người ơi người ở 
  -    Gửi em, cô Thanh niên xung phong 
  NGUYỄN BÁ CHUNG 
  -    Quê hương 
  TRẦN HUYỀN TRÂN 
  -    Mưa đêm lều vó 
  -    Độc hành ca 
  NGUYỄN NGỌC OÁNH 
  -    Mẹ 
  HỒNG NGUYÊN 
  -    Nhớ 
  VĂN LÊ 
  -    Tháp Chàm 
  TRẦN VÀNG SAO 
  -    Bài thơ của một người yêu nước mình 
  VĂN CAO 
  -    Năm buổi sáng không có trong sự thực 
  THANH THAO 
  -    Một người lính nói về thế hệ mình 
  LÊ THỊ KIM 
  -    Viết cho chuồn chuồn kim 
  -    Đừng nhìn em như thế 
  -    Khi tình yêu đến 
  -    Gần lắm Trường-Sa 
  NGUYỄN VŨ TIÊM 
  -    Ảo ảnh giai nhân 
  BÙI CÔNG MINH 
  -     Ngày và đêm 
  LÊ GIANG 
  -     Em vẫn đợi anh về 
   
   
   
  HỒ CHÍ MINH 
        1890-1969 
  Tức Nguyễn Sinh Cung, Quê Kim 
  Liên, sinh tại quê ngoại Hoàng Trù, 
  Chung Cự, Lâm Thịnh, Nam Đàn,  
  Nghệ An. Chủ tịch Ban chấp Hành 
  Trung Ương Đảng Lao Động VN 
  1951-1969, Chủ Tịch nước 1945- 
  1969. 
   
   
  NGỤC TRUNG NHẬT KÝ 
   
  Thân thể tại ngục trung 
  Tinh thần tại ngục ngoại 
  Dục thành đại sự nghiệp 
  Tinh thần cánh yếu đại 
  ~Hồ Chí Minh~ 
   
  Dịch: 
      
  Nhật ký trong tù 
   
  Thân thể ở trong lao, 
  Tinh thần ở ngoài lao. 
  Muốn nên sự nghiệp lớn, 
  Tinh thần phải càng cao. 
  ~Nam Trân~ 
   
    
  NẠN HỮU XUY ĐỊCH 
   
  Ngục trung hốt thính tư hương khúc 
  Thanh chuyển thê lương điệu chuyển sầu 
  Thiên lý quan hà vô hạn cảm 
  Khuê nhân cánh thượng nhất tằng lâu 
  ~Hồ Chí Minh~ 
   
  Dịch: 
   
  Trong lao vẳng khúc nhạc tình quê, 
  Âm chuyển sầu, thương, điệu tái tê.  
  Nghìn dặm quan hà, khôn xiết nỗi, 
  Lên lầu, xa ngóng, khách phòng khuê. 
  ~Huệ Chi~ 
   
   
  VỌNG NGUYỆT 
   
  Ngục trung vô tửu diệc vô hoa, 
  Đối thử lương tiêu nại nhược hà. 
  Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt, 
  Nguyệt tòng song khích khán thi gia. 
  ~Hồ Chí Minh~ 
   
  Dịch: 
         
  Ngắm trăng 
   
  Trong tù không rượu cũng không hoa 
  Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ 
  Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ 
  Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ 
  ~Nam Trân~ 
   
    
  NGUYÊN TIÊU*  
   
  Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên 
  Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên  
  Yên ba thâm xứ đàm quân sự  
  Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.  
  ~Hồ Chí Minh~ 
   
  Dịch: 
   
  Rằm tháng giêng  
   
  Rằm xuân lồng lộng trăng soi  
  Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân  
  Giữa dòng bàn bạc việc quân  
  Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền. 
  ~Xuân-Thủy~ 
   
   
  ĐỀ ĐỀN KIẾP BẠC 
  NƠI THỜ ĐỨC THÁNH TRẦN 
   
  Bác anh hùng, tôi cũng anh hùng 
  Tôi, bác cùng chung nghiệp kiếm cung 
  Bác diệt quân Nguyên thanh kiếm bạc 
  Tôi trừ giặc Pháp ngọn cờ hồng 
  Bác đưa một nước qua nô lệ 
  Tôi dắt năm châu đến đại đồng 
  Bác có linh thiêng cười một tiếng 
  Mừng tôi kách mệnh sắp thành công. 
  ~Nhà kách mệnh Ái Quốc Hồ-Chí-Minh Nguyễn-Tất-Thành~ 
   
   
  HOÀNG VĂN THỤ 
       1906-1944 
  Người dân tộc Tày, quê Nhân-Lý, Văn-Uyên, 
  Lạng-Sơn, làm Cách Mạng, gầy dựng được nhiều 
  Cơ sở Đảng ở Long-Châu, Cao-Bằng, Lạng-Sơn, 
  Ủy viên ban Thường vụ Trung ương Đảng, bị Pháp 
  bắt câm tù, ông còn để lại bài thơ: 
   
  Việc nước xưa nay có bại thành;  
  Miễn sao giữ trọn được thanh danh.  
  Phục thù chí lớn không hề nản,  
  Ngọc nát còn hơn giữ ngói lành.  
  Thân dẫu lao tù lâm cảnh hiểm,  
  Chí còn theo dõi buổi tung hoành.  
  Bạn hỡi gần xa hăng chiến đấu,  
  Trước sau xin giữ tấm lòng thành”. 
  ~Hoàng-Văn-Thụ~ 
   
   
  XUÂN THỦY 
   1912-1987 
  Quê Hà-Tây 
   
  NGÔI NHÀ KHÁNG CHIẾN 
   
  Mái nứa thanh thanh mấy nếp nhà 
  Cây xanh phủ kín lối vào ra 
  Trong veo con suối từ đâu lại 
  Đám cải chân đồi loáng thoáng hoa. 
   
  Lưa thưa vách nứa, giường phên nứa 
  Bàn nứa mong manh, ghế nứa gài 
  Người đứng người ngồi say thảo luận 
  Vù vù gió bấc mặc bên tai. 
   
  Trời nắng trời mưa chi sá kể 
  Tay dao tay cuốc phạt rừng quang 
  Vườn rau bãi bóng ngày thêm rộng 
  Dưới núi dừng chân, tiếng hát vang. 
   
  Tinh tươm cơm nước dọn ra bàn 
  Trời lạnh sao lòng thấy ấm ran 
  Đĩa muối, bát canh, thêm quả ớt 
  Hơi cơm nghi ngút, chuyện giòn tan! 
  ~Xuân-Thủy~ 
  Việt Bắc,1949 
   
   
     
   
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 29.12.2012 09:24:02 bởi Anh Nguyên >
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
               
   
  HỮU LOAN 
   1916-2010    Mai-Linh, Nga-Sơn, Thanh-Hóa 
   
  MẦU TÍM HOA SIM 
   
  Nàng có ba người anh đi bộ đội 
  Những đứa em nàng, có em chưa biết nói 
  Khi tóc nàng xanh xanh, 
  Tôi: người chiến binh, xa gia đình, 
  Yêu nàng như tình yêu em gái 
  Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo cưới, 
  Tôi mặc đồ quân nhân 
  Đôi giầy đinh bết bùn đất hành quân. 
  Nàng cười xinh xinh, bên anh chồng độc đáo. 
  Tôi ở đơn vị về 
  Cưới nhau xong là đi. 
  Từ chiến trường xa, nhớ về ái ngại 
  Lấy chồng thời chiến chinh 
  Mấy người đi trở lại? 
  Lỡ khi mình không về 
  Thì thương người vợ chờ, bé bỏng chiều quê! 
  Nhưng không chết người trai khói lửa 
  Mà chết người em gái nhỏ hậu phương. 
  Tôi về không gặp nàng 
  Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối. 
  Chiếc bình hoa ngày cưới 
  Thành bình hương tàn lạnh vây quanh. 
   
  Tóc nàng xanh xanh, ngắn chưa đày búi. 
  Em ơi, giây phút cuối, 
  Không được nghe em nói, 
  Không được trông thấy nhau một lần... 
  Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím, 
  Áo nàng màu tím hoa sim. 
  Ngày xưa, một mình, bóng nhỏ, 
  Nàng vá cho chồng tấm áo ngày xưa! 
  Một chiều rừng mưa 
  Ba người anh, từ chiến trường Đông Bắc 
  Biết tin em gái mất 
  Trước tin em lấy chồng. 
  Gió sớm thu về rờn rợn nước sông 
  Đứa em nhỏ ngỡ ngàng trông ảnh chị 
  Khi gió sớm thu về, cỏ vàng chân mộ chí... 
   
  Chiều hành quân qua những đồi sim, 
  Những đồi hoa sim, những đồi hoa sim 
  Màu tím hoa sim...tím cả chiều hoang biền biệt 
  Nhìn áo rách vai, tôi hát trong mầu hoa: 
  - Áo anh sứt chỉ đường tà 
  Vợ anh chết sớm, mẹ già chưa khâu! 
  ~Hữu-Loan~ 
   
   
  TÌNH THỦ ĐÔ 
   
  Việt Bắc âm u 
  Đường dài Thanh Nghệ 
  Người Thủ đô tản cư 
  Đoàn xe đi 
  Chở nặng tâm tư 
  Một góc nhà 
  Một hè phố 
  Mắt em biếc 
  Một chiều xưa 
  Quan Thánh 
  Cổ Ngư 
  Bạch Mai 
  Bóng liễu Tháp Rùa 
  Một thằng bạn 
  Một thằng con  
         ở lại  
  * 
  Khấp khểnh xe đi 
  Vấp vào đêm tối 
  Thủ đô 
  Ngày mùa thu 
  Thủ đô 
  Cờ bốc lửa 
    phố dài 
  Cờ bốc lửa        
    công trường Nhà Hát lớn. 
  Thủ đô 
  Ngày Tổng Khởi Nghĩa 
  Ngày Thủ đô chờ đón 
  Đoàn Giải phóng quân về 
  Qua cầu Long Biên 
  Sông bóng người đi 
  Vai cao rộng 
  Mặc núi rừng Việt Bắc 
  Ai về Thủ đô 
  Khăn thầm nước mắt 
  Quốc ca mình 
  Đoàn lính Việt đầu tiên 
  - Có người làng đi 
  Trong đoàn lính trẻ. 
  Thủ đô 
  Tuần Lễ Vàng 
  Hà Nội dãy dọc toà ngang 
  Quên giai cấp 
  Trong căm thù dân tộc 
  Thủ đô 
  Ngày Tuyên Ngôn Độc Lập 
  Thủ đô 
  Ngày Tổng Tuyển Cử đầu tiên 
  Những ngày Thủ đô 
  Như ộc máu triền miên 
  Máu những người Tây giết 
  Chảy về từ lịch sử 
  Tiếng hát 
  Vùng lên 
  Xích xiềng rơi vỡ. 
  Thủ đô 
  Ngày Tàu trắng 
  Quốc dân đảng 
  Và thực dân 
  Nghênh ngang phố chật 
  Bắt cóc 
  Tống tiền 
  Khiêu khích 
  Bắn người 
  Đám ma đi 
  Cờ đỏ phủ quan tài 
  Phố Ôn Như Hầu 
  Những người bị giết 
  Xác quăng đầy hố 
  Đoàn Giải phóng quân đi 
  Như gại dao trên đường nhựa. 
  Thủ đô 
  Quân lệnh đêm 
  Lựu đạn đen ngòm trong nắm tay 
  Rình sau mái ngói 
  Nắng loé tường vôi 
  Chữ cào xương nhức nhối: 
  THANH NIÊN SỐNG CHẾT VỚI THỦ ĐÔ! 
  Mắt em thiếu nhi 
  Hồ trăng Trung Thu: 
  Các anh hãy giữ non sông 
  Cho chúng em! 
  Bàn tay lớn 
  Nhận lòng tin bé nhỏ. 
  Cụ Hồ hỏi anh em bộ đội: 
  - Các chú liệu giữ được Thủ đô 
  Bảy ngày? 
  Một rừng nắm tay 
  Thét tiếng: 
  - Thề với Bác! 
  * 
  Lửa cháy Thủ đô 
  Chân trời hấp hối 
  Xác thằng bạn 
  Xác thằng con 
  Trên hè phố Thủ đô 
  Giặc khởi hấn rồi! 
  Đường tản cư khuya 
  Lửa toé sắt bánh xe bò 
  Một Quyết tử quân hy sinh 
  Là một đoàn giặc chết 
  Một Quyết tử quân hy sinh 
  Và bắt đầu từ đó 
  Những ngày đêm Thủ đô 
  Tàn sát 
  Khu Đồng Xuân 
  Lính Trung đoàn Thủ Đô 
  Đâm giặc trên bàn thịt 
  Như chọc tiết bò 
  Đuổi giặc 
  Vật lăn trên nóc chợ 
  Hai tháng giết nhau 
  Một đêm thủ đô 
  Có đoàn Quyết tử 
  Cắt máu tay ăn thề 
  Ngõ vắng Thủ đô 
  Những đơn vị rút đi 
  Góc phố Thủ đô 
  Bóng những người ở lại 
  ánh hoàng hôn lên 
  Liệm tròn huyết thệ 
  Người Quyết tử quân 
                  cuối cùng. 
  * 
  Những người dân Thủ đô 
  Về với giặc ở chung 
  Phải đốt cờ đỏ sao vàng 
  Thức đêm may cờ ba sắc 
  Và những sớm mai 
  Tay xót xa 
  Đem treo cờ giặc trước nhà 
  Ai về Hà Nội 
  Thấy Hà Nội xa hoa 
  Thấy hà-nội hơn Hà Nội trước 
  Nhưng Hà Nội 
  Giặc xây thêm ngục tù 
  Xe Phòng Nhì 
  Chở từ ngoại ô 
  Từng đoàn người xiềng tay 
  Về qua phố tối. 
  Ai về Hà Nội 
  Thấy Hà Nội xa hoa 
  Thấy hà-nội hơn Hà Nội trước 
  Nhưng Hà Nội Ngã-Tư-Sở 
  Hà Nội Khâm-Thiên 
  Đèn khuya chảy vàng 
  Những hộp đêm 
  Mọc theo tiếng giày đinh 
  Của đoàn Tây mũ đỏ 
  Tiếng xe tăng viễn chinh 
  Chiều đi bụi phố 
  Và giữa trưa Hà Nội yên lành 
  Hồi còi rú thất thanh 
  Kêu như người tắc họng 
  Một xác Việt gian 
  Ngã tư 
        nắng đọng 
  Lũ lượt kéo nhau về Hà Nội 
  Từng đoàn thiêu thân 
  Mang trong mình định mệnh 
  Mủ đờm nhớt lạnh 
  Và uế khí hôi tanh 
  Sợ ánh sáng và gió lành 
  Tôi thành thép 
  Cánh tay người Kháng Chiến 
  Từ vùng tự do 
  Có người vào nội thành 
  Ném chứng thư Việt Minh 
  Trên dòng sông 
  Chào thằng bạn chiến khu 
  Mà phục tấm lòng. 
  Đêm Thủ đô 
  Rét đến 
  Trong chăn bông 
  Nghe lạnh chiến khu Vũ 
  Cơm gia đình 
  Đũa bát nhớ người đi. 
  Và những sớm mai 
  Từng đoàn phi cơ giặc 
  Chở tóc tang đầy trong thân sắt 
  Ra những miền quê xanh 
  Tiếng bom dội về 
  Chuyển Hà Nội mênh mông 
  Tìm người Hà Nội 
  Rung lên như đất chuyển 
  - Những người Thủ đô tản cư 
  - Những đồng bào kháng chiến. 
  Những em mùa thu 
  Đi trong đoàn thiếu nhi 
  Lớn lên 
  Tìm đường chiến khu Việt Bắc. 
  Những người ngày xưa 
  Ghét Việt Minh 
  Bắt đầu chờ đợi 
  Bao giờ Việt Minh 
  Mới đánh vào Hà Nội 
  Cho ánh sáng xa hoa 
  Vỡ rơi thành bóng tối 
  Trên xác người máu me 
  Ngổn ngang gạch ngói? 
  Đến bao giờ Việt Minh 
  Mới đánh vào Hà Nội? 
  Những người bắt sống Le Page 
                        và Charton 
  Những chiến sĩ Cao Bằng - Đông Khê 
  Những binh đoàn biên giới 
  Đang chuyển về Trung Du 
  Như đi từng dãy núi 
  Kẹp vòng quanh ngoại vi Thủ đô. 
  Mắt vời xa 
  Cô gái Hà Nội tản cư 
  Đẹp trong màu áo vải quê mùa 
  Sẽ còn những ai 
  Trong đoàn quân trở lại 
  Ngày thủ đô chiến thắng tưng bừng? 
  * 
  Em về Thủ đô 
  Chân phố cũ 
  Ngập ngừng. 
  ~Hữu-Loan~ 
  Khoảng cuối 1950 đầu 1951 
  (Dương Tường & Mạc Lân ghi lại theo  
  trí nhớ. Tác giả Hữu Loan đã xem lại) 
   
   
  ĐÈO CẢ 
   
  Đèo Cả! 
  Đèo Cả! 
  Núi cao ngút! 
  Mây trời Ai Lao sầu đại dương 
  Dặm về heo hút 
  Đá Bia mù sương 
  Bên quán "Hồng quân" người ngựa mỏi 
  Nhìn dốc ngồi than thương ai lên đường 
  Chầy ngày lạc giữa núi 
  Sau chân lối vàng xanh tuôn 
  Dưới cây bên suối độc 
  Cheo leo chòi canh như biên cương 
  Tóc râu trùm vai rộng 
  Không nhận ra người làng 
  Ngày thâu vượn hú 
  Đêm canh gặp hùm lang thang 
  Rau khe cơm vắt 
  Áo phai màu chiến trường 
  Gian nguy lòng không nhạt 
  Căm thù trăm năm xa 
  Máu thiêng sôi dào dạt 
  Từ nguồn thiêng ông cha 
  "Cần xây chiến lũy ngất 
  Đây hình hài niên hoa 
  - Xâm lăng! 
  Xâm lăng! 
  Súng them gươm khát..." 
  Ai ngân lung lay đêm quê nhà 
  Nhớ lần thăm Đèo Cả 
  Hậu phương từ rất xa 
  Ăn với nhau bữa heo rừng công thui chấm muối 
  Trên sạp cây rừng 
  Ngủ chung nửa tối 
  Biệt nhau đèo heo canh gà 
  Râu ngược chào nhau bên dốc núi. 
  Giặc từ vũng Rô bắn tới 
  Giặc từ trong tràn ra 
  Nhưng Đèo Cả vẫn đứng vững 
  Đèo Cả Nam máu giặc mấy.lần nắng khô 
  Sau mỗi lần thắng 
  Những người trấn Đèo Cả 
  Về bên suối đánh cờ 
  Người hái cam rừng ăn nheo mắt 
  Người vá áo thiếu kim mài sắt 
  Người đập mảnh chai vểnh cằm cạo râu 
  Suối mang bóng người soi những về đâu? 
  ~Hữu-Loan~ 
   
   
  HOA LÚA 
   
  Em là con gái đồng xanh  
  Tóc dài vương hoa lúa  
  Đôi mắt em mang chân trời quê cũ  
  Giếng ngọt, cây đa  
  Anh khát tình quê ta trong mắt em thăm thẳm  
  Nhạc quê hương say đắm  
  Trong lời em từng lời  
  Tiếng quê hương muôn đời và tiếng em là một  
  Em ca giữa đồng xanh bát ngát  
  Anh nghe quê ta sống lại hội mùa  
  Có vật trụi, đánh đu, kéo hẹ, đánh cờ  
  Có dân ca quan họ  
  Trai thôn Thượng, gái thôn Đoài hai bên gặp gỡ  
  Cầm tay trao một miếng trầu  
  Yêu nhau cởi áo cho nhau  
  Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay  
  Quê hương ta núi ngất, sông đầy  
  Bát ngát làng tre, ruộng lúa  
  Em gái quê hương mang hình ảnh quê hương  
  Xa em năm nhớ, gần em mười thương  
  Còn bàn tay em còn quê hương mãi  
  Em mang nguồn ân ái  
  Căng ngực trẻ hai mươi và trong mắt biếc nhìn anh  
  Em gái quê si tình  
  Chưa bao giờ được yêu đương trọn vẹn...  
   
  Anh yêu em muôn vàn như quê ta bất diệt  
  Quê hương ta ơi từ nay càng đẹp  
  Tình yêu ta ơi từ nay càng sâu  
  Ta đi đầu sát bên đầu  
  Mắt em thăm thẳm đựng màu quê hương. 
  ~Hữu-Loan~ 
   
   
   
   
  THÂM-TÂM 
           1917-1950 
       Tức Nguyễn Tuấn Trình, sinh tại Hải Dương, tỉn. Năm 1938, lên Hà Nội sống bằng nghề vẽ tranh và bắt đầu làm thơ. Viết cho "Tiểu thuyết thứ bảy" của Vũ đình Long. Thơ làm theo dạng "Hành" - một lối thơ cổ lai của nhà thơ Trung Quốc gồm : ''Can trường hành'', ''Vọng nhân hành'', và nổi bật là "Tống biệt hành" . Ngoài ra có ''Tráng ca''.           CHIỀU MƯA ĐƯỜNG SỐ 5      
   Chiều mưa đồng rạ trắng     Đất tề sông quạnh vắng     Ngồi kín dưới nhà gianh     Nghe gió lùa ắng lặng     Chiều mưa đường số 5     Đôi mắt sao đăm đăm     Chứa cả trời mây nặng     Miền Việt Bắc xa xăm?     Ôi núi rừng thương nhớ     Rét mướt đã hai năm!     Chiều mưa ngàn hoa nở     Hoa phới bay mùa xuân     Bếp sàn gây ngọn lửa     Chén trà ngát tình dân     Chiều mưa lùa các cửa     Ngày bộ đội hành quân     Mẹ già không nói nữa     Nước mắt nhìn rân rân...     Ôi đâu rồi sơn nhân     Đâu rồi anh du kích     Chiều mưa manh áo rách     Vác súng vượt lên đèo     Giao thông qua mũi địch     Đâu rồi “nhình” với “a”     Tiếng cười reo khúc khích     Đón chiến sĩ quay về     Sau trận đi phục kích     Chiều mưa giã gạo mau     Chầy tập đoàn thình thịch     Ôi núi rừng thẳm sâu     Trung đội cũ về đâu     Biết chăng chiều mưa mau     Nơi đây chăn giá ngắt     Nhớ cái rét ban đầu     Thắm mối tình Việt Bắc                 ~Thâm-Tâm~    
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 29.12.2012 09:31:28 bởi Anh Nguyên >
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
               
   
  ANH- THƠ 
    1918-2005  
  Sinh tại Ninh Giang, Hải-Dương.  
  Cha là công chứcđây đó, thay đổi  
  3 trường mà chưa xong Tiểu học.  
  Rất thích văn chương, làm thơ từ  
  nhỏ. 
   
   
  TÔI ĐÓN TIN VUI HÀ BẮC 
   
  Tôi đón tin vui Hà-bắc 
  GIữa trời Hà- nội trăng tròn. 
  Con số trăm linh hai biết mấy yêu thương. 
  Tôi thầm để lòng tôi lắng đượm. 
   
  Quê hương! Những đồng bằng sông Đuống  
  Mùa về năm tấn cầm tay 
  Nhrmg đồi sỏi Hiệp-hòa đã khoác xanh cây!  
  Những mương máng Bạch đằng hắn dang dậy sóng 
  Khoai Trung-hòa đã đi từng luống rộng.  
  Ruộng chia bờ thửa, bờ vùng. 
  Mía ngọt An-châu. 
  Quýt đỏ sông Thương 
  Con số hơn trăm tô ngời rực rỡ. 
  Tôi bâng khuâng thầm nhủ 
  Bàn tay cầm bút? Cầm cày? 
  Của những chàng trai Yên-thế 
  Những cô gái cầu Lim? Nội-duệ?  
  Tóc Bạch-đầu quân sáng ngọn Ninh-sơn. 
  Trung-đội Bão-đài trên đỉnh thượng nguồn. 
  Những bàn tay ba đời giết giặc. 
  Những bàn tay làm nên nước bạc, cơm vàng. 
   
  Nay hạ máy hay thù hơn trăm chiếc.  
  Con gái nhớ thương ơi! mẹ biết. 
  Hôm nay con cắp sách đến trường. 
  Bím tóc ngoắt tin vui. 
  Có bàn tay con múa 
  Có bàn tay con tô đậm chữ. 
  “Quê ta giết giặc hơn trăm!’’ 
   
  Con về sơ tán hai năm 
  Quê hương nuôi lớn 
  Mẹ muốn hôn con 
   
  Khuôn mặt nhỏ hồng hơn hớn 
  Một  trăm linh hai chiếc hôn mừng 
  Xa Hà-nội - Về con đã góp chiến công chung. 
   
  Hà-nội đêm 17 tháng 10 năm 1967 
     Kỷ niệm ngày Hà-bắc bắn rơi 
           chiếc máy bay thứ 102 
                Anh-Thơ 
   
   
  CON ĐÃ VỀ NƠI BÁC Ở NGÀY XƯA  
   
  I 
  Con đã về nơi Bác ở ngày xưa 
  Đường biên giới rậm dài đá dốc. 
  Nơi Bác hôn nắm đất giữa nương ngô. 
  Ôi! nắm đất về với tay  “Người’’ dựng nước. 
   
  Giữa rừng núi còn dấu chân giặc cướp. 
  Láng ẩn cheo leo, rải rác hốc thông già. 
  Đỏ bấu ngâm đầy cho dòng suối trôi qua 
  Suối rửa miếng ăn người dân đói khổ. 
   
  Bác về,  mời cụ “Các Mác’’ về, trên núi đá  
  Trong cả lòng hang, Bác tạc tượng người. 
  Như tạc niềm tin cho con cháu đời đời  
  Từ thẳm rừng sâu ngời lên chủ nghĩa. 
   
  Noọng gái nào năm xưa gạt lệ  
  Địu chăn về,  lo hang gió mông mênh. 
  Noọng đâu biết: trời tháng tám từ dây xóa mù 
  mới hé 
  Và cũng tự nơi đây ươm sắc nắng Ba Đình. 
   
  Dòng suối âm u hồng dậy ánh bình minh. 
  Mang tình cảm Lê-nin tràn đất nước. 
  Dòng suối từ ba mươi năm trước.  
  Từng đau gót chân thường, qua, lại đôi bờ. 
   
  Đàn cá về độp hạt cơm ngô. 
  Bơi hớp cả lời thơ cảm khái. 
  Ta mượn gương xanh lắng lại 
  Buổi chiều nào râu Bác trắng ưu tư? 
  Để đến hôm nay thủy điện ngợp bờ. 
  Khắp nẻo rừng cao trào ra ánh sáng. 
   
  II 
  Bàn đá chông chênh còn ngồi coi sử Đảng 
  Chim rừng ơi, ngươi có lắng nghe? 
  Khắp bốn phương bí mật những ai về? 
  Theo tay Bác viết thêm trang sử. 
  Những làn rêu không phủ chân quá khứ 
  Mà trải nhung vàng chào đón bước tương lai. 
  Ghé đá còn đây hơi ấm Bác ngồi 
  Với những anh hùng ngàn xưa cứu nước. 
   
  Cây ngót rừng còn nhớ tay người phát 
  Ngọn cằn rơi, cho mầm nẩy mỡ màng 
  Rặng trúc thanh cao vươn thẳng lên ngàn. 
  Cây đứng nương cây mặc cơn bão táp. 
   
  Ô cải xoong cho suối thêm tươi mát 
  Sắn xanh nương trùm cỏ dại, lau hoang. 
  Lá ổi mỗi ngày thay cánh chè thơm. 
  May mạ xum xuê che mù mắt giặc. 
   
  Những hàng cây đầu tiên cho “Tổ quốc’’  
  Từ nắm đất Bác mang về chăm bón gốc yêu thương. 
   
  III 
  Cháu gái nào mang bóng dáng quê hương?  
  Vương thi Hú, leo đèo, lội suối. 
  Gói cơm ngô, ống canh gừng nóng hổi:  
  “Ông Ké à.,đừng bỏ bữa rau măng!’’ 
   
  Những bữa nghèo san sẻ, kính dâng. 
  Nào đâu biết mình nuôi cách mạng! 
   
  Người gái Nùng quen khâu giầy, tìm bột báng. 
  Được Bác đặt tên mang sắc sen vàng. 
  Hòm thư cao lăn đá níu, víu dây sang 
  Ghét đế quốc nên không chờn con rắn 
   
  Nông thị Bảy vượt ngục, bỏ nhà đi từ buổi sáng 
  Làm cháu già Thu, được học mỗi ngày.  
  Mang nặng thù chồng, lòng chị có hay 
  Được Bác luyện rên nối dòng Trưng nữ. 
   
  Và khi Hoàng thị Nga bụng từng đỉnh rú  
  Leo giữa mây mù nhịn đói, tìm dân. 
  Chị đâu biết giữa muôn ngàn, gian khổ  
  Như cô gái Nga xưa, nhớ Bác vững tinh thần. 
   
  Rồi những cô Hoa, cô Đào, từ Pắc-Pó 
  Giắt súng võ trang giải-phóng từng  miền  
  Đến em lái xúc quặng tìm vàng trên mỏ. 
  Cô chủ tịch vùng cao, chị chánh án tòa trên. 
   
  Tất cả người gái Tày, Nùng đảm đang hậu tuyến  
  Còn nhớ ngày xưa không biết làm người.  
  Góc núi đầu nguồn cuộc đời sâu kiến. 
  Từ cụ Ké về, như hoa nở rừng tươi. 
   
  IV 
  Ngoài tiền phương, anh Giải phóng chưa nguôi 
  Mối thù bản năm nào trên địu mẹ 
  Vượt biên giới, tránh Tây càn, khóc ré 
  Không áo quần sưởi lá, ủ than tro. 
  Đầu lở, thân lem ra  đón Bác Hồ. 
   
  Ai biết tấm lòng “Người’’ đau xót 
  Bàn tay già rửa từng mụn trốc 
  Đun từng thuyền nước nóng tắm yêu thương. 
   
  Giữa những ngày đói rét, tha phương. 
  Rau má nhai khô, đau hàng răng yếu. 
  Dân thương ông Ké, làm riêng bát cháo. 
  Bát cháo trứng thơm, lành, Bác nuốt sao trôi?  
  Tay nâng lên, nhường bà cụ tám mươi. 
  Công cuộc sống gần trăm tuất khổ 
  Ôi những giọt nước mắt già, nóng nhỏ. 
  Cho cháu con căm uất đuổi xâm lăng. 
   
  Bác Hồ ơi, đã mấy mươi năm. 
  Từ nắm đất Bác đem về dựng nước. 
  Rừng Pắc-Pó uy nghiêm đài Các Mác 
  Suối Lê-nin trong vắt, xanh nguồn. 
  Con đã về đây, đi giữa lúa vàng thơm 
  Lòng nhớ Bác như nương đồng ơn nước.  
  Ôi, nếu được trở về ngày tháng trước. 
  Bác lại về như Bụt hiện giữa rừng cây. 
  Mùa cốm lên hương, vang đất nước nhịp chày. 
                      Anh-Thơ 
         Hà Nội, tháng 9 năm 1969 
   
   
          DƯỚI BÓNG Ô-LIU  
   
  Tôi đã nghe... 
  Tiếng vó ngựa của Scăng-đéc-béc còn vang từng mây ở Cơ-rui-da. 
   
  Vang trên thung lũng Ti-ra-na. 
  Vang trên ngọn rừng ô-liu lá bạc. 
  Vang trên những đồi nho bát ngát. 
  Tiếng vó ngựa đi đạp xác quân thù 
  Từ năm thế kỷ xa xưa 
  Trong lòng bạn tự hào biết mấy! 
   
  Người bạn An-ba-ni ơi! 
  Tôi đến đây 
  Gặp rất nhiều đài liệt sĩ 
  Gặp những bà mẹ gầy thương nhớ chồng con. 
  Gặp những em bé gái giống con tôi, xách giỏ đi chợ  
   
  Sỏi đá hãy còn 
  Đồi trọc chưa phủ xanh cây 
  Nhưng điện đã về tận rừng sâu hẻo lánh. 
  Ruộng không còn bờ 
  Nước đang leo núi. 
  Nhà năm tầng, bảy tầng 
  Mang cửa kính mặt trời sáng chói. 
   
  Cuộc sống bạn đang lên 
  Xe ủi đất bật tung núi đá 
  Rừng ô-liu. tiếp rừng nho xanh lá. 
  Những nhà máy tự động, tối tân. 
  Những đồng lầy xưa, nay ngập lúa mì vàng  
  Người phụ nữ đã rứt khăn chàng mạng 
  Đeo súng theo cách mạng. 
  Lưới búa chim giơ cao 
  Tự hào 
  Lao động như nam giới. 
   
  Những cụ già đi giày mới 
  Vui vì cỏ nước tự do 
  Đất nước tuy còn cảnh giác bóng thù 
  Cánh Đại bàng bay vút. 
  Việt- nam chúng tôi ở rất xa. 
  Nhung rất gần bạn hôm nay 
  Trong chiến hào từng trong nước trái vả. 
  Bạn gửi sang từng cốc ngọt đầy. 
   
  Cám ơn tình bạn thân yêu 
  Dưới bóng ô-liu 
  Tôi đã nghe mối tình đoàn kết 
  Từ Scăng-đéc-béc 
  Chúng ta tay nắm chặt tay 
  Là quân thù phải chết! 
     An-ba-ni, những ngày tháng 5-1970 
                   Anh-Thơ 
   
   
  HAI NHĂM NĂM... 
   
  Gần năm mươi năm, tôi vẫn tuổi hai nhăm. 
  Bởi chỉ mới hai nhăm năm là tôi được sống. 
  Có nước mà yêu: núi cao, biển rộng. 
  Có Đảng, Bác Hồ chỉ lối đi lên 
  Ôi! cái ngày ta được nắm chính quyền 
  Bụng đói lả, mà cuộc đời no hạnh phúc. 
   
  Anh yêu ơi! khi đọc trang thơ em nóng rực 
  Có lửa căm thù, có tiếng tình yêu. 
  Hai nhăm năm, không phải giấc chiêm bao. 
  Ta dựng lại đời ta, trên hai lần giặc phá. 
  Nhà Hạnh-phúc vẫn khói cơm thơm tỏa. 
   
  Con gái ta lại cắp sách tới trường xưa. 
  Những dòng sông, cầu lại nối đôi bờ. 
  Xe rầm rập ngày đêm vận chuyển   
  Dồn sức của, sức người ra trên tuyến 
  Trận cuối cùng, ta biết sức riêng ta. 
   
  Tôi muốn nói cùng các bạn bè xa 
  Từ người con gái anh hùng Xô-viết. 
  Trên giường bệnh ôm trái tim da diết 
  Bút giấy bên mình, lo viết cho Việt-nam 
  Đến người con trắng giải băng tang. 
  Thương nhớ Bác từ phương trời Thụy điền 
  Hẳn hôm nay các chị càng xao xuyến. 
  Với những lời vẫn trang sách sáng ngời. 
  Đã góp phần chiến thắng cho quê tôi. 
   
  Hai nhăm năm Bác kính yêu ơi! 
  Nói sao hết lời chúng con ơn nhớ Bác. 
  Hôm nay bao bốt đồn đổ sập 
  Bao quân thù ngã gục ở miền Nam.  
   
  Những đứa con tuổi chẵn hai nhăm 
  Càng lớn mạnh với sức vươn cường tráng 
  Ở nơi xa, hẳn Bác vui, vì chúng con đang chiến thắng. 
         Hà Nội –Thái Bình 
  Những ngày đầu tháng 8-1970 
              Anh-Thơ 
   
   
  Ở VƯỜN THỰC VẬT CLOUJ 
  TÔI MUỐN NÓI... 
   
  Tôi đến Clouj 
  Những ngọn dồi bao quanh thành phố 
  Những nhà thờ cò 
  Thấp chuông nhọn hoắt trời xanh. 
  Từng từng cửa nắng long lanh... 
  Những mắt người xinh gặp gỡ. 
  Tất cả... và tất cả...: 
  Đều làm tôi yêu mến thân tình. 
   
  Nhưng làm cho lòng tôi xao xuyến. 
                                           bâng khuâng.. 
  Trong nhà kính, rèm xanh mát  rợi. 
  Tôi đến đây, lại gặp những cỏ hoa miền nhiệt đới : 
  Khóm chuối la đà, bên gốc cọ, lá tròn xoe. 
   
  Hoa súng tím hồng, dưới những bóng tre. 
  Cả những lẵng phong lan lá rủ. 
  Cám ơn bàn tay ai nâng niu, gìn giữ. 
  Sự sống tươi hồng từ đất nước tôi xa. 
   
  Tàu chuối kia, hẳn các bạn không ngờ 
  Từng đã ngụy trang ụ pháo. 
  Và lá cọ che giao thông hào chiến dấu. 
  Hoa súng này, cô gái dân quân 
  Đã tặng thương binh với cả trái tim mình. 
   
  Tôi muốn nôi với những cặp tình nhân tha thiết 
  Những nghệ sĩ dâng cả cuộc đời cho cái đẹp.  
  Những mẹ già dắt cháu tung tăng : 
  Các bạn đang đi trong bóng mát hòa bình. 
  Hẳn các bạn phải căm thù lũ giặc. 
  Nếu chúng đến đây làm cỏ hoa tan nát! 
   
  Các bạn ơi, giặc Mỹ đem bom hóa học, lân-tinh 
  Hoa cỏ trước tôi tuy cô hy sinh 
  Nhưng chúng không giết được sắc hồng. 
                                              xanh thắm. 
  Và khóm chuối, bóng tre, vẫn đến đây với cả 
                                          màu tươi hoa súng. 
  Clouj, 20-4-1970 
      Anh-Thơ 
   
   
   
   
            
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
               
   
  NGUYỄN-ĐỨC-GIỚI 
               1919-1950     Quê Hoằng-Hóa, Thanh-Hóa, làm thợ điện, tham  
  gia tổ chức bí mật ở HN, bị bắt, vượt ngục, tham gia 
  Hội văn hóa cứu quốc, bị máy bay Pháp oanh tạc,  
  mất mới 31 tuổi.                 LÊN CẤM SƠN           Tôi lên vùng Cấm Sơn 
    Đi tìm thăm bộ đội 
    Đây bốn bề núi, núi 
    Heo hút vắng tăm người 
    Đèo cao rồi lũng hẹp 
    Dăm túp lều chơi vơi 
    Bộ đội đóng ở đó 
    Cách xa hẳn cuộc đời 
    Ngày ngày ngóng đợi tin xuôi ngược 
    Chỉ thấy mây xanh bát ngát trời 
    Họ đã từng dự trận 
    Từ Tiên Yên, Đầm Hà 
    Về An Châu, Biển Động 
    Thấm thoắt hai năm qua 
      
    Cuộc đời gió bụi pha xương máu 
    Đói rét bao lần xé thịt da 
    Khuôn mặt đã lên màu tật bệnh 
    Đâu còn tươi nữa những ngày hoa! 
    Lòng tôi xao xuyến tình thương xót 
    Muốn viết bài thơ thấm lệ nhoà 
    Tặng những anh tôi từng rỏ máu 
    Đem thân xơ xác giữ sơn hà 
      
    Quây quần bên nến trám 
    Chúng tôi ngồi hàn huyên 
    Bao giờ vinh nhục 
    Bao nhiêu phút ưu phiền 
    Của đời người chiến sĩ 
    Đêm thâu kể triền miên: 
    "Có khi gạo hết tiền vơi 
    Ổi xanh hái xuống đành xơi no lòng 
    Có đêm gió bấc lạnh lùng 
    Áo quần rách nát lá dùng che thân 
    Khó khăn đau ốm muôn phần 
    Lấy đâu đủ thuốc mặc dần bệnh nguôi 
    Có phen chạy giặc tơi bời 
    Rừng sâu đói rét, không người hỏi han". 
      
    Đến nay họ về đây 
    Giữ vững miền núi Cấm 
    Thổ phỉ quét xong rồi 
    Đồn Tây xa chục dặm 
    Kiến thiết lại bản xóm 
    Bị giặc đốt tan tành 
    Trên nền tro đen kịt 
    Vàng hoe màu mái gianh 
    Họ đi tìm dân chúng 
    Lẩn trốn trong rừng xanh 
    Về làm ăn cày cấy 
    Tiếp tục đời yên lành 
      
    Tiếng hát lừng vang trong gió núi 
    Ngày vàng ngân giọng trẻ ê a 
    Ở đây bản vắng rừng u tối 
    Bộ đội mang gieo ánh chói loà 
    Ở đây đường ngập bùn phân cũ 
    Xẻng cuốc khua vang điệu dựng nhà 
    Ở đây những mặt buồn như đất 
    Bộ đội cười lên tươi như hoa. 
      
    Họ vẫn gầy, vẫn ốm 
    Mắt vẫn lõm, da vàng 
    Áo chăn chưa đủ ấm 
    Ăn uống vẫn tồi tàn 
    Nhưng vẫn vui vẫn nhộn 
    Pháo cười luôn nổ ran 
      
    Lòng tôi bừng thức tình trai mạnh 
    Muốn viết bài thơ nhộn tiếng cười 
    Tặng những anh tôi trong lửa đạn 
    Qua nghìn gian khổ vẫn vui tươi. 
    ~Nguyễn-Đức-Giới~ 
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 15.12.2010 19:10:16 bởi Anh Nguyên >
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
               
   
  HUY-CẬN 
  1919-2005 
   
  Ân-Phú, Hưng-Sơn, Hà-Tĩnh. Kỹ sư canh nông  
  Thứ trưởng, Bộ trưởng Văn hóa, Văn nghệ 
   
  GỬI BẠN NGƯỜI NGHỆ TĨNH 
   
  Ai ơi, cà xứ Nghệ 
  Càng mặn lại càng giòn 
  Nước chè xanh xứ Nghệ 
  Càng chát lại càng ngon 
   
  Khoai lang vàng xứ Nghệ 
  Càng nhai kĩ càng bùi 
  Cam Xã Đoài xứ Nghệ 
  Càng chín lại càng tươi. 
   
  Ông đồ xưa xứ Nghệ 
  Càng dạy, chữ càng nhiều 
  Tính tình người xứ Nghệ 
  Càng biết lại càng yêu. 
   
  Ai đi vô nơi đây 
  Xin dừng chân xứ Nghệ 
  Ai đi ra nơi này  
  Xin dừng chân xứ Nghệ 
   
  Nghe câu vè ví dặm  
  Càng lắng lại càng sâu 
  Như sông La chảy chậm 
  Đọng bao thuở vui sầu 
   
  Ăn, xứ Nghệ ăn đặm 
  Đã nói, nói hết lòng 
  Đất này bền nghĩa bạn 
  Đất này tình thuỷ chung. 
   
  Đất này mẹ dạy con 
  Yêu anh hùng nghĩa khí  
  Giữ lòng đỏ như son 
  Nuôi thù sâu tựa bể. 
   
  Đất này đất Xô-viết 
  Đảng mở hội cờ hồng 
  Tự tuổi vàng đá biết  
  Mặn mãi tình công nông. 
   
  Tình xứ Nghệ không mau 
  Nhưng bén rồi sâu lắng 
  Quen xứ Nghệ quen lâu 
  Càng tình sâu nghĩa nặng. 
   
  Ôi xứ Nghệ, xứ Nghệ 
  Đất cổ nước non nhà 
  Đã trăm, nghìn thế hệ 
  Vẫn ưa nhút, ưa cà. 
   
  Dân thời đại Bác Hồ 
  Sống xã hội chủ nghĩa 
  Vẫn dáng dấp ông đồ 
  Hay chữ lại hay nghĩa 
   
  Ôi tâm hồn xứ Nghệ 
  Trong hồn Việt Nam ta 
  Có gì tự ông cha 
  Rất xưa mà rất trẻ 
  Giống như Bác của ta 
  Một con người xứ Nghệ 
  Một con người xứ Nghệ. 
  ~Huy-Cận~ 
  Nghệ Tĩnh, 10-1967 
   
   
  TỔ QUỐC 
  (Tâm sự yêu nước của kiều bào tại Pháp) 
  Yêu mến tặng kiều bào ở nước ngoài 
   
  Việt Nam ơi! Mẹ nghìn đời yêu dấu 
  Tên thiêng liêng đau đáu lòng con 
  Mẹ có biết tâm hồn con chảy máu 
  Thuở đau thương, mẹ nuốit tủi, nuôi hờn. 
   
  Tổ quốc ơi! Bởi vì sao mỗi bước 
  Chân con đi xa mẹ nhói bàn chân 
  Cũng ánh sáng, cũng trời mây, gió nước 
  Xa quê hương sao nhạt nhẽo muôn phần! 
   
  Ai có biết làm sao nói được 
  Lòng tha hương trằn trọc nhớ quê hương 
  Mắt có ngủ mà hồn ta vẫn thức 
  Tình non sông da diết máu xương. 
   
  Đêm khuya vắng, bỗng nhớ mùi hương bưởi 
  Ướt ánh trăng thơm suốt mấy canh gà 
  Cả tuổi nhỏ lại trở về mát rượi 
  Bóng dừa xanh, hàng tre mượt quê ta. 
   
  Những đứa con phải xa rời Tổ Quốc 
  Mẹ biết chăng, chỉ sống nửa tâm hồn 
  Một nửa khác gửi với theo sóng nước 
  Về quê cha đặng giữ thắm lòng son. 
   
  Việt Nam ơi! Nuôi đàn con những thuở 
  Mẹ cắn răng không cho nước mắt trào 
  Mẹ lấy sức vùng lên trong biển lửa 
  Mẹ hôm nay sừng sững giữa trời cao. 
   
  Vẫn xa nước lòng nay sao rạng rỡ 
  Lửa quê hương soi ấm tấm lòng con 
  Bao con mẹ bấy nhiêu hòn máu đỏ 
  Mẹ lại cho con vẹn cả tâm hồn. 
   
  Anh em ơi, bởi vì sao mỗi bước 
  Chân ta đi ngang dọc khắp trời tây 
  Không lủi thủi, chẳng ngỡ ngàng như trước 
  Cái thuở cha, anh lê gót đoạ đày. 
   
  Mẹ Việt Nam, mẹ nghìn đời yêu dấu 
  Ôi quê hương, máu của máu lòng ta 
  Lòng yêu nước bốn nghìn năm nung nấu 
  Chia đều con như sữa mẹ cơm cha. 
   
  Xa đất nước, vẫn cành xuân phơi phới 
  Quyết đơm hoa góp mùa rộ quê nhà.  
  Ánh dương sớm chân trời ta chiếu rọi 
  Theo đàn con vững gót nẻo đường xa.  
  ~Huy-Cận~ 
  Tuludơ (Pháp), 1969 
   
  XEM TRIỂN LÃM TƯỢNG  
  GỖ NHÂN GIAN 
   
  Vui Tết nhớ cha ông 
  Ta đi xem tượng gỗ 
  Vàng son sơn có bong 
  Nét đời còn lồ lộ 
   
  Chạm con cua con cá 
  Chạm đánh vật đua thuyền 
  Nỗi lòng bác thợ cả 
  Trăm nhát đục đầy duyên. 
   
  Tac voi trận, voi cày 
  Tạc voi lồng, nổi gió 
  Nhẹ như mây voi bay: 
  Vui phập phồng thớ gỗ. 
   
  Cảnh nhà ai đánh ghen 
  Tóc đuôi gà kéo cắt 
  Nỗi hai vợ khổ chưa! 
  Gỗ cười hay cáu gắt? 
   
  Ai treo buồm giằng cột 
  Ai lên mái dựng nhà 
  Đất bằng hay sóng nước 
  Bền vững thế ông cha. 
   
  Chị em tắm hồ sen 
  Tránh thằng quan dâm đãng 
  Một chị tay hái liền 
  Lá sen làm lá chắn. 
   
  Quan quân phường cứop bóc 
  Lợn béo bắt đi rồi 
  Trẻ sợ không dám khóc 
  Mẹ than thở kêu trời.... 
   
  Bà ơi, thúng gánh con 
  Bán con hay chạy giặc? 
  Vai dạn lại lưng còng 
  Gỗ cười ra nứoc mắt. 
   
  Cuộc sống cay, đắng, chát 
  Cũng xen lẫn ngày vui 
  Khi hội làng múa hát 
  Gỗ bừng muôn thớ tươi 
   
  Đời trăm nỗi bất bình 
  Cũng lắm điều thú vị 
  Cất cao tận mái đình* 
  Trên đầu bọn hào lí 
   
  Cha ông xuân đánh Mỹ 
  Cũng về họp ba gian** 
  Cuộc đời thêm gân guốc 
  Nhát đục khắc thời gian. 
  ~Huy-Cận~ 
  --------------------- 
  * Phần lớn những tượng này đều chạm trên 
  những xà của các đình, cao sát mái. 
  ** Các tượng dân gian được trưng bày trong  
  ba phòng lớn của Viện Bảo tàng Mĩ thuật. 
   
   
  VỀ THĂM QUÊ XÃ ĐỨC ÂN 
   
  Về thăm quê xã Đức Ân 
  Êm êm đất cát bước lần bãi sông. 
  Ngô non lá mượt màu nhung 
  Mía ken san sát, khoai vồng rậm dây. 
  Trống hồi trường học cấp hai 
  Đàn em tan lớp như bầy bướm non. 
  Qua từng ngõ gặp bà con 
  Biết sau trận lụt hãy còn khó khăn 
  Nhưng bao công việc làm ăn 
  Cũng lo thu xếp trong năm cả rồi. 
  Quen tên nhưng chửa biết người 
  Các em xúm xít nô cười hỏi han 
  Cụ già mời bát lạc rang 
  Lâu năm gặp mặt bàn sang truyện Kiều 
  Ra về sau núi trăng treo. 
  Ai còn buộc đó chiều diều tuổi thơ... 
  ~Huy-Cận~ 
  Hà Tĩnh, 1971 
   
   
            
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
               
   
  QUANG-DŨNG 
      1921- 1989 
  Tức Bùi-Đình-Diệm, quê Phượng Trì, Đan-Phượng,  
  Sơn Tây, vào bộ đội, chiến đấu khắp các chiến trường  
  bắc bộ, vừa cầm bút vừa cầm súng, từng là đại đội  
  trưởng trung đoàn Thủ Đô trong kháng chiến chống  
  Pháp. Sau 1954 sống như là vô danh ở miền Bắc. 
   
  ĐÔI MẮT NGƯỜI SƠN TÂY 
   
  Em ở thành Sơn chạy giặc về 
  Tôi từ chinh chiến cũng ra đi 
  Cách biệt bao ngày quê Bất-Bạt 
  Chiều xanh không thấy bóng Ba-Vì 
   
  Vầng trán em mang trời quê hương 
  Mắt em dìu dịu buồn Tây phương 
  Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm 
  Em đã bao ngày em nhớ thương? 
   
  Mẹ tôi em có gặp đâu không 
  Những xác già nua ngập cánh đồng 
  Tôi nhớ một thằng em bé nhỏ 
  Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông 
   
  Từ độ thu về hoang bóng giặc 
  Điêu tàn ôi lại nối điêu tàn 
  Đất đá ong khô, nhiều suối lệ 
  Em đã bao ngày lệ chứa chan? 
   
  Đôi mắt người Sơn Tây 
  U ẩn chiều lưu lạc 
  Buồn viễn xứ không khuây 
   
  Tôi gửi niềm nhớ thương 
  Em mang giùm tôi nhé 
  Ngày trở lại quê hương 
  Khúc hoan ca rớm lệ 
   
  Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn 
  Về núi Sài Sơn ngó lúa vàng 
  Sông Đáy chậm nguồn qua phủ Quốc 
  Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng 
   
  Bao giờ tôi gặp em lần nữa 
  Chắc đã thanh bình rộn tiếng ca 
  Đã hết sắc mùa chinh chiến cũ 
  Còn có bao giờ em nhớ ta. 
  ~Quang-Dũng~ 
   
   
  ĐÔI BỜ 
   
  Thương nhớ ơ hờ, thương nhớ ai? 
  Sông xa từng lớp lớp mưa dài 
  Mắt kia em có sầu cô quạnh 
  Khi chớm heo về một sớm mai 
  Rét mướt mùa sau chừng sắp ngự 
  Bên này em có nhớ bên kia 
  Giăng giăng mưa bụi qua phòng tuyến 
  Quạnh vắng chiều sông lạnh bến tề 
  Khói thuốc xanh dòng khơi lối xưa 
  Đêm đêm sông Đáy lạnh đôi bờ 
  Thoáng hiện em về trong đáy cốc 
  Nói cười như chuyện một đêm mơ 
  Xa quá rồi em người mỗi ngả 
  Bên này đất nước nhớ thương nhau 
  Em đi áo mỏng buông hờn tủi 
  Dòng lệ thơ ngây có dạt dào? 
  ~Quang-Dũng~ 
   
   
  TÂY TIẾN* 
   
  Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! 
  Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi. 
  Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi, 
  Mường Lát hoa về trong đêm hơi. 
   
  Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm, 
  Heo hút cồn mây súng ngửi trời. 
  Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống, 
  Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi. 
   
  Anh bạn dãi dầu không bước nữa, 
  Gục lên súng mũ bỏ quên đời! 
  Chiều chiều oai linh thác gầm thét, 
  Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu ngươi. 
   
  Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói, 
  Mai Châu mùa em thơm nếp xôi. 
   
  Doanh trại bừng lên hội đuốc, hoa, 
  Kìa em xiêm áo tự bao giờ. 
  Khèn lên man điệu nàng e ấp, 
  Nhạc về Viên-Chăn xây hồn thơ. 
   
  Người đi Châu-Mộc chiều sương ấy, 
  Có thấy hồn lau nẻo bến bờ. 
  Có nhớ dáng người trên độc mộc, 
  Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa. 
   
  Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc, 
  Quân xanh màu lá dữ oai hùm. 
  Mắt trừng gửi mộng qua biên giới, 
  Đêm mơ Hà-ội dáng kiều thơm. 
   
  Rải rác biên cương mồ viễn xứ, 
  Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh. 
  Áo bào thay chiếu anh về đất, 
  Sông Mã gầm lên khúc độc hành. 
   
  Tây Tiến người đi không hẹn ước, 
  Đường lên thăm thẳm một chia phôi. 
  Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy, 
  Hồn về Sầm-Nứa chẳng về xuôi. 
  ~Quang-Dũng~ 
   
   
  CỐ QUẬN 
   
  Trăng sáng sân vờn đôi bóng cau  
  Ngồi đây mà gửi nhớ phương nào  
  Gió mát long lanh vầng Bắc Đẩu  
  Tiết hè ếch nhái rộn bờ ao.  
   
  Ngồi đây năm năm miền ly hương  
  Quê người đôi gót mỏi tha phương  
  Có những chiều trăng tròn đỉnh núi  
  Nhà ai chày gạo giã đêm sương  
   
  Tịch mịch sầu vơi bèo râm ran  
  Chuối vườn khuya lọt ánh trăng tàn  
  Người ơi quê cũ đèn hoe ngọn  
  Tóc bạc trông chừng cổng héo hon.  
   
  Ngõ trúc quanh quanh sâu bóng lá  
  Trăng vàng rơi rắc nẻo nào xưa  
  Ngõ cũ không mong người trở lại  
  Mà mùi hoa mộc vẫn thơm đưa.  
   
  Em ơi, Em ơi đêm dần vơi  
  Trông về phương ấy ngóng trông người  
  Trăng có soi qua đầu tóc bạc  
  Nẻo chừng Cố Quận nhớ thương ời!  
   
  Trăng sáng năm năm mùa lại mùa  
  Hạ này vơi lại nhớ thu xưa  
  Người đi người đi đường quạnh quạnh  
  Ngày tháng thương vay kẻ đợi chờ.  
  ~Quang-Dũng~ 
   
   
  LÍNH RÂU RIA 
   
  Khuya khoắt bờ sông vắng 
  Lửa hồng quán tản cư 
  Lính mấy chàng vất vả 
  Tìm sống một đêm thơ 
  Một anh gọi cà-phê 
  Một người kêu thuốc lá 
  Một anh nhìn sau trước 
  ỀChị ơi ly rượu nhỏỂ 
  Rượu nhỏ một ly thôi 
  Đời lính đã kham rồi 
  Một ly cho đỏ mặt 
  Cho lên hương cuộc đời 
  ỀChị ơi! Cháu ngủ đâu?Ể 
  Thế rồi bế con chị 
  Anh lim dim cúi đầu 
  Cô bé cười chúm chím 
  Mắt non nhìn như sao 
  Má hồng như trái mận 
  Mùa đang độ ngọt ngào 
  Bàn tay như rễ cây 
  Bộ râu như bàn chải 
  Anh hôn con người ta 
  Anh ôm ghì bé mãi 
  Cô bé năm tháng trời 
  Anh tuổi vừa ba mươi 
  Con anh giờ nơi đâu? 
  Anh mỉm cười rười rượi 
  Khi anh về đã xa 
  Chị dọn hàng đi ngủ 
  Chép miệng trong hơi chăn 
  Chị buồn chi không rõ 
  Khuya khoắt bờ sông vắng 
  Tiếng súng rền xa xa 
  Bước chân người rạo rực 
  Tiếng hát chìm đêm xa 
  ~Quang-Dũng~ 
  Kênh đào, cuối thu đông 1948 
   
   
  QUÁN BÊN ĐƯỜNG 
   
  Tôi khách qua đường trưa nắng gắt 
  Nghỉ nhờ đây quán lệch bốn tường xiêu 
  Giàn mướp nghèo không hứa hẹn bao nhiêu 
  Mùa gạo đắt, đường xa trưa khách vắng 
  Em đắp chăn dày, tóc em trĩu nặng 
  Tôi mồ hôi ra ngực áo chan chanẨ 
  Đường tản cư bao suối lạ sương ngàn 
  Em mê sảng sốt hồng lên má đỏ 
  Em có một mình nhà hoang vắng quá 
  Mảnh chăn đào em đắp có hoa thêu 
  Hàng của em chai lọ xác xơ nghèo 
  Tôi nhìn lại mảnh quần xưa đã vá 
  Tôi chợt nhớ chúng ta không nhà cửa 
  Em tản cư, tôi là khách mười phương 
  Biệt cố đô cùng nhau từ một thuở 
  Lòng rưng rưng thương nhau quá dọc đường 
  Tiền nước trả em rồi trưa nắng gắt 
  Đường xa xa mờ mờ núi và mây 
  Hồn khách vương vài qua sợi tóc 
  Tôi thương mà em đâu có hay... 
  ~Quang-Dũng~ 
   
   
  MƯA 
   
  Chợt mưa phùn gió lạnh  
  Càng lạnh cành hoa mơ  
  Ưất trắng ngàn cánh rụng  
  Tiếng quân hò thôn xa  
  Súng cầm nhịp thu đông  
  Chiều chiều tin chiến sự  
  Loa vang trên cành đa...  
   
  Càng mưa phùn gió lạnh  
  Càng lạnh cành hoa mơ!  
  Càng yêu màu trấn thủ  
  Mờ bạc qua màn mưa  
  Ôi những bàn chân nhỏ  
  Từng đau khổ bao giờ!  
  Ưường tản cư lầy lội  
  Run run leo cầu tre  
  Trời mưa giăng màn xám  
  Mầu thê lương lại về  
  Hoa mai dầu nở trắng  
  Người người còn ra đi  
  ....... 
   
  Mai mùa xuân xanh tốt  
  Mùa xuân chẳng lỗi thề...  
  Trời mưa giăng màn xám  
  Bởi vì đâu thê lương?  
  Chăn đơn chiếc khôn ấm,  
  Già càng đau nhớ thương...  
  Bao nhiêu vành khăn trắng  
  Ưằng đẵng tin sa trường...  
   
  Trời mưa giăng nước mắt  
  Sông Tề bến quạnh hiu,  
  Tin dù qua lén lút  
  Người sao hết đăm chiêu?  
  Ngày xuân dầu hứa hẹn  
  Cỏ hoa biết gì đâu!  
  Mấy mùa xuân vắng lạnh  
  Mấy mùa đông tiêu điều  
  .......  
   
  Càng mưa phùn gió lạnh  
  Càng lạnh cánh hoa mơ  
  Càng xa xôi nhớ lắm  
  Những con đường chạy dài,  
  Những nẻo đường phục kíck  
  Từ biên giới xa xôi...  
  Lau cao mờ đợt gió  
  Cỏ hoang mồ những ai ...  
  Lả tả trong mưa lạnh  
  Âm thầm hoa viếng người  
  Quê hương chừng xa lắc  
  Thăm mồ mấy cành mai...  
   
  Nay mai lại mùa xuân  
  Từ đầu rừng cuối bể  
  Qua trùng dương mấy lần  
  Chúng ta dù cách biệt  
  Cùng chung một mùa xuân  
  Cùng chung một thế kỷ  
  Cùng đau khổ vô ngần...  
   
  Quê anh không khăn trắng  
  Nhưng chắc có mầu tang  
  Những người con đi vắng  
  Những mẹ già nhớ thương...  
   
  Trời mưa giăng màn xám  
  Bởi vì đâu thê lương  
  Hoa cỏ dâng màu trắng  
  Ười còn đang chiến trường  
   
  Trời mưa giăng nước mắt  
  Mầu thê lương lại về  
  Hoa mai dầu nở trắng  
  Người người còn ra đi  
   
  ...Mai mùa xuân xanh tốt  
  Mùa xuân chẳng lỗi thề. 
  ~Quang-Dũng~ 
   
   
  CHABBI CHABBI 
   
  Ngày đầu tiên hoà bình trở lại  
  Trên đường về quê hương  
  Tôi đã dừng chân  
  Bên một nghĩa địa dài  
  Nơi yên nghỉ  
  Cả một tiểu đoàn lính giặc  
  Mồ cao mả thấp ngổn ngang  
  Trắng loáng những cây chữ thập  
  Có cái đã xây  
  Thành nhà mồ vững chắc  
  Vẽ quốc kỳ nước Pháp  
  Và đôi dòng chữ tiếc thương  
  Những nghĩa địa này  
  Tôi đã gặp trên đường  
   
  Rải rác bên những boongke nham nhở  
  Những bốt đồn hình thùquái gỡ  
  Nhưng cả quan và lính  
  Đã không ở trong để mà cố thủ  
  Dắt nhau nằm hết ra đây  
  Trên bãi cỏ tìm bình yên bảo đảm  
  Mỗi người đều để lại tên mình  
  Như những câu sấm truyền định mệnh  
  Khắc vào mộ chí đôi dòng  
  Có cả ngày đi - chức tước - quê hương  
   
  Trời mưa thu, mới hôm qua  
  Ai đã thấy cái buồn nghĩa địa  
  Khi cỏ nằm trong nước ngập mồ hoang  
  Cái tiếng ễnh ương  
  Làm khúc nhạc lữ hành  
  Nhoi nhóp kêu trên bãi mộ  
  Lại thêm đầu cỏ may  
  Phất phơ rung trước gió  
  Có một nhành cúc dại  
  Cánh vàng gió lung lay  
  Trước tấm bia đen  
  Ghi mấy dòng chữ trắng  
  "Chabbi Chabbi  
  Trong tiểu đoàn Âu Phi  
  Đã hy sinh cho nước Pháp"  
   
  Chabbi Chabbi  
  Tên như một bài thơ rất đẹp  
  Bằng thứ tiếng nước nào  
  Chabbi đã nằm dưới mộ  
  Còn bao giờ về tới quê hương...  
  Chabbi Chabbi  
  Tuổi còn xanh, mắt còn tha thiết  
  Có phải quê ở bờ sông Nin  
  Hay là nơi trăng sáng  
  Trên bãi cát dài bóng cây "bao báp"  
  Trai gái nhảy bamboula  
  Theo nhịp trống gợi hồn sa mạc  
   
  Chabbi Chabbi  
  Có bao giờ qua biển  
  Để về với đất trời bên ấy  
  Hai mươi tuổi trẻ nằm đây  
  Lòng đất Việt Nam hiền hậu  
   
  Thôi những ai bên kia chân trời  
  Đừng dành góc nhà nhỏ thân yêu  
  Đừng mong bóng trang phục quân nhân  
  Hiện về quê cũ  
  Mang những tấm hình  
  Những thành phố viễn chinh  
  Về làm quà cho em nhỏ, họ hàng  
  Hỡi mẹ nghèo ơi!  
  Thôi cũng đừng mong  
  Món tiền lương của Chabbi dành dụm  
  Đổi bằng xương máu nằm đây  
   
  Cho đến bây giờ  
  Mỗi khi qua một vùng nghĩa địa  
  Quân thù gửi đất chúng ta  
  Tôi vẫn hình dung  
  Bóng dáng Chabbi  
  Lúc buông súng trả mình về cho đất  
  Mà không là đất quê anh  
   
  Chabbi có bao giờ hiểu nữa  
  Những người bạn thương anh  
  Dầu chỉ gặp tên người  
  Khắc trên mộ chí  
  Nằm trên đất nước của mình  
  ~Quang-Dũng~ 
   Yên Vì, 1954 
   
        
  MÂY ĐẦU Ô 
   
  Mây ở đầu ô mây lang thang  
  Ôi! Chật làm sao  
  Góc phố phường  
  Mây ở đầu ô  
  Hẹn những chân trời xa lạ  
  Qua một ngọn cột đèn  
  Chiều tối lại bừng con mắt đỏ  
  Cành bàng mái cũ khẳng khiu  
  Vườn đẹp khi mùa rụng lá  
  Cành bàng lại mở tàn xanh  
  Mùa hạ về theo chim sẻ  
  Nhưng ta có gì  
  Tự thấy những ngày không tẻ ?  
  Mây trắng lang thang  
  Gió đuổi bời bời phố chật  
  Những lớp người hai mươi tuổi  
  Ca nước đập vỏ bình toong  
  Khăn mặt thấm mồ hôi  
  Bụi đỏ  
  Bụi vàng  
  Trung du bóng cọ  
  Nắng đốt màu da họ  
  Là nắng triền cao  
  Tay sém ngấn mặt trời  
  Là trời công trường xa tít tắp  
  Áo ngực xanh yếm biển  
  Bay bay dãi mũ Hải Quân  
  Những gã hai mươi mùa xuân  
  Từ đâu thổi vào thành phố ?...  
  Mây mùa thu  
  Lọt qua trời hẹp ngõ  
  Lướt nhanh qua mái ngói ba tầng  
  Tiếng dương cầm...  
  Ta theo tiếng nhạc  
  Bay khỏi mái nhà  
  Ta mê xanh thẳm  
  Như cánh chim trời  
  Thấy  
  Mình còn sức trẻ  
  Ơi ! Những bạn tôi  
  Vào lớp tuổi năm mươi  
  Mây ở đầu ô  
  Trời xanh lộng thế...  
  ~Quang-Dũng~ 
       1970 
   
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 14.01.2011 06:25:48 bởi Anh Nguyên >
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
               
   
  HOÀNG-LỘC 
      1920-1949 
   
  Quê Châu-Khê, Ninh-Giang, Hải Dương, 
  Vào bộ đội, làm phóng viên mặt trận, mất 
  mới 29 tuồi vì bệnh lao. 
   
   
  VIẾNG BẠN   
    
  Hôm qua còn theo anh  
  Đi ra đường quốc lộ  
  Hôm nay đã chặt cành  
  Đắp cho người dưới mộ  
   
  Đứa nào bắn anh đó  
  Súng nào nhằm trúng anh  
  Khôn thiêng xin chỉ mặt  
  Gọi tên nó ra anh!  
   
  Tên nó là đế quốc  
  Tên nó là thực dân  
  Nó là thằng thổ phỉ  
  Hay là đứa Việt gian?  
   
  Khóc anh không nước mắt  
  Mà lòng đau như thắt  
  Gọi anh chửa thành lời  
  Mà hàm răng dính chặt.  
   
  Ở đây không gỗ ván  
  Vùi anh trong tấm chăn.  
  Của đồng bào Cửa Ngăn  
  Tặng tôi ngày phân tán.  
   
  Mai mốt bên cửa rừng  
  Anh có nghe súng nổ  
  Là chúng tôi đang cố  
  Tiêu diệt kẻ thù chung.  
  ~Hoàng-Lộc~ 
   
   
   
  HOÀNG-CẦM   
       1922-2010 
   
  Tức Bùi-Tằng-Việt, quê Lạc-Thổ (Song-Hồ),  
  Thuận-Thành, Bắc-Ninh, gia đình nhà Nho, làm 
  thuốc Đông y, làm thơ từ 8 tuổi, vào quân đội,  
  hoạt động trong lãnh vực văn hóa , tham gia nhóm  
  Nhân văn Giai phẩm, viết kịch, thơ, văn và dịch.   
   
                      
  ĐÊM LIÊN HOAN 
   
  Anh ơi! Đêm nay đầu người nhấp nhô như gợn sóng  
  Đang trào lên sức sống muôn đời  
  Niềm vui bát ngát trăng soi  
  Mảnh trăng úa máu chân trời Việt Nam  
  Đêm Liên Hoan ! Trời ơi, đêm Liên Hoan!  
  Đầu người nhấp nhô như sóng bể ngang tàng  
  Ta muốn thét như vỡ toang lồng ngực  
  Vì say sưa tình thân thiết Việt Chính Đoàn  
  - Anh từ phương nào lại?  
  - Tôi từ đất dấy lên  
  Anh có nghe ngọn thủy triều Đông Hải  
  Đang hờn ghen cùng thúc máu triền miên  
  Thúc máu không tên dội tràn bốn nẻo  
  Cỏ không gầy, cây không già, hoa không héo  
  Ngàn năm đất nước vững bền  
  - Anh từ phương nào lại?  
  - Tôi từ đất dấy lên  
  Chúng ta cùng một mẹ hiền  
  Lúa thơm bầu sữa bông mềm áo tơ  
  Chúng ta chung một mối thù  
  Gươm tung uất hận đạn vù đắng cay  
  - Anh đi từ đâu đến đó?  
  - Tôi đi giết giặc đây  
  Đêm nay gặp bạn cùng nhau chén  
  Máu giặc đang nồng ta phải say  
  Đây ruộng đồng Trung Nam  
  Kia núi rừng Việt Bắc  
  Cỏ cây đang căm hờn như vùng lên đuổi giặc  
  Tôi với anh gặp nhau trong ngày hội Liên Hoan  
  Tay bắt tay, mừng trên giải đất Việt-Nam  
  - Gia đình anh ở đâu?  
  - Mẹ hiền tôi đã khuất  
  Nhưng trước khi nhắm mắt  
  Mẹ mừng cho đàn con  
  Máu tôi mai sẽ chảy  
  Trôi phăng hết kiếp ngựa trâu  
  Xương tôi, tôi bắt nên cầu  
  Cho đàn con bước lên lầu Tự Do!  
  - Anh giết bao nhiêu giặc mà mắt anh long lanh? 
          Mời anh lên rừng xanh 
  Hỏi những cành lá biếc  
  Rừng âm u đang tưng bừng mở tiệc  
  Bằng thịt, xương và máu của quân thù  
  - Trong tiểu đội anh, những ai còn ai mất?  
  - Không, không ai còn ai mất  
  Ai cũng chết mà thôi!  
  Kẻ trước người sau lao vào giặc  
  Giữ vững ngàn thu một giống nòi  
  Dù cho thịt nát xương phơi  
  Cái còn vĩnh viễn là người Việt Nam!  
  Đêm Liên Hoan, trời ôi, đêm Liên Hoan!  
  Đầu người nhấp nhô như sóng vỗ ngang tàng  
  Ta muốn thét cho vỡ toang lồng ngực  
  Vì say sưa tình thắm thiết Việt Chính Đoàn  
  Người bạn mến thương ơi!  
  Nắm chặt lấy tay tôi  
  - Kìa, sao anh lại khóc?  
  - Tôi quá mừng anh đó thôi!  
  Lần thứ nhất trên đời  
  Tôi quay cuồng nhảy múa  
  Giặc kia ơi! Không bao giờ còn nữa  
  Ta đếm từng ngày  
  Ta trông từng phút, ta đợi từng giây  
  Lửa hờn nghi ngút chờ người đêm nay  
  Chờ người đến đây  
  Ta băm, ta giết!  
  Giặc kia phải chết  
  Núi đồng phơi thây  
  Anh đi hỏi núi  
  Anh về hỏi cây 
  Anh hỏi biển rộng  
  Anh hỏi sông dài  
  Anh hỏi ngô non  
  Anh hỏi lúa bé  
  Anh đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ  
  Rằng ta là Việt Chính Đoàn  
  Đêm nay say tiệc liên hoan  
  Ngày mai xé xác moi gan quân thù!  
  Tiệc liên hoan lại tưng bừng hiển hiện  
  Giữa đoàn quân bách chiến  
  Đổ về thủ đô như nước vỡ bờ!  
  Từ mũi Cà Mau cho đến biên giới Lạng 
  Từ nắng sớm Sơn La cho đến mưa chiều Vạn Tượng!  
  Muôn đội đội hùng binh phất phới cờ bay  
  Đoàn quân bách chiến đi suốt đêm ngày  
  - Mẹ ơi! Con đã về đây!  
  Chị hiền từ tốn đưa tay đón mừng...  
  ...Anh ơi! Anh tỉnh lại  
  Nước mắt tôi rưng rưng  
  Hình như tôi đã mơ màng  
  Phải rồi, anh Việt Chính Đoàn  
  Đêm nay say tiệc Liên Hoan  
  Ngày mai xé xác moi gan quân thù 
  Bao giờ thu lại tới thu  
  Liên Hoan bừng nở bốn mùa Non Sông! 
  ~Hoàng-Cầm~ 
   
   
  BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG* 
   
  Em ơi! Buồn làm chi  
  Anh đưa em về sông Đuống  
  Ngày xưa cát trắng phẳng lỳ  
  Sông Đuống trôi đi  
  Một dòng lấp lánh  
  Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ  
   
  Xanh xanh bãi mía bờ dâu  
  Ngô khoai biêng biếc  
  Đứng bên này sông sao nhớ tiếc  
  Sao xót xa như rụng bàn tay  
   
  Bên kia sông Đuống  
  Quê hương ta lúa nếp thơm đồng  
  Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong  
  Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp  
  Quê hương ta từ ngày khủng khiếp  
  Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn  
   
  Ruộng ta khô  
  Nhà ta cháy  
  Chó ngộ một đàn  
  Lưỡi dài lê sắc máu 
  Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang  
  Mẹ con đàn lợn âm dương  
  Chia lìa đôi ngả  
  Đám cưới chuột tưng bừng rộn rã  
  Bây giờ tan tác về đâu?  
   
  Ai về bên kia sông Đuống  
  Cho ta gửi tấm the đen  
  Mấy trăm năm thấp thoáng  
  mộng bình yên  
  Những hội hè đình đám  
  Trên núi Thiên Thai  
  Trong chùa Bút Tháp  
  Giữa huyện Lang Tài  
  Gửi về may áo cho ai  
  Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu  
  Những nàng môi cắn chỉ quết trầu  
  Những cụ già phơ phơ tóc trắng  
  Những em xột xoạt quần nâu  
  Bây giờ đi đâu? Về đâu?  
   
  Ai về bên kia sông Đuống 
  Có nhớ từng khuôn mặt búp sen  
  Những cô hàng xén răng đen  
  Cười như mùa thu tỏa nắng  
  Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen  
  Bãi Tràm chỉ người dăng tơ nghẽn lối  
  Những nàng dệt sợi  
  Đi bán lụa mầu 
  Những người thợ nhuộm  
  Đồng Tỉnh, Huê Cầu  
  Bây giờ đi đâu? Về đâu?  
   
  Bên kia sông Đuống  
  Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong  
  Dăm miếng cau khô  
  Mấy lọ phẩm hồng  
  Vài thếp giấy dầm hoen sương sớm  
  Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn  
  Khua giầy đinh đạp gẫy quán gầy teo  
  Xì xồ cướp bóc  
  Tan phiên chợ nghèo  
  Lá đa lác đác trước lều  
  Vài ba vết máu loang chiều mùa đông  
   
  Chưa bán được một đồng  
  Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong  
  Bước cao thấp trên bờ tre hun hút  
  Có con cò trắng bay vùn vụt  
  Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu?  
  Mẹ ta lòng đói dạ sầu  
  Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ  
   
  Bên kia sông Đuống  
  Ta có đàn con thơ  
  Ngày tranh nhau một bát cháo ngô  
  Đêm líu díu chui gầm giường tránh đạn  
  Lấy mẹt quây tròn  
  Tưởng làm tổ ấm  
  Trong giấc thơ ngây tiếng súng dồn tựa sấm  
  Ú ớ cơn mê  
  Thon thót giật mình  
  Bóng giặc dày vò những nét môi xinh  
   
  Đã có đất này chép tội  
  Chúng ta không biết nguôi hờn  
   
  Đêm buông xuống dòng sông Đuống  
  - Con là ai? - Con ở đâu về?  
   
  Hé một cánh liếp  
  - Con vào đây bốn phía tường che  
  Lửa đèn leo lét soi tình mẹ  
  Khuôn mặt bừng lên như dựng giăng  
  Ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể  
  Những chuyện muôn đời không nói năng  
  Đêm đi sâu quá lòng sông Đuống  
  Bộ đội bên sông đã trở về  
  Con bắt đầu xuất kích  
  Trại giặc bắt đầu run trong sương 
  Dao loé giữa chợ  
  Gậy lùa cuối thôn  
  Lúa chín vàng hoe giặc mất hồn  
  Ăn không ngon  
  Ngủ không yên  
  Đứng không vững  
  Chúng mày phát điên  
  Quay cuồng như xéo trên đống lửa  
  Mà cánh đồng ta còn chan chứa  
  Bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân  
  Gió đưa tiếng hát về gần 
  Thợ cấy đánh giặc dân quân cày bừa  
  Tiếng bà ru cháu buổi trưa  
  Chang chang nắng hạ võng đưa rầu rầu  
  "ầu ơ... cha con chết trận từ lâu  
  Con càng khôn lớn càng sâu mối thù"  
  Tiếng em cắt cỏ hôm xưa  
  Hiu hiu gió rét mịt mù mưa bay  
  "Thân ta hoen ố vì mày  
  Hờn ta cùng với đất này dài lâu..."  
   
  Em ơi! Đừng hát nữa! Lòng anh đau  
  Mẹ ơi! Đừng khóc nữa! Dạ con sầu  
  Cánh đồng im phăng phắc  
  Để con đi giết giặc  
  Lấy máu nó rửa thù này  
  Lấy súng nó cầm chắc tay  
  Mỗi đêm một lần mở hội  
  Trong lòng con chim múa hoa cười  
  Vì nắng sắp lên rồi  
  Chân trời đã tỏ  
  Sông Đuống cuồn cuộn trôi  
  Để nó cuốn phăng ra bể  
  Bao nhiêu đồn giặc tơi bời  
  Bao nhiêu nước mắt  
  Bao nhiêu mồ hôi  
  Bao nhiêu bóng tối  
  Bao nhiêu nỗi đời  
   
  Bao giờ về bên kia sông Đuống  
  Anh lại tìm em  
  Em mặc yếm thắm  
  Em thắt lụa hồng  
  Em đi trảy hội non sông  
  Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.  
  ~Hoàng-Cầm~ 
  Việt Bắc, tháng 4, 1948 
   
                 
  ĐÊM THỔ 
             
  Cúi lạy mẹ con trở về Kinh Bắc  
  Chiều xưa giẻ quạt voi lồng  
  Thân cau cụt vẫy đuôi mèo trắng mốc  
  Chuồn chuồn khiêng nắng sang sông  
  Đê mười tám khúc Văn Giang  
  Chuông Bách môn đổ xô gò má  
  Mây thành thổi lửa  
  Nẻo Đông Triều khép mở gió kỳ lân  
  Chớp rạch dáng tiên vén xiêm xõa ngủ  
  Thoắt chìm  
  Gấu đẩy đá Thiên thai  
  Đi đâu  
   
  Tràng mày xếch vòng cung  
  bắn nát chiều mai ráng đỏ  
  Châu chấu ma vờn cổ yếm xây  
   
  Không gặp người quen  
  hờ  
  ngõ cũ  
   
  Đêm xuống  
  làm lầu hoang  
  Trò chuyện gì ai đâu  
  Mồ tháng giêng mưa sũng  
  Đằm ca dao sáo diều chiều lịm tím lưng trâu  
   
  Bưởi Nga My sao Mẹ bắt đèo bòng  
  ~Hoàng-Cầm~ 
   
   
  EM BÉ LÊN SÁU TUỔI 
   
  Em bé lên sáu tuổi 
  Lủi thủi tìm miếng ăn. 
  Bố: cường hào nợ máu 
  Đã trả trước nông dân. 
  Mẹ bỏ con lay lắt  
  Đi tuột vào trong Nam. 
  Từ khi lọt lòng mẹ 
  Ăn sữa, ngủ dường êm, 
  Áo hoa lót áo mềm, 
  Nào biết mình sung sướng. 
  Ngọn sóng đang trào lên 
  Ai nghĩ thân bèo bọt; 
  Như ngườì với con người 
  Vẫn sẵn lòng thương xót. 
  Có cụ già đói khổ 
  Lập cập đi mò cua: 
  Bố mẹ nó không còn, 
  Bỗng thương tình côi cút; 
  Cụ nhường cho miếng cơm. 
  Chân tay như cái que, 
  Bụng phình lại ngẳng cổ, 
  Mắt tròn đỏ hoe hoe; 
  Đói nhìn đời bỡ ngỡ: 
  ‘‘Lạy bà xin bát cháo 
  Cháu miếng cơm thầy ơi!’’ 
   
  Có một chị cán bộ 
  Đang phát động thôn ngoài, 
  Chợt nhìn ra phía ngõ 
  Nghe tiếng kêu lạc loài 
  Chị rùng mình nhớ lại 
  Năm đói kém từ lâu 
  Chị mới năm tuổi đầu 
  Liếm lá khoai giữa chợ. 
  Chạy vùng ra phía ngõ 
  Dắt em bé vào nhà, 
  Nắm cơm dành chiều qua 
  Bẻ cho em một nửa. 
  Chị bần cố nông cốt cán 
  Ứa nước mắt quay đi: 
  - ‘‘Nó là con địa chủ 
  Bé bỏng đã biết gì; 
  Hôm cho em bát cháo, 
  Chị ba ngày hỏi truy.’’ 
  Chị đội bỗng lùi lại 
  Nhìn đứa bé mồ côi 
  Cố tìm vết thù địch. 
  Chỉ thấy một con người. 
  Em bé đã ăn no 
  Nằm lăn ra đất ngủ; 
  Chị nghĩ: ‘‘sau lấy chồng 
  Sinh con bồng bú sữa.’’ 
   
  Chị phải đình công tác 
  Vì câu chuyện trên kia. 
  Buồng tối lạnh đêm khuya 
  Thắp đèn lên kiểm thảo. 
  Do cái lưỡi không xương 
  Nên nhiều đường lắt lẻo; 
  Do con mắt bé téo 
  Chẳng nhìn xa chân trời; 
  Do bộ óc trây lười 
  Chỉ một mầu sắt rỉ, 
  Đã lâu năm cũ kỹ 
  Trên trang sách im lìm; 
  Do mấy con người máy 
  Đầy gân, thiếu trái tim! 
   
  Nào ‘’liên quan phản động’’ 
  ‘‘Mất cảnh giác lập trường’’ 
  Mấy đêm khóc ròng rã 
  Ngọn đèn soi tù mù, 
  Lòng vặn lòng câu hỏi: 
  ‘‘Sao thương con kẻ thù? 
  Giá ghét được đứa bé 
  Lòng thảnh thơi biết bao nhiêu!’’ 
  ~Hoàng-Cầm~ 
   
   
  LÁ DIÊU BÔNG 
   
  Váy Đình-Bảng buông chùng cửa võng 
  Chị thẫn thờ đi tìm 
  Đồng chiều 
  Cuống rãy  
  Chị bảo: Đứa nào tìm được lá Diêu Bông    
  Từ nay ta gọi là chồng  
  Hai ngày em đi tìm thấy lá 
  Chị chau mày: 
  Đâu phải Lá Diêu Bông 
  Mùa đông sau em tìm thấy lá 
  Chị lắc đầu 
  Trông nắng vãn bên sông.  
  Ngày cưới chị 
  Em tìm thấy lá 
  Chị cười xe chỉ ấm trôn kim. 
  Chị ba con 
  Em tìm thấy lá 
  Xòe tay phủ mặt chị không nhìn. 
  Từ thuở ấy 
  Em cầm chiếc lá 
  Đi đầu non cuối bể. 
  Gió quê vi vút gọi 
  Diêu Bông hời 
  Ới Diêu Bông! 
  ~Hoàng-Cầm~      
        1993 
   
   
   
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 21.12.2010 18:22:56 bởi Anh Nguyên >
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
               
   
  VU-CAO 
      1922 
   
  Tức Vũ-Hữu-Chỉnh, sinh tại Vụ-Bản,  
  Nam Định, làm thơ, viết truyện ngắn. 
   
   
  NÚI ĐÔI  
   
  Bảy năm về trước em mười bảy 
  Anh mới đôi mươi, trẻ nhất làng 
  Xuân Dục Đoài, Đông hai cánh lúa 
  Bữa thì anh tới, bữa anh sang. 
   
  Lối ta đi giữa hai sườn núi 
  Đôi ngọn nên làng gọi là Núi Đôi 
  Em vẫn đùa anh: Sao khéo thế 
  Núi chồng núi vợ đứng song đôi. 
   
  Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới 
  Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau 
  Mới ngỏ lời thôi đành lỗi hẹn 
  Đâu ngờ từ đó mất tin nhau. 
   
  Anh vào bộ đội lên đông bắc 
  Chiến đấu quên mình năm lại năm 
  Mỗi bận dân công về lại hỏi 
  Ai người Xuân Dục, Núi Đôi chăng? 
   
  Anh nghĩ quê ta giặc chiếm rồi 
  Trăm nghìn căm uất bao giờ nguôi 
  Mỗi tin súng nổ vùng đai địch 
  Sương trắng người đi lại nhớ người. 
   
  Đồng đội có nhau thường nhắc nhở 
  Trung du làng nước vẫn chờ trông 
  Núi Đôi bốt dựng kề ba xóm 
  Em vẫn đi về những bến sông? 
   
  Náo nức bao nhiêu ngày trở lại 
  Lệnh trên ngừng bắn, anh về xuôi 
  Hành quân qua tắt đường sang huyện 
  Anh ghé thăm nhà, thăm Núi Đôi. 
   
  Mới đến đầu ao, tin sét đánh 
  Giặc giết em rồi, dưới gốc thông 
  Giữa đêm bộ đội vây đồn Thứa 
  Em sống trung thành, chết thuỷ chung, 
   
  Anh ngước nhìn lên hai dốc núi 
  Hàng thông, bờ cỏ, con đường quen 
  Nắng lụi bỗng đưng mờ bóng khói 
  Núi vẫn đôi mà anh mất em! 
   
  Dân chợ Phù Linh ai cũng bảo 
  Em còn trẻ lắm, nhất làng trong 
  Mấy năm cô ấy làm du kích 
  Không hiểu vì sao chẳng lấy chồng. 
   
  Từ núi qua thôn đường nghẽn lối 
  Xuân Dục Đoài, Đông cỏ ngút đầy 
  Sân biến thành ao, nhà đổ chái 
  Ngổn ngang bờ bụi cánh dơi bay. 
   
  Cha mẹ dìu nhau về nhận đất 
  Tóc bạc thương từ mỗi gốc cau 
  Nứa gianh nửa mái lều che tạm 
  Sương nắng khuây dần chuyện xót đau. 
   
  Anh nghe có tiếng người qua chợ: 
  Ta gắng mùa sau lúa sẽ nhiều 
  Ruộng thấm mồ hôi từng nhát cuốc 
  Làng ta rồi đẹp biết bao nhiêu! 
   
  Nhưng núi còn kia anh vẫn nhớ 
  Oán thù còn đó, anh còn đây 
  Ở đây cô gái làng Xuân Dục 
  Đã chết vì dân giữa đất này? 
   
  Ai viết tên em thành liệt sĩ 
  Bên những hàng bia trắng giữa đồng 
  Nhớ nhau anh gọi: em, đồng chí 
  Một tấm lòng trong vạn tấm lòng. 
   
  Anh đi bộ đội, sao trên mũ 
  Mãi mãi là sao sáng dẫn đường 
  Em sẽ là hoa trên đỉnh núi 
  Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm. 
  ~Vũ-Cao~ 
     1956 
  Nhà xuất bản Giáo dục, 2005     
   
   
   
  NGUYỄN-ĐÌNH-THI 
   
  Sinh tại Luang Prabang, Lào, quê Vũ-Thạch,  
  (phố Bà Triệu, q. Hoàn Kiếm, HN), năm 1931  
  về nước học ở Hải-Phòng, Hà-Nội, đại biểu  
  tham dự Quốc dân Đại hội Tân-Trào, Ủy viên  
  Tiểu ban dự thảo Hiến pháp, Tổng thư ký Hội  
  Nhà Văn VN, làm thơ, viết tiểu thuyết, truyện  
  ngắn, tiểu luận, kịch. 
   
   
  ĐẤT NƯỚC*  
   
  Sáng mát trong như sáng năm xưa 
  Gió thổi mùa thu hương cốm mới 
  Tôi nhớ những ngày thu đã xa 
   
  Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội 
  Những phố dài xao xác hơi may  
  Người ra đi đầu không ngoảnh lại  
  Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy 
   
  Mùa thu nay khác rồi  
  Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi  
  Gió thổi rừng tre phấp phới  
  Trời thu thay áo mới  
  Trong biếc nói cười thiết tha!  
   
  Trời xanh đây là của chúng ta  
  Núi rừng đây là của chúng ta  
  Những cánh đồng thơm ngát  
  Những ngả đường bát ngát  
  Những dòng sông đỏ nặng phù sa  
  Nước chúng ta  
  Nước những người chưa bao giờ khuất  
  Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất  
  Những buổi ngày xưa vọng nói về!  
   
  Ôi những cánh đồng quê chảy máu  
  Dây thép gai đâm nát trời chiều  
  Những đêm dài hành quân nung nấu  
  Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.  
   
  Từ những năm đau thương chiến đấu  
  Đã ngời lên nét mặt quê hương  
  Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu  
  Đã bật lên những tiếng căm hờn  
   
  Bát cơm chan đầy nước mắt  
  Bay còn giằng khỏi miệng ta  
  Thằng giặc Tây, thằng chúa đất  
  Đứa đè cổ, đứa lột da...  
   
  Xiềng xích chúng bay không khóa được  
  Trời đầy chim và đất đầy hoa  
  Súng đạn chúng bay không bắn được  
  Lòng dân ta yêu nước thương nhà!  
   
  Khói nhà máy cuộn trong sương núi  
  Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng  
  Ôm đất nước những người áo vải  
  Đã đứng lên thành những anh hùng  
   
  Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội  
  Mỗi bước đường mỗi bước hy sinh  
  Trán cháy rực nghĩ trời đất mới  
  Lòng ta bát ngát ánh bình minh.  
   
  Súng nổ rung trời giận dữ  
  Người lên như nước vỡ bờ  
  Nước Việt Nam từ máu lửa  
  Rũ bùn đứng dậy sáng lòa! 
  ~Nguyễn-Đình-Thi~ 
   
   
  LÁ ĐỎ           
   
  Gặp em trên cao lộng gió 
  Rừng lạ ào ào lá đỏ 
  Em đứng bên đường như quê hương 
  Vai ác bạc quàng súng trường. 
  Ðoàn quân vẫn đi vội vã 
  Bụi Trường Sơn nhòa trời lửa. 
  Chào em, em gái tiền phương 
  Hẹn gặp nhau nhé giữa Sài Gòn. 
  Em vẫy cười đôi mắt trong. 
  ~Nguyễn- Đình-Thi~ 
  Trường Sơn, 12/1974 
   
   
  VIỆT NAM QUÊ  HƯƠNG TA   
   
  Việt Nam đất nước ta ơi 
  Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn 
  Cánh cò bay lả rập rờn 
  Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều 
  Quê hương biết mấy thân yêu 
  Bao nhiêu đời đã chịu nhiều thương đau 
  Mặt người vất vả in sâu 
  Gái trai cũng một áo nâu nhuộm bùn 
  Ðất nghèo nuôi những anh hùng 
  Chìm trong máu lửa lại vùng đứng lên 
  Ðạp quân thù xuống đất đen 
  Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa. 
  Việt Nam đất nắng chan hòa 
  Hoa thơm quả ngọt bốn mùa trời xanh 
  Mắt đen cô gái long lanh 
  Yêu ai yêu trọn tấm tình thủy chung 
  Ðất trăm nghề của trăm vùng 
  Khách phương xa tới lạ lùng tìm xem 
  Tay người như có phép tiên 
  Trên tre lá cũng dệt nghìn bài thơ 
  Nước bâng khuâng những bến đò 
  Ðêm đêm còn vọng câu hò Trương Chi 
  Ðói nghèo nên phải chia ly 
  Xót xa lòng kẻ rời quê lên đường 
  Ta đi ta nhớ núi rừng 
  Ta đi ta nhớ dòng sông vỗ bờ 
  Nhớ đồng ruộng, nhớ khoai ngô 
  Bát cơm rau muống quả cà giòn tan… 
  ~Nguyễn- Đình-Thi~ 
  (Trích đoạn trường ca Bài thơ Hắc Hải) 
   
   
   
            
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
               
   
   
  TỬ-PHÁC 
   1923-1982 
   
  Tức Nguyễn-Anh-Chấn, tên thật Nguyễn-Anh-Kim, 
  là nhà văn, nhà tơ, nhạc sĩ, tác giả bài "Tiếng hát quay tơ" 
  làm năm 1948, một trong những nhân vật trụ cốt của 
  phong trào Nhân Văn Giai Phẩm.  
   
  "Tiếng Hát Quay Tơ" đã được hoan nghênh nhiệt liệt: 
   
  Chiều không hương buông mây lắng xuống đồng quê 
  Trời mênh mông tím ngát, thoi thóp pha hồng 
  Hàng nước mắt, lá rơi bên thềm, vun vút bóng cau 
  Khắp trời bát ngát khói sương 
  Thì thào lá biếc có thương lá vàng 
  Tre ngà đưa võng heo may hòa đàn...  
  ......  
  Ngập ngừng xe quay rung rinh in bóng dáng người 
  Aàm ầm... gió rét... mưa bay...  
  ... ... ...  
  Chàng ra đi...  
  Em về xa vắng thầm lo cho cánh chim bay 
  Chiều nghe vang lá xiết em run 
  Ngỡ tiếng ngỡ tiếng bước ai về 
  Quay quay thương nhớ quyến vào tơ 
  Quay quay se áo rét dâng chàng...  
  ......  
  Quay quay thương nhớ quyến vào tơ 
  Quay quay chăn ấm quấn thân chàng 
  Mỗi một đường tơ là mỗi dây tình 
  Trong lòng em dâng người hiên ngang 
  Nhịp xe quay vang trong tiếng gió đìu hiu 
  Mình tơ êm óng chuốt như nắng hanh vàng 
  Mùa lá trút sắp qua nhớ chàng quay gấp bánh xe 
  Tơ vàng chắn lối gió đông chọ..đêm không lạnh lùng 
  ...... Gửi cùng áo ấm 
  Muôn vàn nhớ nhung... 
  (Tử Phác, 1948) 
   
  Khi  nói về bài "Tiếng Hát Quay Tơ" nhà văn kiêm thi sĩ Hoàng Cầm đã viết:  "Cả đoàn Việt Bắc đều thích hát cả ngày ca khúc Quay Tơ, có anh còn nhảy  "valse"theo nhạc Quay Tơ nữa, nghe thật sang trọng hào hoa cuốn hút  thắm thiết... " 
   
  Tử Phác nổi tiếng từ đó, nhưng cũng từ đó Tử Phác  không còn thường sáng tác thơ nhạc vì được điều động vào cương vị tổ  chức điều khiển làm Trưởng Phòng Văn Nghệ Quân Khu 3. 
   
  Năm 1950  lên Trung Ương giữ chức Trưởng Phòng Văn Nghệ thuộc Tổng Cục Chính Trị  và năm 1952 làm Tổng Phụ Trách Văn Công Quân Đội cùng với Chính Hữu,  Trần Dần và Hoàng Cầm trong Ban Chỉ Huy Tổng Đoàn. 
   
  Khi Trung Quốc  tung ra phong trào "Trăm Hoa Đua Nở" Việt Nam cũng hùa theo và một số  văn nghệ sĩ cùng nhau làm tờ báo "Nhân Dân Giai Phẩm" vào những năm  1957-1958. 
   
  Tử Phác là Thư Ký Toà Soạn của báo Nhân Dân Giai Phẩm. 
   
  Khi  chính quyền dẹp Nhân Dân Giai Phẩm những người có liên quan tới Nhân  Dân Giai Phẩm đều bị trừng phạt và đối xử tàn tệ. Riêng người bị trừng  trị tàn nhẫn nhất là Tử Phác. 
   
  Tử Phác bị hạ tầng công tác mất hết  quân hàm không còn được quân đội trả lương và cấp dưỡng, phải đi cải  tạo ở Hòa Bình trong hai năm 1959-1960. Nếu không có gia đình giúp đỡ  thì Tử Phác đã bị bỏ chết đói ở Hòa Bình. Gia đình gửi cho Tử Phác một  chiếc xe đạp để Tử Phác làm nghề "thồ đồ" kiếm sống. Sức khoẻ của Tử  Phác từ đó cứ sút giảm dần liên miên hết bệnh nầy sang bệnh khác. 
   
  Khi  được thả về Tử Phác không tìm được một việc làm nào, các báo và nhà  xuất bản bị cấm không được đăng và trả tiền nhuận bút những bài văn thơ  nhạc của Tử Phác. Con cái không cho đi học ở những cấp cao. 
   
  Trong  30 năm, Tử Phác như tù giam lỏng không ra khỏi nhà. Các người lại thăm,  có người Tử Phác tiếp đón niềm nở, có người Tử Phác không chào hỏi để  mặc ngồi đó hàng giờ không trả lời một câu, ngồi chán rồi đi, Tử Phác  không để ý tới. Các con hỏi tại sao thế? Tử Phác đáp: "Những thằng đó đến xem bố nói gì để viết báo cáo". 
   
  Không  có sinh kế, vợ con nheo nhóc, sống vất vưởng nhờ tiền trợ giúp của gia  đình nội ngoại ở Pháp, đồ đạc trong nhà bán dần dần đến cả chiếc dương  cầm, cái hương án...  
   
  "Tôi biết đi đâu biết về đâu 
  Tuy không reo ác lại hái sầu 
  Đất lửa khi nao là đất thánh 
  Cát bụi bơ vơ giữa địa cầu 
  Nay bạn mai thù không hiểu nổi 
  Chuyện đời nhân nghĩa lộn đầu đuôi 
  Tôi muốn hỏi trên đường vạn nẻo 
  Đâu đất lành dung lũ chúng tôi. 
  Tôi hỏi bình minh tôi hỏi mây 
  Hỏi sóng biển hỏi trời giông bão 
  Hỏi tình yêu hay hỏi niềm đau 
  Đâu đất lành dung lũ chúng tôi." 
  (Tử Phác, 12-1979) 
   
  Chính  vì đâu đất lành dung lũ chúng tôi? Nên khi phong trào vượt biên lan ra  ngoài Bắc, Tử Phác dành để vợ con vượt biên chỉ có người con đã lập gia  đình ở lại trông nom Tử Phác. 
   
  Nghịch cảnh nên thơ cũng nghịch  thường. Xa quê hương ai ai chẳng nhớ thương nhưng Tử Phác đã viết: "Vui  sướng reo mừng. Biệt ly nào không buồn?" Nhưng Tử Phác lại viết: Vui  Biệt Ly, trong những câu thơ sau: 
   
  Đất đuổi tôi ra biển 
  Biển quẳng tôi về đâu 
  Chỉ nghe trong sóng gió 
  Thảm thiết tiếng hải âu 
  ......  
  Ai xa quê hương mà nghe náo nức 
  Ai biệt chồng con vui sướng reo mừng 
  ......  
  Ai đã chắc biệt ly là khổ 
  Ai cầm bằng đến được bờ vui 
  Vui ly biệt mà buồn thân phận 
  ...... (Tử Phác, 12-1979) 
   
  Nỗi niềm lo lắng cho những người vượt biên Tử Phác gói ghém trong những câu thơ:......  
   
  Xưa tiễn Kinh Kha có sá gì 
  Sá gì tiếng sáo Cao Tiệm Ly 
  Sầu thế kỷ muôn lần hơn chuyện cổ 
  Máu nhuộm hồng triệu mắt héo phân kỳ 
  Tìm em nơi nao trên biển Đông 
  Thuyền con như lá rớt giữa giòng 
  Lòng biển tối đen lòng đời hiểm độc 
  Em lênh đênh theo định mệnh hãi hùng 
  Tìm em nơi nao trên biển Đông 
  Đâu Macao, Tân Đảo, đâu Hồng Kông 
  Một trời một nước bờ xa khuất 
  Tìm em nơi nao trên biển Đông 
  (Tử Phác, 12-1979) 
   
  Và may thay......  
   
  Những  người vượt biên tới Hồng Kông và sau được định cư ở Pháp vì có thân  nhân bảo lãnh. Nhớ vợ thương con, có đêm Tử Phác nằm mê thấy vợ về thăm  trong vườn hồng tặng một tấm hình còn Tử Phác tặng vợ một bài thơ: 
   
  Cố nhân mặc áo hoa 
  Lẫn muôn hoa vườn hồng 
  Mắt lão nhìn chưa ra 
  Đã mờ đi lệ nhòa 
  Ba mươi năm chiến tranh 
  Không lạc nhau bom đạn 
  Thế mà nay về già 
  Lại lạc nhau trong vườn hoa 
  Bà tặng tôi tấm hình 
  Rẽ hoa tìm cố nhân 
  Tôi tặng bà vần thơ 
  Vẫn rành rành tôi đó 
  Tuổi già tưởng suôi sẻ 
  Ai ngờ vẫn phong ba 
  Bão táp trong vườn hoa 
  Vẫn ương ương vậy mà 
  (Tử Phác, 29-7-1980) 
   
  Đám  tang của Tử Phác có công an chìm nổi canh chừng cẩn mật vì có nhiều  người tới tham dự. Trong bài văn tế của Trần Dần có những câu như sau: 
   
  Ngày xửa, ngày xưa... có một chàng trai... 
  trong ầm ầm... gió rét... mưa bay... 
  động tâm vì những người chiến trường áo mong manh... 
  liều lấy cả tuổi xanh mình... tim thật mình...  
  quay tơ... may áo... 
  ai ai đều nhớ... 
  mỗi một đường tơ là mỗi dây tình...  
  dâng người hiên ngang...  
  thế là khúc tâm ca thành áo ấm trữ tình 
  cho hơn một thế hệ những người áo mong manh chiến trường 
  những người hồi ấy hiên ngang kháng chiến... 
   
  Sự tích chàng trai chỉ cần có thế: 
   
  Tử Phác... Le Fier... Từ đầu... 
  Rồi khổ ải... khổ ải... 30...  
  Hơn 30 năm sau... anh nằm đây... 
  Vẫn anh... Tử Phác... Le Fier...  
  Anh đã sống- đã đau-anh đã thác 
  Yêu nghệ thuật-yêu thơ-yêu nhạc 
  Một đời anh thác chỉ vì... yêu 
  ......  
  Anh để lại cho chúng tôi một thái độ 
  Chúng tôi ở lại... anh đi... 
  Âm dương không cách trở... 
  (Trần Dần, 12-05-1982) 
   
  Mười năm sau, tờ báo Âm Nhạc số 4 năm 1992 ở Hà Nội mới đăng bốn trang nói về Tử Phác kèm theo ảnh. 
   
  Và  mười sáu năm sau, tờ báo Lao Động số 11 năm 1998 mới đăng ảnh của Tử  Phác và một bài ngắn coi Tử Phác như một "nghệ sĩ có tầm vóc văn hóa sâu  sắc thuộc số người sớm nhất mở đường "sân khấu hóa" cho một điệu múa  dân gian là điệu múa sạp." 
   
  Hai chục năm qua thoáng tới ngày 
  Kỵ linh thanh khí có về đây? 
  Gia phong nhang khói tình vương vấn 
  Sứ điệp ngàn thu mộng đắng cay. 
  Non nước tiếc thương tài mệnh bạc 
  Nhạc thi âm hưởng lụy trần ai 
  Bến xưa chìm bóng trăng đồng nội 
  Sương phủ mù đêm lệ ứa đầy... 
  Vân Uyên, 12/5/02  
   
   
   
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 14.01.2011 06:50:25 bởi Anh Nguyên >
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
               
   
  TRẦN-DẦN 
      1926-1997 
       Tức Trần-Văn-Dần, sinh tại Nam-Định,  
  làm thơ, viết tiểu thuyết và phiên dịch. 
  Ông viết ‘‘Biểu hiệu cao nhất của trách  
  nhiệm người viết là thái độ tôn trọng,  
  trung thành với sự thực…Tôn trọng,  
  trung thành với sự thực vừa là trách  
  nhiệm, vừa là lập trường, vừa là phương  
  pháp làm việc của người viết…Nếu như  
  sự thực ngược lại chính sách, chỉ thị, thì  
  phải viết sư thực chứ không phải là bóp  
  gò sự thật vào chính sách!’’   
                   NHẤT ĐỊNH THẮNG           Tôi ở phố Sinh Từ:  
    Hai người  
    Một gian nhà chật.  
    Rất yêu nhau, sao cuộc sống không vui?  
    Tổ Quốc hôm nay  
        tuy gọi sống Hòa Bình  
    Nhưng mới chỉ là năm thứ nhất  
    Chúng ta còn muôn việc rối tinh…  
    Chúng ta  
    Ngày làm việc, đêm thì lo đẫy giấc  
    Vợ con đau thì rối ruột thuốc men  
    Khi mảng vui – khi chợt nhớ – chợt quên  
    Trăm cái bận hàng ngày nhay nhắt  
    Chúng ta vẫn làm ăn chiu chắt  
    Ta biết đâu bên Mỹ Miếc tít mù  
    Chúng còn đương bày kế hại đời ta?  
    Người ta nói thằng ngô con đĩ  
    Ở miền Nam có tên giặc họ Ngô  
    Tài của hắn là: Khuyển Ưng của Mỹ  
    Bửu bối gớm ghê là: một lưỡi đao cùn  
    Hắn nhay mãi cố xẻ đôi Tổ Quốc       Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc  
    Đất hôm nay tầm tã mưa phùn  
    Bỗng nhói ngang lưng  
        máu rỏ xuống bùn  
    Lưng tôi có tên nào chém trộm?  
    A! Cái lưỡi đao cùn!  
    Không đứt được – mà đau!  
    Chúng định chém tôi làm hai mảnh  
    Ơi cả nước! Nếu mà lưng tê lạnh  
    Hãy nhìn xem: Có phải vết đao?  
    Không đứt được mà đau!  
    Lưng Tổ Quốc ngày hôm nay rớm máu.       2.  
    Tôi đã sống rã rời cân não  
    Quãng thời gian nhưng nhức chuyện đi Nam  
    Những cơn mưa rơi mãi tối sầm  
    Họ lếch thếch ôm nhau đi từng mảng  
    Tôi đã trở nên người ôm giận  
    Tôi đem thân làm ụ cản đường đi  
    - Đứng lại!  
    - Đi đâu?  
    - Làm gì?  
    Họ kêu những thiếu tiền thiếu gạo  
    Thiếu Cha, thiếu Chúa, thiếu vân vân  
    Có cả anh nam chị nữ kêu buồn  
    - Ở đây  
        khát gió, thèm mây…  
             Ô hay!  
    Trời của chúng ta gặp ngày mây rủ  
    Nhưng trời ta sao bỏ nó mà đi?  
    Sau đám mây kia  
        là cả miền Nam  
    Sao nỡ tưởng là non bồng của Mỹ!  
    Tiệm nhảy, rượu nồng, gái tơ  
    Tha hồ những tự do tự diếc  
    Tưởng như ở đấy cứ chìa tay  
         là có đô-la  
    Có trâu ruộng, – Có ngày đêm hoan hỷ!  
    Mặc dầu sao nỡ đổi trời ta?  
    Tôi muốn khóc giữ từng em bé  
    - Bỏ tôi ư? – Từng vạt áo – Gót chân  
    Tôi muốn kêu lên – những tiếng cộc cằn…  
    - Không! Hãy ở lại  
    Mảnh đất ta hôm nay dù tối  
    Cũng còn hơn  
        non bồng Mỹ  
         triệu lần…  
    Mảnh đất dễ mà quên?  
         Hỡi bạn đi Nam  
    Thiếu gì ư? Sao chẳng nói thực thà?  
    Chỉ là:  
    - thiếu quả tim, bộ óc!  
    Những lời nói sắp thành nói cục  
    Nhưng bỗng dưng tôi chỉ khóc mà thôi  
    Tôi nức nở giữa trời mưa bão.  
    Họ vẫn ra đi  
        - Nhưng sao bước rã rời?  
    Sao họ khóc?  
    Họ có gì thất vọng?  
    Đất níu chân đi,  
        gió cản áo bay về.  
    Xa đất Bắc tưởng như rời cõi sống  
    Tưởng như đây là phút cuối cùng  
    Giăng giối lại: – Mỗi lùm cây – hốc đá  
             – Mỗi căn vườn – gốc vả – cây sung  
    Không nói được, chỉ còn nức nở  
    Trắng con ngươi nhìn lại đất trời  
    Nhìn cơn nắng lụi, nhìn hạt mưa sa  
    Nhìn con đường cũ, nhìn ngôi sao mờ  
    Ôi đất ấy – quên làm sao được?  
    Quên sao nơi ấm lạnh ngọt bùi  
    Hôm nay đây mưa gió giập vùi  
    - Mưa đổ mãi lên người xa đất Bắc…  
    Ai dẫn họ đi?  
         Ai?  
         Dẫn đi đâu? – mà họ khóc mãi thôi  
    Trời vẫn quật muôn vàn tảng gió  
    Bắc Nam ơi, đứt ruột chia đôi  
    Tôi cúi xuống – Quỳ xin mưa bão  
    Chớ đổ thêm lên đầu họ -  
         Khổ nhiều rồi!  
    Họ xấu số – Chớ hành thêm họ nữa  
    Vườn ruộng hoang sơ – Cửa nhà vắng chủ  
    Miền Nam muôn dặm, non nước buồn thương  
    Họ đã đi nhưng trút lại tâm hồn  
    Ơi đất Bắc! Hãy giữ gìn cho họ       3.  
    Tôi ở phố Sinh Từ  
   Những ngày ấy bao nhiêu thương xót   
    Tôi bước đi  
    Không thấy phố  
         không thấy nhà  
    Chỉ thấy mưa sa  
        trên màu cờ đỏ.       Gặp em trong mưa  
    Em đi tìm việc  
    Mỗi ngày đi lại cúi đầu về  
    - Anh ạ.  
        Họ vẫn bảo chờ…  
    Tôi không gặng hỏi, nói gì ư?  
    Trời mưa, trời mưa  
    Ba tháng rồi  
    Em đợi  
    Sống bằng tương lai  
    Ngày và đêm như lũ trẻ mồ côi  
    Lũ lượt dắt nhau đi buồn bã…  
    Em đi  
    trong mưa  
         cúi đầu  
             nghiêng vai  
    Người con gái mới mười chín tuổi  
    Em ơi!  
    Em có biết đâu  
    Ta khổ thế này  
    Vì sao?  
    Em biết đâu  
    Mỹ Miếc, Ngô Nghê gì?  
    Khổ thân em mưa nắng đi về  
             lủi thủi  
    Bóng chúng  
         đè lên  
         số phận  
            từng người  
    Em cúi đầu đi, mưa rơi       Những ngày ấy bao nhiêu thương xót  
    Tôi bước đi  
        không thấy phố  
            không thấy nhà  
    Chỉ thấy mưa sa  
         trên màu cờ đỏ       4.  
    Đất nước khó khăn này  
        sao không thấm được vào Thơ?       Những tủ kính tôi dừng chân dán mũi  
    Các thứ hàng ế ẩm đợi người mua  
    Nhưng mà sách – hình như khá chạy  
    À quyển kia của bạn này – bạn ấy  
    Quyển của tôi tư lự, nét đăm đăm  
    Nó đang mơ: – nếu thêm cả miền Nam  
    Số độc giả sẽ tăng dăm bảy triệu  
    Tôi đã biến thành người định kiến  
    Tôi ước ao tất cả mọi người ta  
    Đòi Thống Nhất phải đòi từ việc nhỏ  
    - từ cái ăn  
         cái ngủ  
         chuyện riêng tư  
    - từ suy nghĩ  
         nựng con  
             và tán vợ  
    Trời mưa mãi lây rây đường phố  
    Về Bắc Nam tôi chưa viết chút nào  
    Tôi vẫn quyết Thơ phải khua bão gió  
    Nhưng hôm nay  
        tôi bỗng cúi đầu  
    Thơ nó đi đâu?  
    Sao những vần thơ  
    Chúng không chuyển, không xoay trời đất  
    Sao chúng không chắp được cả cõi bờ?  
    Non nước sụt sùi mưa  
    Tôi muốn bỏ thơ  
    Làm việc khác  
    Nhưng hôm nay tôi mê mải giữa trời mưa  
    Chút tài mọn  
         tôi làm thơ chính trị       Những ngày ấy bao nhiêu thương xót  
    Tôi bước đi  
         không thấy phố  
            không thấy nhà  
    Chỉ thấy mưa sa  
         trên màu cờ đỏ       5.  
    Em ơi! – ta ở phố Sinh Từ  
    Em đương có chuyện gì vui hử  
    À cái tin trên báo – Ừ em ạ  
    Hôm nay bọn Mỹ Miếc, lũ Ngô Nghê  
    Chúng đang phải giậm chân đấm ngực!  
    Vượt qua đầu chúng nó,  
         mọi thứ hàng  
    Những tấn gạo vẫn vượt đi  
    Những tấn thư, tài liệu  
    Vẫn xéo qua đầu chúng, giới ranh gì?  
    Ý muốn dân ta  
        là lực sĩ khổng lồ  
    Đè cổ chúng mà xóa nhòa giới tuyến  
    Dân ta muốn trời kia cũng chuyển  
    Nhưng  
    Trời mưa to lụt cả gian nhà  
    Em tất tả che mưa cản gió  
    Con chó Mực nghe mưa là rú  
    Tiếng nó lâu nay như khản em à  
    Thương nó nhỉ – nó gầy – lông xấu quá  
    Nó thiếu ăn – Hay là giết đi ư?  
    Nó đỡ khổ – Cả em đỡ khổ.  
    Em thương nó – Ừ thôi chuyện đó  
    Nhưng hôm nay anh mới nghĩ ra  
    Anh đã biến thành người định kiến  
    Mực ơi!  
    đừng oán chủ, Mực à!  
    Mày không hiểu những gần xa Mỹ Diệm  
    Chúng ở đâu – mà lại núp bên ta  
    Chính chúng cướp cả cơm của khuyển       Những ngày ấy bao nhiêu thương xót  
    Tôi bước đi  
        không thấy phố  
            không thấy nhà  
    Chỉ thấy mưa sa.  
         trên màu cờ đỏ       6.  
    Hôm nay đài tiếng nói Việt Nam  
    Lại có chuyện tên Ngô Đình Diệm  
    Hắn sai con em là lũ du côn  
    Đi ném đá nhà Ủy ban Quốc tế.  
    Hắn bảo hắn Giơ-ne không ký  
    Hắn bịt tai, không biết chuyện hiệp thương!  
    Ô hay! Cái lưỡi uốn càn  
    Cả thế giới vả vào mõm hắn  
    Hắn giậm chân khoa lưỡi đao cùn:  
    - Mặc kệ! Giết ta chết hẳn  
            thì thôi  
    Ta chẳng giả miền Nam!  
    Chứ  
    giả miền Nam cho nước Việt Nam  
    Thì ta chết  
         – thầy ta cũng chết  
    Hắn thét lên ộc máu mũi máu mồm  
    Hắn lồng lộn, ôm miền Nam mà cắn!  
    Thịt dân ta từng mảng nát bươm  
    Nhưng không!  
    Hôm nay  
    Cả thành phố Sài Gòn  
    Đóng cửa!  
    Không họp chợ!  
    Không ra đường!  
    Những mảng thịt  
    Những đọi máu đào  
    đang rầm rập kéo nhau  
         đi ngoài phố  
    Hôm nay  
        hàng triệu mối thù sâu  
        tới đập cửa lão già Ngô đòi mạng  
    Vung đao cùn chém phải quãng trời không!  
    Hắn đi ngủ,  
         muôn tiếng kêu xúm lại quanh giường  
    Hắn ngồi ăn  
        tiếng khóc nổi trong cơm  
    Hắn nhắm mắt  
        tiếng kêu vào giấc ngủ  
    Hắn rong chơi  
        tiếng rủa bước theo chân  
    Hắn hội họp  
        tiếng kêu ngồi cạnh  
    giơ bàn tay đòi mạng nghều ngào  
    Tên tội nhân kia!  
    Lịch sử vạch tên mày!  
    Tên đứa tay sai!  
    Chẳng có lâu đâu!  
    Hắn sẽ sống như tên mắc tội tử tù  
    Óc điên dại  
    - chân lê vòng xích  
    Trốn đi đâu?  
    Đất trời sâu  
    đương vẩy máu  
         đuổi theo chân hắn.  
    Hắn run sợ – Quỳ xin đã muộn!  
    Dù đêm khuya, bóng tối đặc ngầu ngầu  
    Máu vẫn đỏ  
        trúng đầu trúng mặt  
    Tên tội nhân kia!  
    Lịch sử vang tên mày!       7.  
    Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc  
    Tai bỗng nghe những tiếng thì thầm  
    Tiếng người nói xen tiếng đời ầm ã.  
    - Chúng phá hiệp thương  
    - Liệu có hiệp thương?  
    - Liệu có tổng hay chẳng tổng?  
    - Liệu đúng kỳ? Hay chậm vài năm?  
    Những câu hỏi đi giữa đời lỏng chỏng  
    Ôi! Xưa nay Người vẫn thiếu tin Người  
    Người vẫn thường kinh hoảng trước Tương Lai  
    Người quên mất Mỹ là sư tử giấy  
    Người vẫn vội – Người chưa kiên nhẫn mấy  
    Gan người ta chưa phải đúng công nông  
    Người chửa có dạ lim trí sắt  
    Người mở to đôi mắt mà trông!  
    A tiếng kèn vang  
        quân đội anh hùng  
    Biển súng  
    rừng lê  
        bạt ngàn con mắt  
    Quân ta đi tập trận về qua  
    Bóng cờ bay đỏ phố đỏ nhà…  
    Lá cờ ấy là cờ bách thắng  
    Đoàn quân kia muôn trận chẳng sờn gan  
    Bao tháng năm đói rét nhọc nhằn  
    Từ đất dấy lên  
    là quân vô sản  
    Mỗi bước đi lại một bước trưởng thành  
    Thắng được Chiến Tranh  
    Giữ được Hòa Bình  
    Giặc cũ chết – lại lo giặc mới  
    Đoàn quân ấy – kẻ thù sợ hãi  
    Chưa bao giờ làm mất bụng dân yêu  
    Dân ta ơi! Chiêm nghiệm đã nhiều  
    Ai có LÝ? và ai có LỰC?  
    Tôi biết rõ đoàn quân sung sức ấy  
    Biết nhân dân  
    Biết Tổ Quốc Việt Nam này  
    Những con người từ ức triệu năm nay  
    Không biết nhục  
    Không biết thua  
        Không biết sợ!  
    Hôm nay  
    Cả nước chỉ có một lời hô:  
    THỐNG NHẤT  
    Chúng ta tin khẩu hiệu ta đòi  
    - Giả miền Nam!  
         Tôi ngửa mặt lên trời  
    Kêu một tiếng – bỗng máu trời rơi xuống  
    Vài ba tia máu đỏ rơi vào tôi  
    Dân ta ơi!  
    Những tiếng ta hô  
    có sức đâm trời chảy máu.  
    Không địch nào cưỡng nổi ý ta  
    Chúng ta đi – như quả đất khổng lồ  
    Hiền hậu lắm – nhưng mà quả quyết…       8.  
    Hôm nay  
    Những vần thơ tôi viết  
    Đã giống lưỡi lê: đâm  
    Giống viên đạn: xé  
    Giống bão mưa: gào  
    Giống tình yêu: thắm  
    Tôi thường tin ở cuộc đấu tranh đây  
    Cả nước đã bầu tôi toàn phiếu  
    Tôi là người vô địch của lòng tin.  
    Sao bỗng đêm nay,  
        tôi cúi mặt trước đèn?  
    Gian nhà vắng – chuột đêm nó rúc.  
    Biết bao nhiêu lo lắng hiện hình ra.  
    Hừ! Chúng đã biến thành tảng đá  
        chặn đường ta!  
    Em ơi thế ra  
    Người tin tưởng nhất như anh  
        vẫn có những phút giây ngờ vực  
    Ai có LÝ? Và ai có LỰC?  
    Ai người tin? Ai kẻ ngã lòng tin?  
    Em ơi  
    Cuộc đấu tranh đây  
    cả nước  
         cả hoàn cầu  
    Cả mỗi người đêm ngủ vẫn lo âu  
    Có lẫn máu, có xót thương, lao lực.  
    Anh gạch xóa trang thơ hằn nét mực  
    Bỗng mắt anh nhìn thấy! Lạ lùng thay!  
    Tảng đá chặn đường này!  
    Muôn triệu con người  
    Muôn triệu bàn tay  
    Bật cả máu ẩy đá lăn xuống vực!  
    Anh đã nghĩ: không có đường nào khác  
    Đem ngã lòng ra  
        mà thống nhất Bắc Nam ư?  
    Không không!  
    Đem sức gân ra!  
    Em ơi em!  
    Cái này đỏ lắm, gọi là TIM  
    Anh dành cho cuộc đấu tranh giành THỐNG NHẤT       9.  
    Hôm nay  
    Trời đã thôi mưa  
    Thôi gió  
    Nắng lên  
    đỏ phố  
        đỏ nhà  
        đỏ mọi buồng tim lá phổi  
    Em ơi đếm thử bao nhiêu ngày mưa!  
    Bây giờ  
    Em khuân đồ đạc ra phơi  
    Em nhé đừng quên  
    Em khuân tất cả tim gan chúng mình  
        phơi nắng hết.  
    Em nhìn  
    cao tít  
        trời xanh  
    Dưới phố bao nhiêu cờ đỏ!  
    Hôm nay em đã có việc làm  
    Lương ít – Sống còn khó khăn!  
    Cũng là may…  
    Chính phủ muôn lo nghìn lắng  
    Thực có tài đuổi bão xua mưa  
    Không thì còn khổ  
    Em treo cờ đỏ đầu nhà  
    Lá cờ trừ ma  
    Xua được bóng đen chúng nó!  
    Tiếng gì ầm phố em à?  
    A! Những người đi Nam trở ra  
    Phải rồi! Quên sao đất Bắc!  
    - Khổ! Trong ấy loạn  
    Phải đi đồn điền cao su  
    Chúng tôi bị lừa  
    Bà con muốn ra không được.  
    Đồng bào vui muốn khóc  
    Ô này lạ chưa?  
    - Mây ngoài này không đen  
    Mây đen vào trong ấy cả  
    Đúng rồi! Đó là công sức của nhân dân ta  
            lùa mây đuổi gió  
    Những vết thương kháng chiến đỏ lòm  
    Đã mím miệng, lên da lên thịt.  
    Tôi bỗng nhói ở nơi lồng ngực  
    Em ơi  
    Chúng đốt phố Ga-li-ê-ni  
        và nhiều phố khác.  
    Anh đã sống ở Sài gòn thuở trước  
    Cảnh miền Nam thành một góc tim anh  
    Chúng đốt tận đâu  
        mà lửa xém tim mình  
    Tim nó bị thui đen một nửa  
    Từ dạo ấy  
        mà em chẳng rõ.  
    - Em hãy đỡ cho anh khỏi ngã  
    Đứng đây  
    Một lúc!  
    Cờ bay  
        đỏ phố  
        đỏ nhà  
    Màu cờ kia là thang thuốc chữa cho anh.  
    Em có thấy bay trên trời xanh  
    Hàng triệu tâm hồn?  
    Họ đã bỏ miền Nam  
        ra Bắc!  
    Chúng đem súng mà ngăn  
    Đem dây mà trói!  
    Giữ thân người  
        không giữ được nhân tâm  
    Người Nam gửi tâm hồn ra Bắc cả.  
    Bọn Mỹ Diệm ôm đầu sợ hãi  
    Đổ lên chúng nó  
    Mây đen  
        lửa loạn  
        bão thù  
    Ai thắng ai thua?  
    Ai có LÝ và ai có LỰC?       Em ơi  
    Hôm nay  
        trời xanh  
        xanh đúc  
    Nắng lên  
        đỏ phố  
        đỏ cờ  
    Cuồn cuộn mít tinh  
    Những ngày thương xót đã lùi xa  
    Hòa bình  
    thêm vững  
    Anh bước đi  
        đã thấy phố thấy nhà  
    Không thấy mưa sa  
    Chỉ thấy nắng lên  
        trên màu cờ đỏ       Ta ở phố Sinh Từ  
    Em này  
    Hôm nay  
    đóng cửa  
    Cả nhà ra phố  
    mít tinh  
    Chúng ta đi  
         nổi bão  
        biểu tình  
    Vung cờ đỏ  
        hát hò  
         vỡ phổi…  
    Hỡi những người  
         thành phố  
            thôn quê  
    Đói no lành rách  
    Người đang vui  
    Người sống đang buồn  
    Tất cả!  
    Ra đường!  
    Đi!  
    hàng đoàn  
        hàng đoàn  
    Đòi lấy tương lai:  
    HÒA BÌNH  
        THỐNG NHẤT  
            ĐỘC LẬP  
                DÂN CHỦ  
    Đó là tim  
        là máu đời mình  
    Là cơm áo! Là ái tình  
    Nhất định thắng!       ~Trần-Dần~         
        1955       
                 
   
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 12.06.2012 03:25:22 bởi Anh Nguyên >
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
               
   
   
  PHẠM-HỔ 
         1926 
   
    Quê An-Nhơn, Bình-Định, làm thơ,  
  viết tiểu thuyết, truyện ngắn                NHỮNG NGÀY XƯA THÂN ÁI           Tôi bắn hắn rồi      Những ngày xưa thân ái     Không ngăn nổi tay tôi           Những ngày xưa thân ái     chắc hắn quên rồi     riêng tôi, tôi nhớ:     Đồng làng mênh mông biển lúa     Sương mai đáp trắng cỏ đường     Hai đứa tôi,      Sách vở cặp chung     Áo quần nhàu giấc ngủ     Song song bước nhỏ chân trần     Gói cơm mo mẹ vắt sách tùng tơn     Nón rộng hỏng quai     Trong túi hộp diêm nhốt dế     những ngày xưa êm đẹp thế     không đem chung hai đứa một ngày mai           Hắn bỏ làng theo giặc mấy năm nay     Tôi buồn tôi giận,     Đêm nay gặo hắn,      Tôi bắn hắn rồi     những ngày xưa thân ái     Không ngăn nổi tay tôi           Xác hắn nằm bờ ruộng     Không phải hắn thưở xưa     Tôi cúi nhìn mặt hắn     tiếc hắn thời ấu thơ     ~Phạm-Hổ~          1957          
       YÊN-THAO 
         1927    
         Tức Nguyễn-Bảo-Thịnh, sinh tại Sơn-Tây.  
             NHÀ TÔI      
  Tôi đứng bên này sông 
  Bên kia vùng địch đóng 
  Làng tôi đó, xám đen màu tiết đọng 
  Tre cau buồn tóc rủ ướt mưa sương 
  Màu trắng vôi nồm nộp mấy khung tường 
  Nếp đình xưa, người hỡi đau gì không? 
   
  Tôi là anh lính chiến 
  Rời quê hương từ độ máu khơi dòng 
  Buông tay gầu, vui lại thuở bình Mông 
  Chặt tay súng, ôi mơ ngày đắc thắng 
  Chân đã vẹt trên nẻo đường vạn dặm 
  Áo nào không phai lạt chút màu xưa! 
   
  Đêm hôm nay tôi trở về lành lạnh  
  Sông sâu mờ lấp lánh ánh sao thưa 
  Mảnh quần nâu đã vá mụn giang hồ 
  Ghì nấc súng tôi mơ về Nguyễn Huệ 
  Làng tôi đó, bên trại thù quạnh quẽ 
  Trông âm thầm như một đám mồ ma 
  Có còn không em hỡi, mẹ tôi già?  
  Những người thân đã khóc buổi tôi xa! 
   
  Tôi có người vợ trẻ đẹp như thơ 
  Tuổi chớm đôi mươi, cưới buổi dâng cờ 
  Má trắng mịn thơm thơm mùi lúa chín 
  Ai đã ra đi mà không bịn rịn 
  Rời yêu đương nào đã mấy ai vui? 
  Nàng lặng buồn nhìn với lúc chia phôi  
  Tôi mạnh bước mà nghe hồn nhỏ lệ! 
   
  Tôi có người mẹ 
  Tóc ngả màu bông 
  Tuổi già non thế kỷ 
  Lưng còng uốn nặng kiếp long đong 
  Nắng mưa từ độ tang chồng 
  Tơ tằm rút mãi cho lòng héo hon! 
  Thôi xa rồi, mẹ tôi 
  Đã mòn con mắt trông con phương trời  
  Cơ hồ chợt tỉnh đêm vơi 
  Nghe dòn tiếng súng nhớ lời chia ly 
  Mẹ ơi, con mẹ tìm đi 
  Bao giờ hết giặc con về mẹ vui! 
   
  Đêm hôm nay tôi trở về lành lạnh 
  Sông sâu mừng lấp lánh ánh sao thưa 
  Tôi là anh lính chiến 
  Theo quân về giải phóng quê hương 
  Đôi chân đất đạp xiêu đồn lũy địch 
  Này anh bộ đội - người bạn pháo binh - 
  Đã đến giờ chưa nhỉ? 
  Mà tôi nghe như trại giặc đã tan tành 
  Này anh rót cho khéo nhé 
  Kẻo lại nhầm nhà tôi 
  Nhà tôi ở dưới chân đồi 
  Có dàn hoa lý có người tôi thương. 
  ~Yên-Thao~          
       TRƯỜNG-CHINH  
              1907-1988    
       Tức Đặng-Xuân-Khu, quê Hành-Thiện,  
  Xuân-Trrường, Nam-Định, Ủy viên bộ  
  Chính trị, Tổng Bí Thư, Chủ Tịch Hội  
  Đồng Nhà Nước.                YÊU CON GÁI ĐỊA CHỦ           Anh bạn ạ!      Anh đã trót yêu con Địa chủ,      Quá yêu rồi dứt bỏ sao đành.      Đêm qua trằn trọc năm canh,      Cũng không dứt nổi mối tình vấn vương!      Anh yêu nó đẹp, nó ngoan,      Anh yêu mặt nó trái soan hồng hào.      Yêu văn hóa nó cao, nó giỏi.      Đàn nó hay, giọng hát nó trong,      Mắt đen răng trắng môi hồng.      Anh yêu lòng đã xiêu lòng từ lâu.      Sao anh chẳng đào sâu suy kỹ,      Vì đâu nó đẹp, nó xinh.      Vì đâu quần áo nó lành.      Vì đâu nó được học hành giỏi giang?     Biết bao kẻ lầm than đói khổ,      Còng lưng làm nuôi nó ăn không.      Kẻ thù giai cấp Công, Nông.     Sao anh lại nỡ sống chung cho đành?      (...)      Anh yêu nó, anh nghe lời nó,      Anh xa dân, anh bỏ lập trường,      Anh xa Cách mạng giữa đường      Anh xa rời Đảng, đầu hàng nó cơ!      Không, không thể khi nào thế được!      Anh đã nguyền vì nước hy sinh,      Vì dân Lao động đấu tranh.      Anh nên dũng cảm tiến lên, chớ lùi!      ~Trường-Chinh~             (1950) 
   
   
   
   
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.12.2010 19:28:16 bởi Anh Nguyên >
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
               
   
   
  VIỆT-PHƯƠNG 
          1928 
   
  Sinh tại Nà Nội, làm thơ. 
   
  MUÔN VÀN TÌNH THƯƠNG YÊU  
  TRÙM LÊN KHẮP QUÊ HƯƠNG   
    
  I 
  Trời đổ mưa, đi viếng Bác, đồng bào chờ, bị ướt 
  Bác thương đồng bào, con biết Bác không vui 
   
  Ngừng đập trái tim tột bậc con người 
  Cây cỏ đất trời không thật nữa 
  Mắt ta nhìn sắc màu cũng giả 
  Ôi ước gì không thật cả nỗi đau mồ côi 
   
  Con đóng cửa buồng, ở mình con với Bác 
  Chưa muốn cùng ai chia bớt nỗi đau này 
  Quanh người con và trong con 
  tất cả đều bỗng khác 
  Bác qua đời rồi sao con vẫn ngồi đây 
  Con không thể nghĩ rằng Bác Hồ đã mất 
  Mà nắng vẫn chuyền như sóc giữa lùm cây 
  Con chim đuôi dài được Bác che chở 
  vẫn bay về trước cổng 
  Cây vú sữa đầu nhà đang xoè rộng tán xum xuê 
  Bầy cá rô phi nhớ giờ Bác cho ăn 
  lại ngoi lên đớp sóng 
  Con ra đường quen đứng ngóng Bác quay về 
   
  Hôm nay trên vườn ta trời uy nghi lồng lộng 
  Hàng bụt mọc trầm tư vút thẳng bên bờ ao 
  Gió heo may trong cành đa lao xao tìm gọi nắng 
  Lê-nin trên bàn đang chờ đón Bác đi vào 
   
  Bác ơi lúa mùa này đồng thấp đồng cao 
  lên đẹp lắm 
  Cơn bão vào đất liền đi chậm lại rồi tan 
  Mua bia đã bớt xếp hàng  và anh em còn cố gắng 
  Đêm qua 140 bốt đồn thù bị ta đánh trong Nam 
  Con trữ các loại tin đứng chờ đây 
  mong từ Bác một lời ánh sáng 
  Như từ lâu nay con thường vẫn hay làm 
  Bác lại về đi Bác ơi sau mấy ngày đi vắng 
  Khỏe mạnh hồng hào trong ánh nắng vườn cam 
   
  II 
  Đêm nay nghìn vạn chúng con 
  xếp thành hàng đi viếng Bác 
  Ôi làm sao nguôi được nhớ thương này 
  Chúng con đi cho cả người vắng mặt 
  Người chưa sinh, người đã khuất cũng về đây 
  Việt Nam đau cả lòng người dạ đất 
  Sao mùa thu như nước mắt trời mây 
  Chúng con đi theo tiếng người phía trước 
  Đường Hùng Vương dân tộc đi 
  từ dựng nước đến ngày nay 
  Hãy về đây lũ làng Tây Nguyên 
  đánh tiếng cồng thương xót 
  Những con nước Cửu Long bát ngát đợi Cha về 
  Đội áo tím sông Hương diệt Mỹ xong 
  bỗng bồi hồi kinh ngạc 
  Khi biết tiếng súng mình tai Bác vẫn hằng nghe 
  Về đây những tấm lòng trung kiên 
  trong chuồng cọp 
  Vết tím bầm thâm ghi tạc những câu thề 
  Về đây bà mẹ nghèo ở miền cao Hát Lót 
  Đã nhiều đêm gặp Bác giữa cơn mê 
   
  Hãy về đây những thợ xúc và lái xe khu mỏ 
  Vùng than ơi Người nhắc nhở bao lần 
  Những O gái Vĩnh Linh đầu tuyến lửa 
  Mơ Bác Hồ thương gian khổ vào thăm 
  Ông ké già nhà bên chân Pác-bó 
  Còn bàng hoàng hôm gặp gỡ đầu xuân 
  Những chiến sĩ trẻ măng trên Cồn Cỏ 
  Đài Bác cho đưa đất mẹ thêm gần 
  Muôn dòng sông chảy về lòng biển cả 
  Bác nằm đây nhớ rõ mỗi người thân. 
   
  III 
  Bác thường để lại đĩa thịt gà mà ăn trọn 
  mấy quả cà xứ Nghệ 
  Tránh nói rất to và đi rất nhẹ cả trong vườn 
  Tim đau hết nỗi đau người ở chân trời góc bể 
  Đến bên người ta thở dễ dàng hơn. 
   
  Khi đã quyết rất kiên cường mạnh mẽ 
  Đốt cháy Trường Sơn đánh Mỹ cũng không sờn 
  Lòng trời biển dịu hiền khi gặp trẻ 
  Sấm sét im cho nắng ấm chồi non. 
  Bác không bằng lòng gọi trận đánh 
  chết nhiều người là "đánh đẹp" 
  Con xoá chữ "đẹp" đi như xoá sự cạn hẹp 
  trong lòng con 
  Thêm hiểu lòng Người đối với quân  
  thù như sắt thép 
  Mà tình thương mênh mông ôm hết mọi linh hồn 
   
  Ngoài bảy nhăm, Bác vẫn thường ném bóng 
  Cái gạt tàn thuốc lá đã hàng năm 
  thôi không nóng trên bàn 
  Mỗi ban mai Bác luyện chân như ngày xưa 
  tập trèo sườn núi vắng 
  Con biết lòng Người quyết sống cho miền Nam 
   
  Con biết lòng Người quyết sống cho Việt Nam 
  và thế giới 
  Đầu bạc phơ trăm mối nước non nhà 
  Căn nhà nhỏ những canh khuya vời vợi 
  Vẫn lo toan tháo cởi những bất hoà 
  Trái tim lớn đêm ngày quên mệt mỏi 
  Dệt dải hồng chắp nối bạn gần xa 
   
  IV 
  Ôi lòng Bác bao la trong Di chúc 
  Vẫn hạt lúa củ khoai chân chất bình thường 
  Cả dân tộc khóc Người thương mình nhất 
  Người được thương trên tất cả người thương 
  Người suốt đời quên mình cho Tổ quốc 
  Khi ra đi chỉ dép lốp chiến trường 
   
  Nguồn ánh sáng đến muôn đời chẳng tắt 
  Vượt cao hơn sự chết vẫn soi đường 
  Ba Đình nức nở và ròng ròng nước mắt 
  Muôn vàn tình thương yêu trùm lên  
  khắp quê hương 
   
  Ôi ta khóc tim ta dường như xé 
  Từ trái tim giọt lệ hoá câu nguyền 
  Ta chẳng giấu trước bạn bè quốc tế 
  Nỗi đau này cao cả thiêng liêng 
   
  Ta khóc cho mọi nơi còn xích xiềng áp bức 
  Cho đời ta và lớp lớp đời sau 
  Cho Trường Sơn, cho Tháp Mười, cho miền Nam 
  ân hận chưa được chào đón Bác 
  Ta khóc những lỗi lầm làm tim Bác thêm đau 
  Ta tự biết sức ta trong những dòng nước mắt 
  Cho ta khóc hôm nay để từ mai ta lao lên 
  đánh giặc ở tuyến đầu 
   
  Sau bao năm đồng chí với Người,  
  con gọi Người: Đồng chí 
  Là khi con vĩnh biệt Người, đồng chí, Bác Hồ ơi! 
  Con nguyện làm một mảnh của Người,  
  đến trọn đời tận tuỵ 
  Hồ Chí Minh, người cộng sản rất mực Việt Nam 
  và vô cùng chung thuỷ con người 
  Ta gạt nước mắt ngẩng đầu lên, 
  vẫn nắng Ba Đình trong veo 
  Người đem về năm trước 
  Ta thề mang ánh nắng này 
  đến nhà mẹ già ở tận trót Cà Mau 
  Những biên đội không quân  
  như hình ảnh dân tộc ta 
  lượn quanh Người, lớn vượt 
  Cất cánh bay cao theo tay Bác vẫy trên đầu. 
  ~Việt-Phương~ 
  4-10 tháng 9 năm 1969 
  NXB Lao động - 2001      
   
   
   
   
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 14.01.2011 06:17:59 bởi Anh Nguyên >
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
               
   
   
  PHÙNG-CUNG 
      1928-1997  
   
  May lắm là chỉ biết sơ sơ - anh đã tham  
  gia trào lưu Nhân Văn - Giai Phẩm hồi  
  giữa thập niên 50, đã cho đăng truyện ngắn  
  «Con Ngựa Già Của Chúa Trịnh» trên báo  
  Nhân Văn số 4, tháng 10 năm 1956, sau đó  
  bị đấu tố tơi bời, rồi bị cầm tù ròng rã 12  
  năm, ra tù còn bị hành hạ, sách nhiễu cho  
  đến ngày qua đời. 
   
   
  ...Tôi đứng trong đêm 
  Ngửng đầu nhìn cao xa 
  Vọng hỏi 
  Có phải nước mắt con người 
  Đằm đằm dội xuống 
  Mà trên thiên cầu 
  Bao vì sao xao xuyến đổi ngôi. 
   
  Lòng ái quốc, tinh thần nhân bản  
  sáng ngời trên mỗi vần thơ! 
   
  Đất nước ơi 
  Tôi mến người 
  Như khi nhìn em bé ngủ 
  Tôi thương người 
  Như thương mẹ ốm 
  Vì đâu 
  Người khoác manh áo đỏ 
  Thừa sai - cũn cỡn 
  Tủi nhục tháng ngày 
  Long đong chiều sớm 
  Ôi! có bao giờ 
  Người đau đớn như thế này không. 
   
  Tổ quốc kính yêu ơi!  
  Văn hiến - thuần phong mỹ tục  
  Phút chốc bàn tay cộng sản dập vùi...   
  Quê hương ơi!  
  Đường quan lầy nước mắt,  
  Ơi đất nước sa cơ  
  Già - trẻ bơ vơ nheo nhóc...  
  Ơi quê hương  
  Hỡi những ngày xưa!  
  Thuỷ chung - nhân ái Tất cả chìm - ngâm  
  Trong lừa dối cuồng điên...  
  "Quê nôi" ơi!  
  Dối trá đê hèn Trùm muôn cửa ngõ ... 
   
   
  SÔNG THƯƠNG - SAO THƯƠNG  
   
  ...Ôi! lòng đã ưu tư 
  Lại thai nghén chiến tranh 
  Hoạ cơm áo! 
  Vẫn giằng co súng gươm oan trái 
  Chăn viện trợ phủ kín biên thuỳ... 
   
   
  ...Chính chúng nó 
  Phường cộng sản 
  Lái buôn binh lửa 
  Ôi! Binh lửa triền miên 
  Tuổi trẻ gái - trai 
  Bị lôi đi - đi hết... 
  ...Quan hà lộng gió chinh phu 
  Rừng thu tắm máu 
  Máu thu gội chiều 
  Tơ vàng nhỏ giọt lệ điều 
  Đăm đăm tay vẫn chiều chiều quay xa... 
  ... Khe Sanh - Dốc miếu là đâu 
  Vắng con nhớ đến bạc đầu cô đơn 
  Máu chiều gội đỏ hoàng hôn 
  Nghĩa trang mồ giả, nắm xương không mồ 
  Đồng chiều gió tím mấp mô 
  Nén hương đẹn khói, mấy mùa khóc vay. 
  ... Tôi biết em khóc nhiều 
  Vì chồng em tử trận 
  Em khóc lúc hừng đông 
  Nước mắt cử hành 
  Mặt nạ tay hèn 
  Lẻn vào đong đếm... 
  ... Em khóc lúc hoàng hôn 
  Thì quanh em 
  Lộng gió cô đơn 
  Từng giọt rực sáng 
  Trong nhiều thế giới... 
  ... Não lòng thay! 
  Mảnh đất bán khai 
  Tình nguyện tiền đồn 
  Đăng cai binh lửa... 
  ... Tổ quốc kính yêu ơi! 
  Khói lửa ngút trời 
  Cháy gia phả 
  Cháy tình bằng hữu 
  Cháy cơi trầu bách niên giai lão 
  Cháy tia trăng thơm 
  Trên làn tóc trẻ thơ 
  Hiếu chiến thừa sai 
  Ruổi cờ dẫn lộ 
  Giàn cầu lửa 
  Di lăn - bách hại 
  Ngập máu! 
  ~Phùng-Cung~ 
         64 
   
   
  TRĂNG NGỤC 
   
  Ôi,  
  cái ngày tự do xưa kia,  
  sao mà cứ xa mãi,  
  biết bao giờ quay trở lại! 
  ~Phùng-Cung~ 
   
  Trăng qua song sắt 
  Trăng thăm ngục 
  Bỗng ta chợt tỉnh - sững sờ 
  Trên vai áo tù 
  Trăng vá lụa 
  Ngày xưa ơi ! 
  Xa mãi đến bao giờ. 
   
  Mà không chỉ một bài Trăng Ngục đó! Còn bao nhiêu bài hay nữa, như Biển Cả, Em Quỳnh, Tổ Quốc, Quê Hương, Nước Mắt, Cung Trời, Thu Xa, Dòng Sông, Quê Xa, Mỏi Xanh, Mẹ, Sông Thương - Sao Thương, Sống Chết, Bước Vô Định, Tội Nghiệp...  
  Về thơ Phùng Cung, còn có thể viết nhiều nữa, nhưng ở đây tôi chỉ xin giới thiệu vài đoạn dể thấy rõ cái tình cảnh bi thảm của nhà thơ, cũng như ý chí bất khuất của anh. 
   
  ...Ta một con người 
  Nạn nhân đang vòng tù ngục 
  Đêm ngày chân rỉ máu cùm lim 
  Linh hồn bất khuất 
  Trên đầu là thượng đế 
  Dưới chân là mặt đất hiếu sinh 
  Bức xúc lương tri 
  Ta phải xuống đường... 
  ...Còng sắt cùm lim ngấy máu tù 
  Vầng dương mãi bỏ quên ta 
  Bóng du nguyệt chưa qua đã khuất 
  Thâu ngày đêm 
  Bị sự im lặng quấy rầy 
  Tóc mủn trạt vai chờ di chúc 
  Trái tim vẫn đều đặn 
  Mô phỏng nhịp trữ tình... 
  Đất nước tôi 
  Triền miên bất hạnh 
  Tụi mặt dày - tay bẩn 
  Tim rắn - lời cừu 
  Văn hoá lớp hai 
  Điều hành cuộc sống 
  Tránh làm sao 
  Khỏi nát ngọc nhân quyền... 
   
  Ngay cả lúc chúng thét gào dữ tợn thì thái độ nhà thơ vẫn ung dung, tự tại, không chút khiếp sợ: 
   
  ...Ôi! Bao yên lặng thanh cao 
  Đang chìm lăn 
  Trong thét gào man rợ 
  Thì nhắm mắt 
  Thì bưng tai 
  Phải đâu khiếp sợ 
  Chỉ điếc đui vừa đủ 
  Để làm ngơ... 
   
  Và anh suy tư, suy tư rất nhiều, nghiễm nhiên thành triệu phú trầm tư, vất vả lặn lội để kiếm tìm sứ mệnh trong sáng tuyệt vời của thi ca!  
   
  ...Nhà thơ chân đất 
  Đãy vải - gió đưa 
  Kiếm tìm sứ mệnh 
  Mỗi ý nghĩ trong ta 
  Đều  trải qua lặn lội  
  Như phận chiếc cò 
  Lặn lội trong phong dao... 
   
  Bài "Xuống Đường", làm trong xà lim biệt giam Lao Cai hồi năm 71, là một trong những bài thơ vừa có sức mạnh tố cáo, vừa nêu bật ý chí mãnh liệt của nhà thơ.  
   
  Lãnh thổ mến yêu ơi! 
  Nai lưng trần dưới vòm trời nhiệt đới 
  Xứ sở của thi ca 
  Của lòng cả tin - nhẹ dạ 
  Của đói nghèo nhẫn nhục 
  Úp mặt - rủi may - đắp đổi 
  Khóc mếu tối ngày... 
   
  Thế rồi, cái "học thuyết Rắn-hổ-mang-vua" (tôi đoán nghĩa của chữ lạ trong bài như thế) đội lốt công nông từ trời Tây du nhập vào, lúc đầu - khi chưa nắm được chính quyền - nó làm ra vẻ ngoan ngoãn, hiền lành lắm, thậm chí còn tình nguyện làm ngựa làm trâu cho người dân (cái ý này có xuất xứ của nó: tôi còn nhớ trong một cuộc kỷ niệm của Đảng cộng sản Việt Nam - hồi còn đội lốt Đảng lao động - ông Hồ có đọc hai câu thơ của một tác giả Trung Quốc để ví với Đảng lao động, không sợ bất kỳ kẻ địch nào, nhưng lại nguyện làm trâu ngựa cho nhân dân: Liếc mắt xem khinh nghìn lực sĩ, Cúi đầu làm ngựa đứa nhi đồng): 
   
  Học thuyết King-cô-bra 
  Đội lốt công nông - rình rập 
  Từ trời tây ập tới 
  Lúc thoát thai 
  Nó vờ xin rửa tội 
  Trộm cắp ánh tà dương 
  Trước mọi người 
  Nó khoanh tay - quỳ gối - cúi đầu 
  Tình nguyện đời đời 
  Làm ngựa làm trâu 
  Khi gấp khúc nó ngoan ngoãn 
  Giành hoàn thiện chức năng gia cẩu 
  Hầu hạ phấn son 
  Len lỏi trong lẵng hoa 
  Trong đồ chơi em bé... 
   
  Thế nhưng, khi nắm được chính quyền rồi thì nó gây biết bao thảm hoạ cho nhân dân...  
   
  Mong hiện nguyên hình 
  Như dưới vòm trời bất hạnh - hôm đây 
  Bản chất nó là cuồng bạo 
  Huênh hoang lấp biển vá trời 
  "Kiến tạo địa đàng - hạnh phúc" 
   
  Tiếc thay, những người thường dân ngây thơ, mộc mạc đã trót lỡ chìa tay cho nó, nên nó càng mặc sức gây ra muôn vàn đau thương cho dân chúng. Có những đoạn trong thơ làm người đọc liên tưởng đến cuộc cải cách ruộng đất đầy tội ác ở miền Bắc... 
   
  ...Khốn nạn thay! 
  Chân đất đầu trần chót chìa tay 
  Đã lỡ! 
  Thảm hoạ triền miên 
  Ôi! tay chúng cầm lê 
  Đâm người - dấu mặt 
  Lại vội lau tay - vu cáo - gây thù 
  Cha con nghi ngờ 
  Vợ chồng cảnh giác 
  Già trẻ xóm giềng 
  Nhìn nhau len lén 
  Di hoạ đứng rình 
  Trong tối lửa tắt đèn 
  Ngột ngạt - tối tăm - quằn quại 
  Vô phương khả đảo... 
   
  Bắt chước "thiên triều" đỏ ở Liên Xô và Trung Quốc, tập đoàn thống trị đã làm biết bao điều bạo ngược. 
   
  ...Nhịp bước thiên triều 
  Giày xéo thuần phong mỹ tục 
  Lăng nhục miếu đền 
  Sừng sững dựng khải hoàn môn máu 
  Quay quắt đổi đầu 
  Thò lò muôn mặt Lê-mác-mác-lê... 
   
  Còn người dân Việt Nam khốn khổ thì 
  Lầm than buộc bụng vác cờ 
  Tung hô bỏng họng 
   
  ...Thiên triều tiếp sức 
  Õng ẹo điệu ương ca 
  Mạ màu mao-ít 
  Ma thuật ngoan tay 
  Tạt độc dược vào tâm - vào não... 
   
  Và khi người dân trúng độc rồi, chúng lại càng thêm bạo ngược: 
   
  ...Cờ máu ngợp trời 
  Lợm gió! 
  Tiếng quốc thiều 
  Tăng âm cực đại thét gào 
  ..."Thề phanh thây uống máu!..." 
  Ta lùng trong kho nhớ 
  Nhẩm biên niên sử 
  Xin hỏi loài người 
  Có quốc thiều nào man rợ thế không 
  Trước mặt sau lưng 
  Ngàn trùng khóc lóc 
  Ôi! mỗi tiếng chim kêu 
  Đếm từng đọi máu 
  Sóng máu ào ào 
  Tràn bờ thế kỷ... 
   
  Trong tình cảnh đó, nhà thơ dù đang trong vòng tù ngục cũng thấy lương tri giục giã phải xuống đường tranh đấu, cái ý chí đó vô cùng mạnh mẽ, quyết hy sinh mình vì sự sống của muôn dân. Hình ảnh mài gươm dưới nguyệt  của Đặng Dung trong bài Cảm Hoài hồi đầu thế kỷ 15, đã được Phùng Cung khéo dùng lại để tạo nên một tứ thơ mới nói lên ý chí của mình - nước mắt mài gươm, vừa hợp với hoàn cảnh của nhà thơ, lại gây ấn tượng mạnh. 
   
  ...Phải xuống đường 
  Tìm sinh trong tử 
  Nước mắt mài gươm 
  Gươm bén dân lành 
  Ta chắp tay - ngửa mặt 
  Cầu xin các đấng linh thần 
  Cho ta sức mạnh phi trần 
  Đủ tung hoành, xông xáo 
  Tận cùng hang ổ 
  Băm xả vào đầu con rắn đỏ 
  Cây cỏ vươn reo 
  Mượn gió nhắn bốn phương 
  Con rắn đỏ tử thương - rãy giụa 
  Nó lí nhí van xin chôn cất... 
   
  Còn có thể nói rất nhiều nữa về thơ Phùng Cung, nhưng thiết tưởng với chừng ấy cũng đủ để bạn đọc thấy chúng ta đang có trong tay những di sản quý báu của thi ca nước nhà. Chỉ riêng việc những vần thơ này được trân quý, bảo trọng còn lại cho đến ngày nay và tới tay bạn đọc đã là một điều kỳ diệu! Chắc điều đó đáp ứng được phần nào ước nguyện thầm kín mà nhà thơ hằng ấp ủ mấy chục năm trường khi còn ở cõi  trần.  
  Hy vọng rằng những hạt ngọc quý mà người nghệ sĩ Phùng Cung chiết ra từ máu và nước mắt của mình để hiến cho đời, sẽ càng thêm phô sắc, thêm rực rỡ dưới ánh mặt trời và đem lại cho bạn đọc Việt Nam nhiều xúc động và khoái cảm, đồng thời cũng đem lại những suy tư về trách nhiệm và hành động của mỗi người trong sự nghiệp cứu nước, cứu dân./.  
   Hè Moskva 03.08.03 
   
   
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 11.01.2011 05:07:32 bởi Anh Nguyên >
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
                          LÊ-ĐẠT 
    1929-2008     
             Sinh tại Yên-Bái, sống ở Hà-Nội, sinh hoạt  
  văn học cùng với các nhà thơ chiến hữu Trần 
  Dần, Phùng Quán, Văn Cao, thành viên sáng  
  lập HNVVN. Viết bài “Ông bình vôi” trong Nhân  
  Văn Giai Phẩm, được nhiều người cho là ám chỉ 
  các lãnh tụ đảng, bị lên án phản động, bị truất 
  quyền đảng viên, bị khai trừ khỏi Hội Nhà Văn, 
  30 năm sau mới được phục hồi hội viên HNV.                                  CHA TÔI*        
   Đất quê cha tôi đất quê Đề Thám 
   Rừng rậm sông sâu 
   Con gái cũng theo đòi nghề võ 
   Ngày nhỏ cha tôi dẫn đầu lũ trẻ đi chăn trâu 
   Phất ngọn cờ lau 
   Vào rừng Na Lương đánh trận 
   Mơ làm Đề Thám 
   Lớn lên, cha tôi đi dạy học 
   Gối đầu trên cuốn Chiêu hồn nước 
       Khóc Phan Chu Trinh 
   Như khóc người nhà mình 
   Ôm mộng bôn ba hải ngoại 
   Lênh đênh khói một con tàu 
   Sớm tối ngâm nga mấy vần cảm khái 
   Đánh nhau với Tây 
   Bỏ việc lang thang vào Nam ra Bắc 
   Cắt tóc đi tu nhưng quá nặng nghiệp đời 
   Gần hai mươi năm trời 
   Tôi vẫn nhớ lời cha tôi cháy bỏng 
   Dạy tôi làm thơ, ước mơ, hi vọng 
   Những câu Kiều say sưa đưa cuộc đời bay bổng 
   Tiếng võng trưa hè mênh mông 
   Phong trần mài một lưỡi gươm 
   Những phường giá áo túi cơm sá gì. 
    
   Nhưng công việc làm ăn mỗi ngày mỗi khó 
   Cuộc đời chợ đen chợ đỏ 
   Thù hằn con người 
   "Muốn sống thanh cao đi lên trời mà ở 
   Mày đã quyết kiêu căng 
   Níu lấy cái lương tâm gàn dở 
   Dám không tồi như chúng tao 
   Suốt đời mày sẽ khổ". 
    
   Quan lại trù cha tôi cứng đầu cứng cổ 
   Người "An Nam" dám đánh "ông Tây" 
   Mẹ ỉ eo dằn vặt suốt ngày 
   Chửi mèo, mắng chó 
   "Cũng là chồng là con 
   Chồng người ta khôn ngoan 
   Được lòng ông tuần ông phủ 
   Mang tiền về nuôi vợ". 
    
   Bát đĩa xô nhau vỡ 
   Cha tôi nằm thở dài 
   Cha nhịn đi cho đỡ 
   Anh em tôi, bỏ cơm 
   Hai đứa dắt nhau ra đường tha thẩn 
   Trời mùa đông trăng sáng 
   Sao nở như hoa 
    
   Không biết Ngưu Lang trên kia 
   Có bao giờ cãi Chức Nữ. 
   Rồi cha tôi lui tới nhà quan tuần, quan phủ 
   Lúc về, gặp tôi đỏ mặt quay đi 
   Một hôm, tôi thấy chữ R.O treo ngoài cửa 
    
   Cha tôi không dạy tôi làm thơ nữa 
   Người còn bận đếm tiền ghi sổ 
   Thỉnh thoảng nhớ những ngày oanh liệt cũ 
   Một mình uống rượu say 
   Ngâm mấy câu Kiều, ôm mặt khóc 
   Tỉnh dậy lại loay hoay ghi sổ đếm tiền 
   Hai vai nhô lên 
   Đầu lún xuống 
   Như không mang nổi cuộc đời 
   Bóng in tường vôi im lặng 
   Ngọn đèn leo leo ánh sáng 
   Bóng với người như nhau 
   Mùi ẩm mốc, tiếng mọt kêu cọt kẹt 
   Ở chân bàn hay ở cha tôi? 
    
   Cuộc sống hàng ngày nhỏ nhen tàn bạo. 
   Rác rưởi gia đình miếng cơm manh áo 
   Tàn phá con người. 
   Những mơ ước thời xưa như con chim gẫy cánh 
   Rũ đầu chết ngạt trong bùn 
   Năm tháng mài mòn bao nhiêu khát vọng. 
   Cha đã dạy con một bài học lớn 
   Đau thương kiên quyết làm người. 
   Không nên lùi bước cuộc đời phải thắng.   ~Lê-Đạt~                NHÂN CÂU CHUYỆN MẤY      NGƯỜI TỰ TỬ      (Trích)           Báo Nhân dân số 822 
   Có đăng tin mấy người tự tử 
   Vì câu chuyện tình duyên dang dở 
   Trưa mùa hè nóng nung như lửa 
   Tôi ngồi làm thơ 
   Vừa giận vừa thương những người xấu số 
   Chân chưa đi hết đường đời 
   Đã vội nằm dưới mộ.      Chết là hết 
   Hết đau hết khổ 
   Nhưng cũng là hết vầng trăng soi sáng trên đầu 
   Hết những bàn tay e ấp tìm nhau      Người con trai ngồi trên gò đất 
   Thổi sáo gọi người yêu 
   Bắt nắng chiều đứng lại 
   Lúa đang thì con gái… 
   Xôn xao gió thổi 
   Đầu sát bên đầu tính chuyện tương lai      Anh công an nơi ngã tư đường phố 
   Chỉ đường cho 
   xe chạy 
   xe dừng 
   Rất cần cho luật giao thông 
   Nhưng đem bục công an đặt giữa trái tim người 
   Bắt tình cảm ngược xuôi 
   Theo luật lệ đi đường nhà nước 
   Có thể gây nhiều đau xót 
   ngoài đời"      ~Lê-Đạt~    
             ÔNG BÌNH VÔI           Những kiếp người sống lâu trăm tuổi     Y như một dãy bình vôi     Càng sống càng tồi     Càng sống càng bé lại...     ~Lê- Đạt~    
       Sau khi bị vụ Nhân văn-Giai phẩm trong  
  vòng 30 năm, Lê Đạt đi vào viết về thân  
  phận của mình, của xã hội thời kỳ cấm  
  đoán và tìm tòi cách tân thơ.  
      
             CẢNG CẤM    
       Hai vợ chồng ghế đá đêm suông 
   Cảng Cấm      còi tàu u ú 
   gió oà 
   Đất nước mẹ mình 
   hay mẹ ghẻ      ~Lê-Đạt~    
             THU NHÀ EM    
       Anh đến mùa thu nhà em 
   Nắng cúc lăm răm vũng nhỏ 
   Mà cho đấy rửa lông mày 
   Nông nỗi heo may từ đó      Mưa đêm tuổi nổi ao đầy 
   Đồi cốm đường thon ngõ cỏ 
   Bướm lượn bay hoa ngày 
   Tin phấn vàng hay thuở gió      Tóc hong mùi ca dao 
   Thu rất em 
   và xanh rất cao      ~Lê-Đạt~    
             ÁC MỘNG    
       Mơ tôi một giấc mơ khiếp sợ 
   Đường phố      cả căn nhà tôi ở 
   Mặt sắt chữ vàng biển đỏ 
   “Không phận sự miễn vào”      ~Lê-Đạt~    
             BƯỚC KỶ XXI           Năm 2000 
   năm chiếu cố 
   những địa đầu thiểu số      Các nhà cầm quyền 
   đối đám nghi can 
   đúng trước giờ công bố 
   hãy nhẹ tay.     ~Lê-Đạt~      
   
      
        
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 31.01.2011 09:43:12 bởi Anh Nguyên >
            
         
     
    
 
    
    
        
        
            
            
               
   
   
   
  PHÙNG-QUÁN 
      1932-1995 
   
  Quê Thủy-Dương, Hương Thủy, Thừa-Thiên, 
  học ở Huế, vào Bộ đội, chiến đấu ở Bình-Trị- 
  Thiên, làm thơ, viết tiểu thuyết, truyện ngắn, 
  ra Bắc làm văn hóa văn nghệ ở Trung ương, 
  tham gia nhóm Nhân-Văn Giai-Phẩm. 
   
   
  CHIỀU HÀNH QUÂN 
   
  Chiều mưa hành quân 
  Nước đầm chấn thủ 
  Qua những ngôi nhà bé nhỏ 
  Như tổ chim mọc rải rác bên đường 
   
  Quanh bếp lửa hồng 
  Vợ chồng con cái 
  Ngồi so đũa bên nồi cơm mới xới 
  Trắng dẻo ngọt ngào thơm. 
   
  Chúng tôi quên mưa lạnh đường trơn 
  Thấy lòng ấm lại 
  Trong niềm vui no ấm của nhân dân. 
   
  Em bé bỏ bát ăn 
  Chạy ra cửa 
  Tranh nhau đếm bộ đội 
  Đếm ba lô 
  Đếm súng 
  Nhoẻn miệng cười, mắt sáng như trăng. 
  - Súng nớ của mi! 
  - Súng ni của tao! 
  - Súng tao to hơn! 
  - Súng tao dài hơn! 
   
  Chúng tôi cười: 
  - Súng của các em tất cả 
  Trao cho anh đi giành lại áo cơm. 
   
  Em cười như ngô rang 
  Ấm cả chiều mưa lạnh 
  Vành môi em lấp lánh 
  Cất tiếng hát tình tang: 
  - Hoan hô anh vệ quốc đoàn 
  Ăn sương nằm đất đánh tan quân thù 
  Tính tình tang, tang tính tình. 
   
  Tiếng hát thanh thanh 
  Ngọt mùi sữa mẹ 
  Như nhắc chúng tôi 
  Giữ lấy hòa bình các anh nhé 
  Cho em vui hát mãi điệu tính tang. 
  ~Phùng Quán~ 
   
   
  LỜI MẸ DẶN* 
    
  Tôi mồ côi cha năm hai tuổi 
  Mẹ tôi thương con không lấy chồng 
  Trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải 
  Nuôi tôi đến ngày lớn khôn. 
  Hai mươi năm qua tôi vẫn nhớ 
  Ngày ấy tôi mới lên năm 
  Có lần tôi nói dối mẹ 
  Hôm sau tưởng phải ăn đòn. 
  Nhưng không, mẹ tôi chỉ buồn 
  Ôm tôi hôn lên mái tóc 
  - Con ơi 
  trước khi nhắm mắt 
  Cha con dặn con suôt đời 
  Phải làm một người chân thật. 
  Mẹ ơi, chân thật là gì? 
  Mẹ tôi hôn lên đôi mắt 
  Con ơi, một người chân thật 
  Thấy vui muốn cười cứ cười 
  Thấy buồn muốn khóc là khóc. 
  Yêu ai cứ bảo là yêu 
  Ghét ai cứ bảo là ghét 
  Dù ai ngon ngọt nuông chiều 
  Cũng không nói yêu thành ghét. 
  Dù ai cầm dao dọa giết 
  Cũng không nói ghét thành yêu. 
  Từ đấy người lớn hỏi tôi: 
  Bé ơi, Bé yêu ai nhất? 
  Nhớ lời mẹ, tôi trả lời: 
  Bé yêu những người chân thật. 
  Người lớn nhìn tôi không tin 
  Cho tôi là con vẹt nhỏ 
  Nhưng không! Những lời dặn đó 
  In vào trí óc của tôi 
  Như trang giấy trắng tuyệt vời 
  In lên vết son đỏ chói. 
  Năm nay tôi hai mươi lăm tuổi 
  Đứa bé mồ côi thành nhà văn 
  Nhưng lời mẹ dạy thuở lên năm 
  Vẫn nguyên vẹn màu son chói đỏ. 
  Người làm xiếc đi giây rất khó 
  Nhưng chưa khó bằng làm nhà văn 
  Đi trọn đời trên con đường chân thật. 
  Yêu ai cứ bảo là yêu 
  Ghét ai cứ bảo là ghét 
  Dù ai ngon ngọt nuông chiều 
  Cũng không nói yêu thành ghét 
  Dù ai cầm dao dọa giết 
  Cũng không nói ghét thành yêu. 
  Tôi muốn làm nhà văn chân thật 
  Chân thật trọn đời 
  Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi 
  Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã 
  Bút giấy tôi ai cướp giật đi 
  Tôi sẽ dùng dao viết văn trên đá. 
  ~Phùng Quán~ 
        1957 
   
   
  CÂY MẬN VĨNH LINH 
   
  Lấp hố bom giữa nhà 
  Tôi ươm một trái mận 
  Trái mận tôi cạy ra 
  Từ bàn tay vợ nắm 
  Vợ tôi sắp làm mẹ 
  Thèm ăn rở của chua 
  Túi áo nàng không khế 
  Thì cũng mận, cũng mơ 
  Ôi trái mận, trái mận 
  Cắn dở còn vết răng 
  Nảy mầm trong xót thương 
  Đâm chồi trong thù hận 
  Vĩnh Linh im tiếng súng 
  Tôi trở lại ngôi nhà 
  Nơi vợ tôi nằm xưa 
  Xum xuê một cây mận 
  Ôi cây mận, cây mận 
  Trái chín trĩu cành cong 
  Trái nào tôi cũng thấy 
  Cắn dở một vết răng! 
  ~Phùng-Quán~ 
   
   
   
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 31.01.2011 10:04:08 bởi Anh Nguyên >
            
         
     
    
 
    
     
 
     
    
    
    
    
	
    
    
    
    
        
            
    
        Thống kê hiện tại
        Hiện đang có  0 thành viên và  1 bạn đọc.
        
 
            
         
     
    
    
    
    
    
    
        
        
        
	
            Kiểu: