Dòng thơ miền bắc

Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 30 trên tổng số 44 bài trong đề mục
Tác giả Bài
Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
Dòng thơ miền bắc - 16.11.2010 01:03:10

DÒNG THƠ MIỀN BẮC

               
        1954-1975


MUC LUC

HỒ CHÍ MINH
-    Ngục trung nhật k ý
-    Nạn hữu xuy địch
-    Vọng nguyệt
-    Nguyên tiêu
XUÂN THỦY
-     Ngôi nhà kháng chiến
LÊ ĐẠT
-    Cha tôi
HỮU LOAN
-    Màu tím hoa sim
-    Đèo cả
-    Hoa lúa
ANH THƠ
-    Tôi đón tin vui từ Hà-Bắc
-    Cun đã về nơi Bác ở ngày xưa
-    Dưới bong ô-liu
-    Hai nhăm năm
-    Ở vườn thực vật Clouj
NGUYỄN ĐỨC GIỚI
-     Lên Cấm Sơn
HUY CẬN
-    Gửi bạn người Nghệ-Tĩnh
-    Tổ Quốc
-    Xem triển lãm tượng gỗ nhân gian
-    Về thăm quê xã Đức-Ân
QUANG DŨNG
-    Đôi mắt người Sơn Tây
-    Đôi bờ
-    Tây tiến
-    Cố quận
-    Lính râu ria
-    Quán bên đường
-    Mưa
-    Chabbi Chabbi
HOÀNG LỘC
-    Viếng bạn 
HOÀNG CẦM
-    Đêm liên hoan
-    Bên kia song Đuống
-    Đêm thổ
-    Em bé lên sáu tuổi
VŨ CAO
-     Núi Đôi
NGUYỄN ĐÌNH THI
-    Đất nước
TRẦN DÂN
-    Nhất định thắng
-     Bài thơ Việt Bắc
PHẠM HỔ
-     Những ngày xưa thân ái
YÊN THAO
-    Nhà tôi
VIỆT PHƯƠNG
-    Muôn vàn tình thương yêu
trùm lên khắp quê hương
LÊ ĐẠT
-     Cha tôi
HOÀNG CÁT
-    Trong mảnh vườn xưa
PHÙNG QUÁN
-    Chiều hành quân
-    Lời mẹ dặn
-    Cây mận Vĩnh Linh
TỐ HỮU
-    Ta đi tới
-    Bài ca mùa xuân 1961
-    Việt Nam máu và hoa
-    Bài ca quê hương
-    Đời đời nhớ ông
-    Có một người yêu thích
-    Dậy mà đi
TẾ HANH
-    Vườn xưa
-    Nhớ con sông quê hương
-    Bài thơ tình ở Hàng Châu
BẰNG VIỆT
-    Bếp lửa
-    Em đừng ghen
HOÀNG TRUNG THÔNG
-    Bao giờ trở lại
-    Những cánh buồm
-    Bài ca vỡ đất
XUÂN DIỆU
-    Những đêm hành quân
MINH HUÊ
-    Đêm nay bác không ngủ
NGUYỄN BễNH
-    Xuân nhớ
-    Hành phương nam
THU TRANG
-    Nói sao cho vợi
TRẦN HỮU TRUNG
-    Thăm lúa
CẦM VĨNH ÙI
-    Nhớ vợ
CHẾ LAN VIÊN
-    Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng
PHẠM NGỌC CẢNH
-    Sư đoàn
CHÍNH HỮU
-    Đồng chí
-    Ngọn đèn đứng gác
THU BỒN
-    Tạm biệt Huế
-    Bài ca chim chơrao
NGUYỄN CHÍ THIỆN
-    Anh gặp em
-    Sẽ có một ngày
-    Đồng lầy
-    Không có gì quý hơn Độc lập Tự do
-    Ngày Tết
-    Ta nhớ
-    Đau đớn lắm
ĐOÀN VĂN NGHIÊU
-    Chiếc gáo dừa
-    Vài khoảnh khắc tháng tư
NGUYỄN DUY
-    Đò Lèn
LÊ CHÍ
-     Nếu một ngày anh ch ẳng còn em
LÊ ANH XUÂN
-    Nhớ cơn mưa quê hương
-    Trở về quê nội
-    Dừa ơi
BÀNG SĨ NGUYÊN
-    Một mái nhà đỉnh núi
SONG HÀO
-    Bên cửa sổ
CẦM GIANG
-    Núi Mường-Hung dòng sông Mã
LÂM THỊ MỸ DẠ
-    Anh đừng khen em
VŨ CAO
-    Núi Đôi
GIANG NAM
-    Quê hương
LƯU QUANG VŨ
-    Vườn trong phố
-    Những ngày chưa có em
-    Những bong hoa không chết
-    Việt Nam ơi!
BẠC VĂN ÙI
-    Em tắm
NGUYÊN MY
-    Cuộc chia ly màu đỏ
HỮU THỈNH
-    Nghe tiếng quốc kêu
NÔNG QUỐC CHẤN
-    Dọn về làng
TÚ MỠ
-    Khóc người vợ hiền
THÔI HỮU
-    Lên Cẩm-Sơn
NGUYÊN HỒNG
-    Cửu-Long-Giang ta ơi
NGUYỄN ĐỨC MẬU
-    Một vị tướng về hưu
HOÀNG TRẦN CƯƠNG
-    Miền Trung
-    Quặng lửa
CA LÊ HIÊN
-    Trở về quê nội
TRẦN ĐĂNG KHOA
-    Hạt gạo làng ta
-    Bàn chân thầy giáo
-    Gửi bác Trần-Nhuận-Minh
-    Thơ tình người lính biển
-    Giã biệt Matxcơva
PHẠM TIẾN DUẬT
-    Cô bộ đội ấy đã đi rồi
-    Trường sơn đông Trường sơn tây
-    Người ơi người ở
-    Gửi em, cô Thanh niên xung phong
NGUYỄN BÁ CHUNG
-    Quê hương
TRẦN HUYỀN TRÂN
-    Mưa đêm lều vó
-    Độc hành ca
NGUYỄN NGỌC OÁNH
-    Mẹ
HỒNG NGUYÊN
-    Nhớ
VĂN LÊ
-    Tháp Chàm
TRẦN VÀNG SAO
-    Bài thơ của một người yêu nước mình
VĂN CAO
-    Năm buổi sáng không có trong sự thực
THANH THAO
-    Một người lính nói về thế hệ mình
LÊ THỊ KIM
-    Viết cho chuồn chuồn kim
-    Đừng nhìn em như thế
-    Khi tình yêu đến
-    Gần lắm Trường-Sa
NGUYỄN VŨ TIÊM
-    Ảo ảnh giai nhân
BÙI CÔNG MINH
-     Ngày và đêm
LÊ GIANG
-     Em vẫn đợi anh về



HỒ CHÍ MINH
     1890-1969

Tức Nguyễn Sinh Cung, Quê Kim
Liên, sinh tại quê ngoại Hoàng Trù,
Chung Cự, Lâm Thịnh, Nam Đàn,
Nghệ An. Chủ tịch Ban chấp Hành
Trung Ương Đảng Lao Động VN
1951-1969, Chủ Tịch nước 1945-
1969.


NGỤC TRUNG NHẬT KÝ

Thân thể tại ngục trung
Tinh thần tại ngục ngoại
Dục thành đại sự nghiệp
Tinh thần cánh yếu đại
~Hồ Chí Minh~

Dịch:
  
Nhật ký trong tù

Thân thể ở trong lao,
Tinh thần ở ngoài lao.
Muốn nên sự nghiệp lớn,
Tinh thần phải càng cao.
~Nam Trân~



NẠN HỮU XUY ĐỊCH

Ngục trung hốt thính tư hương khúc
Thanh chuyển thê lương điệu chuyển sầu
Thiên lý quan hà vô hạn cảm
Khuê nhân cánh thượng nhất tằng lâu
~Hồ Chí Minh~

Dịch:

Trong lao vẳng khúc nhạc tình quê,
Âm chuyển sầu, thương, điệu tái tê.
Nghìn dặm quan hà, khôn xiết nỗi,
Lên lầu, xa ngóng, khách phòng khuê.
~Huệ Chi~


VỌNG NGUYỆT

Ngục trung vô tửu diệc vô hoa,
Đối thử lương tiêu nại nhược hà.
Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt,
Nguyệt tòng song khích khán thi gia.
~Hồ Chí Minh~

Dịch:
     
Ngắm trăng

Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ
~Nam Trân~


NGUYÊN TIÊU*

Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên
Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.
~Hồ Chí Minh~

Dịch:

Rằm tháng giêng

Rằm xuân lồng lộng trăng soi
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân
Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.
~Xuân-Thủy~


ĐỀ ĐỀN KIẾP BẠC
NƠI THỜ ĐỨC THÁNH TRẦN

Bác anh hùng, tôi cũng anh hùng
Tôi, bác cùng chung nghiệp kiếm cung
Bác diệt quân Nguyên thanh kiếm bạc
Tôi trừ giặc Pháp ngọn cờ hồng
Bác đưa một nước qua nô lệ
Tôi dắt năm châu đến đại đồng
Bác có linh thiêng cười một tiếng
Mừng tôi kách mệnh sắp thành công.
~Nhà kách mệnh Ái Quốc Hồ-Chí-Minh Nguyễn-Tất-Thành~


HOÀNG VĂN THỤ
    1906-1944

Người dân tộc Tày, quê Nhân-Lý, Văn-Uyên,
Lạng-Sơn, làm Cách Mạng, gầy dựng được nhiều
Cơ sở Đảng ở Long-Châu, Cao-Bằng, Lạng-Sơn,
Ủy viên ban Thường vụ Trung ương Đảng, bị Pháp
bắt câm tù, ông còn để lại bài thơ:


Việc nước xưa nay có bại thành;
Miễn sao giữ trọn được thanh danh.
Phục thù chí lớn không hề nản,
Ngọc nát còn hơn giữ ngói lành.
Thân dẫu lao tù lâm cảnh hiểm,
Chí còn theo dõi buổi tung hoành.
Bạn hỡi gần xa hăng chiến đấu,
Trước sau xin giữ tấm lòng thành”.
~Hoàng-Văn-Thụ~


XUÂN THỦY
1912-1987

Quê Hà-Tây

NGÔI NHÀ KHÁNG CHIẾN

Mái nứa thanh thanh mấy nếp nhà
Cây xanh phủ kín lối vào ra
Trong veo con suối từ đâu lại
Đám cải chân đồi loáng thoáng hoa.

Lưa thưa vách nứa, giường phên nứa
Bàn nứa mong manh, ghế nứa gài
Người đứng người ngồi say thảo luận
Vù vù gió bấc mặc bên tai.

Trời nắng trời mưa chi sá kể
Tay dao tay cuốc phạt rừng quang
Vườn rau bãi bóng ngày thêm rộng
Dưới núi dừng chân, tiếng hát vang.

Tinh tươm cơm nước dọn ra bàn
Trời lạnh sao lòng thấy ấm ran
Đĩa muối, bát canh, thêm quả ớt
Hơi cơm nghi ngút, chuyện giòn tan!
~Xuân-Thủy~
Việt Bắc,1949



 

<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.12.2012 10:24:02 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dòng thơ miền bắc - 23.11.2010 10:44:17


HỮU LOAN
1916-2010

Mai-Linh, Nga-Sơn, Thanh-Hóa

MẦU TÍM HOA SIM

Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những đứa em nàng, có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh,
Tôi: người chiến binh, xa gia đình,
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo cưới,
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giầy đinh bết bùn đất hành quân.
Nàng cười xinh xinh, bên anh chồng độc đáo.
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi.
Từ chiến trường xa, nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến chinh
Mấy người đi trở lại?
Lỡ khi mình không về
Thì thương người vợ chờ, bé bỏng chiều quê!
Nhưng không chết người trai khói lửa
Mà chết người em gái nhỏ hậu phương.
Tôi về không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối.
Chiếc bình hoa ngày cưới
Thành bình hương tàn lạnh vây quanh.

Tóc nàng xanh xanh, ngắn chưa đày búi.
Em ơi, giây phút cuối,
Không được nghe em nói,
Không được trông thấy nhau một lần...
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím,
Áo nàng màu tím hoa sim.
Ngày xưa, một mình, bóng nhỏ,
Nàng vá cho chồng tấm áo ngày xưa!
Một chiều rừng mưa
Ba người anh, từ chiến trường Đông Bắc
Biết tin em gái mất
Trước tin em lấy chồng.
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ ngỡ ngàng trông ảnh chị
Khi gió sớm thu về, cỏ vàng chân mộ chí...

Chiều hành quân qua những đồi sim,
Những đồi hoa sim, những đồi hoa sim
Màu tím hoa sim...tím cả chiều hoang biền biệt
Nhìn áo rách vai, tôi hát trong mầu hoa:
- Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chết sớm, mẹ già chưa khâu!
~Hữu-Loan~


TÌNH THỦ ĐÔ

Việt Bắc âm u
Đường dài Thanh Nghệ
Người Thủ đô tản cư
Đoàn xe đi
Chở nặng tâm tư
Một góc nhà
Một hè phố
Mắt em biếc
Một chiều xưa
Quan Thánh
Cổ Ngư
Bạch Mai
Bóng liễu Tháp Rùa
Một thằng bạn
Một thằng con
       ở lại
*
Khấp khểnh xe đi
Vấp vào đêm tối
Thủ đô
Ngày mùa thu
Thủ đô
Cờ bốc lửa
  phố dài
Cờ bốc lửa      
  công trường Nhà Hát lớn.
Thủ đô
Ngày Tổng Khởi Nghĩa
Ngày Thủ đô chờ đón
Đoàn Giải phóng quân về
Qua cầu Long Biên
Sông bóng người đi
Vai cao rộng
Mặc núi rừng Việt Bắc
Ai về Thủ đô
Khăn thầm nước mắt
Quốc ca mình
Đoàn lính Việt đầu tiên
- Có người làng đi
Trong đoàn lính trẻ.
Thủ đô
Tuần Lễ Vàng
Hà Nội dãy dọc toà ngang
Quên giai cấp
Trong căm thù dân tộc
Thủ đô
Ngày Tuyên Ngôn Độc Lập
Thủ đô
Ngày Tổng Tuyển Cử đầu tiên
Những ngày Thủ đô
Như ộc máu triền miên
Máu những người Tây giết
Chảy về từ lịch sử
Tiếng hát
Vùng lên
Xích xiềng rơi vỡ.
Thủ đô
Ngày Tàu trắng
Quốc dân đảng
Và thực dân
Nghênh ngang phố chật
Bắt cóc
Tống tiền
Khiêu khích
Bắn người
Đám ma đi
Cờ đỏ phủ quan tài
Phố Ôn Như Hầu
Những người bị giết
Xác quăng đầy hố
Đoàn Giải phóng quân đi
Như gại dao trên đường nhựa.
Thủ đô
Quân lệnh đêm
Lựu đạn đen ngòm trong nắm tay
Rình sau mái ngói
Nắng loé tường vôi
Chữ cào xương nhức nhối:
THANH NIÊN SỐNG CHẾT VỚI THỦ ĐÔ!
Mắt em thiếu nhi
Hồ trăng Trung Thu:
Các anh hãy giữ non sông
Cho chúng em!
Bàn tay lớn
Nhận lòng tin bé nhỏ.
Cụ Hồ hỏi anh em bộ đội:
- Các chú liệu giữ được Thủ đô
Bảy ngày?
Một rừng nắm tay
Thét tiếng:
- Thề với Bác!
*
Lửa cháy Thủ đô
Chân trời hấp hối
Xác thằng bạn
Xác thằng con
Trên hè phố Thủ đô
Giặc khởi hấn rồi!
Đường tản cư khuya
Lửa toé sắt bánh xe bò
Một Quyết tử quân hy sinh
Là một đoàn giặc chết
Một Quyết tử quân hy sinh
Và bắt đầu từ đó
Những ngày đêm Thủ đô
Tàn sát
Khu Đồng Xuân
Lính Trung đoàn Thủ Đô
Đâm giặc trên bàn thịt
Như chọc tiết bò
Đuổi giặc
Vật lăn trên nóc chợ
Hai tháng giết nhau
Một đêm thủ đô
Có đoàn Quyết tử
Cắt máu tay ăn thề
Ngõ vắng Thủ đô
Những đơn vị rút đi
Góc phố Thủ đô
Bóng những người ở lại
ánh hoàng hôn lên
Liệm tròn huyết thệ
Người Quyết tử quân
                cuối cùng.
*
Những người dân Thủ đô
Về với giặc ở chung
Phải đốt cờ đỏ sao vàng
Thức đêm may cờ ba sắc
Và những sớm mai
Tay xót xa
Đem treo cờ giặc trước nhà
Ai về Hà Nội
Thấy Hà Nội xa hoa
Thấy hà-nội hơn Hà Nội trước
Nhưng Hà Nội
Giặc xây thêm ngục tù
Xe Phòng Nhì
Chở từ ngoại ô
Từng đoàn người xiềng tay
Về qua phố tối.
Ai về Hà Nội
Thấy Hà Nội xa hoa
Thấy hà-nội hơn Hà Nội trước
Nhưng Hà Nội Ngã-Tư-Sở
Hà Nội Khâm-Thiên
Đèn khuya chảy vàng
Những hộp đêm
Mọc theo tiếng giày đinh
Của đoàn Tây mũ đỏ
Tiếng xe tăng viễn chinh
Chiều đi bụi phố
Và giữa trưa Hà Nội yên lành
Hồi còi rú thất thanh
Kêu như người tắc họng
Một xác Việt gian
Ngã tư
      nắng đọng
Lũ lượt kéo nhau về Hà Nội
Từng đoàn thiêu thân
Mang trong mình định mệnh
Mủ đờm nhớt lạnh
Và uế khí hôi tanh
Sợ ánh sáng và gió lành
Tôi thành thép
Cánh tay người Kháng Chiến
Từ vùng tự do
Có người vào nội thành
Ném chứng thư Việt Minh
Trên dòng sông
Chào thằng bạn chiến khu
Mà phục tấm lòng.
Đêm Thủ đô
Rét đến
Trong chăn bông
Nghe lạnh chiến khu Vũ
Cơm gia đình
Đũa bát nhớ người đi.
Và những sớm mai
Từng đoàn phi cơ giặc
Chở tóc tang đầy trong thân sắt
Ra những miền quê xanh
Tiếng bom dội về
Chuyển Hà Nội mênh mông
Tìm người Hà Nội
Rung lên như đất chuyển
- Những người Thủ đô tản cư
- Những đồng bào kháng chiến.
Những em mùa thu
Đi trong đoàn thiếu nhi
Lớn lên
Tìm đường chiến khu Việt Bắc.
Những người ngày xưa
Ghét Việt Minh
Bắt đầu chờ đợi
Bao giờ Việt Minh
Mới đánh vào Hà Nội
Cho ánh sáng xa hoa
Vỡ rơi thành bóng tối
Trên xác người máu me
Ngổn ngang gạch ngói?
Đến bao giờ Việt Minh
Mới đánh vào Hà Nội?
Những người bắt sống Le Page
                      và Charton
Những chiến sĩ Cao Bằng - Đông Khê
Những binh đoàn biên giới
Đang chuyển về Trung Du
Như đi từng dãy núi
Kẹp vòng quanh ngoại vi Thủ đô.
Mắt vời xa
Cô gái Hà Nội tản cư
Đẹp trong màu áo vải quê mùa
Sẽ còn những ai
Trong đoàn quân trở lại
Ngày thủ đô chiến thắng tưng bừng?
*
Em về Thủ đô
Chân phố cũ
Ngập ngừng.
~Hữu-Loan~
Khoảng cuối 1950 đầu 1951
(Dương Tường & Mạc Lân ghi lại theo
trí nhớ. Tác giả Hữu Loan đã xem lại)



ĐÈO CẢ

Đèo Cả!
Đèo Cả!
Núi cao ngút!
Mây trời Ai Lao sầu đại dương
Dặm về heo hút
Đá Bia mù sương
Bên quán "Hồng quân" người ngựa mỏi
Nhìn dốc ngồi than thương ai lên đường
Chầy ngày lạc giữa núi
Sau chân lối vàng xanh tuôn
Dưới cây bên suối độc
Cheo leo chòi canh như biên cương
Tóc râu trùm vai rộng
Không nhận ra người làng
Ngày thâu vượn hú
Đêm canh gặp hùm lang thang
Rau khe cơm vắt
Áo phai màu chiến trường
Gian nguy lòng không nhạt
Căm thù trăm năm xa
Máu thiêng sôi dào dạt
Từ nguồn thiêng ông cha
"Cần xây chiến lũy ngất
Đây hình hài niên hoa
- Xâm lăng!
Xâm lăng!
Súng them gươm khát..."
Ai ngân lung lay đêm quê nhà
Nhớ lần thăm Đèo Cả
Hậu phương từ rất xa
Ăn với nhau bữa heo rừng công thui chấm muối
Trên sạp cây rừng
Ngủ chung nửa tối
Biệt nhau đèo heo canh gà
Râu ngược chào nhau bên dốc núi.
Giặc từ vũng Rô bắn tới
Giặc từ trong tràn ra
Nhưng Đèo Cả vẫn đứng vững
Đèo Cả Nam máu giặc mấy.lần nắng khô
Sau mỗi lần thắng
Những người trấn Đèo Cả
Về bên suối đánh cờ
Người hái cam rừng ăn nheo mắt
Người vá áo thiếu kim mài sắt
Người đập mảnh chai vểnh cằm cạo râu
Suối mang bóng người soi những về đâu?
~Hữu-Loan~


HOA LÚA

Em là con gái đồng xanh
Tóc dài vương hoa lúa
Đôi mắt em mang chân trời quê cũ
Giếng ngọt, cây đa
Anh khát tình quê ta trong mắt em thăm thẳm
Nhạc quê hương say đắm
Trong lời em từng lời
Tiếng quê hương muôn đời và tiếng em là một
Em ca giữa đồng xanh bát ngát
Anh nghe quê ta sống lại hội mùa
Có vật trụi, đánh đu, kéo hẹ, đánh cờ
Có dân ca quan họ
Trai thôn Thượng, gái thôn Đoài hai bên gặp gỡ
Cầm tay trao một miếng trầu
Yêu nhau cởi áo cho nhau
Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay
Quê hương ta núi ngất, sông đầy
Bát ngát làng tre, ruộng lúa
Em gái quê hương mang hình ảnh quê hương
Xa em năm nhớ, gần em mười thương
Còn bàn tay em còn quê hương mãi
Em mang nguồn ân ái
Căng ngực trẻ hai mươi và trong mắt biếc nhìn anh
Em gái quê si tình
Chưa bao giờ được yêu đương trọn vẹn...

Anh yêu em muôn vàn như quê ta bất diệt
Quê hương ta ơi từ nay càng đẹp
Tình yêu ta ơi từ nay càng sâu
Ta đi đầu sát bên đầu
Mắt em thăm thẳm đựng màu quê hương.
~Hữu-Loan~




THÂM-TÂM
         1917-1950

Tức Nguyễn Tuấn Trình, sinh tại Hải Dương, tỉn. Năm 1938, lên Hà Nội sống bằng nghề vẽ tranh và bắt đầu làm thơ. Viết cho "Tiểu thuyết thứ bảy" của Vũ đình Long. Thơ làm theo dạng "Hành" - một lối thơ cổ lai của nhà thơ Trung Quốc gồm : ''Can trường hành'', ''Vọng nhân hành'', và nổi bật là "Tống biệt hành" . Ngoài ra có ''Tráng ca''.
 
CHIỀU MƯA ĐƯỜNG SỐ 5

Chiều mưa đồng rạ trắng

Đất tề sông quạnh vắng
Ngồi kín dưới nhà gianh
Nghe gió lùa ắng lặng
Chiều mưa đường số 5
Đôi mắt sao đăm đăm
Chứa cả trời mây nặng
Miền Việt Bắc xa xăm?
Ôi núi rừng thương nhớ
Rét mướt đã hai năm!
Chiều mưa ngàn hoa nở
Hoa phới bay mùa xuân
Bếp sàn gây ngọn lửa
Chén trà ngát tình dân
Chiều mưa lùa các cửa
Ngày bộ đội hành quân
Mẹ già không nói nữa
Nước mắt nhìn rân rân...
Ôi đâu rồi sơn nhân
Đâu rồi anh du kích
Chiều mưa manh áo rách
Vác súng vượt lên đèo
Giao thông qua mũi địch
Đâu rồi “nhình” với “a”
Tiếng cười reo khúc khích
Đón chiến sĩ quay về
Sau trận đi phục kích
Chiều mưa giã gạo mau
Chầy tập đoàn thình thịch
Ôi núi rừng thẳm sâu
Trung đội cũ về đâu
Biết chăng chiều mưa mau
Nơi đây chăn giá ngắt
Nhớ cái rét ban đầu
Thắm mối tình Việt Bắc
            ~Thâm-Tâm~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.12.2012 10:31:28 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dòng thơ miền bắc - 07.12.2010 07:47:00


ANH- THƠ

  1918-2005
Sinh tại Ninh Giang, Hải-Dương.
Cha là công chứcđây đó, thay đổi
3 trường mà chưa xong Tiểu học.
Rất thích văn chương, làm thơ từ
nhỏ.


TÔI ĐÓN TIN VUI HÀ BẮC

Tôi đón tin vui Hà-bắc
GIữa trời Hà- nội trăng tròn.
Con số trăm linh hai biết mấy yêu thương.
Tôi thầm để lòng tôi lắng đượm.

Quê hương! Những đồng bằng sông Đuống
Mùa về năm tấn cầm tay
Nhrmg đồi sỏi Hiệp-hòa đã khoác xanh cây!
Những mương máng Bạch đằng hắn dang dậy sóng
Khoai Trung-hòa đã đi từng luống rộng.
Ruộng chia bờ thửa, bờ vùng.
Mía ngọt An-châu.
Quýt đỏ sông Thương
Con số hơn trăm tô ngời rực rỡ.
Tôi bâng khuâng thầm nhủ
Bàn tay cầm bút? Cầm cày?
Của những chàng trai Yên-thế
Những cô gái cầu Lim? Nội-duệ?
Tóc Bạch-đầu quân sáng ngọn Ninh-sơn.
Trung-đội Bão-đài trên đỉnh thượng nguồn.
Những bàn tay ba đời giết giặc.
Những bàn tay làm nên nước bạc, cơm vàng.

Nay hạ máy hay thù hơn trăm chiếc.
Con gái nhớ thương ơi! mẹ biết.
Hôm nay con cắp sách đến trường.
Bím tóc ngoắt tin vui.
Có bàn tay con múa
Có bàn tay con tô đậm chữ.
“Quê ta giết giặc hơn trăm!’’

Con về sơ tán hai năm
Quê hương nuôi lớn
Mẹ muốn hôn con

Khuôn mặt nhỏ hồng hơn hớn
Một  trăm linh hai chiếc hôn mừng
Xa Hà-nội - Về con đã góp chiến công chung.

Hà-nội đêm 17 tháng 10 năm 1967
   Kỷ niệm ngày Hà-bắc bắn rơi
         chiếc máy bay thứ 102

              Anh-Thơ


CON ĐÃ VỀ NƠI BÁC Ở NGÀY XƯA

I
Con đã về nơi Bác ở ngày xưa
Đường biên giới rậm dài đá dốc.
Nơi Bác hôn nắm đất giữa nương ngô.
Ôi! nắm đất về với tay  “Người’’ dựng nước.

Giữa rừng núi còn dấu chân giặc cướp.
Láng ẩn cheo leo, rải rác hốc thông già.
Đỏ bấu ngâm đầy cho dòng suối trôi qua
Suối rửa miếng ăn người dân đói khổ.

Bác về,  mời cụ “Các Mác’’ về, trên núi đá
Trong cả lòng hang, Bác tạc tượng người.
Như tạc niềm tin cho con cháu đời đời
Từ thẳm rừng sâu ngời lên chủ nghĩa.

Noọng gái nào năm xưa gạt lệ
Địu chăn về,  lo hang gió mông mênh.
Noọng đâu biết: trời tháng tám từ dây xóa mù
mới hé
Và cũng tự nơi đây ươm sắc nắng Ba Đình.

Dòng suối âm u hồng dậy ánh bình minh.
Mang tình cảm Lê-nin tràn đất nước.
Dòng suối từ ba mươi năm trước.
Từng đau gót chân thường, qua, lại đôi bờ.

Đàn cá về độp hạt cơm ngô.
Bơi hớp cả lời thơ cảm khái.
Ta mượn gương xanh lắng lại
Buổi chiều nào râu Bác trắng ưu tư?
Để đến hôm nay thủy điện ngợp bờ.
Khắp nẻo rừng cao trào ra ánh sáng.

II
Bàn đá chông chênh còn ngồi coi sử Đảng
Chim rừng ơi, ngươi có lắng nghe?
Khắp bốn phương bí mật những ai về?
Theo tay Bác viết thêm trang sử.
Những làn rêu không phủ chân quá khứ
Mà trải nhung vàng chào đón bước tương lai.
Ghé đá còn đây hơi ấm Bác ngồi
Với những anh hùng ngàn xưa cứu nước.

Cây ngót rừng còn nhớ tay người phát
Ngọn cằn rơi, cho mầm nẩy mỡ màng
Rặng trúc thanh cao vươn thẳng lên ngàn.
Cây đứng nương cây mặc cơn bão táp.

Ô cải xoong cho suối thêm tươi mát
Sắn xanh nương trùm cỏ dại, lau hoang.
Lá ổi mỗi ngày thay cánh chè thơm.
May mạ xum xuê che mù mắt giặc.

Những hàng cây đầu tiên cho “Tổ quốc’’
Từ nắm đất Bác mang về chăm bón gốc yêu thương.

III
Cháu gái nào mang bóng dáng quê hương?
Vương thi Hú, leo đèo, lội suối.
Gói cơm ngô, ống canh gừng nóng hổi:
“Ông Ké à.,đừng bỏ bữa rau măng!’’

Những bữa nghèo san sẻ, kính dâng.
Nào đâu biết mình nuôi cách mạng!

Người gái Nùng quen khâu giầy, tìm bột báng.
Được Bác đặt tên mang sắc sen vàng.
Hòm thư cao lăn đá níu, víu dây sang
Ghét đế quốc nên không chờn con rắn

Nông thị Bảy vượt ngục, bỏ nhà đi từ buổi sáng
Làm cháu già Thu, được học mỗi ngày.
Mang nặng thù chồng, lòng chị có hay
Được Bác luyện rên nối dòng Trưng nữ.

Và khi Hoàng thị Nga bụng từng đỉnh rú
Leo giữa mây mù nhịn đói, tìm dân.
Chị đâu biết giữa muôn ngàn, gian khổ
Như cô gái Nga xưa, nhớ Bác vững tinh thần.

Rồi những cô Hoa, cô Đào, từ Pắc-Pó
Giắt súng võ trang giải-phóng từng  miền
Đến em lái xúc quặng tìm vàng trên mỏ.
Cô chủ tịch vùng cao, chị chánh án tòa trên.

Tất cả người gái Tày, Nùng đảm đang hậu tuyến
Còn nhớ ngày xưa không biết làm người.
Góc núi đầu nguồn cuộc đời sâu kiến.
Từ cụ Ké về, như hoa nở rừng tươi.

IV
Ngoài tiền phương, anh Giải phóng chưa nguôi
Mối thù bản năm nào trên địu mẹ
Vượt biên giới, tránh Tây càn, khóc ré
Không áo quần sưởi lá, ủ than tro.
Đầu lở, thân lem ra  đón Bác Hồ.

Ai biết tấm lòng “Người’’ đau xót
Bàn tay già rửa từng mụn trốc
Đun từng thuyền nước nóng tắm yêu thương.

Giữa những ngày đói rét, tha phương.
Rau má nhai khô, đau hàng răng yếu.
Dân thương ông Ké, làm riêng bát cháo.
Bát cháo trứng thơm, lành, Bác nuốt sao trôi?
Tay nâng lên, nhường bà cụ tám mươi.
Công cuộc sống gần trăm tuất khổ
Ôi những giọt nước mắt già, nóng nhỏ.
Cho cháu con căm uất đuổi xâm lăng.

Bác Hồ ơi, đã mấy mươi năm.
Từ nắm đất Bác đem về dựng nước.
Rừng Pắc-Pó uy nghiêm đài Các Mác
Suối Lê-nin trong vắt, xanh nguồn.
Con đã về đây, đi giữa lúa vàng thơm
Lòng nhớ Bác như nương đồng ơn nước.
Ôi, nếu được trở về ngày tháng trước.
Bác lại về như Bụt hiện giữa rừng cây.
Mùa cốm lên hương, vang đất nước nhịp chày.
                    Anh-Thơ
       Hà Nội, tháng 9 năm 1969


        DƯỚI BÓNG Ô-LIU

Tôi đã nghe...
Tiếng vó ngựa của Scăng-đéc-béc còn vang từng mây ở Cơ-rui-da.

Vang trên thung lũng Ti-ra-na.
Vang trên ngọn rừng ô-liu lá bạc.
Vang trên những đồi nho bát ngát.
Tiếng vó ngựa đi đạp xác quân thù
Từ năm thế kỷ xa xưa
Trong lòng bạn tự hào biết mấy!

Người bạn An-ba-ni ơi!
Tôi đến đây
Gặp rất nhiều đài liệt sĩ
Gặp những bà mẹ gầy thương nhớ chồng con.
Gặp những em bé gái giống con tôi, xách giỏ đi chợ

Sỏi đá hãy còn
Đồi trọc chưa phủ xanh cây
Nhưng điện đã về tận rừng sâu hẻo lánh.
Ruộng không còn bờ
Nước đang leo núi.
Nhà năm tầng, bảy tầng
Mang cửa kính mặt trời sáng chói.

Cuộc sống bạn đang lên
Xe ủi đất bật tung núi đá
Rừng ô-liu. tiếp rừng nho xanh lá.
Những nhà máy tự động, tối tân.
Những đồng lầy xưa, nay ngập lúa mì vàng
Người phụ nữ đã rứt khăn chàng mạng
Đeo súng theo cách mạng.
Lưới búa chim giơ cao
Tự hào
Lao động như nam giới.

Những cụ già đi giày mới
Vui vì cỏ nước tự do
Đất nước tuy còn cảnh giác bóng thù
Cánh Đại bàng bay vút.
Việt- nam chúng tôi ở rất xa.
Nhung rất gần bạn hôm nay
Trong chiến hào từng trong nước trái vả.
Bạn gửi sang từng cốc ngọt đầy.

Cám ơn tình bạn thân yêu
Dưới bóng ô-liu
Tôi đã nghe mối tình đoàn kết
Từ Scăng-đéc-béc
Chúng ta tay nắm chặt tay
Là quân thù phải chết!
   An-ba-ni, những ngày tháng 5-1970
                 Anh-Thơ


HAI NHĂM NĂM...

Gần năm mươi năm, tôi vẫn tuổi hai nhăm.
Bởi chỉ mới hai nhăm năm là tôi được sống.
Có nước mà yêu: núi cao, biển rộng.
Có Đảng, Bác Hồ chỉ lối đi lên
Ôi! cái ngày ta được nắm chính quyền
Bụng đói lả, mà cuộc đời no hạnh phúc.

Anh yêu ơi! khi đọc trang thơ em nóng rực
Có lửa căm thù, có tiếng tình yêu.
Hai nhăm năm, không phải giấc chiêm bao.
Ta dựng lại đời ta, trên hai lần giặc phá.
Nhà Hạnh-phúc vẫn khói cơm thơm tỏa.

Con gái ta lại cắp sách tới trường xưa.
Những dòng sông, cầu lại nối đôi bờ.
Xe rầm rập ngày đêm vận chuyển 
Dồn sức của, sức người ra trên tuyến
Trận cuối cùng, ta biết sức riêng ta.

Tôi muốn nói cùng các bạn bè xa
Từ người con gái anh hùng Xô-viết.
Trên giường bệnh ôm trái tim da diết
Bút giấy bên mình, lo viết cho Việt-nam
Đến người con trắng giải băng tang.
Thương nhớ Bác từ phương trời Thụy điền
Hẳn hôm nay các chị càng xao xuyến.
Với những lời vẫn trang sách sáng ngời.
Đã góp phần chiến thắng cho quê tôi.

Hai nhăm năm Bác kính yêu ơi!
Nói sao hết lời chúng con ơn nhớ Bác.
Hôm nay bao bốt đồn đổ sập
Bao quân thù ngã gục ở miền Nam.

Những đứa con tuổi chẵn hai nhăm
Càng lớn mạnh với sức vươn cường tráng
Ở nơi xa, hẳn Bác vui, vì chúng con đang chiến thắng.
       Hà Nội –Thái Bình
Những ngày đầu tháng 8-1970

            Anh-Thơ


Ở VƯỜN THỰC VẬT CLOUJ
TÔI MUỐN NÓI...

Tôi đến Clouj
Những ngọn dồi bao quanh thành phố
Những nhà thờ cò
Thấp chuông nhọn hoắt trời xanh.
Từng từng cửa nắng long lanh...
Những mắt người xinh gặp gỡ.
Tất cả... và tất cả...:
Đều làm tôi yêu mến thân tình.

Nhưng làm cho lòng tôi xao xuyến.
                                         bâng khuâng..
Trong nhà kính, rèm xanh mát  rợi.
Tôi đến đây, lại gặp những cỏ hoa miền nhiệt đới :
Khóm chuối la đà, bên gốc cọ, lá tròn xoe.

Hoa súng tím hồng, dưới những bóng tre.
Cả những lẵng phong lan lá rủ.
Cám ơn bàn tay ai nâng niu, gìn giữ.
Sự sống tươi hồng từ đất nước tôi xa.

Tàu chuối kia, hẳn các bạn không ngờ
Từng đã ngụy trang ụ pháo.
Và lá cọ che giao thông hào chiến dấu.
Hoa súng này, cô gái dân quân
Đã tặng thương binh với cả trái tim mình.

Tôi muốn nôi với những cặp tình nhân tha thiết
Những nghệ sĩ dâng cả cuộc đời cho cái đẹp.
Những mẹ già dắt cháu tung tăng :
Các bạn đang đi trong bóng mát hòa bình.
Hẳn các bạn phải căm thù lũ giặc.
Nếu chúng đến đây làm cỏ hoa tan nát!

Các bạn ơi, giặc Mỹ đem bom hóa học, lân-tinh
Hoa cỏ trước tôi tuy cô hy sinh
Nhưng chúng không giết được sắc hồng.
                                            xanh thắm.
Và khóm chuối, bóng tre, vẫn đến đây với cả
                                        màu tươi hoa súng.
Clouj, 20-4-1970
    Anh-Thơ




Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dòng thơ miền bắc - 15.12.2010 20:08:44


NGUYỄN-ĐỨC-GIỚI

           1919-1950
Quê Hoằng-Hóa, Thanh-Hóa, làm thợ điện, tham
gia tổ chức bí mật ở HN, bị bắt, vượt ngục, tham gia

Hội văn hóa cứu quốc, bị máy bay Pháp oanh tạc,

mất mới 31 tuổi.

 
LÊN CẤM SƠN
 
Tôi lên vùng Cấm Sơn
Đi tìm thăm bộ đội
Đây bốn bề núi, núi
Heo hút vắng tăm người
Đèo cao rồi lũng hẹp
Dăm túp lều chơi vơi
Bộ đội đóng ở đó
Cách xa hẳn cuộc đời
Ngày ngày ngóng đợi tin xuôi ngược
Chỉ thấy mây xanh bát ngát trời
Họ đã từng dự trận
Từ Tiên Yên, Đầm Hà
Về An Châu, Biển Động
Thấm thoắt hai năm qua
 
Cuộc đời gió bụi pha xương máu
Đói rét bao lần xé thịt da
Khuôn mặt đã lên màu tật bệnh
Đâu còn tươi nữa những ngày hoa!
Lòng tôi xao xuyến tình thương xót
Muốn viết bài thơ thấm lệ nhoà
Tặng những anh tôi từng rỏ máu
Đem thân xơ xác giữ sơn hà
 
Quây quần bên nến trám
Chúng tôi ngồi hàn huyên
Bao giờ vinh nhục
Bao nhiêu phút ưu phiền
Của đời người chiến sĩ
Đêm thâu kể triền miên:
"Có khi gạo hết tiền vơi
Ổi xanh hái xuống đành xơi no lòng
Có đêm gió bấc lạnh lùng
Áo quần rách nát lá dùng che thân
Khó khăn đau ốm muôn phần
Lấy đâu đủ thuốc mặc dần bệnh nguôi
Có phen chạy giặc tơi bời
Rừng sâu đói rét, không người hỏi han".
 
Đến nay họ về đây
Giữ vững miền núi Cấm
Thổ phỉ quét xong rồi
Đồn Tây xa chục dặm
Kiến thiết lại bản xóm
Bị giặc đốt tan tành
Trên nền tro đen kịt
Vàng hoe màu mái gianh
Họ đi tìm dân chúng
Lẩn trốn trong rừng xanh
Về làm ăn cày cấy
Tiếp tục đời yên lành
 
Tiếng hát lừng vang trong gió núi
Ngày vàng ngân giọng trẻ ê a
Ở đây bản vắng rừng u tối
Bộ đội mang gieo ánh chói loà
Ở đây đường ngập bùn phân cũ
Xẻng cuốc khua vang điệu dựng nhà
Ở đây những mặt buồn như đất
Bộ đội cười lên tươi như hoa.
 
Họ vẫn gầy, vẫn ốm
Mắt vẫn lõm, da vàng
Áo chăn chưa đủ ấm
Ăn uống vẫn tồi tàn
Nhưng vẫn vui vẫn nhộn
Pháo cười luôn nổ ran
 
Lòng tôi bừng thức tình trai mạnh
Muốn viết bài thơ nhộn tiếng cười
Tặng những anh tôi trong lửa đạn
Qua nghìn gian khổ vẫn vui tươi.
~Nguyễn-Đức-Giới~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 15.12.2010 20:10:16 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dòng thơ miền bắc - 18.12.2010 06:25:54


HUY-CẬN

1919-2005

Ân-Phú, Hưng-Sơn, Hà-Tĩnh. Kỹ sư canh nông
Thứ trưởng, Bộ trưởng Văn hóa, Văn nghệ


GỬI BẠN NGƯỜI NGHỆ TĨNH

Ai ơi, cà xứ Nghệ
Càng mặn lại càng giòn
Nước chè xanh xứ Nghệ
Càng chát lại càng ngon

Khoai lang vàng xứ Nghệ
Càng nhai kĩ càng bùi
Cam Xã Đoài xứ Nghệ
Càng chín lại càng tươi.

Ông đồ xưa xứ Nghệ
Càng dạy, chữ càng nhiều
Tính tình người xứ Nghệ
Càng biết lại càng yêu.

Ai đi vô nơi đây
Xin dừng chân xứ Nghệ
Ai đi ra nơi này
Xin dừng chân xứ Nghệ

Nghe câu vè ví dặm
Càng lắng lại càng sâu
Như sông La chảy chậm
Đọng bao thuở vui sầu

Ăn, xứ Nghệ ăn đặm
Đã nói, nói hết lòng
Đất này bền nghĩa bạn
Đất này tình thuỷ chung.

Đất này mẹ dạy con
Yêu anh hùng nghĩa khí
Giữ lòng đỏ như son
Nuôi thù sâu tựa bể.

Đất này đất Xô-viết
Đảng mở hội cờ hồng
Tự tuổi vàng đá biết
Mặn mãi tình công nông.

Tình xứ Nghệ không mau
Nhưng bén rồi sâu lắng
Quen xứ Nghệ quen lâu
Càng tình sâu nghĩa nặng.

Ôi xứ Nghệ, xứ Nghệ
Đất cổ nước non nhà
Đã trăm, nghìn thế hệ
Vẫn ưa nhút, ưa cà.

Dân thời đại Bác Hồ
Sống xã hội chủ nghĩa
Vẫn dáng dấp ông đồ
Hay chữ lại hay nghĩa

Ôi tâm hồn xứ Nghệ
Trong hồn Việt Nam ta
Có gì tự ông cha
Rất xưa mà rất trẻ
Giống như Bác của ta
Một con người xứ Nghệ
Một con người xứ Nghệ.
~Huy-Cận~
Nghệ Tĩnh, 10-1967


TỔ QUỐC
(Tâm sự yêu nước của kiều bào tại Pháp)
Yêu mến tặng kiều bào ở nước ngoài

Việt Nam ơi! Mẹ nghìn đời yêu dấu
Tên thiêng liêng đau đáu lòng con
Mẹ có biết tâm hồn con chảy máu
Thuở đau thương, mẹ nuốit tủi, nuôi hờn.

Tổ quốc ơi! Bởi vì sao mỗi bước
Chân con đi xa mẹ nhói bàn chân
Cũng ánh sáng, cũng trời mây, gió nước
Xa quê hương sao nhạt nhẽo muôn phần!

Ai có biết làm sao nói được
Lòng tha hương trằn trọc nhớ quê hương
Mắt có ngủ mà hồn ta vẫn thức
Tình non sông da diết máu xương.

Đêm khuya vắng, bỗng nhớ mùi hương bưởi
Ướt ánh trăng thơm suốt mấy canh gà
Cả tuổi nhỏ lại trở về mát rượi
Bóng dừa xanh, hàng tre mượt quê ta.

Những đứa con phải xa rời Tổ Quốc
Mẹ biết chăng, chỉ sống nửa tâm hồn
Một nửa khác gửi với theo sóng nước
Về quê cha đặng giữ thắm lòng son.

Việt Nam ơi! Nuôi đàn con những thuở
Mẹ cắn răng không cho nước mắt trào
Mẹ lấy sức vùng lên trong biển lửa
Mẹ hôm nay sừng sững giữa trời cao.

Vẫn xa nước lòng nay sao rạng rỡ
Lửa quê hương soi ấm tấm lòng con
Bao con mẹ bấy nhiêu hòn máu đỏ
Mẹ lại cho con vẹn cả tâm hồn.

Anh em ơi, bởi vì sao mỗi bước
Chân ta đi ngang dọc khắp trời tây
Không lủi thủi, chẳng ngỡ ngàng như trước
Cái thuở cha, anh lê gót đoạ đày.

Mẹ Việt Nam, mẹ nghìn đời yêu dấu
Ôi quê hương, máu của máu lòng ta
Lòng yêu nước bốn nghìn năm nung nấu
Chia đều con như sữa mẹ cơm cha.

Xa đất nước, vẫn cành xuân phơi phới
Quyết đơm hoa góp mùa rộ quê nhà.
Ánh dương sớm chân trời ta chiếu rọi
Theo đàn con vững gót nẻo đường xa.
~Huy-Cận~
Tuludơ (Pháp), 1969

XEM TRIỂN LÃM TƯỢNG
GỖ NHÂN GIAN

Vui Tết nhớ cha ông
Ta đi xem tượng gỗ
Vàng son sơn có bong
Nét đời còn lồ lộ

Chạm con cua con cá
Chạm đánh vật đua thuyền
Nỗi lòng bác thợ cả
Trăm nhát đục đầy duyên.

Tac voi trận, voi cày
Tạc voi lồng, nổi gió
Nhẹ như mây voi bay:
Vui phập phồng thớ gỗ.

Cảnh nhà ai đánh ghen
Tóc đuôi gà kéo cắt
Nỗi hai vợ khổ chưa!
Gỗ cười hay cáu gắt?

Ai treo buồm giằng cột
Ai lên mái dựng nhà
Đất bằng hay sóng nước
Bền vững thế ông cha.

Chị em tắm hồ sen
Tránh thằng quan dâm đãng
Một chị tay hái liền
Lá sen làm lá chắn.

Quan quân phường cứop bóc
Lợn béo bắt đi rồi
Trẻ sợ không dám khóc
Mẹ than thở kêu trời....

Bà ơi, thúng gánh con
Bán con hay chạy giặc?
Vai dạn lại lưng còng
Gỗ cười ra nứoc mắt.

Cuộc sống cay, đắng, chát
Cũng xen lẫn ngày vui
Khi hội làng múa hát
Gỗ bừng muôn thớ tươi

Đời trăm nỗi bất bình
Cũng lắm điều thú vị
Cất cao tận mái đình*
Trên đầu bọn hào lí

Cha ông xuân đánh Mỹ
Cũng về họp ba gian**
Cuộc đời thêm gân guốc
Nhát đục khắc thời gian.
~Huy-Cận~
---------------------
* Phần lớn những tượng này đều chạm trên
những xà của các đình, cao sát mái.
** Các tượng dân gian được trưng bày trong
ba phòng lớn của Viện Bảo tàng Mĩ thuật.



VỀ THĂM QUÊ XÃ ĐỨC ÂN

Về thăm quê xã Đức Ân
Êm êm đất cát bước lần bãi sông.
Ngô non lá mượt màu nhung
Mía ken san sát, khoai vồng rậm dây.
Trống hồi trường học cấp hai
Đàn em tan lớp như bầy bướm non.
Qua từng ngõ gặp bà con
Biết sau trận lụt hãy còn khó khăn
Nhưng bao công việc làm ăn
Cũng lo thu xếp trong năm cả rồi.
Quen tên nhưng chửa biết người
Các em xúm xít nô cười hỏi han
Cụ già mời bát lạc rang
Lâu năm gặp mặt bàn sang truyện Kiều
Ra về sau núi trăng treo.
Ai còn buộc đó chiều diều tuổi thơ...
~Huy-Cận~
Hà Tĩnh, 1971


Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dòng thơ miền bắc - 20.12.2010 07:22:46


QUANG-DŨNG

   
1921- 1989
Tức Bùi-Đình-Diệm, quê Phượng Trì, Đan-Phượng,
Sơn Tây, vào bộ đội, chiến đấu khắp các chiến trường
bắc bộ, vừa cầm bút vừa cầm súng, từng là đại đội
trưởng trung đoàn Thủ Đô trong kháng chiến chống
Pháp. Sau 1954 sống như là vô danh ở miền Bắc.


ĐÔI MẮT NGƯỜI SƠN TÂY

Em ở thành Sơn chạy giặc về
Tôi từ chinh chiến cũng ra đi
Cách biệt bao ngày quê Bất-Bạt
Chiều xanh không thấy bóng Ba-Vì

Vầng trán em mang trời quê hương
Mắt em dìu dịu buồn Tây phương
Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm
Em đã bao ngày em nhớ thương?

Mẹ tôi em có gặp đâu không
Những xác già nua ngập cánh đồng
Tôi nhớ một thằng em bé nhỏ
Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông

Từ độ thu về hoang bóng giặc
Điêu tàn ôi lại nối điêu tàn
Đất đá ong khô, nhiều suối lệ
Em đã bao ngày lệ chứa chan?

Đôi mắt người Sơn Tây
U ẩn chiều lưu lạc
Buồn viễn xứ không khuây

Tôi gửi niềm nhớ thương
Em mang giùm tôi nhé
Ngày trở lại quê hương
Khúc hoan ca rớm lệ

Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
Về núi Sài Sơn ngó lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn qua phủ Quốc
Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng

Bao giờ tôi gặp em lần nữa
Chắc đã thanh bình rộn tiếng ca
Đã hết sắc mùa chinh chiến cũ
Còn có bao giờ em nhớ ta.
~Quang-Dũng~


ĐÔI BỜ

Thương nhớ ơ hờ, thương nhớ ai?
Sông xa từng lớp lớp mưa dài
Mắt kia em có sầu cô quạnh
Khi chớm heo về một sớm mai
Rét mướt mùa sau chừng sắp ngự
Bên này em có nhớ bên kia
Giăng giăng mưa bụi qua phòng tuyến
Quạnh vắng chiều sông lạnh bến tề
Khói thuốc xanh dòng khơi lối xưa
Đêm đêm sông Đáy lạnh đôi bờ
Thoáng hiện em về trong đáy cốc
Nói cười như chuyện một đêm mơ
Xa quá rồi em người mỗi ngả
Bên này đất nước nhớ thương nhau
Em đi áo mỏng buông hờn tủi
Dòng lệ thơ ngây có dạt dào?
~Quang-Dũng~


TÂY TIẾN*

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.

Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu ngươi.

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

Doanh trại bừng lên hội đuốc, hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ.
Khèn lên man điệu nàng e ấp,
Nhạc về Viên-Chăn xây hồn thơ.

Người đi Châu-Mộc chiều sương ấy,
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ.
Có nhớ dáng người trên độc mộc,
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà-ội dáng kiều thơm.

Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Áo bào thay chiếu anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Tây Tiến người đi không hẹn ước,
Đường lên thăm thẳm một chia phôi.
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy,
Hồn về Sầm-Nứa chẳng về xuôi.
~Quang-Dũng~


CỐ QUẬN

Trăng sáng sân vờn đôi bóng cau
Ngồi đây mà gửi nhớ phương nào
Gió mát long lanh vầng Bắc Đẩu
Tiết hè ếch nhái rộn bờ ao.

Ngồi đây năm năm miền ly hương
Quê người đôi gót mỏi tha phương
Có những chiều trăng tròn đỉnh núi
Nhà ai chày gạo giã đêm sương

Tịch mịch sầu vơi bèo râm ran
Chuối vườn khuya lọt ánh trăng tàn
Người ơi quê cũ đèn hoe ngọn
Tóc bạc trông chừng cổng héo hon.

Ngõ trúc quanh quanh sâu bóng lá
Trăng vàng rơi rắc nẻo nào xưa
Ngõ cũ không mong người trở lại
Mà mùi hoa mộc vẫn thơm đưa.

Em ơi, Em ơi đêm dần vơi
Trông về phương ấy ngóng trông người
Trăng có soi qua đầu tóc bạc
Nẻo chừng Cố Quận nhớ thương ời!

Trăng sáng năm năm mùa lại mùa
Hạ này vơi lại nhớ thu xưa
Người đi người đi đường quạnh quạnh
Ngày tháng thương vay kẻ đợi chờ.
~Quang-Dũng~


LÍNH RÂU RIA

Khuya khoắt bờ sông vắng
Lửa hồng quán tản cư
Lính mấy chàng vất vả
Tìm sống một đêm thơ
Một anh gọi cà-phê
Một người kêu thuốc lá
Một anh nhìn sau trước
ỀChị ơi ly rượu nhỏỂ
Rượu nhỏ một ly thôi
Đời lính đã kham rồi
Một ly cho đỏ mặt
Cho lên hương cuộc đời
ỀChị ơi! Cháu ngủ đâu?Ể
Thế rồi bế con chị
Anh lim dim cúi đầu
Cô bé cười chúm chím
Mắt non nhìn như sao
Má hồng như trái mận
Mùa đang độ ngọt ngào
Bàn tay như rễ cây
Bộ râu như bàn chải
Anh hôn con người ta
Anh ôm ghì bé mãi
Cô bé năm tháng trời
Anh tuổi vừa ba mươi
Con anh giờ nơi đâu?
Anh mỉm cười rười rượi
Khi anh về đã xa
Chị dọn hàng đi ngủ
Chép miệng trong hơi chăn
Chị buồn chi không rõ
Khuya khoắt bờ sông vắng
Tiếng súng rền xa xa
Bước chân người rạo rực
Tiếng hát chìm đêm xa
~Quang-Dũng~
Kênh đào, cuối thu đông 1948


QUÁN BÊN ĐƯỜNG

Tôi khách qua đường trưa nắng gắt
Nghỉ nhờ đây quán lệch bốn tường xiêu
Giàn mướp nghèo không hứa hẹn bao nhiêu
Mùa gạo đắt, đường xa trưa khách vắng
Em đắp chăn dày, tóc em trĩu nặng
Tôi mồ hôi ra ngực áo chan chanẨ
Đường tản cư bao suối lạ sương ngàn
Em mê sảng sốt hồng lên má đỏ
Em có một mình nhà hoang vắng quá
Mảnh chăn đào em đắp có hoa thêu
Hàng của em chai lọ xác xơ nghèo
Tôi nhìn lại mảnh quần xưa đã vá
Tôi chợt nhớ chúng ta không nhà cửa
Em tản cư, tôi là khách mười phương
Biệt cố đô cùng nhau từ một thuở
Lòng rưng rưng thương nhau quá dọc đường
Tiền nước trả em rồi trưa nắng gắt
Đường xa xa mờ mờ núi và mây
Hồn khách vương vài qua sợi tóc
Tôi thương mà em đâu có hay...
~Quang-Dũng~


MƯA

Chợt mưa phùn gió lạnh
Càng lạnh cành hoa mơ
Ưất trắng ngàn cánh rụng
Tiếng quân hò thôn xa
Súng cầm nhịp thu đông
Chiều chiều tin chiến sự
Loa vang trên cành đa...

Càng mưa phùn gió lạnh
Càng lạnh cành hoa mơ!
Càng yêu màu trấn thủ
Mờ bạc qua màn mưa
Ôi những bàn chân nhỏ
Từng đau khổ bao giờ!
Ưường tản cư lầy lội
Run run leo cầu tre
Trời mưa giăng màn xám
Mầu thê lương lại về
Hoa mai dầu nở trắng
Người người còn ra đi
.......

Mai mùa xuân xanh tốt
Mùa xuân chẳng lỗi thề...
Trời mưa giăng màn xám
Bởi vì đâu thê lương?
Chăn đơn chiếc khôn ấm,
Già càng đau nhớ thương...
Bao nhiêu vành khăn trắng
Ưằng đẵng tin sa trường...

Trời mưa giăng nước mắt
Sông Tề bến quạnh hiu,
Tin dù qua lén lút
Người sao hết đăm chiêu?
Ngày xuân dầu hứa hẹn
Cỏ hoa biết gì đâu!
Mấy mùa xuân vắng lạnh
Mấy mùa đông tiêu điều
.......

Càng mưa phùn gió lạnh
Càng lạnh cánh hoa mơ
Càng xa xôi nhớ lắm
Những con đường chạy dài,
Những nẻo đường phục kíck
Từ biên giới xa xôi...
Lau cao mờ đợt gió
Cỏ hoang mồ những ai ...
Lả tả trong mưa lạnh
Âm thầm hoa viếng người
Quê hương chừng xa lắc
Thăm mồ mấy cành mai...

Nay mai lại mùa xuân
Từ đầu rừng cuối bể
Qua trùng dương mấy lần
Chúng ta dù cách biệt
Cùng chung một mùa xuân
Cùng chung một thế kỷ
Cùng đau khổ vô ngần...

Quê anh không khăn trắng
Nhưng chắc có mầu tang
Những người con đi vắng
Những mẹ già nhớ thương...

Trời mưa giăng màn xám
Bởi vì đâu thê lương
Hoa cỏ dâng màu trắng
Ười còn đang chiến trường

Trời mưa giăng nước mắt
Mầu thê lương lại về
Hoa mai dầu nở trắng
Người người còn ra đi

...Mai mùa xuân xanh tốt
Mùa xuân chẳng lỗi thề.
~Quang-Dũng~


CHABBI CHABBI

Ngày đầu tiên hoà bình trở lại
Trên đường về quê hương
Tôi đã dừng chân
Bên một nghĩa địa dài
Nơi yên nghỉ
Cả một tiểu đoàn lính giặc
Mồ cao mả thấp ngổn ngang
Trắng loáng những cây chữ thập
Có cái đã xây
Thành nhà mồ vững chắc
Vẽ quốc kỳ nước Pháp
Và đôi dòng chữ tiếc thương
Những nghĩa địa này
Tôi đã gặp trên đường

Rải rác bên những boongke nham nhở
Những bốt đồn hình thùquái gỡ
Nhưng cả quan và lính
Đã không ở trong để mà cố thủ
Dắt nhau nằm hết ra đây
Trên bãi cỏ tìm bình yên bảo đảm
Mỗi người đều để lại tên mình
Như những câu sấm truyền định mệnh
Khắc vào mộ chí đôi dòng
Có cả ngày đi - chức tước - quê hương

Trời mưa thu, mới hôm qua
Ai đã thấy cái buồn nghĩa địa
Khi cỏ nằm trong nước ngập mồ hoang
Cái tiếng ễnh ương
Làm khúc nhạc lữ hành
Nhoi nhóp kêu trên bãi mộ
Lại thêm đầu cỏ may
Phất phơ rung trước gió
Có một nhành cúc dại
Cánh vàng gió lung lay
Trước tấm bia đen
Ghi mấy dòng chữ trắng
"Chabbi Chabbi
Trong tiểu đoàn Âu Phi
Đã hy sinh cho nước Pháp"

Chabbi Chabbi
Tên như một bài thơ rất đẹp
Bằng thứ tiếng nước nào
Chabbi đã nằm dưới mộ
Còn bao giờ về tới quê hương...
Chabbi Chabbi
Tuổi còn xanh, mắt còn tha thiết
Có phải quê ở bờ sông Nin
Hay là nơi trăng sáng
Trên bãi cát dài bóng cây "bao báp"
Trai gái nhảy bamboula
Theo nhịp trống gợi hồn sa mạc

Chabbi Chabbi
Có bao giờ qua biển
Để về với đất trời bên ấy
Hai mươi tuổi trẻ nằm đây
Lòng đất Việt Nam hiền hậu

Thôi những ai bên kia chân trời
Đừng dành góc nhà nhỏ thân yêu
Đừng mong bóng trang phục quân nhân
Hiện về quê cũ
Mang những tấm hình
Những thành phố viễn chinh
Về làm quà cho em nhỏ, họ hàng
Hỡi mẹ nghèo ơi!
Thôi cũng đừng mong
Món tiền lương của Chabbi dành dụm
Đổi bằng xương máu nằm đây

Cho đến bây giờ
Mỗi khi qua một vùng nghĩa địa
Quân thù gửi đất chúng ta
Tôi vẫn hình dung
Bóng dáng Chabbi
Lúc buông súng trả mình về cho đất
Mà không là đất quê anh

Chabbi có bao giờ hiểu nữa
Những người bạn thương anh
Dầu chỉ gặp tên người
Khắc trên mộ chí
Nằm trên đất nước của mình
~Quang-Dũng~
Yên Vì, 1954

    
MÂY ĐẦU Ô

Mây ở đầu ô mây lang thang
Ôi! Chật làm sao
Góc phố phường
Mây ở đầu ô
Hẹn những chân trời xa lạ
Qua một ngọn cột đèn
Chiều tối lại bừng con mắt đỏ
Cành bàng mái cũ khẳng khiu
Vườn đẹp khi mùa rụng lá
Cành bàng lại mở tàn xanh
Mùa hạ về theo chim sẻ
Nhưng ta có gì
Tự thấy những ngày không tẻ ?
Mây trắng lang thang
Gió đuổi bời bời phố chật
Những lớp người hai mươi tuổi
Ca nước đập vỏ bình toong
Khăn mặt thấm mồ hôi
Bụi đỏ
Bụi vàng
Trung du bóng cọ
Nắng đốt màu da họ
Là nắng triền cao
Tay sém ngấn mặt trời
Là trời công trường xa tít tắp
Áo ngực xanh yếm biển
Bay bay dãi mũ Hải Quân
Những gã hai mươi mùa xuân
Từ đâu thổi vào thành phố ?...
Mây mùa thu
Lọt qua trời hẹp ngõ
Lướt nhanh qua mái ngói ba tầng
Tiếng dương cầm...
Ta theo tiếng nhạc
Bay khỏi mái nhà
Ta mê xanh thẳm
Như cánh chim trời
Thấy
Mình còn sức trẻ
Ơi ! Những bạn tôi
Vào lớp tuổi năm mươi
Mây ở đầu ô
Trời xanh lộng thế...
~Quang-Dũng~
     1970
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.01.2011 07:25:48 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dòng thơ miền bắc - 21.12.2010 18:40:00


HOÀNG-LỘC
   
1920-1949

Quê Châu-Khê, Ninh-Giang, Hải Dương,
Vào bộ đội, làm phóng viên mặt trận, mất
mới 29 tuồi vì bệnh lao.



VIẾNG BẠN 

Hôm qua còn theo anh
Đi ra đường quốc lộ
Hôm nay đã chặt cành
Đắp cho người dưới mộ

Đứa nào bắn anh đó
Súng nào nhằm trúng anh
Khôn thiêng xin chỉ mặt
Gọi tên nó ra anh!

Tên nó là đế quốc
Tên nó là thực dân
Nó là thằng thổ phỉ
Hay là đứa Việt gian?

Khóc anh không nước mắt
Mà lòng đau như thắt
Gọi anh chửa thành lời
Mà hàm răng dính chặt.

Ở đây không gỗ ván
Vùi anh trong tấm chăn.
Của đồng bào Cửa Ngăn
Tặng tôi ngày phân tán.

Mai mốt bên cửa rừng
Anh có nghe súng nổ
Là chúng tôi đang cố
Tiêu diệt kẻ thù chung.
~Hoàng-Lộc~



HOÀNG-CẦM 
    
1922-2010

Tức Bùi-Tằng-Việt, quê Lạc-Thổ (Song-Hồ),
Thuận-Thành, Bắc-Ninh, gia đình nhà Nho, làm
thuốc Đông y, làm thơ từ 8 tuổi, vào quân đội,
hoạt động trong lãnh vực văn hóa , tham gia nhóm
Nhân văn Giai phẩm, viết kịch, thơ, văn và dịch. 


                  
ĐÊM LIÊN HOAN

Anh ơi! Đêm nay đầu người nhấp nhô như gợn sóng
Đang trào lên sức sống muôn đời
Niềm vui bát ngát trăng soi
Mảnh trăng úa máu chân trời Việt Nam
Đêm Liên Hoan ! Trời ơi, đêm Liên Hoan!
Đầu người nhấp nhô như sóng bể ngang tàng
Ta muốn thét như vỡ toang lồng ngực
Vì say sưa tình thân thiết Việt Chính Đoàn
- Anh từ phương nào lại?
- Tôi từ đất dấy lên
Anh có nghe ngọn thủy triều Đông Hải
Đang hờn ghen cùng thúc máu triền miên
Thúc máu không tên dội tràn bốn nẻo
Cỏ không gầy, cây không già, hoa không héo
Ngàn năm đất nước vững bền
- Anh từ phương nào lại?
- Tôi từ đất dấy lên
Chúng ta cùng một mẹ hiền
Lúa thơm bầu sữa bông mềm áo tơ
Chúng ta chung một mối thù
Gươm tung uất hận đạn vù đắng cay
- Anh đi từ đâu đến đó?
- Tôi đi giết giặc đây
Đêm nay gặp bạn cùng nhau chén
Máu giặc đang nồng ta phải say
Đây ruộng đồng Trung Nam
Kia núi rừng Việt Bắc
Cỏ cây đang căm hờn như vùng lên đuổi giặc
Tôi với anh gặp nhau trong ngày hội Liên Hoan
Tay bắt tay, mừng trên giải đất Việt-Nam
- Gia đình anh ở đâu?
- Mẹ hiền tôi đã khuất
Nhưng trước khi nhắm mắt
Mẹ mừng cho đàn con
Máu tôi mai sẽ chảy
Trôi phăng hết kiếp ngựa trâu
Xương tôi, tôi bắt nên cầu
Cho đàn con bước lên lầu Tự Do!
- Anh giết bao nhiêu giặc mà mắt anh long lanh?
        Mời anh lên rừng xanh
Hỏi những cành lá biếc
Rừng âm u đang tưng bừng mở tiệc
Bằng thịt, xương và máu của quân thù
- Trong tiểu đội anh, những ai còn ai mất?
- Không, không ai còn ai mất
Ai cũng chết mà thôi!
Kẻ trước người sau lao vào giặc
Giữ vững ngàn thu một giống nòi
Dù cho thịt nát xương phơi
Cái còn vĩnh viễn là người Việt Nam!
Đêm Liên Hoan, trời ôi, đêm Liên Hoan!
Đầu người nhấp nhô như sóng vỗ ngang tàng
Ta muốn thét cho vỡ toang lồng ngực
Vì say sưa tình thắm thiết Việt Chính Đoàn
Người bạn mến thương ơi!
Nắm chặt lấy tay tôi
- Kìa, sao anh lại khóc?
- Tôi quá mừng anh đó thôi!
Lần thứ nhất trên đời
Tôi quay cuồng nhảy múa
Giặc kia ơi! Không bao giờ còn nữa
Ta đếm từng ngày
Ta trông từng phút, ta đợi từng giây
Lửa hờn nghi ngút chờ người đêm nay
Chờ người đến đây
Ta băm, ta giết!
Giặc kia phải chết
Núi đồng phơi thây
Anh đi hỏi núi
Anh về hỏi cây
Anh hỏi biển rộng
Anh hỏi sông dài
Anh hỏi ngô non
Anh hỏi lúa bé
Anh đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ
Rằng ta là Việt Chính Đoàn
Đêm nay say tiệc liên hoan
Ngày mai xé xác moi gan quân thù!
Tiệc liên hoan lại tưng bừng hiển hiện
Giữa đoàn quân bách chiến
Đổ về thủ đô như nước vỡ bờ!
Từ mũi Cà Mau cho đến biên giới Lạng
Từ nắng sớm Sơn La cho đến mưa chiều Vạn Tượng!
Muôn đội đội hùng binh phất phới cờ bay
Đoàn quân bách chiến đi suốt đêm ngày
- Mẹ ơi! Con đã về đây!
Chị hiền từ tốn đưa tay đón mừng...
...Anh ơi! Anh tỉnh lại
Nước mắt tôi rưng rưng
Hình như tôi đã mơ màng
Phải rồi, anh Việt Chính Đoàn
Đêm nay say tiệc Liên Hoan
Ngày mai xé xác moi gan quân thù
Bao giờ thu lại tới thu
Liên Hoan bừng nở bốn mùa Non Sông!
~Hoàng-Cầm~


BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG*

Em ơi! Buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lỳ
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ

Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay

Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm đồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn

Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu?

Ai về bên kia sông Đuống
Cho ta gửi tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thoáng
mộng bình yên
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thai
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu
Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em xột xoạt quần nâu
Bây giờ đi đâu? Về đâu?

Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng
Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen
Bãi Tràm chỉ người dăng tơ nghẽn lối
Những nàng dệt sợi
Đi bán lụa mầu
Những người thợ nhuộm
Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Bây giờ đi đâu? Về đâu?

Bên kia sông Đuống
Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy dầm hoen sương sớm
Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giầy đinh đạp gẫy quán gầy teo
Xì xồ cướp bóc
Tan phiên chợ nghèo
Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vết máu loang chiều mùa đông

Chưa bán được một đồng
Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong
Bước cao thấp trên bờ tre hun hút
Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu?
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ

Bên kia sông Đuống
Ta có đàn con thơ
Ngày tranh nhau một bát cháo ngô
Đêm líu díu chui gầm giường tránh đạn
Lấy mẹt quây tròn
Tưởng làm tổ ấm
Trong giấc thơ ngây tiếng súng dồn tựa sấm
Ú ớ cơn mê
Thon thót giật mình
Bóng giặc dày vò những nét môi xinh

Đã có đất này chép tội
Chúng ta không biết nguôi hờn

Đêm buông xuống dòng sông Đuống
- Con là ai? - Con ở đâu về?

Hé một cánh liếp
- Con vào đây bốn phía tường che
Lửa đèn leo lét soi tình mẹ
Khuôn mặt bừng lên như dựng giăng
Ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể
Những chuyện muôn đời không nói năng
Đêm đi sâu quá lòng sông Đuống
Bộ đội bên sông đã trở về
Con bắt đầu xuất kích
Trại giặc bắt đầu run trong sương
Dao loé giữa chợ
Gậy lùa cuối thôn
Lúa chín vàng hoe giặc mất hồn
Ăn không ngon
Ngủ không yên
Đứng không vững
Chúng mày phát điên
Quay cuồng như xéo trên đống lửa
Mà cánh đồng ta còn chan chứa
Bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân
Gió đưa tiếng hát về gần
Thợ cấy đánh giặc dân quân cày bừa
Tiếng bà ru cháu buổi trưa
Chang chang nắng hạ võng đưa rầu rầu
"ầu ơ... cha con chết trận từ lâu
Con càng khôn lớn càng sâu mối thù"
Tiếng em cắt cỏ hôm xưa
Hiu hiu gió rét mịt mù mưa bay
"Thân ta hoen ố vì mày
Hờn ta cùng với đất này dài lâu..."

Em ơi! Đừng hát nữa! Lòng anh đau
Mẹ ơi! Đừng khóc nữa! Dạ con sầu
Cánh đồng im phăng phắc
Để con đi giết giặc
Lấy máu nó rửa thù này
Lấy súng nó cầm chắc tay
Mỗi đêm một lần mở hội
Trong lòng con chim múa hoa cười
Vì nắng sắp lên rồi
Chân trời đã tỏ
Sông Đuống cuồn cuộn trôi
Để nó cuốn phăng ra bể
Bao nhiêu đồn giặc tơi bời
Bao nhiêu nước mắt
Bao nhiêu mồ hôi
Bao nhiêu bóng tối
Bao nhiêu nỗi đời

Bao giờ về bên kia sông Đuống
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trảy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.
~Hoàng-Cầm~
Việt Bắc, tháng 4, 1948

             
ĐÊM THỔ
         
Cúi lạy mẹ con trở về Kinh Bắc
Chiều xưa giẻ quạt voi lồng
Thân cau cụt vẫy đuôi mèo trắng mốc
Chuồn chuồn khiêng nắng sang sông
Đê mười tám khúc Văn Giang
Chuông Bách môn đổ xô gò má
Mây thành thổi lửa
Nẻo Đông Triều khép mở gió kỳ lân
Chớp rạch dáng tiên vén xiêm xõa ngủ
Thoắt chìm
Gấu đẩy đá Thiên thai
Đi đâu

Tràng mày xếch vòng cung
bắn nát chiều mai ráng đỏ
Châu chấu ma vờn cổ yếm xây

Không gặp người quen
hờ
ngõ cũ

Đêm xuống
làm lầu hoang
Trò chuyện gì ai đâu
Mồ tháng giêng mưa sũng
Đằm ca dao sáo diều chiều lịm tím lưng trâu

Bưởi Nga My sao Mẹ bắt đèo bòng
~Hoàng-Cầm~


EM BÉ LÊN SÁU TUỔI

Em bé lên sáu tuổi
Lủi thủi tìm miếng ăn.
Bố: cường hào nợ máu
Đã trả trước nông dân.
Mẹ bỏ con lay lắt
Đi tuột vào trong Nam.
Từ khi lọt lòng mẹ
Ăn sữa, ngủ dường êm,
Áo hoa lót áo mềm,
Nào biết mình sung sướng.
Ngọn sóng đang trào lên
Ai nghĩ thân bèo bọt;
Như ngườì với con người
Vẫn sẵn lòng thương xót.
Có cụ già đói khổ
Lập cập đi mò cua:
Bố mẹ nó không còn,
Bỗng thương tình côi cút;
Cụ nhường cho miếng cơm.
Chân tay như cái que,
Bụng phình lại ngẳng cổ,
Mắt tròn đỏ hoe hoe;
Đói nhìn đời bỡ ngỡ:
‘‘Lạy bà xin bát cháo
Cháu miếng cơm thầy ơi!’’

Có một chị cán bộ
Đang phát động thôn ngoài,
Chợt nhìn ra phía ngõ
Nghe tiếng kêu lạc loài
Chị rùng mình nhớ lại
Năm đói kém từ lâu
Chị mới năm tuổi đầu
Liếm lá khoai giữa chợ.
Chạy vùng ra phía ngõ
Dắt em bé vào nhà,
Nắm cơm dành chiều qua
Bẻ cho em một nửa.
Chị bần cố nông cốt cán
Ứa nước mắt quay đi:
- ‘‘Nó là con địa chủ
Bé bỏng đã biết gì;
Hôm cho em bát cháo,
Chị ba ngày hỏi truy.’’
Chị đội bỗng lùi lại
Nhìn đứa bé mồ côi
Cố tìm vết thù địch.
Chỉ thấy một con người.
Em bé đã ăn no
Nằm lăn ra đất ngủ;
Chị nghĩ: ‘‘sau lấy chồng
Sinh con bồng bú sữa.’’

Chị phải đình công tác
Vì câu chuyện trên kia.
Buồng tối lạnh đêm khuya
Thắp đèn lên kiểm thảo.
Do cái lưỡi không xương
Nên nhiều đường lắt lẻo;
Do con mắt bé téo
Chẳng nhìn xa chân trời;
Do bộ óc trây lười
Chỉ một mầu sắt rỉ,
Đã lâu năm cũ kỹ
Trên trang sách im lìm;
Do mấy con người máy
Đầy gân, thiếu trái tim!

Nào ‘’liên quan phản động’’
‘‘Mất cảnh giác lập trường’’
Mấy đêm khóc ròng rã
Ngọn đèn soi tù mù,
Lòng vặn lòng câu hỏi:
‘‘Sao thương con kẻ thù?
Giá ghét được đứa bé
Lòng thảnh thơi biết bao nhiêu!’’
~Hoàng-Cầm~


LÁ DIÊU BÔNG

Váy Đình-Bảng buông chùng cửa võng
Chị thẫn thờ đi tìm
Đồng chiều
Cuống rãy
Chị bảo: Đứa nào tìm được lá Diêu Bông  
Từ nay ta gọi là chồng
Hai ngày em đi tìm thấy lá
Chị chau mày:
Đâu phải Lá Diêu Bông
Mùa đông sau em tìm thấy lá
Chị lắc đầu
Trông nắng vãn bên sông.
Ngày cưới chị
Em tìm thấy lá
Chị cười xe chỉ ấm trôn kim.
Chị ba con
Em tìm thấy lá
Xòe tay phủ mặt chị không nhìn.
Từ thuở ấy
Em cầm chiếc lá
Đi đầu non cuối bể.
Gió quê vi vút gọi
Diêu Bông hời
Ới Diêu Bông!
~Hoàng-Cầm~    
      1993


<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.12.2010 19:22:56 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dòng thơ miền bắc - 23.12.2010 06:54:12


VU-CAO

    1922

Tức Vũ-Hữu-Chỉnh, sinh tại Vụ-Bản,
Nam Định, làm thơ, viết truyện ngắn.


NÚI ĐÔI

Bảy năm về trước em mười bảy
Anh mới đôi mươi, trẻ nhất làng
Xuân Dục Đoài, Đông hai cánh lúa
Bữa thì anh tới, bữa anh sang.

Lối ta đi giữa hai sườn núi
Đôi ngọn nên làng gọi là Núi Đôi
Em vẫn đùa anh: Sao khéo thế
Núi chồng núi vợ đứng song đôi.

Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới
Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau
Mới ngỏ lời thôi đành lỗi hẹn
Đâu ngờ từ đó mất tin nhau.

Anh vào bộ đội lên đông bắc
Chiến đấu quên mình năm lại năm
Mỗi bận dân công về lại hỏi
Ai người Xuân Dục, Núi Đôi chăng?

Anh nghĩ quê ta giặc chiếm rồi
Trăm nghìn căm uất bao giờ nguôi
Mỗi tin súng nổ vùng đai địch
Sương trắng người đi lại nhớ người.

Đồng đội có nhau thường nhắc nhở
Trung du làng nước vẫn chờ trông
Núi Đôi bốt dựng kề ba xóm
Em vẫn đi về những bến sông?

Náo nức bao nhiêu ngày trở lại
Lệnh trên ngừng bắn, anh về xuôi
Hành quân qua tắt đường sang huyện
Anh ghé thăm nhà, thăm Núi Đôi.

Mới đến đầu ao, tin sét đánh
Giặc giết em rồi, dưới gốc thông
Giữa đêm bộ đội vây đồn Thứa
Em sống trung thành, chết thuỷ chung,

Anh ngước nhìn lên hai dốc núi
Hàng thông, bờ cỏ, con đường quen
Nắng lụi bỗng đưng mờ bóng khói
Núi vẫn đôi mà anh mất em!

Dân chợ Phù Linh ai cũng bảo
Em còn trẻ lắm, nhất làng trong
Mấy năm cô ấy làm du kích
Không hiểu vì sao chẳng lấy chồng.

Từ núi qua thôn đường nghẽn lối
Xuân Dục Đoài, Đông cỏ ngút đầy
Sân biến thành ao, nhà đổ chái
Ngổn ngang bờ bụi cánh dơi bay.

Cha mẹ dìu nhau về nhận đất
Tóc bạc thương từ mỗi gốc cau
Nứa gianh nửa mái lều che tạm
Sương nắng khuây dần chuyện xót đau.

Anh nghe có tiếng người qua chợ:
Ta gắng mùa sau lúa sẽ nhiều
Ruộng thấm mồ hôi từng nhát cuốc
Làng ta rồi đẹp biết bao nhiêu!

Nhưng núi còn kia anh vẫn nhớ
Oán thù còn đó, anh còn đây
Ở đây cô gái làng Xuân Dục
Đã chết vì dân giữa đất này?

Ai viết tên em thành liệt sĩ
Bên những hàng bia trắng giữa đồng
Nhớ nhau anh gọi: em, đồng chí
Một tấm lòng trong vạn tấm lòng.

Anh đi bộ đội, sao trên mũ
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường
Em sẽ là hoa trên đỉnh núi
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm.
~Vũ-Cao~
   1956
Nhà xuất bản Giáo dục, 2005   




NGUYỄN-ĐÌNH-THI

Sinh tại Luang Prabang, Lào, quê Vũ-Thạch,
(phố Bà Triệu, q. Hoàn Kiếm, HN), năm 1931
về nước học ở Hải-Phòng, Hà-Nội, đại biểu
tham dự Quốc dân Đại hội Tân-Trào, Ủy viên
Tiểu ban dự thảo Hiến pháp, Tổng thư ký Hội
Nhà Văn VN, làm thơ, viết tiểu thuyết, truyện
ngắn, tiểu luận, kịch.


ĐẤT NƯỚC*

Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy

Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha!

Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm ngát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về!

Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.

Từ những năm đau thương chiến đấu
Đã ngời lên nét mặt quê hương
Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu
Đã bật lên những tiếng căm hờn

Bát cơm chan đầy nước mắt
Bay còn giằng khỏi miệng ta
Thằng giặc Tây, thằng chúa đất
Đứa đè cổ, đứa lột da...

Xiềng xích chúng bay không khóa được
Trời đầy chim và đất đầy hoa
Súng đạn chúng bay không bắn được
Lòng dân ta yêu nước thương nhà!

Khói nhà máy cuộn trong sương núi
Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng
Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng

Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội
Mỗi bước đường mỗi bước hy sinh
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh.

Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa!
~Nguyễn-Đình-Thi~


LÁ ĐỎ         

Gặp em trên cao lộng gió
Rừng lạ ào ào lá đỏ
Em đứng bên đường như quê hương
Vai ác bạc quàng súng trường.
Ðoàn quân vẫn đi vội vã
Bụi Trường Sơn nhòa trời lửa.
Chào em, em gái tiền phương
Hẹn gặp nhau nhé giữa Sài Gòn.
Em vẫy cười đôi mắt trong.
~Nguyễn- Đình-Thi~
Trường Sơn, 12/1974


VIỆT NAM QUÊ  HƯƠNG TA 

Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều
Quê hương biết mấy thân yêu
Bao nhiêu đời đã chịu nhiều thương đau
Mặt người vất vả in sâu
Gái trai cũng một áo nâu nhuộm bùn
Ðất nghèo nuôi những anh hùng
Chìm trong máu lửa lại vùng đứng lên
Ðạp quân thù xuống đất đen
Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa.
Việt Nam đất nắng chan hòa
Hoa thơm quả ngọt bốn mùa trời xanh
Mắt đen cô gái long lanh
Yêu ai yêu trọn tấm tình thủy chung
Ðất trăm nghề của trăm vùng
Khách phương xa tới lạ lùng tìm xem
Tay người như có phép tiên
Trên tre lá cũng dệt nghìn bài thơ
Nước bâng khuâng những bến đò
Ðêm đêm còn vọng câu hò Trương Chi
Ðói nghèo nên phải chia ly
Xót xa lòng kẻ rời quê lên đường
Ta đi ta nhớ núi rừng
Ta đi ta nhớ dòng sông vỗ bờ
Nhớ đồng ruộng, nhớ khoai ngô
Bát cơm rau muống quả cà giòn tan…
~Nguyễn- Đình-Thi~
(Trích đoạn trường ca Bài thơ Hắc Hải)



Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dòng thơ miền bắc - 27.12.2010 05:27:12



TỬ-PHÁC
 1923-1982

Tức Nguyễn-Anh-Chấn, tên thật Nguyễn-Anh-Kim,
là nhà văn, nhà tơ, nhạc sĩ, tác giả bài "Tiếng hát quay tơ"
làm năm 1948, một trong những nhân vật trụ cốt của
phong trào Nhân Văn Giai Phẩm.


"Tiếng Hát Quay Tơ" đã được hoan nghênh nhiệt liệt:

Chiều không hương buông mây lắng xuống đồng quê
Trời mênh mông tím ngát, thoi thóp pha hồng
Hàng nước mắt, lá rơi bên thềm, vun vút bóng cau
Khắp trời bát ngát khói sương
Thì thào lá biếc có thương lá vàng
Tre ngà đưa võng heo may hòa đàn...
......
Ngập ngừng xe quay rung rinh in bóng dáng người
Aàm ầm... gió rét... mưa bay...
... ... ...
Chàng ra đi...
Em về xa vắng thầm lo cho cánh chim bay
Chiều nghe vang lá xiết em run
Ngỡ tiếng ngỡ tiếng bước ai về
Quay quay thương nhớ quyến vào tơ
Quay quay se áo rét dâng chàng...
......
Quay quay thương nhớ quyến vào tơ
Quay quay chăn ấm quấn thân chàng
Mỗi một đường tơ là mỗi dây tình
Trong lòng em dâng người hiên ngang
Nhịp xe quay vang trong tiếng gió đìu hiu
Mình tơ êm óng chuốt như nắng hanh vàng
Mùa lá trút sắp qua nhớ chàng quay gấp bánh xe
Tơ vàng chắn lối gió đông chọ..đêm không lạnh lùng
...... Gửi cùng áo ấm
Muôn vàn nhớ nhung...
(Tử Phác, 1948)

Khi nói về bài "Tiếng Hát Quay Tơ" nhà văn kiêm thi sĩ Hoàng Cầm đã viết: "Cả đoàn Việt Bắc đều thích hát cả ngày ca khúc Quay Tơ, có anh còn nhảy "valse"theo nhạc Quay Tơ nữa, nghe thật sang trọng hào hoa cuốn hút thắm thiết... "

Tử Phác nổi tiếng từ đó, nhưng cũng từ đó Tử Phác không còn thường sáng tác thơ nhạc vì được điều động vào cương vị tổ chức điều khiển làm Trưởng Phòng Văn Nghệ Quân Khu 3.

Năm 1950 lên Trung Ương giữ chức Trưởng Phòng Văn Nghệ thuộc Tổng Cục Chính Trị và năm 1952 làm Tổng Phụ Trách Văn Công Quân Đội cùng với Chính Hữu, Trần Dần và Hoàng Cầm trong Ban Chỉ Huy Tổng Đoàn.

Khi Trung Quốc tung ra phong trào "Trăm Hoa Đua Nở" Việt Nam cũng hùa theo và một số văn nghệ sĩ cùng nhau làm tờ báo "Nhân Dân Giai Phẩm" vào những năm 1957-1958.

Tử Phác là Thư Ký Toà Soạn của báo Nhân Dân Giai Phẩm.

Khi chính quyền dẹp Nhân Dân Giai Phẩm những người có liên quan tới Nhân Dân Giai Phẩm đều bị trừng phạt và đối xử tàn tệ. Riêng người bị trừng trị tàn nhẫn nhất là Tử Phác.

Tử Phác bị hạ tầng công tác mất hết quân hàm không còn được quân đội trả lương và cấp dưỡng, phải đi cải tạo ở Hòa Bình trong hai năm 1959-1960. Nếu không có gia đình giúp đỡ thì Tử Phác đã bị bỏ chết đói ở Hòa Bình. Gia đình gửi cho Tử Phác một chiếc xe đạp để Tử Phác làm nghề "thồ đồ" kiếm sống. Sức khoẻ của Tử Phác từ đó cứ sút giảm dần liên miên hết bệnh nầy sang bệnh khác.

Khi được thả về Tử Phác không tìm được một việc làm nào, các báo và nhà xuất bản bị cấm không được đăng và trả tiền nhuận bút những bài văn thơ nhạc của Tử Phác. Con cái không cho đi học ở những cấp cao.

Trong 30 năm, Tử Phác như tù giam lỏng không ra khỏi nhà. Các người lại thăm, có người Tử Phác tiếp đón niềm nở, có người Tử Phác không chào hỏi để mặc ngồi đó hàng giờ không trả lời một câu, ngồi chán rồi đi, Tử Phác không để ý tới. Các con hỏi tại sao thế? Tử Phác đáp:
"Những thằng đó đến xem bố nói gì để viết báo cáo".

Không có sinh kế, vợ con nheo nhóc, sống vất vưởng nhờ tiền trợ giúp của gia đình nội ngoại ở Pháp, đồ đạc trong nhà bán dần dần đến cả chiếc dương cầm, cái hương án...

"Tôi biết đi đâu biết về đâu
Tuy không reo ác lại hái sầu
Đất lửa khi nao là đất thánh
Cát bụi bơ vơ giữa địa cầu
Nay bạn mai thù không hiểu nổi
Chuyện đời nhân nghĩa lộn đầu đuôi
Tôi muốn hỏi trên đường vạn nẻo
Đâu đất lành dung lũ chúng tôi.
Tôi hỏi bình minh tôi hỏi mây
Hỏi sóng biển hỏi trời giông bão
Hỏi tình yêu hay hỏi niềm đau
Đâu đất lành dung lũ chúng tôi."
(Tử Phác, 12-1979)

Chính vì đâu đất lành dung lũ chúng tôi? Nên khi phong trào vượt biên lan ra ngoài Bắc, Tử Phác dành để vợ con vượt biên chỉ có người con đã lập gia đình ở lại trông nom Tử Phác.

Nghịch cảnh nên thơ cũng nghịch thường. Xa quê hương ai ai chẳng nhớ thương nhưng Tử Phác đã viết: "Vui sướng reo mừng. Biệt ly nào không buồn?" Nhưng Tử Phác lại viết: Vui Biệt Ly, trong những câu thơ sau:

Đất đuổi tôi ra biển
Biển quẳng tôi về đâu
Chỉ nghe trong sóng gió
Thảm thiết tiếng hải âu
......
Ai xa quê hương mà nghe náo nức
Ai biệt chồng con vui sướng reo mừng
......
Ai đã chắc biệt ly là khổ
Ai cầm bằng đến được bờ vui
Vui ly biệt mà buồn thân phận
......
(Tử Phác, 12-1979)

Nỗi niềm lo lắng cho những người vượt biên Tử Phác gói ghém trong những câu thơ:......

Xưa tiễn Kinh Kha có sá gì
Sá gì tiếng sáo Cao Tiệm Ly
Sầu thế kỷ muôn lần hơn chuyện cổ
Máu nhuộm hồng triệu mắt héo phân kỳ
Tìm em nơi nao trên biển Đông
Thuyền con như lá rớt giữa giòng
Lòng biển tối đen lòng đời hiểm độc
Em lênh đênh theo định mệnh hãi hùng
Tìm em nơi nao trên biển Đông
Đâu Macao, Tân Đảo, đâu Hồng Kông
Một trời một nước bờ xa khuất
Tìm em nơi nao trên biển Đông
(Tử Phác, 12-1979)

Và may thay......

Những người vượt biên tới Hồng Kông và sau được định cư ở Pháp vì có thân nhân bảo lãnh. Nhớ vợ thương con, có đêm Tử Phác nằm mê thấy vợ về thăm trong vườn hồng tặng một tấm hình còn Tử Phác tặng vợ một bài thơ:


Cố nhân mặc áo hoa
Lẫn muôn hoa vườn hồng
Mắt lão nhìn chưa ra
Đã mờ đi lệ nhòa
Ba mươi năm chiến tranh
Không lạc nhau bom đạn
Thế mà nay về già
Lại lạc nhau trong vườn hoa
Bà tặng tôi tấm hình
Rẽ hoa tìm cố nhân
Tôi tặng bà vần thơ
Vẫn rành rành tôi đó
Tuổi già tưởng suôi sẻ
Ai ngờ vẫn phong ba
Bão táp trong vườn hoa
Vẫn ương ương vậy mà
(Tử Phác, 29-7-1980)

Đám tang của Tử Phác có công an chìm nổi canh chừng cẩn mật vì có nhiều người tới tham dự. Trong bài văn tế của Trần Dần có những câu như sau:

Ngày xửa, ngày xưa... có một chàng trai...
trong ầm ầm... gió rét... mưa bay...
động tâm vì những người chiến trường áo mong manh...
liều lấy cả tuổi xanh mình... tim thật mình...
quay tơ... may áo...
ai ai đều nhớ...
mỗi một đường tơ là mỗi dây tình...
dâng người hiên ngang...
thế là khúc tâm ca thành áo ấm trữ tình
cho hơn một thế hệ những người áo mong manh chiến trường
những người hồi ấy hiên ngang kháng chiến...

Sự tích chàng trai chỉ cần có thế:


Tử Phác... Le Fier... Từ đầu...
Rồi khổ ải... khổ ải... 30...
Hơn 30 năm sau... anh nằm đây...
Vẫn anh... Tử Phác... Le Fier...
Anh đã sống- đã đau-anh đã thác
Yêu nghệ thuật-yêu thơ-yêu nhạc
Một đời anh thác chỉ vì... yêu
......
Anh để lại cho chúng tôi một thái độ
Chúng tôi ở lại... anh đi...
Âm dương không cách trở...
(Trần Dần, 12-05-1982)

Mười năm sau, tờ báo Âm Nhạc số 4 năm 1992 ở Hà Nội mới đăng bốn trang nói về Tử Phác kèm theo ảnh.

Và mười sáu năm sau, tờ báo Lao Động số 11 năm 1998 mới đăng ảnh của Tử Phác và một bài ngắn coi Tử Phác như một "nghệ sĩ có tầm vóc văn hóa sâu sắc thuộc số người sớm nhất mở đường "sân khấu hóa" cho một điệu múa dân gian là điệu múa sạp."

Hai chục năm qua thoáng tới ngày
Kỵ linh thanh khí có về đây?
Gia phong nhang khói tình vương vấn
Sứ điệp ngàn thu mộng đắng cay.
Non nước tiếc thương tài mệnh bạc
Nhạc thi âm hưởng lụy trần ai
Bến xưa chìm bóng trăng đồng nội
Sương phủ mù đêm lệ ứa đầy...
Vân Uyên, 12/5/02


<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.01.2011 07:50:25 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dòng thơ miền bắc - 27.12.2010 05:37:39


TRẦN-
DẦN
    1926-1997


Tức Trần-Văn-Dần, sinh tại Nam-Định,
làm thơ, viết tiểu thuyết và phiên dịch.
Ông viết ‘‘Biểu hiệu cao nhất của trách
nhiệm người viết là thái độ tôn trọng,
trung thành với sự thực…Tôn trọng,
trung thành với sự thực vừa là trách
nhiệm, vừa là lập trường, vừa là phương
pháp làm việc của người viết…Nếu như
sự thực ngược lại chính sách, chỉ thị, thì
phải viết sư thực chứ không phải là bóp
gò sự thật vào chính sách!’’


 


NHẤT ĐỊNH THẮNG

Tôi ở phố Sinh Từ:
Hai người
Một gian nhà chật.
Rất yêu nhau, sao cuộc sống không vui?
Tổ Quốc hôm nay
    tuy gọi sống Hòa Bình
Nhưng mới chỉ là năm thứ nhất
Chúng ta còn muôn việc rối tinh…
Chúng ta
Ngày làm việc, đêm thì lo đẫy giấc
Vợ con đau thì rối ruột thuốc men
Khi mảng vui – khi chợt nhớ – chợt quên
Trăm cái bận hàng ngày nhay nhắt
Chúng ta vẫn làm ăn chiu chắt
Ta biết đâu bên Mỹ Miếc tít mù
Chúng còn đương bày kế hại đời ta?
Người ta nói thằng ngô con đĩ
Ở miền Nam có tên giặc họ Ngô
Tài của hắn là: Khuyển Ưng của Mỹ
Bửu bối gớm ghê là: một lưỡi đao cùn
Hắn nhay mãi cố xẻ đôi Tổ Quốc

Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc
Đất hôm nay tầm tã mưa phùn
Bỗng nhói ngang lưng
    máu rỏ xuống bùn
Lưng tôi có tên nào chém trộm?
A! Cái lưỡi đao cùn!
Không đứt được – mà đau!
Chúng định chém tôi làm hai mảnh
Ơi cả nước! Nếu mà lưng tê lạnh
Hãy nhìn xem: Có phải vết đao?
Không đứt được mà đau!
Lưng Tổ Quốc ngày hôm nay rớm máu.

2.
Tôi đã sống rã rời cân não
Quãng thời gian nhưng nhức chuyện đi Nam
Những cơn mưa rơi mãi tối sầm
Họ lếch thếch ôm nhau đi từng mảng
Tôi đã trở nên người ôm giận
Tôi đem thân làm ụ cản đường đi
- Đứng lại!
- Đi đâu?
- Làm gì?
Họ kêu những thiếu tiền thiếu gạo
Thiếu Cha, thiếu Chúa, thiếu vân vân
Có cả anh nam chị nữ kêu buồn
- Ở đây
    khát gió, thèm mây…
         Ô hay!
Trời của chúng ta gặp ngày mây rủ
Nhưng trời ta sao bỏ nó mà đi?
Sau đám mây kia
    là cả miền Nam
Sao nỡ tưởng là non bồng của Mỹ!
Tiệm nhảy, rượu nồng, gái tơ
Tha hồ những tự do tự diếc
Tưởng như ở đấy cứ chìa tay
     là có đô-la
Có trâu ruộng, – Có ngày đêm hoan hỷ!
Mặc dầu sao nỡ đổi trời ta?
Tôi muốn khóc giữ từng em bé
- Bỏ tôi ư? – Từng vạt áo – Gót chân
Tôi muốn kêu lên – những tiếng cộc cằn…
- Không! Hãy ở lại
Mảnh đất ta hôm nay dù tối
Cũng còn hơn
    non bồng Mỹ
     triệu lần…
Mảnh đất dễ mà quên?
     Hỡi bạn đi Nam
Thiếu gì ư? Sao chẳng nói thực thà?
Chỉ là:
- thiếu quả tim, bộ óc!
Những lời nói sắp thành nói cục
Nhưng bỗng dưng tôi chỉ khóc mà thôi
Tôi nức nở giữa trời mưa bão.
Họ vẫn ra đi
    - Nhưng sao bước rã rời?
Sao họ khóc?
Họ có gì thất vọng?
Đất níu chân đi,
    gió cản áo bay về.
Xa đất Bắc tưởng như rời cõi sống
Tưởng như đây là phút cuối cùng
Giăng giối lại: – Mỗi lùm cây – hốc đá
         – Mỗi căn vườn – gốc vả – cây sung
Không nói được, chỉ còn nức nở
Trắng con ngươi nhìn lại đất trời
Nhìn cơn nắng lụi, nhìn hạt mưa sa
Nhìn con đường cũ, nhìn ngôi sao mờ
Ôi đất ấy – quên làm sao được?
Quên sao nơi ấm lạnh ngọt bùi
Hôm nay đây mưa gió giập vùi
- Mưa đổ mãi lên người xa đất Bắc…
Ai dẫn họ đi?
     Ai?
     Dẫn đi đâu? – mà họ khóc mãi thôi
Trời vẫn quật muôn vàn tảng gió
Bắc Nam ơi, đứt ruột chia đôi
Tôi cúi xuống – Quỳ xin mưa bão
Chớ đổ thêm lên đầu họ -
     Khổ nhiều rồi!
Họ xấu số – Chớ hành thêm họ nữa
Vườn ruộng hoang sơ – Cửa nhà vắng chủ
Miền Nam muôn dặm, non nước buồn thương
Họ đã đi nhưng trút lại tâm hồn
Ơi đất Bắc! Hãy giữ gìn cho họ

3.
Tôi ở phố Sinh Từ
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót

Tôi bước đi
Không thấy phố
     không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
    trên màu cờ đỏ.

Gặp em trong mưa
Em đi tìm việc
Mỗi ngày đi lại cúi đầu về
- Anh ạ.
    Họ vẫn bảo chờ…
Tôi không gặng hỏi, nói gì ư?
Trời mưa, trời mưa
Ba tháng rồi
Em đợi
Sống bằng tương lai
Ngày và đêm như lũ trẻ mồ côi
Lũ lượt dắt nhau đi buồn bã…
Em đi
trong mưa
     cúi đầu
         nghiêng vai
Người con gái mới mười chín tuổi
Em ơi!
Em có biết đâu
Ta khổ thế này
Vì sao?
Em biết đâu
Mỹ Miếc, Ngô Nghê gì?
Khổ thân em mưa nắng đi về
         lủi thủi
Bóng chúng
     đè lên
     số phận
        từng người
Em cúi đầu đi, mưa rơi

Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
    không thấy phố
        không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
     trên màu cờ đỏ

4.
Đất nước khó khăn này
    sao không thấm được vào Thơ?

Những tủ kính tôi dừng chân dán mũi
Các thứ hàng ế ẩm đợi người mua
Nhưng mà sách – hình như khá chạy
À quyển kia của bạn này – bạn ấy
Quyển của tôi tư lự, nét đăm đăm
Nó đang mơ: – nếu thêm cả miền Nam
Số độc giả sẽ tăng dăm bảy triệu
Tôi đã biến thành người định kiến
Tôi ước ao tất cả mọi người ta
Đòi Thống Nhất phải đòi từ việc nhỏ
- từ cái ăn
     cái ngủ
     chuyện riêng tư
- từ suy nghĩ
     nựng con
         và tán vợ
Trời mưa mãi lây rây đường phố
Về Bắc Nam tôi chưa viết chút nào
Tôi vẫn quyết Thơ phải khua bão gió
Nhưng hôm nay
    tôi bỗng cúi đầu
Thơ nó đi đâu?
Sao những vần thơ
Chúng không chuyển, không xoay trời đất
Sao chúng không chắp được cả cõi bờ?
Non nước sụt sùi mưa
Tôi muốn bỏ thơ
Làm việc khác
Nhưng hôm nay tôi mê mải giữa trời mưa
Chút tài mọn
     tôi làm thơ chính trị

Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
     không thấy phố
        không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
     trên màu cờ đỏ

5.
Em ơi! – ta ở phố Sinh Từ
Em đương có chuyện gì vui hử
À cái tin trên báo – Ừ em ạ
Hôm nay bọn Mỹ Miếc, lũ Ngô Nghê
Chúng đang phải giậm chân đấm ngực!
Vượt qua đầu chúng nó,
     mọi thứ hàng
Những tấn gạo vẫn vượt đi
Những tấn thư, tài liệu
Vẫn xéo qua đầu chúng, giới ranh gì?
Ý muốn dân ta
    là lực sĩ khổng lồ
Đè cổ chúng mà xóa nhòa giới tuyến
Dân ta muốn trời kia cũng chuyển
Nhưng
Trời mưa to lụt cả gian nhà
Em tất tả che mưa cản gió
Con chó Mực nghe mưa là rú
Tiếng nó lâu nay như khản em à
Thương nó nhỉ – nó gầy – lông xấu quá
Nó thiếu ăn – Hay là giết đi ư?
Nó đỡ khổ – Cả em đỡ khổ.
Em thương nó – Ừ thôi chuyện đó
Nhưng hôm nay anh mới nghĩ ra
Anh đã biến thành người định kiến
Mực ơi!
đừng oán chủ, Mực à!
Mày không hiểu những gần xa Mỹ Diệm
Chúng ở đâu – mà lại núp bên ta
Chính chúng cướp cả cơm của khuyển

Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
    không thấy phố
        không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa.
     trên màu cờ đỏ

6.
Hôm nay đài tiếng nói Việt Nam
Lại có chuyện tên Ngô Đình Diệm
Hắn sai con em là lũ du côn
Đi ném đá nhà Ủy ban Quốc tế.
Hắn bảo hắn Giơ-ne không ký
Hắn bịt tai, không biết chuyện hiệp thương!
Ô hay! Cái lưỡi uốn càn
Cả thế giới vả vào mõm hắn
Hắn giậm chân khoa lưỡi đao cùn:
- Mặc kệ! Giết ta chết hẳn
        thì thôi
Ta chẳng giả miền Nam!
Chứ
giả miền Nam cho nước Việt Nam
Thì ta chết
     – thầy ta cũng chết
Hắn thét lên ộc máu mũi máu mồm
Hắn lồng lộn, ôm miền Nam mà cắn!
Thịt dân ta từng mảng nát bươm
Nhưng không!
Hôm nay
Cả thành phố Sài Gòn
Đóng cửa!
Không họp chợ!
Không ra đường!
Những mảng thịt
Những đọi máu đào
đang rầm rập kéo nhau
     đi ngoài phố
Hôm nay
    hàng triệu mối thù sâu
    tới đập cửa lão già Ngô đòi mạng
Vung đao cùn chém phải quãng trời không!
Hắn đi ngủ,
     muôn tiếng kêu xúm lại quanh giường
Hắn ngồi ăn
    tiếng khóc nổi trong cơm
Hắn nhắm mắt
    tiếng kêu vào giấc ngủ
Hắn rong chơi
    tiếng rủa bước theo chân
Hắn hội họp
    tiếng kêu ngồi cạnh
giơ bàn tay đòi mạng nghều ngào
Tên tội nhân kia!
Lịch sử vạch tên mày!
Tên đứa tay sai!
Chẳng có lâu đâu!
Hắn sẽ sống như tên mắc tội tử tù
Óc điên dại
- chân lê vòng xích
Trốn đi đâu?
Đất trời sâu
đương vẩy máu
     đuổi theo chân hắn.
Hắn run sợ – Quỳ xin đã muộn!
Dù đêm khuya, bóng tối đặc ngầu ngầu
Máu vẫn đỏ
    trúng đầu trúng mặt
Tên tội nhân kia!
Lịch sử vang tên mày!

7.
Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc
Tai bỗng nghe những tiếng thì thầm
Tiếng người nói xen tiếng đời ầm ã.
- Chúng phá hiệp thương
- Liệu có hiệp thương?
- Liệu có tổng hay chẳng tổng?
- Liệu đúng kỳ? Hay chậm vài năm?
Những câu hỏi đi giữa đời lỏng chỏng
Ôi! Xưa nay Người vẫn thiếu tin Người
Người vẫn thường kinh hoảng trước Tương Lai
Người quên mất Mỹ là sư tử giấy
Người vẫn vội – Người chưa kiên nhẫn mấy
Gan người ta chưa phải đúng công nông
Người chửa có dạ lim trí sắt
Người mở to đôi mắt mà trông!
A tiếng kèn vang
    quân đội anh hùng
Biển súng
rừng lê
    bạt ngàn con mắt
Quân ta đi tập trận về qua
Bóng cờ bay đỏ phố đỏ nhà…
Lá cờ ấy là cờ bách thắng
Đoàn quân kia muôn trận chẳng sờn gan
Bao tháng năm đói rét nhọc nhằn
Từ đất dấy lên
là quân vô sản
Mỗi bước đi lại một bước trưởng thành
Thắng được Chiến Tranh
Giữ được Hòa Bình
Giặc cũ chết – lại lo giặc mới
Đoàn quân ấy – kẻ thù sợ hãi
Chưa bao giờ làm mất bụng dân yêu
Dân ta ơi! Chiêm nghiệm đã nhiều
Ai có LÝ? và ai có LỰC?
Tôi biết rõ đoàn quân sung sức ấy
Biết nhân dân
Biết Tổ Quốc Việt Nam này
Những con người từ ức triệu năm nay
Không biết nhục
Không biết thua
    Không biết sợ!
Hôm nay
Cả nước chỉ có một lời hô:
THỐNG NHẤT
Chúng ta tin khẩu hiệu ta đòi
- Giả miền Nam!
     Tôi ngửa mặt lên trời
Kêu một tiếng – bỗng máu trời rơi xuống
Vài ba tia máu đỏ rơi vào tôi
Dân ta ơi!
Những tiếng ta hô
có sức đâm trời chảy máu.
Không địch nào cưỡng nổi ý ta
Chúng ta đi – như quả đất khổng lồ
Hiền hậu lắm – nhưng mà quả quyết…

8.
Hôm nay
Những vần thơ tôi viết
Đã giống lưỡi lê: đâm
Giống viên đạn: xé
Giống bão mưa: gào
Giống tình yêu: thắm
Tôi thường tin ở cuộc đấu tranh đây
Cả nước đã bầu tôi toàn phiếu
Tôi là người vô địch của lòng tin.
Sao bỗng đêm nay,
    tôi cúi mặt trước đèn?
Gian nhà vắng – chuột đêm nó rúc.
Biết bao nhiêu lo lắng hiện hình ra.
Hừ! Chúng đã biến thành tảng đá
    chặn đường ta!
Em ơi thế ra
Người tin tưởng nhất như anh
    vẫn có những phút giây ngờ vực
Ai có LÝ? Và ai có LỰC?
Ai người tin? Ai kẻ ngã lòng tin?
Em ơi
Cuộc đấu tranh đây
cả nước
     cả hoàn cầu
Cả mỗi người đêm ngủ vẫn lo âu
Có lẫn máu, có xót thương, lao lực.
Anh gạch xóa trang thơ hằn nét mực
Bỗng mắt anh nhìn thấy! Lạ lùng thay!
Tảng đá chặn đường này!
Muôn triệu con người
Muôn triệu bàn tay
Bật cả máu ẩy đá lăn xuống vực!
Anh đã nghĩ: không có đường nào khác
Đem ngã lòng ra
    mà thống nhất Bắc Nam ư?
Không không!
Đem sức gân ra!
Em ơi em!
Cái này đỏ lắm, gọi là TIM
Anh dành cho cuộc đấu tranh giành THỐNG NHẤT

9.
Hôm nay
Trời đã thôi mưa
Thôi gió
Nắng lên
đỏ phố
    đỏ nhà
    đỏ mọi buồng tim lá phổi
Em ơi đếm thử bao nhiêu ngày mưa!
Bây giờ
Em khuân đồ đạc ra phơi
Em nhé đừng quên
Em khuân tất cả tim gan chúng mình
    phơi nắng hết.
Em nhìn
cao tít
    trời xanh
Dưới phố bao nhiêu cờ đỏ!
Hôm nay em đã có việc làm
Lương ít – Sống còn khó khăn!
Cũng là may…
Chính phủ muôn lo nghìn lắng
Thực có tài đuổi bão xua mưa
Không thì còn khổ
Em treo cờ đỏ đầu nhà
Lá cờ trừ ma
Xua được bóng đen chúng nó!
Tiếng gì ầm phố em à?
A! Những người đi Nam trở ra
Phải rồi! Quên sao đất Bắc!
- Khổ! Trong ấy loạn
Phải đi đồn điền cao su
Chúng tôi bị lừa
Bà con muốn ra không được.
Đồng bào vui muốn khóc
Ô này lạ chưa?
- Mây ngoài này không đen
Mây đen vào trong ấy cả
Đúng rồi! Đó là công sức của nhân dân ta
        lùa mây đuổi gió
Những vết thương kháng chiến đỏ lòm
Đã mím miệng, lên da lên thịt.
Tôi bỗng nhói ở nơi lồng ngực
Em ơi
Chúng đốt phố Ga-li-ê-ni
    và nhiều phố khác.
Anh đã sống ở Sài gòn thuở trước
Cảnh miền Nam thành một góc tim anh
Chúng đốt tận đâu
    mà lửa xém tim mình
Tim nó bị thui đen một nửa
Từ dạo ấy
    mà em chẳng rõ.
- Em hãy đỡ cho anh khỏi ngã
Đứng đây
Một lúc!
Cờ bay
    đỏ phố
    đỏ nhà
Màu cờ kia là thang thuốc chữa cho anh.
Em có thấy bay trên trời xanh
Hàng triệu tâm hồn?
Họ đã bỏ miền Nam
    ra Bắc!
Chúng đem súng mà ngăn
Đem dây mà trói!
Giữ thân người
    không giữ được nhân tâm
Người Nam gửi tâm hồn ra Bắc cả.
Bọn Mỹ Diệm ôm đầu sợ hãi
Đổ lên chúng nó
Mây đen
    lửa loạn
    bão thù
Ai thắng ai thua?
Ai có LÝ và ai có LỰC?

Em ơi
Hôm nay
    trời xanh
    xanh đúc
Nắng lên
    đỏ phố
    đỏ cờ
Cuồn cuộn mít tinh
Những ngày thương xót đã lùi xa
Hòa bình
thêm vững
Anh bước đi
    đã thấy phố thấy nhà
Không thấy mưa sa
Chỉ thấy nắng lên
    trên màu cờ đỏ

Ta ở phố Sinh Từ
Em này
Hôm nay
đóng cửa
Cả nhà ra phố
mít tinh
Chúng ta đi
     nổi bão
    biểu tình
Vung cờ đỏ
    hát hò
     vỡ phổi…
Hỡi những người
     thành phố
        thôn quê
Đói no lành rách
Người đang vui
Người sống đang buồn
Tất cả!
Ra đường!
Đi!
hàng đoàn
    hàng đoàn
Đòi lấy tương lai:
HÒA BÌNH
    THỐNG NHẤT
        ĐỘC LẬP
            DÂN CHỦ
Đó là tim
    là máu đời mình
Là cơm áo! Là ái tình
Nhất định thắng!

~Trần-Dần~     
     1955



 


<bài viết được chỉnh sửa lúc 12.06.2012 04:25:22 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dòng thơ miền bắc - 30.12.2010 20:21:16



PHẠM-H

       1926

Quê An-Nhơn, Bình-Định, làm thơ,
viết tiểu thuyết, truyện ngắn


 
NHỮNG NGÀY XƯA THÂN ÁI
 
Tôi bắn hắn rồi
Những ngày xưa thân ái
Không ngăn nổi tay tôi
 
Những ngày xưa thân ái
chắc hắn quên rồi
riêng tôi, tôi nhớ:
Đồng làng mênh mông biển lúa
Sương mai đáp trắng cỏ đường
Hai đứa tôi,
Sách vở cặp chung
Áo quần nhàu giấc ngủ
Song song bước nhỏ chân trần
Gói cơm mo mẹ vắt sách tùng tơn
Nón rộng hỏng quai
Trong túi hộp diêm nhốt dế
những ngày xưa êm đẹp thế
không đem chung hai đứa một ngày mai
 
Hắn bỏ làng theo giặc mấy năm nay
Tôi buồn tôi giận,
Đêm nay gặo hắn,
Tôi bắn hắn rồi
những ngày xưa thân ái
Không ngăn nổi tay tôi
 
Xác hắn nằm bờ ruộng
Không phải hắn thưở xưa
Tôi cúi nhìn mặt hắn
tiếc hắn thời ấu thơ
~Phạm-Hổ~
     1957




YÊN-THAO
       1927


Tức Nguyễn-Bảo-Thịnh, sinh tại Sơn-Tây.
   

NHÀ TÔI

Tôi đứng bên này sông
Bên kia vùng địch đóng
Làng tôi đó, xám đen màu tiết đọng
Tre cau buồn tóc rủ ướt mưa sương
Màu trắng vôi nồm nộp mấy khung tường
Nếp đình xưa, người hỡi đau gì không?

Tôi là anh lính chiến
Rời quê hương từ độ máu khơi dòng
Buông tay gầu, vui lại thuở bình Mông
Chặt tay súng, ôi mơ ngày đắc thắng
Chân đã vẹt trên nẻo đường vạn dặm
Áo nào không phai lạt chút màu xưa!

Đêm hôm nay tôi trở về lành lạnh
Sông sâu mờ lấp lánh ánh sao thưa
Mảnh quần nâu đã vá mụn giang hồ
Ghì nấc súng tôi mơ về Nguyễn Huệ
Làng tôi đó, bên trại thù quạnh quẽ
Trông âm thầm như một đám mồ ma
Có còn không em hỡi, mẹ tôi già?
Những người thân đã khóc buổi tôi xa!

Tôi có người vợ trẻ đẹp như thơ
Tuổi chớm đôi mươi, cưới buổi dâng cờ
Má trắng mịn thơm thơm mùi lúa chín
Ai đã ra đi mà không bịn rịn
Rời yêu đương nào đã mấy ai vui?
Nàng lặng buồn nhìn với lúc chia phôi
Tôi mạnh bước mà nghe hồn nhỏ lệ!

Tôi có người mẹ
Tóc ngả màu bông
Tuổi già non thế kỷ
Lưng còng uốn nặng kiếp long đong
Nắng mưa từ độ tang chồng
Tơ tằm rút mãi cho lòng héo hon!
Thôi xa rồi, mẹ tôi
Đã mòn con mắt trông con phương trời
Cơ hồ chợt tỉnh đêm vơi
Nghe dòn tiếng súng nhớ lời chia ly
Mẹ ơi, con mẹ tìm đi
Bao giờ hết giặc con về mẹ vui!

Đêm hôm nay tôi trở về lành lạnh
Sông sâu mừng lấp lánh ánh sao thưa
Tôi là anh lính chiến
Theo quân về giải phóng quê hương
Đôi chân đất đạp xiêu đồn lũy địch
Này anh bộ đội - người bạn pháo binh -
Đã đến giờ chưa nhỉ?
Mà tôi nghe như trại giặc đã tan tành
Này anh rót cho khéo nhé
Kẻo lại nhầm nhà tôi
Nhà tôi ở dưới chân đồi
Có dàn hoa lý có người tôi thương.
~Yên-Thao~




TRƯỜNG-CHINH
        1907-1988


Tức Đặng-Xuân-Khu, quê Hành-Thiện,
Xuân-Trrường, Nam-Định, Ủy viên bộ
Chính trị, Tổng Bí Thư, Chủ Tịch Hội
Đồng Nhà Nước.


 
YÊU CON GÁI ĐỊA CHỦ
 
Anh bạn ạ!
Anh đã trót yêu con Địa chủ,
Quá yêu rồi dứt bỏ sao đành.
Đêm qua trằn trọc năm canh,
Cũng không dứt nổi mối tình vấn vương!
Anh yêu nó đẹp, nó ngoan,
Anh yêu mặt nó trái soan hồng hào.
Yêu văn hóa nó cao, nó giỏi.
Đàn nó hay, giọng hát nó trong,
Mắt đen răng trắng môi hồng.
Anh yêu lòng đã xiêu lòng từ lâu.
Sao anh chẳng đào sâu suy kỹ,
Vì đâu nó đẹp, nó xinh.
Vì đâu quần áo nó lành.
Vì đâu nó được học hành giỏi giang?
Biết bao kẻ lầm than đói khổ,
Còng lưng làm nuôi nó ăn không.
Kẻ thù giai cấp Công, Nông.
Sao anh lại nỡ sống chung cho đành?
(...)
Anh yêu nó, anh nghe lời nó,
Anh xa dân, anh bỏ lập trường,
Anh xa Cách mạng giữa đường
Anh xa rời Đảng, đầu hàng nó cơ!
Không, không thể khi nào thế được!
Anh đã nguyền vì nước hy sinh,
Vì dân Lao động đấu tranh.
Anh nên dũng cảm tiến lên, chớ lùi!
~Trường-Chinh~
        (1950)



<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.12.2010 20:28:16 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dòng thơ miền bắc - 01.01.2011 06:55:31



VIỆT-PHƯƠNG

        1928

Sinh tại Nà Nội, làm thơ.

MUÔN VÀN TÌNH THƯƠNG YÊU
TRÙM LÊN KHẮP QUÊ HƯƠNG 

I
Trời đổ mưa, đi viếng Bác, đồng bào chờ, bị ướt
Bác thương đồng bào, con biết Bác không vui

Ngừng đập trái tim tột bậc con người
Cây cỏ đất trời không thật nữa
Mắt ta nhìn sắc màu cũng giả
Ôi ước gì không thật cả nỗi đau mồ côi

Con đóng cửa buồng, ở mình con với Bác
Chưa muốn cùng ai chia bớt nỗi đau này
Quanh người con và trong con
tất cả đều bỗng khác
Bác qua đời rồi sao con vẫn ngồi đây
Con không thể nghĩ rằng Bác Hồ đã mất
Mà nắng vẫn chuyền như sóc giữa lùm cây
Con chim đuôi dài được Bác che chở
vẫn bay về trước cổng
Cây vú sữa đầu nhà đang xoè rộng tán xum xuê
Bầy cá rô phi nhớ giờ Bác cho ăn
lại ngoi lên đớp sóng
Con ra đường quen đứng ngóng Bác quay về

Hôm nay trên vườn ta trời uy nghi lồng lộng
Hàng bụt mọc trầm tư vút thẳng bên bờ ao
Gió heo may trong cành đa lao xao tìm gọi nắng
Lê-nin trên bàn đang chờ đón Bác đi vào

Bác ơi lúa mùa này đồng thấp đồng cao
lên đẹp lắm
Cơn bão vào đất liền đi chậm lại rồi tan
Mua bia đã bớt xếp hàng  và anh em còn cố gắng
Đêm qua 140 bốt đồn thù bị ta đánh trong Nam
Con trữ các loại tin đứng chờ đây
mong từ Bác một lời ánh sáng
Như từ lâu nay con thường vẫn hay làm
Bác lại về đi Bác ơi sau mấy ngày đi vắng
Khỏe mạnh hồng hào trong ánh nắng vườn cam

II
Đêm nay nghìn vạn chúng con
xếp thành hàng đi viếng Bác
Ôi làm sao nguôi được nhớ thương này
Chúng con đi cho cả người vắng mặt
Người chưa sinh, người đã khuất cũng về đây
Việt Nam đau cả lòng người dạ đất
Sao mùa thu như nước mắt trời mây
Chúng con đi theo tiếng người phía trước
Đường Hùng Vương dân tộc đi
từ dựng nước đến ngày nay
Hãy về đây lũ làng Tây Nguyên
đánh tiếng cồng thương xót
Những con nước Cửu Long bát ngát đợi Cha về
Đội áo tím sông Hương diệt Mỹ xong
bỗng bồi hồi kinh ngạc
Khi biết tiếng súng mình tai Bác vẫn hằng nghe
Về đây những tấm lòng trung kiên
trong chuồng cọp
Vết tím bầm thâm ghi tạc những câu thề
Về đây bà mẹ nghèo ở miền cao Hát Lót
Đã nhiều đêm gặp Bác giữa cơn mê

Hãy về đây những thợ xúc và lái xe khu mỏ
Vùng than ơi Người nhắc nhở bao lần
Những O gái Vĩnh Linh đầu tuyến lửa
Mơ Bác Hồ thương gian khổ vào thăm
Ông ké già nhà bên chân Pác-bó
Còn bàng hoàng hôm gặp gỡ đầu xuân
Những chiến sĩ trẻ măng trên Cồn Cỏ
Đài Bác cho đưa đất mẹ thêm gần
Muôn dòng sông chảy về lòng biển cả
Bác nằm đây nhớ rõ mỗi người thân.

III
Bác thường để lại đĩa thịt gà mà ăn trọn
mấy quả cà xứ Nghệ
Tránh nói rất to và đi rất nhẹ cả trong vườn
Tim đau hết nỗi đau người ở chân trời góc bể
Đến bên người ta thở dễ dàng hơn.

Khi đã quyết rất kiên cường mạnh mẽ
Đốt cháy Trường Sơn đánh Mỹ cũng không sờn
Lòng trời biển dịu hiền khi gặp trẻ
Sấm sét im cho nắng ấm chồi non.
Bác không bằng lòng gọi trận đánh
chết nhiều người là "đánh đẹp"
Con xoá chữ "đẹp" đi như xoá sự cạn hẹp
trong lòng con
Thêm hiểu lòng Người đối với quân
thù như sắt thép
Mà tình thương mênh mông ôm hết mọi linh hồn

Ngoài bảy nhăm, Bác vẫn thường ném bóng
Cái gạt tàn thuốc lá đã hàng năm
thôi không nóng trên bàn
Mỗi ban mai Bác luyện chân như ngày xưa
tập trèo sườn núi vắng
Con biết lòng Người quyết sống cho miền Nam

Con biết lòng Người quyết sống cho Việt Nam
và thế giới
Đầu bạc phơ trăm mối nước non nhà
Căn nhà nhỏ những canh khuya vời vợi
Vẫn lo toan tháo cởi những bất hoà
Trái tim lớn đêm ngày quên mệt mỏi
Dệt dải hồng chắp nối bạn gần xa

IV
Ôi lòng Bác bao la trong Di chúc
Vẫn hạt lúa củ khoai chân chất bình thường
Cả dân tộc khóc Người thương mình nhất
Người được thương trên tất cả người thương
Người suốt đời quên mình cho Tổ quốc
Khi ra đi chỉ dép lốp chiến trường

Nguồn ánh sáng đến muôn đời chẳng tắt
Vượt cao hơn sự chết vẫn soi đường
Ba Đình nức nở và ròng ròng nước mắt
Muôn vàn tình thương yêu trùm lên
khắp quê hương

Ôi ta khóc tim ta dường như xé
Từ trái tim giọt lệ hoá câu nguyền
Ta chẳng giấu trước bạn bè quốc tế
Nỗi đau này cao cả thiêng liêng

Ta khóc cho mọi nơi còn xích xiềng áp bức
Cho đời ta và lớp lớp đời sau
Cho Trường Sơn, cho Tháp Mười, cho miền Nam
ân hận chưa được chào đón Bác
Ta khóc những lỗi lầm làm tim Bác thêm đau
Ta tự biết sức ta trong những dòng nước mắt
Cho ta khóc hôm nay để từ mai ta lao lên
đánh giặc ở tuyến đầu

Sau bao năm đồng chí với Người,
con gọi Người: Đồng chí
Là khi con vĩnh biệt Người, đồng chí, Bác Hồ ơi!
Con nguyện làm một mảnh của Người,
đến trọn đời tận tuỵ
Hồ Chí Minh, người cộng sản rất mực Việt Nam
và vô cùng chung thuỷ con người
Ta gạt nước mắt ngẩng đầu lên,
vẫn nắng Ba Đình trong veo
Người đem về năm trước
Ta thề mang ánh nắng này
đến nhà mẹ già ở tận trót Cà Mau
Những biên đội không quân
như hình ảnh dân tộc ta
lượn quanh Người, lớn vượt
Cất cánh bay cao theo tay Bác vẫy trên đầu.
~Việt-Phương~
4-10 tháng 9 năm 1969
NXB Lao động - 2001    



<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.01.2011 07:17:59 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dòng thơ miền bắc - 08.01.2011 10:58:32



PHÙNG-CUNG
    1928-1997

May lắm là chỉ biết sơ sơ - anh đã tham
gia trào lưu Nhân Văn - Giai Phẩm hồi
giữa thập niên 50, đã cho đăng truyện ngắn
«Con Ngựa Già Của Chúa Trịnh» trên báo
Nhân Văn số 4, tháng 10 năm 1956, sau đó
bị đấu tố tơi bời, rồi bị cầm tù ròng rã 12
năm, ra tù còn bị hành hạ, sách nhiễu cho
đến ngày qua đời.



...Tôi đứng trong đêm
Ngửng đầu nhìn cao xa
Vọng hỏi
Có phải nước mắt con người
Đằm đằm dội xuống
Mà trên thiên cầu
Bao vì sao xao xuyến đổi ngôi.

Lòng ái quốc, tinh thần nhân bản
sáng ngời trên mỗi vần thơ!


Đất nước ơi
Tôi mến người
Như khi nhìn em bé ngủ
Tôi thương người
Như thương mẹ ốm
Vì đâu
Người khoác manh áo đỏ
Thừa sai - cũn cỡn
Tủi nhục tháng ngày
Long đong chiều sớm
Ôi! có bao giờ
Người đau đớn như thế này không.

Tổ quốc kính yêu ơi!
Văn hiến - thuần phong mỹ tục
Phút chốc bàn tay cộng sản dập vùi... 
Quê hương ơi!
Đường quan lầy nước mắt,
Ơi đất nước sa cơ
Già - trẻ bơ vơ nheo nhóc...
Ơi quê hương
Hỡi những ngày xưa!
Thuỷ chung - nhân ái Tất cả chìm - ngâm
Trong lừa dối cuồng điên...
"Quê nôi" ơi!
Dối trá đê hèn Trùm muôn cửa ngõ ...


SÔNG THƯƠNG - SAO THƯƠNG

...Ôi! lòng đã ưu tư
Lại thai nghén chiến tranh
Hoạ cơm áo!
Vẫn giằng co súng gươm oan trái
Chăn viện trợ phủ kín biên thuỳ...


...Chính chúng nó
Phường cộng sản
Lái buôn binh lửa
Ôi! Binh lửa triền miên
Tuổi trẻ gái - trai
Bị lôi đi - đi hết...
...Quan hà lộng gió chinh phu
Rừng thu tắm máu
Máu thu gội chiều
Tơ vàng nhỏ giọt lệ điều
Đăm đăm tay vẫn chiều chiều quay xa...
... Khe Sanh - Dốc miếu là đâu
Vắng con nhớ đến bạc đầu cô đơn
Máu chiều gội đỏ hoàng hôn
Nghĩa trang mồ giả, nắm xương không mồ
Đồng chiều gió tím mấp mô
Nén hương đẹn khói, mấy mùa khóc vay.
... Tôi biết em khóc nhiều
Vì chồng em tử trận
Em khóc lúc hừng đông
Nước mắt cử hành
Mặt nạ tay hèn
Lẻn vào đong đếm...
... Em khóc lúc hoàng hôn
Thì quanh em
Lộng gió cô đơn
Từng giọt rực sáng
Trong nhiều thế giới...
... Não lòng thay!
Mảnh đất bán khai
Tình nguyện tiền đồn
Đăng cai binh lửa...
... Tổ quốc kính yêu ơi!
Khói lửa ngút trời
Cháy gia phả
Cháy tình bằng hữu
Cháy cơi trầu bách niên giai lão
Cháy tia trăng thơm
Trên làn tóc trẻ thơ
Hiếu chiến thừa sai
Ruổi cờ dẫn lộ
Giàn cầu lửa
Di lăn - bách hại
Ngập máu!
~Phùng-Cung~
       64


TRĂNG NGỤC

Ôi,
cái ngày tự do xưa kia,
sao mà cứ xa mãi,
biết bao giờ quay trở lại!
~Phùng-Cung~

Trăng qua song sắt
Trăng thăm ngục
Bỗng ta chợt tỉnh - sững sờ
Trên vai áo tù
Trăng vá lụa
Ngày xưa ơi !
Xa mãi đến bao giờ.

Mà không chỉ một bài Trăng Ngục đó! Còn bao nhiêu bài hay nữa, như Biển Cả, Em Quỳnh, Tổ Quốc, Quê Hương, Nước Mắt, Cung Trời, Thu Xa, Dòng Sông, Quê Xa, Mỏi Xanh, Mẹ, Sông Thương - Sao Thương, Sống Chết, Bước Vô Định, Tội Nghiệp...
Về thơ Phùng Cung, còn có thể viết nhiều nữa, nhưng ở đây tôi chỉ xin giới thiệu vài đoạn dể thấy rõ cái tình cảnh bi thảm của nhà thơ, cũng như ý chí bất khuất của anh.


...Ta một con người
Nạn nhân đang vòng tù ngục
Đêm ngày chân rỉ máu cùm lim
Linh hồn bất khuất
Trên đầu là thượng đế
Dưới chân là mặt đất hiếu sinh
Bức xúc lương tri
Ta phải xuống đường...
...Còng sắt cùm lim ngấy máu tù
Vầng dương mãi bỏ quên ta
Bóng du nguyệt chưa qua đã khuất
Thâu ngày đêm
Bị sự im lặng quấy rầy
Tóc mủn trạt vai chờ di chúc
Trái tim vẫn đều đặn
Mô phỏng nhịp trữ tình...
Đất nước tôi
Triền miên bất hạnh
Tụi mặt dày - tay bẩn
Tim rắn - lời cừu
Văn hoá lớp hai
Điều hành cuộc sống
Tránh làm sao
Khỏi nát ngọc nhân quyền...

Ngay cả lúc chúng thét gào dữ tợn thì thái độ nhà thơ vẫn ung dung, tự tại, không chút khiếp sợ:

...Ôi! Bao yên lặng thanh cao
Đang chìm lăn
Trong thét gào man rợ
Thì nhắm mắt
Thì bưng tai
Phải đâu khiếp sợ
Chỉ điếc đui vừa đủ
Để làm ngơ...

Và anh suy tư, suy tư rất nhiều, nghiễm nhiên thành triệu phú trầm tư, vất vả lặn lội để kiếm tìm sứ mệnh trong sáng tuyệt vời của thi ca!

...Nhà thơ chân đất
Đãy vải - gió đưa
Kiếm tìm sứ mệnh
Mỗi ý nghĩ trong ta
Đều  trải qua lặn lội
Như phận chiếc cò
Lặn lội trong phong dao...

Bài "Xuống Đường", làm trong xà lim biệt giam Lao Cai hồi năm 71, là một trong những bài thơ vừa có sức mạnh tố cáo, vừa nêu bật ý chí mãnh liệt của nhà thơ.

Lãnh thổ mến yêu ơi!
Nai lưng trần dưới vòm trời nhiệt đới
Xứ sở của thi ca
Của lòng cả tin - nhẹ dạ
Của đói nghèo nhẫn nhục
Úp mặt - rủi may - đắp đổi
Khóc mếu tối ngày...

Thế rồi, cái "học thuyết Rắn-hổ-mang-vua" (tôi đoán nghĩa của chữ lạ trong bài như thế) đội lốt công nông từ trời Tây du nhập vào, lúc đầu - khi chưa nắm được chính quyền - nó làm ra vẻ ngoan ngoãn, hiền lành lắm, thậm chí còn tình nguyện làm ngựa làm trâu cho người dân (cái ý này có xuất xứ của nó: tôi còn nhớ trong một cuộc kỷ niệm của Đảng cộng sản Việt Nam - hồi còn đội lốt Đảng lao động - ông Hồ có đọc hai câu thơ của một tác giả Trung Quốc để ví với Đảng lao động, không sợ bất kỳ kẻ địch nào, nhưng lại nguyện làm trâu ngựa cho nhân dân: Liếc mắt xem khinh nghìn lực sĩ, Cúi đầu làm ngựa đứa nhi đồng):

Học thuyết King-cô-bra
Đội lốt công nông - rình rập
Từ trời tây ập tới
Lúc thoát thai
Nó vờ xin rửa tội
Trộm cắp ánh tà dương
Trước mọi người
Nó khoanh tay - quỳ gối - cúi đầu
Tình nguyện đời đời
Làm ngựa làm trâu
Khi gấp khúc nó ngoan ngoãn
Giành hoàn thiện chức năng gia cẩu
Hầu hạ phấn son
Len lỏi trong lẵng hoa
Trong đồ chơi em bé...

Thế nhưng, khi nắm được chính quyền rồi thì nó gây biết bao thảm hoạ cho nhân dân...

Mong hiện nguyên hình
Như dưới vòm trời bất hạnh - hôm đây
Bản chất nó là cuồng bạo
Huênh hoang lấp biển vá trời
"Kiến tạo địa đàng - hạnh phúc"

Tiếc thay, những người thường dân ngây thơ, mộc mạc đã trót lỡ chìa tay cho nó, nên nó càng mặc sức gây ra muôn vàn đau thương cho dân chúng. Có những đoạn trong thơ làm người đọc liên tưởng đến cuộc cải cách ruộng đất đầy tội ác ở miền Bắc...

...Khốn nạn thay!
Chân đất đầu trần chót chìa tay
Đã lỡ!
Thảm hoạ triền miên
Ôi! tay chúng cầm lê
Đâm người - dấu mặt
Lại vội lau tay - vu cáo - gây thù
Cha con nghi ngờ
Vợ chồng cảnh giác
Già trẻ xóm giềng
Nhìn nhau len lén
Di hoạ đứng rình
Trong tối lửa tắt đèn
Ngột ngạt - tối tăm - quằn quại
Vô phương khả đảo...

Bắt chước "thiên triều" đỏ ở Liên Xô và Trung Quốc, tập đoàn thống trị đã làm biết bao điều bạo ngược.

...Nhịp bước thiên triều
Giày xéo thuần phong mỹ tục
Lăng nhục miếu đền
Sừng sững dựng khải hoàn môn máu
Quay quắt đổi đầu
Thò lò muôn mặt Lê-mác-mác-lê...

Còn người dân Việt Nam khốn khổ thì
Lầm than buộc bụng vác cờ
Tung hô bỏng họng

...Thiên triều tiếp sức
Õng ẹo điệu ương ca
Mạ màu mao-ít
Ma thuật ngoan tay
Tạt độc dược vào tâm - vào não...

Và khi người dân trúng độc rồi, chúng lại càng thêm bạo ngược:

...Cờ máu ngợp trời
Lợm gió!
Tiếng quốc thiều
Tăng âm cực đại thét gào
..."Thề phanh thây uống máu!..."
Ta lùng trong kho nhớ
Nhẩm biên niên sử
Xin hỏi loài người
Có quốc thiều nào man rợ thế không
Trước mặt sau lưng
Ngàn trùng khóc lóc
Ôi! mỗi tiếng chim kêu
Đếm từng đọi máu
Sóng máu ào ào
Tràn bờ thế kỷ...

Trong tình cảnh đó, nhà thơ dù đang trong vòng tù ngục cũng thấy lương tri giục giã phải xuống đường tranh đấu, cái ý chí đó vô cùng mạnh mẽ, quyết hy sinh mình vì sự sống của muôn dân. Hình ảnh mài gươm dưới nguyệt  của Đặng Dung trong bài Cảm Hoài hồi đầu thế kỷ 15, đã được Phùng Cung khéo dùng lại để tạo nên một tứ thơ mới nói lên ý chí của mình - nước mắt mài gươm, vừa hợp với hoàn cảnh của nhà thơ, lại gây ấn tượng mạnh.

...Phải xuống đường
Tìm sinh trong tử
Nước mắt mài gươm
Gươm bén dân lành
Ta chắp tay - ngửa mặt
Cầu xin các đấng linh thần
Cho ta sức mạnh phi trần
Đủ tung hoành, xông xáo
Tận cùng hang ổ
Băm xả vào đầu con rắn đỏ
Cây cỏ vươn reo
Mượn gió nhắn bốn phương
Con rắn đỏ tử thương - rãy giụa
Nó lí nhí van xin chôn cất...

Còn có thể nói rất nhiều nữa về thơ Phùng Cung, nhưng thiết tưởng với chừng ấy cũng đủ để bạn đọc thấy chúng ta đang có trong tay những di sản quý báu của thi ca nước nhà. Chỉ riêng việc những vần thơ này được trân quý, bảo trọng còn lại cho đến ngày nay và tới tay bạn đọc đã là một điều kỳ diệu! Chắc điều đó đáp ứng được phần nào ước nguyện thầm kín mà nhà thơ hằng ấp ủ mấy chục năm trường khi còn ở cõi  trần.
Hy vọng rằng những hạt ngọc quý mà người nghệ sĩ Phùng Cung chiết ra từ máu và nước mắt của mình để hiến cho đời, sẽ càng thêm phô sắc, thêm rực rỡ dưới ánh mặt trời và đem lại cho bạn đọc Việt Nam nhiều xúc động và khoái cảm, đồng thời cũng đem lại những suy tư về trách nhiệm và hành động của mỗi người trong sự nghiệp cứu nước, cứu dân./.
Hè Moskva 03.08.03

<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.01.2011 06:07:32 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dòng thơ miền bắc - 14.01.2011 08:18:43




LÊ-ĐẠT
1929-2008



Sinh tại Yên-Bái, sống ở Hà-Nội, sinh hoạt
văn học cùng với các nhà thơ chiến hữu Trần

Dần, Phùng Quán, Văn Cao, thành viên sáng

lập HNVVN. Viết bài “Ông bình vôi” trong Nhân

Văn Giai Phẩm, được nhiều người cho là ám chỉ

các lãnh tụ đảng, bị lên án phản động, bị truất

quyền đảng viên, bị khai trừ khỏi Hội Nhà Văn,

30 năm sau mới được phục hồi hội viên HNV.


 
CHA TÔI*

Đất quê cha tôi đất quê Đề Thám
Rừng rậm sông sâu
Con gái cũng theo đòi nghề võ
Ngày nhỏ cha tôi dẫn đầu lũ trẻ đi chăn trâu
Phất ngọn cờ lau
Vào rừng Na Lương đánh trận
Mơ làm Đề Thám
Lớn lên, cha tôi đi dạy học
Gối đầu trên cuốn Chiêu hồn nước
Khóc Phan Chu Trinh
Như khóc người nhà mình
Ôm mộng bôn ba hải ngoại
Lênh đênh khói một con tàu
Sớm tối ngâm nga mấy vần cảm khái
Đánh nhau với Tây
Bỏ việc lang thang vào Nam ra Bắc
Cắt tóc đi tu nhưng quá nặng nghiệp đời
Gần hai mươi năm trời
Tôi vẫn nhớ lời cha tôi cháy bỏng
Dạy tôi làm thơ, ước mơ, hi vọng
Những câu Kiều say sưa đưa cuộc đời bay bổng
Tiếng võng trưa hè mênh mông
Phong trần mài một lưỡi gươm
Những phường giá áo túi cơm sá gì.

Nhưng công việc làm ăn mỗi ngày mỗi khó
Cuộc đời chợ đen chợ đỏ
Thù hằn con người
"Muốn sống thanh cao đi lên trời mà ở
Mày đã quyết kiêu căng
Níu lấy cái lương tâm gàn dở
Dám không tồi như chúng tao
Suốt đời mày sẽ khổ".

Quan lại trù cha tôi cứng đầu cứng cổ
Người "An Nam" dám đánh "ông Tây"
Mẹ ỉ eo dằn vặt suốt ngày
Chửi mèo, mắng chó
"Cũng là chồng là con
Chồng người ta khôn ngoan
Được lòng ông tuần ông phủ
Mang tiền về nuôi vợ".

Bát đĩa xô nhau vỡ
Cha tôi nằm thở dài
Cha nhịn đi cho đỡ
Anh em tôi, bỏ cơm
Hai đứa dắt nhau ra đường tha thẩn
Trời mùa đông trăng sáng
Sao nở như hoa

Không biết Ngưu Lang trên kia
Có bao giờ cãi Chức Nữ.
Rồi cha tôi lui tới nhà quan tuần, quan phủ
Lúc về, gặp tôi đỏ mặt quay đi
Một hôm, tôi thấy chữ R.O treo ngoài cửa

Cha tôi không dạy tôi làm thơ nữa
Người còn bận đếm tiền ghi sổ
Thỉnh thoảng nhớ những ngày oanh liệt cũ
Một mình uống rượu say
Ngâm mấy câu Kiều, ôm mặt khóc
Tỉnh dậy lại loay hoay ghi sổ đếm tiền
Hai vai nhô lên
Đầu lún xuống
Như không mang nổi cuộc đời
Bóng in tường vôi im lặng
Ngọn đèn leo leo ánh sáng
Bóng với người như nhau
Mùi ẩm mốc, tiếng mọt kêu cọt kẹt
Ở chân bàn hay ở cha tôi?

Cuộc sống hàng ngày nhỏ nhen tàn bạo.
Rác rưởi gia đình miếng cơm manh áo
Tàn phá con người.
Những mơ ước thời xưa như con chim gẫy cánh
Rũ đầu chết ngạt trong bùn
Năm tháng mài mòn bao nhiêu khát vọng.
Cha đã dạy con một bài học lớn
Đau thương kiên quyết làm người.
Không nên lùi bước cuộc đời phải thắng.

~Lê-Đạt~

 
NHÂN CÂU CHUYỆN MẤY
NGƯỜI TỰ TỬ
(Trích)


Báo Nhân dân số 822
Có đăng tin mấy người tự tử
Vì câu chuyện tình duyên dang dở
Trưa mùa hè nóng nung như lửa
Tôi ngồi làm thơ
Vừa giận vừa thương những người xấu số
Chân chưa đi hết đường đời
Đã vội nằm dưới mộ.

Chết là hết
Hết đau hết khổ
Nhưng cũng là hết vầng trăng soi sáng trên đầu
Hết những bàn tay e ấp tìm nhau

Người con trai ngồi trên gò đất
Thổi sáo gọi người yêu
Bắt nắng chiều đứng lại
Lúa đang thì con gái…
Xôn xao gió thổi
Đầu sát bên đầu tính chuyện tương lai

Anh công an nơi ngã tư đường phố
Chỉ đường cho
xe chạy
xe dừng
Rất cần cho luật giao thông
Nhưng đem bục công an đặt giữa trái tim người
Bắt tình cảm ngược xuôi
Theo luật lệ đi đường nhà nước
Có thể gây nhiều đau xót
ngoài đời"

~Lê-Đạt~


 
ÔNG BÌNH VÔI


Những kiếp người sống lâu trăm tuổi
Y như một dãy bình vôi
Càng sống càng tồi
Càng sống càng bé lại...
~Lê- Đạt~


Sau khi bị vụ Nhân văn-Giai phẩm trong
vòng 30 năm, Lê Đạt đi vào viết về thân
phận của mình, của xã hội thời kỳ cấm
đoán và tìm tòi cách tân thơ.



 
CẢNG CẤM


Hai vợ chồng ghế đá đêm suông
Cảng Cấm

còi tàu u ú
gió oà
Đất nước mẹ mình
hay mẹ ghẻ

~Lê-Đạt~


 
THU NHÀ EM


Anh đến mùa thu nhà em
Nắng cúc lăm răm vũng nhỏ
Mà cho đấy rửa lông mày
Nông nỗi heo may từ đó

Mưa đêm tuổi nổi ao đầy
Đồi cốm đường thon ngõ cỏ
Bướm lượn bay hoa ngày
Tin phấn vàng hay thuở gió

Tóc hong mùi ca dao
Thu rất em
và xanh rất cao

~Lê-Đạt~


 
ÁC MỘNG


Mơ tôi một giấc mơ khiếp sợ
Đường phố

cả căn nhà tôi ở
Mặt sắt chữ vàng biển đỏ
“Không phận sự miễn vào”

~Lê-Đạt~


 
BƯỚC KỶ XXI


Năm 2000
năm chiếu cố
những địa đầu thiểu số

Các nhà cầm quyền
đối đám nghi can
đúng trước giờ công bố
hãy nhẹ tay.

~Lê-Đạt~



<bài viết được chỉnh sửa lúc 31.01.2011 10:43:12 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dòng thơ miền bắc - 31.01.2011 10:56:48




PHÙNG-QUÁN

    1932-1995


Quê Thủy-Dương, Hương Thủy, Thừa-Thiên,
học ở Huế, vào Bộ đội, chiến đấu ở Bình-Trị-
Thiên, làm thơ, viết tiểu thuyết, truyện ngắn,
ra Bắc làm văn hóa văn nghệ ở Trung ương,
tham gia nhóm Nhân-Văn Giai-Phẩm.



CHIỀU HÀNH QUÂN

Chiều mưa hành quân
Nước đầm chấn thủ
Qua những ngôi nhà bé nhỏ
Như tổ chim mọc rải rác bên đường

Quanh bếp lửa hồng
Vợ chồng con cái
Ngồi so đũa bên nồi cơm mới xới
Trắng dẻo ngọt ngào thơm.

Chúng tôi quên mưa lạnh đường trơn
Thấy lòng ấm lại
Trong niềm vui no ấm của nhân dân.

Em bé bỏ bát ăn
Chạy ra cửa
Tranh nhau đếm bộ đội
Đếm ba lô
Đếm súng
Nhoẻn miệng cười, mắt sáng như trăng.
- Súng nớ của mi!
- Súng ni của tao!
- Súng tao to hơn!
- Súng tao dài hơn!

Chúng tôi cười:
- Súng của các em tất cả
Trao cho anh đi giành lại áo cơm.

Em cười như ngô rang
Ấm cả chiều mưa lạnh
Vành môi em lấp lánh
Cất tiếng hát tình tang:
- Hoan hô anh vệ quốc đoàn
Ăn sương nằm đất đánh tan quân thù
Tính tình tang, tang tính tình.

Tiếng hát thanh thanh
Ngọt mùi sữa mẹ
Như nhắc chúng tôi
Giữ lấy hòa bình các anh nhé
Cho em vui hát mãi điệu tính tang.
~Phùng Quán~


LỜI MẸ DẶN*

Tôi mồ côi cha năm hai tuổi
Mẹ tôi thương con không lấy chồng
Trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải
Nuôi tôi đến ngày lớn khôn.
Hai mươi năm qua tôi vẫn nhớ
Ngày ấy tôi mới lên năm
Có lần tôi nói dối mẹ
Hôm sau tưởng phải ăn đòn.
Nhưng không, mẹ tôi chỉ buồn
Ôm tôi hôn lên mái tóc
- Con ơi
trước khi nhắm mắt
Cha con dặn con suôt đời
Phải làm một người chân thật.
Mẹ ơi, chân thật là gì?
Mẹ tôi hôn lên đôi mắt
Con ơi, một người chân thật
Thấy vui muốn cười cứ cười
Thấy buồn muốn khóc là khóc.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu.
Từ đấy người lớn hỏi tôi:
Bé ơi, Bé yêu ai nhất?
Nhớ lời mẹ, tôi trả lời:
Bé yêu những người chân thật.
Người lớn nhìn tôi không tin
Cho tôi là con vẹt nhỏ
Nhưng không! Những lời dặn đó
In vào trí óc của tôi
Như trang giấy trắng tuyệt vời
In lên vết son đỏ chói.
Năm nay tôi hai mươi lăm tuổi
Đứa bé mồ côi thành nhà văn
Nhưng lời mẹ dạy thuở lên năm
Vẫn nguyên vẹn màu son chói đỏ.
Người làm xiếc đi giây rất khó
Nhưng chưa khó bằng làm nhà văn
Đi trọn đời trên con đường chân thật.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu.
Tôi muốn làm nhà văn chân thật
Chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn trên đá.
~Phùng Quán~
      1957


CÂY MẬN VĨNH LINH

Lấp hố bom giữa nhà
Tôi ươm một trái mận
Trái mận tôi cạy ra
Từ bàn tay vợ nắm
Vợ tôi sắp làm mẹ
Thèm ăn rở của chua
Túi áo nàng không khế
Thì cũng mận, cũng mơ
Ôi trái mận, trái mận
Cắn dở còn vết răng
Nảy mầm trong xót thương
Đâm chồi trong thù hận
Vĩnh Linh im tiếng súng
Tôi trở lại ngôi nhà
Nơi vợ tôi nằm xưa
Xum xuê một cây mận
Ôi cây mận, cây mận
Trái chín trĩu cành cong
Trái nào tôi cũng thấy
Cắn dở một vết răng!
~Phùng-Quán~


<bài viết được chỉnh sửa lúc 31.01.2011 11:04:08 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dòng thơ miền bắc - 08.02.2011 11:10:51



TỐ-HỮU

1920-2002

Sinh Quảng Thọ, Quảng Điền, Thừa
Thiên, Huế. Cha, nhà Nho không đỗ dạt
Nhưng thích thơ và dạy ông làm thơ cổ.
Mẹ cũng thuộc nhiều ca dao và dân ca
Huế. Phó chủ tịch Liên Hiệp Văn Học
Nghệ Thuật VN 1963, Ủy viên chính thức
bộ Chính Trị 1980.



DẬY MÀ ĐI!

Dậy mà đi! Dậy mà đi!
Đừng tiếc nữa, can chi mà tiếc mãi?
Ai chiến thắng mà không hề chiến bại
Ai nên khôn mà chẳng dại đôi lần?
Huống đường đi còn lắm bước gian truân
Đây chưa phải trận sau cùng chiến đấu!
Thì đứng đấy, xoa tay, và tự bảo:
Chí còn đây, sức lực hãy còn đây!
Lòng không nghèo tin tưởng ở tương lai
Chân có ngã thì đứng lên, lại bước,
Thua ván này, ta đem bày ván khác
Có can chi, miễn được cuộc sau cùng
Dậy mà đi, hy vọng sẽ thành công
Rút kinh nghiệm đỡ bao lần thất bại
Một lần ngã là một lần bớt dại
Để thêm khôn một chút nữa trong người
Dậy mà đi, hỡi bạn dân nghèo ơi!
~Tố-Hữu~
Tháng 5-1941


HỒ-CHÍ-MINH

Hồ-Chí-Minh
Người lính già
Đã quyết chiến hy sinh
Cho Việt Nam độc lập
Cho thế giới hòa hình!
Người đã sống năm mươi năm vũ bão
Vì nhân loại
Người quyết dâng xương máu
Vì giang sơn
Người quyết dứt gia đình!

Hồ-Chí-Minh
Người đã quyết
Mặc phong ba giá tuyết
Mặc gươm súng xiềng gông
Làm tên quân cảm tử đi tiên phong
Đánh trăm trận, thề trăm phen quyết thắng!
Bao thất bại dẫu xát lòng cay đắng
Hồn xẫn tươi vui, thơm ngát tình đời
Bước trường chinh dầu mỏi gối khan hơi
Tim gang thép vẫn bừng bừng lửa chiến
Cờ đã phất, phải giương cao quyết tiến!
Người xông lên
Và cả đoàn quân, thừa huyết khí thanh niên
Rập bước tiến bên người cha anh dũng.
Tiếng Người thét
Mau lên gươm lắp súng!
Và cả đoàn quân
Đã bao nhiêu năm tháng trải phong trần
Mắt sáng quắc tay xanh lòe mã tấu
Vụt ào lên quyết hy sinh chiến đấu
Diệt cường quyền!
Ôi sức mạnh vô biên!
Hồ Chí Minh
Hỡi ngọn đuốc thiêng liêng
Trên đầu ta, ngọn cờ dân tộc
Trăm thế kỷ trong tên Người: Ái Quốc
Bạn muôn đời của thế giới đau thương!

Chúng tôi đây
Lớp con cháu trên đường
Gươm tuốt vỏ, súng cầm tay, xốc tới
Ngọn cờ đỏ sao vàng bay phấp phới
Nước non Hồng vang dội Tiến quân ca

Hồ-Chí-Minh
Người trẻ mãi không già!
~Tố-Hữu~
 26-8-1945


HUẾ THÁNG TÁM

Huế trầm mặc hôm nay sao khác khác
Những mắt huyền ngơ ngác hỏi thầm nhau
Chân nôn nao như khách đợi mong tàu
Bước dò bước, không biết sau hay trước?
Tim hồi hộp, vì sao? Ai hẹn ước;
Ai đang về? Dáng đó thấp hay cao?
Mắt sáng ngời, như lửa hay như sao?
Người hay mộng? Ngoài vào hay trong tới?
Giáng từ trên hay là vươn từ dưới?
Huế xôn xao lo lắng, những đêm mơ
Khát khao hoài, như cô gái mong chờ
Sau cửa hé, người yêu chưa biết mặt...
Trên Hương giang mênh mang đò lạnh ngắt
Tiếng đàn im ca kỹ nép phương nào?
Trăng thì thầm chi với sóng lao xao...
Đức Kim Thượng đêm nay trong ngọc điện
Ngự lên lầu, trông lên cao xao xuyến
Muôn vì sao...Lạnh lẽo thấm hoàng bào
Người rùng mình, tưởng đứng đỉnh cù lao
Nỗi cô độc giữa gió triều biến động,
Đôi gốc đại nghiêng nghiêng tàn lay bóng
Sầu thâm cung vờ vật dưới chân chầu
Người đứng đây. Trăm họ đang về đâu?
Đình thần đó, rầu rầu thân lá trắng
Quá khứ nặng đè xuống đầu cúi lặng...
Một ngai vàng không thể thắng cả giang sơn!
Lòng muôn dân rần rật lửa căm hờn
Máu giải phóng đã sôi dòng nhân loại!
Người phải xuống, đến nay, đêm chiến bại
Để toàn dân chiến thắng giữ ngôi son!
Người phải lui, cho Dân tiến, Nước còn
Dân là chủ, không làm nô lệ nữa!
Hãy mở mắt: Quanh hoàng cung biển lửa
Đã dâng lên, ngập Huế đỏ cờ sao
Mở mắt trông: Trời đất bốn phương chào
Một dân tộc đã ào ào đúng dậy!

Chừ đây Huế, Huế ơi! Xiềng gông xưa đã gẫy
Hãy bay lên! Sông núi của ta rồi!
Nước mắt ta trào, húp mí, tràn môi
Cổ ta ré trăm trận cười, trận khóc!
Ta ôm nhau, hôn nhau từng mái tóc
Hả hê chưa, ai bịt được mồm ta?
Ta hét huyên thiên, ta chạy khắp nhà
Ai dám cấm ta say, say thần thánh?
Ngực lép bốn nghìn năm, trưa nay cơn gió mạnh
Thổi phồng lên. Tim bỗng hóa mặt trời
Có con chim nào trong tóc nhảy nhót hót chơi
Ha! Nó hót cái gì vui vui nghe thiệt ngộ
Gió gió ơi! hãy làm giông làm tố
Cuốn tung lên cờ đỏ máu thơm tươi
Vàng vàng bay, đẹp quá, sao sao ơi
Ta ngã vật trong dòng người vuộn thác
Ôi thiên đường! Tai miên man lắng nhạc
Từ muôn phương theo gót nện rầm rầm
Việt Nam! Việt Nam! Việt Nam muôn năm!
~Tố-Hữu~
  1945


TỪ ẤY

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim...

Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.

Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ...
~Tố-Hữu~
   1946


SÁNG THÁNG NĂM

Vui sao một sáng tháng Năm
Đường về Việt Bắc, lên thăm Bác Hồ
Suối dài xanh mướt nương ngô
Bốn phương lồng lộng Thủ đo gió ngàn...

Bác kêu con đến bên bàn
Bác ngồi Bác viết, nhà sàn đơn sơ
Con bồ câu trắng ngây thơ
Nó đi tìm thóc quanh bồ công văn
Lát rồi, chim nhé, chim ăn
Bác Hồ còn bận khách văn đến nhà.

Bàn tay con nắm tay Cha
Bàn tay Bác ấm vào da vào lòng
Bác ngồi đó, lớn mênh mông
Trời xanh biển rộng ruộng đồng nước non

Bác Hồ, cha của chúng con
Hồn của muôn hồn
Cho con được ôm hôn má Bác
Cho con hôn mái đầu tóc bạc
Hôn chòm râu mát rượi hòa bình!

Ôi cái tên kính yêu Hồ Chí Minh
Trong sáng lòng anh xung kích
Nửa đêm bôn tập diệt đồn
Vững tay người chiến sĩ nông thôn
Bắt sỏi đá phải thành sắn gạo
Anh thợ, má anh vàng thuốc pháo
Cánh tay anh dày sẹo lửa gang
Ơi những em đốt đuốc đến trường làng
Và các chị dân công mòn đêm vận tải!
Các anh chị, các em ơi, có phải
Mỗi khi lòng ta xao xuyến rung rinh
Môi ta thầm kêu Bác: Hồ Chí Minh!

Và mỗi trận, mỗi mùa vui thắng lợi
Đôi mắt bác hiện lên cười, phấn khởi
Ta lớn cao lên, bay bổng diệu kỳ
Trên đường dài, hai cánh đỡ ta đi...

Bác Hồ đó, là lòng ta yên tĩnh
Ôi người ta đôi mắt mẹ hiền sao!
Giọng của người, không phải sấm trên cao
Thấm từng tiếng, ấm vào lòng mong ước
Con nghe Bác, tưởng nghe lời non nước
Tiếng ngày xưa và cả tiếng mai sau...
Bác Hồ đó, chiếc áo nâu giản dị
Màu quê hương bền bỉ đậm đà
Ta bên Người, Người toả sáng trong ta
Ta bỗng lớn lên Người một chút.

Bác Hồ đó, ung dung châm lửa hút
Trán mênh mông, thanh thản một vùng trời
Không gì vui bằng mắt Bác Hồ cười
Quên tuổi già, tươi mãi tuổi đôi mươi!
Người rực rỡ một mặt trời cách mạng
Mà đế quốc là loài dơi hốt hoảng.
Đêm tàn bay chập choạng dưới chân Người.

Hồ Chí Minh
Người ở khắp nơi nơi...
Hồn biển lới đón muôn lời thủ thỉ
Lắng từng câu, từng ý chưa thành
Người là Cha, là Bác, là Anh
Quả tim lớn lọc trong dòng máu đỏ
Vạch đường đi, từng bước, từng giờ...
Không gì vinh bằng chiến đấu dưới cờ
Đảng chói lọi Hồ Chí Minh vĩ đại!

Con nhớ hết mỗi lời Người dạy:
Kháng chiến gian nan, kháng chiến trường kỳ
Bác bảo đi, là đi.
Bác bảo thắng, là thắng
Việt Nam có Bác Hồ
Thế giới có Xta-lin
Việt Nam phải tự do
Thế giới phải hòa bình!
Chúng con chiến đấu hy sinh
Tấm lòng son sắt, đinh ninh lời thề.

Bắt tay Bác tiễn ra về
Nhớ hoài buổi sáng mùa hè chiến khu...
~Tố-Hữu~                     
5-1951


ĐỜI ĐỜI NHỚ ÔNG

Bữa trước mẹ cho con xem ảnh
Ông Stalin bên cạnh nhi đồng
Áo Ông trắng giữa mây hồng
Mắt Ông hiền hậu, miệng Ông mỉm cười
Stalin! Stalin!
Yêu biết mấy, nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Stalin!
Hôm qua loa gọi ngoài đồng
Tiếng loa xé ruột xé lòng biết bao
Làng trên xóm dưới xôn xao
Làm sao, Ông đã... làm sao, mất rồi!
Ông Stalin ơi, Ông Stalin ơi!
Hỡi ơi, Ông mất! đất trời có không?
Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một, thương Ông thương mười
Yêu con yêu nước yêu nòi
Yêu bao nhiêu lại yêu Người bấy nhiêu!
Ngày xưa khô héo quạnh hiu
Có người mới có ít nhiều vui tươi
Ngày xưa đói rách tơi bời
Có người mới có được nồi cơm no
Ngày xưa cùm kẹp dày vò
Có người mới có tự do tháng ngày
Ngày mai dân có ruộng cày
Ngày mai độc lập ơn này nhớ ai
Ơn này nhớ để hai vai
Một vai ơn Bác một vai ơn Người
Con còn bé dại con ơi
Mai sau con nhé trọn đời nhớ Ông!
Thương Ông mẹ nguyện trong lòng
Yêu làng, yêu nước, yêu chồng, yêu con
Ông dù đã khuất không còn
Chân Ông còn mãi dấu son trên đường
Trên đường quê sáng tinh sương
Hôm nay nghi ngút khói hương xóm làng
Ngàn tay trắng những băng tang
Nối liền khúc ruột nhớ thương đời đời.
~Tố-Hữu~
  (5-1953)


VIỆT BẮC

- Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
- Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
- Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa...
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.
Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà...
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miềm
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Điều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu...
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.
- Nước trôi nước có về nguồn
Mây đi mây có cùng non trở về?
Mình về, ta gửi về quê
Thuyền nâu trâu mộng với bè nứa mai
Nâu này nhuộm áo không phai
Cho lòng thêm đậm cho ai nhớ mình
Trâu về, xanh lại Thái Bình
Nứa mai gài chặt mối tình ngược xuôi.
- Nước trôi, lòng suối chẳng trôi
Mây đi mây vẫn nhớ hồi về non
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn
Chàm nâu thêm đậm, phấn son chẳng nhòa.
Nứa mai mình gửi quê nhà
Nước non đâu cũng là ta với mình
Thái Bình đồng lại tươi xanh
Phên nhà lại ấm, mái đình lại vui...
- Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao, còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông, còn nhớ bản làng
Sáng đèn, còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?
Mình đi, ta hỏi thăm chừng
Bao giờ Việt Bắc tưng bừng thêm vui?
- Đường về, đây đó gần thôi!
Hôm nay rời bản về nơi thị thành
Nhà cao chẳng khuất non xanh
Phố đông, càng giục chân nhanh bước đường.
Ngày mai về lại thôn hương
Rừng xưa núi cũ yêu thương lại về
Ngày mai rộn rã sơn khê
Ngược xuôi tàu chạy, bốn bề lưới giăng.
Than Phấn Mễ, thiếc Cao Bằng
Phố phường như nấm như măng giữa trời
Mái trường ngói mới đỏ tươi.
Chợ vui trăm nẻo về khơi luồng hàng
Muối Thái Bình ngược Hà Giang
Cày bừa Đông Xuất, mía đường tỉnh Thanh
Ai về mua vại Hương Canh
Ai lên mình gửi cho anh với nàng
Chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng
Vải tơ Nam Định, lụa hàng Hà Đông
Áo em thêu chỉ biếc hồng
Mùa xuân ngày hội lùng tùng thêm tươi
Còn non, còn nước, còn trời
Bác Hồ thêm khỏe, cuộc đời càng vui!
- Mình về với Bác đường xuôi
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người
Nhớ ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường!
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước lên đèo
Người đi rừng núi trông theo bóng Người...
- Lòng ta ơn Đảng đời đời
Ngược xuôi đôi mặt một lời song song.
Ngàn năm xưa nước non Hồng
Còn đây ơn Đảng nối dòng dài lâu
Ngàn năm non nước mai sau
Đời đời ơn Đảng càng sâu càng nồng.
Cầm tay nhau hát vui chung
Hôm sau mình nhé, hát cùng Thủ đô.
~Tố-Hữu~
   1954


TA ĐI TỚI

Ta đi giữa ban ngày
Trên đường cái, ung dung ta bước.
Đường ta rộng thênh thang tám thước
Đường Bắc Sơn, Đình Cả, Thái Nguyên
Đường qua Tây Bắc, đường lên Điện Biên
Đường cách mạng, dài theo kháng chiến...
Đến hôm nay đường xuôi về biển
Mới tinh khôi màu đất đỏ tươi
Đẹp vô cùng, Tổ quốc ta ơi!
Ai về với quê hương ta tha thiết
Sông Hương, Bến Hải, Cửa Tùng...
Ai vô đó, với đồng bào, đồng chí
Nói với Nửa - Việt Nam yêu quý
Rằng: nước ta là của chúng ta
Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa!
Chúng ta, con một cha, nhà một nóc
Thịt với xương, tim óc dính liền.
Dù ai nói ngả nói nghiêng
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân.
Dù ai rào giậu ngăn sân
Lòng ta vẫn giữ là dân Cụ Hồ!
Ta đã lớn lên rồi trong khói lửa
Chúng nó chẳng còn mong được nữa
Chặn bàn chân một dân tộc anh hùng.
Những bàn chân từ than bụi, đầy bùn
Đã bước dưới mặt trời cách mạng.
Những bàn chân của Hóc Môn, Ba Tơ, Cao Lạng
Lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu
Những bàn chân đã vùng dậy đạp đầu
Lũ chúa đất xuống bùn đen vạn kiếp!
Ta đi tới, trên đường ta bước tiếp,
Rắn như thép, vững như đồng.
Đội ngũ ta trùng trùng điệp điệp
Cao như núi, dài như sông
Chí ta lớn như biển Đông trước mặt!
Ta đi tới, không thể gì chia cắt
Mục Nam Quan đến bãi Cà Mau
Trời ta chỉ một trên đầu
Bắc Nam liền một biển.
Lòng ta không giới tuyến
Lòng ta chung một Cụ Hồ
Lòng ta chung một Thủ đô
Lòng ta chung một cơ đồ Việt Nam!
~Tố-Hữu~
  8-1955

CÁNH CHIM KHÔNG MỎI

Chiều nay gió lặng, Nắng hanh
Mây hồng trắng nõn, trời xanh, Bác về*
Sông hồng nắng rực bờ đê
Nắng thơm rơm mới, đồng quê gặt mùa

Bác đi, muôn dặm đường xa
Hôm nay tuyết lạnh, nay vừa nắng lên
Bác về, tóc có bạc thêm?
Năm canh, bốn biển, có đêm nghĩ nhiều?

Hỡi Người, tim những thwong yêu
Cánh chim không mỏi sơm chiều vẫn bay
Chim kêu tung cánh chim bay
Ba mươi sáu triệu chim bầy gọi nhau**

Chim kêu ríu rít trên đầu
Mùa cam đương ngọt địa cầu của ta
Giá sương đwogn hẹn mùa hoa
Nắng xuân từ Mạc-tư-khoa đã về.

Sông hồng nắng rực bờ đê
Nắng thơm rơm mới, đồng quê gặt mùa
Hoa ơi, con gái của cha
Cha nâng con nhé, làm hoa mừng Người.

Bác về, vui đó, con ơi!
Bác hôn các cháu, bác cười với dân
Ngày vui vui những hai lần:
Bác về, mang cả mùa xuân lại nhà.
~Tố-Hữu~
12- 1960


BÀI CA MÙA XUÂN 1961

Tôi viết bài thơ xuân
Nghìn chín trăm sáu mốt
Cành táo đầu hè rung rinh quả ngọt
Nắng soi sương giọt long lanh...
Rét nhiều nên ấm nắng hanh
Đắng cay lắm mới ngọt lành đó chăng?
Giã từ năm cũ bâng khuâng
Đã nghe xuân mới lâng lâng lạ thường!
Chào xuân đẹp! Có gì vui đấy
Hỡi em yêu? Mà má em đỏ dậy
Như buổi đầu hò hẹn, say mê
Anh nắm tay em, sôi nổi, vụng về
Mà nói vậy: "Trái tim anh đó
Rất chân thật chia ba phần tươi đỏ:
Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều
Phần cho thơ, và phần để em yêu..."
Em xấu hổ: "Thế cũng nhiều anh nhỉ!"
Rồi hai đứa hôn nhau, hai người đồng chí
Dắt nhau đi, cho đến sáng mai nay
Anh đón em về, xuân cũng đến trong tay!
Ôi tiếng hót vui say con chim chiền chiện
Trên đồng lúa chiêm xuân chao mình bay liệng
Xuân ơi xuân, vui tới mông mênh
Biển vui dâng sóng trắng đầu ghềnh
Thơ đã hát, mát trong lời chúc:
Đường lên hạnh phúc rộng thênh thênh
Tam Đảo, Ba Vì vui núi xuân xanh...
Chào 61! Đỉnh cao muôn trượng
Ta đứng đây, mắt nhìn bốn hướng
Trông lại nghìn xưa, trông tới mai sau
Trông Bắc trông Nam, trông cả địa cầu!
Trải qua một cuộc bể dâu
Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình
Nổi chìm kiếp sống lênh đênh
Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều!
Nghe hồn Nguyễn Trãi phiêu diêu
Tiếng gươm khua, tiếng thơ kêu xé lòng...
Ôi tiếng của cha ông thuở trước
Xin hát mừng non nước hôm nay:
Một vùng trời đất trong tay
Dẫu chưa toàn vẹn, cũng bay cờ hồng!
Việt Nam, dân tộc anh hùng
Tay không mà đã thành công nên người!
Có gì đẹp trên đời hơn thế
Người yêu người sống để yêu nhau
Đảng cho ta trái tim giàu
Thẳng lưng mà bước, ngẩng đầu mà bay!
Đời vui đó, hôm nay mở cửa
Như dãy hàng bách hóa của ta
Hỡi những người yêu, hãy ghé mua hoa
Và đến đó, sắm ít quà lễ cưới:
Lụa Nam Định đẹp tươi mát rượi
Lược Hàng Đào chải mái tóc xanh!
Ta còn nghèo, phố chật nhà gianh
Nhưng cũng đủ vài tranh treo Tết...
Đời vui đó, tiếng ca Đoàn kết
Ta nắm tay nhau xây lại đời ta
Ruộng lúa, đồng khoai, nương sắn, vườn cà
Chuồng lợn, bầy gà, đàn rau, ao cá
Dọn tí phân rơi, nhặt từng ngọn lá
Mỗi hòn than, mẩu sắn, cân ngô
Ta nâng niu gom góp dựng cơ đồ!
Ồ thích thật, bài thơ miền Bắc
Rất tự do nên tươi nhạc, tươi vần
Cả không gian như xích lại gần
Thời gian cũng quên tuần quên tháng.
Đời trẻ lại. Tất cả đều cách mạng!
Rũ sạch cô đơn, riêng lẻ, bần cùng
Quê hương ta rộn rã cuộc vui chung
Người hợp tác nên lúa dày thêm đó.
Đường nở ngực. Những hàng dương liễu nhỏ
Đã lên xanh như tóc tuổi mười lăm
Xuân ơi Xuân, em mới đến dăm năm
Mà cuộc sống đã tưng bừng ngày hội
Như hôm nay, giữa công trường đỏ bụi
Những đoàn xe vận tải nối nhau đi
Hồng Quảng, Lào Cai, Thái Nguyên, Việt Trì
Tên đất nước reo vui bao tiếng gọi...
Nào đi tới! Bác Hồ ta nói
Phút giao thừa, tiếng hát đêm xuân
Kế hoạch năm năm. Mời những đoàn quân
Mời những bàn chân, tiến lên phía trước.
Tất cả dưới cờ, hát lên và bước!
Đi ta đi! Khai phá rừng hoang
Hỏi núi non cao, đâu sắt đâu vàng?
Hỏi biển khơi xa, đâu luồng cá chạy?
Sông Đà, sông Lô, sông Hồng, sông Chảy
Hỏi đâu thác nhảy, cho điện quay chiều?
Hỡi những người trai, những cô gái yêu
Trên những đèo mây, những tầng núi đá
Hai bàn tay ta hãy làm tất cả!
Xuân đã đến rồi. Hối hả tương lai
Khói những nhà máy mới ban mai...
Tôi viết cho ai bài thơ 61?
Đêm đã khuya rồi, rét về tê buốt
Hà Nội rì rầm... Còi thổi ngoài ga
Một chuyến tàu chuyển bánh đi xa
Tiếng xình xịch, chạy dọc đường Nam Bộ...
Ôi đâu phải con tàu! Trái tim ta đó
Tiếng đập thình thình, muốn vỡ làm đôi!
Ta biết em rất khỏe, tim ơi
Không khóc đấy. Nhưng sao mà nóng bỏng
Như lửa cháy trong lòng ta gió lộng?
Mấy hôm nay, như đứa nhớ nhà
Ta vẩn vơ hoài, rạo rực, vào ra
Nghe tiếng mõ và nghe tiếng súng
Miền Nam dậy, hò reo náo động!
Ba con tôi đã ngủ lâu rồi
Còn bao nhiêu chưa được ngủ trong nôi
Miền Bắc thiên đường của các con tôi!
Gà gáy sáng. Thơ ơi, mang cánh lửa
Hãy bay đi! Con chim kêu trước cửa
Thêm một ngày xuân đến. Bình minh
Cành táo đầu hè quả ngọt rung rinh
Như hạnh phúc đơn sơ, ước mơ nho nhỏ
Treo trước mắt của loài người ta đó:
Hòa bình
ấm no
Cho
con người
Sung sướng
Tự do! yêu dấu gian lao.
~Tố Hữu~
24-1-1961


MẸ SUỐT 

Lặng nghe mẹ kể ngày xưa
Chang chang cồn cát nắng trưa Quảng Bình
Mẹ rằng:Quê mẹ, Bảo Ninh
Mênh mông sóng biển lênh đênh mạn thuyền
Sớm triều nước xuống triều lên
Cực thân từ thuở mới lên chín mười
Lớn đi ở bốn kẻ người
Mười hai năm lẻ, một thời xuân qua
Lấy chồng cũng khổ con ra
Tám lần đẻ, mấy lần sa, tội tình!
Nghĩ mà thương mẹ cha sinh
Thương chồng con laị thương mình xót xa...

Bây chừ sông nước về ta
Đi khơi đi lộng, thuyền ra thuyền vào
Bây chừ biển rộng trời  cao
Cá tôm cũng sướng, lòng nào chẳng xuân!
Ông nhà theo bạn Ềxuất quânỂ
Tui may cũng được vô chân Ềsẵn sàngỂ
Một tay lái chiếc đò ngang
Bến sông Nhật Lệ, quân sang đêm ngày
Sợ chi sóng nước tàu bay
Tây kia ta đã thắng, Mỹ này ta chẳng thua!
Kể chi tuổi tác già nua
Chống chèo xin cứ thi đua đến cùng!

Ngẩng đầu mái tóc mẹ rung
Gió lay như sóng biển tung trắng bờ...

Gan chi, gan rứa. mẹ nờ?
Mẹ rằng: Cứu nước, mình chờ chi ai?
Chẳng bằng con gái, con trai
Sáu mươi còn một chút tài đò đưa
Tàu bay hắn bắn sớm trưa
Thì tui cứ việc nắng mưa đưa đò...
Ghé tai mẹ, tôi tò mò:
Cớ rằng ông cũng ưng cho mẹ chèo?
Mẹ cười: Nói cứng, phải siêu
Ra khơi ông còn dám, tui chẳng liều bằng ông!
Nghe ra, ông cũng vui lòng
Tui đi, còn chạy ra sông dặn dò:
"Coi chừng sóng lớn, gió to
Màn xanh đây mụ, đắp cho kín mình!"

Vui sao  câu chuyện ơn tình
Nắng trưa cồn cát Quảng Bình cũng say...
~Tố-Hữu~
4-11-1965


HỒ CHÍ MINH ! HỒ CHÍ MINH !

Người đứng trên đài, lặng phút giây
Trông đàn con đó, vẫy hai tay
Cao cao vầng trán... Ngời đôi mắt
Độc lập bây giờ mới thấy đây!

Người đọc Tuyên ngôn... Rồi chợt hỏi :
"Đồng bào nghe tôi nói rõ không ?"
Ôi câu hỏi, hơn một lời kêu gọi
Rất đơn sơ mà ấm bao lòng !

Cả muôn triệu một lời đáp: "Có !"
Như Trường Sơn say gió biển Đông
Vâng Bác nói, chúng con nghe rõ
Mỗi tiếng Người mang nặng núi sông.

Trời bỗng xanh hơn, nắng chói loà
Ta nhìn lên Bác, Bác nhìn ta
Bốn phương chắc cũng nhìn ta đó
Nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà!

Ta đứng đây, lẫm liệt đường hoàng
Như Thạch Sanh, khí phách hiên ngang
Lưng đàn, tay búa, tay giương nỏ
Chém Mãng xà vương, giết đại bàng.

Chúng đến đó. Cả bầy hùm sói
Pháp theo Anh, một giống thực dân
Máu đã chảy. Miền Nam đã gọi.
Những chuyến tàu hối hả ra quân...

Ghê thay lũ ô binh thổ phỉ
Kéo vào ăn, miền Bắc xác xơ
Nguy vận nước mong mang đầu chỉ
Sức toàn dân quyết giữ cơ đồ!

Bác Hồ thức. Năm canh không ngủ
Nghe phong ba gào thét đá ghềnh
Vững tay lái. Ôi người thuỷ thủ
Đã từng quen bốn biển lênh đênh!

Người trông gió bỏ buồm, chọn lúc
Nước cờ hay, xoay vạn kiêu binh
Lòng nhẫn nhục quyết không khuất phục
Yêu hoà bình, đâu sợ chiến chinh!

Giặc đã đánh. Thì ta quyết đánh!
Thà hy sinh tất cả không nao.
Lời Bác gọi, nửa đêm vang lệnh:
"Hãy xông lên, chiến sĩ đồng bào"!

Cà nuớc đáp một lời: Quyết thắng!
Phố phường giăng chiến luỹ, vươn cao
Xóm thôn dựng pháo đài, đứng thẳng
Tre thành chông, người hoá anh hào!

Trải chín năm trường, đi kháng chiến
Gót chân trơn càng luyện tinh thần.
Con suối nhỏ cũng mang hồn biển
Mỗi đời riêng lớn giữa lòng dân.

Ta có Bác dẫn đường lên trước
Bác cùng ta, mỗi bước gian lao
Vui sao buổi hành quân nắng lửa
Bỗng gặp Người, lưng ngựa đèo cao...

Thương sao, sáng lên đường ra trận
Người đến thăm ta, vượt lũ nguồn
Nhớ sao giữa chiến trường lửa đạn
Người đứng trông ta đánh diệt đồn!

Chống gậy lên non xem trận địa
Vạn trùng núi đỡ vạn trùng mây
Quân ta khí mạnh nuốt Ngưu Đẩu
Thề diệt xâm lăng lũ sói cầy

Ôi những chiều mưa đầm lá cọ
Bác vào, tươi mỗi lán lều con
Bữa cơm muối, măng non bí đỏ
Tháng ngày vui có Bác mà ngon!

Nơi Bác ở: Sàn mây vách gió
Sáng nghe chim rừng gáy bên nhà
Đêm trăng một ngọn đèn khêu nhỏ
Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Tiếng hát xa đưa... Muôn tiếng hát
Điện Biên! Trời đất dậy tin mừng
Bác Hồ khẽ vuốt chòm râu mát
Gió sớm đưa hương ngát cả rừng...


Điện Biên! Lừng lẫy Việt Nam ta
Vang tiếng kèn vui gọi mọi nhà
Mời bạn gần xa ra tuyến lửa
Mở đường giải phóng Á-Phi-La!

Chưa vẹn tròn vui, đã sáng tươi
Đường lên hạnh phúc đỏ chân trời
Bốn nghìn năm cũ, bao mơ ước
Đã được hôm nay, rạng mặt người!

Chung sức lại, ơi anh ơi chị
Ruộng đồng ta, nhà máy ta đây.

Chỉ hai tiếng thân yêu : đồng chí
Đã thương rồi, ấm những bàn tay.

Đơn giản vậy, cơm ăn áo mặc
Của ta nay, nặng biết bao tình.
Cả không khí, trời xanh miền Bắc
Cũng trong như lòng Bác thương mình!

Muôn dặm ta đi, mới bước đầu
Nhớ lời Bác dạy, dễ quên đâu!
Nước non còn nỗi đau chia cắt
Nam Bắc hai miền, ta có nhau

Giặc Mỹ ngông cuồng đã đến đây
Hắn thường đem súng doạ Đông Tây
Lương tâm quen thói vàng mua bán
Có chúng ta đây, diệt chúng mày!

Máu đọng chưa khô, máu lại đầy
Hỡi miền Nam trăm đắng nghìn cay
Hăm lăm năm  chẳng rời tay súng
Đi trước về sau, đã dạn dầy!

Hỡi miền Bắc đó, nặng đôi vai
Gánh cả non sông, vượt dặm dài
Xẻ dọc Trường Sơn, đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai!

Ôi! Đất anh hùng dễ mấy mươi
Chìm trong khói lửa, vẫn xanh tươi
Mưa bom, bão đạn, lòng thanh thản
Nhạt muối, với cơm, miệng vẫn cười

Thời đại lớn cho ta đôi cánh
Không có gì quý hơn Độc lập Tự do!
Bốn mươi thế kỷ cùng ra trận
Có Đảng ta đây, có Bác Hồ.

Ta hiểu. Miền Nam thương nhớ Bác
Nóng lòng mong đợi Bác vào thăm
Ta hiểu. Đêm nằm nghe gió gác
Bác thường trăn trở, nhớ miền Nam!

Ai nói giùm ta hết tấm lòng
Bác Hồ thương nhớ mỗi dòng sông
Mỗi hòn núi ở miền Nam đó
Như thịt da ta rỏ máu hồng!

Bản đồ bên vách treo, không nói
In mãi bàn tay Bác chỉ đường
Tấm lịch ngày ngày nghe Bác hỏi:
Hôm nay, đâu thắng ở tiền phương?

Ơi anh Giải phóng chân không mỏi
Mỗi bước hành quân, mỗi chiến công
Có thấy ấm lòng nghe bác gọi
Sáng đường, đôi mắt Bác hằng trông!

Các anh, các chị ở trong ra
Những đứa con yêu trở lại nhà
Có phải mỗi lần ta gặp Bác
Bác vui như trẻ lại  cùng ta?

Ôi! Nụ cười vui của Bác Hồ
"Miền Nam đánh giỏi, Mỹ thua to!"
Bác ơi ! Con biết con chưa giỏi
Quét sạch đường đi, để Bác vô!

*

Còn những ai chưa được một lần
Trong đời, gặp Bác? Hãy nhanh chân
Tiến lên phía trước ! Trên cao ấy
Bác vẫn đưa tay đón lại gần...

Bác vẫn đi kia...giữa cánh đồng
Thăm từng ruộng lúa, hỏi từng bông
Ghé từng hợp tác, qua thôn xóm
Xem mấy trường tươi, mấy giếng trong...

Bác vẫn về kia...Những sớm trưa
Hỏi lò than, xưởng máy, giàn tơ
Hỏi anh hỏi chị công nhân ấy
Vàng ngọc thi đua được mấy giờ?

Ơi anh bộ đội trên mâm pháo
Mắt lượn trời cao, rõi bóng mây
Có thấy, bốn mùa, quên nắng bão
Bên ta, Bác vẫn thức đêm ngày?

Biết chăng, hỡi mẹ rất anh hùng
Con mấy lần đi lập chiến công
Hỡi chị hằng trông ngày thắng trận
Bác khuyên thương nhớ vững bền lòng.

Và các em có hiểu vì sao
Lòng Bác mênh mông vẫn dạt dào
Yêu nụ mầm non,yêu tuổi trẻ?
Biển thường yêu vậy sóng xôn xao...

Vì sao? Trái đất nặng ân tình
Nhắc mãi tên Người: Hồ Chí Minh
Như một niềm tin, như dũng khí
Như lòng nhân nghĩa, đức hy sinh.

Đâu chẳng vang lời Bác thiết tha?
Đời vui tiếng Bác ấm muôn nhà
Bác điẨ Đâu cũng nghe chân bước
Như gió xuân về, đất nở hoa...

Nếu có hôm nào ta vắng Bác
Chắc là Người bận chuyến đi xa...
Ôi đàn em nhỏ quên ca hát
Hãy lớn ngoan như Bác có nhà!

Anh dắt em vào cõi Bác xưa
Đường xoài hoa trắng nắng đu đưa
Có hồ nước lặng sôi tăm cá
Có bưởi cam thơm, mát bóng dừa.

Có rào râm bụt đỏ hoa quê
Như cổng nhà xưa Bác trở về
Có bốn mùa rau tươi tốt lá
Như những ngày cháo bẹ măng tre.

Nhà gác đơn xơ, một góc vườn
Gỗ thường mộc mạc, chẳng mùi sơn
Giường mây chiếu cói, đơn chăn gối
Tủ nhỏ, vừa treo mấy áo sờn.

Máy chữ thôi reo, nhớ ngón đàn
Thong dong chiếc gậy gác bên bàn
Còn đôi dép cũ mòn quai gót
Bác vẫn thường đi giữa thế gian...

Bụt mọc dầm chân đứng đợi ai
Quanh hồ thấp thoáng bóng hoa mai
Ngọn đèn kia thức bên ai đó
Mà dạ hương còn phảng phất bay!

Ô vẫn còn đây,của các em
Chồng thư mới mở, Bác đang xem
Chắc Người thương lắm lòng con trẻ
Nên để buâng khuâng gió động rèm...

Con cá rô ơi, chớ có buồn
Chiều chiều Bác vẫn gọi rô luôn.
Dừa ơi, cứ nở hoa đơm trái
Bác vẫn chăm tay tưới ướt bồn

Ôi lòng Bác vậy, cứ thương ta
Thương cuộc đời chung, thương lá hoa
Chỉ biết quên mình cho hết thảy
Như dòng sông chảy, nặng phù sa.

Như đỉnh non cao tự giấu hình
Trong rừng xanh lá, ghét hư vinh
Bác mong con cháu mau khôn lớn
Nối gót ông cha, bước kịp mình.

Ta vào thăm Bác, gặp Lê-nin
Trán rộng yêu thương, đôi mắt nhìn
Người đến cùng ta, ngồi với Bác
Như hình với bóng, một anh linh.

Bác ơi!

Xin để Người yên giấc mộng say
Còn trời đất đó, nước non đây.
Còn ba mươi triệu con Nam Bắc
Quyết thắng, bền gan, tay nắm tay.

Còn triệu anh em đồng chí đó
Bốn mươi năm Đảng, óc tim này.
Nhớ lời di chúc, theo chân Bác.
Len những tầng cao, thẳng cánh bay!

Ngày mai thống nhất lại non sông
Mẹ được gần con, vợ gần chồng
Ôi đến ngày ta sung sướng nhất
Thoả lòng Bác lại trở về trông!

Đời sẽ tươi hơn, xây dựng mới
Đàng hoàng to đẹp, sáng trời Đông
Tuổi xanh vững bước lên phơi phới
Đi tới, như lòng Bác ước mong.

Đem ngày gần lại, đổi năm xa
Nghĩa lớn tình chung, vẫn ruột rà
Bốn biển anh em hoà hợp  lại
Trăm đường một hướng, nở muôn hoa.

Bác ơi!

Tết đến. Giao thừa đó
Vẫn đón nghe thơ Bác mọi lần
Ríu rít đàn em vui pháo nổ
Tưởng nghìn tay Bác vỗ sang xuân.
~Tố-Hữu~                                
1-1970


VIỆT NAM MÁU VÀ HOA

Khao khát trăm năm, mãi đợi chờ
Hôm nay vui đến, ngỡ trong mơ
Một trời êm ả, xanh không tưởng
Mặt đất bình yên giấc trẻ thơ
Đây cuộc hồi sinh, buổi hóa thân
Mùa đông thế kỷ chuyển sang xuân
Ôi Việt Nam! Từ trong biển máu
Người vươn lên, như một thiên thần!
Thế này chăng? Thuở xưa hoang dã
Chàng Sơn Tinh thắng giặc Thủy Tinh
Càng dâng nước, càng cao ngọn núi
Chân Trường Sơn đạp sóng Thái Bình.
Chúng muốn đốt ta thành tro bụi
Ta hóa vàng nhân phẩm, lương tâm
Chúng muốn ta bán mình ô nhục
Ta làm sen thơm ngát giữa đầm.
Ta sẵn sàng xé trái tim ta
Cho Tổ quốc, và cho Tất cả
Lá cờ này là máu là da
Của ta, của con người, vô giá.
Trắng khăn tang, em chẳng khóc đâu
Hỡi em gái mất cha mất mẹ
Nước mắt rơi, làm nhòa mặt quân thù
Em phải bắn, trúng đầu giặc Mỹ.
Tình thương lớn, mạnh hơn lửa thép
Trận địa đây xây giữa lòng người
Dẫu mưa nắng, trái đất tròn vẫn đẹp
Đời yêu ta, ta phải thắng cho Đời.
Cút sạch đi, bầy sói hôi tanh!
Đã đến buổi cuối cùng phán quyết:
Trả về ta, đất rộng trời xanh
Cho bay, những hố bom làm huyệt.
Lịch sử muốn bay cúi đầu tội lỗi
Dưới gươm thiêng hùng khí Thủ đô
Cả bốn biển hoan hô Hà Nội
Pháo đài bay rụng đỏ mặt hồ.
Ngọc Hà em! Lộng lẫy hoa tươi
Xin thơm khắp miền Nam, miền Bắc
Chắc Bác Hồ vui, xin kính dâng Người
Và tặng cả anh em cùng ta đánh giặc.
Không nỗi đau nào riêng của ai
Của chung nhân loại, chiến công này,
Việt Nam ơi, máu và hoa ấy
Có đủ mai sau, thắm những ngày?
Chưa dễ lành đâu, những vết thương
Nửa mình còn nhức, hỡi quê hương!
Song mùa vui đã mang xuân tới
Đã tắt hôm nay lửa chiến trường.
Rừng núi đã xanh màu giải phóng
Hãy trào lên, ơi sóng Cửu Long
Quét phăng những rác bùn ứ đọng
Những thép gai ngăn mặt, cắt lòng.
Ta lại về ta, những đứa con
Máu hòa trong máu, đỏ như son.
Sài Gòn ơi, Huế ơi! Xin đợi
Tái hợp, huy hoàng, cả Nước non!
~Tố-Hữu~
Xuân 1973


BÀI CA QUÊ HƯƠNG

20 năm dằng dặc xa quê
Nay mới về thăm mừng tái tê...
Mới được nghe giọng hờn dịu ngọt
"Huế giải phóng nhanh, mà anh lại muộn về!"
Ôi, cơ chi anh được về với Huế
Không đợi trưa nay, phượng nở với cờ
Về với phá Tam Giang, như con trích con chuồn dưới bể
Về với từng lá bến Tuần, lợp nón bài thơ...
Cơ chi anh sớm được về bên nội
Hôn nỗi đau tan nát Phù Lai
Như quê bạn Niệm Phò trơ trụi
Đạn bom cày cả nương sắn, đồng khoai!
Cơ chi anh sớm được về bên ngoại
Giữ bờ tre, bên nước Thanh Lương
Thương các cậu, các dì chịu khảo tra, không nói
Đào hầm nuôi cán bộ tháng năm trường!
Quê hương ơi, sao mà da diết thế
Giọng đò đưa... lòng Huế đó chăng?
Vì dù đèn tắt, đã có trăng
Khổ em thì em chịu, biết làm răng đặng chừ...
Câu hò xưa mối tương tư
Thiết tha đôi lứa, mà như đôi miền!
Bây giờ, nước lớn, thuyền lên
Bắc Nam mình lại nối liền thịt da
Bây giờ, hết nỗi gần xa
Anh vào Hương Thủy, anh ra Phong Điền
Đường làng, lạ mấy cũng quen
Bước chân cứ nhớ, chẳng quên lối nào.
Ngày đi, lòng vẫn tự hào
Nay về, càng ngẩng đầu cao với trời.
Thừa Thiên, đẹp cảnh, đẹp người
Núi xanh khí phách, biển ngời sức xuân!
Núi này, Bạch Mã, Hải Vân
Mây đưa Anh Giải phóng quân lên đèo
Biển này, cửa Thuận sóng reo
Thanh thanh vành mũ tai bèo là em.
Hương Giang ơi, dòng sông êm
Quả tim ta, vẫn ngày đêm tự tình
Vẫn là duyên đó, quê anh
Gió mưa tan, lại trong lành mặt gương.
Bến nghèo, xưa chuyến đò ngang
Nay cầu chống Mỹ, xe sang dập dìu
Tràng Tiền, biết mấy là yêu!
Tuổi thơ áo trắng, sớm chiều bướm bay.
Ngự Bình, thông lại xanh cây
Bên kia Vọng Cảnh, bên này Thiên Thai
Bức tranh non nước tuyệt vời
Bàn tay ta lại xây đời ta đây!
Hoàng cung, thôi đã rêu dày
Ngẩn ngơ thần tượng còn say thuở nào?
Tươi rồi, cuộc sống thanh tao
Bát cơm hến cũng ngọt ngào lòng ta.
Huế ơi, đẹp lắm quê nhà
Câu Nam ai hóa bài ca anh hùng
Ai đi qua đó miền Trung
Xin mời ghé lại, vui cùng Huế tôi!
     ~Tố Hữu~
Kỷ niệm tháng 5-1975


<bài viết được chỉnh sửa lúc 08.02.2011 11:51:14 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dòng thơ miền bắc - 20.02.2011 10:46:48




TẾ-HANH
  
1921

Tức Trần-Tế-Hanh, sinh tại Quảng-Ngãi,
làm thơ, nghiên cứu văn học, dịch thuật.


VƯỜN XƯA

Mảnh vườn xưa cây mỗi ngày mỗi xanh
Bà mẹ già tóc mỗi ngày mỗi bạc
Hai ta ở hai đầu công tác
Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa?

Hai ta như ngày nắng tránh ngày mưa
Như mặt trăng mặt trời cách trở
Như sao hôm sao mai không cùng ở
Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa?

Hai ta như sen mùa hạ cúc mùa thu
Như tháng mười hồng tháng năm nhãn
Em theo chim đi về tháng tám
Anh theo chim cùng tháng ba qua

Một ngày xuân em trở lại nhà
Nghe mẹ nói anh có về hái ổi
Em nhìn lên ngọn cây gió thổi
Lá như môi thì thầm gọi anh về

Lần sau anh trở lại mùa hè
Mẹ nói em có về bên giếng giặt
Anh nhìn mãi giếng sâu trong vắt
Nước như gương soi lẻ bóng hình anh

Mảnh vườn xưa cây mỗi ngày mỗi xanh
Bà mẹ già tóc mỗi ngày mỗi bạc
Hai ta ở hai đầu công tác
Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa?
~Tế-Hanh~
   1957


NHỚ CON SÔNG QUÊ HƯƠNG

Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước gương trong soi tóc những hàng tre
Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè
Tỏa nắng xuống lòng sông lấp loáng.
Chẳng biết nước có giữ ngày, giữ tháng
Giữ bao nhiêu kỉ niệm giữa dòng trôi?
Hỡi con sông đã tắm cả đời tôi!
Tôi giữ mãi mối tình mới mẻ
Sông của quê hương, sông của tuổi trẻ
Sông của miền Nam nước Việt thân yêu
Khi bờ tre ríu rít tiếng chim kêu
Khi mặt nước chập chờn con cá nhảy
Bạn bè tôi tụm năm tụm bảy
Bầy chim non bơi lội trên sông
Tôi giơ tay ôm nước vào lòng
Sông mở nước ôm tôi vào dạ
Chúng tôi lớn lên mỗi người mỗi ngả
Kẻ sớm khuya chài lưới bên sông
Kẻ cuốc cày mưa nắng ngoài đồng
Tôi cầm súng xa nhà đi kháng chiến
Nhưng lòng tôi như mưa nguồn, gió biển
Vẫn trở về lưu luyến bên sông
                          *
Tôi hôm nay sống trong lòng miền Bắc
Sờ lên ngực nghe trái tim thầm nhắc
Hai tiếng thiêng liêng, hai tiếng Ềmiền NamỂ
Tôi nhớ không nguôi ánh nắng màu vàng
Tôi quên sao được sắc trời xanh biếc
Tôi nhớ cả những người không quen biếtẨ
Có những trưa tôi đứng dưới hàng cây
Bỗng nghe dâng cả một nỗi tràn đầy
Hình ảnh con sông quê mát rượi
Lai láng chảy lòng tôi như suối tưới
Quê hương ơi! Lòng tôi cũng như sông
Tình Bắc Nam chung chảy một dòng
Không ghành thác nào ngăn cản được
Tôi sẽ lại nơi tôi hằng mơ ước
Tôi sẽ về sông nước của quê hương
Tôi sẽ về sông nước của tình thương...
~Tế-Hanh~
  (1956)


BÀI THƠ TÌNH Ở HÀNG-CHÂU*

Anh xa nước nên yêu thêm nước
Anh xa em cành nhớ thêm em
Trăng Tây Hồ vời vợi thâu đêm
Trời Hàng Châu bốn bề êm ái
Mùa thu đã đi qua còn gửi lại
Một ít vàng trong nắng trong cây
Một ít buồn trong gió trong mây
Một ít vui trên môi người thiếu nữ...
Anh đã đến những nơi lịch sử
Đường Tô Đông Pha làm phú
Đường Bạch Cư Dị đề thơ
Hồn người xưa vương vấn tự bao giờ
Còn thao thức trên cành đào ngọn liễu
Phong cảnh đẹp nhưng lòng anh thấy thiếu
Bức tranh kia anh muốn điểm thêm màu
Có hai ta cùng tựa bên cầu
Cho mặt nước Tây Hồ trong sáng nữa
Lá phong đỏ như mối tình đượm lửa
Hoa cúc vàng như nỗi nhớ day dưa
Làn nước qua ánh mắt ai đưa
Cơn gió đến bàn tay em vẫy
Chúng mình đã yêu nhau từ độ ấy
Có núi sông và có trăng sao
Có giận hờn và có chiêm bao
Cay đắng ngọt bùi cuộc đời kháng chiến
Nói sao hết em ơi bao kỉ niệm...
Những ngày buồn nghĩ đến thấy vui vui
Những ngày vui sao lại thấy bùi ngùi
Anh không muốn hỏi nhiều quá khứ
Ngày đẹp nhất là ngày rồi gặp gỡ
Rời Tây Hồ trăng xuống Bắc Cao Phong
Chỉ mình anh với im lặng trong phòng
Anh ngước nhìn bức thêu trên vách:
Hai bóng người đi
một hàng tùng bách
Bàn tay nào đã dệt nỗi lòng anh?
Tiếng mùa xuân đem sóng vỗ bên mình
Vơ vẩn tình chăn
chập chờn mộng gối
Anh mơ thấy Hàng Châu thành Hà Nội
Nước Tây Hồ bỗng hóa nước Hồ Tây
Hai chúng mình cùng bước dưới hàng cây.
~Tế-Hanh~



BẰNG-VIỆT
    
1941

Tức Nguyễn-Việt-Bằng, sinh tại  Thạch-Thất,
Hà-Tây, làm thơ, viết tryện ngắn và dịch.


BẾP LỬA*

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hung nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay

Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế
Mẹ cùng cha bận công tác không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?

Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh
Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên

Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một bếp lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một bếp lửa chứa niềm tin dai dẳng
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫngiữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng- Bếplửa

Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng bao giờ quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?
~Bằng-Việt~


EM ĐỪNG GHEN

Em đừng ghen với những thoáng say mê
Trong giấc mơ hoa niên chỉ bay mà chẳng đứng
Cơn gió nhỏ giữa chiều thu lơ lửng
Búp lá bên đường cũng thức dậy tình yêu
Và mùa hè đầy ắp tiếng ve kêu
Hoa sen thắm đưa hương mười tám tuổi
Và những cái nhìn rất vội
Suốt mùa trăng, mùa trăng, mùa trăng.
Em đừng ghen với quá khứ trong anh
Những khuôn mặt đi qua, nụ cười và nước mắt
Tuổi trẻ rì rầm những đêm không tắt
Thuở tình yêu như cánh gió không bờ...
Nhưng chỉ tới hôm nay, lắng hơn hết bao giờ
Nỗi vui đã chín đằm, mới thành đời sống thật
Em ghen chi những điều đã mất
Như ánh sáng cầu vồng, bong bóng những cơn mưa .
Em từng khêu bấc dầu những năm tháng gay go
Không phải để đọc thơ mà để ngồi vá áo
Em từng xách ba lô vẹo người trong mưa bão
Cho kịp chuyến xe tàu đi công tác nửa đêm.
Khi chia tay em chỉ biết lặng nhìn
Chân trời đỏ ánh đèn pha dữ dội
Đôi mắt thẳm sâu không còn có tuổi
Vừa gan góc lạ lùng, vừa yếu đuối ngây thơ .
Thiêng liêng sao những phút ấy bây giờ
Quá khứ đâu làm bận bịu hai ta
Mà chỉ có hôm nay, những ngày đang sống thực
Khi ta đúng là ta, sau nhiều phen đánh vật.
Cuộc đời càng khó khăn càng phải biết thương đời
Quá khứ đã thành xa xỉ lâu rồi
Tất cả tâm hồn anh có dừng đâu ở đó
Chỉ tụ lại trong anh mọi vui buồn sướng khổ
Em đừng ghen với quá khứ của anh
~Bằng Việt~

<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.02.2011 10:54:26 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dòng thơ miền bắc - 22.02.2011 09:07:14




LƯU-QUANG-VŨ


NÓI VỚI CON CUỐI NĂM


Cha lên làng sơ tán thăm con
hoa mận nở trắng vườn
năm sắp hết
chợ quê rộn rịp
vàng hương nếp mới lá rong xanh
Hai cha con ngồi trên bờ đê cao
sông chiều ngút khói
gió rạp mình cả dại
sau lưng Hà Nội sương mờ
thành phố vừa trải qua
những trận bom hủy diệt
lòng cha giờ dập nát
những xác người máu loang
biết nói gì với con
đôi mắt trẻ đen tròn ngơ ngác thế
cuộc chiến đã mấy chục năm trời
con mới gần ba tuổi
tia nắng sớm mong manh chùm lá mới
đêm của đời gió bão đã dài lâu
Con bi bô với bàn ghế cỏ cây
tập gọi tên các sự vật trên đời
tập tin lời người lớn
cha làm sao nói được
những khổ đau lầm lạc trên đường
các ác đen xì trong mỗi quả bom
mang mặt đẹp nói cười khôn khéo
Con hát ngọng nghịu
“vịt dắt tay gà đi chơi”
áp trán vào gò má thơ ngây
cha bỗng thấy chẳng còn gì đáng sợ
cha dạy con mến thương tất cả
rồi tự con sẽ biết căm thù
cha dạy con tin yêu từ ngọn cỏ
rồi mai sau con sẽ nghi ngờ
con sẽ trả lời những câu hỏi đời cha
Con cũng sẽ đặt nhiều câu hỏi mới
lòng cha dẫu héo khô cành mận dại
nhựa âm thầm buốt trắng những chùm hoa
con ơi con hãy tha thứ cho cha
cha chẳng thể nào sống cùng mẹ được
đời cha nắng gắt
mẹ con cần mật ngọt của đồng vui
con khôn lớn trên đời
hãy yêu thương mẹ
và hãy hiểu cho cha

Tết hòa bình đầu tiên
đất nước nghèo xơ xác
cha cũng chẳng đủ tiền
mua cho con áo đẹp
chiều bên sông gió rét
con lặng nhìn tít tắp bãi ngô xa
- Bên kia sông là gì hở cha?
- Bên kia sông có đường đất đỏ
có ruộng mía trổ cờ trắng xoá
những vườn đầy quả ngọt những đồng hoa.
- Có bươm bướm không cha?
- Có, có rất nhiều bươm bướm
Con thì thầm trong hơi thở mạnh
- Sông rộng thế làm sao sang được?
Cha ôm con vào lòng, con bé bỏng của cha
- Bên kia sông có nhiều bướm nhiều hoa
rồi cha con ta sẽ tìm được con đò
đi sang bên ấy.

~Lưu-Quang-Vũ~






Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dòng thơ miền bắc - 11.03.2011 08:11:33




BẠC-VĂN-ÙI
      
1931

Tức Lê-Gia-Hợp thường được
biết tới với tên Lương-Cầm-Giang,
quê xã Vĩnh-Thịnh, Vĩnh-Tường,
Vĩnh-Phú, Phú-Yên.



EM TẮM
*

Sao anh lại rình
Trộm xem em tắm?
Da của em ngần trắng
Da của ái của êm *
Tay của em lấm lem
Tay của than của bụi
Tay của rừng của núi,
Tay của đất, của nương
Em tắm xong lại sạch
Vẫn ngát thơm hoa rừng
Da của em trắng ngần
Là của anh tất cả
Không phải người xa lạ
Việc gì mà trộm xem!
Em tắm suối giữa mường
Tắm trong mối yêu thương
Có anh đang đứng giữ
Chớ để Tây đến mường.
~Bạc-Văn-Ùi~

(*) Ái: bố - Êm: mẹ (tiếng Thái).

NHỚ VỢ Tôi nhớ vợ tôi lắm
Xin được về hai ngày
Nhà tôi ở Mường Lay
Có con sông Nậm Rốm
Ngày kia tôi sẽ đến
Lại cầm súng được ngay
Tôi càng bắn đúng Tây
Vì tay có hơi vợ
Cho tôi đi, đừng sợ
Tôi không chết được đâu
Vì vợ tôi lúc nào
cũng mong chồng mạnh khỏe
Cho tôi đi, anh nhé
về ôm vợ hai đêm
Vợ tôi nó sẽ khen
chồng em nên người giỏi
Ngày kia tôi về tới
Được đi đánh cái đồn
Hay được đi chống càn
Là thế nào cũng thắng
Nếu có được trên tặng
cho một cái bằng khen
Tôi sẽ dọc đôi liền
Gửi cho vợ một nửa

~Bạc-Văn-Ùi~




NGUYỄN-MỸ
  
1935-1971

Sinh tại Tuy-An, Phú-Yên, làm thơ,
viết ký sự.



CUỘC CHIA LY MÀU ĐỎ*

Ðó là cuộc chia ly chói ngời sắc đỏ
Tươi như cánh nhạn lai sắc hồng
Trưa một ngày sắp ngả sang đông
Thu, bỗng nắng vàng lên rực rỡ

Tôi nhìn thấy một cô áo đỏ
Tiễn đưa chồng trong nắng vườn hoa
Chồng của cô sắp sửa đi xa
Cùng đi với nhiều đồng chí nữa

Chiếc áo đỏ rực như than lửa
Cháy không nguôi trước cảnh chia li
Vườn cây xanh và chiếc nón trắng kia
Không giấu nổi tình yêu cô rực cháy.
Không che được nước mắt cô đã chảy
Những giọt lonh lanh nóng bỏng sáng ngời
Chảy trên bình minh đang hé giữa làn môi
Và rạng đông đang bừng trên nét mặt
- Một rạng đông với màu hồng ngọc

Cây si xanh gọi họ đến ngồi
Trong bóng rợp của mình, nói tới ngày mai
Ngày mai sẽ là ngày sum họp
Ðã toả sáng những tâm hồn cao đẹp!
Nắng vẫn còn ngời trên những lá cây si
Và người chồng ấy đã ra đi...

Cả vườn hoa đã ngập tràn nắng xế
Những cánh hoa đỏ vẫn còn rung nhè nhẹ
Gió nói tôi nghe những tiếng thì thào
"Khi tổ quốc cần, họ biết sống xa nhau..."

Tôi biết cái màu đỏ ấy
Cái màu đỏ như cái màu đỏ ấy
Sẽ là bông hoa chuối đỏ tươi
Trên đỉnh dốc cao vẫy gọi đoàn người
Sẽ là ánh lửa hồng trên bếp
Một làng xa giữa đêm gió rét...
Nghĩa là màu đỏ ấy theo đi
Như không hề có cuộc chia ly...
~Nguyễn-Mỹ
~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.03.2011 10:17:16 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dòng thơ miền bắc - 17.03.2011 07:32:57




HỮU-THỈNH
      
1942

Tức Nguyễn-Hữu-Thỉnh, sinh tại
Duy-Phiên, Tam-Dương. Làm thơ,
viết truyện ngắn, ký sự.


NGHE TIẾNG CUỐC KÊU

Những đám mây bay đi
Tôi với người ở lại
Cuốc kêu ngoài bến sông

Cuốc kêu vì bẫy hiểm
Bèo leo nheo nước lên
Tôi âm thầm gọi tên
Bàn ghế và quần áo cũ
Tuổi trẻ đột ngột về
Ngơ ngác nhìn tôi
Những cánh diều để chỏm
Vui hơn điều đáng vui
Bánh đa phồng giữa chợ
Che bớt một phần buồn
Tôi ngồi gọi tên những quân bài tam cúc
Xe pháo mã những ngả đường xa lắc
Còn lại thôi hồi tiếng cuốc kêu.
Cuốc kêu từ ngày chưa ai đặt tên cho cuốc
Cha tôi nhào đất đắp đường

Ông táo bằng đất
Chiếc chén bằng đất
Những người uống rượu lần lượt bỏ đi
Cha tôi cầm chiếc chén lên
Như cầm một phần đời mình
Đã khô ra thành đất

Cuốc kêu ngoài bãi xa

Cuốc kêu từ ngày cây tre chưa đủ lá đan sàng
Trên đất ướt có người đến ở
Họ bắt đầu như một chiếc rễ nâu
Họ làm ra mọi thứ để nuôi nhau
Mong con cái có ngày mở mặt
Trời tối thì cậy ngọn đèn
Ngọn đèn bấc thắp bằng đầu lạ
Ngọn đèn bấc gió nhiều phen cướp mất

Cuốc kêu ngoài bến xa!

Cuốc kêu từ ngày em lạy mẹ lạy cha
Đi theo một sợi tơ hồng
Về với anh thành vợ thành chồng
Tình yêu nhiều đứt nối
Ta xin rừng một chiếc giường con
Xin đất một chiếc ấm nhỏ
Một đời người mà chiến chinh nhiều quá
Em níu giường níu chiếu đợi anh
Em trát những người con trai đẹp
Đợi anh
Chỉ mong anh về
áo rách cũng thơm
Chiếc chạn nhỏ với vài đôi đũa mộc
Anh cứ tưởng sau chiến tranh thì toàn là hạnh phúc
Chúng ta đã từng vỏ võ đợi nhau
Nhưng không phải em ơi, cuốc kêu không phải thế

Trưa nay có điều gì mà cuốc kêu như xé
Tôi mất hai người anh
Cả hai đều rất trẻ
Sáng nay lại có người hàng xóm chạy sang
Mỗi lần sau đám tang

Lòng ai cũng héo
Dạ ai cũng sầu
Tôi cứ tưởng không ai còn xấu nữa
Tôi cứ tưởng tốt với nhau bao nhiêu cũng còn chưa đủ

Nhưng không phải, trời ơi, cuốc kêu không phải thế.
Giếng nước than lắm kẻ chao chân
Khu vườn than: có những con sên ngấp nghé lên trời

Qua mùa hoa thì bướm cũng bay đi
Tôi ngồi buồn như lá sen rách

Cuốc kêu gì mà khắc khoải trưa nay
Tôi ngồi buồn tôi đếm ngón tay
Có mười ngón tay đếm đi đếm lại
Đếm đi đếm lại trời ngả sang chiều.

Chúng ta bị cái chết gạt về một phía
Bị hư danh gạt về một phía
Phải vượt mấy trùng khơi mới bắt gặp nụ cười.

Vừa bắt gặp nụ cười
Thì lại nghe tiếng cuốc.
~Hữu-Thỉnh~


NĂM ANH EM TRÊN MỘT
CHIẾC XE TĂNG

Năm anh em trên một chiếc xe tăng,
Như năm bông hoa nở cùng một cội,
Như năm ngón tay trên một bàn tay,
Ðã xung trận cả năm người như một.
Ha ha! Vào lính xe tăng anh trước anh sau,
Cái nết ở ăn mỗi người một tính,
Nhưng khi hát ta hòa cùng một nhịp,
Một người đau ta tất cả quên ăn.
Năm anh em mỗi đứa một quê,
Ðã lên xe ấy là cùng một hướng,
Nổ máy lên là một dạ xung phong,
Trước quân thù lòng chỉ biết có tấn công.
Ha ha! Năm anh em ta mang năm cái tên,
Ấy khi lên xe không còn tên riêng nữa,
Trên tháp pháo một ngôi sao màu lửa,
Năm quả tim chung nhịp đập ơ dồn.
Một con đường đất đỏ như son,
Một màu rừng xanh bạt ngàn hy vọng,
Một ý chí bay ra đầu ngọn súng,
Một niềm tin chiến thắng trong trận này.
~Hữu-Thỉnh~




NÔNG-QUỐC-CHẤN

          
1923-2002

Tức Nông-Văn-Quỳnh, sinh tại Ngân-Sơn,
Cao-Bằng, làm thơ, lý luận, phê bình.


DỌN VỀ LÀNG*

Mẹ! Cao-Lạng hoàn toàn giải phóng
Tây bị chết bị bắt sống hàng đàn
Vệ quốc quân chiếm lại các đồn
Người đông như kiến, súng dày như củi.

Sáng mai về làng sửa nhà phát cỏ,
Cày ruộng vườn, trồng lúa ngô khoai
Mấy năm qua quên tết tháng Giêng, quên rằm tháng bảy,
Chạy hết núi lại khe, cay đắng đủ mùi
Nhớ một hôm mù mịt mưa rơi
Cơn gió bão trên rừng cây đổ
Cơn sấm sét lán sụp xuống nát cửa
Ðường đi lại vắt bám đầy chân.

Súng nổ kia! Giặc Tây lại đến lùng.
Từng cái lán, nó đốt đi trơ trụi,
Nó vơ hết áo quần trong túi
Mẹ địu em chạy tót lên rừng
Lần đi trước, mẹ vẫy gọi con sau lưng
Tay dắt bà, vai đeo đẫy nải
Bà lòa mắt không biết lối bước đi.

Làm sao bây giờ: ta phải chống!
Giặc đã bắt cha con đi, nó đánh,
Cha chửi Việt gian, cha đánh lại Tây
Súng nổ ngay đì đùng một loạt,
Cha ngã xuống nằm lăn trên mặt đất
Cha ơi! Cha không biết nói rồi...

Chúng con còn thơ, ai nuôi ai dạy?
Không ai chống gậy khi bà cụ qua đời!
Mẹ ngồi khóc, con cúi đầu cũng khóc.
Sợ Tây nghe, mẹ dỗ "nín", con im.
Lán anh em rải rác không biết nơi tìm
Không ván, không người đưa cha đi cất.
Mẹ tháo khăn phủ mặt cho chồng,
Con cởi áo liệm thân cho bố;
Mẹ con đưa cha đi nằm một chỗ
Máu đầy tay, trên mặt nước tràn...
Mày sẽ chết! Thằng giặc Pháp hung tàn
Băm xương thịt mày, tao mới hả.

Hôm nay Cao - Bắc - Lạng cười vang
Dọn láng, rời rừng, người xuống làng
Người nói cỏ lay trong ruộng rậm
Con cày mẹ phát, ruộng ta quang.
Ðường cái kêu vang tiếng ô tô.
Trong trường ríu rít tiếng cười con trẻ.
Mờ mờ khói bếp bay trên mái nhà lá.
Mặc gà gáy chó sủa không lo,
Ngày hai bữa rau ta có muối.
Ngày hai buổi không tìm củ pấu, củ nâu
Có bắp xay độn gạo no lâu,
Ðường ngõ từ nay không cỏ rậm,
Trong vườn chuối, hổ không dám đến đẻ con
Quả trên cành không lo tự chín tự rụng,
Ruộng sẽ không thành nơi máu chảy từng vũng.
Bộ đội đỡ phải đi thung lũng núi rừng,
Ra đường xe, hát nói ung dung
Từng đoàn người dắt lá cây tiến bước
Súng bên vai, bao gạo buộc bên vai,
Chân đi có giày không sợ nẻ
Trên đầu có mũ che nắng mưa.
Mặt trời lên sáng rõ rồi mẹ ạ!
Con đi bộ đội, mẹ ở lại nhà,
Giặc Pháp, giặc Mỹ còn giết người cướp của
trên đất nước ta.
Ðuổi hết nó đi, con sẽ về trông mẹ.
~Nông-Quốc-Chấn
~


Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dòng thơ miền bắc - 03.04.2011 11:44:40




TÚ-MỠ

1900-1976

Tức Hồ-Trọng-Hiếu, sinh tại Hà-Nội,
chuyên về thơ.


 
SAY VĂN CÔNG
 
Hỏi: Ai đẹp nhất trần gian?
Thưa rằng: Đẹp nhất các nàng văn công.
Chư tiên ở chốn Non Bồng
Có chăng, đẹp thế là cùng, hỡi tiên?
Tú không còn tuổi thanh niên,
Nhưng Thơ với Đẹp có duyên nợ gì,
Mà xem biểu diễn mỗi khi
Say như điếu đổ các dì văn công.
Tôi say tiếng hát sáng trong
Tôi say điệu múa rung lòng du dương.
Hằng Nga với khúc Nghê Thường,
Đẹp chăng cũng vậy, ai nhường hơn ai!
Tôi say duyên dáng khoan thai
Các cô ngồi gẩy đàn mười sáu dây;
Tôi say những búp măng tay
Rập rờn bướm lượn ong bay nhịp nhàng.
Say cô giới thiệu dịu dàng
Thanh tao giọng nói, đỏm đang nụ cười.
Văn công ta đẹp tuyệt vời,
Tài ba gắn bó cuộc đời cần lao.
Tài ba tô thắm bang giao
Gây thêm hữu nghị xiết bao  cảm tình.
Bụt kia dù có tái sinh,
Cũng say chết mệt cô mình văn công.
~Tú-Mỡ~
13-5-1962
 
 
THĂM QUÊ BÁC
 
Nam Đàn đất võ dũng,
Làng Sen nức phong danh.
Trước mặt núi Trạc dựng,
Sau lưng sông Lam quành.
Con đường đo đỏ,
Bờ cỏ xanh xanh,
Một khu vườn nhỏ
Hai nếp nhà tranh
Thiếu thời Bác ở đó.
Ôi! Cuộc đời  cao thanh.
Nhìn cảnh đơn sơ ấm cúng
Thấy người giản dị chân thành.
Hôm nay hân hạnh thăm quê Bác,
Cảm xúc, thơ khôn tả xiết tình.
~Tú-Mỡ~
Nghệ-An 28-7-1963


KHÓC NGƯỜI VỢ HIỀN

Bà Tú ơi, bà Tú ơi!
Té ra bà đã qua đời, thực ư?
Tôi cứ tưởng nằm mơ quái ác,
Vùng dậy là tỉnh giấc chiêm bao
Tỉnh dậy, nào thấy đâu nào,
Nào đâu bóng dáng ra vào hôm mai.
Đâu bóng dáng con người thùy mị,
Tuy tuổi già xấp xỉ bảy mươi,
Vẫn còn khỏe mạnh, vui tươi,
Le te, nhanh nhẹn như thời xuân xanh.
Nhìn sau lưng, vô tình cứ ngỡ
Một cô nào thiếu nữ thanh tân.
Vậy mà cái chết bất thần
Cướp bà đi mất, vô ngần xót xa!
Kể tử thuở đôi ta kết tóc,
Thấm thoắt gần năm chục năm qua.
Thủy chung chồng thuận vợ hòa.
Gia đình hạnh phúc, thật là ấm êm.
Tôi được bà vợ hiền thuần thục.
Cảm thấy mình tốt phúc bao nhiêu!
Đôi ta cùng một cảnh nghèo
Đạo vợ chồng lấy chữ yêu làm nền.
Bàn tay trắng dựng nên cơ nghiệp,
Cũng nhờ bà khéo biết thu va.
Dù không phú quý vinh hoa,
Cuộc đời đầy đủ cửa nhà xênh xang.
Bà đức tính đảm đang trung hậu,
Gái Việt Nam nếp cũ cổ truyền.
Có công nên được bù đền,
Nhà ta cảnh tiểu thần tiên trên đời:
Con khôn lớn năm trai ba gái,
Nội ngoại vừa hăm bảy cháu ngoan.
Đang vui như hội liên hoan,
Thì bà vội mất muôn vàn tiếc thương!
Hồi kháng chiến, trên đường gian khổ,
Bà tản cư cùng lũ con thơ,
Đạn bom, đau ốm, trải qua,
Chín năm chịu đựng vậy mà an khang.
Mà nay chỉ cảm văng, ốm vặt,
Tưởng như khi váng mặt nhức đầu,
Lần này nào có ngờ đâu,
Ốm đùa, chết thật, mới đau đớn lòng!
Các bác sỹ ra công cứu bệnh,
Cứu làm sao được mệnh than ôi!
Bà nay sáu tám tuổi đời,
Kể thì cũng thượng thọ rồi, còn chi.
Bà chỉ ước rằng khi đến cõi,
Hai vợ chồng sẽ đợi chờ nhau,
Quy tiên cùng một chuyến tầu,
Chứ về kẻ trước, ngựời sau sao đành!
Khốn con tạo đành hanh tàn tệ,
Vì ai đâu mà nể ta đây
Phũ phàng guồng máy cứ quay,
Hơn ngày chẳng ở, kém ngày không đi.
Ai là chẳng chung qui về đất
Cưỡng làm sao quy luật thiên nhiên!
Sinh thời, bà rất dịu hiền
Thác đi thanh thản êm đềm như ru.
Thiu thiu nhẹ tựa hồ thiếp giấc,
Đúng như lời ao ước bấy nay.
Bà lên xe hạc chơi mây,
Để tôi thổn thức đêm ngày nhớ thương.
Nhớ tài đức đảm đương nội tướng,
Nhớ công lao cấp dưỡng chí tình.
Cơm dẻo canh ngọt đã đành
Miếng ngon, món lạ, bà dành phần cho.
Nhớ tôi ốm, bà lo nâng đỡ
Khác nào cô y tá tận tâm.
Nhớ khi giường bệnh đã nằm,
Bà còn thủ thỉ tình thâm thương chồng:
"Tôi mà chết thì ông sẽ khổ.
Vì cứ theo câu cổ ngữ ta
Xưa nay con cái nuôi cha
Cũng không chu đáo bằng bà nuôi ông"
Bà ơi, hãy dầu lòng yên dạ,
Giấc nghìn thu cho thỏa vong hồn.
Bà đi, đã có dâu con,
Một lòng phụng dưỡng, chăm nom bố già.
Tôi có khổ, âu là chỉ khổ
Vì thiếu bà, nhà cửa vắng tanh
Khổ khi thức giấc tàn canh
Bên giường trống trải một mình nằm trơ.
Khổ nhớ lại sớm trưa ngày trước,
Pha ấm trà chén nước mời nhau.
Giờ tôi chẳng thấy bà đâu,
Bên bàn thờ nhắp chén sầu đầy vơi.
Khổ nghe cái Tuyết Mai cháu bé
Nói với ông thỏ thẻ tiếng lòng:
"Ông ơi, cháu ngủ với ông,
Ngày mai ông bế đi vòng vườn hoa"
Nay bà chết là bà đi mất,
Thôi, cháu không còn hát câu ca:
"Bà ơi, cháu ngủ với bà,
Mai bà đi chợ mùa quà cháu ăn"
Khổ những lúc ra sân, mê tỉnh
Ngắm vườn nhà thấy cảnh thênh thang,
Mà bà khuất núi cho đang,
Quả cau tươi, lá trầu vàng ai xơi?
Khổ trông thấy cái cơi còn đó,
Đã khô trầu, khô vỏ, khô cau.
Bà thước đất đã vùi sâu
Cặp môi cắn chỉ ăn trầu đỏ tươi.
Ngẫm cảnh già cuộc đời sung sướng,
Tưởng vợ chồng còn hưởng dài lâu
Không ngờ con tạo cơ cầu,
Bà đi để tủi để sầu cho tôi.
Ôi! Duyên nợ thế thôi là hết,
Năm mươi năm thắm thiết yêu nhau!
Bà về trước, tôi về sau,
Thôi đành tạm biệt, nuốt sầu gượng vui.
Bà đi rồi nhưng tôi phải ở
Công việc đời còn dở tí thôi.
Bao giờ nhiệm vụ xong xuôi,
Về nơi cực lạc, lại tôi với bà...

~Tú-Mỡ~



 
THÔI-HỮU

Tôi lên vùng Cấm Sơn
Đi tìm thăm bộ đội
Đây bốn bề núi, núi
Heo hút vắng tăm người
Đèo cao rồi lũng hẹp
Dăm túp lều chơi vơi
Bộ đội đóng ở đó
Cách xa hẳn cuộc đời
Ngày ngày ngóng đợi tin xuôi ngược
Chỉ thấy mây xanh bát ngát trời
Họ đã từng dự trận
Từ Tiên Yên, Đầm Hà
Về An Châu, Biển Động
Thấm thoắt hai năm qua

Cuộc đời gió bụi pha xương máu
Đói rét bao lần xé thịt da
Khuôn mặt đã lên màu tật bệnh
Đâu còn tươi nữa những ngày hoa!
Lòng tôi xao xuyến tình thương xót
Muốn viết bài thơ thấm lệ nhoà
Tặng những anh tôi từng rỏ máu
Đem thân xơ xác giữ sơn hà

Quây quần bên nến trám
Chúng tôi ngồi hàn huyên
Bao giờ vinh nhục
Bao nhiêu phút ưu phiền
Của đời người chiến sĩ
Đêm thâu kể triền miên:
"Có khi gạo hết tiền vơi
Ổi xanh hái xuống đành xơi no lòng
Có đêm gió bấc lạnh lùng
Áo quần rách nát lá dùng che thân
Khó khăn đau ốm muôn phần
Lấy đâu đủ thuốc mặc dần bệnh nguôi
Có phen chạy giặc tơi bời
Rừng sâu đói rét, không người hỏi han".

Đến nay họ về đây
Giữ vững miền núi Cấm
Thổ phỉ quét xong rồi
Đồn Tây xa chục dặm
Kiến thiết lại bản xóm
Bị giặc đốt tan tành
Trên nền tro đen kịt
Vàng hoe màu mái gianh
Họ đi tìm dân chúng
Lẩn trốn trong rừng xanh
Về làm ăn cày cấy
Tiếp tục đời yên lành

Tiếng hát lừng vang trong gió núi
Ngày vàng ngân giọng trẻ ê a
Ở đây bản vắng rừng u tối
Bộ đội mang gieo ánh chói loà
Ở đây đường ngập bùn phân cũ
Xẻng cuốc khua vang điệu dựng nhà
Ở đây những mặt buồn như đất
Bộ đội cười lên tươi như hoa.

Họ vẫn gầy, vẫn ốm
Mắt vẫn lõm, da vàng
Áo chăn chưa đủ ấm
Ăn uống vẫn tồi tàn
Nhưng vẫn vui vẫn nhộn
Pháo cười luôn nổ ran

Lòng tôi bừng thức tình trai mạnh
Muốn viết bài thơ nhộn tiếng cười
Tặng những anh tôi trong lửa đạn
Qua nghìn gian khổ vẫn vui tươi.

~Thôi-Hữu~
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.04.2011 03:58:32 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dòng thơ miền bắc - 09.04.2011 04:08:35




NGUYÊN-HỒNG

      
1918-1982

Tức Nguyễn-Nguyên-Hồng, sinh Hàng Cau
Nam-Định, ra Hải-Phòng dạy học tư, tham gia
mặt trận Dân-Chủ, bị bắt đưa đi tập trung ở Hà-
Giang 6 tháng, được kết nạp đảng CS/ĐD, Phụ
trách trường bồi dưỡng lực lượng viết văn trẻ,
viết truyện, làm thơ, làm báo.

      

CỬU LONG-GIANG TA ƠI*


Ngày xưa ta đi học
Mười tuổi thơ nghe gió thổi mùa thu
Mắt ngẩng lên trông bản đồ rực rỡ
Như đồng hoa bỗng gặp một đêm mơ

Bản đồ mới tường vôi cũng mới
Thầy giáo lớn sao, thước bảng cũng lớn sao
Gậy thần tiên và cánh tay đạo sĩ
Ðưa ta đi sông núi tuyệt vời

Tim đập mạnh hồn ngây không sao hiểu
Mê Kông sông dài hơn hai ngàn cây số mông mênh
Nguồn tự Trung Hoa có Vạn lý trường thành
Có Hy Mã lạp sơn, Ðộng Ðình hồ, Tây du, Thủy Hử
Mê Kông chảy
Cây lao đá đổ
Ngẫm nghĩ voi đi
Thác Khôn cười trắng xóa
Lan hoang dứa mật thông nhựa lên hương
Những trưa hè ngun ngút nắng Trường Sơn
Rừng Lào- Miên rộng quá
Dân Lào - Miên mến yêu
Xôi nếp nước trong sẵn sàng chia bạn đói
Ta đi...bản đồ không còn nhìn nữa
Sáng trời thu lại còn bướm với trời xanh
Trúc đào tươi chim khuyên riả cánh sương đọng long lanh
Ta cởi áo lội dòng sông ta hát
Mê Kông chảy Mê Kông cũng hát
Rừng núi lùi xa
Ðất phẳng thở chan hòa
Sóng tỏa chân trời buồm trắng
Nam bộ
Nam bộ
Chín nhánh Mê Kông phù sa nổi váng...
Ruộng bãi Mê Kông trồng không hết lúa
Bến nước Mê kông tôm cá ngập thuyền
Sầu riêng thơm dậy đất Thủ, Biên
Suối mát dội trong lòng dừa trĩu quả

Mê Kông quặn đẻ...
Chín nhánh sông vàng
Nông dân Nam bộ gối đất nằm sương
Mồ hôi vã bãi lau thành đồng lúa
Thành những tên đọc lên nước mắt đều muốn ứa
Những Hà tiên, Gia định, Long Châu
Những Gò công, Gò vấp, Ðồng tháp, Cà mau
Những mặt đất
Cha ông ta nhắm mắt
Truyền cháu con không bao giờ chia cắt
Ta đã lớn
Thầy giáo già đã khuất
Thước bản to nay thành cán cờ sao
Những tên làm man mác tuổi thơ xưa
Ðã thấm máu của bao hồn bất tử
Những Minh Khai, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong, Trần Phú
Những bông hoa dân tộc anh hùng
Mười sáu tuổi xanh
Em Ðuốc Sống đốt mình phá tan kho giặc
Võ thị Sáu vùng răng cắn chặt
Giữ trung trinh cho đến phút cuối cùng
Ðạn giặc xuyên lỗ chỗ ngực măng non
Ðỏ thắm nụ cười
Chào Bác Hồ và Việt nam bất diệt.
Ðêm nay
Cửu Long Giang vẫn âm vang sóng cát
Sao khuya lấp lánh
Lửa chài thức sáng nhịp hát hò ơ
Ðồng Tháp xa đưa những tiếng mẹ ru
Hồ Chí Minh thành ca dao bát ngát.....
~Nguyên-Hồng~




NGUYỄN-ĐỨC-MẬU
            
1948

Sinh tại Nam-Ninh, Nam-Hà, làm thơ,
viết truyện ngắn, tiểu thuyết.


MỘT VỊ TƯỚNG VỀ HƯU* 

Thôi, đã dứt đường binh nghiệp
Tuổi hưu rồi, bác ở quê
Chạnh nhớ bạn bè thuở trước
Cùng đi có đứa không về

Người vợ tuổi già như bác
Miếng trầu nhai dập chiều mưa
Hồi còn trẻ xa nhau mãi
Giờ thương biết mấy cho vừa

Huân chương xếp vào góc tủ
Nay hàm tướng tá mà chi
Tuổi già công danh xem nhẹ
Cuộc đời như nước trôi đi

Thuở trước bạn cùng súng đạn
Nay khuây hàng xóm bạn già
Bao dốc, bao rừng đã vượt
Lối mòn quanh quẩn vào ra

Ngày đi khuất bóng mẹ cha
Ngày về sửa sang mộ cũ
Âm thầm một tấc đất sâu
Hương khói tờ mờ màu cỏ

Ngôi nhà nắng mưa vẫn đó
Đàn con mỗi đứa một nơi
Nếu không có trẻ hàng xóm
Tuổi già hẳn nhiều đơn côi

Những đêm gió thổi buốt trời
Vết thương cũ còn đau nhức
Ôi sư đoàn xưa giờ đâu
Người cũ, ai còn, ai mất?

Về hưu giờ thôi quyền chức
Ai người nhớ bác, lại chơi
Ai kẻ xa lòng, tránh mặt
Niềm riêng một mảnh trăng trời.
~Nguyễn-Đức-Mậu~


NẤM MỘ VÀ CÂY TRẦM  

I. Tưởng nhớ

Đất đắp mộ Hùng bom trộn lẫn
Cây trầm cháy dở tay nén nhang
Cây trầm cháy rồi hương cứ thơm

Hùng ơi, mai gió mùa đông bắc
Võng bạt, canh khuya lại nhớ Hùng
Những đêm hai đứa xong phiên gác
Bao gạo gối đầu chăn đắp chung.

Nhớ khi mình ốm giữa rừng
Vị thuốc Hùng tìm qua ba trái núi
Quả khế rừng nấu con cá suối
Thương mình Hùng hoá trẻ đi câu.

Chúng mình có ở cách xa nhau
Một thước đất sao Hùng không nghe mình gọi …?
Một thước đất hoá khoảng trời vời vợi
Từ nay mình thương nhớ Hùng hơn xưa

Những lá thư Hùng chưa kịp đọc mình nghe
Thơ đánh giặc Hùng còn viết dở
Vết máu đỏ nhoà đi không rõ chữ
Mình đọc bao điều xúc động sâu xa.

II. Hy sinh

Cái chết bay ra từ nòng súng quân thù
Nhận cái chết cho đồng đội sống
Ngực chặn lỗ châu mai, Hùng đứng thẳng
Lửa bén vào áo lính tuổi hai mươi.

"Chết - Hy sinh cho Tổ quốc" Hùng ơi
Máu thấm cỏ, lời ca bay vào đất
Hy sinh lớn cũng là hạnh phúc
Một cây xuân thành biển khắc tên Hùng.

Hùng nằm trong nôi của đất rộng vô cùng
Khoảng trời biếc hương trầm thơm hơn trước
Những đoàn quân đi đánh giặc
Có hoa rừng mang đến từ xa.

Đất Hùng nằm bom đạn đào trơ
Ngày hoa nở, đêm trời sao tỏ
Tấm biển gỗ trên mộ người chiến sĩ
Thành bàn tay chỉ hướng quân thù.

III. Ra đi

Cây trầm thơm từ gốc thơm ra
Như nhắc nhở với người đang sống
Thù riêng lớn, thù chung càng lớn
Hờn căm này nhân tiếp những hờn căm

Thôi mình đi Hùng nhé! Hãy yên nằm
Trận đánh đêm nay vắng Hùng gài bộc phá
Trận đánh trường kỳ vắng Hùng tham dự
Trận đánh cuối cùng chiến thắng phải về ta

Anh trinh sát hy sinh trao lại tấm bản đồ
Anh xung kích hy sinh phất cao cờ chuẩn
Xin Hùng hãy trao cho mình khẩu súng
Trận đánh vẫn còn tiếp diễn. Hùng ơi! …

Quân mình đang pháo kích nơi nơi
Hùng có thấy đất rùng rùng sấm dậy
Mặt trận chuyển vào sâu rồi đấy
Thôi mình đi, Hùng nhé! Hãy yên nằm

Thơm rất xa theo gió thoảng hương trầm
Cây trầm đẹp như cuộc đời chiến sĩ
Sống tươi tốt bao niềm tin bình dị
Thân hi sinh thơm đất, thơm trời.
~Nguyễn- Đức-Mậu~
Mặt trận Miền Tây, mùa đông 1969
Phụ bản Thơ - Báo Văn nghệ, 2004
     


Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dòng thơ miền bắc - 23.04.2011 09:43:23




HOÀNG-TRẦN-CƯƠNG
              
1948

Sinh Đô-Lương, Nghệ-An, làm thơ, viết truyện ngắn.


MIỀN TRUNG

Bao giờ em về thăm
Quê hương anh một thời ngút lửa
Miền Trung mỏng và sắc như cật nứa
Chuốt ruột mình thành giải lụa Sông Lam

Miền Trung
Tấm lưng trần đen sạm
Những đốt sống Trường Sơn lởm chởm giăng màn
Thoáng bóng giặc núi bửa báng súng
Những đứa con văng mình như mảnh đạn
Thương mẹ một mình trời sinh đá mồ côi

Miền Trung
Bao đời núi bể kề đôi
Ôi! Biển Đông - giọt nước mắt của muôn ngàn thế hệ
Nóng hổi như vừa lăn xuống
Theo những tượng đá cụt đầu của Trường Sơn uy nghiêm

Miền Trung
Câu ví dặm nằm nghiêng
Trên nắng và dưới cát
Đến câu hát cũng hai lần sàng lại
Sao lọt tai rồi vẫn day dứt quanh năm

Miền Trung
Bao giờ em về thăm
Mảnh đất nghèo mùng tơi không kịp rớt
Lúa con gái mà gầy còm úa đỏ
Chỉ gió bão là tốt tươi như cỏ
Không ai giao mà trắng mặt người

Miền Trung
Eo đất này thắt đáy lưng ong
Cho tình người đọng mật
Em gắng về
Đừng để mẹ già mong
~Hoàng-Trần-Cương~


QUẶNG LỬA
  
(Trích đoạn trường ca Trầm tích)

Giặc giã đến
Giằng khỏi tay con cây bút
Vở học trò gió phơi trắng hàng hiên
Tuổi thơ con trống như mặt bàn
Những ngày mải chơi quên đến lớp
(Trong ngần ơi
Thôi thì đành thất hẹn
Đất bỏng dưới chân rồi
Anh nào dám phân vân)
Những tháng năm ngốt xanh màu áo trận
Bụi đỏ vùi chột cả bóng tre
Rời bãi cát sông quê nơi con từng phơi mình suốt thời thơ bé
Rời mái trường nửa nổi nửa chìm lún sâu trong rừng nứa
Con nhập vào với lửa
Giật mình súng đã tràn tay
Bàng hoàng biểt tuổi thơ không về nữa
Lặng lẽ đi qua những thành phố cháy
Tàn tro bay đỏ quạch trước đình làng
Giật mình ngẫm may mà con có mặt
Để khỏi cúi đầu khi nghe chuyện ngày xưa
Bữa con xa nhà trời xối xả mưa
Quanh mâm cơm chia tay cả nhà ngồi xổm
Nước ngoài sân tràn vào lênh láng
Mấy khuôn mặt âm thầm quây quanh chiếc nồi rang
Lặng lẽ đè lên nhau
Những vết đũa dọc ngang
Quệt vào lòng nồi rang mẹ chưng khô nước mắm
Nước mắm kho vừa khét vừa đắng
Đứa em út con cứ khen ngon vội vội vàng vàng đưa lên miệng mút
Mắt tròn đen len lén nhìn xuống đất
Canh chừng nước mưa ập vào lôi mất cái nồi rang
Thiếu bát canh rau dền
Nên tiếng cười của đàn con không bị lút
Mong cho mẹ vui gắng đợi lửa tàn
Mẹ lụi cụi chạy vào trong bếp
Con cúi đầu nuốt vội tiếng khóc khan
Cái nấc nghẹn
Chỉ riêng mình mẹ thấy
Con đi theo bạn theo bầy
Họng súng hứng đầy khói bụi
Những đứa con trai vai gồng sông núi
Nhìn quầng trăng lại nhớ mảnh quê gầy
Đất dọc chiến hào đỏ tươi đâu phải ruộng mới cày
Sao đồng đội con cứ chăng dây cắm đầu đạn làm hàng lúa cấy
Những hàng lúa – đạn – đồng không run theo gió
Chỉ có khói bom bay là là như ai đang vãi tro
Khi lúa lốp sợ nhỡ thì con gái
Đất ruộng làng ta cũng đã mỡ màu
Gió ở chiến trường chẳng ngừng lâu
Hắt ngược vào mắt con cay xe nhung nhớ
Đạn bắn đi rồi
Vỏ đạn rỉ xanh
Rải rác những mảnh đời lẫn vào sắc cỏ
Con run run vuốt xuôi đôi mắt
Đồng đội con chưa kịp nhắm
Bỗng chạm phải
Một vệt sáng long lanh nóng hổi
Nước mắt của chính mình bỏng rát trên môi
Cái khoảng trống giữa hai trận đánh
Thường được lấp đầy như thế mẹ ơi
Bao nhiêu khoảng trống qua rồi
Bao nhiêu đồng đội con nằm lại
Màu lúa vàng rưng rưng
Nơi nào suối sông chưa tìm đến
Đồng đội con ở lại
Tuổi đời mới ướm thời trai
Những phần mộ quặn rừng già hoang dại
Như sóng chợt ngừng
Những cơn sóng gãy
Không kịp về biển
Cuồn cuộn rừng xanh rú đỏ thâm nghiêm
Những lượn sóng ngầm thấm vào lòng đất
Ngày một ngày hai
Về lại quê làng
Mướt mịn phù sa đắp bồi bến bãi
Mượt mà đưa câu hát sang ngang
Đêm Trường Sơn nhập nhoà pháo sáng
Con máy mắt liên hồi
Chắc mẹ thầm nhắc gọi
Xin mẹ đừng lang thang ra ngoài ngõ
Đừng tựa lưng thêm vào nơi mẹ đứng chờ con
Cái thân cau bây giờ nhẵn bóng
Loáng trơn
Những tiếng thở dài
Có phải cây cau vừa trổ gai
Níu mẹ lại khỏi ngã xoài xuống đất
Chiến tranh đi qua bàn tay lật
Hất vào mắt mẹ
Bóng tàn nhang
Con ruổi rong dọc những đại ngàn
Vách đá rừng Lào hao hao dáng mẹ
Đá mồ côi
Đá cũng mồ côi như lũ trẻ
Nên gió mênh mang thổi lộng tháng ngày
Đất nước mình đắng cay
Con xa nhà mẹ già thêm nhiều lắm
Cái sạp nứa gãy nan
Mẹ lui hui ngồi dặm
Sờ lên dấu chân con nhảy nhót ngày nào
Mẹ cứ vuốt ngón tay khô gầy lên vết chân con ngày ấy
Lên cái dát giường để dằm xóc vào tay
Những tháng năm tươi nguyên màu máu chảy
Thổi suốt đời con ngọn gió trong lành
Như vỉa quặng ẩn mình dưới đất
Chút vốn liếng dụm dành
Trầm tích của trái tim
Cho con biết cười biết khóc
Biết yêu người mình yêu như chính yêu mình
Biết bạn bè không có nhiều lắm đâu dẫu mặt đất ngày càng đông chật
Những gì đã có
Cố đừng để mất
Biết sự thật không hồn nhiên như cỏ
Cỏ bây giờ dần đã hiếm hoi
Ghét thì cho chơi
Thương thì cho roi
Lời thương mến lại nằm trong đá tảng
Đá tảng cô đơn
Giọt lệ vụng về
~Hoàng-Trần-Cương~



Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dòng thơ miền bắc - 02.05.2011 12:00:18
             



CA-LÊ-HIẾN

          
TRỞ VỀ QUÊ NỘI*

Ôi quê hương xanh biếc bóng dừa
Có ngờ đâu hôm nay ta trở lại
Quê hương ta tất cả vẫn còn đây
Dù người thân đã ngã xuống đất này
Ta lại gặp những mặt người ta yêu biết mấy
Ta nhìn, ta ngắm, ta say
Ta run run nắm những bàn tay
Thương nhớ dồn trong tay ta nóng bỏng.

Đây rồi đoạn đường xưa
Nơi ta vẫn thường đi trong mộng
Kẽo kẹt nhà ai tiếng võng trưa
Ầu ơ... thương nhớ lắm
Ôi những bông trang trắng, những bông trang hồng
Như tấm lòng em trong trắng thủy trung
Như trái tim em đẹp màu đỏ thắm
Con sóng nhỏ tuổi thơ ta tắm
Vẫn còn đây nước chẳng đổi dòng
Hoa lục bình tím cả bờ sông.
Mẹ lưng còng tóc bạc
Ngậm ngùi kể chuyện ta nghe
Tám em bé chết vì bom xăng đặc
Trên đường đi học trở về.
Giặc giết mười người trong một ấp
Bà con khiêng xác chất đầy ghe
Chở lên Bến Tre đấu tranh với giặc
Làng ta mấy lần bom giội nát
Dừa ngã ngổn ngang, xơ xác bờ tre,
Mẹ dựng tạm mái lều che mưa gió
Ta có ngờ đâu mái lều của mẹ
Dưới lớp đất kia ngọn lửa vẫn còn
Mẹ ta tần tảo sớm hôm
Nuôi các anh ta dưới hầm bí mật
Cả đời mẹ hy sinh gan góc
Hai mươi năm giữ đất giữ làng
Ôi mẹ là bà mẹ miền Nam.

Ta có ngờ đâu em ta đấy
Dưới mái lều kia em đã lớn lên
Em đẹp lắm như mùa xuân bừng dậy
Súng trên vai cũng đẹp như em
Em ơi! Sao tóc em thơm vậy
Hay em vừa đi qua vườn sầu riêng
Ta yêu giọng em cười trong trẻo
Ngọt ngào như nước dừa xiêm
Yêu dáng em đi qua cầu tre lắt lẻo
Dịu dàng như những nàng tiên
Em là du kích, em là giao liên
Em chính là quê hương ta đó
Mười một năm rồi ta nhớ, ta thương.
Đêm đầu tiên ta ngủ giữa quê hương
Sao thấy lòng ấm lạ
Dù ngoài trời tầm tã mưa tuôn
Tiếng đại bác gầm rung vách lá
Ôi quê hương ta đẹp quá!
Dù trên đường còn những hố bom
Dù áo em vẫn còn mảnh vá
Ta về đây chẳng mang gì cho em cả
Chỉ có trái tim chung thủy, sắt son
Và khẩu súng trong tay cháy bỏng căm hờn.
~Ca-Lê-Hiến~
       9-1965




TRẦN-ĐĂNG-KHOA
             
1958

Sinh Điện-Trì, Nam-Thanh, Quốc-Tuấn,
Hải-Dương, ở Hà-Nội, hội viên Hội Nhà
Văn VN, tốt nghiệp Trường  viết văn
Nguyễn-Du và Học viện Văn học Thế giới,
làm thơ  từ 7, 8 tuổi, có thơ in từ 10 tuổi,
ngoài ra còn phê bình văn học.


HẠT GẠO LÀNG TA

Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy
Có hương sen thơm
Trong hồ nước đầy
Có lời mẹ hát
Ngọt bùi đắng cay…
Hạt gạo làng ta
Có bão tháng bảy
Có mưa tháng ba
Giọt mồ hôi sa
Những trưa tháng sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy…
Hạt gạo làng ta
Những năm bom Mỹ
Trút trên mái nhà
Những năm cây súng
Theo người đi xa
Những năm băng đạn
Vàng như lúa đồng
Bát cơm mùa gặt
Thơm hào giao thông…
Hạt gạo làng ta
Có công các bạn
Sớm nào chống hạn
Vục mẻ miệng gàu
Trưa nào bắt sâu
Lúa cao rát mặt
Chiều nào gánh phân
Quang trành quết đất
Hạt gạo làng ta
Gửi ra tiền tuyến
Gửi về phương xa
Em vui em hát
Hạt vàng làng ta…
~Trần-Đăng-Khoa~

 
BÀN CHÂN THẦY GIÁO

Thầy ngồi ghế giảng bài
Xếp cạnh bàn đôi nạng gỗ
Một bàn chân đâu rồi
Chúng em không rõ
Sáng nào bom Mỹ dội
Phượng đổ ngổn ngang, mái trường tốc ngói
Mặt bảng đen lỗ chỗ vết bom bi
Thầy cầm súng ra đi
Bài tập đọc dạy chúng em dang dở
Hoa phượng
Hoa phượng cháy một góc trời như lửa
Năm nay thầy trở về
Nụ cười vui vẫn nguyên vẹn như xưa
Nhưng một bàn chân không còn nữa
Đôi bàn chân
In lên cổng trường những chiều giá buốt
In lên cổng trường những đêm mưa dầm
Dấu nạng hai bên như hai hàng lỗ đáo
Chúng em nhận ra bàn chân thầy giáo
Như nhận ra cái chưa hoàn hảo
Của cả cuộc đời mình
Bàn chân thầy gửi lại
Khe Sanh Hay Tây Ninh, Đồng Tháp?
Bàn chân đạp xuống đầu lũ giặc
Cho lẽ sống làm người
Em lắng nghe thầy giảng từng lời
Rung động bao điều suy nghĩ
Nghe thầm vọng bàn chân đi đánh Mĩ
Nghe âm vang tiếng gọi của chiến trường
Em đi suốt chiều dài yêu thương
Chiều sâu đất nước
Theo những dấu chân người thầy năm trước
Và bàn chân thầy, bàn chân đã mất
Vẫn dẫn chúng em đi trọn vẹn cuộc đời…
~Trần-Đăng-Khoa~


GỬI BÁC TRẦN-NHUẬN-MINH*

Bỏ làng ra thành phố
Hai anh em thợ cày
Thân cũng như hoa cỏ
Hồn gửi vào gió mây

Người bảo bác theo Đỗ
Em phải học Lý thôi
Bác đã bay dưới đất
Em đành đi trên giời

Bác âm thầm chìm nổi
Cùng kiếp người lang thang
Em lông nhông bầu bạn
Với kiến đen chó vàng

Bao nhiêu là giun dế
Đã khiêng vác em lên
Tên tuổi em xủng xoảng
Những mõ ran trống rền

Bác làm bông lau ngàn
Thả hồn vào hoang vắng
Khi buồn thì hát ca
Lúc vui thì im lặng

Em quẩy bầu trăng gió
Bác gánh bao nỗi người
Sóng đôi mà đơn độc
Đi mang mang trong đời

Giờ thì em đã chán
Những vinh quang hão huyền
Muốn làm làn mây trắng
Bay cho chiều bình yên

Trả niềm vui cho cỏ
Trả nỗi buồn cho cây
Lại áo tơi nón lá
Ta về với luống cày

Đất trời thì chật hẹp
Làng quê thì mênh mông
Thung thăng em với bác
Ta cưỡi thơ ra đồng...
~Trần-Đăng-Khoa~


THƠ TÌNH NGƯỜI LÍNH BIỂN

Anh ra khơi
Mây treo ngang trời những cánh buồm trắng
Phút chia tay, anh dạo trên bến cảng
Biển một bên và em một bên
Biển ồn ào em lại dịu êm
Em vừa nói câu chi rồi mỉm cười lặng lẽ
Anh như con tàu lắng sóng từ hai phía
Biển một bên và em một bên
Ngày mai, ngày mai khi thành phố lên đèn
Tàu anh buông neo dưới chùm sao xa lắc
Thăm thẳm nước trôi, nhưng anh không cô độc
Biển một bên và em một bên
Ðất nước gian lao chưa bao giờ bình yên
Bão thổi chưa ngừng trong những vành tang trắng
Anh đứng gác, trời khuya - đảo vắng
Biển một bên và em một bên
Vòm trời kia có thể sẽ không em
Không biển nữa chỉ còn anh với cỏ
Cho đù thế thì anh vẫn nhớ
Biển một bên và em một bên.
~Trần-Đăng-Khoa~


GIÃ BIỆT MATXCƠVA

Thành phố này không phải nơi tôi sinh
Tôi không có tuổi thơ ở đó
Bóng tre làng không rủ bóng xuống công viên
Cánh diều cũng không chao nghiêng trên mái phố
Có gì gắn với đời tôi ở đó
Mà khi xa, tôi vẫn nhớ, nhớ khôn cùng...
Chiều lơ lửng dát vàng trên đỉnh tháp
Sông dửng dưng trôi dưới bóng cây
Khu vườn nhuốm một nỗi buồn xưa cũ
Em xòe ô đi trong mưa bay...
Hoa táo nở trắng ngời như khói toả
Căn nhà gỗ thơm mùi nhựa thông tươi
Đàn sếu bay qua hồ nước lặng
Thả nỗi buồn bâng quơ lên đỉnh những cây sồi
Matxcơva không tin vào nước mắt
Vắng tôi rồi, Người vẫn đẹp dửng dưng
Ai lững thững đi dưới chân thành cổ
Tiếng chuông chiều thủng thẳng vọng lên không
Có gì gắn với đời tôi ở đó
Mà khi xa, tôi lại nhớ, nhớ khôn cùng...
Ta ra đi để lòng mình ở lại
Là ngọn gió chiều thổi trên tháp Kremlin
Làm câu thơ gầy mòn rét mướt
Sưởi dưới vầng tóc bạc Ôsanhin
Và làm chú học trò mảnh mai, ngơ ngác
Trong mắt mẹ dịu dàng của cô giáo Nhina
Nghĩa là tôi không hề xa cách
Tôi vẫn sống với Người, dù ở cuối trời xa...
~Trần-Đăng-Khoa
~
 

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dòng thơ miền bắc - 31.05.2011 23:32:55
    



PHẠM-TIẾN-DUẬT
        
1941-2007

Quê Thanh-Ba, Phú-Thọ, tốt nghiệp Đại-Học
Sư-Phạm Hà-Nội, nhập ngũ, chiến đấu trên đường
Trường-Sơn, Hội viên Hội Nhà Văn VN, được
tặng giải Văn Học Nghệ Thuật.


   
CÔ BỘ ĐỘI ẤY ĐÃ ĐI RỒI*

Cô bộ đội ấy đã đi rồi
Chuyển đơn vị vào vùng rừng trong ấy
Em gái đi, các anh ở lại
Biết đến bao giờ mới được gặp nhau

Lũng thì thẳm mà rừng thì sâu
Để hun hút nhớ nhau biền biệt
Bao nhiêu bạn bè, bao nhiêu bạn bè thân thiết
Xa nhau như xa nhau hôm nay

Thôi em đừng bẻ đốt ngón tay
Nước mắt dễ lây mà rừng thì lặng quá
Anh biết rồi bao nhiêu vất vả
Tháng năm dài cùng nhau đi qua

Để sáu bảy năm em gái xa nhà
Hăm bảy tuổi chuyện chồng con chưa nói
Cả một thời trẻ trung sôi nổi
Ở bên nhau bếp lửa giữa rừng xa

Nhớ nhau, nhớ nhau ở giữa rừng già
Ngón tay nóng cầm viên thuốc mát
Cái đêm đói ngồi nghe chim đắp tát
Con chó vàng cọ chân em đòi ăn

Nhớ nhau, nhớ nhau những buổi mưa dầm
Căn nhà dột tóc em ướt hết
Anh ngồi nghĩ gì em chẳng biết
Cứ hát tràn những câu hát bâng quơ

Nhớ trưa đỉnh đèo ta đứng ngẩn ngơ
Nhìn mây trắng chân trời ngỡ biển
Biển Đông thì xa, biết ta nhìn chẳng đến
Nhưng em vui anh kể chuyện em nghe

Trưa vác gạo ta dừng bên khe
Một đoàn tù binh đi qua đang đứng ngó
Bên những thằng người áo quần loang lổ
Bóng em lồng bóng suối trong veo

Lúc ấy lòng anh biết mấy tự hào
Tự hào vì có em ở đây, tự hào vì đất nước
Ở đây màu hồng xiết bao thân thuộc
Xao xuyến lòng anh, xao xuyến bạn bè

Đến chào anh sáng mai em đi
Như ngày nào chào bà con hàng xóm
Sự xa cách nhỏ trong sự xa cách lớn
Một cuộc chia tay trong triệu cuộc chia tay

Rồi ngày mai xa vắng nơi đây
Em lại có bao nhiêu đồng đội mới
Trong chiến tranh một khát khao sôi nổi
Là nhân dân đoàn tụ muôn đời

Cô bộ đội ấy đã đi rồi.
~Phạm-Tiến-Duật~

                       
TRƯỜNG SƠN ĐÔNG,
TRƯỜNG SƠN TÂY

Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn
Hai đứa ở hai đầu xa thẳm
Ðường ra trận mùa này đẹp lắm
Trường Sơn Ðông nhớ Trường Sơn Tây.
Một dãy núi mà hai màu mây
Nơi nắng nơi mưa, khí trời cũng khác
Như anh với em, như Nam với Bắc
Như Ðông với Tây một dải rừng liền.
Trường Sơn Tây anh đi, thương em
Bên ấy mưa nhiều, con đường gánh gạo
Muỗi bay rừng già cho dài tay áo
Rau hết rồi, em có lấy măng không.
Em thương anh bên Tây mùa đông
Nước khe cạn bướm bay lèn đá
Biết lòng anh say miền đất lạ
Chắc em lo đường chắn bom thù
Anh lên xe, trời đổ cơn mưa
Cái gạt nước xua tan nỗi nhớ
Em xuống núi nắng về rực rỡ
Cái nhành cây gạt nỗi riêng tư.
Ðông sang Tây không phải đường như
Ðường chuyển đạn và đường chuyển gạo
Ðông Trường Sơn, cô gái “ba sẵn sàng” xanh áo
Tây Trường Sơn bộ đội áo màu xanh.
Từ nơi em gửi đến nơi anh
Những đoàn quân, trùng trùng ra trận
Như tình yêu nối lời vô tận
Ðông Trường Sơn, nối Tây Trường Sơn.
~Phạm-Tiến-Duật~


NGƯỜI ƠI NGƯỜI Ở
Bao nhiêu người đã hát
Bây giờ lại đến em
Bao nhiêu người hồi hộp
Bây giờ lại đến anh
Ở hai thung lũng xanh
Kề nhau thành hàng xóm
Công việc như nước cuốn
Chẳng bao giờ thăm nhau
Nắng đã tắt từ lâu
Tiếng ve như kéo mật
Dáng em ngồi trước mặt
Như cây cỏ trong vườn
Chẳng thể gặp nhau luôn
Hãy ngồi thêm lát nữa
Hai người hai cánh cửa
Khép mở hai vùng trời
Gặp biết bao nhiêu người
Quen nhau bao gương mặt
Con đường thì tít tắp
Mặt trận thì mênh mông
Chẳng nhớ nữa mùa đông
Đi qua bao hang đá
Cũng quên rồi mùa hạ
Ở bao nhiêu ngăn hầm
Công việc cùng tháng năm
Hát vui cùng chiến sĩ
Những ngày đi đánh Mỹ
Bao nhiêu người quen nhau
Anh chẳng nói sai đâu
Em là cây ngải đắng
Mọc trong triền núi vắng
Góp vị thuốc cho đời
Tiếng em hát “Người ơi…”
Người gần nhau mãi mãi
Tiếng em hát “Đò ơi…”
Sông đưa đò gần lại
Tiếng em hát “Cây ơi…”
Cây nhú thêm mầm mới
Tiếng nồng say em gọi
Náo nức tuổi trăng lên
Cái giọng thì của em
Mà lời anh đấy nhỉ?
Giữ em chẳng được nào
Hẹn nhau ngày thắng Mỹ
Lại hát tặng tiễn nhau
Như bạn bè Quan họ
Rằng: Người đi người nhớ
Rằng:“Người ơi người ở đừng về…”
~Phạm-Tiến-Duật~


GỬI EM, CÔ THANH NIÊN
XUNG PHONG

Có lẽ nào anh lại mê em
Một cô gái không nhìn rõ mặt
Ðại đội thanh niên đi lấp hố bom
Áo em hình như trắng nhất
Người tinh nghịch là anh dễ thân
Bởi vì thế có em đứng gần
Em ở Thạch Kim sao lại lừa anh nói là “Thạch Nhọn”
Ðêm ranh mãnh ngăn cái nhìn đưa đón
Em đóng cọc rào quanh hố bom
Cái miệng em ngoa cho bạn cười giòn
Tiếng Hà tĩnh nghe buồn cười đáo để
Anh lặng người như trôi trong tiếng ru.
Tranh thủ có ánh sáng đèn dù
Anh vội nhìn em và bạn em khắp lượt
Mọi người cũng tò mò nhìn anh
Rồi bóng tối lại khép vào bóng tối
Em ơi em, hãy nghe anh hỏi
Xong đoạn đường này các em làm đâu
Anh đã tìm em rất lâu, rất lâu
Cô gái ở Thạch Kim Thạch Nhọn
Khăn xanh, khăn xanh phơi đầy lán sớm
Sách giấy mở tung trắng cả rừng chiều.
Anh đã đi rất nhiều, rất nhiều
Những con đường như tình yêu mới mẻ
Ðất rất hồng và người rất trẻ
Nhưng chẳng thấy em, cô gái ở Thạch Nhọn Thạch Kim
Những đội làm đường hành quân trong đêm
Nào cuốc nào choòng xoong nồi xủng xoảng
Rực rỡ mặt đất bình minh
Hấp hối chân trời pháo sáng
Ðường trong tim anh in những dấu chân.
Chiếc võng bạc trên đường hành quân
Anh đã buộc nhiều cây xoan cây ổi
Lại đường mới và hàng nghìn cô gái
Ở đâu em tinh nghịch của anh?
Bụi mù trời mùa hanh
Nước trắng khe mùa lũ
Ðêm rộng dài là đêm không ngủ
Em vẫn đi, đường vẫn liền đường
Cạnh giếng nước có bom từ trường
En không rửa ngủ ngày chân lấm
Ngày em phá nhiều bom nổ chậm
Ðêm nằm mơ nói mớ vang nhà
Chuyện kể từ nỗi nhớ sâu xa
Thương em, thương em, thương em biết mấy…
Dừng tay cuốc khi em ngoảnh lại
Sẽ giật mình đường mới ta xây
Ðã có độ dài hơn cả độ dài
Của đường xá đời xưa để lại
Sẽ ra về bao nhiêu cô gái
Một ngày mai đường sẽ đứng chơ vơ
Ðể cho đời sau còn thấy ngẩn ngơ
Trước những công trình ngoằn ngoèo trên mặt đất.
Ơi em gái chưa một lần rõ mặt
Có lẽ nào anh lại mê em
Từ cái đêm Thạch Nhọn Thạch Kim
Tên em đã thành tên chung anh gọi:
Em là cô thanh niên xung phong.
~Phạm-Tiến-Duật
~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.06.2011 11:51:42 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dòng thơ miền bắc - 20.06.2011 12:12:30




NGUYỄN-BÁ-CHUNG


QUÊ HƯƠNG*

Ba mươi năm xa cách quê hương
Bảy lần về thôi cũng là tạm đủ
Nhớ lần đầu - tóc tang trời ủ rũ
Đến bây giờ ánh sáng đã bừng lên

Có cái gì là lạ không thể quên
Như nỗi nhớ không biết tên mà gọi
Như nỗi đau không thể làm dịu vợi
Như ngôi nhà vẫn mãi mãi đi tìm

Như bầu trời nửa xám nửa không quen
Mảnh đất vỡ bồi máu xương ta đó
Đỉnh Yên Tử hoa đại còn vết đỏ
Những người xưa vì nước xả thân mình

Con đường quê vẫn mãi mãi gập ghềnh
Bao năm tháng những người làng chịu đói
Năm Ất Dậu tất cả làng tụ lại
Ăn cháo hoa suốt cả mấy tháng trời

Bát cháo hoa mà ngọt cả một đời
Quý hơn cả bao ngọc vàng cộng lại
Xa ngàn dặm để mà còn nhớ mãi
Vết thương đau chưa chôn đủ tháng ngày

Để về đây nhận lại mặt người
Để mình biết mình vẫn là mình cũ
Bao đổi thay thăng trầm bong lớp vỏ
Nhìn quê hương để lại nhận ra mình.

~Nguyễn-Bá-Chung~




TRẦN-HUYỀN-TRÂN
           1913-1989

Sinh tại Hà-Nội, làm thơ, soạn kịch,
viết
tiểu thuyết.



MƯA ĐÊM LỀU VÓ*  

Mưa lũa ao bèo mưa trắng đêm
Cây bờ ngơ ngác nước đang lên
Lều tôi kiến đã rời lên mái
Bà lão chài lo chửa có thuyền

Vó nghèo được nước đã lê thê
Đàn cá giang hồ nhảy nhót đi
Cả cụm bèo xanh nằm cạn mãi
Cũng như cất cánh gọi không về

Tôi ở lều gianh Cống Trắng này
Chạnh lòng cá nhảy với chim bay
Đêm sầu kẽo kẹt ngư bà thức
Giăng phải hồn tôi một lưới đầy.

~Trần-Huyền-Trân~


ĐỘC HÀNH CA  

Ớ kìa thiên hạ đang say

Ớ nghìn tay nắm nghìn tay đang cười
Nhớ ngươi nhạt thếch rượu đời
Tay vo chỏm tóc ta ngồi ta ca
Tình tang lỗi nhịp mình ta
Thương về đầu bạc xót ra má hồng
Đèn chong ai vợ không chồng
Võng đưa ai mẹ bế bồng không con
Nằm đây thép rỉ son mòn
Cái đi mất mát, cái còn lần khân
Cúi đầu bóng rét vương chân
Ngẩng lên đã đụng giời xuân trên cành
Không vui sâu cỏ không đành
Mà cười nghe chửa ngon lành trái mơ
Đã toan ném bút vùi thơ
Thõng buông tay áo sợ dơ dáng đời
Trót thừa ừ ngược, ừ xuôi
Chút thân tâm sự ra người hát ngao.
Giao tình tợp chén chiêm bao
Ngựa Hồ thôi gió bấc nào đạp chân
Đây người áo đỏ tầm xuân
Đấy đi tang trắng mấy lần trùng quan
Không dưng rét cả dây đàn
Này cung dâng áo ngự hàn là đây.
Nhớ xưa cùng dỗ bụi giầy
Vỗ đùi ha hả thơ mày rượu tao
Say đời nhắm lẫn chiêm bao
Thơ ra miệng dại, rượu vào mắt điên
Đầu bồng khí núi đang lên
Sá gì bóng tối đắp trên thân còm
Gặp thời xô xát nước non
Ta trôi ngươi trẩy lòng còn ngó theo
Đưa nhau qua bữa cơm nghèo
Đứa sầu gào rượu đứa nheo mắt cười
Vung tay như vạch ngang giời
Bảo rằng đâu nữa cái thời ngất ngư
Chén mồi dù hắt ưu tư
Sao cho ráo được gió mưa lội lầm
Cõi ngoài trăm họ muôn dân
Sống trong rau cỏ vẫn thầm khóc than
Sao ta lì mãi ruột gan
Đời ai mắt sáng hơn vàng mà mong
Chẳng nghe đỏ khé sông Hồng
Sóng ngàn xưa vẫn động lòng ngàn sau
Chẳng nhìn bóng đá thâu thâu
Non Lam như kẻ gục đầu còn thương
Chẳng hoài thóc giống vất vương
Giếng khô lấp mạch cây vườn rụi hoa
Trách nào trái rụng hương xa
Cốt muôn trẻ đắp muôn già càng cao
Mồ hôi làm suối chiêm bao
Nguồn sinh vô lượng đổ vào vô biên
Lũ mình rấp hận thành điên
Cái câm thuở ấy cười lên thủa này
Thế rồi thí bỏ rủi may
Đứa giam cõi bụi, đứa đày rừng sâu
Vai cầy chẳng kẻo làm trâu
Dong xe chẳng kẻo tóc râu làm bờm
Nẻo về chật chội áo cơm
Dặm đi lại động từng cơn lá rừng
Lòng ta không sóng không đừng
Thơ vang lại vướng mấy tầng cửa quan
Ngẩng thì núi quấn mây tan
Kìa đông lửa cháy kìa nam khói mù
Kìa trời kia cũng ưu tư
Kìa kìa đất nọ ngắc ngư lạc đường
Nhà ta nào thiếu gì thương
Mà ta ngăn ngắt như giường bệnh nhân
Thuốc nào chữa nổi tà tâm
Bao mồi danh lợi ghìm chân sông hồ
Tóc xanh như cỏ trên mồ
Đời hoang chôn cả xuân thu một thời
Chao ôi! đâu xóm nô cười
Trẻ no vú sữa, già ngơi tiệc trà
Tự tình trai gái như hoa
Nằm trong vàng ngọc bước ra áo quần
Lầu cao đời rủ rèm xuân
Ấm no ngồn ngộn mấy tầng vô tư
Biết gì đến giấc chinh phu
Đêm mơ ngọc đá lầm tro giật mình
Tay xua bóng dáng gia đình
Mà thân lơ láo thế tình càng đau
Đời xanh khó ngả màu nâu
Mắt hào quang vẫn đục ngầu như say
Nghêu ngao cho sập bóng ngày
Khề khà cho ráo hận đầy từng hơi
Chiều nay nhấc chén lên môi
Không dưng tưởng nhắp máu người tanh tanh
Khóc nhau ném chén tan tành
Nghe vang vỡ cái bất bình thành thơ
 
Cố nhân! Ới hỡi người xưa
Dọn đi tâm sự. Đây mưa về rừng!
~Trần-Huyền-Trân~
            1940 
Nhà xuất bản Hội nhà văn, 1999    
 
 
ĐỘC HÀNH CA 1

Ớ kìa thiên hạ đang say
Ớ nghìn tay nắm nghìn tay đang cười
Nhớ nhau nhạt thếch rượu đời
Tay vo chỏm tóc ta ngồi ta ca

Tình tang lỗi nhịp mình ta
Thương về đầu bạc xót ra má hồng
Tình tang ai vợ không chồng
Võng đưa ai mẹ bế bồng không con
Nằm đây thép rỉ son mòn
Cái đi mất mát cái còn lần khan
Cúi đầu bóng rét vương chân
Ngẩng lên đã đụng giời xuân trên cành
Không vui rau cỏ không đành
Mà cười nghe chửa ngọt lành trái mơ
Đã toan ném bút vùi thơ
Thõng buồng tay áo sợ dơ dáng đời
Trót thừa, ừ ngược ừ xuôi
Chút thân tâm sự ra người hát ngao
Giao tình tợp chén chiêm bao
Ngựa Hồ thôi gió bấc nào đạp xuân
Đây người áo đỏ tầm xuân
Đấy đi tang trắng mấy lần trùng quan
Không dưng rét cả dây đàn
Này cung dâng áo ngự hàn là đây!

2.
Đêm nay cũng đổ bụi giày
Miệng cười ha hả thơ mày rượu tao
Say đời nhắm lẫn chen bao
Thơ ra miệng dại, sầu vào mắt điên
Đầu bừng khí núi đang lên
Sá gì bóng tối đắp trên thân còm
Gặp thời xô xát nước non
Ta trôi ngươi chảy lòng còn ngó theo
Đưa nhau qua bữa cơm nghèo
Đứa sầu gào rượu đứa nheo mắt cười
Vung tay như vạch ngang trời
Bảo rằng đâu nữa cái thời ngất ngư
Chén mồi dù hắt ưu tư
Sao cho ráo được gió mưa lội lầm
Cõi ngoài trăm họ muôn dân
Sống trong rau cỏ vẫn thầm khóc than
Sao ta lì mãi ruột gan
Đời ai mắt sáng hơn vàng mà mong
Chẳng nghe đỏ khé sông Hồng
Sóng ngàn xưa vẫn đọng lòng ngàn sau
Chẳng nhìn bóng đá thâu thâu
Non Lam như kẻ gục đầu còn thương
Chẳng hoài thóc giống vất vương
Giếng khô lấp sạch cây vườn rụi hoa
Trách nào trái rụng hương sa
Cốt muôn trẻ đắp muôn già càng cao
Mồ hôi làm suối chiêm bao
Nguồn sinh vô lượng đổ vào vô biên
Lũ mình rắp hận thành điên
Cái câm thưở ấy cười lên thưở này

3.
Thế rồi thí bỏ rủi may
Đứa giam cõi bụi đứa đày rừng sâu
Vai cày chẳng kẻo làm trâu
Giong xe chẳng kẻo tóc râu làm bờm
Nẻo về chật chội áo cơm
Dặm đi lại động từng cơn lá rừng
Lòng ta không sóng không dừng
Thơ vang lại vướng mấy từng cửa quan
Ngẩng thì núi quấn mây tang
Kìa Đông lửa cháy kìa Nam khói mù
Tóc xanh như cỏ trên mồ
Đời hoang chôn cả xuân thu một thời
Nghêu ngao cho sập bóng ngày
Khề khà cho ráo hận đầy từng hơi
Chiều nay nhấc chén lên môi
Không dưng tưởng nhắp máu người tanh tanh
Khóc nhau ném chén tan tành
Nghe vang vỡ cái bất bình thành thơ.

~Trần-Huyền-Trân~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.06.2011 12:18:33 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dòng thơ miền bắc - 07.07.2011 09:45:58




NGUYỄN-NGỌC-OÁNH
                1937

Sinh tại Quỳnh-Lưu, Nghệ-An, chuyên làm thơ.

         


MẸ*

Cành bàng thả lá heo may
Mẹ gầy, cái dáng khô gầy cành tre
Gót chai nứt nẻ đông hè
Ruộng sâu bấm mãi đã tòe ngón chân

Mẹ ngồi vá áo trước sân
Vá bao mong ước, tay sần mũi kim
Bát canh đắng lá chân chim
Lẫn vài con tép Mẹ tìm dành con

Co ro một mảnh chăn mòn
Tàn đêm giấc ngủ hãy còn ngoài chăn
Mẹ gom giẻ rách, giấy manh
Mặc đôi quang thủng giữ lành tiếng rao

Áo nâu phơi vẹo bờ rào
Cái phận đã bạc còn cào phải gai
Quả cà cõng mấy củ khoai
Con thút thít, Mẹ nghẹn hai ba lần

Tối về đến lớp bình dân
I tờ nhặt được đôi vần lại rơi
Cha con trời gọi về trời
Chái nhà mưa dột, ướt lời ru thương

Tiễn con ra chốn chiến trường
Gạt thầm nước mắt mong đường con khô
Hai tay hết sẻ lại cho
Còn phần Mẹ-một thân cò qua sông…

~Nguyễn-Ngọc-Oánh~




HỒNG-NGUYÊN
      1924-1951

Tức Nguyễn-Văn-Vượng, sinh tại
Đông-Sơn,Thanh-Hóa, làm thơ,
viết tiểu luận.



NHỚ*

Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi “một hai”
Súng bắn chưa quen
Quân sự mươi bài
Lòng vẫn cười vui kháng chiến
Lột sắt đường tàu
Rèn thêm dao kiếm
Áo vải chân không
Đi lùng giặc đánh
Ba năm rồi gửi lại quê hương
Mái lều gianh
Tiếng mõ đêm trường
Luống cày đất đỏ
Ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya

Chúng tôi đi
Nắng mưa sờn mép ba lô,
Tháng năm bạn cùng thôn xóm.
Nghỉ lại lưng đèo
Nằm trên dốc nắng.
Kỳ hộ lưng nhau ngang bờ cát trắng,
Quờ chân tìm hơi ấm đêm mưa.
- Đằng nớ vợ chưa?
- Đằng nớ?
- Tớ còn chờ Độc Lập
Cả lũ cười vang bên ruộng bắp
Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu.

Chúng tôi đi mang cuộc đời lưu động,
Qua nhiều nơi không nhớ hết tên làng.
Đã nghỉ lại rất nhiều nhà dân chúng
Tôi nhớ bờ tre gió lộng
Làng xuôi xóm ngược mái rạ như nhau
Có nắng chiều đột kích mấy hàng cau.
Có tiếng gà gáy xóm,
Có “khai hội, yêu cầu, chất vấn!”
Có mẹ hiền bắt rận cho những đứa con xa.
Trăng lên tập hợp hát om nhà
Tôi nhớ
Giường kê cánh cửa,
Bếp lửa khoai vùi
Đồng chí nứ vui vui,
Đồng chí nứ dạy tôi dăm tối chữ,
Đồng chí mô nhớ nữa,
Kể chuyện Bình Trị Thiên,
Cho bầy tôi nghe ví,
Bếp lửa rung rung đôi vai đồng chí.
- Thưa trong nớ hiện chừ vô cùng gian khổ,
Đồng bào ta phải kháng chiến ra ri.

Đêm đó chúng tôi đi,
Nòng súng nghiêng nghiêng
Đường mòn thấp thoáng…
Trong điếm nhỏ,
Mươi người trai tráng,
Sờ chuôi lựu đạn,
Ngồi thổi nùn rơm
Thức vừa rạng sáng,
Nhìn trời sương nhẩm bước chúng tôi đi,
Chúng tôi đi rất nhớ câu ni,
Dân chúng cầm tay lắc lắc:
“Độc lập nhớ rẽ viền chơi ví chắc!”

~Hồng-Nguyên~
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.07.2011 09:53:07 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dòng thơ miền bắc - 20.08.2011 10:44:05





VĂN-LÊ
Tức Lê-Huy-Chi, sinh tại Gia-Viễn, Ninh-Bình,
làm thơ, viết tiểu thuyết và truyện ngắn.

 
           
THÁP CHÀM
*  

Ngút ngàn ở giữa rừng xanh
Hiện lên ngọn tháp một mình cô đơn
Người xưa đã chọn mặt tường
Để lưu giữ lấy tâm hồn thiêng liêng

Nắng chiều ngọn tháp đổ nghiêng
Thời gian ăn rỗng cả viên gạch hồng
Vậy mà trong thớ đất nung
Vẫn còn in đậm chân dung con người

Còn đây vũ nữ lả lơi
Trăm năm vẫn múa không người lại xem
Thần tình yêu nép bên thềm
Mũi tên số phận chưa tìm đích bay

Còn đây một mẩu cánh tay
Một bàn chân gãy, một cây gươm cùn
Một con ngựa mất yên cương
Một cây cung cháy, lửa cồn xung quanh

Những gì thuộc của chiến tranh
Chẳng còn giữ được nguyên lành, lạ không!
Bao năm gió táp mưa rừng
Vẫn không xóa được chân dung con người

Để chiều nay trước mắt tôi
Một người múa với một người đứng xem
Vô tư như một ngọn đèn
Tháp Chàm lặng lẽ sáng lên giữa rừng

~Văn-Lê~




TRẦN-VÀNG-SAO
            1942
Tức Nguyễn Đính, sinh tại Thừa-Thiên
Huế,
chuyên làm thơ.

 

BÀI THƠ CỦA MỘT NGƯỜI YÊU NƯỚC MÌNH*

Buổi sáng tôi mặc áo đi giầy ra đứng ngoài đường
Gió thổi những bông mía trắng bên sông
Mùi toóc khô còn thơm lúa mùa qua
Bầy chim sẻ đậu trước sân nhà
Những đứa trẻ đứng nhìn ngấp nghé

Tôi yêu đất nước này như thế
Mỗi buổi mai
Bầy chim sẻ ngoài sân
Gió mát và trong
Đường đi đầy cỏ may và muộng chuộng

Tôi vẫn sống
vẫn ăn
vẫn thở
như mọi người
đôi khi chợt nhớ một tiếng cười lạ
một câu ca dao buồn có hoa bưởi hoa ngâu
một vết bùn khô trên mặt đá
không có ai chia tay
cũng nhớ một tiếng còi tàu

Mẹ tôi thức khuya dậy sớm
năm nay ngoài năm mươi tuổi
chồng chết đã mười mấy năm
thủa tôi mới đọc được i tờ
mẹ thương tôi mẹ vẫn tảo tần
nước sông gạo chợ

nhà hai buổi nhà không khi nào vắng người đòi nợ
sống qua ngày nên phải nghiến răng
cũng không vui nên mẹ ít khi cười
những buổi trưa buổi tối
ngồi một mình hay khóc
vẫn thở dài mà không nói ra
thương con không cha
hẩm hiu côi cút

tôi yêu đất nước này xót xa
mẹ tôi nuôi tôi mười mấy năm không lấy chồng
thương tôi nên ở goá nuôi tôi
những đứa nhà giàu hàng ngày chửi bới
chúng cho mẹ con tôi áo quần tiền bạc như cho một đứa hủi
ngày kỵ cha họ hàng thân thích không ai tới

thắp ba cây hương
với mấy bông hải đường
mẹ tôi khóc thút thít
cầu cha tôi phù hộ tôi nên người
con nó còn nhỏ dại
trí chưa khôn chân chưa vững bước đi
tôi một mình nuôi nó có kể chi mưa nắng

tôi yêu đất nước này cay đắng
những đêm dài thắp đuốc đi đêm
quen thân rồi không ai còn nhớ tên
dĩ vãng đè trên lưng thấm nặng
áo mồ hôi những buổi chợ về
đời cúi thấp
giành từng lon gạo mốc
từng cọng rau, hột muối
vui sao khi còn bữa đói bữa no
mẹ thương con nên cách trở sông đò
hàng gánh nặng phải qua cầu xuống dốc
đêm nào mẹ cũng khóc
đêm nào mẹ cũng khấn thầm
mong con khôn lớn cất mặt với đời

tôi yêu đất nước này khôn nguôi
tôi yêu mẹ tôi áo rách
chẳng khi nào nhớ tuổi mình bao nhiêu

Tôi bước đi
mưa mỗi lúc một to
sao hôm nay lòng thấy chật
như buổi sáng mùa đông chưa có mặt trời mọc
con sông dài nằm nhớ những chặng rừng đi qua
nỗi mệt mỏi, rưng rưng từng con nước
chim đậu trên cành chim không hót
khoảng vắng mùa thu ngủ trên cỏ may

tôi yêu đất nước này những buổi mai
không ai cười không tiếng hát trẻ con
đá đất cỏ cây ơi
mười ba năm có héo mòn
đá đất cỏ cây ơi
lòng vẫn thương mẹ, nhớ cha
ăn quán nằm cầu
hai hàng nước mắt chảy ra
mỗi đêm cầu trời khấn Phật cho tai qua nạn khỏi
ngày mai mua may bán đắt

tôi yêu đất nước này áo rách
căn nhà dột phên không ngăn nổi gió
vẫn yêu nhau trong từng hơi thở
lòng vẫn thương cây nhớ cội hoài
thắp đèn đêm ngồi đợi mặt trời mai

tôi yêu đất nước này như thế
như yêu cây cỏ trong vườn
như yêu mẹ tôi chịu khó chịu thương
nuôi tôi thành người hôm nay
yêu một giọng hát hay
có bài mái đẩy thơm hoa dại
có sáu câu vọng cổ chứa chan
có ba ông táo thờ trong bếp
và tuổi thơ buồn như giọt nước trong lá sen

tôi yêu đất nước này và tôi yêu em
thủa tóc kẹp tuổi ngoan học trò
áo trắng và chùm hoa phượng đỏ
trong bước chân chim sẻ
ngồi học bài và gọi nhỏ tên tôi
hay nói chuyện huyên thuyên
chuyện trên trời dưới đất rất lạ
chuyện bông hoa mọc một mình trên đá
cứ hay cười mà không biết có người buồn

sáng hôm nay gió lạnh vẫn còn
khi xa nhà vẫn muốn ngoái lại
ngó cây cam cây cải
thương mẹ già như chuối ba hương
em chưa buồn
vì chưa rách áo

tôi yêu đất nước này rau cháo
bốn ngàn năm cuốc bẫm cày sâu
áo đứt nút qua cầu gió bay
tuổi thơ em hãy giữ cho ngoan

tôi yêu đất nước này lầm than
mẹ đốt củi trên rừng và cha làm cá ngoài biển
ăn rau rìu, rau éo, rau trai
nuôi lớn người từ ngày mở đất
bốn ngàn năm nằm gai nếm mật
một tấc lòng cũng trứng Âu Cơ
một tiếng nói cũng đầy hồn Thánh Gióng

Tôi đi hết một ngày
gặp toàn người lạ
chưa ai biết chưa ai quen
không biết tuổi không biết tên
cùng sống chung trên trái đất
cùng nỗi đau chia cắt Bắc Nam
cùng có chung tên gọi Việt Nam
mang vết thương chảy máu ngoài tim
cùng nhức nhối với người chết oan ức
đấm ngực giận hờn tức tối
cùng anh em cất cao tiếng nói
bản tuyên ngôn mười bốn triệu người đòi độc lập tự do
bữa ăn nào cũng phải được no
mùa lạnh phải có áo ấm
được ca hát, nói cười, yêu đương không ai cấm
được thờ cúng những người mình tôn kính
hai mươi năm cuộc đời chưa khi nào định

Tôi trở về căn nhà nhỏ
đèn thắp ngọn lù mù
gió thổi trong lá cây xào xạc
vườn đêm thơm mát
bát canh rau dền có ớt chìa vôi
bên hàng xóm có tiếng trẻ con khóc
mẹ bồng con lên non ngồi cầu Ái Tử

đất nước hôm nay đã thấm hồn người
ve sắp kêu mùa hạ
nên không còn mấy thu
đất nước này còn chua xót
nên trông ngày thống nhất
cho bên kia không gọi bên này là người miền Nam
cho bên này không gọi bên kia là người miền Bắc
lòng vui hôm nay không thấy chật

tôi yêu đất nước này chân thật
như yêu căn nhà nhỏ có mẹ của tôi
như yêu em nụ hôn ngọt trên môi
và yêu tôi đã biết làm người
cứ trông đất nước mình thống nhất

~Trần-Vàng-Sao~
      19/12/1967
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.08.2011 10:50:24 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dòng thơ miền bắc - 24.08.2011 11:55:00



VĂN-CAO
 
1923-1995

Tức Nguyễn-Văn-Cao, sinh tại Hải-Phòng,
tác giả bài Tiến quân ca và các bài Thiên
Thai, Trường ca Sông Lô, làm thơ, soạn
nhạc, vẽ, và viết truyện ngắn.



 
NĂM BUỔI SÁNG KHÔNG
CÓ TRONG SỰ THẬT

"Những mái nhà ủ những cánh chim đêm
Ủ những giấc mơ dưới trời sao lồng lộng"


I

Ng
ủ dậy một sáng
Cả phố biến đâu mất
Không một bóng người đi
Im lặng hồ nước sâu thăm thẳm
Mặt đất đỏ màu gạch nung
Như miệng quả núi lửa
Anh đi tìm em
Tìm dấu vết những con đường
Chúng ta thường đi lại
Giữa mênh mông tôi gọi em mãi mãi
Thế kỷ chúng ta đứng lại nơi đây
Em ở đâu?
Thế kỷ chúng ta còn đang tiếp tục
Trên trái đất này
Hàng ngày đứng lại nơi đây
Tôi gọi em mãi mãi

II
Buổi sáng nay không nghe tiếng chim hót
Một buổi sáng không thật
Tôi bước đi không thấy tiếng chân đi
Cả thành phố cùng tôi im lặng
Tất cả những con người
Chỉ thấy mắt đen lay láy
Cả tiếng xe không thành tiếng
Tại sao? Tại sao?
Không ai nhìn miệng tôi gào thét không ra tiếng
Trong kinh hoàng tôi chạy trên đất
Một mình
Giữa thành phố mọi người im lặng
Tại sao? Tại sao? Không tiếng nói
Không tiếng động, không sự sống
Tại sao thành phố sa mạc
Không nghe gió thổi
Những hình người như bị đẩy
Qua nhanh
Hình như nơi đây
Bị đày trong im lặng

III
Buổi sáng nay không phải mình thức dậy
Một người nào trong tôi đang thở
Trước mặt tôi
Buồn nửa đêm nửa ngày len lỏi
Nửa phố mặt trăng nửa phố mặt trời
Từ khi ấy chúng tôi, hai người suy nghĩ
Hai kẻ thù nhau
Hai thái cực tâm hồn
Hai người ấy trong một người chịu đựng
Mưu lại lẫn nhau
Không biết ngày đêm không biết giả thật
Từ phút ấy, tôi không còn thật nữa

IV
Buổi sáng nay cả phố phường như mở hội
Mọi con người đeo mặt nạ đi chơi
Những bước chân nhảy múa
Vui lên cành non
Lá bàng trên phố xanh màu ngọc
Xuân tháng hai
Cửa hàng rượu bên đường
Tơ lụa pha len, hoa giấy ni-lông
Những mặt nạ gặp nhau chào hỏi
Những em bé búp-bê mùa xuân
Hồng hào da thịt
Ngồi đập nút chai làm tiền bạc chơi xuân
Mở tròn mắt nhìn kinh ngạc
Họ vui làm sao
Ô kìa
Nước mắt mồ hôi
Sao chảy ra trên từng mặt nạ
Từng con người
Vội vàng lau mồ hôi và nước mắt
Trên những mặt nạ giấy bồi

V
Những cánh cửa đều khóa chặt
Trong gian phòng trong suốt thủy tinh
Em ở đây với anh
Cho bớt lạnh sáng mùa xuân náo níu
Thịt da em cho anh sưởi
Hơi ấm mình con chim khuyên
Trong lòng bàn tay
Run rẩy
Giữa hai cành non
Nghe nhựa mùa xuân
Những nụ hồng mới nở
Và mật vừa thơm và ong đã tới
Chúng ta đi vào bí mật mùa xuân
Ngày đầu tiên của em trên biển.

~Văn-Cao~
 
      
THANH-THẢO                                 
         1946

Tức Hồ-Thành-Công, sinh tại Mộ- Đức,
Quảng-Ngãi, chuyên làm thơ.


MỘT NGƯỜI LÍNH NÓI VỀ THẾ HỆ MÌNH

ngày chúng tôi đi các toa tàu mở toang cửa
không có gì phải che giấu nữa
những thằng lính trẻ măng tinh nghịch ló đầu qua cửa sổ
những thằng lính trẻ măng quân phục xùng xình
chen bám ở bậc toa như chồi như nụ
con tàu nổi hiệu còi rung hết cỡ
và dài muốn đứt hơi
hệt tiếng gã con trai ồm ồm mới vỡ
thế hệ chúng tôi
hiệu còi ấy là một lời tuyên bố

một thế hệ mỗi ngày đều đụng trận
mà trách nhiệm nặng hơn nòng cối 82
vẫn thường vác trên vai

một thế hệ thức nhiều hơn ngủ
xoay trần đào công sự
xoay trần trong ý nghĩ
đi con đường người trước đã đi
bằng rất nhiều lối mới

những cái tên trên cây rừng khắc vội
những chữ N chữ T vạch ở các bình tông
ba lô đựng một bộ áo quần
vài gói mắm cùng nắm cơm nho nhỏ
bếp dã chiến cháy dọc bờ suối đá
treo tòn ten mấy ống cóng canh chua
nấu lá giang và mắm ruốc
tất cả những gì chúng tôi có được
đều trải cho nhau, trải ra đất thật tình
với quân thù - chi đến tối đa
với bè bạn-phải chơi hết mình

nếu chỉ nhìn da chúng tôi đen hơn
nhìn cái vóc dạn dày trước tuổi
đếm vết chai trên bàn tay, chưa đủ
cũng chưa đủ nếu chỉ tính cuộc đời bằng những chiến công

ôi trảng dầu những chiếc lá khô cong
mỗi bước dưới chân rì rầm tiếng nói
đêm hành quân qua nhiều đống lửa
bùng tự nhiên ngay giữa lối mòn

thế hệ chúng tôi bùng ngọn lửa chính mình
soi sáng đường đi tới
có những đêm mưa quất bốn bề
giữa Tháp Mười không mái lá nương che
nước đã giật phải đẩy xuồng băng trấp
lúc ấy chân trời là lưng người đi trước
vụt loé lên qua ánh chớp màn mưa

thế hệ chúng tôi trắng từng đêm lội nước
sình bết từ chân bết đến đầu
nên giọng nói có nhiều khi ngang dọc
nên cái nhìn có lắm phen gai góc
vì ngọn lửa chịu sình là lửa thực
đã bùng lên dám cháy tận sức mình

nhủ điều chi ơi tiếng quốc đêm sương
kêu da diết suốt một mùa nước nổi
bông điên điển mở cánh vàng nóng hổi
là nắng chiều đẫm lại giữa lòng tay
đất nước ngấm vào ta, đơn sơ
như Tháp Mười không điểm trang đầy im lặng
trên tất cả tình yêu tình yêu này đi thẳng
đến mỗi đời ta bất chấp những ngôn từ

tôi gặp thằng bạn thân trong một chuyến bất ngờ
đêm Mỹ Long hai đứa nằm lộ đất
trải dưới trời một tấm ni lông
nơi khi chiều B52 bừa ba đợt
nơi mấy năm rồi hố bom không đếm hết
nơi tôi chợt thốt niềm mơ giản dị của mình
“chừng nào thật hoà bình
ra lộ 4 trải ni lông nằm một đêm cho thoả thích”

thằng bạn tôi đăm đăm
nhìn một ngôi sao mọc trong hố bom nhoè nước
đôi mắt nó lạ lùng mà tôi thấy được
chứa đầy một hố bom và một ngôi sao…

cơn lốc xoáy trên nóc rừng nguyên thủy
tiếng gió hú dài trong những bộng cây
đàn dơi chấp chới bay
trảng tranh hừng hực nắng

chúng tôi qua cái khắc nghiệt mùa khô
qua mùa mưa mùa mưa dai dẳng
võng mắc cột tràm đêm ướt sũng
xuồng vượt sông dưới pháo sáng nhạt nhoà
đôi lúc ngẩn người một ráng đỏ chiều xa
quên đời mình thêm tuổi
chân dép lốp đạp mòn trăm ngọn núi
mà không hề rợp bóng xuống tương lai

những trận đánh ập về đầy trí nhớ
pháo chụp nổ ngang trời từng bựng khói
nhịp tim dập dồn lần xuất kích đầu tiên
bình tông cạn khô trên nóc hầm nồng khét
những vỏ đồ hộp lăn lóc
cái im lặng ù tai giữa hai đợt bom
một tiếng gà bất chợt
bên bờ kênh hoang tàn

thế hệ chúng tôi không sống bằng kỷ niệm
không dựa dẫm những hào quang có sẵn
lòng vô tư như gió chướng trong lành
như sắc trời ngày nắng tự nhiên xanh

đoàn xuồng chuyển quân bơi rậm kênh Bằng Lăng
buổi chiều pháo bắn
những cây bình bát gục ngã
hoàng hôn đôi bờ như máu chảy
trắng dòng kênh xác xăng đặc lều bều

tôi bỗng thấy mặt mình trên mặt nước
mặt nước trôi những dề xăng đặc
mặt nước trôi những trái bình bát
mặt nước trôi quê hương không còn nguyên vẹn
và tôi thấy
trôi qua mặt mình bao nhiêu gương mặt
những bạn bè quen những bạn bè chưa gặp
trẻ măng
loang loáng theo con nước
tủa về những đồng sâu
hun hút
buổi chiều

đó là những người qua trước
không phải trước hai mươi năm
đó là những người qua sau
không phải sau hai mươi năm
mà vào buổi chiều ấy
trên những dòng kênh ấy
pháo bắn và nước chảy
thế hệ chúng tôi nhìn rất rõ mặt mình

~Thanh-Thảo~
     
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.08.2011 11:59:56 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dòng thơ miền bắc - 26.08.2011 10:47:03




LÊ-THỊ-KIM
       1950


Tức Lê-Thị-Ngà, sinh tại Thanh-Hoóa.
chuyên làm thơ.



VIẾT CHO CHUỒN CHUỒN KIM

Đôi cánh mày bé bỏng
Sao mang nổi bầu trời
Nhỡ mà kỳ giông bão
Núp đâu chuồn kim ơi

Luống cà sang luống bắp
Với con chuồn chuồn kim
Cũng xa bằng hai nước
Biết đâu mà bay lên

Dù đi đây đi đó
Không qua nổi mái nhà
Con chuồn kim đầu ngõ
Như người, đừng đi xa

Trong tình tôi lặng lẽ
Có con chuồn kim bay
Bằng đôi chân sẻ
Tôi đi trên đời này

Tôi đi mà như đậu
Tôi bay mà như đi
Con chuồn kim bờ đậu
Trong tình tôi thầm thì

Những người xa khuất nẻo
Nghìn chân trời trong tay
Làm sao mà nhìn thấy
Một con chuồn kim bay

Chuồn kim ơi đừng sợ
Những chú bé bắt mày
Bởi thân mày quá nhỏ
Bắt làm sao lọt tay

Con chuồn kim màn chỉ
Lặng lẽ khâu tháng ngày
Vườn tôi đang rộng mở
Tha hồ chuồn kim bay
~Lê-Thị-Kim~



ĐỪNG NHÌN EM NHƯ THẾ

Đừng nhìn em như thế
Cháy lòng em còn gì
Sự nồng nàn của bể
Cuốn mất hồn em đi

Đừng nhìn em như thế
Khắc giờ thành thiên thu
Mắc nợ đời dâu bể
Mắc nợ đời thơ si

Em đành làm chim nhỏ
Đứng hót chơi trong chiều
Thả đôi lời hoa cỏ
Cho đời bớt tịch liêu

Bởi tình yêu có thật
Vĩnh cửu trong cuộc đời
Bởi ghen tuông có thật
Xuống mồ biết có thôi

Đừng nhìn em như thế
Sự dịu dàng nhường kia
Sẽ làm em chết ngạt
Hết một đời thơ si
~Lê-Thị-Kim~



KHI TÌNH YÊU ĐẾN

Tình yêu không là gió
Chợt gần rồi chợt xa
Tình yêu không là cỏ
Mọc lan man thềm nhà

Em có một tình yêu
Mong nhanh như nhánh lá
Em có một tình yêu
Như sóng ngầm biển cả

Em biết nói thế nào
Về anh, màu áo vải
Ðôi dép lốp trật quai
Rút hoài chưa chặt lại

Anh bất ngờ như bể
Ðến lặng thinh như tờ
Vẫn lành như chim sẻ
Bắt em ngồi làm thơ

Mười năm anh ở rừng
Em còn là "con nhỏ"
ở khoảng giữa đôi ta
ầm ì bom đạn nổ

Tại anh chỉ tại anh
Em dễ quên dễ nhớ
Nhìn chi cũng hóa thành
Gương mặt anh rực rỡ

Ðang ăn cơm bỗng hát
Giữa giấc ngủ mỉm cười
Em bất thường lạ thật
Bắt đền anh, anh ơi
~Lê-Thị-Kim~



GẦN LẮM TRƯỜNG-SA
 
Biết rằng xa lắm Trường Sa
Trùng dương ấy tôi chưa ra lần nào
Viết làm sao, viết làm sao
Câu thơ nào phải con tàu ra khơi
 
Thế mà đã có lòng tôi
Ở nơi cuối bến ở nơi cùng bờ
Phải đâu chùm đảo san hô
Cũng không giống một chùm thơ ngọt lành
 
Hỡi quần đảo cuối trời xanh
Như trăm hạt thóc vãi thành đảo con
Sóng bào mãi vẫn không mòn
Vẫn còn biển cả vẫn còn Trường Sa
 
Lời anh kể, dẫn tôi ra
Bước lên ghềnh đá chim sa xuống đầu
Những loài chim biển hải âu
Tưởng người là loại chim đâu mới về…
~Lê-Thị-Kim~




BÙI-CÔNG-MINH
           1947

Sinh tại Đà-Nẵng, làm thơ.

NGÀY VÀ ĐÊM

Rất dài và rất xa
Là những ngày mong nhớ
Nơi sáng lên ngọn lửa
Là trái tim yêu thương

Anh đang mùa hành quân
Pháo lăn dài chiến dịch
Bồi hồi đêm xuất kích
Chờ nghe tiếng pháo ran

Ngôi sao như mắt anh
Trong những đêm không ngủ
Giáo án em vẫn mở
Cho ánh sao bay vào

Ngày và đêm xa nhau
Đâu chỉ dài và nhớ
Thời gian trong cách trở
Đốt cháy ngời tình yêu

Pháo anh trên đồi cao
Nã vào đầu giặc Mỹ
Bục giảng dưới hầm sâu
Em cũng là chiến sĩ

Cái chết cúi gục đầu
Cuộc đời xanh tươi trẻ
Ngày đêm ta bên nhau
Những đêm ngày chiến đấu

~Bùi-Công-Minh~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 26.08.2011 11:02:20 bởi Anh Nguyên >

Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 30 trên tổng số 44 bài trong đề mục