Dòng thơ mới
DÒNG THƠ MỚI
1901-1954 NGUYÊN THÁI HOC
1901-1930
Quê Phổ-Tang, Vĩnh-Tuờng, Vĩnh-Yên,
Gia đình nông dân, học trường Tiểu học
Pháp Việt, đậu vào trường Cao đẳng Sư
phạm HN, được học bổng chính phủ bảo
hộ, bất mãn, bỏ học sau năm thứ ba, học
trường cao đẳng thương mại Đông-Dương,
thành lập VNQDĐ, được bầu làm chủ tịch,
khởi nghĩa tấn công một số cơ sở quân sự
Pháp, thất bại, ông và một số chiến sĩ bị bắt,
ngày 17-6-1930, 13 chiến sĩ quan trọng của
VNQDĐ lên máy chém ở Yên-Bái, ông mỉm
cười ngâm thơ tiếng Pháp, ông hy sinh lúc
mới 29 tuổi
"Mourir pour patrie,
C'est le sort le plus beau
Le plus digne...d'envie..."
Nghĩa:
Chết vì tổ quốc,
Cái chết vinh quang,
Lòng ta sung sướng,
Trí ta nhẹ nhàng…
Sau đây là hai bức thư lịch sử:
Ngày ... tháng 3 năm 1930
Gởi ông Toàn quyền Đông Dương ở Hà Nội.
Ông Toàn quyền
Tôi, Nguyễn Thái Học kí tên dưới đây, chủ tịch đảng Cách mệnh Việt Nam Quốc dân đảng, hiện bị giam ở ngục Yên Bái, trân trọng nói ông rõ rằng:
Hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp, tôi thực có trách nhiệm về mọi việc chánh biến phát sinh ở trong nước, do Đảng tôi chỉ huy từ năm 1927 tới nay, vì tôi là chủ tịch của Đảng và là người sáng lập nữa. Vậy xin ông giết một mình tôi, chứ đừng giết các người đảng viên hay gọi là đảng viên hiện bị giam ở các ngục, bởi vì người ta vô tội! Người ta vô tội vì trong số đó một phần là các đảng viên, nhưng họ vào đảng là vì tôi khuyến khích họ, cho họ biết thế nào là nghĩa vụ một người dân đối với quốc gia, thế nào là những nỗi khổ nhục của một tên dân mất nước: còn ngoài ra là những người bị vu cáo bởi bọn thù hằn, bởi lũ mật thám, bởi những bạn bè bán mình cho chính phủ Đông Dương! Tôi nhắc lại một lần nữa để ông biết cho rằng chỉ cần giết một mình tôi, vì tôi mới chính là thủ phạm. Mà nếu còn chưa đủ hả, thì xin tru di cả nhà tôi, tôi đem nước mắt mà xin ông tha cho những người khác! Sau nữa tôi mong ông nghĩ đến danh dự nước Pháp, đến công lí, đến nhân đạo mà thôi, đừng ra lệnh ném bom hay đốt phá những làng vô tôi như ông vừa mới làm! Đó là một lệnh giết người. Những đồng bào của tôi sẽ vì thế mà chết đói, chết rét mấy vạn mà kể!
Sau cùng kết luận bức thư, tôi nói cho ông biết rằng nếu người Pháp muốn ở yên ở Đông Dương mà không phải khốn đốn vì phong trào cách mệnh thì:
1) Phải thay đổi cái chương trình chính trị hung tàn và vô đạo hiện hành ở Đông Dương.
2) Phải cư xử cho ra vẻ là người bạn dân Việt Nam, chứ đừng có lên bộ ông chủ bạo ngược và áp chế.
3) Phải để lòng giúp đỡ những nỗi đau khổ về tinh thần, về vật chất của người Việt Nam, bằng cách trả lại các nhân quyền như tự do ngôn luận; đừng có dong túng bọn tham quan, ô lại, và những phong tục hủ bại ở các hương thôn; mở mang nền công thương bản xứ, cho nhân dân được học tạp những môn cần thiết.
Ông Toàn quyền, hãy nhận lấy tấm lòng tôn kính và cảm kích, với sự nhiệt liệt tạ ơn.
Kẻ thù của ông:
Nguyễn Thái Học
NGYỄN TRỌNG THUẬT
QUẢ DƯA HẤU
Gặp em ngoài cõi bể đông,
Yêu em về một tấm lòng thắm tươi.
Răng đen nhoẻn miệng em cười,
Dầu trời nóng nực cũng nguôi cơn nồng.
Yêu em anh bế anh bồng,
Nước non ghi nghĩa tương phùng từ đây.
~Nguyễn Trọng Thuật~
1926
BÙI HỮU DIÊN 1903-1935
Quê Chỉ-Bồ, Thụy-An, Thái-Thụy, Thái-Bình,
nhập đảng CS/ĐD năm 1930, năm 1931 bị kết
án tù chung thân, đày biệt xứ đi Guyane thuộc
Pháp và mất tại đó.
BIỆT XỨ TỪ NGÂM
Ma-rô-ni trường giang hiu quạnh,
Pho-rết-chi-ê phong cảnh lao tù.
Nhạn về lác đác chiều thu,
Khói nghi ngút tỏa sương mù mịt bay.
Vầng trời đất cỏ cây ảm đạm,
Mây trắng phơ mấy đám bay qua.
. . . . . . . . . . . . . . . . . .
Từng không lấp ló gương nga dập dờn
Người đối cảnh đòi cơn sầu thảm,
Cảnh theo người như cảm bi thương
Non sông trong óc mơ màng,
Cố hương mình những ngổn ngang tơ lòng.
Đây dù phải non Bồng nước Nhược,
Cũng thương ôi non nước quê người.
Non Nùng mây bạc xa khơi,
Trời Nam muôn dặm tuyệt vời mắt trông.
Đâu hồ Bạc sông Hồng, Hà Nội!
Đâu Hương giang với núi Ngự Bình?
Nào đâu lục tỉnh Tây thành!
Quê hương xứ sở nào mình ở đây?
Thương đồng chí mấy tay liệt sĩ,
Nhớ non sông yêu quí đồng bào.
. . . . . . . . . . . . . . . . . .
Xin chớ mỏi mòn dạ sắt son,
Kìa trăng vằng vặc nước cùng non.
Guy-an đất lạ, chim quên lối,
Nam Việt trời xa quốc gọi hồn.
Thấy nước khôn khuây dòng Nhị thủy,
Nhìn cây càng nhớ cảnh Nùng Sơn.
Thân ở trong tù, lòng chẳng ở,
Đôi chân còn bước mặc đường trơn.
Thấy chăng trong giấc chiêm bao,
Tỉnh ra nào thấy đâu nào hỡi ôi!
~Bùi-Hữu-Diên!
1934
NS. VÂN ĐÀI
1903-1964
Tức Đào-Thị-Minh, sinh quán Hà-Nội,
làm thơ.
TIẾNG ĐÊM
Vườn trăng tha thướt cành in bóng;
Từng giọt tầu tiêu điểm tiếng sương,
Cỏ nép chân cây, cành rũ lá
Vài tia gió nhẹ rỡn hoa tường.
Song thưa từng mảnh sáng trăng qua,
Thức giấc tôi thầm lén bước ra,
Rón rén lướt đi như gió thoảng
Sợ làm kinh động giấc mơ hoa.
Bên gốc tôi nghe có những lời
Rù rì trong đám lá khô rơi,
Tưởng hồn thu thảo trong khuya vắng
Rủ rỉ cùng hoa nói chuyện đời
Lại thoảng tình hương ở các bông
Bay ra lan đượm khắp không trung;
Trong cơn ngây ngất say sưa ấy
Chợt động cành cây tiếng lá rung.
Tiếng gió lùa qua thức mộng chim
Phá tan hương khói giấc êm đềm
Lại thêm tiếng khánh chùa xa thẳm
Quen đến buồng tôi lúc nửa đêm.
~Vân- Đài~
1942
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.11.2010 08:50:50 bởi Anh Nguyên >
ĐÔNG-HỒ
1906-1969
Tức Lâm-Tấn-Phác, Sinh tại Mỹ-Đức, Hà Tiên,
Kiên Giang, giáo học, nghiên cứu và cổ động cho
tiếng Việt, nhiệt tình với văn hóa dân tộc, bất mãn
chế độ giáo dục, bỏ dạy, viết báo, nghiên cứu văn
học miền Nam, giảng viên ĐHVKSG.
NHỜ TRÍ ĐỨC HỌC XÁ
Quốc ngữ duyên kia lỡ hẹn hò!
Buồn duyên thêm não cảnh tiêu sơ?
Huệ lan hoa thoảng mùi hương cũ,
Đào trúc cành lay vẻ gió xưa.
Kỷ án vẳng nghe lời giảng đọc,
Núi rừng còn nhớ cuộc nô đùa.
Tháng ngày mưa nắng bao thay đổi,
Chi xiết lòng ai nỗi thẫn thờ!
Chữ Trí đức mưa nhòa nét mực,
Mùi huệ lan gió nhạt mùi hương.
Hồn phong nhã, cảm văn chương,
Hồ-sơn may nước thê lương sớm chiều.
Nhớ những nhớ ngày nào năm nọ,
Hạt quốc-văn gieo thuở ban đầu.
Trải bao nắng hạ sương thu,
Mầm non sẽ nảy, cành tơ sẽ chồi.
Rồi đến buổi ra đài nở nhị,
Giữa thành Phương, hoa ‘‘Trí-đức’’ tươi.
‘‘Đầu mùa’’ xuân có hoa mai,
Sớm đem hương sắc chào cười chủ nhân.
Buổi mới dẫu còn phần thưa thớt,
Nhưng đã nhiều cốt cách tinh thần.
Vườn hồng tỏ mặt Đông-quân,
Bõ công vun tưới ân cần bấy lâu.
Bỗng bèo nước vẽ mầu ly biệt.
Cả Hồ Đông vắng nét hoa mai.
Thôi đành tan hợp cuộc đời,
Thôi đành nước chảy hoa trôi ngậm ngùi.
Thôi đành hãy tài bồi lớp khác,
Hẳn cũng còn hương ngát màu tươi.
Công trình kể biết mấy mươi,
Nắng mưa chưa dễ ăn ngồi cho yên.
Dẫu ngày tháng bao phen thay đổi,
Vẫn sớm hôm mọi nỗi ân cần.
Hơi xuân đâu lại thấm nhuần,
Màu xuân đâu lại mười phân đậm đà.
Vườn Trí-đức ‘‘Bông-hoa đua nở’’,
Sắc hương cùng một lứa thanh tân.
Trước sau dù có đôi lần,
Mà trong khí vị tinh thần khác chi.
Đã đẹp chốn hồng khoe biếc mở,
Lại đẹp trong nhị nở đài tươi.
Oanh ca én hót vui cưới,
Vườn trời xuân sắc, lòng người văn chương.
Lòng những nghĩ xuân quang vô tận,
Cảnh thần tiên hò hẹn nhiều ngày,
Tương lai còn lắm điều hay,
Cành hoa quốc ngữ còn tươi tốt nhiều.
Đang nương đợi bao nhiêu mộng cảnh,
Trận gió qua chợt tỉnh mơ màng,
Trước mành tơ liễu bay vàng,
Đầy thềm hoa rụng bẽ bàng xuân đi.
Kiếp hồng-tử đến kỳ linh-lạc,
Dãi màu xuân phấn lạt hương tàn,
Thuốc nào giữ được hồng nhan,
Phương nào chữa được hoa tàn lại tươi.
Gió tung cuốn tơi bời hoa rụng,
Ngùi trông theo cảm động muôn vàn,
Đuổi xuân nhặt cánh hoa tàn,
Tấm sầu xuân những bàng hoàng ngẩn ngơ!
Nào hay cảnh tiêu sơ vắng vẻ,
Còn chùm hoa lẻ tẻ cuối mùa,
Yêu hoa há có lững hờ,
Xuân chiều hoa muộn càng âu yếm nhiều.
Hoa nọ dẫu không yêu kiều lắm,
Lòng thơm kia riêng cảm với ai,
Dàu không sắc nước hương trời,
Mà hương sắc đủ vui người cô liêu.
Hương sắc ít nhưng nhiều ý vị,
Cùng Đông-quân chung thủy có nhau,
Có nhau trong cảnh vui sầu,
Cảnh vui hoa thịnh, cảnh sầu hoa suy,
Có cùng nhau trăng khuya mây tối,
Có cùng nhau gió núi mưa ngàn,
Có nhau thu vãn xuân tàn,
Hơi xuân ngày hạ, cơn hàn tháng đông.
Nay là cảnh thưa hồng rậm lục,
Rồi xuân không mấy lúc phôi pha,
Rồi đây tháng lại ngày qua,
Hương thừa còn chút ‘‘Bông hoa cuối mùa’’.
Còn đâu nữa gió đưa mây đón,
Còn đâu là lá mởn hoa tươi,
Còn đâu sóng bãi trăng đồi,
Còn đâu khúc hát câu cười non sông.
Hội nghiên bút tao phùng đâu nữa,
Lệ văn chương giọt ứa cảm hoài,
Mịt mù trong cõi trần ai,
Cao sơn lưu thủy ai người tri âm.
Hoa lan mọc âm thầm khe tối,
Qua đường, ai kẻ hỏi mùi hương?
Liên thành giá ngọc ai thương?
Nắm xương thiên lý nghìn vàng ai mua?
Thôi đành chịu người thua cảnh ngộ,
Cảnh không may thực khó mà nên,
Hồn Đại-Việt, giọng Hàn-Thuyên,
Năm năm ba bận tình duyên lỡ làng!
~Đông-Hồ~
1931
CÔ GÁI XUÂN
Trong xóm làng trên, cô gái thơ,
Tuổi xanh mơn mởn vẻ đào tơ,
Gió đông mơn trớn bông hoa nở,
Lòng gái xuân kia vẫn hững hờ.
Lững thững lên trường buổi sớm, chiều,
Tập tành nghiên bút, học may thêu.
Quần đen, áo trắng, khăn hồng nhẹ,
Ngọn xõa ngang vai, tóc bỏ đều.
Lá rợp cành xoài bóng ngả ngang,
Cô em dừng bước nghỉ bên đường,
Cởi khăn phẩy giọt mồ hôi trán,
Gió mát, lòng cô cũng nhẹ nhàng.
Đàn bướm bay qua bãi cỏ xanh,
Lòng cô phất phới biết bao tình,
Vội vàng để vở bên bờ cỏ,
Thoăn thoắt theo liền đàn bướm xinh.
Áo trắng khăn hồng gió phất phơ,
Nhẹ nhàng vui vẻ nét ngây thơ.
Trông cô hớn hở như đàn bướm,
Thong thả trời xuân, mặc nhởn nhơ.
Đàn bướm bay cao, cô trở về,
Sửa khăn, cắp sách lại ra đi,
Thản nhiên cô chẳng lòng thương tiếc,
Vì bướm ngày xuân chẳng thiếu chi!
Cùng xóm làng trên, cô gái thơ,
Tuổi xuân hơn hớn vẻ đào tơ.
Gió xuân mơn trớn bông hoa nở,
Lòng gái xuân kia náo nức chờ.
Tưng bừng hoa nở, bóng ngày xuân,
Rực rỡ lòng cô hoa ái ân.
Như đợi, như chờ, như nhớ tưởng,
Đợi, chờ, tưởng, nhớ bóng tình quân.
Tình quân cô: ấy sự thuơng yêu,
Đằm thắm, xinh tươi, lắm mĩ miều.
Khao khát đợi chờ, cô chửa gặp,
Lòng cô cảm thấy cảnh đìu hiu.
Một hôm chợt thấy bóng tình quân,
Gió lộng, mây đưa thoáng đến gần.
Dang cánh tay tình, cô đón bắt,
Vô tình mây gió cuốn xa dần.
Gót ngọc phăng phăng cô đuổi theo:
‘‘Tình quân em hỡi! Hỡi người yêu!
‘‘Gió mây xin để tình quân lại,
‘‘Chậm chậm cho em nói ít điều...’’
Than ôi mây gió vẫn vô tình,
Cuồn cuộn bay trên ngọn núi xanh.
Nhìn ngọn núi xanh mây khói tỏa,
Mắt cô, đôi giọt lệ long lanh.
Lá rợp cành xoài bóng ngả ngang,
Cô em dừng bước nghỉ bên đường.
Cởi khăn phẩy giọt mồ hôi trán,
Gió mát, lòng cô những cảm thương.
Lủi thủi bên đường cô ngẩn ngơ.
Chốn này đuổi bắt bướm ngày xưa,
Cô buồn, cô tiếc, cô ngùi ngậm,
Cô nhớ ngày xuân, nhớ tuổi thơ:
‘‘Đàn bướm bay qua bãi cỏ xanh,
‘‘Lòng cô phất phới biết bao tình.
‘‘Vộ vàng để vở bên bờ cỏ,
‘‘Thoăn thoắt theo liền đàn bướm xinh...’’
‘‘Đàn bướm bay cao, cô trở về,
‘‘Sửa khăn, cắp sách lại ra đi.
‘‘Thản nhiên cô chẳng lòng thương tiếc,
‘‘Vì bướm ngày xuân chẳng thiếu chi!...’’
Ái tình nào phải bướm mùa xuân,
Tình ái ngày xuân chỉ một lần,
Một thoáng bay qua không trở lại,
Gái xuân đỏ lệ khóc tình quân!
~Đông-Hồ~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.12.2010 18:17:59 bởi Anh Nguyên >
THẾ-LỮ
1907-1980
Tức Nguyễn-Thứ-Lễ, sinh ở ấp Thái Hà, Hà Nội
hồi nhỏ sống ở Lạng Sơn, học đến năm Thành
Chung thứ 3 ở Hải Phòng thì bỏ. Làm thơ, viết
văn, soạn kịch và dịch, có chân trong TLVĐ
và có công trong phong trào thơ mới.
NHỚ RỪNG*
Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua,
Khinh lũ người kia ngạo mạn ngẩn ngơ,
Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm.
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm,
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi,
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ,
Thở tung hoành hống hách những ngày xưa.
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả cây già,
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,
Với khi thét khúc trường ca dữ dội,
Ta bước chân lên dõng dạc đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm thầm lá gai cỏ sắc.
Trong đêm tối, mắt thần khi đã quắc,
Là khiến cho vạn vật đếu im hơi.
Ta biết ta chúa tể cả muôn loài,
Giữa chốn thảo hoa không tên không tuổi.
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan.
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn,
Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng,
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
- Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?
Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu,
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,
Những cảnh sửa sang tầm thường, giả dối:
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;
Dải nước đen giả suối chẳng thông dòng,
Len dưới nách những mô gò thấp kém;
Dăm vừng lá hiền lành không bí hiểm,
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu,
Của chốn ngàn năm cao cả âm u.
Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hùm thiêng ta ngự trị,
Nơi ta thênh thang vùng vẫy ngày xưa,
Nơi ta không còn được thấy bao giờ!
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,
Ta đang theo giấc mộng ngàn to lớn,
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,
- Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!
~Thế-Lữ~
TIẾNG SÁO THIÊN THAI
Ánh xuân lướt cỏ xuân tươi,
Bên rừng thổi sáo một hai Kim-đồng.
Tiếng đưa hiu hắt bên lòng,
Buồn ơi! xa vắng, mênh mông là buồn...
Tiên nga xoã tóc bên nguồn,
Hàng tùng rủ rỉ bên cồn đìu hiu;
Mây hồng ngừng lại sau đèo,
Mình cây nắng nhuộm, bóng chiều không đi.
Trời cao, xanh ngắt. - Ô kìa
Hai con hạc trắng bay về Bồng-lai.
Theo chim, tiếng sáo lên khơi,
Lại theo dòng suối bên người Tiên-nga;
Khi cao, vút tận mây mờ.
Khi gần, vắt vẻo bên bờ cây xanh,
Êm như lọt tiếng tơ tình,
Đẹp như Ngọc-nữ uốn mình trong không.
Thiên-thai thoảng gió mơ mòng,
Ngọc-Chân buồn tưởng tiếng lòng xa bay...
~Thế-Lữ~
GIÂY PHÚT CHẠNH LÒNG
‘‘Anh đi đường anh, tôi đường tôi,
Tình nghĩa đôi ta có thế thôi.
Đã quyết không mong sum họp mãi,
Bận lòng chi nữa lúc chia phôi?
‘‘Non nước đương chờ gót lãng du,
Đâu đây vẳng tiếng hát chinh phu,
Lòng tôi phơi phới quên thương tiếc,
Đưa tiễn anh ra chốn hải hồ.
‘‘Anh đi vui cảnh lạ, đường xa,
Đem chí bình sinh dãi nắng mưa,
Thân đã hiến cho đời gió bụi,
Đâu còn lưu luyến chút duyên tơ?
‘‘Rồi có khi nào ngắm bóng mây,
Chiều thu đưa lạnh gió heo may,
Dừng chân trên bến sông xa vắng,
Chạnh nhớ tình tôi trong phút giây;
‘‘Xin anh cứ tưởng bạn anh tuy
Giam hãm thân trong cảnh nặng nề,
Vẫn để hồn theo người lận đận,
Vẫn hằng trông đếm bước anh đi.’’
Lấy câu khẳng khái tiễn đưa nhau,
Em muốn cho ta chẳng thảm sầu.
Nhưng chính lòng em còn thổn thức,
Buồn kia em giấu được ta đâu?
Em đứng nương mình dưới gốc mai,
Vin ngành sương đọng, lệ hoa rơi,
Cười nâng tà áo đưa lên gió,
Em bảo: hoa kia khóc hộ người.
Rồi bỗng ngừng vui cùng lẳng lặng,
Nhìn nhau bình thản lúc ra đi.
Nhưng trong khoảnh khắc ơ thờ ấy,
Thấy cả muôn đời hận biệt ly.
Năm năm theo tiếng gọi lên đường,
Tóc lộng tơi bời gió bốn phương.
Mấy lúc thẫn thờ trông trở lại,
Để hồn mơ tới bạn quê hương.
Ta muốn lòng ta cứ lạnh lùng
Gác tình duyên cũ thẳng đường trông.
Song le hương khói yêu đương vẫn
Phảng phất còn vương vấn cạnh lòng.
Hôm nay tạm nghỉ bước gian nan,
Trong lúc gần xa pháo nổ ran,
Rũ áo phong sương trên gác trọ,
Lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang.
Ta thấy xuân nồng thắm khắp nơi,
Trên đường rộn rã tiếng đua cười,
Động lòng nhớ bạn xuân năm ấy
Cùng ngắm xuân về trên khóm mai.
Lòng ta tha thiết đượm tình yêu,
Như cảnh trời xuân luyến nắng chiều,
Mắt lệ đắm trông miền cách biệt,
Phút giây chừng mỏi gối phiêu lưu...
Cát bụi tung trời - Đường vất vả
Còn dài - Nhưng hãy tạm dừng chân,
Tưởng người trong chốn xa xăm ấy
Chẳng biết vui buồn đón gió xuân.
~Thế-Lữ~
VẺ ĐẸP THOÁNG QUA
Hôm qua đi hái mấy vần thơ,
Ở mãi vườn tiên gần Lạc-Hồ:
Cảnh tĩnh trong hoa chim mách lẻo.
- Gió đào mơn trớn liễu buông tơ.
Nước mát hơi thu thắm sắc trời,
Trời xanh, xanh ngắt đượm hồng phai.
Ái ân, bờ cỏ ôm chân trúc,
Sau trúc, ô kìa! xiêm áo ai?
Rẽ lá, thi-nhân bước lại bên
Mấy vòng sóng gợn mặt hồ yên,
Nhởn nhơ vùng vẫy ba cô tắm
Dưới khóm hoa quỳnh lá biếc xen.
Hồ trong như ngọc tẩm thân ngà,
Lồ lộ da tiên thô sắc hoa,
Mỉm miệng anh đào tan-tác rụng,
Tóc buông vờn mặt nước say xưa.
Say xưa, người khác lạ bồng-lai,
Giận lũ chim kia khúc khích hoài.
Van khẽ gió đừng vi-vút nữa.
- Nhưng mà chim, gió có nghe ai?
Lời oanh trên liễu, yến bên hồng,
Hạc ở trong không, phụng dưới tùng,
Bỗng chốc cùng nhau cao tiếng họa,
Đờn tiên rộn rã khắp tiên cung...
Hoa lá cùng bay bướm lượn qua,
Người tiên biến mất, - Khách trông ra:
Mặt hồ nước phẳng nghiêm như giận.
- Một áng hương tan, khói tỏa mờ.
~Thế-Lữ~
CÂY ĐÀN MUÔN ĐIỆU
Gởi cho Tứ-Ly
Tôi là người bộ-hành phiêu-lãng
Đường trần-gian suôi-ngược đểvui-chơi vui-chơi
Tìm cảm-giác hay trong tiếng khóc, câu cười,
Trong lúc gian-lao, trong giờ sung-sướng,
Khi phấn đấu cũng như hồi mơ-tưởng.
Tôi yêu đời cùng với cảnh lầm-than,
Cảnh thương-tâm, ghê-gớm, hay dịu đàng.
Cảnh rực-rỡ, ái-ân hay dữ dội.
Anh dù bảo: tính-tình tôi thay đổi,
Không chuyên-tâm, không chủ-nghĩa: nhưng cần chi?
Tôi chỉ là một khách tình-si
Ham vẻ Đẹp có muôn hình, muôn thể.
Mượn lấy bút nàng Ly-Tao tôi vẽ,
Và mượn cây đàn ngàn phím, tôi ca
Vẻ đẹp u-trầm, đắm đuối, hay ngây-thơ,
Cũng như vẻ Đẹp cao-siêu, hùng-tráng
Của non-nước, của thi-văn, tư-tưởng.
Dáng yêu kiều tha thướt khách giai-nhân;
Ánh tưng-bừng linh hoạt nắng trời xuân;
Vẻ sầu muộn âm-thầm ngày mưa gió;
Cảnh vĩ đại, sóng nghiêng trời, thác ngàn đổ;
Nét mong-manh, thấp-thoáng cánh hoa bay;
Cảnh cơ hàn nơi nước đọng bùn lầy;
Thú sán-lạn mơ-hồ trong ảo mộng;
Chí hăng hái đua ganh đời náo động:
Tôi đều yêu, đều kiếm, đều say mê.
Tôi sẵn lòng đau vì tiếng ai bi,
Và tôi cảm khái bởi những lời hăng-hái.
Tôi ngợi ca với tiếng lòng phấn-khởi,
Tôi thở than cùng thiếu nữ bâng khuâng,
Tôi véo von theo tiếng sáo lưng chừng,
Tôi yên-ủi với tiếng chuông huyền diệu,
Với Nàng-Thơ, tôi có đàn muôn điệu;
Với Nàng-Thơ, tôi có bút muôn mầu:
Tôi muốn làm nhà nghệ-sĩ nhiệm mầu:
Lấy thanh-sắc trần-gian làm tài-liệu.
~Thế-Lữ~
BÊN SÔNG ĐƯA KHÁCH
(Tặng tác giả ĐỜI MƯA GIÓ
Lòng em như nước Trường Giang ấy,
Sớm tối đưa chàng tới Phúc Châu.
-Lời kỹ nữ)
Trời nặng mây mù. Mấy khóm cây
Đứng kia, không biết tỉnh hay say,
Đỗ bờ sông trắng con thuyền bé,
Cạnh lớp lau già, gió lắt lay.
Tôi tiễn đưa anh đến tận thuyền
Để dài thêm hạn cuộc tình duyên;
Thuyền đi, tôi sẽ rời chân lại.
Tôi nhớ tình ta, anh vội quên.
Thuyền khách đi rồi tôi vẫn cho
Lòng tôi theo lái tới phương mô?
Bâng khuâng trong cõi sầu vô hạn.
Không khóc, vì chưng mắt đã khô.
Đâu biết rằng anh cũng chỉ là
Khách chơi giây lát ghé chơi qua;
Rồi thôi, níu áo không tình nữa,
Để mặc tình ai khỏi ước mơ.
Tôi chỉ là người mơ ước thôi,
Là người mơ ước hão! Than ôi!
Bình-minh chói lói đâu đâu ấy,
Còn chốn lòng riêng u-ám hoài.
Mà biết vô duyên vẫn cứ mong,
Trăm năm ôm mãi khối tình không,
Trọn đời làm kẻ đưa thuyền khách:
Thuyền chẩy bơ vơ đứng với sông.
~Thế-Lữ~
TRỤY LẠC
Rượu ân ái đắm ngây lòng chán nản
Rót tràn đi, rót nữa, tình nhân ơi!
Ta lắng nghe gió thoảng ở bên tai
Có phải chăng vẫn réo lời thống khổ?
Cứ rót nữa! Bao giờ mê quá độ
Vơ tóc em lau cặp mắt đờ say
Rồi trông ra màu khói thuốc mù bay
Ta chỉ thấy những màu tươi sặc sỡ.
Ồ những tấm thân nõn nà nghiêng ngửa!
Những tràng cười khoái lạc, giọng dòn tan!
Những điệu lẳng lơ, khiêu khích, nồng nàn!
Những khúc hát lả lơi hay uỷ mị!
Hỡi gái giang hồ! Bạn tình ô uế!
Biết chăng em, đó là thú mê tơi,
Để cho ta không thiết đến ngày mai.
Đời ta nữa. - Ngày mai là lúc tỉnh.
Cũng như em, tâm hồn ta đã lạnh
Tự lâu rồi, từ cái thuở xa xăm
Mà ánh sáng chim ca, mà bóng gió âm thầm.
Hay nét hoa tươi hay màu lá rụng
Cũng đủ khiến cho lòng ta rung động.
- Ta ngây thơ như cô gái đương xuân,
Nhưng đến nay, cô ấy trải phong trần
Đã dày dạn, thấy đời thô rõ quá!
Lòng đã tắt không còn tin tưởng nữa,
Thì quên đi, quên hết để say sưa,
Để mê ly trong thú ái ân vờ
Để trốn tránh những ngày giờ trống trải.
Em ơi, ta không dám để lòng ta nhớ lại
Vì đôi phen trong những lúc điên cuồng
Mảnh hồn thơ còn thoi thóp giữa đêm suông
Bắt ta tiếc quãng đời trong trắng mãi.
~Thế-Lữ~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.11.2010 09:38:01 bởi Anh Nguyên >
NAM-TRÂN
1907-1967
Tức Nguyễn-Học-Sĩ, quê Phú- Thứ-Thượng,
Đại-Quang, Đại-Lộc, Điện-Bàn, Quảng-Nam,
đậu Tú-Tài, Tham Tá tòa Khâm-Sứ Huế, viết
bài đăng các báo, tập kết ra Bắc, công tác viện
Văn Học, chuyên về dịch thuật, giảng dạy Hán
học ở miền Bắc. ĐẸP VÀ THƠ Thuyền nan đủng đỉnh sau phượng, Cô gái Kim Luông yểu điệu chèo. Tôi xuống thuyền cô, cô chẳng biết, Rằng thơ thấy đẹp phải tìm theo. Thuyền qua đến bến, cô lui lại, Vẫy chiếc chèo ngang, giọt nước gieo. Đăm đăm mệt mỏi vì chèo, Chèo cô quấy nước trong veo giữa dòng. Biết không? Cô hỡi biết không? Chèo cô còn quẫy, sóng lòng còn xao! ~Nam-Trân~ TRƯỚC CHÙA THIÊN-MỤ Êm êm dòng nước Hương giang chảy, Xúm xít thuyền con chở ba, bảy. Tiếng hát ngư ông đẫm bóng cây Như luồng khói, nhẹ, lên, lên mãi. Tháp cao dòm nước: vết men trôi. Đồi thấp sừng trăng dõi dõi soi. Mờ ở, xa xa gà gáy sáng… Trong Chùa cảnh cảnh tiếng chuông hồi ~Nam-Trân~
HOÀNG-XUÂN-HÃN 1908-1996 Quê Yên-Hồ, La-Sơn, Đức-Thọ, Hà-Tĩnh, học
trường Bưởi, đậu Tú-Tài Tây, tốt nghiệp Poly-
technique, Thạc sĩ Toán, Kỹ sư Nguyên tử lực
tại Pháp, giáo sư trường Bưởi, ĐH Khoa-Học
HN, thành viên HĐ nghiên cứu Koa Học Đông-
Dương, Chủ tịch HĐ nghiên cứu GD, Bộ Trưởng
Bộ Giáo-Dục. NĂM XẤP XỈ CHÍN MƯƠI Tám chục may qua sắp chín mươi, Sức chừng thêm đuối tính thêm lười Sử nhà bạn cũ ôn không thẹn, Vận nước tình sâu mộng sẽ tươi, Văn ngữ thời xưa tìm kiếm gốc, Tinh hoa thuở mới cố đua người. Tuổi cao nhưng trí còn như trẻ Mắt đọc, tay biên, miệng vẫn cười. ~Hoàng-Xuân-Hãn~ (tháng 2-1996)
TỰ BẠCH LÚC VÃN NIÊN Đã hay bốn bể là nhà Lam Hồng ta mới thật là quê hương. Trải bao cuộc biến cuộc thường Mà lòng tưởng nhớ yêu đương vẫn còn Gửi lời nhắn nước cùng non Ngày nay nước cạn non mòn tại ta. ~Hoàng-Xuân-Hãn~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.11.2010 09:45:14 bởi Anh Nguyên >
NGUYỄN-THI-GIANG
1909-1930
Sinh tại thị xã phủ Lạng-Thương, Bắc-Giang,
là vợ và đồng chí của Nguyễn-Thái-Học,
đảng trưởng Việt-Nam Quốc Dân Đảng.
Ngày 7-6-1930, Nguyễn-Thái-Học cùng 12
đồng chí bị xử tử tại Yên-Bái, ngay chiều
hôm đó, cô Giang về làng Đồng-Vệ, dùng
súng lục tự tử theo chồng, để lại 2 lá thư và
bài thơ sau đây: BÀI THƠ TUYỆT BÚT
Thân không giúp ích cho đời,
Thù không trả được cho người tình chung.
Dẫu rằng đương độ trẻ trung
Quyết vì dân chúng thề lòng hy sinh.
Con đường tiến bộ mông mênh
Éo le hoàn cảnh buộc mình biết sao!
Bây giờ hết kiếp thơ đào
Gian nan bỏ mặc dồng bào từ đây.
Dẫu rằng chút phận thơ ngây,
Sổ đồng chí đã có ngày ghi tên.
Chết đi dạ những buồn phiền
Nhưng mà hoàn cảnh truân chuyên buộc mình.
Quốc kỳ phất phới trên thành
Tủi thân không được chết vinh dưới cờ.
Cực lòng lỡ bước sa cơ,
Chết sầu, chết thảm, có thừa xót xa.
Thế ru? Đời thế ru mà?
Đờ i mà ai biết, người mà ai hay... ~Nguyễn-Thị-Giang~ Nghe tin Nguyễn Thái Học và cô Giang cùng
chết một ngày, Phan Bội Châu cảm khái làm
bài văn tế:
Than rằng:
Sóng nhân đạo ở hai mươi thế kỷ, bạn má hồng toan cướp gái làm trai - Gương nữ hùng trên một góc trời Nam, bọn da trắng phải ghê giòng giống Việt.
Trên quốc sử mực chàm giấy phấn, ong cả đoàn nhan nhản bầy nô, - Dưới Long Thành máu thắm cỏ xanh, gái đến thế rành rành chữ liệt.
Trăng thu mờ mịt, trông những buồn tênh! Người ngọc xa vời, nghĩ càng đau tuyệt.
Nhớ nữ liệt sĩ xưa:
Đấ t nhả tinh hoa - trời treo băng tuyết.
Vóc quần thoa nhưng chí khí tu mi - Thân khuê các mà can trường khí tiết.
Thuở bé nhờ ơn gia giáo, Hán học vừa thông - tuổi xanh vào chốn học trường, Pháp văn cũng biết
Tang hải gặp khi xoay cuộc, ngó giang sơn luống những lòng đau - Trần ai tức lôi không người, thâý nô lệ giương đôi tròng ngút.
Xem sách Pháp từng đem óc nghĩ: Dan Đà, La Lan thuở nọ, chị em mình đã dễ ai hơn, - Giở sử nhà bỗng vỗ tay reo: Bà Trưng, Cô Triệu sau này, non nước ấy có đâu hồn chết.
Triều cách mạng đang dâng sùng sục, cát Vệ Tinh ngậm đầy trước miệng, mong thấy bể vùi, - Vai quốc dân nặng gánh trìu trìu, đá Oa Hùng dắp sẵn trong tay, nỡ xem trời khuyết.
Tức tội cường quyền - Thi gan sấm sét.
Khi nhập đảng tuổi vừa mười tám, cơ nữ binh đăng đội tiền phong; - Lúc tuyên truyền sách động ba quân, lưỡi biện sĩ trổ tài du thuyết.
Thổi gió phun mây từng mấy trận, nào Lâm Thao, nào Yên Bái, nữ tham mưu đưa đẩy đội hùng binh;
- Vào sinh ra tử biết bao phen, kia thành huyện, kìa đồn binh, cờ nương tử xông pha hùm rắn rết.
Nguyễn Thái Học trổ tài kiện tướng, nhờ có cô mà lông cánh thêm dài - Phạm thị Hào nổi tiếng trung trinh, em có chị mà xứng danh nữ kiệt.
Khốn nỗi thay!
Vận nước còn truân - Tai trời chửa hết!
Trắc trở buồm xuôi gió ngược, tài anh thư gặp bước gian truân. - Ngại ngùng nước biếc non xanh, tay chức nữ uổng công thêu dệt.
Nhưng hãy còn:
Thiết thạch tâm can, - Châu toàn bách chiết.
Thời như thế, việc đành phải thế, đoạn đầu đài mừng được thấy anh lên. - Sống là còn thác vẫn là còn, súng kề cổ không nhường cho giặc giết.
Tiếng súng lúc vang lên một phát, núi đổ sông nhào! - Hồn anh thư hẹn phút trùng lai, thần gào quỷ thét
Ôi thương ôi!
Khóc nữa mà chi! - Nói không kể xiết!
Một nén hương lòng, - Mấy lời thống thiết!
Bạn nữ lưu ai nối gót theo chân? - Nghĩa đoàn thể, xin từ đây cố kết!
Hỡi ơi! thương thay! ~Phan-Bội-Châu~ Một chiến sĩ vô danh thời ấy đã
có bài thơ ai điếu cô Giang:
Sống nhục sao bằng sự thác vinh?
Nước non cho vẹn chữ chung tình
Lưỡi dao xử tử chàng không ngại
Tiếng súng quyên sinh thiếp cũng đành.
Một tấm can tràng trời đất thảm
Ngàn thu tiết tháo quỷ thần kinh
Cuộc đời xá kể chi thành bại
Trai đã trung thì gái hẳn trinh!
Một thi nhân khác cũng có đôi lời ca ngợi:
Tình chồng, nợ đảng, gánh giang san!
Thác xuống tuyền đài hận chửa tan.
Xương trắng nêu cao gương hiêú nghĩa,
Máu hồng in thắm chữ trung can.
Ngàn năm tồ quốc ơn ghi mãi,
Một thác tình chung nghĩa trả toàn
Thành bại mặc ai người nghị luận,
Muôn ngàn năm để tiếng Cô-Giang.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.12.2010 07:28:02 bởi Anh Nguyên >
PHẠM-TẤT-ĐẮC
1909-1935
Người làng Dũng Kim, Lý Nhân, Hà Nam. 17
tuổi, tham gia tổ chức lễ truy điệu cụ PCT, hô
hào bãi khóa, bị đuổi, viết bài Chiêu Hồn Nước
bị đưa đi an trí ở trại Giáo hóa Tri-Cụ Bắc Giang,
tiếp tục tuyên truyền chống Pháp, đánh giám thị,
phá nhà giam, bị đưa về Hỏa-Lò Hà-Nội, đưọc thả
năm1930, quá yếu nên 5 năm sau thì mất mới
26 tuổi.
CHIÊU HỒN NƯỚC
Hăm lăm triệu trẻ già trai gái,
Bốn nghìn năm con cái Hồng Bàng.
Cũng nhà cửa, cũng giang san,
Thế mà nưóc mất nhà tan hỡi trời!
Nghĩ lắm lúc đương cười hóa khóc,
Muốn ra tay ngang dọc, dọc ngang.
Vạch trời thét một tiếng vang,
Cho thân tan với giang san nước nhà,
Đồng bào hỡi! Con nhà Đại Việt,
Có thân mà chẳng biết liệu đời,
Tháng ngày lần lữa đợi thời,
Ngẩn ngơ ỷ lại ở người ai thương!
Nay sóng gió bốn phương dữ dội,
Có lẽ nào ngồi đợi mãi sao?
Đồng bào chút giọt máu đào,
Thương ơi tội nghiệp đời nào sót đây?
Nên mau mau dậy ngay kẻo muộn,
Mà xót thương đến chốn Nhị, Nùng.
Xưa kia cũng lắm anh hùng,
Dọc ngang trời đất vẫy vùng bể khơi.
Xưa cũng có lắm người hào kiệt,
Trong một tay nắm hết sơn hà.
Nghìn thu gương cũ không nhòa,
Mở mày, mở mặt, con nhà Lạc Long.
Non sông vẫn non sông gấm vóc,
Cỏ cây xưa vẫn mọc tốt tươi.
Người, xem cũng dáng con ngưới,
Cũng tai cũng mắt ở đời khác chi.
Cảnh như thế, tình thì như thế,
Sống mà chi, sống để làm chi?
Đời người đến thế còn gì,
Nước non đến thế, còn gì nước non!
Nghĩ thân thế héo hon tấc dạ,
Trông non sông lã chã dòng châu.
Một mình cảnh vắng đêm thâu,
Muốn đem máu đỏ nhuộm màu giang san.
Ngọn gió lọt đèn tàn hiu hắt,
Tiếng cuốc kêu dày mặt anh hùng.
Nghiến răng nuốt cái thẹn thùng,
Mà chiêu hồn cũ lại cùng non sông!
Hồn hỡi hồn! Con Hồng cháu Lạc,
Bấy lâu nay đói khát lầm than.
Bấy lâu thịt nát xương tan,
Bấy lâu tím ruột thâm gan vì hồn.
Hồn hỡi hồn kìa non nước cũ,
Bấy nhiêu lâu mặt ủ mày châu.
Bấy lâu ngậm tủi nuốt sầu,
Bấy lâu hèn kém vì đâu hỡi hồn.
Trông bốn bể bồn chồn dạ ngọc,
Ngắm năm châu khôn khóc nên lời.
Đêm khuya canh vắng im trời,
Khôn thiêng chăng hỡi hồn ơi hồn về.
Hồn trở về đừng mê mẩn nữa,
Tính nết xưa phải sửa từ giờ.
Hồn về hồn cố cho nhờ,
Anh em Hồng Lạc cõi bờ Việt Nam.
Hồn trở về chớ tham rượu thịt,
Chớ tham nhà cao tít mấy tầng.
Kìa con chim ở trong rừng,
Kiếm mồi đâu có lạc rừng quên cây.
Hồn trở về đừng say gái đẹp,
Mà nặng tình kẻ khép phòng thu.
Đường đường một đấng trượng phu,
Lẽ đâu hồn chẳng đền bù non sông.
Hồn trở về chớ mong giầu có,
Mà ước ao xe nọ ngựa kia.
Nghênh ngang mũ áo râu ria,
Trăm nghìn năm vẫn còn bia miệng cười.
Hồn cố về cõi đời chớ chán,
Mà vội đem lòng nản việc trần.
Bát cơm tấm áo manh quần,
Hồn ăn hồn mặc nợ nần thế gian.
Hồn trở về bấm gan mà chịu,
Cảnh biệt ly tình hiếu đôi dường.
Trượng phu trí ở bốn phương,
Lẽ đâu hồn chịu vấn vương nỗi nhà.
Hồn trở về nguyệt hoa chi nữa,
Mà thoi đưa lần lữa tháng ngày.
Xua nay những kẻ tỉnh say,
Hôn mê có nghĩ việc hay bao giờ!
Hồn trở về chớ chờ sức yếu,
Mà hồn không định liệu dọc ngang.
Hoặc hồn bảo chẳng biết đàng,
Hoặc hồn không muốn vội vàng làm ngay.
Hoặc hồn sợ tai bay vạ gió,
Mà hồn đành phải bỏ non sông.
Hoặc hồn quen thói phục tùng,
Mà hồn cam chịu cùng giòng ngựa trâu.
Hoặc hồn thường cháo rau no đói,
Mà hồn riêng mong khỏi cơ hàn.
Hoặc hồn đã trải lầm than,
Mà hồn bỏ mất cái gan tung hoành?
Hoặc hồn ở thị thành phố xá,
Hoặc hồn trong túp lá lều tranh?
Hoặc hồn trong chốn rừng xanh,
Hoặc hồn lẩn quất ở quanh sơn hà?
Hoặc hồn ở nước nhà chật hẹp,
Hoặc hồn đi ẩn nép nước người?
Đêm khuya cảnh vắng im trời,
Khôn thiêng chăng hỡi, hồn ơi hồn về!...
Hồn trở về đừng mê mẩn nữa,
Tính nết xưa phải sửa từ giờ.
Hồn về, hồn cố cho nhờ,
Anh em Hồng Lạc, cõi bờ Việt Nam.
Còn chi sung sướng vẻ vang,
Bằng đem da ngựa chiến tràng bọc thây.
Hồn trở về làm ngay ý muốn,
Chớ rụt rè sớm muộn sao nên.
Lẽ thường thành bại đôi bên,
Chớ đo đắn quá mà quên việc mình.
Hồn trở về hy sinh quyền lợi,
Mà tận tâm đối với nước non.
Dù cho thịt nát xương mòn,
Cái bầu nhiệt huyết phải còn như xưa.
Hồn trở về hồn mơ hồn mộng,
Nên hồn thành ra giống ngựa trâu.
Hồn về hồn kíp đổi mau,
Tự do hành động mặc dầu dọc ngang.
Hồn trở về bền gan dốc trí,
Chớ có thèm cái vị cao lương.
Tháng ngày dưa muối rau tương,
Còn hơn rượu thịt mà nương dựa người...
Hồn trở về xoay trời đất lại,
Hồn trở về tát hải đạp sơn.
Chớ nề gió kép mưa đơn,
Mà đem gan trọi với cơn phong trần.
Hồn hỡi hồn xa gần nghe thấy,
Thì vùng lên kíp dậy mà về!
Hoặc hồn ở chốn thôn quê,
Hoặc là hồn ở phủ kia lầu này?
Nước non cũ bấy nay khao khát,
Ngày ấy qua ngày khác lại qua.
Mấy phen lệ nhỏ máu sa,
Mấy phen xót xót xa xa lòng vàng.
Mong hồn tỉnh hồn càng không tỉnh,
Mong hồn về hồn định không về.
Non sông hồn bỏ lời thề,
Cho non sông chịu trăm bề lầm than.
Hồn hỡi hồn! - Giang san là thế,
Giống Lạc Hồng tôi kể hồn hay:
Kể từ hồn lạc đến nay,
Đêm đêm khóc khóc ngày ngày than than.
Cũng có kẻ trên ngàn đổ máu,
Cũng có người nương náu phương xa.
Cũng người bỏ cửa bỏ nhà,
Cũng người lo nghĩ tuyết pha mái đầu.
Cũng có kẻ làm trâu làm ngựa,
Cũng có người đầy tớ con đòi.
Cũng thằng buôn bán giống nòi,
Khôn thiêng chăng hỡi hồn coi cho tường!...
Có mồm nói khôn đường mà nói,
Có chân tay người trói chân tay.
Mập mờ không biết dở hay,
Ù ù cạc cạc công này việc kia.
Hồn hỡi hồn! - đêm khuya canh vắng,
Hồn nghe hồn có đắng cay không?
Tôi đây cũng giọt máu hồng,
Cũng xương cũng thịt con Rồng cháu Tiên.
Trông thấy cảnh mà điên mà dại,
Trông thấy tình mà dại mà điên.
Mà sao không thể ngồi yên,
Ba câu gan ruột tôi biên mời hồn.
Hồn nghe thấy nên chồn tấc dạ,
Hồn nghe xong nên khá mà về.
Chớ đừng tỉnh tỉnh mê mê,
Chớ đừng đo đắn trăm bề sâu nông.
Hồn trở về non sông nước cũ,
Mà mau mau giết lũ tham tàn,
Mau mau giết lũ hại đàn,
Túi tham dám chứa bạc vàng của dân.
Hồn trở về cho dân tỉnh lại,
Không ngu ngu dại dại như xưa.
Không còn khó nhọc sớm trưa,
Không còn nắng nắng mưa mưa dãi dầu.
Hồn trở về mau mau hồn hỡi!
Hồn trở về tôi đợi tôi mong.
Hồn về tô điểm non sông,
Hồn về dạy dỗ con Rồng cháu Tiên.
Ngọn gió lọt đèn tàn hiu hắt,
Dân không còn nước mất sao còn?
Hỡi hồn nước nước non non!
Hồn về tôi sẵn lòng son giúp hồn.
Tôi đây cũng không khôn cho lắm,
Nhưng cũng không dại lắm cho nhiều.
Tôi nay chỉ một lòng yêu,
Nên mong nên mỏi nên chiêu hồn về.
Hồn hỡi hồn! - Hồn về hồn hỡi!
Hồn hỡi hồn! - Hồn hỡi hồn ơi!
Đêm khuya canh vắng êm trời,
Hồn thiêng chăng hỡi, hồn ơi hồn về!
Bút viết xong tai nghe miệng đọc,
Miệng đọc xong giọt ngọc nhỏ sa.
Nhỏ sa nên chữ hóa nhòa,
Hóa nhòa nên mới in ra nghìn tờ.
In nghìn tờ mà đưa công chúng,
Công chúng xem mong bụng đổi dần,
Đổi rồi thúc kẻ xa gần,
Rằng mau nên trả nợ nần non sông!...
~
Phạm-Tất-Đắc~
1927
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.12.2010 12:00:06 bởi Anh Nguyên >
PHAN-VĂN-DẬT
1907-1987
Quê Đạo-Đầu, Triệu-Phong, Quảng-Trị, đậu
bằng Thành-Chung, công chức Sở Trước-Bạ
Huế, đi tu nghiệp Trường Trước-Bạ Lyon
Pháp, giảng dạy các tường Quốc-Học, Đồng-
Khánh, Cao-Đẳng Mỹ-Thuật, Viện Hán-Học.
TIỄN ĐƯA
Ngày mai chàng lên đường,
Thân gió bụi tuyết sương,
Tối nay còn với thiếp,
Xin cạn chén quỳnh tương.
Chàng mặc áo nhung này,
Thiếp vì chàng mới may.
Thiếp dù xa chân ngựa,
Tơ lòng theo chàng bay.
Đừng nghĩ đến ngày mai,
Hôm nay biết hôm nay,
Thiếp đây và chàng đó,
Chừng đó là đủ rồi.
Ngày mai chàng ruổi xa,
Mặc kẻ nước mắt sa,
Yên ngựa rong đường thẳng,
Thức dậy lúc canh gà.
Ngày sau khi chàng về,
Thiếp dù chống gậy lê,
Xin vì chàng dâng rượu,
Tình xưa, cạn chén thề.
Rồi bên chàng có thiếp,
Giấc hoè cùng thiêm thiếp,
Yêu nhau đến trăm năm,
Phong trần cho bõ kiếp.
~Phan-Văn-Dật~
1927
NGUYỄN-TUÂN
1910-1987
Sinh tại Hà Nội.
SAY
Hạnh-Hoa thôn đã đây rồi,
Chơi đi cho thỏa một đời thông minh,
Nợ men gấp mấy nợ tình,
Cõi trần ướm hỏi Lưu-Linh mấy chàng?
Hung trung hữu Lý-Bạch,
Đã say sưa mặc quách thế nhân cười.
Mượn mầu men giả dạng làng chơi,
Cơn chuếnh choáng coi ra trời đất nhỏ.
Ai muốn lấp sầu thiên vạn cổ,
Cùng ta hãy cạn một hồ đầy.
Doành nước mây, một tớ lại một thầy,
Vành gió bụi, ai tỉnh? Ai say? Ai ngất ngưởng?
Đảo phá sầu thành thi thị tướng,
Trường truy cùng tặc tửu vi binh,
Rượu ngà say quên lẫn cả mình,
Khi túy lúy thoát hình ngoài cõi tục.
Mặc ai đàm tiếu ai trong đục.
Tỉnh mà chi cho nhọc chẳng khề khà,
Nợ nần gỡ mãi không ra.
~Nguyễn-Tuân~
1931
ĐOÀN-PHÚ-TỨ
1910-1989
Quê Tử-Nê, Tiên-Du, Bắc-Ninh, sinh
và sống ở Hà-Nội, đậu Tú-tài Pháp, công
tác các báo, dạy học, dịch văn chương Anh
Pháp, chuyên viết kịch, làm thơ ít nhưng
đã tạo ra một trường phái thơ mới ở VN
MÀU THỜI GIAN*
Sáng nay tiếng chim thanh
Trong gió xanh
Dìu vương hương ấm thoảng xuân tình
Ngàn xưa không lạnh nữa, Tần phi
Ta lặng dâng nàng
Trời mây phảng phất nhuốm thời gian
Màu thời gian không xanh
Màu thời gian tím ngắt
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh thanh
Tóc mây một món chiếc dao vàng
Nghìn trùng e lệ phụng quân vương
Trăm năm tình cũ lìa không hận
Thà nép mày hoa thiếp phụ chàng
Duyên trăm năm đứt đoạn
Tình một thủa còn hương
Hương thời gian thanh thanh
Màu thòi gian tím ngắt
~Đoàn-Phú-Tứ~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.12.2010 18:47:26 bởi Anh Nguyên >
QUÁCH-TẤN
1910-1992
Quê Trường-Định, Bình Khê, Bình Định, tổ
tiên là người Hoa, đậu Thành-Chung, làm ở
Toà sứ Huế, Nha-Trang, dạy Trung-Học ở
Bình-Định, công chức ở Qui-Nhơn, viết báo
Làm thơ.
DƯỚI LIỄU CHỜ XUÂN
Tin Xuân gió rải khắp nơi nơi,
Dưới liễu chờ Xuân gắng gượng cười.
Bạn khắp non sông mà vắng vẻ
Tình trong gang tấc vẫn xa xôi!
Thân gầy với nguyệt bao phân nữa?
Tóc rụng theo sương mấy lớp rồi!
Giòng cũ Ngân Hà sâu bến đợi,
Muốn đem sầu gởi nước trôi xuôi...
~Quách-Tấn~
TRỜI ÐÔNG
Chuông gióng Hàn San bẵng tiếng ngân,
Ngàn xa tiếng địch cũng xa dần...
Lá thương nhánh nặng bay hầu hết,
Trời sợ non côi xích xuống gần
Ngần ngại gió mưa chim ẩn bóng
Quây quần mây khói liễu riêng xuân
Ðêm như dài lắm... người Vân Hớn,
Trong giấc thăm nhau được mấy lần
~Quách-Tấn~
HIU QUẠNH
Trăng lại tròn trăng mấy độ rồi,
Ðìu hiu còn đọng ngấn ly bôi !
Mộng về lối cũ tìm khôn gặp,
Nhớ đốt niềm tây dập chẳng nguôi !
Lá rắc thêm sầu rơi gió một,
Chim đành riêng thú liệng trời đôi.
Vườn sương thờ thẫn đêm qua lạnh,
Cúc nở nhìn nhau mỉm miệng cười.
~Quách Tấn~
CHIỀU XUÂN
Chim mang về tổ bóng hoàng hôn,
Vàng lửng lơ non biếc đọng cồn.
Cành gió hương xao hoa tỉ muội,
Ðồi sương sóng lượn cỏ vương tôn.
Khói mây quanh quẩn hồi chuông vọng,
Trời biển nôn nao tiếng địch dồn.
Thưởng cảnh ông câu tình tự quá!
Thuyền con chở nguyệt đến cô thôn.
~Quách-Tấn~
VỀ THĂM NHÀ CẢM TÁC
Quê người rong ruổi bấy nhiêu lâu,
Vườn cũ về thăm cảnh dãi dầu!
Trống trải ba gian nhà nhện choán,
Ngửa nghiêng bốn mặt dậu bìm leo.
Cội tùng bóng ngả sương rơi lệ,
Ngõ trúc mây che quốc dục sầu.
Lẳng lặng bên thềm ôn chuyện cũ...
Giật mình nghĩ đến chốn nào đâu!
~Quách-Tấn~
NHỚ TẢN ÐÀ
Ðà Giang từ độ rụng văn tinh,
Tản Lĩnh đìu hiu rọi bóng mình.
Móng đỏ in sâu lòng tuyết trắng,
Tơ vàng mang nặng nợ dâu xanh.
Hàm Rồng nắm cỏ chưa tròn mộng,
Khê Thượng nguồn thơ luống quăn tình.
Chén rượu đêm nay nồng nã nhớ,
Hồn ai lai láng ánh trăng thanh
~Quách-Tấn~
Phú Phong 1949
TRỜI CHIỀU
Năm lụn ngày qua thân mỏi mòn
Buồn trông thoi thóp ráng đầu non...
Ấm no trước đã không cha mẹ,
Thiếu hụt rày thêm khổ vợ con!
Lặng lẽ mây trôi làn viễn vọng.
Ngập ngừng sương úa giọt hoàng hôn.
Trăng non một mảnh tình lưu luyến...
Người có như trăng khuyết để tròn?
~Quách-Tấn~
Phú Phong 1953
ĐỒNG BÀO BÌNH-ĐỊNH
TẾ QUANG-TRUNG
Than ôi!
Dòng Côn thủy mây lồng thức gấm
Mãn vui tình mai liễu đọ xuân
Đỉnh Tây Sơn sóng cuộn sóng tùng
Chạnh tưởng đức anh hùng cứu quốc.
Nhớ tôn linh xưa;
Khí cốt lăng tằng,
Anh tư khôi đặc;
Sức điều binh, tài khiển tướng
Hạng Võ, Lưu Bang;
Lòng trọng sĩ, lượng tôn hiền
Văn Xương, Huyền Đức,
Tình đất nước giận cơn chia xẻ;
Lưỡi gươm trần dẹp loạn cứu dân.
Nghĩa Bắc Nam trải dạ gắn hàn,
Thân áo vải giúp Anh dựng nước.
Quy Nhơn biển lặng, rực rỡ ánh tường vân,
Thuận Hóa trời cao, chói chang vầng bạch nhật.
Xiêm phô áo phủ,
Trên chín trùng toan mối trị bình,
Vuốt dũa nanh mài,
Ngoài muôn dặm rắp tâm xâm lược.
Cõng rắn tội kìa ai?
Bắt hùm tay sẵn chước;
Tế Trời Đất, đàn giao cao vút núi,
Bóng tinh kỳ sáng dọi buổi Đăng quang;
Nhìn non sông khí giận ngất tầng mây;
Tiếng hiệu lệnh sấm vang giờ xuât phát;
Hùng binh mười vạn hăng hái hy sinh
Chiến tượng hai trăm tinh tường trận mạc
Lòng một quyết ra tay hàng hổ
Hẹn nước non ca khúc khải hoàn sau;
Chỉ mười ngày dẹp giống sài lang,
Cùng tướng sĩ chung vui Nguyên đán trước.
Cạn lời ủy lão, trống dục cờ giong;
Dốc dạ truy tìm, non băng biển vượt.
Ngày ba mươi tháng chạp, sông Giản Thủy dồn binh;
Đêm mồng ba tháng giêng, đồn Hạ Hồi hãm giặc.
Đánh trận này tiếp trận khác, sấm dậy chớp giăng;
Xong đồn nọ tới đồn kia, ngói tan đá nát.
Khuya mồng bốn gió sương mờ mịt,
Đốt hương rừng lửa đỏ, khiến ba quân liều chết chớ lui;
Sáng mồng năm voi ngựa sẵn sàng,
Quấn cổ thước khăn vàng, quyêt một trận chẳng hơn thì thác.
Thế giặc dẫu binh đông tướng dữ;
Thuốc súng chôn quanh thành, chông sắc cắm khắp lũy
Thêm bốn bề đạn rạt rào mưa;
Quân ta nhờ trí sáng gan bền,
Ván dày cột thành cốt, rơm ướt phủ làm bì,
Hè một rập, sức cuồn cuộn thác.
Ầm tiếng pháo, Ngọc Hồi kíp hạ,
Sông máu láng lai;
Thúc chân voi, Khương thượng gần thâu,
Núi thây chồng chất.
Nghi Đống liệu khôn bề sống sót,
Vội vàng treo cổ! Đống Đa!
Sĩ Nghị may tìm được lối ra;
Hớt hải thoát thân mạn Bắc.
Ngoài ải sôi gió tan mùi sát khí,
Niềm hân hoan nhuộm thắm đất sơn xuyên.
Vào Thành Long cờ rợp bóng vinh quang;
Áo chiến thắng phủ đen hồn đạn dược.
Mười ngày hẹn trước trời đất chứng lời vàng;
Hai bận vui xuân, cỏ hoa mừng tiệc ngọc,
Lửa tạnh hề biên cương,
Nền cao hề xã tắc.
Tiếng anh dũng nước mây lừng lẫy sấm. .
Triều Mãn Thanh bóp bụng sống chung trời.
Chí đấu ranh son sắt vững vàng non,
Miền Lưỡng Quảng quyết tâm đòi lại đất!
Nhưng than ôi!
Tấm gan rèn đá Trời, chửa vá xong,
Đỉnh ngự chìm mây rồng sao vội khuất!
Cơ cường thịnh thiếu tay xếp đặt,
Cửi dồn thoi phút để mối tơ chùng.
Nghiệp đế vương đuối sức giữ gìn,
Thuyền thuận bến trúc theo cơn lật!
Trời Phú xuân sương gió lạnh lùng,
Biển Thị Nại bèo mây tản mát!
Bút chép sử múa men, tay đắc thế;
Trang oanh liệt son nhòa!
Nền ghi ân khuất bóng cô thôn;
Gương anh hùng thủy nhạt!
Nối chí cả người sau toan lấp hận;
Lao công Tinh Vệ ngậm ngùi thương!
Gìn dấu linh, chốn cũ khó nguôi tình.
Lắng giọng đề quyên tê tái ruột.
Cũng may thay!
Lẽ tuần hoàn trời đất chẳng ngừng xoay,
Ách chuyên chế giống nòi nay đã thoát.
Trăng hào kiệt bấy lâu u ám,
Ngọn Đông phong mát mẻ vén màn sương.
Vườn anh hoa đua nở tự do,
Bút thanh nghị ngọt ngào rơi giọt móc.
Chúng tôi nay:
Chung gội ơn xuân
Kính dâng lễ bạc
Non xanh nước biếc, khí anh tú mơ màng,
Nỗi thẳm ngàn xa hương tinh thành bát ngát.
Dòng lịch sử mở ra ôn lại,
Dịu dang, chữ gấm dệt lời hoa ,
Tranh vĩ nhân mở rộng xem chung,
Lộng lẫy chỉ vàng treo bóng ác.
Hầm Hồ con cá nhảy,
Trong bóng mây thấp thoáng bóng rồng.
Trưng lĩnh cánh diều bay,
Theo tiếng gió nhịp nhàng tiếng nhạc...
Linh thiêng xin chứng.
~Quách-Tấn phụng soạn~
THAI-CAN
1910
Sinh tại Vân Lâm, Đức Thọ, Hà Tĩnh.
Tốt nghiệp Bác sĩ 1940, hành nghề
tại Đà Nẵng. Định cưtại Mỹ.
ANH BIẾT EM ĐI...
Anh biết em đi chẳng trở về
Dặm ngàn liễu khuất với sương che
Em đừng quay lại nhìn anh nữa:
Anh biết em đi chẳng trở về.
Em nhớ làm chi tiếng ái ân
Đàn xưa đã lỡ khúc dương cầm
Dây loan chẳng đượm tình âu yếm
Em nhớ làm chi tiếng ái ân.
Bên gốc thông già ta lỡ ghi
Tình ta âu yếm lúc xuân thì .
Em nên xóa dấu thề non nước
Bên gốc thông già ta lỡ ghi .
Chẳng phải vì anh, chẳng tại em:
Hoa thu tàn tạ rụng bên thềm
Ái ân sớm nở chiều phai rụng:
Chẳng phải vì anh, chẳng tại em .
Bể cạn, sao mờ, núi cũng tan,
Tình kia sao giữ được muôn vàn ...
Em đừng nên giận tình phai lạt
Bể cạn, sao mờ, núi cũng tan.
Anh biết em đi chẳng trở về
Dặm ngàn liễu khuất với sương che.
Em đừng quay lại nhìn anh nữa:
Anh biết em đi chẳng trở về.
~Thái-Can~
CHIỀU THU
Hoa hồng rũ cánh bay đầy đất
Trĩu nặng sương thu mấy khóm lan
Mỹ nhân lững thững xem hoa rụng
Ta ngỡ Hằng Nga náu Quảng hàn.
Mỹ nhân lững thững thăm hoa rụng
Trâm ngọc quên cài tóc bỏ lơi
Sương tỏa bên mình như khói nhẹ
Xiêm y tha thướt mái hiên ngoài.
Ta đứng bên hiên kiếm ý thơ
Mỹ nhân vô ý bước đi qua
Cánh hồng quyến luyến bên chân ngọc
Như muốn cùng ai sống phút thừa
Chẳng được như hoa vướng gót nàng
Cõi lòng man mác, giá như sương
Ta về nhặt lấy hoa thu rụng
Đặng giữ bên lòng nỗi nhớ thương.
~Thái-Can~
TỐ-PHANG
1910- ?
Tức Ngô-Văn-Phát, sinh tại Vĩnh
Lợi, Bạc Liêu.
ÂM THẦM
Ngày ấy ai yêu, tôi chẳng biết,
Vì còn khờ khạo, trí còn non,
Nay đến tôi yêu, ai chẳng biết
Ai ngờ? Vì đã có chồng con.
Ngày ấy ai yêu, tôi chẳng biết
Trên đường gió bụi ráng quên tôi
Nay đến tôi yêu, ai chẳng biết
Trên đường gió bụi một mình tôi.
Ngày ấy ai yêu, tôi chẳng biết
Khối tình lần nữa để tiêu tan.
Nay đến tôi yêu, ai chẳng biết
Mối tình kín nhẹm vẫn vương mang.
~Tố-Phang~
NGUYÊN-THI-MINH-KHAI
1910-1941
Sinh ở Vinh, Nghệ-An, nhập Đảng Tân-Việt, sang
Tầu làm ở văn phòng Đông Phương Bộ Quốc Tế
Cộng Sản, cùng Lê-Hồng-Phong dự Đại Hội lần 7
Quốc Tế CS tại Mạc Tư Khoa, sau đó họ lấy nhau,
về nước lãnh đạo Xứ Ủy Nam-Kỳ, Bí thư Thành
ủy Sàigòn Chợ-Lớn, bị Pháp bắt, kết án tử hình, bị
bắn cùng chồng và một số lãnh đạo của đảng tại
Hóc-Môn năm 31 tuổi, ở tù bà có mấy câu thơ:
Vững chí bền gan ai hỡi ai!
Kiên tâm giữ dạ mới anh tài.
Thời cuộc đẩy đưa người chiến sĩ,
Con đường cách mạng vẫn chông gai.
~Nguyễn-Thị-Minh-Khai~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.12.2010 08:49:31 bởi Anh Nguyên >
THANH-TỊNH
1911-1988
Tức Trần-Văn-Ninh, nhà thơ,viết văn.
MÒN MỎI
Em ơi nhẹ cuốn bức rèm tơ,
Tìm thử chân mây khói tỏa mờ,
Có bóng tình quân muôn dặm ruổi,
Ngựa hồng tuôn bụi cõi xa mơ.
- Xa nhìn bên cõi trời mây,
Chị ơi em thấy một cây liễu buồn.
Bên rừng em hãy lặng nhìn theo,
Có phải chăng em ngựa xuống đèo?
Chị ngỡ như chàng lên tiếng gọi,
Trên mình ngựa hí lạc vang reo.
- Bên rừng ngọn gió rung cây,
Chị ơi con nhạn lạc bầy kêu sương.
Tên chị ai gieo giữa gió chiều,
Phải chăng em hỡi tiếng chàng kêu?
Trên dòng sông lặng em nhìn thử,
Có phải chăng người của chị yêu?
- Gió chiều đùa chiếc thuyền nan,
Chị ơi con sáo gọi ngàn trên sông...
Ô kìa! Bên cõi trời đông,
Ngựa ai ròn ruối dặm hồng xa xa.
Này lặng em ơi, lặng lặng nhìn,
Phải chăng mình ngựa sắc hồng in.
Nhẹ nhàng em sẽ buông màn xuống,
Chị sợ trong sương bóng ngựa chìm.
- Ngựa hồng đã đến bên hiên,
Chị ơi trên ngựa chìếc yên...vắng người.
~Thanh-Tịnh~
RỒI MỘT HÔM
Rồi một hôm nếu về cha hỏi
Mẹ ở đâu? con biết nói sao?
- Con hãy bảo: Trông cha mòn mỏi
Mẹ từ trần sau mấy tháng đau.
Nếu cha hỏi sao nhà vắng vẻ
Mẹ khuyên con hãy trả lời sao?
- Con lặng chỉ bình hương khói tẻ
Và bên giường chỉ dĩa dầu hao.
Nếu cha hỏi cặp đào trước ngõ
Sao chỉ còn một gốc ngả nghiêng?
- Con hãy chỉ một cây đào nhỏ
Bên cây tùng rồi đứng lặng yên.
Còn mồ mẹ nếu cha muốn biết
Phải phương nào con nói cùng cha?
- Con hãy chỉ bầu trời xanh biếc
Và bên trời có nội cỏ xanh.
~Thanh-Tịnh~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 04.01.2012 08:12:11 bởi Anh Nguyên >
HÀN-MẠC-TỬ
Tức Nguyễn-Trọng-Trí, quê Lệ-Mỹ, Đồng-Lộc,
Đồng-Hới, Quảng-Bình, nhà nghèo, cha mẹ mất
sớm, sống ở Qui-Nhơn, sau vào Sàigòn, làm thơ
từ 16 tuổi. Sau về lại Qui-Nhơn, mắcbệnh phong
phải vào nằm nhà thương Qui-Hòa và mất ở đó.
TÌNH QUÊ
Trước sân anh thơ thẩn,
Đăm đăm trông nhạn về:
Mây chiều còn phiêu bạt
Lang thang trên đồi quê;
Gió chiều quên ngừng lại,
Dòng nước tuôn trôi đi...
Ngàn lau không tiếng nói;
Lòng anh dường đê mê.
Cách nhau ngàn vạn dặm,
Nhớ chi đến trăng thề.
Dầu ai không mong đợi,
Dầu ai không lắng nghe
Tiếng buồn tgrong sương đục,
Tiếng hờn trong lũy tre,
Dưới trời thu man mác,
Bàng bạc khắp sơn khê.
Dầu ai trên bờ liễu,
Dầu ai dưới cành lê...
Với ngày xanh hờ hững,
Cố quên tình phu thê,
Trong khi nhìn mây nước,
Lòng xuân cũng não nề...
~Hàn-Mạc-Tử~
THÔN VĨ-DẠ*
Sao anh khôn về chơi thôn Vỹ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc,
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn hiu, hoa bắp lay.
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?
Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Áo em trắng quá nhìn không ra.
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,
Ai biết tình ai có đậm đà?
~Hàn-Mạc-Tử~
AVE MARIA
Như song lộc triều nguyên: ơn phước cả,
Dâng cao dâng thần-nhạc sáng hơn trăng.
Thơm-tho bay cho đến cõi Thiên đàng
Huyền diệu biến thành muôn kinh trọng-thể.
Và Tổng-lãnh Thiên-thần quỳ lạy Mẹ
Tung-hô câu đường-hạ ngớp châu sa.
Hương xông lên lời ca ngợi sum-hòa:
Trí miêu duệ của muôn vì rất thánh.
Maria! Linh-hồn tôi ớn lạnh,
Run như run thần-tử thấy long-nhan,
Run như run hơi thở chạm tơ vàng...
Nhưng lòng vẫn thấm-nhuần ơn trìu-mến.
Lạy Bà là Đấng tinh tuyền thánh vẹn
Giàu nhân đức, giàu muôn hộc từ-bi,
Cho tôi dâng lời cảm-tạ phò nguy
Cơn lâm-lụy vừa trải qua dưới thế.
Tôi cảm động rưng-rưng hai dòng lệ:
Dòng thao-thao như bất-tuyệt của nguồn thơ.
Bút tôi reo như châu ngọc đền vua,
Trí tôi hớp bao nhiêu là khí-vị...
Và trong miệng ngậm câu ca huyền-bí,
Và trong tay nắm một nạm hào-quang...
Tôi no rồi ơn võ-lộ hòa chan.
Tấu lạy Bà, Bà rất nhiều phép lạ,
Ngọc Như-Ý vô-tri còn biết cả,
Huống chi tôi là Thánh-thể kết tinh
Tôi ưa nhìn Bắc đẩu rạng bình minh,
Chiếu cùng hết khắp ba ngàn thế-giới...
Sáng nhiều quá cho thanh-âm vời-vợi,
Thơm dường bao cho miệng lưỡi không-khen.
Hỡi Sứ-thần Thiên-Chúa Gabriel,
Khi người xuống truyền tin cho Thánh-nữ,
Người có nghe xôn-xao muôn tinh-tú,
Người có nghe náo động cả muôn trời?
Người có nghe thơ mầu nhiệm ra đời
Để ca-tụng, - bằng hương hoa sáng-láng,
Bằng tràng hạt, bằng Sao Mai chiếu rạng,
Một đêm xuân là rất đỗi anh-linh?
Đây rồi! đây rồi! Chuỗi ngọc vàng kinh.
Thơ cầu-nguyện là thơ quân-tử ý ,
Trượng-phu lời là Tông đồ triết-lý,
Là Nguồn Trăng yêu-mến Nữ Đồng-Trinh
Là Nguồn Đau chầu lụy Nữ Đồng-Trinh.
Cho tôi thắp hai hàng cây bạch-lạp,
Khói nghiêm-trang sẽ dâng lên tràn ngập
Cả Hàn-giang và màu sắc thiên-không,
Lút trí khôn và ám-ảnh hương lòng
Cho sốt-sắng, cho đê-mê nguyền-ước...
Tấu lạy Bà, lạy Bà đầy ơn-phước,
Cho tình tôi nguyên-vẹn tợ trăng rằm,
Thơ trong-trắng như một khối băng-tâm,
Luôn luôn reo trong hồn, trong mạch máu,
Cho vỡ-lở cả muôn ngàn tinh đẩu,
Cho đê-mê âm-nhạc và thanh-hương,
Chim hay tên ngọc, đá biết tuổi vàng,
Lòng vua chúa cũng như lòng lê-thứ
Sẽ ngây-ngất bởi chưng thơ đầy ứ
Nguồn thiêng-liêng yêu-chuộng Mẹ Sầu-Bi
Phượng Trì! Phượng Trì! Phượng Trì! Phượng Trì!
Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu,
Hồn tôi bay đến bao giờ mới đậu
Trên triều-thiên ngời chói vạn hào-quang?
~Hàn-Mạc-Tử~
BẼN LẼN
Trăng nằm sóng soải trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi
Hoa lá ngây tình không muốn động
Lòng em hồi hộp, chị Hằng ơi.
Trong khóm vi lau rào rạt mãi
Tiếng lòng ai nói? Sao im đi?
Ô kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe.
Vô tình để gió hôn lên má
Bẽn lẽn làm sao lúc nửa đêm
Em sợ lang quân em biết được
Nghi ngờ tới cái tiết trinh em.
~Hàn-Mạc-Tử~
BUỒN THU
Ấp úng không ra được nửa lời,
Tình thu bi thiết lắm thu ơi!
Vội vàng cánh nhạn bay đi trớt.
Hiu hắt hơi may thoảng lại rồi...
Nằm gắng đã không thành mộng được,
Ngâm tràn cho đỡ lúc buồn thôi.
Ngàn trùng bóng liễu trông xanh ngắt,
Cảnh sắp về trông mắt đã vơi.
~Hàn-Mạc-Tử~
ĐÀ-LẠT TRĂNG MỜ
Đây phút thiêng liêng đã khởi đầu.
Trời mơ trong cảnh thực huyền mơ!
Trăng sao đắm đuối trong sương nhạt
Như đón từ xa một ý thơ.
Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều,
Để nghe dưới đáy nước hò reo,
Để nghe tơ liễu rung trong gió,
Và để xem trời giải nghĩa yêu.
Hàng thông lấp loáng đứng trong im
Cành lá in như đã lặng chìm.
Hư thực làm sao phân biệt được!
Sông Ngân Hà nổi giữa màn đêm.
Cả trời say nhuộm một màu trăng,
Và cả lòng tôi chẳng nói rằng.
Không một tiếng gì nghe động chạm,
Dẫu là tiếng vỡ của sao băng...
~Hàn-Mạc-Tử~
ĐÊM KHÔNG NGỦ
Non sông bốn mặt mơ màng
Thức chỉ mình ta dạ chẳng an.
Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối
Gió thu lọt cửa cọ mài chăn.
Khóc giùm thân thế hoa rơi lệ
Buồn giúp công danh dế dạo đàn.
Trỗi dậy nôm na vài điệu cũ
Năm canh tâm sự vẫn chưa tàn.
~Hàn-Mạc-Tử~
ĐỜI PHIÊU LÃNG
Gởi một gái quê làng tôi.
Mây trắng ngang trời bay vẩn vơ
Đời anh lưu lạc tự bao giờ
Đi đi...đi mãi nơi vô định
Tìm cái phi thường cái ước mơ.
Ở chốn xa xôi em có hay
Nắng mưa đã trải biết bao ngày
Nụ cười ý vị như mai mỉa
Mỉa cái nhân tình lúc đổi thay.
Trên đời gió bụi, anh lang thang
Bụng đói như cào lạnh khớp răng
Không có nhà ai cho nghỉ bước
Vì anh là kẻ chẳng giàu sang
Ban đêm anh ngủ túp lều tranh
Chỗ tạm dừng chân khách bộ hành
Đến sáng hôm sau anh cất bước
Ra đi với cái mộng chưa thành.
~Hàn-Mạc-Tử~
ĐÔI TA
Mà anh hay em trong tim đều rạn
Đều chôn sâu hình ảnh một người mơ
Bây giờ đây quấn quít hiện bây giờ
Chỉ biết có đôi ta là đang sống
Đang cho nhau ngọt ngào và đang mộng
Cố làm lơ không biết đến thời gian
Đến bông hoa tàn tạ với trăng ngàn
Đến những tình duyên chung quanh thất vọng
Nhiều hành tinh tan đi vì đã lỏng
Ôi muôn năm! Giấc mộng đã đời chưa?
Lúc ấy sóng triều rên rỉ chưa bưa
Cứ nhắm mắt, cứ yêu nhau như chết
Cứ sảng sốt, tê mê và rũ liệt
Đừng nghe chi âm hưởng địa cầu đang
Vỡ toang ra từng mảnh, cả không gian
Cả thời gian, từ tạo thiên lập địa
Đều trộn trạo, điều hòa và xí xóa
Thành hư không như tình ái đôi ta .
Trong im lìm, lẻ loi trong dãy động,
Cũng hình như, em hỡi, động Huyền Không
Mà đêm nghe tiếng khóc ở đáy lòng,
Ở trong phổi, trong tim, trong hồn nữa .
Em cố nghĩ ra một chiều vàng úa,
Lá trên cành héo hắt, gió ngừng ru:
"Một mối tình nức nở giữa âm u,
Một hồn đau rã lần theo hương khói,
Một bài thơ cháy tan trong nắng rọi,
Một lời run hoi hóp giữa không trung,
Cả niềm yêu, ý thơ, cả một vùng,
Hóa thành vũng máu đào trong ác lặn",
Đây là tất cả người anh tiêu tán,
Cùng trăng sao bàng bạc xứ Say Mơ
Cùng tình em tha thiết như văn thơ
Ràng rịt mãi cho đến ngày tận thế.
~Hàn-Mạc-Tử~
DUYÊN KỲ NGỘ
Tiếng Suối Reo:
Đâu gió lên tầng mây che mắt lạ
Ta muôn năm len lỏi ở Đào Nguyên
Nước trong sáng lòng ta thơm vô giá
Sao không ai đi lạc tới non tiên?
Để ta dâng, ta mời ai giải khát
Nếm cho bưa mùi vị nước trường sinh
Ô tiếng tiêu đâu bay ra man mác
Khiến nao nao nguồn thanh tịnh quanh mình.
Lời Chim Phụ Họa:
Tiếng tiêu nao từ phương xa bay vẳng
Tiếng thanh thanh mà rất mực tương tư
Xuân đây rồi lan tràn như bóng nắng
Ta nên bay cho khỏi vướng sầu u.
Tiếng Tiêu:
Vàng bay theo vàng đuổi theo vàng bay
Tiếng vàng này vừa mê vừa say
Dồn qua phương đông mặt trời chưa nóng
Dồn qua phương tây màu sắc hây hây
Ta là khúc Phượng Cầu Hoàng năm trước
Đem ân tình rải khắp cả trời duyên
Cho Quân Thụy lấy nàng Thôi thuyền quyên
Xuân vô cùng đến ngàn năm ơn phước.
Song le Nàng vẫn luôn luôn cách biệt
Bến Ô Giang lành lạnh khúc thầm thương
Ta vẫn còn ngân bao lời tha thiết
Trong nắng mai dìu dịu mối sầu vương.
Chàng:
Mải vui tìm cành hoa trên cánh bướm
Ai đưa ta lạc đến nước non này
Mùi cỏ lạ thơm như mùi nhụy chớm
Cùng tiếng tiêu đồng hợp chất nồng say
Đến đây rồi ta mơ niềm hận cũ
Đã bao năm nào thấy bóng giai nhân
Hoa lá bỗng xôn xao tìm lấy thú
Trong khi này lừng lẫy nhạc tường vân.
Lời Suối Reo:
Ô sự lạ muôn đời thế kỷ
Đất Linh Sơn in dấu vết phàm nhân
Ta reo lên với đàn thông thủ thỉ
Cho lay bay tình ý ở xa xăm
Xin mời chàng tài hoa thi sĩ đó
Ngồi xuống đây bên thảm ngọc vườn châu
Hai tay chàng thử vốc vào nước nọ
Mát tê đi như da thịt nàng dâu.
Lời Chim Hót:
Ôi chàng kia, thực ra chiều phong vận
Hãy nghe ta cao hót khúc bình an
Này mặt nhật tròn vo đương sáng láng
Gió đương lên vươn quyện tấm lòng ngây
Ta đã nghe danh chàng cao vời vợi
Như thơ ra đồng vọng cả thinh gian.
Chàng:
Nắng càng cao, lòng ta càng hừng hực
Thơ lên rồi bay quá dải nhàn vân
Mùi hương đâu trong lời ca sực nức
E hư vô rung động cả phong trần
Ôi chao, mê toàn thân như khoái cảm
Như đêm xuân uống phải rượu quỳnh tương
Không đâu mà, có điều chi vừa chạm
Đến tâm linh - để báo hiệu phi thường.
Ta hãy giấu tiếng tiêu trong cụm lá
Đừng cho ra nghe lờ lặng trời mây
Ta hãy ẩn mình ta trong kẹt lá
Để chờ xem sự lạ đến gần đây.
Nàng (ra):
Mây bay theo với mây bay
Mình sao ra nước non này mà chơi
Sáo ơi, dìu dặt chơi vơi
Buông mau âm điệu để mời nhân gian
Nắng cao ý muốn lan tràn
Ở đây vắng vẻ cây ngàn suối reo
Chim ơi hót khúc tương giao
Có người thục nữ lần vào Thiên Thai
Không gặp ai, chửa gặp ai
Duyên còn ngậm kín, tình hoài miên man
Tiêu tao đến nỗi bẽ bàng
Đi trong hiu quạnh gặp toàn bơ vơ.
Lời Suối Reo:
Ở đây có suối đoàn viên
Có cây Phối hợp, có duyên Ngọc vàng
Nước ta trong trắng ơ Nàng
Đọ xem trinh tuyết có phần thanh cao
Cởi xiêm cởi áo ra nào
Xuống đây nàng tắm cho rạt rào thơ...
Nàng:
Ôi chao thơ ngầm bay theo dải nắng
Lộng vào trong xiêm áo mỏng manh sao!
Tiếng ai cười vang trong im lặng
Khiến lòng ta hồi hộp biết dường bao!
Chàng (Ở lùm cây ra):
Tiếng tiêu vương vấn vào nhau mãi
Ta cho Nàng đây, gẫm lạ kỳ
Không duyên hồ dễ mong theo nắng
Xin dâng nàng nụ cười với đôi mi.
Nàng (kinh ngạc):
Ở đâu chàng ở đâu ra
Xem trong cốt cách mới ra tính tình
E khi mình chửa biết mình
Nói câu kỳ ngộ in hình hổ ngươi
Chàng ôi, thốt chẳng nên lời
Không quen sao lại lả lơi chuyện trò?
Chàng:
Phải quên Nàng ở Đào Nguyên
Bởi chưng sắc đẹp lại thêm đa tình
Xuống đây tìm nợ ba sinh
Không hay trời khiến ta mình gặp nhau.
Nàng:
Em là Trần Thương Thương
Ngụ ở bến Tầm Dương
Đi tìm chàng thi sĩ
Trong pho sách Kim Cương
Đi tới Tương tư xứ
Tìm không ra người thương.
Chàng:
Em là Trần Thương Thương
Anh là Hàn Mạc Tử
Không phải cách âm dương
Còn có khi hội ngộ
Em là hoa mười phương
Anh là mây tứ xứ
Gặp nhau ở cạnh đường
Nói sao cho bằng khóc.
Lời Chim Hót:
Hỡi ôi người tục khách tình
Đến đây nhìn sững cho mình thêm ghen
Má ơi, má núm đồng tiền
Môi sao ướt đỏ ta thèm biết bao!
Nắng ơi, nắng có lên cao
Làm sao da thịt hồng hào thế kia?
Nàng:
Người mộng hỡi từ nay ta mới biết
Sao thơ anh nhuộm toàn màu ly biệt?
Kêu không thôi, và nức nở cả ban đêm
Nhạc thanh bai hòa trong cung cầm nguyệt
Với bao màu sang sáng ửng duyên thơm
Em mê quá thi nhân Hàn Mạc Tử.
Người trai tơ thùy mị như tình duyên.
Chàng:
Thương Thương em, trời cho ta kỳ ngộ
Nói cho ta thần diệu của vàng bay
Đôi nhụy thắm in trên màu rực rỡ
Đây đôi chim gù gật với niềm say
Anh van em cho anh quỳ san sát
Cho mùa xuân ngầm ngấm tận hồn anh
Thơ anh sẽ như trầm hương ngào ngạt
Tỏa lên cao lồng lộng giữa trời xanh.
Nàng:
Tất cả em là trân châu vô giá
Dành cho anh riêng hưởng hạnh phúc này
Em kết tinh ở bao thanh sắc lạ
Tòa thiên nhiên đúc sẵn để mê say
Sao trời hỡi không cho em nguyền ước
Em theo anh mà hứng lấy sao rơi
Vẻ đài các còn nguyên trong khăn, lược
Để làm chi, tình hỡi, khi xa xôi.
Chàng:
Chỉ có em làm thơ anh mãnh liệt
Tình anh vang như luồng gió van lơn
Chỉ có em, lòng anh yêu tha thiết
Yêu điên cuồng không một phút nào hơn
Bây giờ đây khóc than niềm ly hận
Hỡi Thương Thương người ngọc của lòng anh
Ta nhìn em với bao lời ta thán
Khiến hoa chim nghe đuợc cũng không đành.
Nàng:
Tình quân hỡi, muôn năm em chỉ muốn
Sống bên anh cho thắm đượm tình yêu
Mùa xuân em sẽ rất nhiều hoa bướm
Bởi thơ anh tô điểm đẹp trăm chiều.
Chàng:
Than ơi đời biệt ly chan chứa
Anh sắp đi với hai dòng lệ ứa
Cả đau thương dồn dập xót tâm bào
Khi xa em đã bao lần vọng tưởng
Mơ trong mơ làm hoảng hốt đêm trăng
Khi gần em tâm thần anh sửng sốt
Mùi yêu đương vương vít cả tâm hồn
Em ở đó sao anh không thề thốt
Bao dòng châu đem hiến tối tân hôn.
Nàng:
Nói làm chi những câu mê sướng quá
Nói những câu khờ dại cả người em
Phải chăng anh tài hoa cao trọng lắm
Đã bao lần khét tiếng ở đền vua
Bao người ngọc đắm say lời ngọc thắm
Bao giai nhân hâm mộ tấm tình thơ!
Chàng:
Anh chỉ ngó say em trong chốc lát
Để hồn thơ rời rạc với mây bay
Gần em luôn để hưởng bao khoái lạc
Thưa em không, anh đâu dám mê say!
Một mai kia ở bên khe nước ngọc
Với sao vương, anh nằm chết như trăng
Không tìm thấy Nàng Tiên mô đến khóc
Đến hôn anh và rửa vết thương tâm.
Nàng:
Em quyết níu với bao tơ nắng dịu
Níu thơ anh và níu cả hồn anh
Hoa cỏ sẽ làm ơn theo chứng kiến
Biệt ly nào dứt được mối thâm tình?
Chàng:
Thôi chào em giờ không trở lại
Anh đi rồi mà hương phấn vẫn theo luôn
(chàng biến mất)
Tiếng Suối Reo:
Xin đừng vẫy bàn chân trong suối ngọc
Hỡi giai nhân người lụa bến Tầm Dương
Xin Nàng đợi để đêm khuya sẽ vọc
Bao nhiêu trăng sáng dịu giữa hơi sương.
~Hàn-Mạc-Tử~
GÁI QUÊ
Xuân trẻ, xuân non, xuân lịch sự
Tôi đều nhận thấy trên môi em
Làn môi mong mỏng tươi như máu
Đã khiến môi tôi mấp máy thèm.
Từ lúc bóng em bỏ trái đào
Tới chừng cặp má đỏ au au
Tôi đều nhận thấy trong con mắt
Một vẻ ngây thơ và ước ao
Lớn lên, em đã biết làm duyên
Mỗi lúc gặp tôi che nón nghiêng
Nghe nói ba em chưa chịu nhận
Cau trầu của khách láng giềng bên.
~Hàn-Mạc-Tử~
MÙA XUÂN CHÍN
Trong làn nắng ửng: khói mơ tan,
Đôi mái nhà tranh lấm-tấm vàng.
Sột-soạt gió trêu tà áo biếc,
Trên giàn thiên-lý - Bóng xuân sang.
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời,
Bao cô thôn-nữ hát trên đồi.
- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi...
Tiếng ca vắt-vẻo lưng-chừng núi,
Hổn-hển như lời của nước mây...
Thầm-thỉ với ai ngồi dưới trúc,
Nghe ra ý-vị và thơ-ngây...
Khách xa, gặp lúc mùa xuân chín,
Lòng trí bâng-khuâng sực nhớ làng:
"- Chị ấy, năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?..."
~Hàn-Mạc-Tử~
MUÔN NĂM SẦU THẢM
Nghệ hỡi Nghệ, muôn năm sầu thảm
Nhớ thương còn một nắm xương thôi
Thân tàn ma dại đi rồi
Rầu rầu nước mắt bời bời ruột gan
Nghe gió là ôm ngay lấy gió
Tường chừng như trong đó có hương
Của người mình nhớ mình thương
Nào hay gió lại chẳng vương vấn gì
Nhớ lắm lúc như si như dại
Nhớ làm sao bải hoải tay chân
Nhớ hàm răng, nhớ hàm răng
Mà ngày nào đó đã khăng khít nhiều
Dẫu đau đớn vì lời phụ rẫy
Nhưng mà ta không lấy làm điều
Trăm năm vẫn một lòng yêu,
Và còn yêu nữa rất nhiều em ơi.
~Hàn-Mạc-Tử~
PHAN-THIẾT! PHAN-THIẾT!
Như khi xưa ta là chim Phượng Hoàng
Vỗ cánh bay chín tầng trời cao ngất
Bay từ Đao Lỵ đến trời Đâu Suất; Và lùa theo không biết mấy là hương
Lúc đằng vân gặp ánh sáng chận đường
Chạm tiếng nhạc, va nhằm thơ thiên cổ
Ta lôi đình thấy trăng sao liền mổ
Sao tan tành rơi xuống một cù lao
Hóa đài điện đã rất nên tráng lệ
Ở ngôi cao, ngước mắt ra ngoài bể
Phong lưu ghê, sang trọng chẳng vừa chi
Ta mê man như tới chốn Phượng trì
Ở mãi đấy không về Thiên Cung nữa .
Nhưng phép lạ có một vì tiên nữ
Hao hao như nường nguyệt cõi Đào Nguyên
Ta đắm mê trong ánh sáng trần duyên
Và van lạy xin cô nường kết ngãi
Mỉa mai thay cho phượng hoàng si dại
Là ta đây đương ở kiếp muông chim
Trở lại trời tu luyện với muôn đêm
Hớp tinh khí lâu năm thành chánh quả
Ta trở nên như ngọc đàng kim mã
Rất hào hoa rất phong vận: Người Thơ
Ta là trai khí huyết ước ao mơ
Người thục nữ sanh giữa thời vô thượng
Rồi ngây dại nhờ thất tinh chỉ hướng
Ta lang thang tìm tới chốn Lầu Trăng
Lầu Ông Hoàng, người thiên hạ đồn vang.
Nơi đã khóc, đã yêu thương da diết
Ôi trời ôi! là Phan Thiết Phan Thiết
Mà tang thương còn lại mảnh trăng rơi
Ta đến nơi Nường ấy vắng lâu rồi
Nghĩa là chết từ muôn trăng thế kỷ
Trăng vàng ngọc, trăng ân tình, chưa phỉ!
Ta nhìn trăng, khôn xiết ngậm ngùi trăng
Ta vãi tung thơ lên tận sông Hằng,
Thơ phép tắc bỗng kêu rên thống thiết
Hỡi Phan Thiết! Phan Thiết!
Mi là nơi ta chôn hận nghìn thu
Mi là nơi ta sầu muộn ngất ngư!
~Hàn-Mạc-Tử~
THẮM THIẾT
Cười cho lắm cho dầm dề nước mắt
Chết ruột gan mà ngoài mặt như không.
Anh nhìn Mai chua xót cả tấm lòng
Không biết nói làm sao cho da diết!
Trắng như tinh và rất nên thanh bạch
Cốt cách đều rất mực đồng trinh
Mai của anh, chiều phong vận xinh xinh.
Say một nửa và thơm một nửa.
Bay chới với điệu quỳnh dao hương múa
Mê cầm trăng trong một tối xa hoa.
Nâng âm thanh trên những ngón tay ngà
Giây phút ấy rượu say, trời lảo đảo.
Thêm nóng mặt, ân tình thôi gượng gạo
Sững lòng đi trong một tối tân hôn.
Đây Mai Đình, tiên nữ ở Vu Sơn
Đem mộng xuống gieo vào muôn sóng mắt,
Nàng! Ôm nàng! Hai tay ta ghì chặt
Cả bài thơ êm mát lạ lùng thay!
Ta là người uống muôn hận sầu cay
Nàng là mật của muôn tuần trăng mật.
Ôi khoái trá thấm dần vô thể chất
Hồn trong sương, ảnh hưởng đến mê tơi!
Quý như vàng, trọng như ngọc trên đời
Mai! Mai! Mai! Là Nguyệt Nga tái thế.
Tình rất nặng và nghĩa đầy lượng bể,
Tôi ôm nàng, muốn cắn chết nàng đi!
Bao não nùng sầu hận trong mê ly
Anh thấy rõ rằng anh đang trơ trọi.
Em xa quá, biết làm sao nhắn với?
Anh đưa lòng cho tới huyệt lòng em!
Mai! Ôi Mai, là em vẫn còn nguyên,
Hay đã chết như tình anh đã chết?
~Hàn-Mạc-Tử~
ĐỪNG CHO LÒNG BAY XA
Thượng thanh khí tiết ra nguồn sinh khí
Xa xôi trăng mọc nước Huyền Vi,
Đây Miên Trường, đây Vĩnh Cửu, tề phi!
Cao cao vượt với hai hàng bóng vía.
Trời nhật nguyệt cầu vồng bắt tứ phía,
Ôi Hoàng Hoa, hồn phách đến nơi đây.
Hương ân tình cho kết lại thành dây,
Mong manh như lời nhớ thương hàng triệu
Đàn cung bậc gió dồn lên âm điệu,
Sững lòng chưa ? Say chấp cả thanh bai.
Sang chơi thôi, sang chơi thôi! mà ai,
Thu đây rồi, bước lên cầu Ô Thước
Sao! Vàng sao rơi đầy nơi sóng nước,
Đừng ngả tay mà hứng máu trời sa.
Thôi kéo về đừng cho lòng bay xa...
Thu vươn này, thu vươn ra như ý...
Mau rất mau trong muôn hoa kiều mỵ,
Mùa rất trai và ánh sáng rất cao.
Đừng nói buồn mà không khí nao nao,
Để chơi vơi này bông trăng lá gió,
Để phiêu phiêu này tờ thơ vàng võ,
Để dầm dề hạt lệ đôi ta.
Tầng thượng tầng lâu đài ngọc đơm ra.
Khói nhạt nhạt xen vô màu xanh biếc.
Đẩy đưa dài hơi ngào ngạt trầm mơ.
Thinh không tan như bào ảnh hư vô,
Giải Ngân Hà biến theo cầu Ô Thước.
Và ước ao nhớ nhung lần lượt
Đắm im lìm trong mường tượng buồn thiu.
~Hàn-Mạc-Tử~
(Trích trong tập Thượng Thanh Khí)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 27.12.2010 08:09:19 bởi Anh Nguyên >
NGUYỄN-VỸ
1912-1971
Sinh tại Tân Hội, Đức Phổ, Quảng Ngãi,
chống Pháp, chống Nhật, Chống Chính
quyền, nên làm báo cứ bị đóng cửa.
GỬI TRƯƠNG-TỬU
(Trích)
Dạo ấy chúng mình nghèo xơ xác,
Mà vẫn coi tiền như cỏ rác.
Kiếm được đồng nào đem tiêu hoang,
Rủ nhau chè chén nói huênh hoang.
Xáo lộn văn chương với chả cá,
Chửi Ưông, chửi Tây, chửi tất cả,
Rồi ngủ một đêm mộng với mê .
Sáng dậy nhìn nhau cười hê hê!
Bây giờ thời thế vẫn thấy khó,
Nhà văn An-nam khổ như chó!
Mỗi lần cầm bút viết văn chương,
Nhìn đàn chó đói gặm trơ xương
Rồi nhìn chúng mình hì hục viết
Suốt mấy năm trời kiết vẫn kiết,
Mà thương cho tôi, thương cho anh
Đã rụng bao nhiêu mái tóc xanh.
Bao giờ chúng mình thật ngất ngưởng?
Tôi làm Trạng-Nguyên anh Tể-Tướng,
Rồi anh bên Võ tôi bên Văn,
Múa bút tung gươm hả một phen?
Cho bõ căm hờn cái xã hội
Mà anh thường kêu mục, nát, thối?
Cho người làm ruộng, kẻ làm công.
Đều được an vui hớn hở lòng?
Bây giờ chúng mình gạch một chữ
Làm cho đảo điên pho Lịch-sử!
Làm cho bốn mươi thế kỷ xưa
Hất mồ nhổm dậy cười say xưa
Để xem hai chàng trai quắc thước
Quét sạch quân thù trên đất Nước?
Để cho toàn thể dân Việt Nam
Đều được Tự-do muôn muôn năm?
Để cho muôn muôn đời dân tộc
Hết đói rét, lầm than tang tóc?
Chứ như bây giờ là trò chơi!
Làm báo làm bung chán mớ đời!
Anh đi che tàn một lũ ngốc
Triết lý con cừu, văn chương cóc!
Còn tôi bưng thúng theo đàn bà,
Ra chợ bán văn ngày tháng qua!...
(Viết rồi hãy còn say)
~Nguyễn-Vỹ~
BÀNG-BÁ-LÂN
1912-1988
Quê Phủ Lạng Thương, Bắc Giang,
học xong T.H. ở trường Bưởi (tường
Trung học Bảo-Hô, về quê làm chủ
đồn điền), làm thơ, viết văn đăng trên
các báo ở HN,năm 1954 di cư vào
Nam, dạy học.
GIẾNG LÀNG
Hẹn nhau bên bờ giếng
Chờ nhau lúc rạng trăng
Nàng vân vê giải yếm
Chàng sửa nắn vành khăn
Dưới trăng nàng bối rối
Dưới trăng chàng băn khoăn
Nhìn nhau mà chẳng nói
Bốn mắt đọng trăng rằm
Hẹn nhau bên bờ giếng
Chờ nhau lúc rạng trăng
Trăng đến nàng không đến
Chàng lo buồn đăm đăm
Nàng đã đi làng khác
Theo một người khăn đen
Không còn nghe giọng hát
Bên đình lúc trăng lên
Ai cúi mình trên giếng?
Ai thả gầu múc trăng?
Ai cười yêu nửa miệng?
Tan rồi mộng gối chăn!
Không hẹn bên bờ giếng
Không chờ lúc rạng trăng
Đêm đêm chàng vẫn đến
Bên giếng khóc âm thầm
Đêm nay chàng lại đến
Bên giếng khóc âm thầm
Bỗng gặp bên bờ giếng
Đôi bóng người dưới trăng
Nàng cũng vê giải yếm
Chàng cũng nắn vành khăn
Cùng nhìn nhau âu yếm
Bốn mắt đọng trăng rằm
Giếng trăng nơi hò hẹn
Giếng trăng nơi hò hẹn
Từ xa xưa đến bây giờ
Giếng làng ghi dấu bao trò hợp tan.
~Bàng-Bá-Lân~
1942
TRƯA HÈ
Dưới gốc đa già, trong vũng bóng,
Nằm mát đàn trâu ngẫm nghĩ nhai.
Ve ve rung cánh, ruồi say nắng,
Gà gáy trong thôn những tiếng dài.
Trời lơ cao vút không buông gió,
Đồng cỏ cào phô cánh lượt hồng.
Êm đềm sóng lụa trôi trên lúa,
Nhạc ngựa đường xa rắc tiếng đồng.
Quán cũ nằm lười trong sóng nắng,
Bà hàng thưa khách ngả thiu thiu.
Nghe mồ hôi chảy đầy như tắm...
Đứng lặng trong mây một cánh diều.
Cành thưa, nắng tưới, chim không đứng,
Quả chín bâng khuâng rụng trước hè.
Vài cô về chợ buông quang thúng,
Sửa lại vành khăn dưới bóng tre.
Thời gian dừng bước trên đồng vắng,
Lá ngập ngừng sa nhẹ lướt ao.
Như mơ đường khói lên trời nắng,
Trường học làng kia tiếng trống vào.
~Bàng-Bá-Lân~
CỔNG LÀNG
Chiều hôm đón mát cổng làng,
Gió hìu hiu đảy mây vàng êm trôi.
Đồng quê vờn lượn chân trời,
Đường quê quanh quất bao người về thôn.
Sáng hồng lơ lửng mây son,
Mặt trời thức giấc, véo von chim chào.
Cổng làng rộng mở. Ồn ào,
Nông phu lững thững đi vào nắng mai.
Trưa hè bóng lặng nắng oi,
Mái gà cục cục tìm mồi dắt con.
Cổng làng vài chị gái non,
Dừng chân uể oải chờ cơn gió nồm.
Những khi gió lạnh mưa buồn,
Cổng làng im ỉm bên đường lội trơn.
Nhưng khi trăng sáng chập chờn,
Kìa bao nhiêu bóng trên đường thướt tha.
Ngày mùa lúa chín thơm đưa,
Rồi Đông gầy chết, Xuân chưa vội vàng.
Mừng xuân ngày hội cổng làng,
Là nơi chen chúc bao nàng ngây thơ.
Ngày nay dù ở nơi xa,
Nhưng khi về đến cây đa đầu làng.
Thì bao nhiêu cảnh mơ màng,
Hiện ra khi thoáng cổng làng trong tre.
~Bàng-Bá-Lân~
NGƯỜI TRÂU
Trời xám thấp, rặng tre ngà tút lá,
Đầy ngõ thôn hun hút gió chiều đông.
Sương mù bay phơi phới tỏa đầy đồng,
Hơi lạnh cắn vào lằn da cóng buốt.
Trong thửa ruộng chân đê tràn ngập nước,
Đôi bóng người đang chậm bước đi đi...
Người đàn ông cúi rạp bước lầm lì,
Người vợ cố đẩy bừa theo sát gót.
Họ là những nông phu nghèo bậc chót,
Không có trâu nên người phải làm... trâu.
Họ bừa ngầm một thửa ruộng chiêm sâu,
Nước đến bụng ôi, rét càng thêm rét!
Áo rách tướp, hở ra từng mảng thịt,
Tím bầm đen trong gió lạnh căm căm.
Hì hục làm, thỉnh thoảng lại dừng chân,
Véo và ném lên mặt đường từng vốc...
- Nhác trông ngỡ nắm bùn hay nắm đất -
Nhìn lại xem: ô, đống đìa đen sì!...
Ta rùng mình quay mặt bước chân đi,
Lòng tê tái, một mối sầu u ám.
Trời càng thấp. Tầng mây chì càng xám,
Mưa phùn gieo ảm đạm khắp đồng quê.
Gió chiều nay sao lạnh buốt, lê thê.
~Bàng-Bá-Lân~
Đôn-thư,1945
ĐÓI
Năm ất dậu tháng ba, còn nhớ mãi
Giống Lạc-Hồng cực trải lắm đau thương!
Những thây ma thất thểu đầy đường,
Rồi ngã gục không đứng lên vì...đói!
Đói tự Bắc-giang đói về Hà-nội,
Đói ở Thái-bình đói tới Gia-lâm.
Khắp đường xa những xác đói rên nằm
Trong nắng lửa, trong bụi lầm co quắp.
Giữa đống giẻ chỉ còn đôi hố mắt
Đọng chút hồn sắp tắt của thây ma;
Những cánh tay gầy quờ quạng khua khoa
Như muốn bắt những gì vô ảnh.
Dưới mớ tóc rối bù và kết bánh,
Một làn da đen xạm bọc xương đầu.
Răng nhe ra như những chiếc đầu lâu,
Má hóp lại, răng hằn sâu gớm ghiếc.
Già trẻ gái trai không còn phân biệt,
Họ giống nhau như là những thây ma,
Như những bộ xương còn dính chút da,
Chưa chết đã bốc ra mùi tử khí!
Mùi nhạt nhẽo nặng nề kỳ dị,
Một mùi tanh lộn mửa thoảng mà kinh.
(Mùi tanh hôi ám ảnh mãi bên mình
Khiến cả tháng ăn không còn ngon bữa)
Những thây đó cứ xỉu dần tắt thở,
Nằm còng queo mắt vẫn mở trừng trừng.
Trông con ngươi còn đọng lệ rưng rưng,
Miệng méo xệch như khóc còn đang dở.
Có thây chết ba hôm còn nằm đó,
Ruồi tám phương bâu lại khóc vo vo...
Rồi bên đường đôi nhát cuốc hững hờ
Đắp điếm vội những nấm mồ nông dối!
Đói tự Bắc-giang đói về Hà-nội,
Đói ở Thái-bình đói tới Gia-lâm.
Rải ven đường những nấm mộ âm thầm
Được đánh dấu bằng ruồi xanh cỏ tốt.
Có nấm mộ quá nông trơ hài cốt,
Mùi hôi tanh nồng nặc khắp không gian.
Sau vài trận mưa nước xối chan chan,
Ôi thịt rữa xương tàn rơi rải rác!
Tại Hà-nội cũng như bao tỉnh khác,
Những thây ma ngày lết đến càng đông;
Đem ruồi theo cùng hơi hớm tanh nồng,
Rồi ngã gục cuối đầu dường xó ngõ.
Thường sớm sớm cửa mỗi nhà hé ngỏ,
Rụt rè xem có xác chết nào chăng!
Từng chiếc xe bò bánh rít khô khan
Mổi sáng dạo khắp nẻo đường nhặt xác.
Xác chồng chất lù lù như đống rác,
Đó đây thò khô đét một bàn chân
Hay cánh tay gầy tím ngắt teo răn
Giơ chới với như níu làn không khí,
Như cầu cứu, như vẫy người chú ý...
Có hơi thở tàn thoi thóp chưa thôi,
Có tiếng cựa mình, tiếng nấc...Những tròng ngươi
Nhìn đẫm lệ người chôn người chửa chết!
Bốn ngoại ô mở ra từng dẫy huyệt
Được lấp đầy bằng xác chết thường xuyên.
Ruồi như mây bay rợp cả một miền...
Chết! Chết! Chết! Hai triệu người đã chết!
Họ là những người quê non nước Viêt,
Sống cần lao bên ruộng lúa, đồng khoai.
Lúa xanh rờn nhờ họ đổ mồ hôi,
Nước Việt sống vì mồ hôi họ đổ.
Năm ấy, thuở Nhật, Tây cùng đô hộ,
Chúng thi nhau cướp lúa của dân ta.
Hết lúa rồi, hết sạch cả khoai ngô;
Hết củ chuối, hết nhẵn khô cả sắn!
Ngày giáp hạt không còn chi gậm nhấm,
Đói cháy lòng, đành nhá cả mo cau;
Nhá cả bèo và nuốt cả khô dầu!
Đói! đói! đói! Người nhao lên vì đói!
Đói tự Bắc-giang đói về Hà-nội,
Đói ở Thái-bình đói tới Gia-lâm.
Tạm biệt quê hương, lê gót âm thầm
Trên rải rác mọi nẻo dường đất nước.
Từng gia đình dắt díu nhau lê bước
Đi lang thang mong sống tạm qua ngày.
Đợi lúa lên hương, bông trĩu đầu cây.
Hơn tháng nữa sẽ hồi cư sẽ sống!
Nhưng đau đớn hỡi ơi là ảo mộng!
Họ ra đi, hy vọng có ngày về!
Nhưng chẳng bao giờ về nữa, hỡi người quê.
Dần lả gục khắp đầu đường xó chợ!
Cùng lúc ấy, cũng trên đường rộn rã,
Từng đoàn xe chuyên chở thóc vàng tươi.
Thóc của dân đen, thóc của những người
Đang chết đói vì thực dân cướp thóc.
Thóc chúng cướp phần vung xài huy hoắc,
Phần chúng đem để mục nát trong kho!
Ôi, đau thương, chưa từng thấy bao giờ...
Trong lịch sử chưa bao giờ từng có!
Hai trìệu người, vì thực dân, lìa bỏ
Nước thân yêu, oan uổng chết đau thương,
Trong lúc đầy đồng bát ngát, ở quê hương,
Lúa mơn mởn đang ra đòng trổ trái,
Lúa trĩu hạt vàng tươi sai gấp bội,
Ngạt ngào thơm báo hiệu ấm no vui.
Nhưng người đi không về nữa, than ôi!
Lúa chín gục chẳng còn ai gặt hái!...
Ta nhớ mãi cái thời kỳ đên tối!
Quên làm sao tội lỗi kẻ xâm lăng!
Quên làm sao mối thù hận khôn cùng!
Quên sao được hai triệu người chết đói!
Năm Ất-dậu tháng ba, còn nhớ mãi,
Giống Lạc Hồng cực trải lắm đau thương!
Những thây ma thất thểu đầy đường.
Rồi ngã gục không đứng lên vì...đói!
Đói tự Bắc-giang đói về Hà-nội,
Đói ở Thái-bình đói tới Gia-lâm!...
~Bàng-Bá-Lân~
Tháng Năm 1957
LƯU-TRỌNG-LƯ
1911-1991
Quê Cao-La-Hạ, Hạ-Trạch, Bố-Trạch, Quảng-
Bình, học Quốc-Học Huế, sống ở Hà-Nội, nhập
Làng báo huế, Hà-Nội, kiện tướng khởi xướng
Phong trào thơ mới, tổng thư ký Hội Nghệ sĩ
Sân khấuVN, ủy viên ban chấp hành Hội Nhà
Văn VN.
NẮNG MỚI
Mỗi lần nắng mới hắt bên song,
Xao xác gà trưa gáy não nùng.
Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng,
Chập chờn sống lại những ngày không.
Tôi nhớ mẹ tôi thuở thiếu thờ,
Lúc người còn sống tôi lên mười.
Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội,
Áo đỏ người đưa trước dậu phơi.
Hình dáng mẹ tôi chửa xóa mờ,
Hãy còn mường tượng lúc vào ra.
Nét cười đen nhánh sau tay áo,
Trong ánh trưa hè trước dậu thưa.
~Lưu-Trọng-Lư~
THƠ SẦU RỤNG
Vừng trăng từ độ lên ngôi,
Năm năm bến cũ em ngồi quay tơ.
Để tóc vướng vần thơ sầu rụng,
Mái tóc buồn thơ cũng buồn theo.
Năm năm tiếng lụa xe đều...
Những ngày lạnh rớt, gió vèo trong cây.
Nhẹ bàn tay, nhẹ bàn tay,
Mùi hương hàng xóm bay đầy mái đông.
Nghiêng nghiêng mái tóc hương nồng,
Thời gian lặng rót một giòng buồn tênh.
~Lưu-Trọng-Lư~
TIẾNG THU*
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ?
Em không nghe rừng thu,
Lá thu kêu xào xạc,
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô?
~Lưu-Trọng-Lư~
MƯA...MƯA MÃI
Mưa mãi mưa hoài!
Lòng biết thương ai!
Trăng lạnh về non không trở lại...
Mưa chi mưa mãi!
Lòng nhớ nhung hoài!
Nào biết nhớ nhung ai!
Mưa chi mưa mãi!
Buồn hết nửa đời xuân!
Mộng vàng không kịp hái.
Mưa mãi mưa hoài!
Nào biết trách ai?
Phí hoang đời trẻ dại.
Mưa hoài mưa mãi!
Lòng biết tìm ai?
Cảnh, tưởng đầy nơi quan tái.
~Lưu-Trọng-Lư~
GIANG HỒ
Mời anh cạn hết chén này,
Trăng vàng ở cuối non tây ngậm buồn.
Tiếng gà đã rộn trong thôn,
Nửa đời phiêu lãng chỉ còn đêm nay.
Để lòng với rượu cùng say,
Chừ đây lời nói chua cay lạ thường!
Chừ đây đêm hãy đầy sương,
Con thuyền còn buộc, trăng buông lạnh lùng.
Chừ đây trăng nước não nùng,
Chừ đây hoa cỏ bên sông rũ buồn.
Tiếng gà lại rộn trong thôn...
Khoan đừng tơ tưởng vợ con chuyện nhà.
Giờ này còn của đôi ta,
Giang hồ rượu ấy còn pha lệ người.
Ồ sao rượu chẳng kề môi,
Lời đâu kiều diễm cho nguôi lòng chàng?
*
Tay em nâng chén hoàng hoa,
Sá gì hớp rượu vì ta bận lòng.
Hãy gượm lắng nghe dòng sông chảy,
Gió đùa trăng trên bãi lạnh lùng.
Sá gì hớp rượu, bận lòng,
Đợi gì môi nhắp rượu nồng mới say?
Hãy nhích lại đưa tay ta nắm,
Hãy buông ra đằm thắm nhìn nhau.
Rồi trong những phút giây lâu,
Mắt sầu gợn sóng, lòng đau rộn tình.
Phút giây ấy ta mình ngây ngất,
Bỗng con thuyền buộc chặt, rời cây.
Cho ta khất chén rượu này,
Vì ta em hãy lựa dây đoạn trường.
Khoan để đốt chút hương trầm đã!
Đợi trầm bay rộn rã lời ca...
Nghe xong ta ngắm trời xa,
Dòng sông Ngân đã nhạt mờ từ lâu.
Tiếng gà đã gáy mau trong xóm,
Bình minh đà rạng khóm tre cồn.
Trông nàng môi nhạt mầu son,
Giật mình ta nhớ vợ con ở nhà.
Từ đấy chẳng bao giờ phiêu lãng,
Niềm thê nhi ngày tháng quen dần.
Đòi phen nhớ cảnh phong trần:
Bóng nàng ẩn hiện xa gần đâu đây.
Tưởng nghe tiếng gọi nơi hồ hải,
Mắt lệ mờ ta mải trông theo,
Trong buồng bỗng tiếng con reo,
Vội vàng khép cửa gió heo lạnh lùng.
*
Đêm ấy rượu nàng ta không uống,
Từ sau thề không uống rượu ai.
Đòi phen ngồi ngóng chân trời,
Chẳng bao giờ nghĩ đến đời phiêu lưu.
Ngoan ngoãn như con cừu non dại,
Cỏ quanh vườn cắn mãi còn ngon.
Sau lưng nghe tiếng cười dòn,
Vội vàng ngoảnh lại... thằng con vẫn cười.
Nó đưa ra một chai rượu bé,
Bảo rằng: ‘‘Đây, rượu mẹ dâng cha’’
Giật mình ta mới nhớ ra:
Là ngày sinh nhật vợ ta đó mà!
Ta uống chẳng phải ra lôi hẹn,
Mà từ nan đâu vẹn đạo chồng!
Than ôi, trời giá đêm đông,
Máu du tử thực bên lòng hết sôi?
Chén lại chén kề môi thủ thỉ,
Càng vơi càng túy lúy càng đầy!
*
Lúc tỉnh rượu lặng ngồi bên án,
Trông vào gương , lằn trán có vôi.
Vợ con khúc khích đứng cười,
Còn ta vô ý lệ rơi xuống bàn.
Hết say vẫn bàng hoàng trong mộng,
Xót xa thay cái giống giang hồ!
Ngón đàn thêm một đường tơ,
Mà người sương gió nghìn thu nhọc nhằn.
*
Thôi rồi ra chốn nước non,
Lồng son lại để sổ con chim trời.
Thú hồ bể quyến mời du tử,
Niềm thê nhi khôn giữ được người.
Biết sao trái được tính trời,
Giang hồ cốt ấy trọn đời phiêu linh...
~Lưu-Trọng-Lư~
MỘT MÙA ĐÔNG
I
Đôi mắt em lặng buồn,
Nhìn thôi mà chẳng nói
Tình đôi ta vời vợi
Có nói cũng không cùng
Yêu hết một mùa đông
Không một lần đã nói
Nhìn nhau buồn vời vợi
Có nói cũng không cùng
Trời hết một mùa đông
Gió bên thềm thổi mãi
Qua rồi mùa ân ái:
Đàn sếu đã sang sông
Em ngồi trong song cửa
Anh đứng tựa tường hoa
Nhìn nhau mà lệ ứa
Một ngày một cách xa
Đây là giải Ngân hà
Anh là chim ô thước
Sẽ bắc cầu nguyện ước
Một đêm một lần qua
Để mặc anh đau khổ
Ái ân giờ tận số
Khép chặt đôi cánh song!
Khép cả một tấm lòng
II
Tặng D.C.
Em là gái trong khung cửa
Anh là mây bốn phương trời
Anh theo cánh gió chơi vơi
Em vẫn nằm trong nhung lụa
Em chỉ là người em gái thôi
Người em sầu mộng của muôn đời
Tình em như tuyết giăng đầu núi
Vằng vặc muôn thu nét tuyệt vời
Ai bảo em là giai nhân
Cho đời anh đau khổ?
Ai bảo em ngồi bên cửa sổ
Cho vướng víu nợ thi nhân
Ai bảo em là giai nhân
Cho lệ tràn đêm xuân?
Cho tình tràn trước ngõ,
Cho mộng tràn gối chăn?
III
Ngày một ngày hai cách biệt nhau
Chẳng được cùng em kê gối sầu,
Khóc chuyện thế gian cười ngặt nghẽo,
Cùng cười những chuyện thế gian đau.
Ngày hôm tiễn biệt buồn say đắm
Em vẫn đuà nô uống rượu say
Em có biết đâu đời vắng lạnh
Lạnh buồn như ngọn gió heo may.
Môi em đượm sặc mùi nho tươi
Đôi má hồng em chúm nụ cười
Đôi mắt em say mầu sáng lạn,
Trán em để lỏng làn tóc lơi.
Tuy môi em uống lòng anh say
Lời em càng nói, càng chua cay
Anh muốn van em đừng nói nữa
Lệ buồn sẽ nhỏ trong đêm nay.
IV
Hãy xếp lại muôn vàn ân ái
Đừng trách nhau đừng ái ngại nhau
Thuyền yêu không ghé bến sầu
Như đêm thiếu phụ bên lầu không trăng.
Hãy như chiếc sao băng băng mãi
Để lòng buồn, buồn mãi không thôi.
~Lưu-Trọng-Lư~
XUÂN VỀ
Năm vừa rồi
Chàng cùng tôi
Nơi vùng Giáp Mộ
Trong gian nhà cỏ
Tôi quay tơ,
Chàng ngâm thơ
Vườn sau oanh giục giã,
Nhìn ra hoa đua nở
Dừng tay tôi kêu chàng
Này, này! bạn! xuân sang
Chàng nhìn xuân mặt hớn hở
Tôi nhìn chàng lòng vồn vã...
Rồi ngày lại ngày
Sắc màu: phai
Lá cành: rụng
Ba gian: trống
Xuân đi
Chàng cũng đi.
Năm nay xuân còn trở lại
Người xưa không thấy tới.
Xuân về.
~Lưu-Trọng-Lư~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 12.01.2011 06:21:25 bởi Anh Nguyên >
VŨ-ĐÌNH-LIÊN
1913-1996
Quê Bình Giang, Hải Dương. Làm thơ,
phiên dịch và phê bình văn học.
ÔNG ĐỒ*
Mỗi năm hoa đào nở,
Lại thấy ông đồ già.
Bày mực tầu giấy đỏ,
Bên phố đông người qua.
Bao nhiêu người thuê viết,
Tấm tắc ngợi khen tài.
Hoa tay thảo những nét,
Như phượng múa rồng bay.
Nhưng mỗi năm một vắng,
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm,
Mực đọng trong nghiên sầu...
Ông đồ vẫn ngồi đấy,
Qua đường không ai hay.
Lá vàng rơi trên giấy,
Ngoài trời mưa bụi bay.
Năm nay đào lại nở,
Không thấy ông đồ xưa.
Những người muôn năm cũ,
Hồn ở đâu bây giờ?
~Vũ-Đình-Liên~
Dịch ra Hán văn:
Lão tú tài
Mỗi niên đào hoa khai,
Tổng kiến lão tú tài.
Truy nghiễn hồng tiên bãi,
Thông cù nhân vãng lai.
Đa thiểu thị tự dã,
Trách trách tiễn chu kỳ.
Xảo bút nhất huy tựu,
Như phụng vũ long phi.
Lãnh lạc niên phục niên,
Cô khách hà mang nhiên?
Hồng tiên bi sắc thâm,
Truy nghiễn sầu mặc kiên...
Tú tài do tại ty,
Quá lộ hữu thùy tri.
Tiên thượng hoàng diệp lạc,
Thiên biến tế vũ phi.
Kim niên đào hựu tân,
Bất kiến cựu thời nhân.
Trù trướng không hàng vọng,
Cổ hồn hà quy vân?
~Lý-Việt-Dũng~
TRẦN-HUYỀN-TRÂN
1913-1989
Tức Trần-Đình-Kim, sinh tại Hà-Nội,
làm thơ, soạn kịch và viết tiểu thuyết.
ĐỘC HÀNH CA
Ớ kìa thiên hạ đang say
Ớ nghìn tay nắm nghìn tay đang cười
Nhớ ngươi nhạt thếch rượu đời
Tay vo chỏm tóc ta ngồi ta ca
Tình tang lỗi nhịp mình ta
Thương về đầu bạc xót ra má hồng
Đèn chong ai vợ không chồng
Võng đưa ai mẹ bế bồng không con
Nằm đây thép rỉ son mòn
Cái đi mất mát, cái còn lần khân
Cúi đầu bóng rét vương chân
Ngẩng lên đã đụng giời xuân trên cành
Không vui sâu cỏ không đành
Mà cười nghe chửa ngon lành trái mơ
Đã toan ném bút vùi thơ
Thõng buông tay áo sợ dơ dáng đời
Trót thừa ừ ngược, ừ xuôi
Chút thân tâm sự ra người hát ngao.
Giao tình tợp chén chiêm bao
Ngựa Hồ thôi gió bấc nào đạp chân
Đây người áo đỏ tầm xuân
Đấy đi tang trắng mấy lần trùng quan
Không dưng rét cả dây đàn
Này cung dâng áo ngự hàn là đây.
Nhớ xưa cùng dỗ bụi giầy
Vỗ đùi ha hả thơ mày rượu tao
Say đời nhắm lẫn chiêm bao
Thơ ra miệng dại, rượu vào mắt điên
Đầu bồng khí núi đang lên
Sá gì bóng tối đắp trên thân còm
Gặp thời xô xát nước non
Ta trôi ngươi trẩy lòng còn ngó theo
Đưa nhau qua bữa cơm nghèo
Đứa sầu gào rượu đứa nheo mắt cười
Vung tay như vạch ngang giời
Bảo rằng đâu nữa cái thời ngất ngư
Chén mồi dù hắt ưu tư
Sao cho ráo được gió mưa lội lầm
Cõi ngoài trăm họ muôn dân
Sống trong rau cỏ vẫn thầm khóc than
Sao ta lì mãi ruột gan
Đời ai mắt sáng hơn vàng mà mong
Chẳng nghe đỏ khé sông Hồng
Sóng ngàn xưa vẫn động lòng ngàn sau
Chẳng nhìn bóng đá thâu thâu
Non Lam như kẻ gục đầu còn thương
Chẳng hoài thóc giống vất vương
Giếng khô lấp mạch cây vườn rụi hoa
Trách nào trái rụng hương xa
Cốt muôn trẻ đắp muôn già càng cao
Mồ hôi làm suối chiêm bao
Nguồn sinh vô lượng đổ vào vô biên
Lũ mình rấp hận thành điên
Cái câm thuở ấy cười lên thủa này
Thế rồi thí bỏ rủi may
Đứa giam cõi bụi, đứa đày rừng sâu
Vai cầy chẳng kẻo làm trâu
Dong xe chẳng kẻo tóc râu làm bờm
Nẻo về chật chội áo cơm
Dặm đi lại động từng cơn lá rừng
Lòng ta không sóng không đừng
Thơ vang lại vướng mấy tầng cửa quan
Ngẩng thì núi quấn mây tan
Kìa đông lửa cháy kìa nam khói mù
Kìa trời kia cũng ưu tư
Kìa kìa đất nọ ngắc ngư lạc đường
Nhà ta nào thiếu gì thương
Mà ta ngăn ngắt như giường bệnh nhân
Thuốc nào chữa nổi tà tâm
Bao mồi danh lợi ghìm chân sông hồ
Tóc xanh như cỏ trên mồ
Đời hoang chôn cả xuân thu một thời
Chao ôi! đâu xóm nô cười
Trẻ no vú sữa, già ngơi tiệc trà
Tự tình trai gái như hoa
Nằm trong vàng ngọc bước ra áo quần
Lầu cao đời rủ rèm xuân
Ấm no ngồn ngộn mấy tầng vô tư
Biết gì đến giấc chinh phu
Đêm mơ ngọc đá lầm tro giật mình
Tay xua bóng dáng gia đình
Mà thân lơ láo thế tình càng đau
Đời xanh khó ngả màu nâu
Mắt hào quang vẫn đục ngầu như say
Nghêu ngao cho sập bóng ngày
Khề khà cho ráo hận đầy từng hơi
Chiều nay nhấc chén lên môi
Không dưng tưởng nhắp máu người tanh tanh
Khóc nhau ném chén tan tành
Nghe vang vỡ cái bất bình thành thơ
Cố nhân! Ới hỡi người xưa
Dọn đi tâm sự. Đây mưa về rừng!
~Trần-Huyền-Trân~
1940
NGUYỄN-NHƯỢC-PHÁP
1914-1938
Phượng-Dục, Phú-Xuyên, Hà-Nội.
Con học giả Nguyễn-Văn-Vĩnh,
mất năm 24 tuổi.
CHÙA HƯƠNG
Hôm nay đi chùa Hương,
Hoa cỏ mờ hơi sương;
Cùng thầy me em dậy,
Em vấn đầu soi gương.
Khăn nhỏ đuôi gà cao,
Em đeo giải yếm đào,
Quần lĩnh áo the mới,
Tay cầm nón quai thao.
Me cười: ‘‘Thầy nó trông!
Chân đi đôi dép cong,
Con tôi xinh xinh quá,
Bao giờ cô lấy chồng?’’
Em tuy mới mười lăm
Mà đã lắm người thăm
Nhờ mối mai đưa tiếng
Khen tươi như trăng rằm.
Nhưng em chưa lấy ai,
Vì thầy bảo người mai
Rằng em còn bé lắm.
Ý đợi người tài trai.
Em đi cùng với me,
Me em ngồi cáng tre.
Thầy theo sau cưỡi ngựa,
Thắt lưng dài đỏ hoe.
Thầy me ra đi đò.
Thuyền bấp bênh bên bờ.
Em nhìn sông nước chảy,
Đưa cánh buồm lô nhô.
Mơ xa lại nghĩ gần,
Đời mấy kẻ tri âm?
Thuyền nan vừa nhẹ lướt,
Em thấy một văn nhân.
Người đâu thanh lạ nhường!
Tướng mạo trông phi thường,
Lưng cao dài, trán rộng,
Hõi ai nhìn không thương?
Chàng ngồi bên me em.
Me hỏi chuyện làm quen:
‘‘Thưa thầy đi chùa ạ?
Thuyền đông giời ôi chen!’’
Chàng thưa: ‘’Vâng thuyền đông’’.
Rồi ngắm trời mênh mông,
Xa xa mờ núi biếc,
Phơn phớt áng mây hồng.
Giòng sông nước đục lờ.
Ngâm nga chàng đọc thơ.
Thầy khen hay, hay quá!
Em nghe rồi ngẩn ngơ.
Thuyền đi, bến Đục qua.
Mỗi lúc gặp người ra,
Thẹn thùng em không nói:
‘‘Nam-mô A-di-đà!’’
Réo rắt suối đưa quanh,
Ven bờ, ngọn núi xanh,
Dịp cầu xa nho nhỏ,
Cảnh đẹp gần như tranh.
Sau núi Oản, Gà, Xôi,
Bao nhiêu là khỉ ngồi,
Trên núi con voi phục,
Có đủ cả đầu đuôi.
Chùa lấp sau rừng cây.
(Thuyền ta đi một ngày)
Lên cửa chùa em thấy:
Bao nhiêu là ăn mày.
Em đi, chàng theo sau.
Em không dám đi mau,
Ngại chàng chê hấp tấp,
Số gian nan không giàu.
Thầy me đến điện thờ,
Trầm hương khói tỏa mờ.
Hương như là sao lạc,
Lớp sóng người lô nhô.
Chen vào thật lắm công.
Thầy me em lễ xong
Quay về nhà ngang bảo:
‘‘Mai mới vào chùa trong’’.
Chàng hai má đỏ hồng,
Kêu với thằng tiểu đồng
Mang túi thơ bầu rượu:
‘‘Mai ta vào chùa trong’’.
Đêm hôm ấy em mừng!
Mùi trầm hương bay lừng.
Em nằm nghe tiếng mõ,
Rồi chim kêu trong rừng.
Em mơ, em yêu đời,
Mơ nhiều... viết thế thôi,
Kèo ai mà xem thấy,
Nhìn em đến nực cười.
Em chưa tỉnh giấc nồng,
Mây núi đã pha hồng.
Thầy me em sắp sửa
Vàng hương vào chùa trong.
Đường mây đá cheo leo,
Hoa đỏ, tím, vàng leo.
Vì thương me quá mệt,
Săn sóc chàng đi theo.
Me bảo: ‘‘đường còn lâu,
Cứ vào đi ta cầu
Quan-thế-âm bồ-tát
Là tha hồ đi mau’’.
Em ư? Em không cầu,
Đường vẫn thấy đi mau.
Chàng cũng cho như thế.
(Ra ta hợp tâm đầu).
Khi qua chùa Giải Oan,
Trông thấy bức tường ngang,
Chàng đưa tay, lẹ bút
Thảo bài thơ liên hoàn.
Tấm tắc thầy khen hay,
Chữ đẹp như rồng bay.
(Bài thơ này em nhớ
Nên chả chép vào đây).
Ơ! Chùa trong đây rồi!
Động thẳm bóng xanh ngời.
Gấm thêu trần thạch nhũ,
Ngọc nhuốm hương trầm rơi.
Mẹ vui mừng hả hê:
‘‘Tặc! Con đường dài ghê!’’
Thầy kêu mau lên nhé,
Chiều hôm nay ta về.
Em nghe bỗng rụng rời!
Nhìn ai luống nghẹn lời!
Giờ vui đời có vậy,
Thoảng ngày vui qua rồi!
Làn gió thổi hây hây,
Em nghe tà áo bay,
Em tìm hơi chàng thở!
Chàng ơi! Chàng có hay?
Đường đây kia lên trời,
Ta bước tựa vai cười.
Yêu nhau, yêu mãi mãi!
Đi, ta đi, chàng ơi!
Ngun ngút khói hương vang,
Say trong giấc mơ màng,
Em cầu xin Trời Phật
Sao cho em lấy chàng.
~Nguyễn-Nhược-Pháp~
6-1934
MỘT BUỔI CHIỀU XUÂN
* Thiên ký sự của một thư sinh đời trước.
Hôm đó buổi chiều xuân,
Trông mây hồng bay vân,
Liền gập pho kinh sử,
Lững thững khỏi lầu văn.
Đường leo, nhà lom khom,
Mái xanh, tường rêu mòn.
Ta nhìn, ngâm nga đọc
Câu đối cửa mầu son.
Phu khiêng kiệu ngẩn ngơ,
Thầy lại và thầy thơ
Ngồi xổm cười bên lọng,
Trước cửa tòa dinh cơ.
Cương da buộc thân cây,
Vài con ngựa lắc dây,
Nghển đầu lên gậm lá,
Đập chân nghiêng mình xoay.
Đi vui rồi vẩn vơ,
Hay đâu thức còn mơ.
Lạc vào trong vườn mộng,
Mồm vẫn còn ngâm thơ!
Ô! Vườn bao nhiêu hồng!
Hương nghi ngút đầu bông.
Lầu xa tô mái đỏ,
Uốn éo hai con rồng.
Thoảng tiếng vàng thanh tao,
Bên giàn lý bờ ao,
Một nàng xinh như liễu
Ngồi ngắm bông hoa đào.
Tay cầm bút đề thơ,
Tì má hồn vẩn vơ,
Nàng ngâm lời thánh thót.
Ai không người ngẩn ngơ!
Ta lặng nhìn hơi lâu
- Nhưng thì giờ đi mau -
Đứng ngay gần non bộ
Có ông lão ngồi câu.
Nàng chợt nghiêng thân ngà;
Thoáng bóng người xa xa,
Reo kinh hoàng, e lệ,
Đưa rơi cành bút hoa.
Ta mơ chưa lại hồn,
Nàng lẹ gót lầu son.
Vừa toan nhìn nét phượng,
Giấy thẹn bay thu tròn...
~Nguyễn-Nhược-Pháp~
6-5-1933
<bài viết được chỉnh sửa lúc 31.01.2011 09:46:32 bởi Anh Nguyên >
NGUYỄN-VŨ-TIỀM
1914-1938
Con văn hào Nguyễn-Văn-Vĩnh, sinh
Phụng-Dực, Phú-Xuyên, Hà-Nội.
ẢO ẢNH GIAI NHÂN
Thay lời bạt - ba nén tâm hương
Văn chương như giai nhân
thỏ thẻ bên lòng mời gọi
để bao người lao tới
càng với, càng xa vời.
Lỡ ăn phải - chỉ một lần - bùa ngải
không dễ gì dứt ra
để không bất đắc kỳ tử
như Lý Bạch, ức Trai
cũng suốt đời lận đận
hỏi lối về sông Mịch La...
Mở mắt là khoan vào sáng, tối
chính mình chẳng biết để làm chi
vợ con vuốt mắt cho lần cuối
vướng mãi điều gì cộm ở mi!
~Nguyễn-Vũ-Tiềm~
ĐÀO-TIẾN-LUYỆN
Sinh tại Xuân Trường, Nam Định,
cử nhân Văn Khoa SG, Giáo Sư Đại
Hoc Hoa Kỳ.
ÁO TÍM NGÀY XƯA
Nhớ cùng em dự hội làng Lim,
Kiều diễm ai ai cũng phải nhìn,
Lộng lẫy, tươi cười trong áo tím,
Người em hay chính đóa hoa sim.
Cờ phướn tung bay rợp ngả đường,
Đền chùa tấp nập khách hành hương.
Nơi nơi văng vẳng hò quan họ
Chất chứa tâm tình của luyến thương.
Kiệu hoa mở lối rước cầu kiều,
Nam nữ nhịp nhàng nhẹ bước theo
Điệu nhạc bát âm xen pháo nổ
Vẳng lại, đình xa tiếng trống chèo.
Cảnh chùa nhộn nhịp tự tinh mơ,
Thập điện lung linh khói tỏa mờ.
Thành khẩn thắp hương em khấn nguyện:
- Xin cho trọn kiếp đẹp trông chờ.
Mừng vui, nhí nhảnh bước chim non,
Cô bé ngây thơ mắt thoáng buồn:
- Em bắt đền anh mê nói chuyện,
Làm sao về kịp trước hoàng hôn?
Anh tiễn tận nhà xin lỗi mẹ
Để người cả buổi phải chờ trông.
- Quá vui, thưa bác, nên về trễ.
- Bác biết mà con, đường chắc đông.
Tin tưởng là em bị mắng rồi
Làm anh ân hận mãi không thôi.
- Này anh, đừng có làm cao nhé,
Mẹ bảo sao con khéo chọn người.
Ngày tháng anh vui với sách đèn,
Mơ ngày nào đó nói yêu em.
Bao giờ hạnh phúc trong tầm với,
Anh chắc đời mình sẽ ấm êm.
Nhớ tới người em với nụ cười
Mỗi lần hoa tím nhuộm nơi nơi,
Yêu thương anh gọi thầm trong gió :
- Áo tím ngày xưa, áo tím ơi!
~Đào-Tiến-Luyện~
ĐÈN KHUYA
Tặng người đẹp trong tranh họa
Thiếu Nữ và Hoa Sen
của Bùi Xuân Phái
Đêm về qua phiá nhà em,
Thấy em còn thức chong đèn học khuya
Hay là mải miết say mê
Baì thơ trao vội lúc về học ư?
Bao năm trao đổi thư từ,
Bao đêm thao thức làm thơ tặng nàng.
Thôi về thu góp hành trang,
Chu toàn khoa cử, xa nàng ít lâu.
Bao giờ sự nghiệp đẹp mầu,
Con đường danh phận bắt đầu thênh thang
Nhờ ngươì nói với mẹ nàng,
Xin cho bên ấy được sang bên nàỵ
Bao giờ đẹp lá trầu cay,
Quan viên hai họ vui ngày vu quy.
Đâu con` thư nọ, thơ kia,
Đâu còn phải thức đèn khuya một mình.
~Đào Tiến Luyện~
LỖI HẸN VỚI HAI SẮC HOA TI GÔN
Kính tăng các bậc thầy cô, cha chú thuộc thế hệ
cùng thời của T.T.KH. với sự ngưỡng mộ của
hậu sinh. Đào Tiến Luyện
Chim chiều sải cánh trốn hoàng hôn,
Chuông gửi không gian nhạc điệu buồn.
Nhìn giải mây mờ che đất nước,
Nghe chìm khát vọng tuổi yêu đương.
Quê mẹ lầm than nỡ lạnh lùng,
Đường vào quốc sử mặc rêu phong
Thôi đành lỗi hẹn người em gái
Gác lại một bên chuyện của lòng.
Nhí nhảnh hồn nhiên lúc cạnh tôi,
Nhìn đời là chuỗi những ngày vui.
Yêu nàng tôi muốn cho nàng biết
Nước mất tình nhà cũng mất thôi.
Giờ phút chia tay biết nói gì?
Như say hương vị phút từ ly
Nàng cười : - Vạn lý dù ngăn cách
Chung thủy tình ta chẳng giảm suy.
Đời có học đâu chữ lỡ làng,
Ngày về khao khát đẹp yêu đương
Phong sương, cố quận tìm dư ảnh
Ước vọng tàn theo bụi cuối đường.
Nàng đã trao thề trả nắng thu,
Đốt thư tình cũ tự bao giờ,
Đã say hương ấm bên người mới
Nhắc chuyện ngày xưa với hững hờ.
Tôi đã yêu em cả cuộc đời
Đường duyên ai cản bước tình tôi?
Ba cung sáu viện, ngàn hoa lệ
Xin đổi cho tôi lấy một người!
Đời nếu chỉ là trang tiểu thuyết
Thì xin viết lại chuyện ngày xưa:
Yêu thương đôi lứa trong tha thiết
Chẳng nói bao giờ phút tiễn đưa.
Em đã nói gì trước với tôi?
Nhắc mà chi nữa chuyện xa xôi.
Đời người giây phút nhiều đau khổ
Là phút buồn thương chuyện đã rồi.
Cũng tưởng thời gian sẽ xóa mờ
Niềm đau dần vợi với tàn thu,
Càng tìm quên lãng càng nhung nhớ
Câu chuyện sang sông chẳng đợi đò.
Đau đớn người yêu đã lấy chồng
Tình ơi, tay trắng lại hoàn không!
Ta về ghi lại trong tâm khảm
Hình ảnh ngây thơ dưới nắng hồng.
~Đào-Tiến-Luyện~
NGƯỜI EM MUÔN THUỞ
Người ta bảo em lấy chồng là hết,
Tàn nơi anh một cuộc sống mộng mơ;
Có còn chăng giữa hoang vắng tâm tư
Dư vị đắng những lời tình trăn trối .
Người em gái có biết đâu ngày cưới
Chính là ngày đánh dấu cuộc tàn phai
Và chồng em qua những tháng năm dài,
Một nhân chứng của quá trình thoái hoá.
Ngọc ngà tấm thân, nõn nà đôi má,
Nét vàng son tàn tạ với thời gian.
Tiết xuân qua cành hoa tết bẽ bàng,
Gia chủ tiếc những ngày hoa diễm lệ .
Còn nơi anh, muôn đời em vẫn thế,
Vẫn người em kiều diễm cuả ngày xưa
Có môi hồng và giọng nói dễ ưa,
Dùng nước mắt mỗi khi mình đuối lý.
Một kỷ niệm bao giờ quên được nhỉ:
Người em xinh một chủ nhật thăm anh,
Như thiên thần trong aó mới mầu xanh,
Em lộng lẫy đứng bên giàn thiên lý.
Hoa nắng trải những cánh tròn diễm lệ.
Tự hỏi lòng đây là thực hay mơ,
Trong say sưa anh đề tặng lời thơ
Phiá trong aó (sợ em về mẹ mắng):
Mầu aó vô tình giống aó anh,
Hôm nay hai đưá vận mầu xanh .
Mầu xanh, mầu cuả bao hy vọng,
Hy vọng nhưng em chắc có thành?
Khuôn mặt đẹp trong niềm vui trầm lặng
Bỗng thoáng buồn, đôi mắt hướng xa xôi,
Em trách anh hứa xây dựng lứa đôi,
Sao ý tưởng manh nha mầm dang dở .
Rồi giữ mấy em cũng không thèm ở,
Em ra về để anh sống đơn côi!
***
Hỡi người yêu, thần tượng cuả tôi ơi,
Ai đã để cho tình tôi dang dở?
Ai ra đi cho hồn tôi bỏ ngỏ,
Mặc sầu đau theo gió lạnh đi về?
Biết bao lần lòng bảo cố quên đi
Nhưng nhung nhớ vẫn gieo hoài giông tố.
Rồi mỗi lần vô tình khơi chuyện cũ,
An uỉ lòng những giây phút sầu đau:
Nhớ người yêu trong nuối tiếc tình đầu
Là trở lại tâm tư tìm kỷ niệm,
Nâng niu ảnh người yêu xưa kiều diễm
Ấp ủ vào tâm khảm cuả thủy chung.
***
Niêm phong rồi từ em gái sang sông!
~Đào-Tiến-Luyện~
TÔi ĐƯA EM VỀ KHUÔN VIÊN ĐẠI HỌC
Tôi đưa em về
Khuôn viên Đại Học
Đường thoai thoải dốc,
Trăng trải đường đi.
Những đóa anh đào
Đầu Xuân rộn nở
Để mừng ta sao,
Ngày vui gặp gỡ?
Đồi thông rì rào
Thầm khen em đẹp,
Lòng tôi xôn xao
Hòa chung một nhịp:
-Em, một thiếu nữ
Vẻ đẹp kiêu sa.
Lời em là một bài ca
Ru hồn phiêu lãng lạc xa ngả về.
Trước ngôi giáo đường
Tháp in cao vút:
- Xin ban yêu thương,
Xin ban hạnh phúc.
Tình con tinh khiết
Như màn sương đêm,
Xin cho trọn kiếp
Được sống êm đềm.
Bóng em nhạt nhòa
Sau khu nội trú,
Lòng tôi xót xa:
- Ngày nào gặp nữa?
Đường về riêng tôi,
Sầu dâng vời vợi:
- Hỡi người em gái,
Bao giờ ta vui?
~Đào-Tiến-Luyện~
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
Kiểu: