Anh Nguyên
-
Số bài
:
1747
-
Điểm thưởng
:
0
- Từ: 21.10.2008
|
RE: Dòng thơ mới
-
07.03.2011 20:49:41
YẾN-LAN 1916-1988 Tức Lâm-Thanh-Lang, An-Nhơn, Bình- Định, nhà thơ nam, ngoài ra còn viết tạp bút, ký sự, BẾN MI-LĂNG* Bến My-Lăng nằm không, thuyền đợi khách, Rượu hết rồi, ông lái chẳng buông câu. Trăng thì đầy rơi vàng trên mặt sách, Ông lái buồn để gió lén mơn râu. Ông không muốn run người ra tiếng địch, Chở mãi hồn lên tắm bến trăng cao. Vì đìu hiu, đìu hiu, trời tĩnh mịch, Trời võ vàng, trời thiếu những vì sao. Trôi quanh thuyền những lá vàng quá lạnh Tơ vương trời, nhưng chỉ rải trăng trăng. Chiều ngun ngút dài trôi về nẻo quạnh, Để đêm buồn vây phủ bến My-Lăng. Nhưng đêm kia đến một chàng kỵ mã, Nhúng đầy trăng màu áo ngọc lưu ly Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi. Ông lão vẫn say trăng, đầu gối sách, Để thuyền hồn bơi khỏi bến My-Lăng. Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách Gọi đò thôi run rẩy cả ngành trăng. Bến My Lăng còn lạnh bến My-Lăng Ông lái buồn đợi khách suốt bao trăng. ~Yến-Lan~ NGÂN-GIANG 1916-2002 Tức Đỗ-Thị-Quế, sinh tại Thường-Tín, Hà- Đông, Hà Nội, làm thơ mới 13 tuổi, 16 tuổi in tập thơ, trưởng ban phụ nữ cứu quốc HN, Làm sở Văn Hóa Xã Hội TRƯNG NỮ VƯƠNG Thù hận, đôi lần chau khoé hạnh, Một trời loáng thoáng bóng sao rơi. Dồn sương, vó ngựa xa non thẳm, Gạt gió, chim bằng vượt dặm khơi. Ngang dọc non sông đường kiếm mã, Huy hoàng cung điện nếp cân đai. Bốn phương gió bãi lùa chân ngựa, Tám nẻo mưa ngàn táp đóa mai. Máu đỏ, cốt xong thù vạn cổ, Ngai vàng, đâu tính chuyện tương lai. Hồn người chín suối cười an ủi, Lệ nến năm canh rõ ngậm ngùi. Lạc tướng, quên đâu lời tuyết hận, Non hồng, quét sạch bụi trần ai. Cờ tang điểm tướng nghiêm hàng trận, Gót ngọc gieo hoa ngát mấy trời... Ải Bắc quân thù kinh vó ngựa, Giáp vàng, khăn trở lạnh đầu voi. Chàng ơi, điện ngọc bơ vơ quá, Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ loi... ~Ngân-Giang~ PHẠM-HUY-THÔNG 1916-1988 Quê Ân-trị, hưng-yên, sinh tại Hà-Nội, nhà thơ, nhà giáo, nhà khoa học Xã Hội, Tiến sĩ Luật, Thạc sĩ Sử Địa, Hiệu trưởng Đại học Sư phạm Hà Nội, Viện trưởng viện Khảo cổ học, Viện sĩ Hàn Lâm viện Khoa học Cộng hoà dân chủ Đức. TIẾNG ĐỊCH SÔNG Ô Sở Bá Vương ngồi yên trên mình ngựa Giương mắt buồn say ngắm chân trời xa Trong sương thu nhẹ đượm ánh dương tà Quân Lưu Bang đang tưng bừng hạ trại Khói tung bay trên vòm trời rộng rãi Như muôn sao trong đám tối mơ màng Khắp bốn phương giáo mác toả hào quang Liên tiếp nhau chen chúc xung quanh ven trời lớn Mấy làn trại lưới xa xôi, mịt mùng và chắc chắn Đóng trùng trùng, điệp điệp trên đầu non Cờ chư hầu đỏ rực như pha sơn Quằn quaị cong trên nền trời lá mạ Gió quát bên tai Vương, và rộn rã Tiếng quân reo, tiếng ngựa hí, tiếng loa vang Theo gió chiều vi vút vẳng đưa sang Nhưng, lặng lẽ, bâng khuâng, vua nước Sở, Như pho tượng đồng, ngồi trên mình ngựa, Để luồng mắt mênh mang Như vấn vương, như vơ vẩn trên Ô giang. Vì Vương rõ, phía sông Ô, binh Phàn Khoái, Mới hôm trước bị quân mình xô qua ải, Nên vòng vây chưa kịp khóa trước bình minh. Vương toan, khi đêm tối, chỉ huy binh, Chém quân Khoái vừa thua như cắt cỏ, Phá trùng vi tan tành về hướng đó. Vương sẽ dàn tướng sĩ bên kia sông, Họp chư hầu còn trung tín cho thật đông, Rồi máu Hán rửa lâng lâng hờn Cai Hạ. Vương sẽ như năm nào đem binh mã Lại tung hoành trên thế giới mênh mông, Vương sẽ lại (ôi vinh quang) trong bão lửa vẫy vùng, Vương sẽ lại tơi bời vung kiếm thép, Và, đưa tay, giành lại tấm giang sơn, Vương sẽ lại… Nhưng bóng đêm đã xóa cảnh hoàng hôn, Và phương xa, mơ hồ, trăng le lói, Một trận gió hung hăng đùng đùng nổi, Vặn mạnh cờ trên nóc trại ngất cao, Vương khoan thai, buộc lại dải chiến bào, Rồi xuống ngựa bước vào trong trướng gấm. II Trướng thênh thang, lạnh lùng và u ám, Sở Bá Vương đứng sững trước cửa phòng, Để nỗi buồn, một nỗi buồn u uất mênh mông, Ngao ngán nhẽ, nặng đè lòng người chiến sĩ… Và chống kiếm trước phòng sầu quạnh quẽ, Hạng Vương vừa nhác thấy bóng Ngu Cơ, Nên hỡi ôi! Tia hy vọng lờ mờ Vương cảm thấy trong lòng ngầm ngấm tắt. Vương trông… Vẫn như gặp nàng lần thứ nhất, Tim anh hùng như ngây ngất say sưa. Tựa thân mềm vào lưng ỷ, nàng Ngu Cơ Mắt mơ hồ nhìn qua khung cửa sổ, Để hồn buồn chơi vơi như bay trên cành gió. Chỗ nàng ngồi, Một luồng trăng biêng biếc riêng soi, Khiến Hạng Vương, trong lòng say, những tưởng Rời cung Quảng, ả Hằng vừa bay xuống… Thấy rèm châu êm ái bỗng cuốn lên, Nàng bâng khuâng sực tỉnh giấc mơ tiên, Ngoảnh đầu trông thấy quân vương bên trướng, Nàng đứng dậy. Rồi cúi chào phu tướng, Bước lại gần, chàng hé miệng, xót đau, Rồi ngập ngừng toan nói… Bỗng âu sầu, Vẳng bên tai như từng lời thổn thức, Như suối vắng âm thầm chiều thu khóc, Địch xa xôi dìu dặt trên Ô giang, Khúc bi ca não ruột và mơ màng, Như càng khêu những nỗi sầu tịch mịch, Như ôm ấp, như nấu nung lòng Hạng Tịch. Hồn đê mê, Sở chúa vuốt tua rèm, Say sưa nhìn cặp mắt long lanh đen, Cặp mắt nồng nàn, mà xa xăm, mà say đắm, Như chan hòa niềm ái ân đằm thắm, Cặp mày thanh, êm ái như mây cong, Như núi xuân lưu luyến hơi xuân phong, Dưới vầng trán bâng khuâng sẽ dịu dàng uốn nét. Tóc óng đen, như ao trong dưới bóng đêm mù mịt, Chập chờn bay theo áng gió heo may, Và êm buông như sóng cuốn trên lưng gầy. Trên Ô giang đương mơ hồ dìu dặt, Trong vùng tối âm u, dần dần tiếng địch tắt. Tiếng địch tắt. Nhưng dư âm Trong sương khuya còn văng vẳng điệu âm thầm. Nén thương đau, Vương ngậm ngùi sẽ kể Niềm ngao ngán vô biên như trời bể. Ôi! Tấm gan bền chặt như Thái Sơn Bao nhiêu thu cay đắng chẳng hề sờn! Ôi Những trận mạc khiến trời long đất lở! Những chiến thắng tưng bừng, những vinh quang rực rỡ! Ôi! Những võ công oanh liệt chốn sa trường! Những buổi tung hoành, lăn lộn trong rừng thương! Những tướng dũng bị đầu văng trước trận! Nhưng, than ôi! Vận trời khi đã tận, Sức “lay thành, nhổ núi” mà làm chi? Rồi buồn rầu, Vương tỏ cho nàng nghe Hy vọng cuối cùng trong tim Vương còn sót lại, Rồi Vương nói: “Nhưng đau lòng ta biết mấy! Ngay đêm nay, ta phải quyết… biệt ái khanh Thì, nàng ôi, việc lớn mới mong thành. Nhưng rời nàng, ôi… rời nàng, ta đâu nỡ…? Mà mang nàng xông pha trong mưa lửa Trùng vi kia ta thoát khỏi làm sao?” Giọt châu sa lã chã trên áo bào, Nàng Ngu Cơ bên mình chàng thổn thức. Địch Trương Lương như ngậm sầu quyện khóc, Lại não nùng dìu dặt trên Ô giang. Trên Ô giang, tiếng địch thiết tha than, Như tiếng nhạn kêu đêm nơi ven trời vò võ, Như tiếng nhạn canh khuya thầm nhủ gió Tự hư vô lại nức nở tiếng mơ màng, Nàng Ngu Cơ… Nàng Ngu Cơ, khẳng khái nắm tay chàng: “Quân vương ơi ơi! Còn đợi chờ chi nữa Mà đường xa chàng còn chưa ruổi ngựa? Trống canh hai trong bóng sẫm đổ hồi, Còn dùng dằng chi nữa, đi đi thôi! Kìa! Thờ ơ, trăng mờ đang chênh chếch… Còn ngồi đó mà nghe chi tiếng địch, Cho chí đầy dần cạn trong tim đau. Đừng nghe! Đừng nghe nữa! Hãy đi mau! Nghe làm chi tiếng tre đằng than ai oán, Khúc bi ca nặng nề và đòi đoạn, Đầy những lời thương tiếc điệu thê lương. Quân vương ôi! Mau sửa soạn lên đường, Lên đường xa nơi mơ màng sương phủ… Nào đâu trái tim xưa? Nào đâu tâm hồn cũ? Lãnh truân chuyên xin gắng giữ chí bình sinh, Khách anh hào chi xá kể nỗi điêu linh, Ngày gian lao với quãng đường khe khắt?” Địch Trương Lương trên Ô giang dìu dặt, Tưởng trời đêm, trăng biếc lạnh lùng than. Quỳ sát bên, nàng tha thiết tiếng khuyên van “Đi đi chàng, nơi xa xăm, tiếng địch Càng não lòng, càng âm u, càng tịch mịch… Đi đi chàng, còn thân Ngu đâu đáng bận trí quân vương? Lá lìa cây dù gió xé bên vệ đường, Dù nắng hun, dù mưa dầm làm tan nát, Xin quân vương chớ bận lòng vì phận bạc!” Nhưng lời lời tuy dũng cảm, oai linh, Trong lòng đau niềm thống khổ vẫn mênh mông, Cố… nàng cố nén u buồn… nhưng không được, Và sóng lệ ào tuôn, nàng bưng đầu thổn thức… Tiếng du hồn trong bóng tối vẫn lang thang, Vẫn âu sầu dìu dặt phía Ô giang. Địch âm thầm bên tai đưa văng vẳng, Đương bâng khuâng trong khoảng trời yên lặng, Bỗng véo von như chim hót, rồi bỗng ngừng, Rồi lại nổi… xa xôi, và u uất não nùng. Gan sắt đá như chơi vơi theo tiếng địch, Vương thấy tan đâu chí anh hùng vô địch, Cất tiếng buồn, chàng sẽ nói: “Ái khanh ơi! Đành… vận trời khi đã hết cũng đành thôi! Không, phi ơi… thà cùng phi cùng sống chết Còn hơn phải… phải trọn đời cách biệt!” Rồi đỡ cằm, chán nản, Sở Bá Vương Để cặp mắt im giương Đuổi bóng những ngày vinh trong âm tối. Nhưng nàng Ngu lại băn khoăn tha thiết gọi: “Thiếp đâu ngờ, quân vương hỡi, trí trượng phu Lại không hơn lòng nhi nữ chút nào ư? Nếu vì thiếp, chỉ than ôi, vì tiện thiếp Mà chàng quên chí cao cùng sự nghiệp, Thì thân hèn thà vơ vất dưới tuyền đài Để, đành lòng, chàng nghĩ đến cuộc tương lai. Đi đi, chàng, đi đi, phu tướng hỡi! Ngại ngần chi, và u sầu chi mãi…! Niềm ái ân xưa, chàng hãy gác một bên lòng Và, quyết tình lên ngựa, thẳng xa rong! Quân vương trông, trăng liềm càng phai ánh. Đi đi thôi!” Sở Bá Vương, lòng quyết định, Nhìn Ngu Cơ lần cuối và nghẹn ngào: “Ta đi đây… nàng ở lại… Dù sao, Có nhan sắc nhường kia nàng chớ sợ… Vì nay mai khi Hán binh vào trại Sở, Ta quyết Bang phải hậu đãi riêng nàng.” Rồi đi ra. Nhưng trầm trầm bổng bổng Ô giang Địch Trương Lương vẫn vô hình nức nở, Như non nước tô sương ngùi than thở Hòa nỗi lòng u uất cõi đen sâu. Vương dừng hia đứng lại trước rèm châu, Rồi, e ấp, ngoảnh nhìn người dưới trướng. Tiếng than dài vẫn đâu đây bay lưởng vưởng… Khi nặng nề, khi đắm đuối, khi ngân nga, Khi mơ hồ, khi êm ả, khi cao xa. Tiếng địch rung trong cảnh sầu không giới hạn. Hy vọng gần tàn trong tim Vương như tàn hẳn. Nhưng bỗng: - “Buổi gió cuồng xa tống lá vàng bay, Ta muốn nàng tường lòng son sắt chẳng đổi thay. Lúc gian nguy cách biệt nàng, ta đâu nỡ!… Đi! Ta cùng đi! Cùng xông pha trong sóng lửa! Ta quyết sẽ mang nàng vượt khỏỉ trùng vi, Rồi, cùng nhau ta cùng dấn bước lưu ly! Mà ví bằng Cao Xanh kia không tựa nữa, Đôi ta, cùng nhau, cùng chôn thây trong da ngựa: Bên mình phi, dù bỏ mạng cũng cam tâm.” - “Nếu chàng mong còn trở lại đất Hoài Âm. Nếu chí xưa, chí nghiêng trời lệch đất, Trong trái tim anh hùng chưa tan nát, Thì, chàng ơi! Đường mênh mông chàng vỗ ngựa ra đi thôi. Bằng vì quyến, vì thương thân hèn mọn, Mà đễn nỗi chàng đành buông chí lớn, Tiện thiếp đây xin khuất bóng trước mặt chàng, Cho chàng đi, đi ngang dọc bước ngang tàng, Cho phỉ sức cường long nơi hồ hải.” Dứt lời, nàng hăng hái, Tới bên chàng, cao tuốt lưỡi gươm xanh. Rồi tự ải. Vẫn âm thầm trong cõi tối mênh mông, Địch Trương Lương như ngậm ngùi kể lể, Nghẹn lời thương chiếc vong hồn quạnh quẽ, Liều theo mây bạt gởi kiếp lênh đênh! Như đã dày, đã dạn nỗi điêu linh Hạng Vũ như không còn biết đau đớn, Mặt gang thép, nỗi u buồn chẳng gợn, Chàng nghiêng mình lặng đứng trông người yêu. Nhưng… hồn bâng khuâng trong cảnh mộng tiêu điều, Chàng còn cố hình dung đôi mắt sáng, Đôi mắt sâu xa, và ảo huyền, và xán lạn, Mà ngàn thu đành tối mãi tự đêm nay. Nên, tuy nhường… không cảm động mảy may, Như thản nhiên, như lạnh lùng, như vô giác, Mà, ngập ngừng trong khóe mắt, Lần đầu tiên, lệ chiến sĩ long lanh. Lần đầu tiên, người chiến sĩ đa tình Để lệ bạc thầm lăn trên gò má. Trong khi tiếng địch thổi, âm thầm và buồn bã, Trên Ô giang như khóc lóc nỗi phân ly, Càng ngày càng réo rắt, càng lâm ly, Càng âm u, càng mơ màng, càng thảm thiết. III Bên mình Ngu Cơ đứng bao lâu, chàng không biết Nhưng, đến khi, bàng hoàng, chàng lặng lẽ ngẩng trông, Thì Hán binh đã đông nghịt bên bờ sông, Và trời cao, than ôi, vừa quyết trắng. Mà…! Mà tiếng địch âm thầm trong bóng đêm văng vẳng Trên Ô giang, đã bặt hẳn tự bao giờ. ~Phạm-Huy-Thông~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.12.2011 11:39:21 bởi Anh Nguyên >
|