Dòng thơ mới
Anh Nguyên 16.11.2010 01:05:26 (permalink)

DÒNG THƠ MỚI

  
             1901-1954



NGUYÊN THÁI HOC
            1901-1930

Quê Phổ-Tang, Vĩnh-Tuờng, Vĩnh-Yên,
Gia đình nông dân, học trường Tiểu học
Pháp Việt, đậu vào trường Cao đẳng Sư
phạm HN, được học bổng chính phủ bảo
hộ, bất mãn, bỏ học sau năm thứ ba, học
trường cao đẳng thương mại Đông-Dương,
thành lập VNQDĐ, được bầu làm chủ tịch,
khởi nghĩa tấn công một số cơ sở quân sự
Pháp, thất bại, ông và một số chiến sĩ bị bắt,
ngày 17-6-1930, 13 chiến sĩ quan trọng của
VNQDĐ lên máy chém ở Yên-Bái, ông mỉm
cười ngâm thơ tiếng Pháp, ông hy sinh lúc
mới 29 tuổi


"Mourir pour patrie,
C'est le sort le plus beau
Le plus digne...d'envie..."


         Nghĩa:

Chết vì tổ quốc,
Cái chết vinh quang,
Lòng ta sung sướng,
Trí ta nhẹ nhàng…

Sau đây là hai bức thư lịch sử:

Ngày ... tháng 3 năm 1930
Gởi ông Toàn quyền Đông Dương ở Hà Nội.

Ông Toàn quyền

Tôi, Nguyễn Thái Học kí tên dưới đây, chủ tịch đảng Cách mệnh Việt Nam Quốc dân đảng, hiện bị giam ở ngục Yên Bái, trân trọng nói ông rõ rằng:
Hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp, tôi thực có trách nhiệm về mọi việc chánh biến phát sinh ở trong nước, do Đảng tôi chỉ huy từ năm 1927 tới nay, vì tôi là chủ tịch của Đảng và là người sáng lập nữa. Vậy xin ông giết một mình tôi, chứ đừng giết các người đảng viên hay gọi là đảng viên hiện bị giam ở các ngục, bởi vì người ta vô tội! Người ta vô tội vì trong số đó một phần là các đảng viên, nhưng họ vào đảng là vì tôi khuyến khích họ, cho họ biết thế nào là nghĩa vụ một người dân đối với quốc gia, thế nào là những nỗi khổ nhục của một tên dân mất nước: còn ngoài ra là những người bị vu cáo bởi bọn thù hằn, bởi lũ mật thám, bởi những bạn bè bán mình cho chính phủ Đông Dương! Tôi nhắc lại một lần nữa để ông biết cho rằng chỉ cần giết một mình tôi, vì tôi mới chính là thủ phạm. Mà nếu còn chưa đủ hả, thì xin tru di cả nhà tôi, tôi đem nước mắt mà xin ông tha cho những người khác! Sau nữa tôi mong ông nghĩ đến danh dự nước Pháp, đến công lí, đến nhân đạo mà thôi, đừng ra lệnh ném bom hay đốt phá những làng vô tôi như ông vừa mới làm! Đó là một lệnh giết người. Những đồng bào của tôi sẽ vì thế mà chết đói, chết rét mấy vạn mà kể!
Sau cùng kết luận bức thư, tôi nói cho ông biết rằng nếu người Pháp muốn ở yên ở Đông Dương mà không phải khốn đốn vì phong trào cách mệnh thì:
1) Phải thay đổi cái chương trình chính trị hung tàn và vô đạo hiện hành ở Đông Dương.
2) Phải cư xử cho ra vẻ là người bạn dân Việt Nam, chứ đừng có lên bộ ông chủ bạo ngược và áp chế.
3) Phải để lòng giúp đỡ những nỗi đau khổ về tinh thần, về vật chất của người Việt Nam, bằng cách trả lại các nhân quyền như tự do ngôn luận; đừng có dong túng bọn tham quan, ô lại, và những phong tục hủ bại ở các hương thôn; mở mang nền công thương bản xứ, cho nhân dân được học tạp những môn cần thiết.
Ông Toàn quyền, hãy nhận lấy tấm lòng tôn kính và cảm kích, với sự nhiệt liệt tạ ơn.

Kẻ thù của ông:
Nguyễn Thái Học


NGYỄN TRỌNG THUẬT

QUẢ DƯA HẤU

Gặp em ngoài cõi bể đông,

Yêu em về một tấm lòng thắm tươi.

Răng đen nhoẻn miệng em cười,

Dầu trời nóng nực cũng nguôi cơn nồng.

Yêu em anh bế anh bồng,

Nước non ghi nghĩa tương phùng từ đây.
~Nguyễn Trọng Thuật~
             1926



BÙI HỮU DIÊN
      1903-1935
Quê Chỉ-Bồ, Thụy-An, Thái-Thụy, Thái-Bình,
nhập đảng CS/ĐD năm 1930, năm 1931 bị kết

án tù chung thân, đày biệt xứ đi Guyane thuộc
Pháp và mất tại đó.
 
BIỆT XỨ TỪ NGÂM
 
Ma-rô-ni trường giang hiu quạnh,
Pho-rết-chi-ê phong cảnh lao tù.
Nhạn về lác đác chiều thu,
Khói nghi ngút tỏa sương mù mịt bay.
Vầng trời đất cỏ cây ảm đạm,
Mây trắng phơ mấy đám bay qua.
. . . . . . . . . . . . . . . . . .
Từng không lấp ló gương nga dập dờn
Người đối cảnh đòi cơn sầu thảm,
Cảnh theo người như cảm bi thương
Non sông trong óc mơ màng,
Cố hương mình những ngổn ngang tơ lòng.
Đây dù phải non Bồng nước Nhược,
Cũng thương ôi non nước quê người.
Non Nùng mây bạc xa khơi,
Trời Nam muôn dặm tuyệt vời mắt trông.
Đâu hồ Bạc sông Hồng, Hà Nội!
Đâu Hương giang với núi Ngự Bình?
Nào đâu lục tỉnh Tây thành!
Quê hương xứ sở nào mình ở đây?
Thương đồng chí mấy tay liệt sĩ,
Nhớ non sông yêu quí đồng bào.
. . . . . . . . . . . . . . . . . .
Xin chớ mỏi mòn dạ sắt son,
Kìa trăng vằng vặc nước cùng non.
Guy-an đất lạ, chim quên lối,
Nam Việt trời xa quốc gọi hồn.
Thấy nước khôn khuây dòng Nhị thủy,
Nhìn cây càng nhớ cảnh Nùng Sơn.
Thân ở trong tù, lòng chẳng ở,
Đôi chân còn bước mặc đường trơn.
Thấy chăng trong giấc chiêm bao,
Tỉnh ra nào thấy đâu nào hỡi ôi!
~Bùi-Hữu-Diên!
         1934

NS. VÂN ĐÀI
   1903-1964

Tức Đào-Thị-Minh, sinh quán Hà-Nội,
làm thơ.


TIẾNG ĐÊM

Vườn trăng tha thướt cành in bóng;
Từng giọt tầu tiêu điểm tiếng sương,
Cỏ nép chân cây, cành rũ lá
Vài tia gió nhẹ rỡn hoa tường.

Song thưa từng mảnh sáng trăng qua,
Thức giấc tôi thầm lén bước ra,
Rón rén lướt đi như gió thoảng
Sợ làm kinh động giấc mơ hoa.

Bên gốc tôi nghe có những lời
Rù rì trong đám lá khô rơi,
Tưởng hồn thu thảo trong khuya vắng
Rủ rỉ cùng hoa nói chuyện đời

Lại thoảng tình hương ở các bông
Bay ra lan đượm khắp không trung;
Trong cơn ngây ngất say sưa ấy
Chợt động cành cây tiếng lá rung.

Tiếng gió lùa qua thức mộng chim
Phá tan hương khói giấc êm đềm
Lại thêm tiếng khánh chùa xa thẳm
Quen đến buồng tôi lúc nửa đêm.
~Vân- Đài~
    1942

<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.11.2010 08:50:50 bởi Anh Nguyên >
#1
    Chuyển nhanh đến:

    Thống kê hiện tại

    Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
    Kiểu:
    2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9