Dong thơ cũ

Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 30 trên tổng số 44 bài trong đề mục
Tác giả Bài
Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
Dong thơ cũ - 16.11.2010 01:06:50
DÒNG THƠ CŨ
                 
       1801-1900



NGÔ THẾ VINH
       1803-1856

Quê Bái-Dương, Nam-Trực, Nam-Định, hiệu
Trúc-Đường, đậu Tiến Sĩ, làm quan đến Lang
Trung bộ Lễ, sau về nhà dạy học, đào tạo được
nhiều nhân tài. Tác phẩm của ông là một phần
quan trọng của di sả văn hóa dân tộc.


GIÓ MÁT TRĂNG THANH

Giang tâm thu nguyệt
Năo nùng thay khi gió mát, lúc trăng thanh
Bóng thiềm soi đáy nước long lanh
Quang cảnh ấy cũng thanh mà cũng lịch
Vạn lại tịch nhiên thu dạ vĩnh
Nhất hồn oánh nhĩ, nguyệt minh cô
Đàn năm cung, thơ một túi, cờ một cuộc rượu một bầu
Tiếng ca quản một vài câu khiển hứng
Chào mấy mái thuyền lan lững thững
Bạn mấy người tài tử ngao du
Non mấy tầng đá mọc lô nhô
Cầu mấy nhịp bắc ngang sông Vị Thuỷ
Hội Xích Bích nọ năm Tuất nhỉ
Thú phong lưu há để một Tô Công?
Trăng trong gió mát kho chung
~Ngô-Thế-Vinh~


BẾN TẦM DƯƠNG

Tầm Dương giang đầu dạ tống khách
Duyên nước bèo gặp gỡ những chơi vơi
Giữa dòng sông nước chảy trăng soi
Dắt díu cả sắc tài vào một cuộc
Giai nhân tâm sự quy cầm trục
Tài tử phong lưu nhập tửu bôi
Nghe tiếng đàn bà rát ruột đòi thôi
Nghĩ mình luống thương vay cho kẻ khác
Hồng nhan tự cổ đa luân lạc
Thái bút như kim bán lục trầm
Người trăm năm ngoảnh lại cơi trăm năm
Tài với sắc, tính ra là ngộ cả
Quá ngán nhẽ người nằm thiên tải hạ
Cùng với lên chung một gánh sầu
Lệ tình há một giang châu.
~Ngô-Thế-Vinh~



BUI HUU NGHIA
     1807-1872

Sinh tại Rạch Bà Đồ, Long Tuyền, Vĩnh Định,
Vĩnh Thanh (Long Tuyền, Bình Thủy, Cần Thơ),
nổi tiếng thơ hay miền lục tỉnh, đỗ Giải Nguyên
1835, Tri Huyện Phước Long, Biên Hòa, sau
chuyển về Trà Vang, bị quan trên sàm tấu, nhờ
vợ ra tân triều đình khiếu kiện mới thoát chết.


QUA HÀ ÂM CẢM TÁC

Mịt mịt mây đen kéo tối sầm
Đau lòng thuở nọ chốn Hà Âm
Đống xương vô định sương phau trắng
Vũng máu phi thường cỏ nhuộm thâm
Gió trốt dật dờ nơi chiến lũy,
Đèn trời leo lét dặm u lâm
Nghĩ thương con tạo sao dời đổi
Dắng dỏi (vang động) đêm trường tiếng dế ngâm.
~Bùi-Hữu-Nghĩa~


BÀI VĂN TẾ VỢ 

Hỡi ôi!
Gió Nữ phất phơ;
Mưa Ngâu lác đác.

Duyên bình thuỷ sum vầy đà tan rã, ngạt ngào bọt nước sóng xao;
Đuốc loan phòng tỏ rạng phút khêu lờ, sảng sốt ngọn đèn gió tạt.

Nhớ linh xưa:
Tánh đúc son vàng;
Tình không đen bạc.

Chen với nguyệt tròn hơn nguyệt, phòng khuê đà rực rỡ gương trong;
Ở trên trần mà chẳng nhuốm trần, vườn dâu khỏi lắm nhơ bụi cát.

Trong vấy màu bùn chẳng đục, những dự sang giàu, của trăm xe đưa rước vào màng;
Nghèo manh khố chuối mà thanh, phải duyên đằm thắm, cầu mấy nhịp xa xôi gánh vác.

Ở với mẹ đã trọn niềm hiếu hạnh, chìu lòng theo lân lý với anh em;
Lúc theo chồng vui biết chữ xướng tuỳ, đẹp đẽ với xóm giềng chú bác.

Ưa mùi đạo khuyên chồng nấu sử, nam tử may nợ nước đền bồi;
Thảo nhờ thân vẹn phận chưng lê, nữ công trọn giềng nhà gánh vác.

Trường khoa mục qua nong chí cả, ít nhiều đà rỡ mặt với non sông;
Nhà hàn vi hậu dốc tay nâng, may mắn đặng cất đầu cùng bạn tác.

Chồng vợ thảm đều không cha mẹ, em luống than phận lẻ loi;
Câu cô hoà một cửa anh em, tình vui thuận lời không chích mác.

Công danh lỡ vì mang bệnh quỉ, em chẳng phải vợ Mãi Thần ngày trước, thời chưa nên làm thói dể duôi;
Khó hèn cam nào dám trách trời, bậu chẳng như vợ Tô Tần ngày nọ, vận chưa đạt mà đem lòng khi bạc.

Phận khó khăn yếu đuối, vóc liễu bồ dầu dãi nắng mưa;
Con nhỏ dại thơ ngây, tay chủ quỉ không rời thước tấc.

Ở theo thời, làm theo thế, qua khỏi tuần sấm đất tan bia;
Bay kịp chúng, nhảy kịp thời mới đặng hưởng gió thần đưa các.

Nghiệp tiên thế anh lo gây dựng, mừng thầm đà mở mặt với hương lân;
Đạo thánh hiền bậu dốc khuyến dương, gắn bó đã nên gương cùng hậu giác.

Ăn cần ở kiệm, giàu không khoe, khó cũng không đua;
Mua nghĩa chác nhơn, trước chẳng phai sau chẳng lạt.

Chữ thê tùng phu quý em nan than chẳng nhờ của cũng nhờ công;
Câu phụ tác tử thừa bậu nong nả chưa nên vai đà nên vác.

Ốc đà hết lúc gian truân;
Hay chưa tới chừng hanh đạt.

Bỗng đâu khiến gió day mưa tạt, non hoa hạc lánh trầm trầm;
Nào hay nỗi vật đổi sao dời, cửa sổ ngựa qua thoát thoát.

Ôi!
Sông Lệ vàng chìm;
Non Côn ngọc nát.

Cảnh giai lão trách lòng trời đất, khó có nhau giàu cũng có nhau;
Quỉ vô thường làm cuộc bể dâu, vật tráo chác người sao tráo chác.

Con cháu tuổi thơ ngây một bóng, em bào đành nhắm mắt tầm tiên;
Chồng trăm bề lo lắng một mình, bậu bao nỡ sấp lưng cưỡi hạc.

Ai mượn lão Diêm phù rước khách, mẹ lìa con vì gã ức oan;
Ai mượn ngươi Quỷ bá đưa người, chồng xa vợ ở ngươi nên bạc ác.

Chữ "đại đức tất đắc kỳ thọ" đọc tới phát buồn;
Câu "tích phước tất hữu dư khương" nghe càng thêm lạt.

Qua bể bậu chẳng bằng tiền đũa, phận phân gương chẳng kịp nửa giờ;
Trời giết người chi sá gươm đao, chứng nghèo ngặt không đầy một lát.

Đêm khuya hãy nâng niu một trẻ, nghĩ từ cơn, ruột tợ kim châm;
Ngày ra nào vắng vẻ không em, nhớ từ chặn, gan dường muối xát.

Cuộc long hổ lấp rồi ba tấc đất, ôi thôi rồi má phấn hồng nhan;
Bạn phụng loan phân rẽ một phương trời, lo đáo để duyên đơn phận bạc.

Đã biết kiếp thác là kiếp mất, tấm lòng thành đủ bảy tuần chay;
Cho hay người mất mà nghĩa còn, thô lễ tế vài mâm mặn lạt.

Hỡi ôi, tiếc thay!
Hỡi ôi, tiếc thay!
~Bù-Hữu-Nghĩa~

<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.01.2011 08:04:20 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dong thơ cũ - 01.12.2010 09:54:03


HUỲNH-MẪN-ĐẠT

       
1807-1883

Sinh Tân Hội, Tân Long, Gia Định, đậu
cử nhân 1831, Án sát Định Tường, Tuần
Phủ Hà Tiên, Châu Đốc. Thanh liêm, vì
Dân vì nước. Giỏi thơ nôm.


BÀI THƠ NÔM TIẾP Ô. TƯỜNG
Ở NGOÀI ĐƯỜNG

Cừu mã năm ba dạo cặp kè
Duyên sao giải cấu khéo đè ne.
Đã cam bít mặt cùng trời đất,
Đâu dám nghiêng mày với ngựa xe.
Hớn hở trẻ dong đường dặm liễu.
Lơ thơ già núp cội cây hoè.
Sự đời thấy vậy thời hay vậy.
Thà ẩn non cao chẳng biết nghe.

Ông Tường đáp rằng:

Tình cờ xảy gặp bạn tiền liêu
Thơ phú ngâm nga hứng gió chiều.
Thế cuộc đổi đời càng lắm lắm.
Thiên cơ mầu nhiệm hãy nhiều nhiều
Nước non dường ấy, tình chứng ấy,
Xe ngựa bao nhiêu, bụi bấy nhiêu.
Hăm hở nhạc Tây hơi trổi mạnh
Nghe qua ngùi nhớ giọng tiêu thiều.
~Huỳnh-Mẫn-Đạt~

Vài bài khác của ông:


CHÓ GIÀ

Tuy rằng muông cẩu có ân ba,
Răng rụng lâu năm nó phải già.
Bởi đuổi hươu Tần nên mỏi gối,
Vì lo khỉ Sở mới dun da.
Không ai trấn Bắc ngăn bầy cáo,
Ít kẻ ngừa Tây giữ đứa tà.
Mạnh mẽ như xưa còn hớn hở,
Bây giờ yếu đuối hết xông pha.
~Huỳnh-Mẫn-Đạt~

(Hươu Tần : đời Tần Nhị Thế, chính sự mục nát,
giặc nổi lên tứ tung.Có người bảo: “ Nhà Tần để
sổng con hươu, ai đuổi bắt được thì người ấy được
thiên hạ.Khỉ Sở: Lưu Bang chế giễu Hạng Võ là
con khỉ đội mão)

 
CÂY DỪA

Ba xuân đào lý phải duyên ưa,
Cây trái liền năm chẳng kịp dừa
Đuôi phượng vẻ vang che nắng gió,
Mình rồng chan chứa gọi mây mưa
Dãi dầu giúp kẻ khi xơi tối,
Giúp nước vui người buổi khát trưa.
Rường cột miếu đường không xứng mặt,
Chống ngăn bờ cõi cũng bưa bưa.
~Huỳnh-Mẫn-Đạt~

(Bưa bưa: tiếng địa phương, có nghĩa: vừa vừa, không phải giỏi)


ĐIẾU NGUYỄN TRUNG TRỰC

Thắng phụ nhung trường bất túc luân
Ðồi ba chỉ trụ ức ngư dân
Hoả hồng Nhật Tảo oanh thiên địa
Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỷ thần
Nhất đán phi thường tiêu tiết nghĩa
Lưỡng toàn vô uý báo quân thân
Anh hùng cường cảnh phương danh thọ
Tu sát đê đầu vị tử nhân

Bài dịch:

Thắng bại chi bàn việc tướng quân
Người chài trụ đá khúc gian truân
Lửa bừng Nhật Tảo rêm trời đất
Kiếm tuốt Kiên Giang rợn quỷ thần
Một sớm nhẹ mình nêu tiết nghĩa
Ðôi đường trọn chữ báo quân thân
Anh hùng cứng cổ danh thơm mãi
Lũ sống khom lưng chết thẹn dần.
~Huỳnh-Mẫn-Đạt~


Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dong thơ cũ - 07.12.2010 08:12:32


CAO-BÁ-QUÁT

    
1809-1854
Sinh Phú Thị, Gia Lâm, Bắc Ninh
(Hà-Nội). Làm Quốc sư cho Lê-Duy-Cự,
ông này nổi lên chống triều Nguyễn, nên ông
bị xử chém và vua Tự-Đức cho chu di tam tộc dòng họ Cao.



THÔN CƯ VÃN CẢNH

Li ngoại nhân yên, trúc ngoại âm,
Thung ca thanh yết, trạo ca thâm.
Truy du khách chí phân thư khán,
Tức sự thi thành bão tất ngâm.
Hương thủy mộ trào sinh thiển lại,
Trản sơn hồi chiếu đạm không lâm.
Huân phong đa dữ nhàn phương tiện,
Xuy khởi cô liêm nhất bán tâm.
~Cao-Bá-Quát~

Dịch:

Cảnh chiều thôn quê

Ngoài rào khói lạt trúc thưa,
Nhịp chày vừa dứt, điệu hò vang lên.
Khách chơi chia sách cùng xem,
Thơ xong bó gối ngồi ngâm thẫn thờ.
Sông Hương triều xuống bãi trơ,
Khu rừng Hòn Chén đã mờ bóng hôm.
Chiều nay có trận gió nồm,
Rèm thưa nửa cuốn, tâm hồn thảnh thơi..
~Hóa-Dân~


ĐỘC DẠ

Thành thị huyên ti địa,
Kiền khôn lão bệnh phu.
Tê cung thành nhũng thặng,
Bích tích thả nê đồ.
Hàn lạo nãi liên phát,
Tai lê huống vị tô.
Thái bình vô nhất lược,
Lộc lộc sỷ vi nho.
~Cao-Bá-Quát~

Dịch:

Đêm ngồi một mình

Thị thành nơi ở thấp, ồn,
Một anh già ốm trong khuôn đất trời.
Mang thân thừa thãi ở đời,
Nín hơi lánh gót lẩn nơi bùn lầy.
Liên miên lụt rét gần đây,
Dân đen tai nạn bấy nay không lành.
Thái bình một chước chưa thành,
Tầm thường nghĩ thẹn cho mình nhà nho.
~Vũ-Mộng-Hùng~


ĐỐI VŨ

Bạn vũ khuynh thiên lậu,
Phi đào táp địa lai.
Thế liên giang sắc tráng.
Thanh nhập dạ phong ai.
Xích nhập hành hạ đạo?
Thương sinh tháng kỷ hồi?
Khánh tình ngâm vọng viễn,
Thu khí chính tương thôi.
~Cao-Bá-Quát~

Dịch:

Nhìn mưa

Nghiêng trời mưa giội gấp,
Chuyển đất sóng bay tung.
Nước cả sông man mác,
Đêm khuya gió não nùng!
Vầng hồng đâu khuất mãi,
Dân chúng bao chờ mong!
Tình khách thơ trông ngóng,
Hơi thu rộn rã lòng!
~Hóa-Dân~


TỰ QUÂN CHI XUẤT HỸ

Tự quân chi xuất hỹ,
Dạ dạ thủ không sàng.
Hải nguyệt chiếu cô mộng,
Giang phong sinh mộ lương.
Tiểu kính ký viễn khiếp,
Hàn y lưu cố phường.
Trì thử các tự úy,
Bất khiển lưỡng tương vương!
~Cao-Bá-Quát~

Dịch:

Từ ngày anh ra đi

Từ ngày anh ra đi,
Đêm đêm giường quạnh hiu.
Trăng khơi soi mộng lẻ,
Gió bến lạnh hơi chiều.
Áo rét em cất giữ,
Gương nhỏ anh mang theo.
Tạm để cùng yên ủi,
Không lạt tình thương yêu.
~Hóa-Dân~


ĐĂNG HOÀNH SƠN

Sơn ngại thanh sơn vạn lý trình,
Sơn biên dã thảo tống nhân hành.
Anh hùng mạc vãn thiên niên quốc,
Chinh chiến không tồn nhất lũy danh.
Bắc lĩnh đoạn vân thu túc vũ,
Nam trang sơ hiểu đái tân tình,
Há sơn phản giác đăng sơn khổ,
Tự thán du du ủy tục tình!
~Cao-Bá-Quát~

Dịch:

Lên núi Hoành-Sơn

Muôn dặm đường đi núi lẫn đồi,
Bên non cỏ nội tiễn đưa người.
Ai tài kéo nước nghìn năm lại?
Trăm trận còn tên một lũy thôi.
Ải bắc mây tan mưa dứt hạt,
Thôn nam nắng hửng sớm quang trời.
Xuống đèèo mới biết lên đèo khổ,
Trần lụy, sao đành để cuốn lôi?
~Nguyễn-Quý-Liêm~


ĐỘC DẠ HOÀI CẢM

Tân trướng sinh tàn dạ,
Sơ hàn tống miểu thu.
Tuế thời song bệnh nhãn,
Thiên địa nhất thi tù.
Ỷ chẩm khan trường kiếm,
Hô đăng kiểm tệ cừu.
Cưỡng liên tâm lực tại,
Cơ ngọa bất câm sầu.
~Cao-Bá-Quát~

Dịch:

Đêm một mình cảm nghĩ

Con nước mới, giục đêm tàn,
Rét đầu mùa, tiễn muộn màng cảnh thu.
Tháng ngày đôi mắt mịt mù,
Giữa đất trời, một anh tù làm thơ.
Trông gươm tựa gối bơ phờ,
Gọi đèn xem lại xác cơ áo cừu.
Xót mình tâm lực cạn đâu,
Mà thân giam hãm mối sầu khôn nguôi!
~Hoàng-Trung-Thông~


TÀI TỬ... GIAI NHÂN

Tài tử với giai nhân sẵn nợ,
Giải cấu nan là chữ làm sao.
Trải xưa nay chừng đã biết bao,
Kia tan hợp, nọ khửu lưu, đâu dám chắc.
Giai nhân khứ khứ hành hành sắc,
Tài tử triêu triêu mộ mộ tình (1)
Uẩy kia ai, như mây tuôn như nước chảy,
Như gió mát như trăng thanh.
Lơ lửng khéo trêu người chi mãi mãi.
Trời đất có san đi mà sẻ lại,
Hội tương phùng còn lắm lúc về sau.
Yêu nhau xin nhớ lời nhau.
Thương những kẻ giai nhân tài tử,
Chót đa mang vì một chữ tình.
Nghĩ nguồn cơn thẹn với trời xanh,
Tưởng nông nổi giận cùng trăng bạc.
Tương tiếu nhất thanh song lệ lạc,
Khả liên bán điềm thấp châu huyển (2)
Trách vì phận, giận vì duyên
Duyên phận những vì tình nên nông nỗi.
Dẫu dạ sắt gan vàng cũng rối,
Vẫn ruột tằm lắm mối càng đau.
Tương tư ai để cho nhau.
~Cao-Bá-Quát~

(1) Vẻ đẹp giai nhân đi đi lại lại. Tình
riêng tài tử sớm sớm chiều chiều (2)
Cùng cười một tiếng hai hàng lệ rơi.
Đáng thương nửa giọt ướt dây tơ đỏ.


UỐNG RƯỢU TIÊU SẦU

Ba vạn sáu nghìn ngày là mấy
Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười
Thôi công đâu chuốc lấy sư đời
Tiêu khiển một vài chung lếu láo
Đoạn tống nhất sinh duy hữu tửu (1)
Trầm tư bách kế bất như nhàn (2)
Dưới thiều quang thấp thoáng bóng nam quan
Ngoảnh mặt lại cửu hoàn coi cũng nhỏ
Khoảng trời đất cổ kim, kim cổ
Mảnh hình hài không có, có không
Lọ là thiên tứ, vạn chung
~Cao-Bá-Quát~

(1) Dứt bỏ một đời, chỉ có rượu
(2) Suy tư trăm lối, không bằng nhàn


ĐẾN LÀNG ĐÔNG DU, ĐÊM NGỦ ĐỖ

Đầu sông đứng ngóng quê hương
Quê hương đâu phải dặm trường xa xôi,
Cớ sao mãi chẳng tới nơi,
Vừa đi vừa đứng bồi hồi làm sao?
Thiếu người cáng võng, phải đâu
Cũng không chờ đợi bạn bầu những ai.
Từ khi vướng lấy lụy đời
Nửa bầu máu nóng nhường vơi vơi dần.

Đường đời biển ảo phong vân
Việc đời ấm lạnh bao giờ đổi thay
Mũ treo còn chửa hẹn ngày,
Cỗng sài nào biết sau này nơi nao!

Nghiệp xưa vườn ruộng dăm sào
Rêu hoang cỏ dại ai nào ngó coi!
Họ hàng người cũng thưa rồi
Bữa cơm dưa muối thết mời vẫn chưa.

Biệt ly biết đến bao giờ!
Thà im im bắt, nói ra ngại lời
Trời tây bóng đã xế rồi
Vẫn còn nấn ná quê người một thân.
~Cao-Bá-Quát~


NHỚ NGƯỜI

Giai nhân nan tái đắc (1)
Trót yêu hoa nên dan díu với tình
Mái Tây hiên (2) nguyệt gác chênh chênh
Rầu rĩ bấy xuân về, oanh nhớ

Phong lưu công tử đa xuân tứ
Trường đoạn tiêu nương nhất chỉ thư (3)

Nước sông Tương (4) một dải nông sờ
Cho kẻ đấy, người đây mong mỏi !
Bứt rứt nhẽ trăm đường nghìn nỗi !
Chữ chung tình biết nói cùng ai ?
Trót vì gắn bó một hai ....!
~Cao-Bá-Quát~

(1)Khó gặp người đẹp
(2)Trong truyện Tây Sương Ký, chàng Trương
Quân Thụy gặp nàng Thôi Oanh Oanh ở mái
hiên phía Tây
(3)Người tài tử phong lưu có nhiều ý nghiã về
xuân về tình, Đau khổ vì một lá thư của nàng.
(4)Tên một con sông bên Tàu


ĐỜI NGƯỜI THẤM THOÁT

Nhân sinh thiên địa gian nhất nghịch lữ (1)
Có bao lăm ba vạn sáu nghìn ngày
Như thoi đưa, như bóng sổ, như gang tay
Sực nhớ chữ 'Cổ nhân bỉnh chúc' (2)
Cao sơn, lưu thủy, thi thiên trục (3)
Minh nguyệt, thanh phong tửu nhất thuyền (4)
Dang tay người tài tử khách thuyền quyên
Chén rượu thánh, câu thơ tiên thích chí
Thành thị ấy, mà giang sơn ấy
Ðâu chẳng là tuyết, nguyệt, phong, hoa
Bốn mùa xuân lại, thu qua
~Cao-Bá-Quát~

(1) Người sinh trong đất trời như đến nhà trọ (ngắn ngủi)
(2) Người xưa cầm đuốc đi chơi đêm ... thơ Lý Bạch
(3) Có núi cao, nước chảy nên thơ ra ngàn bài
(4) Nhờ trăng thanh, gió mát mà uống một thuyền đầy


THÚ NHÀN
 
Thế sự thăng trầm quân mạc vấn (1)
Yên ba thâm xứ hữu ngư châu (2)
Vắt tay nằm nghĩ chuyện đâu đâu
Ðem mộng sự đọ với chân thân thì cũng hệt
Duy giang thượng chi thanh phong,
dữ sơn gian chi minh nguyệt (3)
Kho trời chung, mà vô tận của mình riêng
Cuộc vuông tròn phó mặc khuôn thiêng
Kẻ thành thị kẻ vui miền lâm tẩu
Gõ nhịp lấy, đọc câu 'Tương Tiến Tửu' (4)
"Quân bất kiến Hoàng Hà chi thủy
thiên thượng lai, bôn lưu đáo hải bất phục hồi" (5)
Làm chi cho mệt một đời.

                  Cao-Bá-Quát

(1) Cuộc đời lên xuống, bạn đừng hỏi
(2) Chốn sâu khói sóng, buông thuyền câu
(3) Chỉ ở trên sông có gió mát, chỉ trong khoảng
núi có trăng sáng, Trích trong bài tiền Xích Bích
của Tô Ðông Pha một danh sỹ đời Tống
(4) Ðầu đề của một bài ca của Lý Bạch
(5) Bạn chưa thấy nước sông Hoàng Hà,
từ trời xuống chảy tuôn xuống biển không hề
quay lui. Ý nói đời sống, thời gian một đi không trở lại

 
 
THANH TRÌ PHÀM CHU NAM HẠ ?
 
清池汎舟南下

清潭催別袂
珥水濺行襟
沙闊黄雲暮
天低白日沈
客舟寒汎汎
江色晚陰陰
不見波濤壯
安知萬里心


Phiên âm:

Thanh Trì phiếm chu nam hạ

Thanh Đàm thôi biệt duệ
Nhị Thủy tiễn hành khâm
Sa khoát hoàng vân mộ
Thiên đê bạch nhật trầm
Khách chu hàn phiếm phiếm
Giang sắc vãn âm âm
Bất kiến ba đào tráng
An tri vạn lý tâm.
~Cao-Bá-Quát~

Dịch nghĩa:

Từ Thanh Trì đưa thuyền xuôi nam

Vừa giục giã chia tay ở Thanh Ðàm
Mà giờ đây nước sông Nhị đã vấy áo người đi
Cát rộng mây vàng chiều tà
Trời thấp, mặt trời xuống
Thuyền khách lạnh trôi chậm chậm
Màu sông chiều âm u
Không thấy sóng lớn mạnh
Sao biết chí lớn muôn dặm

Dịch thơ:

Thanh Trì, thuyền xuôi nam

Thanh Ðàm vội chia tay,
Sông Nhị áo ướt đầy.
Mây vàng chiều cát lộng,
Vòm thấp mặt trời xoay.
Sông chiều màu u ám,
Khách lạnh thuyền day day.
Không thấy sóng lớn mạnh,
Sao biết chí cao dày.
~Đặng-Thế-Kiệt~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 16.12.2010 01:06:34 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dong thơ cũ - 16.12.2010 01:33:05


ĐINH-NHẬT-THÂN

       
1815-1866
Quê Thanh-Liêu, Thanh-Chương, Nghệ-An, đậu Tiến Sĩ, làm
Tri Phủ, tính cương trực, chẳng bao lâu bị cách chức, được
phục chức lại cáo bệnh, cổ động dân chúng khai quang lập ấp,
mở trường học, làm thuốc ở quê nhà, giao du với Cao-Bá-Quát,
bị kết tội tử hình, được ân xá, bị lưu giữ ở Huế để dạy học trong
Hoàng tộc, mất mới 51 tuổi.


(Trích Đoạn mở đầu khúc Thu dạ lữ hoài:)

Thu dạ tĩnh thiên quang ẩn ước,
Cách sơ liêm đạm chước kim bôi,
Thiên thời nhân sự tương thôi,
Phù sinh nhược mộng kỉ hồi vi loan?
Nhân đối cảnh hoa gian nguyệt chiếu,
Cảnh liêu nhân thọ điếu phong xuy,
Giá ban liệu thiểu nhân tri.
Nhàn lai phong nguyệt dữ thùy vi thu?
~Đinh-Nhật-Thân~

Bản dịch:

Đêm thu lặng bóng trời thấp thoáng,
Cách rèm thưa chuốc chén kim bôi,
Gẫm xem thời sự ngậm ngùi,
Cõi phù mấy thuở làm vui với đời?
Người đối cảnh trăng soi hoa nở,
Cảnh trêu người ngọn gió rung cây
Nỗi niềm tâm sự kể hay,
Cùng ai trăng gió đêm ngày thưởng thu...
(Tương truyền tác giả tự dịch ra quốc âm)


LÊ-NGÔ-CÁT &
 
1827-1875
Quê Hương-Lang, Chương-Đức, Hà-Tây, đậu
Cử Nhân,Giáo Thọ phủ Kinh-Môn (Hải-Dương),
Tri Huyện Thất-Khê (Lạng-Sơn), Án Sát Cao-Bằng,
hiệu đính Đại-Nam Quốc-Sữ diễn ca.

PHẠM-ĐÌNH-TOÁI
      
1817-1901
Hiệu đính Đại-Nam Quốc-Sử diễn ca.

ĐẠI NAM QUỐC SỬ DIỄN CA

I. Thời-kỳ mở nước (Thế-kỷ 29 - thế-kỷ 2 trước TL)

i. Nhà Hồng Bàng (2879-256 trước TL)

1. Mở Đầu

Nghìn thu gặp hội thăng-bình,
Sao Khuê sáng vẻ văn minh giữa trời.
Lan-đài dừng bút thảnh thơi,
Vâng đem quốc-ngữ diễn lời sử xanh.
Nam-giao là cõi ly-minh,
Thiên-thư định phận rành rành từ xưa.
Phế-hưng đổi mấy cuộc cờ,
Thị-phi chép để đến giờ làm gương.

2. Kinh Dương-Vương

Kể từ trời mở viêm-bang,
Sơ đầu có họ Hồng-bàng mới ra.
Cháu đời Viêm-đế thứ ba,
Nối dòng Hỏa-đức gọi là Đế-minh.
Quan-phong khi giá Nam-hành,
Hay đâu Mai-lĩnh duyên sinh Lam-kiều,
Vụ-tiên vừa thuở đào yêu,
Xe loan nối gót, tơ điều kết duyên.
Dòng thần sánh vời người tiên,
Tin-anh nhóm lại, thánh hiền nối ra,
Phong làm quân-trưởng nước ta,
Tên là Lộc-tục, hiệu là Kinh-dương.
Hóa-cơ dựng mối luân-thường.
Động-đình sớm kết với nàng Thần-long.
Bến hoa ứng vẻ lưu-hồng
Sinh con là hiệu Lạc-long trị-vì.

3. Lạc-Long-Quân và Âu-Cơ

Lạc-long lại sánh Âu-ky.
Trăm trai điềm ứng hùng bi lạ dường.
Noãn-bào dù chuyện hoang-đường,
Ví-xem huyền-điểu sinh Thương khác gì?
Đến điều tan-hợp cũng kỳ,
Há vì thủy hỏa sinh-ly như lời,
Chia con sự cũng lạ đời,
Qui sơn, qui hải khác người biệt-ly.
Lạc-long về chốn Nam-thùy,
Âu-cơ sang nẻo Ba-vì Tản-viên.
Chủ-trương chọn một con hiền,
Sửa-sang việc nước nối lên ngôi rồng.

4. Hùng-Vương và nước Văn-Lang

Hùng-vương đô ở châu Phong,
Ấy nơi Bạch-hạc hợp dòng Thao-giang.
Đặt tên là nước Văn-lang,
Chia mười lăm bộ, bản-chương cũng liền.
Phong-châu, Phúc-lộc, Chu-diên,
Nhận trong địa-chí về miền Sơn-tây;
Định-yên, Hà-nội đổi thay,
Ấy châu Giao-chỉ xưa nay còn truyền.
Tân-hưng là cõi Hưng, Tuyên,
Vũ-ninh tỉnh Bắc, Dương-tuyền tỉnh Đông;
Thái, Cao hai tỉnh hỗn-đồng,
Ấy là Vũ-định tiếp cùng biên-manh;
Hoài-hoan: Nghệ; Cửu-chân: Thanh;
Việt-thường là cõi Trị, Bình trung-châu.
Lạng là Lục-hải thượng-du
Xa khơi Ninh-hải thuộc vào Quảng-yên.
Bình-văn, Cửu-đức còn tên,
Mà trong cương-giới sơn xuyên chưa tường.
Trước sau đều gọi Hùng-vương,
Vua thường nối hiệu, quan thường nối tên.
Lạc-hầu là tướng điều-nguyên,
Vũ là Lạc-tướng giữ quyền quân-cơ;
Đặt quan Bồ-chinh hữu-tư
Chức-danh một bực, đẳng-uy một loài.

5. Giao-thiệp với Trung-Hoa

Vừa khi phong-khí sơ-khai,
Trinh-nguyên xẩy đã gặp đời Đế-Nghiêu.
Bình-dương nhật nguyệt rạng kiêu,
Tấm lòng quì, hoắc cũng đều hướng-dương.
Thần-quy đem tiến Đào-đường,
Bắc Nam từ ấy giao-bang là đầu.
Man-dân ở chốn thượng-lưu,
Lấy nghề chài lưới làm điều trị-sinh.
Thánh-nhân soi xét vật-tình,
Đem loài thủy-quái vẽ mình thổ-nhân.
Từ sau tục mới văn-thân,
Lợi dân đã dấy, hại dân cũng trừ.
Dõi truyền một mối xa-thư,
Nước non đầm-ấm, mây mưa thái-binh.
Vừa đời ngang với Chu Thành,
Bốn phương biển lặng, trời thanh một mầu.
Thử thăm Trung-quớc thể nào,
Lại đem bạch-trĩ dâng vào Chu-vương.
Ba trùng dịch-lộ chưa tường,
Ban xe tí-ngọ chỉ đường Nam-quy.

6. Chuyện Phù-Đổng Thiên-Vương

Sáu đời Hùng vận vừa suy,
Vũ-ninh có giặc mới đi cầu tài,
Làng Phù-đổng có một người,
Sinh ra chẳng nói,chẳng cười trơ-trơ.
Những ngờ oan trái bao giờ.
Nào hay thần-tướng đợi chờ phong-vân.
Nghe vua cầu tướng ra quân,
Thoắt ngồi, thoắt nói muôn phần khích-ngang.
Lời thưa mẹ, dạ cần vương.
Lấy trung làm hiếu một đường phân-minh.
Sứ về tâu trước thiên-đình,
Gươm vàng, ngựa sắt đề binh tiến vào.
Trận mây theo ngọn cờ đào,
Ra uy sấm sét, nửa chiều giặc tan.
Áo nhung cởi lại Linh-san,
Thoắt đà thoát nợ trần-hoàn lên tiên.
Miếu-đình còn dầu cố-viên,
Chẳng hay chuyện cũ lưu-truyền có không?

7. Chuyện Sơn-Tinh và Thủy-Tinh

Lại nghe trong thủa Lạc-Hùng
Mị-châu có ả tư-phong khác thường,
Gần xa nức tiếng cung-trang.
Thừa-long ai kẻ đông-sàng sánh vai?
Bỗng đàu vừa thấy hai người,
Một Sơn-tinh với một loài Thủy-tinh,
Cầu hôn đều gửi tấc thành,
Hùng-vương mới phán sự tình một hai.
Sính nghi ước kịp ngày mai,
Ai mau chân trước, định lời hứa-anh.
Trống lầu vừa mới tan canh,
Kiệu-hoa đã thấy Sơn-tinh chực ngoài.
Ước sao lại cứ như lời,
Xe loan trăm cỗ đưa người nghi-gia.
Cung đàn tiếng địch xa-xa,
Vui về non Tản, oán ra bể Tần.
Thủy-tinh lỡ bưởc chậm chân,
Đùng-đùng nổi giận, đem ân làm thù.
Mưa tuôn gió thổi mịt-mù,
Ào-ào rừng nọ, ù-ù núi kia,
Sơn thần hỏa phép cũng ghê,
Lưới giăng dòng Nhị, phen che ngàn Đoài.
Núi cao sông cũng còn dài,
Năm năm báo oán, đời đời đánh ghen.

8. Chuyện Chử-Đồng-Tử và Tiên-Dung

Bổ-di còn chuyện trích-tiên,
Có người họ Chử ở miền Khoái-châu.
Ra vào nương-náu hà-châu.
Phong-trần đã trải mấy thâu cùng người.
Tiên-dung gặp buổi đi chơi,
Giỏ đưa Đằng-các, buồm xuôi Nhị-hà,
Chử-đồng ẩn chốn bình-sa
Biết đâu gặp-gỡ lại là túc-duyên.
Thừa-lương nàng mới dừng thuyền,
Vây màn tắm mát kề liền bên sông.
Người thục-nữ, kẻ tiên đồng,
Tình cờ ai biết vợ chồng duyên ưa.
Giận con ra thói mây mưa,
Hùng-vương truyền lịnh thuyền đưa bắt về.
Non sông đã trót lời thề,
Hai người một phút hóa về Bồng-châu,
Đông-an, Dạ-trạch đâu đâu,
Khói hương nghi-ngút truyền sau muôn đời.

9. Hết đời Hồng-Bàng

Bể dâu biến đổi cơ trời,
Mà so Hồng-Lạc lâu dài ai hơn?
Kể vua mười tám đời truyền,
Hai ngàn năm lẻ vững bền khôn lay.
Một dòng phụ-đạo xưa nay,
Trước ngang Đường-đế sau tầy Noãn-vương

ii. Nhà Thục (258-207 trước TL)

1. Thần Kim Quy giúp vua Thục

Thục từ dứt nước Văn-lang
Đổi tên Âu-lạc, mới sang Loa-thành.
Phong-khê là đất Vũ-ninh,
Xây thôi lại lở, công-trình biết bao
Thục-vương thành-ý khẩn cầu,
Bỗng đâu giang-sứ hiện vào kim-qui.
Hóa ra thưa nói cũng kỳ,
Lại tường cơn-cớ bởi vì yêu tinh.
Lại hay phù phép cũng linh,
Vào rừng sát quỉ, đào thành trừ hung.
Thành xây nửa tháng mà xong.
Thục-vương cảm tạ tấm lòng hiệu-linh.
Lại bàn đến sự chiến-tranh,
Vuốt thiêng để lại tạ-tình quân-vương.
Dặn sau làm máy Linh-quang,
Chế ra thần-nỏ, dự phòng việc quân.
2. Trung quốc đánh Âu-Lạc

Bấy giờ gặp hội cường-Tần,
Tằm ăn lá Bắc, toan lần cành Nam.
Châu-cơ muốn nặng túi tham,
Đồ-Thư, Sử-Lộc sai làm hai chi.
Lĩnh-nam mấy chốn bièn-thùy,
Quế-lâm, Tượng-quận thu về bản-chương.
Đặt ra úy, lịnh rõ-ràng,
Họ Nhâm, họ Triệu sai sang giữ-gìn.
Hai người thống-thuộc đã quen,
Long-xuyên, Nam-hải đôi bên lấn dần.
Chia nhau thủy bộ hai quân,
Tiên-du ruổi ngựa, Đông-tân đỗ thuyền.
Thục-vương có nỏ thần truyền,
Muôn quân buông một lượt tên còn gì?
Nhâm Hiêu mắc bệnh trở về,
Triệu Đà lại khiến sứ đi xin hòa.
Bình giang rạch nửa sơn-hà
Bắc là Triệu-úy. Nam là Thục-vương.

3. Trọng-Thủy và Mị-Châu

Mặt ngoài hai nước phân cương,
Mà trong Triệu là mượn đường thông-gia,
Nghĩ rẳng: Nam Bắc một nhà;
Nào hay hôn cấu lại ra khấu thù.
Thục cơ tên gọi Mị-Châu
Gả cho Trọng-Thủy, con đầu Triệu-vương.
Trăm năm đã tạc đá vàng,
Ai ngờ thế-tử ra đàng phụ ân.
Tóc tơ tỏ hết xa gần.
Thừa cơ đem máy nỏ thần đổi đi,
Tỉnh-thân giả tiếng Bắc-qui.
Đinh-ninh dặn hết mọi bề thủy-chung
Rằng: " Khi đôi nước tranh-hùng,"
" Kẻ Tần người Việt tương phùng đâu đây?"
" Trùng-lai dù họa có ngày,"
" Nga-mao xin nhận dấu này thấy nhau"
Cạn lời, thẳng ruổi vó câu,
Quản bao liễu oán, hoa sầu nẻo xa.

4. Triệu-Đà diệt Thục

Giáp binh sắp sẵn từ nhà,
Về cùng Triệu úy, kéo ra ải Tần,
An dương cậy có nỏ thần.
Vi-kỳ còn hãy ham phần vui chơi,
Triệu quân ruổi đến tận nơi.
Máy thiêng đã mất, thế người cũng suy.
Vội vàng đến lúc lưu-li,
Còn đem ái-nữ đề-huề sau yên
Nga mao vẫn cứ lời nguyền,
Để cho quân Triệu theo liền bông tinh.
Kim-qui đâu lại hiện linh;
Mới hay giặc ở bên mình không xa,
Bây giờ Thục-chúa tỉnh ra,
Dứt tình, phó lưỡi Thái-a cho nàng,
Bể Nam đến bước cùng đường,
Văn-tê theo ngọn suối vàng cho xuôi.
Tính ra nước Thục một đời,
Ở ngôi vừa được năm mươi năm trỏn.
Nghe thần rồi lại tin con;
Cơ-mưu chẳng nhiệm, thôi còn trách ai?

iii. Nhà Triệu (207-111 trước TL)

1. Triệu Vũ Vương thần phục nhà Hán

Triệu Vương thay nối ngôi trời,
Định đô cứ-hiểm đóng ngoài Phiên-ngu .
Loạn Tần gặp lúc Ngư-Hồ ,
Trời nam riêng mở dư-đồ một phương.
Rồng Lưu bay cõi Phiếm-dương ,
Mới sai Lục-Giả đem sang ấn phù .
Cõi nam lại cứ phong cho,
Biên thùy gìn giữ cơ đồ vững an.
~Lê-Ngô-Cát - Phạm-Đình-Toái~



<bài viết được chỉnh sửa lúc 16.12.2010 01:35:49 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dong thơ cũ - 17.12.2010 19:26:02


HOÀNG-PHAN-THÁI

      
1819-1865

Quê Cổ-Đan, Nghi-Lộc, Nghệ-An, nổi tiếng thong
minh từ nhỏ, sống dưới triều Tự-Đức, nhìn xa thời
cuộc, ý muốn canh tân, đưa nước nhà tới chỗ văn
minh, tự xưng Đông Hải Đại Tướng, bị triều đình
cho là đại nghịch và bị giết. Lúc lâm hình ông khẩu
chiếm 4 câu thơ:

Ba hồi trống giục thây cha kiếp,

Một lát gươm đưa đéo mẹ đời!
Sống làm tướng mạnh ba phương đất.
Thác xuống thần thiêng bốn phía trời.
~Hoàng-Phan-Thái~



TÙNG-THIỆN-VƯƠNG
      
1819-1870

Tức Nguyễn Phúc Miên Thẩm, là con
thứ 10 của vua Minh Mạng, em vua Thiệu Trị.
Ông sinh tại cung Thanh Hòa trong cấm thành
Huế. Xin trích một số bài dịch thơ của ông:



MẠI TRÚC DAO

Trong vườn tre tựa núi gò
Vác ra, tiền chẳng trả cho đồng nào
Nín thinh thì khổ xiết bao
Nói ra, roi sẽ vụt vào chú thôi
Ôi, than ôi!
Bước chân về nước mắt rơi đầm đìa...
~Tùng-Thiện-Vương~


KIM HỘ HÁN

Núi cao, vị nước độc
Chó sói, cọp rình rập hai bên đường
Áo rách không che được ống chân
Mặt vàng, da thịt khô héo
Chỉ cầu đủ nộp thuế...
Cay đắng thay thuế thường khó nộp đủ
Đành chịu làm tàn tật tấm thân hèn...
~Tùng-Thiện-Vương~


BỘ HỔ TỪ

Thôn Nam có cọp về nhiễu hại
Dân làm đơn cáo với quan trên
Một đàn lính phủ kéo lên...
Toàn dân gạo rượu để dành lính xơi
Hôm sau cọp tới lui trong núi
Dân Bắc thôn đều phải nín thinh
Cam tâm để cọp hoành hành
Dẫu người có chết, gia đình còn no...  
~Tùng-Thiện-Vương~


NAM-ĐỊNH HẢI DẬT

Vì đâu nước biển tràn lên
Để dân ven biển chết chìm trên khô
Muôn nhà, sóng bạc cuốn xô
Lử ma tan giữa mịt mù khí âm...
~Tùng-Thiện-Vương~


THU Ý

Nước ngập sâu nối liền đồng nội
Mây từng lớp lấp chìm ánh trời ban mai
Thấy mà buồn cảnh không thể cứu người đang chìm
Tự tai nghe có tiếng kêu đói
Nghĩ thế nào đành lòng riêng sống ấm no
Ngậm mối tình thương, gạt đôi dòng lệ
~Tùng-Thiện-Vương~


LƯU THÁN

Làng cũ có ruộng thì bị lụt, bị hạn
Lúa xanh hoá thành lúa lép khắp đồng
Người chết bị đẩy ra, lấp chìm trong gai cỏ
Người sống bò gấp lên, kêu rên với nhau
Ngẩn lên trời, van trời kêu dân khổ...
~Tùng-Thiện-Vương~


TỐNG LƯƠNG TỪ

Quảng Nam giờ đất chiến trường
Dầm sâu ruộng tốt chẳng còn như xưa...
Xương khô chồn gậm đứng đầy
Quạ tha từng khúc ruột bay thành đàn
Đồng Đông xiết nỗi lầm than
Kẻ về sau buổi ly hoàn, ai thương?...
~Tùng-Thiện-Vương~


MẠI CHỈ Y

Năm kia giặc Tây đánh Quảng Nam
Quân ta thua trận máu thành đầm
Cúng tế cầu hồn khắp mọi xứ
Giá giấy (dùng cùng người chết) đắt gấp ba
Năm nay dùng binh khắp Nam Bắc
Muôn đội cấm quân ra đánh giặc
Đêm qua hịch báo về Cam Tuyền
Hơn nửa người chết bỏ thây xác...
~Tùng-Thiện-Vương~


KHIỂN SẦU

Yết Hồ thực hiện mưu ma
Các quan tướng soái thiệt là phụ ơn
Tàu chiền chìm chỉ còn tàn lửa,
Tiếng oan hồn nức nở sóng trôi...
~Tùng-Thiện-Vương~


THƯƠNG TÂM

Lòng đau cầm nước mắt
Muốn nói chẳng thành lời...         
Khen Nguỵ Giáng hoà nghị,
Bàn như vậy rất sai!
~Tùng-Thiện-Vương~


NHẠC PHI

Nhà vua đã muốn hoà cùng giặc
Còn thuyết làm chi việc phục thù...


NHỊ NGUYỆT NHỊ THẬP

Giữa đất Nam Kỳ, một mồi lửa cháy, gió thổi khói lên cao
Đốt rụi lầu giặc cùng thuyền giặc...
Bọn Hồ kêu la gầm trời
Tám năm mới thật sự thấy đánh dẹp giặc Tây
Trước ngựa, các phụ lão mang giỏ cơm, bầu rượu ra đón
Anh hùng sáu trấn dốc hết sức mình...
~Tùng-Thiện-Vương~



TUY-LÝ-VƯƠNG
    1820-1897

Con thứ 11 vua Minh-Mạng, em Tùng-thiện-Vương,
thông minh, hiếu học, có khiếu về thơ. Nhân Nguyễn
Văn Siêu về Bắc. Tùng Thiện Vương và Tuy Lý Vương
tổ chức tiễn đưa trên thuyền ở sông Phân Giang phía
đông nam Vỹ Dạ và mời Đẩu Nương ở An Cựu xuống
thuyền gảy đàn Nam Cầm. Đẩu Nương là một thiếu nữ
tài sắc vẹn toàn. Đàn Nam Cầm là tổng hợp đàn Tranh,
đàn Sắt, và đàn Tỳ Bà. Tiếng đàn Nam Cầm rất thanh,
hơn cả đàn Tranh. Chồng nàng mất sớm, sống cuộc đời
hiu quạnh. Nay vì quá nể Tùng Thiện Vương nên góp
tiếng lòng mình trong buổi tiễn đưa. Sau khi nghe tiếng
đàn ai oán, Tuy Lý Vương cảm xúc, ví mình như Bạch
Cư Dị và về nhà cảm hứng làm bài Nam Cầm Khúc bằng
chữ Hán ngay đêm ấy. Sau đây là đoạn trích bài dịch bài thơ này: 

Bốn dây to nhỏ cung sa
Thoắt như trời đổ một vài giọt mưa
Lạnh nghe hạc nói năm xưa
Thảm nghe Thục Đế khóc đưa xuân về
Muỗng sen giọt nước đầy ve

Thú vàng lửa đốt khói che hơi trầm
Gió mai bờ quạnh ve ngâm
Còn phơi bông trắng, lau dầm màu sương ...
~Tuy-Lý-Vương~

Dịch:

Dùng dằng nổi tiếng biệt ly
Sầu riêng chẳng rõ việc gì gì đây?
Lầu tiên đã lỡ kiếp này
Cầu Ô để nợ còn chầy về sau
Trước sau lắm kiếp tình sâu
Tơ tầm một mốt buộc sầu không lơi
Lục Triều Tam Sở đổi đời
Nước non, hoa cỏ xót lời tao nhân
~Hồng-Sâm~


NGHĨ ĐIỀN GIA

Kê minh bị thần xan,
Đạo phạn lục hà bao.
Tàn nguyệt tại trúc phi,
U khê thụ ảnh giao.
Hành hành đạp sương lộ,
Thiên mạch nhuận như cao.
Đại ngưu thực đạivu,
Tiểu ngưu ngọa giang cao.
Thâm điền ký sáp chủng,
Cao điền tư cát cao.
Tân cần nhật bất túc,
Chung lã bất tri lao.
Hoàn dục tương thử ý,
Do cập miễn nhi tào.
~Tuy-Lý-Vương~

Tạm dịch:

Nói về nhà nông

Gà gáy lo ăn sáng,
Lá sen đùm nắm trao.
Trăng tà ngang cửa trúc,
Ngõ xóm bóng cây giao.
Bước bước dẫm sương móc,
Lối mòn như mỡ chao
Trâu to ăn cỏ bãi
Trâu nhỏ nẹp bờ ao.
Mạ cấy dưới đồng trũng,
Nước chuyền lên ruộng cao.
Suốt ngày gian khổ thế,
Già cả nhọc làm sao.
Nhắn bảo đàn con cháu,
Điều này chớ lảng xao.


TÀM PHỤ TỪ
(Trích)
...
Ninh sử thiếp phúc nội,
Mạc sử tàm thực khuyết.
Thiếp nỗi nhất thân khổ,
Tàm bão bát khẩu hoạt.
Ty thành vị thượng trữ,
An đắc thành quyên thất?
Môn tiền lý chính lai,
Thôi tô khi hà liệt.
Chỉ nguyện cung quan thuế,
Lam lũ bất túc thuyết...
Tuy-Lý-Vương~

Dịch:

Lời người đàn bà nuôi tằm

“Thà bụng em chịu đói,
Chứ không để tằm ăn không no.
Em đói, chỉ khổ một mình em,
Nhưng tằm no thì nuôi sống cả nhà tám miệng ăn”
Tơ ươm chưa lên khung cửi,
Thì làm sao thành tấm lụa được?
Thế mà ngoài cửa lý dịch đã đến,
Thôi thúc nạp thuế mau.
Chỉ muốn nộp đủ thuế cho quan,
Áo quần lam lũ không kể...


THU VỌNG

Hồi thủ Nam châu kết trận vân
Vị Ương tiền điện vũ thư văn.
Ba Xuyên thành bắc nhân yên đoạn,
Nông Nại giang đầu chiến lũy phân.

Dịch:

Miền Nam quay ngó thấy mây đùn
Cung khuyết tin thư đến dặm dồn.
Bắc đất Ba Xuyên người vắng bóng,
Đầu sông Nông Nại lũy ken đồn.


TUẾ MỘ
    
Bắc vọng lư diêm không trữ trục
Nam lai bích lũy thượng can qua.
Cổn y nhục thực chung vô bổ,
Quí nhĩ xan anh đái nữ la.
~Tuy-Lý-Vương~

Dịch:

Cuối năm

Xóm làng cõi Bắc trơ khung cửi
Đồn lũy miền Nam rộn lửa binh.
Áo gấm thịt quay nào bổ ích,
Thẹn phường tu luyện phép trường sinh.


XUÂN THÀNH KHÚC

Liễu ám hoa minh xứ xứ lâu
Phiên phiên vũ yến hiểu phong nhu.
Thiến sam nhân ỷ châu lan khúc,
Mang sát Vương tôn tử mạch sầu.
~Tuy-Lý-Vương~

Dịch:

Bên lầu liễu thắm với hoa tươi
Én múa quanh quanh gió sớm lơi.
Áo đỏ bên hiên ai tựa đứng?
Vương tôn đường tía dạ bời bời.


CHU TRUNG MẠN HỨNG

Tàn xuân thảo bích duyên đê hợp
Cách ngạn vân đê độ thủy trì.
Sơn tự chung xao quy điểu tận,
Cô yên khởi xứ nhận tiều xuy.
~Tuy-Lý-Vương~

Dịch:

Xuân tàn cỏ biếc ven đê phủ
Mây tỏa bên bờ nước lặng trôi.
Chùa núi chuông đưa, chim vắng bóng,
Tiều đâu khói bếp bốc bên đồi.


ĐỀ HỌA MAI

Hương phong xuy cổ bích
Lão ốc ám sinh xuân.
Họa bút tri tiền đại,
Thanh tài quýnh tuyệt trần.
Không sơn cao cách điệu,
Lưu thủy đạm tinh thần.
Chính ức Giang Nam tín,
Phong đề dục ký nhân.
~Tuy-Lý-Vương~

Dịch:

Gió thơm vờn vách cổ
Nhà cũ thắm xuân tươi.
Nét bút đâu đời trước,
Tài hoa thật tót vời.
Tinh thần làn nước lặng,
Cách điệu đỉnh non phơi.
Tin tức Giang Nam nhớ,
Đề thư muốn gửi người.


<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.12.2010 08:51:37 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dong thơ cũ - 20.12.2010 09:33:35


CÔNG CHÚA LIỄU-HẠNH


Theo truyền thuyết, vào năm Thiên Hựu đời Hậu Lê
(1557), ở thôn An Thái, làng Vân Cát, huyện Vụ Bản,
tỉnh Nam Định, có phu nhân Lê Thái Công sinh được
một bé gái mà theo giấc mơ của Tái công thì đây chính
là công chúa đã lỡ tay làm rơi chén ngọc và bị
Ngọc Hoàng đày xuống trần gian...


THU TỪ

Thủy diện phù lam, sơn tước ngọc,
Kim phong tiểu tiễn, khao hàn trúc.
Lư hoa vạn lý bạch y y,
Thụ sắc hương ngưng, hồng nhiễm lục.
Oanh vũ thiềm cung nga phi ttúc,
Dạo hài độc bộ thu hoài súc.
Bất như kinh lai ly hạ cúc,
Hoa hương nhàn tọa đàn nhất khúc.
~Liễu-Hạnh Công Chúa~

Dịch:

Từ khúc mùa Thu

Núi như mgọc, nước xanh xanh
Gió vàng hiu hắt khua cành trúc thưa
Hoa lau muôn dặm trắng phơ
Hồng sen điểm lục, sương mờ cỏ cây
Cung Hằng oanh múa lượn bay
Thềm hoa dạo bước gót hài thu sang
Thú sao bên khóm trúc vàng
Ngón tiên nhẹ lướt cung đàn ngắm hoa.
~Trần-Nhất~Lang~



NGUYỄN-ĐÌNH-CHIỂU

CHẠY GIẶC

Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây
Một bàn cờ thế phút sa tay
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ bầy chim dáo dác bay
Bến Nghé của tiền tan bọt nước
Ưồng Nai tranh ngói nhuộm mầu mây
Hỏi trang dẹp loạn này đâu vắng?
Nỡ để dân đen mắc nạn này!
~Nguyễn-Đình-Chiểu~


VĂN TẾ NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC

Hỡi ơi !
Súng giặc đất rền,
Lòng dân trời tỏ.
Mười năm công vỡ ruộng, xưa ắt còn danh nổi như phao,
Một trận nghĩa đánh Tây, thân tuy mất tiếng vang như mõ.

Nhớ linh xưa
Côi cút làm ăn,
Riêng lo nghèo khổ,
Chưa quen cung ngựa đưa tới trường nhung
Chỉ biết ruộng trâu ở theo làng hộ;
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn làm quen;
Tập khiên, tập mác, tập giáo, tập cờ, mắt chưa từng ngó.
Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng, trông tin quan như nắng hạn trông mưa.
Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.
Đêm thấy bòng bong che trắng lớp, những muốn ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đen xì, toan ra cắn cổ.
Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hưu;
Hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó.
Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình.
Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.

Khá thương thay

Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo giòng ở lính diễn binh;
Chẳng qua là dân ấp, dân làng, mến nghĩa làm quân chiêu mộ
Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn;
Chín chục trận binh thư, không chờ bài bố.
Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bao ngòi,
Trong tay dùng một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gỗ.
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia;
Gươm đeo dùng một ngọn dao phay, cũng chém đặng đầu quan hai nọ
Chi nhọc quan Quản gióng trống kỳ trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không.
Mặc kệ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém dọc, làm cho mả tà, mả ái hồn kinh.
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ.
Những lăm lòng nghĩa sau dùng, đâu biết xác phàm vội bỏ.
Một chắc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây;
Trăm năm âm phủ ấy chữ quy, xá đợi gươm hùm treo mộ
Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng;
Chẳng phải án cướp, án gian đày tới, mà vi binh đánh giặc cho cam tâm.
Vốn không giữ thành, giữ lũy bỏ đi, mà hiệu lực theo quân cho đáng số.

Nhưng nghĩ rằng

Tấc đấc ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta
Bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó?
Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương?
Vì ai xui hào lũy tan hoang, xiêu mưa ngà gió?
Sống làm chi theo quân tả đạo, quẳng vùa hương, xô bàn độc nghĩ lại thêm buồn;
Sống làm chi ở lính mả tà, chia rượu ngọt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.
Thà thác mà đặng câu dịch khái, về sau tổ phụ cũng vinh,
Hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ.

Ôi thôi thôi

Chùa Lão Ngộ năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm;
Đồn Tây Dương một khắc đặng rửa hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.
Đau đớn mấy, mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều,
Não nùng thay, vợ yếu chạy tìm chồng, con bóng xế vật vờ trước ngõ.

Ôi!

Một trận khói tan,
Nghìn năm tiết rỡ.
Binh tướng nó hày đóng sông Bến Nghé, còn làm cho bốn phía mây đen.
Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ.
Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh cũng đều khen;
Thác mà ưng đền miếu để thờ, tiếng hay trải muôn đời ai cũng mộ

Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh muôn kiếp nguyện được trả thù kia
Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành một chữ ấm đủ đền công đó.
Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo,thương vì hai chữ thiên dân.
Cây nhang nghĩa khí thắp nên thơm, cám bởi một câu vương thổ.

Hỡi ơi!
Có linh xin hưởng.
~Nguyễn-Đình-Chiểu~


CÔNG CHÚA MAI-AM
          
1826-1904

Tên thật Nguyễn-Phúc-Trinh-Thận, con
gái thứ 25 vua Minh-Mạng.


ỨC MAI

Lâm đường tạc dạ sóc phong xuy,
Tiểu các thanh hàn độc toạ trì.
Địch lí quan san sầu cựu khúc,
Thuỷ biên li lạc nhận tiền kì.
Hương nam tuyết bắc vô hương cấn,
Nguyệt địa vân giai hữu mộng tư.
Dục hả tân từ viễn tương tặng,
Mỹ nhân uyển tại thuỷ chi mi.
~Công chúa Mai-Am~

Dịch:

Nhớ mai

Đêm nao gió bấc lướt qua hồ
Gác phấn canh khuya quạnh bóng mờ
Tiếng địch ngàn trùng, buồn khúc cũ
Cành mai ngày trươc tựa rào thưa.
Hương nam tuyết bắc đôi phương biệt
Trăng giải mây thang một nỗi chờ
Thơ mới trời xa mong gửi tặng
Mỹ nhân cạnh nước hẳn như xưa.
~Thanh-Vân~




Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dong thơ cũ - 21.12.2010 09:59:51



VUA TỰ-ĐỨC
   
(1829-1883)
 
KHÓC BẰNG PHI

Ới Thị Bằng ơi! Đã mất rồi,
Ới tình, ới nghĩa, ới duyên ơi!
Mưa hè nắng chái oanh ăn nói,
Sớm ngõ trưa sân liễu đứng ngồị
Đập cổ kính ra tìm lấy bóng,
Xếp tàn y để nhớ mùi hơị
Mối tình muốn dứt càng thêm bận,
Mãi mãi theo hoài cứ chẳng thôị.
~Vua-Tự-Đức



BÙI-DỊ

Tức Bùi-Văn-Dị đời vua Tự-Đức, quê Châu-
Cầu, Kim-Bảng, Hà-Nam, đỗ Phó bảng,làm
quan đến bậc Đại-Thần, sang sứ nhà Thanh,
văn chương được danh sĩ TQ tán thưởng
truyền tụng.


Hà Bắc thủy thang thang,
Đông phong tảo chiến trường
Tiên thanh hàn tặc lỗ,
Sát khí bạc khung thương.
Hận bất thừa kì hậu,
Thủy vận mạc khả tương?
Xuất sư kinh phất tái,
Lưỡng thí diệc sai cường.
~Bùi-Dị~

Bản dịch:

Bên bờ Bắc nước sông cuồn cuộn
Trận gió đông, bụi cuốn sa trường
Tiếng vang lũ giặc kinh hoàng,
Ngút trời sát khí đằng đằng bốc cao.
Giận chẳng được lao vào chặn hậu.
Lũ giặc kia ai bảo khôn ngăn?
Một năm vừa mới ra quân,
Hai lần đọ sức hai lần giỏi giang.
 


HỒ-HUÂN-NGHIÊP
         
1829-1864

Quê An-Định, Bình-Dương, Gia-Định, nổi tiếng
Thơ văn, tham gia cuộc kháng chiến của Trương-
Định, làm Tri phủ Tân-Bình, điều đông binh sĩ và
tiếp tế lương thực cho nghĩa quân, bị Pháp bắt và
giết mới 36 tuổi. Ông để lại bài thơ tuyệt mạng:

Kiến nghĩa ninh cam bất dũng vi,
Toàn bằng trung hiếu tác nam nhi.
Thử thân sinh tử hà tu luận,
Duy luyến cao đường bạch huyết thùy.

Bản dịch:

Thấy nghĩa không làm dũng để chi,
Hiếu trung là phận của nam nhi
Tử sinh sá kể thân này đã,
Riêng nhớ nhà huyên nỗi tuyết ti”.



TÚ-QUÝ
1828-1926

Tức Huỳnh-Quỳ, quê giảng-Hòa, Đại-Lộc,
Quảng-Nam, đậu Tú Tài 19 tuổi, từ quan, suốt
đời lãng du, dạy học và sáng tác đủ loại thể văn
nhất là thơ phúng thích.


VỊNH HÁT BỘI

“Nhỏ mà không học, lớn làm ngang
Trống đánh ba hồi đã thấy quan.
Ra rạp, ngồi trên ba đứa hiệu,
Vô buồng, đứng dưới mấy ông làng.
Còn màu son phấn: ông kia nọ,
Cởi lốt cân đai: chú điếm đàng.
Tuy chẳng vinh chi, nhưng cũng sướng,
Đã từng trợn mắt, lại phùng mang”.
~Tú-Quý~


NƯỚC LỤT

“Mưa từng chặp, gió từng hồi,
Ngoảnh lại giang san ngập cả rồi!
Lũ kiến bất tài đeo ngọn cỏ,
Chòm rêu vô lực đóng bèo trôi.
Linh lang vườn rộng nghe chim hót,
Lỏng khỏng giường cao thấy chó ngồi.
Thương bấy hạ dân sao xiết kể,
Nào ông Hạ, Vũ ở đâu rồi!...
~Tú-Quý~



Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dong thơ cũ - 23.12.2010 09:27:09


ÔNG-ÍCH-KHIÊM

       
1829-1884

Quê Phong-Lệ, Hòa-Thọ, Hòa-Vang, Quảng-Nam,
đỗ Cử-Nhân, làm việc tại Nội Các, Tri huyện Kim-
Thành, Hải-Dương, dẹp tan giặc cướp ở Cao-Bằng,
thăng chức Tham tri bộ Binh, ông Tường và Thuyết
thán phục nhưng ghen ghét thầm, tìm cách hại ông,
khi bị cách chức đưa đi an trí tại Bình-Thuận, ông
uống thuốc độc tự tử, mới 55 tuổi, trên đường đi,
ông ứng khẩu bài thơ:


Mình ốc mang rêu rửa sạch ai?
Quen thói rung cây nhát khỉ hoài!
Mèo quào phên đất chi khờn sức,
Sứa nhảy qua đăng mới gọi tài!
Khó nỗi đem tơ ràng vô ngựa.
Dễ đâu lấy thúng úp mình voi!
Truông qua chưa khỏi đừng khinh khái (cọp),
Chim sẩy lồng ra để đó coi!
~Ông-Ích-Khiêm~



THỦ-KHOA HUÂN
       
1830-1875

Tức Nguyễn Hữu Huân được ghi nhận là “một
hiện tượng đặc sắc của văn học yêu nước thế kỷ
19 của Việt Nam: hiện tượng nhà thơ - chiến sĩ.
Bài thơ chữ Hán dưới đây, ông làm trước khi bị
chém, nay được tạc nơi bia mộ ông. Sau đây là
bản dịch của Phan Bội Châu:


Ruổi dong vó ngựa trả thù chung
Binh bại cho nên mạng phải cùng.
Tiết nghĩa vẫn lưu cùng vũ trụ,
Hơn thua xá kể với anh hùng.
Nổi xung mất vía quân Hồ lỗ.
Quyết thác không hàng, rạng núi sông.
Tho thủy ngày rày pha máu đỏ,
Đảo Rồng hiu hắt ngọn thu phong.

(Quân Hồ lỗ ý nói quân mọi rợ, ám chỉ giặc
ngoại xâm. Tho thủy: Sông Mỹ Tho. Đảo Rồng:
là nơi Thủ Khoa Huân bị chết chém)


Hai bên thiên hạ thấy hay không?
Một gánh cương thường, há phải gông.
Oằn oại hai vai quân tử trúc,
Long lay một cổ trượng phu tòng.
Sống về đất Bắc, danh còn rạng
Thác ở thành Nam, tiếng bỏ không
Thắng bại, doanh thâu trời khiến chịu
Phản thần,“đéo ỏa” đứa cười ông!

(Đéo ỏa: tiếng chửi ở miền Nam, sách ''Nguyễn
Hữu Huân'' của NXB Trẻ ghi: ''mẹ'')

Bài thơ ông làm nghe tin vợ dám đi kiện quan
đầu tỉnh An Giang, và đòi Pháp thả chồng:

Xem qua thư gửi rất kinh hoàng
Nhi nữ chà chà cũng lớn gan
Đơn bẩm cuối lòn loài bạch quỷ,
Sân quỳ vất vả phận hồng nhan
Bán mình đâu nệ phiền lòng sắt,
Chuộc tội thà xin trọn nghĩa vàng
Tiết khí dưới trần coi ít mặt,
Cang thường càng chuộng gánh giang san.

Ông làm trước khi bị đày ra đảo Cayenne
ở Nam Mỹ:


Muôn việc cho hay số bởi trời
Chiếc thân chìm nổi biết bao nơi
Mấy hồi tên đạn ra tay thử,
Ngàn dặm non sông dạo gót chơi.
Chén rượu Tân đình nào luận tiệc
Vần thơ cố quốc chẳng ra lời.
Cương thường bởi biết mang nên nặng,
Hễ đứng làm trai trả nợ đời.

Nhân nhà Tổng đốc Phương có tiệc, ông
làm bài này để đọc cho mọi người nghe:

Nghĩ thẹn râu mày với nước non
Nhìn nay tùng, cúc bạn xưa còn.
Miếu đường cách trở niềm tôi chúa,
Gia thất riêng buồn nỗi vợ con.
Áo Hán nhiều phen thay vẻ lạ,
Rượu Hồ một mặt đắm mùi ngon
Giang Đông nổi tiếng nhiều tay giỏi,
Cuốn đất kìa ai, dám hỏi đon!

Qua hình ảnh “cây bắp”, để tỏ bày tấm
lòng cùng khát vọng của ông:


Luống chịu ba trăng trấn cõi bờ,
Hiềm vì thương chút chúng dân thơ.
Nương oai tích lịch ôm con đỏ,
Vâng lịnh nam phong phất ngọn cờ.
Miễn đặng an nhà cùng lợi nước
Chỉ nài dãi gió với dầm mưa.
Biển hồ dầu lặng, tằm kình bặt
Giải giáp một phen chúng thảy nhờ.
~Nguyễn-Hữu-Huân~



Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dong thơ cũ - 23.12.2010 09:44:39


NGUYỄN-KHUYẾN

       
(1835-1909)

Quê ngoại Văn-Khế, Hoàng-Xá, Ý-Yên,
Nam-Định. Quê nội làng Và, Yên-Đổ,
Bình-Lục, Nam-Hà.


THU ĐIẾU*

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền con bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo...
~Nguyễn-Khuyến~


BẠN ĐẾN CHƠI NHÀ

Đã bấy lâu nay bác tới nhà,
Trẻ thì đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu, sóng cả, khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà.
Cải chửa ra hoa, cà chửa nụ,
Bàu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
Đầu trò tiếp khách, trầu không có,
Bác đến chơi đây, ta với ta.
~Nguyễn-Khuyến~


KHÓC BẠN

Bác Dương thôi đã thôi rồi,
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.

Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,
Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau.
Kính yêu từ trước đến sau:
Trong khi gặp gỡ, khác đâu duyên trời.

Cũng có lúc chơi nơi dặm khách,
Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo.
Có khì từng gác cheo leo,
Khúc vui con hát lựa chiều cầm xoang.

Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp,
Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân.
Có khi bàn soạn câu văn,
Biết bao đông bích điển phần trước sau.

Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn,
Miếng đảu thăng chẳng dám than trời.
Tôi già, bác cũng già rồi:
Biết thôi, thôi thế thời thôi mới là.

Đường đi lại, tuổi già thêm nhác,
Trước ba năm gặp bác một lần.
Cầm tay hỏi hết xa gần,
Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can.

Tuổi tôi kể còn hơn tuổi bác,
Tôi lại đau trước bác mấy ngày.
Làm sao bác vội về ngay,
Chợt nghe tôi những chân tay rụng rời!

Ai chẳng biết chán đời là phải,
Vội vàng chi đã mải lên tiên.
Rượu ngon không có bạn hiền,
Không mua không phải không tiền không mua.

Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,
Viết đưa ai, ai biết mà đưa.
Giường kia treo những hững hờ,
Đàn kia gẩy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn!

Bác chẳng ở, dẫu van chẳng ở,
Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương.
Tuổi già hạt lệ như sương,
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!
~Nguyễn-Khuyến~


VĂN TẾ NGẠC-NHI

Than ôi!

Một phút sa cơ
Ra người thiên cổ

Nhớ ông xưa:

Cái mắt ông xanh,
Cái da ông đỏ,
Cái tóc ông quăn,
Cái mũi ông lõ,
Đít ông cưỡi lừa
Miệng ông huýt chó.
Lưng ông đeo súng lục liên,
Chân ông đi giầy có mỏ.
Ông ở bên Tây,
Ông sang đô hộ.
Đánh giặc Cờ Đen,
Để yên con đỏ.

Nào ngờ:

Nó bắt được ông,
Nó chặt mất sỏ.
Cái đầu ông đây
Cái mình ông đó.
Khốn nạn thân ông,
Đù cha mẹ nó!

Tôi :

Vâng lệnh quan trên,
Cúng ông một cỗ,
Này chuối một buồng
Này rượu một hũ,
Này xôi một mâm,
Này trứng một rổ,
Ông có linh thiêng,
Mời ông xơi hộ,
ăn uống no say,
Nằm yên một chỗ.
ối ông Ngạc Nhi ôi!
Nói càng thêm khổ.
~Nguyễn-Khuyến~



DƯƠNG-KHUÊ
    (1839-1902)

Quê Vân-Đình, Sơn-Lãng, Ứng-Hòa, Hà-Đông
đậu cử nhân ngoài 20 tuổi, tiến sĩ 29 tuổi, tri phủ
Bình-Giang, Hải-Dương, Án sát Hải-Phòng, đốc
học Nam-Định, rồ Tổng đốc Nam-Định và Ninh-
Bình.


GẶP NGƯỜI CŨ

Hốt ức lục thất niên tiền sự(1)
Nợ phong lưu chưa trả hương nguyền
Ưến bây giờ gặp lại người quen
Nỗi lưu lạc, sự ghét ghen là thế thế
Thiếp tự thân khinh lang vị khí(2)
Thần tuy trọng tội đế do liên(3)
Can chi mà tủi phận hờn duyên
Ưể son phấn đàn em sau khúc khích
Ý trung nhân chí khả tình tương bạch(4)
Thôi bút nghiên, sênh phách cũng đều sai
Trông nhau nói nói cười cười.
~Dương-Khuê~

1-Chợt nhớ chuyện sáu bảy năm trước
2-Thân em dù khinh chàng chưa nỡ bỏ
3-Tội thần tuy nặng vua vẫn còn thương
4-Với người thương, tình thực có thể bày tỏ



GẶP CÔ ĐẦU CŨ

Hồng, Hồng, Tuyết, Tuyết
Mới ngày nào còn chửa biết chi chi
Mười lăm năm thấm thoát có xa gì !
Chợt ngoảnh lại, đã đến kỳ tơ liễụ
Ngã lãng du thời khanh thượng thiếu;
Khanh kim hứa giá, ngã thành ông (1)

Cười cười nói nói thẹn thùng,
Mà bách phát (2) với hồng nhan chừng ái ngại
Riêng một thú Thanh Sơn (3) đi lại,
Khéo ngây ngây dại dại với tình,
Đàn ai một khúc dương tranh ?
~Dương-Khuê~


(1) Khi ta còn là một thanh niên lãng tử đi chơi khắp
mọi nơi thì em cưng còn bé. Đến nay, em cưng lớn lên,
vừa tuổi lấy chồng thì ta đã thành ông già rồi (lời chú
thích của Lam Giang)
(2) Bạch phát: tóc bạc trắng
(3) Thanh Sơn thuộc huyện Sơn Lãng, nay thuộc tỉnh
phủ Thoanh Oai, tỉnh Hà Đông, quê của tác giả.


<bài viết được chỉnh sửa lúc 27.12.2010 07:23:23 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dong thơ cũ - 27.12.2010 07:34:20


PHẠM NHƯ-XƯƠNG

          1844-1883

Sống dưới thời Tự-Đức, quê Ngân-Thanh (Ngân-Câu),
Thanh-Quýt, Duyên-Phúc (Điện-Bàn), Quảng-Nam,
đậu Cử-Nhân, Bố-Chánh Phú-Yên, tham gia chống Pháp,
bị cách chức, Tri-Phủ Anh-Sơn, xin từ chức về quê ở ẩn,
tác giả nhiều thơ văn nhưng đã bị thất lạc.


HỊCH CẦN VƯƠNG
   (Ở Quảng Nam)

Tưởng thuở thái bình tại võ, bề khuông tương để mặc khách thiên chung.
Đến nay di địch loạn Ba, lòng tiết ngãi phải xướng bài lục quán.
Nhà hầu ngã con còn biết chống, nỡ để cha chờ kẻ Tôn, Ngô.
Nước đương loàn tôi phải toan ngăn, dễ phiên chúa nhờ người Pha, Mục.
Xưa cũng có Hồ nhi kiệt ngạo.
Đời lại sanh quân tử kinh luân.
Lỗ Trọng Liên ngãi bất đế Tờn, phận nho giả mà lòng lo võ trụ.
Văn thừa tướng trung phò chúa Tống, bước lưu li mà vai gánh cang thường.
Người còn hay tòng bá lúc hàn đông.
Ta há để chiên cứu khi khốc hạ.
Trước đã có ba ngàn hùm lạy, giúp rồng bay còn để sói lang.
Nay lại thêm hai cõi tằm ăn, đoái nhạn trạch đành dời dấu thỏ.
Câu “Kiến ngãi bất vi vô dõng”
Chữ “tội nhơn giai đắc nhi tru”.
Giận Tây di đem thói cừu Châu.
Ghét Tả đạo bày mưu trợ Kiệt.
Vả Tả đạo cưu nhờ tổ thước, ơn chưa đền chấu lại chống xe.
Mà Tây di cáo giả oai hùm, lớn chi lắm rắn toan nuốt tượng.
Nhà Chung đạo làm cùng cả nước, khuyển phệ Nghiêu không sợ phép Cao Dao.
Đất Nam trào chiếm khắp hai phương, Miêu nghịch Thuấn chẳng kinh sư Bá Võ.
Trước đã tuốt gươm thiêng hỏi tội, ai cũng mầng Hoàng đế chinh Vưu.
Sau lại đem ngọc bạch cầu hoà, người tưởng có Bạch thư thoái lỗ.
Hay đâu ngự nhung vô thượng sách.
Còn chưa thanh trọc loạn trung ba.
Vì liên miên cõi Bắc can qua, trên chúa quyết hoà Ngô đánh Ngụy.
Nên thử thứ chinh Tây thoái lữ, dưới tôi đành phạt Quắc giả Ngư.
Phụng thế ngô chi sá lũ muông Tây, mà nỡ để Đồng Nai làm U, Kế?
Rồng hưng Bái há sợ loài khỉ Sở, mà đành nơi Bình Thuận hạn Hồng Câu.
Chẳng qua là thánh trí chi tư, chước đã liệu Thiền Vu phụ Hớn.
Nên tạm kết côn di chi hảo, dạ nào quên Câu Tiễn thù Ngô.
Liều sáu tỉnh cho Võ Quan trung, ấy là chước lấy đầu Cai Hạ;
Dong một cõi để Tờn Hàm Cốc, ấy là mưu cột cổ đạo bàng.
Gẫm cửu trùng toán lượng đã cao;
Nhưng trăm họ lòng còn hãy tủi!
Tủi là tủi cơ nghiệp thần tôn thánh tổ, lúc trung hưng, khi sáng nghiệp, xưa gian truân mới có cõi bờ này;
Thương là thương dân nơi xích huyện thần châu, đạo đã lấn, mọi lại giành, cương luân hãm đâu còn trời đất cũ:
Trong Nam cảnh trông tin điếu phạt, mười sáu năm bức tức, ôm tấm lòng Tô Võ chăn dê;
Ngoài Bắc thành gặp lúc nhiễu nhương, mười ba tỉnh bồi hồi, toan những dạ Dương Hương đánh cọp:
Vả sức cọp trăm người khó địch, phận hiếu nhi còn xá nhứt sanh;
Huống đánh Tây tám cõi đều ưng, lòng ngãi sĩ chi từ vạn tử.
Người trong nước phải đền nợ nước, lựa là đợi ngàn chung muôn tứ, mới đành lòng Trương tử trả ơn Hàn;
Phận dưới trời thời giúp con trời, lựa là nhờ tấc đất ngọn rau, mới đẹp dạ thơ sanh đền ngãi Hớn.
Miễn cho đặng giang sơn y cựu, ngõ nhà vàng thong thả bức xiêm Nghiêu;
Bằng để cho di tịch tung hoành, khiến con đỏ nhộn nhàng trong cõi Thuấn.
Nghĩ từ hoàng thượng lên ngôi nhĩn lại, thuế cũng tha, khoa cũng mở, rưới hồng ơn đã khắp dưới lê dân;
Nghĩ dân ta từ Tây lại đến nay, nơi thời khổ, chốn thời nghèo, vì quốc vận dám trách trên lượng thánh.
Trách những kẻ toan lòng mại quốc, xui mã tà, ma ní, loạn mấy năm túng tượng một ngà;
Giận những người bày mối giả danh, dối rằng Lý, rằng Lê, báo thiên hạ ngỡ rồng năm vẻ.
Tội đáng đánh miếu đường đâu có bỏ;
Lẽ không dong, thảo dã quyết nào tha!
Nghe Nam dân lòng trung ngãi đỏ như son, tả đản vì Lưu, thề chẳng để Cần Giờ còn Phú lãng;
Mầng Bắc hạt dạ văn thân cương quá sắt, đầu tiên phá Lỗ, quyết không dong Kẻ Chợ có Ba Lan!
Hai phương trời đã ban gươm;
Một mối đất chưa dậy sấm.
Hay là tưởng ngọc lành đợi giá, làm tiên sanh bảo đạo mà tự cao;
Hay là toan trí giả thiện tàng, để đầu dược thành công khi bệnh dũ.
Hay là nghĩ ngôi chẳng ở, việc nhương di chi đến phận thảo lai?
Hay là rằng vua đã trị, đường kinh quốc để mặc nơi lang miếu?
Nếu như vậy thu hương xuân hội, lòng trạng ngươn còn quyết làm chi;
Gặp lúc nay Tây nhiễu Bắc nhương, tai Sào Phủ đành toan rửa sạch!
Như búa sắt chờ nơi thác tiết;
Gẫm lòng son chi sá ngãi thanh!
Vả nước nhà nuôi sĩ lâu năm, cốt là để nhờ nhau khi túng thế;
Huống mưa móc gội nhuần lắm kỉ, tua ra mà vẹt màn khí ấm tan.
Trước là đền nợ nước nga quan, cho trên biết đầu đen mà dạ đỏ;
Sau cho khỏi phận mình tả nhẫm, đặng mũi ghê mặt trắng mà gan vàng.
Sá chi bề thân phận mất còn;
Lo vì nỗi văn chương u ám.
Kẻo để Tây di đắc chánh, thời ngũ kinh chi khỏi lửa Tờn;
Bằng cho Tả đạo trưởng dân, ắt thập ác lại treo cửa Khổng!
Nghĩ mấy lúc đính lời hương hỏa, mà hai phương khói lửa còn hừng;
Bằng đến nay bác việc can qua, e thất nhựt Bạch đăng chi khỏi?
Miệng cọp phun độc, khoe rân binh giáo Chúa Trời;
Cáo giả tăm hơi, ó lác quân reo khắp tỉnh.
Kẻo để vậy tất sanh hậu hoạn;
Chi cho bằng tảo xướng tiên thanh.
Dẫu thời quai sau Tống có Kim, cũng ra sức Nhạc Phi bắc thượng;
Mà thế lỡ rốt Đường loạn Xích, dễ nhường ai Nhơn Quí tây chinh?
Chớ đổ cho vị tận nhơn mưu;
Mà ngồi đợi tất nhiên thiên số.
Thức thời vụ tại nơi tuấn kiệt, đừng sợ Tây mà hổ với Bắc phương cường.
Hãi nhơn tâm vì kể tiểu nhơn, chớ sợ đạo mà hư danh Nam khái tráng.
Nó dầu có tàu đồng neo cứng;
Ta há không lòng sắt dạ đanh!
Vả nước nhà ngàn bạn ngãi dân, Bắc xướng Nam tùy, hiếm chi chước “thiên quân yểm noãn”;
Kìa vương thổ đủ tài tuấn kiệt, Đông giương Tây kích, thiếu chi mưu “tuấn bổn tẩu hườn”!
Nó dầu khoe Tờn phú Hạng cường, câu “nghịch đức giả vong”, lẽ không thoát lưới trời trong Nam Việt;
Ta cũng có Châu nhơn Hớn ngãi, chữ “đắc dân vi bổn”, sợ chi đành cắt đất nhượng Tây di?
Lòng dân nghe trời nọ cũng nghe;
Dạ ta quyết ai mà chẳng quyết?
Việc binh cách dầu mà có thác, thác thời theo Trương, Hàn, Lưu, Nhạc cũng thơm danh;
Hàng Tây di may lại đặng toàn, toàn cũng lũ Lăng, Luật, Dự, Xương còn nhơ tiết.
Khuyên các liệt thân, biển, sắc, mục, liệu hà mưu cho Tề có Di Ngô;
Khuyên các trang hào kiệt anh hùng, liệu hà kế cho Lỗ nhiều quân tử.
Khuyên những kẻ sống còn nợ Hớn, ra mà chinh Mạnh Hoạch lúc thất cầm;
Khuyên những người thác vẫn theo Châu, linh thời độ Thương dân khi bát đảo.
Khuyên những kẻ hung tàng binh giáp, ra mà ngăn sức ngựa lúc bon chưn;
Khuyên những người phúc uẩn kinh luân, ra mà giúp cuộc cờ khi túng nước.
Binh thời chốn làng đông xã cả, một kẻ theo ngàn kẻ đều theo;
Lương thời nơi phú hộ đại điền, một người nghĩ muôn người cũng nghĩ.
Oai trời đã dậy, nỏ phát ngàn cân;
Ngãi thanh đã xướng, đá vàng trăm luyện.
Ai không tảo ứng, đã sẵn câu “sài lang nghịch đạo khởi dong từ”.
Ai chẳng thuận lai, thời có chữ “bửu giám tạo hình nan ẩn phát”.
Trên dẫu có nghiêm trừng phép nước, dễ mà đem ngọc lụa đổi can qua;
Dưới cũng nguyền sống thác cùng vua, quyết một dạ đá vàng thâu thổ võ!
~Phạm-Như-Xương~

<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.12.2010 06:43:22 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dong thơ cũ - 30.12.2010 09:08:04



NGUYỄN-DUY-HIỆU

              1847-1887

Quê Thanh-Hà, Duyên-Phúc, Quảng-Nam, đậu Cử-
Nhân, Phó Bảng, Pháp xâm lược, từ quan, hưởng
ứng phong trào Cần Vương, lập nghĩa hội chuẩn bị
kháng chiến, bịi giết năm 40 tuổi, lúc lâm hình có
bài thơ tỏ ý chí:
 
Tây nam vô địch xích đồng tri.
Tảo cập kim thời thế khả vi.
Nhược sử gian phong vô áo điện,
Hà nan trung đính thát cường di.
Hàn sơn kỉ đắc cô tùng cán,
Đại hạ yên năng nhất mộc chi.
Hảo bả đan tâm triều liệt thánh,
Trung thu minh nguyệt bạn ngô qui
~Nguyễn-Duy-Hiệu~
 
Bản dịch:
 
Vô địch Tây Nam biết đã thừa,
Thời cơ như thế lẽ ngồi trơ.
Dáo như không trở tay giàn kín,
Giặc khó gì hơn gộp lưỡi bừa.
Núi lạnh, tùng côi xơ xác đứng,
Nhà to, cột một khó khăn ngừa.
Về chầu liệt thánh lòng son đấy,
Tháng tám trăng rằm sẵn nhịp đưa.


 
PHAN-ĐÌNH-PHÙNG
            1844-1895


Sinh tại Đông-Thái, La-Sơn, Hà-Tĩnh, đậu Tiến-Sĩ,
Tri huyện Yên- Khánh, Ninh-Bình, Ngự-sử Đô-sát
viện. Năm 1885 hưởng ứng chiếu Cần vương, đứng
ra chiêu tập lực lượng chống Pháp, lập căn cứ ở Hà-
Tĩnh, dùng tướng trẻ Cao-Thắng, lập xưởng chế tạo
vũ khí, thắng nhiều trận, sau 10 năm kháng chiến,
ông bị bệnh và mất trong trong chiến hhu .


 
MẬU-TÝ NGUYÊN-ĐÁN CẢM TÁC

Lưu oanh đình ngoại ngữ hoa chi,
Hoa báo xuân quy nhân vị quy,
Bình lĩnh bách niên tư nhật nhiễu,
Hồng Sơn vạn lý vọng vân phi .
Ngô gia hữu giáo căn trung hiếu,
Khách địa vô tâm oán biệt ly .
Giai tiết thị nhân hành lạc xứ
Ngã phùng giai tiết bất thăng bi!
~Phan-Đình-Phùng~

Dịch:

Mồng một Tết Mậu-Tí cảm tác

Ngoài sân oanh hót hoa chào,
Nhắn ai xuân tới rằng sao chưa về?
Ô quành đỉnh Ngự tái tê
Hồng Sơn vạn dặm ngóng bè mây trôi .
Nhà ta trung hiếu truyền đời
Há thân đất khách đau lời biệt ly!
Rộn ràng đón Tết người đi,
Lòng ta, ta có vui gì với xuân!

~Nguyễn-Tấn-Hưng~


 
THẮNG TRẬN HẬU CẢM TÁC
 
Tài phái binh hành hốt phỉ lai,
Dư âm vị đính chính bồi hồi
Trường niên thỉnh chiến hà nhân giả
Quả bế thời gian báo tiệp hồi
 
Sơn cái cao hề thủy cái thanh!
Mỗi ư mặc tướng hiển anh linh
Bất nhiên chúng quả tương huyền thậm,
Hồ đáo khê tiền dĩ thất kinh.
~Phan-Đình-Phùng~
 
Bản dịch:
 
Cảm xúc sau khi thắng trận.
 
Vừa phái quân đi giặc đến nơi,
Lòng ta lui tới luống bồi hồi.
Người xin quyết đánh là ai đó?
Chớp mắt mà ra đã thắng rồi!
 
Chót vót non cao, nước một màu
Quỷ thần âu cũng giúp ngầm nhau.
Không dưng bên ít bên nhiều thế,
Mà đến đầu khe, đã chạy sao?
 

Lúc sắp mất ở chiến khu, ông có bài
Thuật hoài tỏ chí mình:

THUẬT HOÀI

Nhung trường phụng mạng thập canh đông.
Võ lược y nhiên vị tấu công.
Cùng hộ ngao thiên nan trạch nhạn,
Phỉ đồ biến địa thượng đồn phong.
Cửu trùng xa giá quan sơn ngoại,
Tứ hải nhân dân thủy hỏa trung.
Trách vọng dũ long ưu dũ đại,
Tướng môn thâm tự quí anh hùng.
~Phan-Đình-Phùng~
 
Bản dịch:
 
Nhung trường vâng mạng đã mười đông,
Việc võ lôi thôi vẫn chữa xong!
Dân đói vang trời kêu ổ nhạn,
Quân gian dậy đất rộn đàn ong.
Chín trùng lận đận miền quan tái,
Trăm họ phôi pha đám lửa nồng.
Trách vọng càng to càng nặng nhọc,
Tướng môn riêng hổ tiếng anh hùng.




HOÀNG-VĂN-HOÈ
           1848-1887

Quê Phù-Lưu, Từ-Sơn, Bắc-Ninh, đậu Tiến sĩ
năm 1880, Tri phũ Kiến-Xương, Thái-Bình, chiêu
mộ quân chống Pháp ở Nam-Định, Thái-Bình,
ông có bài thơ hô hào quân dân chống Pháp:
 
Sơn mãng do tiềm thử,
Giang ba hốt phí kình.
Xích mi vị năng phá,
Bạch diện bất tri binh.
Tân đảm lao thần lự,
Yêu trần thảm cổ kinh.
Nhạc quân dương tảo phát,
Thống ẩm Hoàng Long thành
~Hoàng-Văn-Hòe~
 
Bản dịch:
 
Chuột vẫn còn lẩn núi,
Kình chợt quẫy sóng sông.
Mi đỏ chưa bỏ chạy,
Mặt trắng đốt binh nhung.
Vua nước lo hôm sớm,
Kinh xưa khói mịt mùng.
Quân ta mau tiến phát,
Thẳng tới thành Hoàng Long.




<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.12.2010 09:12:25 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dong thơ cũ - 03.01.2011 11:23:52



NGUYỄN-BÁ-HUÂN
         1853-1915


Quê Vân-Sơn, Nhơn-Hậu, An-Nhơn,Bình-
Định, anh Nguyễn-Trọng-Trì, thông minh,
đi thi chỉ mang theo rượu, mỗi khi đắc ý tự
thưởng một ly, thưởng mãi hóa say, chẳng
làm được bài, sau ở nhà dạy học viết văn. 



TÂY SƠN LƯƠNG TƯỚNG
NGOẠI ĐỀ TỪ

Nho giả không đàm lễ nhạc thâm,
Tây Sơn khí vận thuộc thuần dương.
Bất nhân gian nịnh ô thanh sử,
Na đắc hùng tư khởi lục lâm.
Báo quốc nhất thân đô thị đảm,
Giao tình thiên tải chỉ luân (luận) tâm.
Vô đoan hữu tục anh hùng phổ,
Tuy mạc lâm ly bất tự câm (cấm).
Nguyễn-Bá-Huân

Tạm dịch:

Lời đề tập ngoại truyện về các
tướng giỏi của nhà Tây Sơn.

Nho sĩ bàn sâu lễ nhạc thôi,
Tây Sơn khí thuận lẽ đương rồi.
Sử xanh, gian nịnh làm hoen bẩn,
Rừng biếc, anh hùng nổi khắp nơi.
Nợ nước một thân can đảm đúc,
Giao tình nghìn thưở dạ trao lời.
Không dưng ghi lại anh hùng truyện,
Mực đượm men say vạn thảo hồi.
        

Ngòi bút thanh gươm quyết vẫy vùng.
Chỉ thắm tình dân thêu gấm nghĩa,
Đá gìn thế nước chất gan trung.
Trời Nam phất gió cờ Trương Định,
Ải Bắc ngời trăng kiếm Đặng Dung.
Linh Đỗng bá tùng muôn gốc dụm,
Mây tuôn anh khí, khí thêm hùng.
Nguyễn-Bá-Huân
         1885



NGUYỄN-TRỌNG-TRÌ
           1854-1922


Quê Vân-Sơn, Nhơn-Hậu, An-Nhơn,
Bình-Định, em Nguyễn- Bá-Huân.



BÙI PHU NHÂN CA

Xuân hàn lãnh khí như tiễn đao,
Xuân phong xuy huyết nhiễm chinh bào.
Hoàng hôn thành dốc bi già động,
Hữu nhân diện tỷ phù dung kiều.
Phu cổ trợ chiến Lương Hồng Ngọc,
Mộc Lan tòng quân Hoàng Hà Khúc.
Thùy ngôn cân quắc bất như nhân?
Dĩ cổ phương kim tam đinh túc.
~Nguyễn-Trọng-Trì~

Tạm dịch:

BÙI PHU NHÂN CA

Múa gươm lãnh khí ào ào
Gió đưa sương máu đẫm màu chiến y
Tù Và tiễn bóng chiều đi
Phù dung nữ tướng chẳng vì núng nao
Đánh trống Hồng Ngọc khác nào
Mộc Lan giữa chốn binh đao Hoàng Hà
Dám ai khinh thị đàn bà?
Vững vàng chân vạc lọ là đàn ông.
~Nguyễn-Minh-Thanh~


Cổ kim bất phạp chân anh hùng,
Năng ngự ngoại hồi vi thượng công.
Tráng tai Thị Xuân kì nữ tử,
Thống suất tì hưu biến tây đông.
Tổ tông cương thổ bất dung vong,
Nam nhi tử tất tại sa trường.
Nam nhi bất hướng sa trường tử,
Cao ca nhất khúc khán Thị Xuân.
~Nguyễn-Trọng-Trì~

Tạm dịch:

Xưa nay chẳng thiếu các bậc thật sự anh hùng,
Có thể ngăn giặc ngoài làm nên công lao.
Mạnh thay Bùi Thị Xuân, người con gái lạ lùng,
Cầm quân vùng vẫy khắp tây đông.
Đất đai tổ tông không thể để mất,
Nam nhi hẳn nhiên phải chết ở chốn sa trường.
Nếu nam nhi mà không dám hướng về sa trường để chết,
Hãy hát lớn một khúc ca mà xem gương Bùi Thị Xuân.
~Bùi-Thụy-Đào-Nguyên~


BÙI NỮ TƯỚNG

Vận nước đang xoay chuyển
Quần thoa cũng vẫy vùng
Liều thân lo cứu chúa
Công trận quyết thay chồng
Khẳng khái khi lâm nạn!
Kiên trinh lúc khốn cùng
Ngàn thu gương nữ liệt
Gương sáng hãy soi chung.
(Khuyết danh)


KINH QUÁ TÂY SƠN
DI CHỈ CẢM HOÀI

Loạn thế anh hùng sản xuất đa
Bắc Nam dược mã dự huy   qua
Thập niên huyết chiến thành hà sự,
Không thính ngư tiều túy tửu ca.
~Nguyễn-Trọng-Trì~

Tạm dịch:

Cảm xúc khi qua dấu tích Tây Sơn
Đất loạn anh hùng xuất hiện đông,
Bắc Nam giục ngựa, giáo gươm vung
Mười năm máu đổ đâu thành bại,
Nghe tiếng ca say khắp núi rừng.
~Bùi Thụy Đào Nguyên~


GỞI CHỦ NHÂN QUÁN
CŨ BÊN ĐƯỜNG

Quán cũ đây he!
Cớ sao chẳng quạt chè?
Thềm hè leo cỏ ống
Chái bếp thả bầu ve.
Rằng: Ta còn nợ nước,
Rồi cũng trả cho nghe.
~Nguyễn-Trọng-Trì~



MAI-XUÂN-THUỎNG
           1860-1887


Quê Phú-Lạc, Bình-Thành, Bình-Khê, Bình-
Định, đậu Cử-Nhân 24 tuổi, năm sau phát
động khởi nghĩa chống Pháp, mẹ bị chúng
tra tấn, dân quê bị tàn sát, ông nạp mình để
cứu mẹ và dân, bị chém, có thơ tuyệt mệnh:


Không tính làm chi việc mất còn,
Nợ trai lo trả ấy là khôn.
Gió đưa hồn nghĩa gươm ba thước,
Đá tạc lòng trung quí mấy hòn,
Tái ngắt mặt gian xương tợ giá.
Đỏ lòe bìa sách máu là son,
Rồi đây thoi ngọc đưa xuân tới.
Một nhánh MAI già trổ nụ non.
~Mai-Xuân-Thưởng~



<bài viết được chỉnh sửa lúc 04.01.2011 08:16:27 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dong thơ cũ - 04.01.2011 20:38:57



LÊ-TRUNG-ĐỊNH

     1862-1885

Sinh tại Phú-Nhơn, Sơn-Tịnh, Quảng-Ngãi.
Thủ lãnh Nghĩa-Hội, bị Pháp xử chém.


BÀI THƠ TUYỆT MỆNH

Kim nhật lung trung điểu
Minh triêu trở thượng ngư
Thử thân hà túc tích
Xã tắc ai kỳ khu!
~Lê-Trung-Đình~

Dịch:

Nay là chim trong lồng
Mai đã cá trên thớt
Thân này tiếc gì đâu
Gian nan tình đất nước!
~Hoàng-Tạo~




CHU-MẠNH-TRINH
      (1862-1905)

Quê Mễ-Sở, Vân-Giang, Hưng-Yên, tài
Hoa, lãng mạn, văn chương bay bướm,
được bổ nhiệm Tri-phủ, Án-Sát, rồi cáo
quan về nhà dưỡng bệnh, ông còn là một
nhà kiến trúc có tài, mất mới 43 tuổi.


HƯƠNG-SƠN PHONG CẢNH CA

Bầu trời cảnh Bụt,
Thú Hương-Sơn ao ước bấy lâu nay!
Kìa non, nước nước,mây mây,
Đệ nhất động, hỏi rằng đây có phải?
Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái,
Lững lờ khe Yến cá nghe kinh,
Thoảng bên tai một tiếng chầy kình,
Kháhc tang hải giật mình trong giấc mộng.
Này suối Giải-Oan, này chùa Cửa-Võng,
Này am Phật-Tích, này động Tuyết-Quynh,
Nhác trông lên ai khéo vẽ hình,
Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt,
Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt,
Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây.
Chừng giang sơn còn đợi ai đây?
Hay Tạo-Hóa khéo ra tay xếp đặt.
Lần tràng hạt niệm nam mô Phật,
Cửa từ bi công đức biết bao,
Càng trông phong cảnh càng yêu!...
~Chu-Mạnh-Trinh~


HÀM TỬ QUAN HOÀI CỔ

(Ca ngợi chiến công của Thượng tướng
Trần Quang Khải, đời nhà Trần)

Bãi dài, sông bỗng cắt ngang
Cửa quan Hàm Tử luênh loang bóng chiều
Khói mờ, cây rậm, bờ xiêu
Lầu hoang, thu lạnh, mây theo gió về...
Khoá then, nhờ đất hiểm kia
Non sông muôn thuở khôn nhoà chiến công.
Ngang ngọn giáo, khúc ca hùng
Hiên ngang nhớ thuở vẫy vùng tướng xưa...


BÀI ĐỀ THƠ TRÊN VÁCH
MIẾU MỴ CHÂU

Tình chồng vốn nặng, nghĩa cha sâu
Oan tỏ cùng ai, hận mãi đau
Móng chẳng còn thiêng, rùa đã tếch,
Ngọc lưu vết lệ, bạng chìm sâu.
Bia tàn cổ thụ, này sông núi,
Bể biếc trời xanh, nọ mối sầu...
Ngoài điện An-Dương, ngôi miếu lạnh
Trăng mờ, tiếng cuốc não canh thâu.
~Chu-Mạnh-Trinh~




LƯƠNG-KHẮC-NINH
        1862-1943

Nguyên quán Quảng-Nam, sinh tại Bảo-Hựu,
Bảo-An, Bến-Tre, tốt nghiệp Trung-Học, làm
công chức, sau lên Sàigòn làm báo, cổ động
phong trào Duy-Tân, Gửi Thơ Khuyên vua
Khải-Định nên tiếp thu và thực thi chủ trương
của Phan-Chu-Trinh:



Phan Châu Trinh thơ hậu,
Vượt bực đôi lời nghị luận
Lợi dân vì nước một đoàn;
Giữa trần ai phải rõ hệ quan;
Vua vậy, quan vậy, dân vậy, cũng là người trong thiên hạ;
Lời xưa nói: Bỉ nhứt thời, thử nhứt thời dã
Sanh làm người, mà hiếu vậy mới rằng linh
Người cho rằng vạn vật tối linh
Biết nói, biết nghe, biết hiểu, ở trên muôn loài vật.
Theo thời thế, như nước nguồn thông thoát
Nghịch ý dân, chẳng khác nào như phong với thủy
Chẳng nương chìu (chiều) đang đời này, vạn quốc thảy phong trào
Vì dân nhờ nước, nước nhờ dân ấy nghĩa.
Nước bị gió, sóng trào vun (vung) bốn phía,
Hễ gió êm thì nước lặng cả năm phương.
(dân tánh như phong, quốc lịnh như thủy, vô vi như trị, tương y dã thông).
Lập quốc dân, xã hội nghị cộng đồng.
Vạn bang đã rõ thông chánh trị
Phương viên nghĩa, lập chiến bang hữu vị.
Dân chọn người thông đạt trị giùm dân.
Hễ mà người tư tham lựa bỏ dần dần,
Quyền thay mặt vì dân quyền đều rộng.
Dân hiệp ý quyết bỏ ngôi nhứt thống,
Ngôi ấy, thuở xưa dùng vì dân tánh hãy thuần lương.
Đời xuống dần, dân hóa rộng đo lường.
Nào như buổi: cửa không gài, đồ chẳng lượm.
Lời Phan thị có nhiều lời đáng dụng
Nhưng mà xát tạt thường làm vui ích xúi dậy nhiều.
Hễ lời êm thì ít ghẹo tai kiêu, tiếng xẫm (xẵng) mau khêu nộ khí
Ngài tuy giận, mà bựt (bực) cao minh hay tàng trí,
Xin trầm ngâm đặng độ lượng mỗi lời.
Cang bạo từ mà công trực cũng để đời.
Dầu xúc phạm, mà hữu ích chung xin bớt giận
Ngôi sao rộng, nếu một mình ô nam diện.
Có phải là toàn quốc dân mang điếm nhục chung chăng?
Chẳng khác nào như mặt trời cao, bị khóm mây giăng
Thì cả thiên hạ phải mang ám sắc
Mở lượng rộng, xin đừng chấp nhứt
Cần hộ bang, dùng Phan thị vi quân sư.
Đặng mà thử sức người cho rõ sức hữu dư.
Ví như cỗ dã (giả) dụng thiên kim mài khô cốt.
Lời luận biện khó xem cùng tột,
Kiến sở hành mới tắc đắc kì tài.
Một đôi năm mà ngôn quá ư hành,
Phục phủ việt đoạn đầu đài sẽ tái xử.
Nếu mà lẫn (hóa dại) ắt bỉ ngôn lưu trường dự
Hậu thế xưng Phan thị chánh ngôn.
Sau cho rằng:
Khải Định vương quả hữu bất nhân thọ thất trách nặc nhiên van biện
Hễ là: đạo đế vị khoan dung minh đoán, ngôn ắt dã vi sư.
Ví như: Tề Tuyên vương điển lập Lạc Tư,
Nạp Vô Diệm trực gián
Tam niên hậu Tề bang đánh Hãng
Có phải nhờ: thính trực ngôn, chung đắc trị bình chăng?
Lạc giữ dân chánh trị phân minh
Tư ích kỉ trường lưu ô nhụt (nhục)
Thừa biến cuộc, quân vương thi công ích
Minh giám hậu lưu danh
Nếu xu phụ, căm những điều Phan thị dĩ trách quân,
Mà chấp nhứt, tắc hà thù vĩ sĩ.
Khổ thủ khốc cao minh tái nghị
Đặng mà thừa bị trực tránh.
Nhứt là: thức dụng nhơnbất thất kỳ danh
Hải nội chân minh quân đại đức.
Đông Dương Dị Sử Thị khẩn
Khuyên phệ minh cầu miễn trách.
Nông canh sĩ luận khống thông danhỂ.
~Lương-Khắc-Ninh~




TRẦN-CAO-VÂN
    1866-1916

Tư-Phú, Điện-Bàn, Quảng-Nam.Tham
gia Quang-Phục-Hội do cụ Phan-Bội-
Châu lãnh đạo. Khởi nghĩa bị lộ, Bị
Pháp xử chém ngày 17-5-1916.


VỊNH TAM TÀI

Trời, Đất sinh Ta có ý không
Chưa sinh Trời, Đất có Ta trong
Ta cùng Trời, Đất ba ngôi sánh
Trời, Đất in Ta một chữ đồng
Đất nứt Ta ra, Trời chuyển động
Ta thay Trời mở Đất mênh mông
Trời che, Đất chở, Ta thong thả
Trời, Đất, Ta đây đủ hóa công.
~Trần-Cao-Vân~


TUYỆT MỆNH

Trung lập kiền khôn bất ý thiên
Việt Nam văn vật cổ lai truyền
Quân dân cộng chủ tinh thần hội
Thần tử tôn châu nhật nguyệt huyền
Bách Việt sơn hà vô Bạch Sỹ
Nhất xan trung nghĩa hữu thanh thiên
Anh hùng để cục hưu thành bại
Công luận thiên thu khó sử biên
~Trần-Cao-Vân~

Dịch:

Đứng giữa càn khôn thế chẳng dời
Việt Nam văn vật tự bao đời
Vua dân chung dạ tinh sao hội
Tôi tớ bền lòng nhật nguyệt soi
Đất Việt dẫu không còn Bạch Sĩ
Khí trung kia vẫn ngập bầu trời
Anh hùng sá kể cơn thành bại
Sử sách ngàn thu chép rạch ròi.
~Nguyễn-Văn-Bính~

<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.12.2011 09:28:33 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dong thơ cũ - 21.01.2011 08:36:57



PHAN-BỘI-CHÂU

    
(1867-1940)

Quê Đan-Nhiễm, Nam-Đàn, Nghệ-An, đậu Giải
Nguyên, lập Duy-Tân Hội, khởi xướng Đông du,
lập Việt Nam Quang-Phục Hội, sau lại đổi thành
Đảng Việt-Nam Quốc Dân, bị Pháp bắt ở Thượng-
Hải, kết án khổ sai chung thân, toàn quốc đòi ân
xá nên được thả và quản thúc tại Huế.



TUYỆT MỆNH THI TAM THỦ

Nhất lạc nhân hoàn lục thập niên
Hảo phùng kim nhật liễu trần duyên
Bình sinh kỳ khí vi hà tử?
Nguyệt tại ba tâm vân tại thiên

Sinh bất năng trừ thiên hạ loạn,
Na kham tử lụy hậu lai nhân
Hảo tòng hổ khẩu hoàn dư nguyện,
Khẳng nhượng Di, Tề nhất cá nhân

Thống khốc giang san dữ quốc dân
Ngu trung vô kế cực trầm luân
Thử tâm vị liễu thân tiên liễu
Tu hướng tuyền đài diện cố nhân
~Phan-Bội-Châu~

Dịch:

Ba bài thơ tuyệt mệnh

Sáu chục năm nay ở cõi đời
Trần duyên giờ hẵn rũ xong rồi
Bình sinh chí lớn là đâu tá
Trăng rọi lòng sông mây ngất trời

Sống đã không xong trừ giặc nước
Chết đi há lụy đến người sau
Phen này miệng cọp âu đành dạ,
So với Di, Tề có kém đâu!

Thương khóc non sông với quốc dân
Tài hèn không vớt được trầm luân
Lòng này chưa hả thân đã chết,
Chín suối thẹn thùng gặp cố nhân.
~Khuyết Danh~


ÁI QUỐC

Nay ta hát một thiên ái quốc,
Yêu gì hơn yêu nước nhà ta!
Trang nghiêm bốn mặt sơn hà,
Ông cha để lại cho ta lọ vàng.
Trải mấy lớp tiền vương dựng mở,
Bốn ngàn năm giãi gió dầm mưa
Biết bao công của người xưa,
Gang sông, tấc núi, dạ dưa, ruột tằm.
Hào Đại Hải âm thầm trước mặt,
Dải Cửu Long quanh quất miền Tây.
Một tòa san sát xinh thay,
Bên kia Vân, Quảng, bên này Côn Lôn!
Vẻ gấm vóc nước non thêm đẹp.
Rắp những mong cơ nghiệp dài lâu.
Giống khôn há phải đàn trâu,
Giang sơn nỡ để người đâu vẫy vùng!
Hai mươi triệu dân cùng, của hết,
Bốn mươi năm nước mất, quyền không.
Thương ôi! Công nghiệp tổ tông,
Nước tanh máu đỏ, non chồng thịt cao!
Non nước ấy biết bao máu mủ,
Nỡ nào đem nuôi lũ sài lang?
Cờ ba sắc xứ Đông Dương,
Trông càng thêm nhục, nói càng thêm đau!
Nhục vì nước, mà đau người trước,
Nông nỗi này, non nước cũng oan.
Hồn ơi! Về với giang sơn,
Muôn người muôn tiếng hát ran câu này:
"Hợp muôn sức ra tay quang phục,
Quyết có phen rửa nhục báo thù..."
Mấy câu ái quốc reo hò.
Chữ đồng tâm ấy phải cho một lòng.
~Phan-Bội-Châu~
        1910


ÁI  QUẦN

Trời sinh ra một giống ta,
Non sông riêng một nước nhà Việt Nam.
Kể năm hơn bốn nghìn năm,
Ông cha một họ, anh em một nhà.
Giống vàng riêng một mầu da,
Đen răng, dài tóc ai mà khác ai?
Chỉ vì tan tác từng người,
Phen này đến nỗi lạc loài, xót xa.
Ai ơi! Nghĩ lại kẻo mà,
Kìa gương giống đỏ có xa đâu nào:
Chữ rằng: "Đồng chủng, đồng bào",
Anh em liệu tính làm sao bây giờ?
Sao cho nội ngoại tương phù[1],
Ba mươi sáu tỉnh cũng như một nhà.
Sao cho Nam Bắc hiệp hòa,
Hơn hai mươi triệu[2] mà ra một người.
Chớ cậy thế, chớ tham tài,
Bỏ điều lợi nhỏ, tính bài lợi chung.
Chớ ganh khí, chớ khoe công,
Dứt tình ghen ghét, bỏ lòng xai nghi[3].
Ai ơi, xin sửa mình đi,
Công tư đức ấy hai bề vẹn hai.
Những điều nát nước, tan loài,
Rước voi, cõng rắn thì thôi xin chừa.
May ra trời có chuyển cơ,
Anh em ta được như xưa sum vầy.
Họ hàng đông đủ cánh vây,
Chen vai ưu thắng, ra tay cạnh tồn.
Thể đoàn như đá chẳng mòn,
Như thành chẳng lở, như non chẳng dời.
Đừng như đàn quạ giữa trời,
Gặp cơn mưa gió vội rời nhau ra.
Có đàn thì mới có ta,
Đàn là rất trọng, ta là rất khinh.
Dù khi sóng gió bất bình,
Lợi đàn thì dẫu thiệt mình cũng cam.
Làm cho cố kết nghìn năm,
Mới hay rằng bọn người Nam anh hùng.
Làm cho nổi tiếng Lạc Hồng,
Vẻ vang dòng dõi con Rồng, cháu Tiên.
Nước nhà cơ nghiệp vẹn tuyền,
Chúng ta, ta giữ lợi quyền của ta.
Mấy câu thuận miệng ngâm nga,
Ai ơi xin nhớ bài ca hợp đoàn!
~Phan-Bội-Châu~


GỬI PHƯỜNG HẬU TỬ

Mạc sầu tiền lộ vô tri kỷ
Thiên hạ thùy nhân bất thức quân
Bảy mươi tư tuổi trải phong trần
Nay được bạn mới tinh thần hoạt hiện
Những ước anh em đầy bốn biển
Ai ngờ trăng gió nhốt ba gian
Sống xác thừa mà chết cũng xương tan
Câu tâm sự gởi chim ngàn cá biển
Mừng được đọc bài văn ‘sinh vãn’
Chữ đá vàng in mầy đoạn tâm can
Tiếc mình nay sức mỏng trí thêm khan
Lấy gì đáp khúc đàn tri kỷ
Dương dương hồ chí tại lưu thủy
Nga nga hồ chí tại cao sơn
Ðàn Bá Nha mấy kẻ thưởng âm
Chung Kỳ chết, ném cầm không gẩy nữa
Nay đang lúc tử thấn chờ trước cửa
Có vài lời ghi nhớ về sau
Chúc phường hậu tử tiến mau.
~Phan-Bội-Châu~


BÀI CA CHÚC TẾT THANH NIÊN

Dậy! Dậy! Dậy!
Bên án một tiếng gà vừa gáy,
Chim trên cây liền ngỏ ý chào mừng.
Xuân ơi xuân, xuân có biết hay chăng?
Buồn cùng sông, thẹn cùng núi, tủi cùng trăng.
Hai mươi năm lẻ đã từng chua với xót,
Trời đất may còn thân sống sót,
Tháng ngày khuây khoả lũ đầu xanh.
Thưa các cô, các chị, lại các anh:
Đời đã mới, người càng nên đổi mới.
Mở mắt thấy rõ ràng tân vận hội,
Xúm vai vào xốc vác cựu giang sơn.
Đi cho êm, đứng cho vững, trụ cho gan
Dây thành bại quyết ghe phen liên hiệp lại.
Ai hữu chí từ nay xin gắng gỏi,
Xếp bút nghiên mà tu dưỡng lấy tinh thần.
Đừng ham chơi, đừng ham mặc, ham ăn,
Dựng gan óc lên đánh tan sắt lửa.
Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ,
Mới thế này là mới hỡi chư quân!
Chữ rằng: Nhật nhật tân, hựu nhật tân...
~Phan-Bội-Châu~
        1926


THIÊN VẤN PHÚ

Trời cao mênh mông,
Này tôi hỏi ông?
Nước Việt Nam tôi,
Một góc Á Đông .

Dân Việt vẫn con trời thảy, cỏ cây vẫn đội trời chung;
Ai vắt nên hình chử S, ai ban cho hiệu con rồng?
Chẳng Mường Mọi, sao kêu bằng Lạc?
Chẳng cánh lông, sao gọi bằng Hồng?
Sao dài dặc hơn bốn ngàn năm, sống chẳng sống, chết chẳng chết?
Sao so với năm châu muôn nước, có chẳng có, không chẳng không?
Mở pho dân tộc toàn cầu, họ dân tộc sao lộn xộn, chẳng vàng chẳng trắng:
Xem bức địa đồ thế giới, sắc nước tôi sao lem nhem, chẳng lục chẳng hồng?
Vẫn từng nghe thiên đạo chí công, há lẽ cường phù nhược ức?
Vẫn cũng biết thiên ân phổ biến, vì sao ỉ sắc tư phong?

Tôi quá nghi ông!
Này tôi xin kể
Sử cũ nước tôi
Nhiều trang sứt mẻ:

Thục An Dương Vương, có đức gì mà vương?
Triệu Úy Đà có công gì mà đế?
Sao lờ mờ sử Việt, hơn hai ngàn năm xưa,
Mà tên họ người Nam, không một trang điếm xỉa?
Tới Trưng Trắc bắt đầu dựng nước;
Thiệt tổ tiên tôi đó, sao ông quá ác không cho Bà vạn đại xưng vương?
Kìa Mã Viện thạo ngón cướp người;
Là thù địch của tôi,sao ông bất nhân đã giúp nó nhất thời đắc thế?
Núi Tản, sông Lô mây nghịt nghịt tức tối vì ai?
Cẩm Khê, Lãng Bạc máu ròng ròng thảm thương chăng nhỉ?
Lại như sử Lý, Trần, Lê máu pha giọt mực:
Thủ lỉnh Hán mười thằng chín ác, sao ông còn chấp cánh cho hùm?
Độ hộ Đường ba bị chín quai, sao ông còn dẫn đường đưa giặc?
Lý Thường Kiệt nhiều phen đánh Tống, rất có công cùng chủng tộc,
thì sao thân bách chiến, ông cho chịu cung hình?
Ngô Vương Quyền độc lập thoát Tàu, đáng thịnh thọ sơn hà,
mà sao mới sáu năm, ông vội bắt về thiên quốc?
Tám đời Lý, cha con thầy tớ, chung vai gánh non sông bốn mặt,
lẽ đáng thương là trọn, sao thình lình đẻ mụ Lý Chiêu Hoàng?
Một nhà Trần, ông cháu cha con, hùn sức lùa beo cọp trăm bầy,
há để giống nào lai, sao cắc cớ sinh thằng Trần Ích  Tắc?
Qúy hóa thay! Trần Bình Trọng hăng hái thề làm Nam quỉ,
ông sao chẳng tiếc, nỡ để chết dưới ngọn dao Nguyên?
Tàn ác thay! Giặc Thoát Hoan lăm le giết sạch Nam dân,
ông sao quá thương , để nó sống về bên đất Bắc?
Mấy ngàn quân trung thành với nước, trên tay đề “Sát Thát’’
vẫn phục tùng mệnh ông đó, sao ông để Mã Nhi, Lỗ Xích vằm xẻo sướng tay?
Mấy triệu dân tức giận vì thù, đầy ruột chứa’’  Bình Ngô ”
Há chênh lệch đạo ông đâu, sao ông dung Trương Phụ, Liễu Thăng giày bừa phỉ sức?
Phục Trần nọ, những phường xỏ lá, chắc ông dư biết, sao ông quá chiều lòng giặc,
cha con Hồ, thảy nhét miệng kinh;
Tôn Lê kia, những lũ bẻ măng, sao ông dở say, nỡ bắt đày đọa trời Minh,
vua tôi Việt, hồn đau tiếng quốc!
Tôn Sĩ Nghị, thiệt tay gian xảo, đáng xương bằm đất Việt,
sao ông cho nách xéo khỏi Nam Quan?
Nguyễn Quang Trung, thiệt đấng anh hùng, đáng bia tạc trời Nam,
sao ông lại vu oan bằng Tây tặc?

Tôi dám xin ông,
Trả lời cho sáng!
Ngôi ông vẫn cao,
Đức ông vẫn rạng .

Có lẽ ông quá già chăng nọ, gương nhật tinh hồ loạn thị phi,
Những mong ông cải cách chóng cho, uy lôi điện phân minh hình thưởng .
Non nước ấy vẫn còn non nước củ, bao tá thánh hiền hào kiệt,
xin ông nay mở lượng tài bồi;
Đồng bào tôi cũng như đồng bào ai, thảy là con cháu chắt chiu,
nhờ ông hãy rộng đường lai vãng.

Đợi đợi…Chờ chờ…Năm năm…Tháng tháng…!

~Sào-Nam Phan Bội Châu~
            (1933)


RU EM

Ru hời, ru hỡi, ru hời
Nín di em hỡi chị ngồi chị ru
Nước ta từ dựng cơ đồ
Bốn ngàn năm lẻ địa đồ còn kia
Rừng vàng bể bạc thiếu gì
Non sông đất nước cũng thì người ta
Mà thử ngẫm: Xiêm La, Nhật Bản
Một vót lên cùng bạn liệt cường
Nước mình thua kém trăm đường
Sống hay chết dở mơ màng điếc câm
Nghĩ lắm lúc âm thầm chị giận
Không chủ quyền nên mất tự do
Cơ đồ tiên tổ để cho
Chỉ vì con cháu không lo giữ gìn
Nay đến nỗi không quyền tự trị
Tám mươi năm sỉ nhục lắm ai ơi
Ru hời, ru hỡi, ru hời
Mong em khôn lớn lên người
Ơn nhà nợ nước em thời lo toan
Lo toan đem lại giang san
Ðừng tham sống cái nhân tuần như ai.
~Phan-Bội-Châu~


NAM HẢI BÔ THẦN CA
(Từ Nhật Bản kí hồi Thống sứ phủ)

Á Tế Á[1] năm châu là bậc nhất,
Người nhiều hơn mà đất cũng rộng hơn.
Cuộc đời mở hội doanh hoàn,
Anh hùng bốn bể giang san một nhà.
Gẫm từ thuở Âu La[2] tìm đất,
Vượt Chi Na qua Nhật đến Triều Tiên.
Xiêm La, Ấn Độ gần liền,
Cao Miên, Đại Việt thông miền Ai Lao.
Thịt một miếng trăm dao xâu xé,
Chiếc kim âu chẳng mẻ cũng khôn lành.
Tôi con Pháp, tớ thầy Anh,
Nín hơi Đại Đức, nép mình cường Nga.
Gương Ấn Độ còn xa đâu đó,
Chẳng máu đào, nhưng cũng họ da vàng
Mênh mông một dải Đông Dương,
Nước non quanh quất trông càng thêm đau.

Cờ tự lập đứng đầu phất trước,
Nhật Bản kia vốn nước đồng văn,
Thái Đông nổi hiệu duy tân,
Nhật Hoàng là đấng anh quân ai bì?
Dòng Thần Vũ riêng về một họ,
Vùng Phù Tang soi tỏ góc trời,
Kể đời trăm hai mươi hai,
Năm hai nghìn lẻ năm mươi có thừa[3].
Sẵn cơ hội trời đưa lại đó,
Chốn kinh thành Thần Hộ[4] mới dời sang.
Dẹp Mạc Phủ, bỏ phiên bang,
Đổi dòng chính sóc, thay đường y quan.
Khắp trong nước dân đoàn xã hội,
Nhà học đường đã ngoại ba muôn.
Việc kĩ nghệ, việc bán buôn,
Nơi lò hấp bát, nơi khuôn đúc đồng.
Chè, lụa, tơ, gai, bông, nhung, vũ,
Mọi đồ sơn, vân mẫu, pha lê.
Dao với quạt, tán với xe,
Đủ mùi hải lục, hợp nghề nông thương.
Bốn lăm triệu kể lương dân số,
Các sắc quân ước độ triệu người.
Chu vi mặt đất rộng dài,
Tính vuông Pháp lí bốn mươi vạn thừa.
Bốn mốt huyện năm xưa mới đổi,
Đầu Nại Xuyên mà cuối Lộc Nhi.
Đông Kinh ba phủ cận kì,
Ngoài thì Đại Bản, trong thì kinh đô.
Tỉnh Bắc Hải dư đồ quanh bể,
Huyện Xung Thằng chưa kể đất Lưu Cầu[5].
Gò Đối Mã bốn bể sâu,
Nghiêm Đồng đặt súng, Trúc Phu đỗ tàu.
Nhà dây thép đâu đâu cũng đặt,
Truyền thông thương khắp mặt ngoại dương.
Kìa thiết lộ, nọ ngân hàng,
Đăng đàn, báo quán, ngổn ngang phụ đầu[6].
Cuộc biến pháp năm đầu Minh Trị,
Ba mươi năm dân trí mở mang,
Chữ Hán tự, chữ Tây dương,
Mọi bài diễn thuyết, các phường chuyên môn.
Đất Đại Bản mở đồn đúc súng,
Xưởng Đông Kinh riêng cũng một toà.
Trường Kì thuyền cục mấy nhà,
Dã Tân, Tu Hạ ấy là hải quân.
Tàu với súng trăm phần chấn chỉnh,
Lại ngư lôi bác đĩnh[7] ai tày.
Quan quân luyện tập đêm ngày,
Mọi nghề so với Thái Tây kém gì.
Đội mã bộ, lục sư các trấn.
Từ Hà Di đến tận Tát Ma.
Tám đạo rộng, bốn gò xa,
Phú Sơn cao ngất, Tì Bà trong veo[8].
Tướng, tá, uý, cũng theo Tây lệ,
Đủ vương binh, pháo vệ chỉnh tề,
Đồng bào nghĩa khí gớm ghê,
Cái thù nô lệ, ắt thề giả xong.
Năm Giáp Ngọ[9] đùng đùng sóng gió,
Vượt quân sang thẳng trỏ Đại Hàn.
Quân Lục Áo, tướng Thái Sơn,
Ra tay cho biết cái gan anh hùng.
Đông tam tỉnh[10] thu trong tay áo,
Bọn trắng da ngơ ngáo giật mình,
Cuộc hoà đâu bất thình lình,
Chủ trương này dễ Nga đình vẽ khôn.
Bụng ái quốc ghê hồn Nhật Bản,
Giận xung quan khôn cản nghĩa đồng cừu.
Đã toan trở súng quay tàu,
Y Đằng[11] can khéo mưu sâu vãn hồi.
Nhận bồi khoản Bành, Đài nhượng địa,
Trong mười năm rồi sẽ chịu nhau.
Nga kia nước lớn lại giàu,
Bên giường giấc ngáy, dễ hầu chịu yên,
Hàn với Mãn lợi quyền thu sạch[12],
Xe Nhĩ Tân, tàu lạch Sâm Uy[13].
Cõi Đông đương cuộc an nguy,
Có ta, ta phải phù trì chúng ta.
Việc khai hấn chắc là quyết liệt,
Đất Á Đông thấy huyết phen này.
Giáp Thìn trong tháng Chạp tây,
Chiến thư hai nước đợi ngày giao tuy.
Trận thứ nhất Cao Li lừng tiếng,
Khắp toàn cầu muôn miệng đều khen.
Sa trường xung đột mấy phen,
Ngọn cờ Áp Lục, tiếng kèn Liêu Đông.
Châu Lữ Thuận mơ màng khói bạc,
Thành Phụng Thiên ngơ ngác non xanh.
Hải quân một trận tan tành,
Thái Hoa cắt núi, Đông Thanh xẻ đường.
Sức hùng vũ ai đương lại được,
May điều đình có nước Hoa Kì.
Khéo điều hoà cuộc giải vi,
Nếu không Bỉ Đắc[14] còn đâu là đời.
Hội vạn quốc diễn bài thương nghị,
Chấu mới voi chuyện cũng nực cười.
Xem trong hoà khoản mười hai,
Bề nào Nga cũng chịu lui trăm phần.
Cuộc tang hải khuất thân từng lúc,
Áng liệt cường nay cũng chen vai.
Khen thay Nhật Bản anh tài,
Từ nay danh dự còn dài về sau.

Ngồi mà nghĩ thêm sầu lại tủi,
Nước Nam mình gặp buổi truân chuyên.
Dã man quen thói ngu hèn,
Cũng như Minh Trị dĩ tiền khác đâu.
Từ giống khác mượn màu bảo hộ,
Mưu hùm tinh, lừa lũ voi già.
Non sông thẹn với nước nhà,
Vua là tượng gỗ, dân là thân trâu.
Việc dây thép, việc tàu, việc pháo,
Việc luyện binh, việc giáo học trường,
Việc công nghệ, việc nông thương,
Việc khai mỏ khoáng, việc đường hoả xa.
Giữ các việc chẳng qua người nước,
Kẻ chức bồi, người tước culi.
Thông ngôn kí lục chi chi,
Mãn đời lính tập, trọn vì quan sang.
Các thức thuế các làng thêm mãi,
Hết đinh điền rồi lại trâu bò.
Thuế chó cũi, thuế lợn bò,
Thuế diêm, thuế tửu, thuế đò, thuế xe.
Thuế các chợ, thuế trà, thuế thuốc,
Thuế môn bài, thuế nước, thuế đèn.
Thuế nhà cửa, thuế chùa chiền,
Thuế rừng tre gỗ, thuế thuyền bán buôn.
Thuế gò, thuế bãi, thuế cồn,
Thuế người chức sắc, thuế con hát đàn.
Thuế dầu mật, thuế đàn đĩ thoã,
Thuế gạo rau, thuế lúa, thuế bông.
Thuế tơ, thuế sắt, thuế đồng,
Thuế chim, thuế cá, khắp trong lưỡng kì.
Các thức thuế kể chi cho xiết,
Thuế xia kia mới thật lạ lùng,
Làm cho thập thất cửu không,
Làm cho xơ xác, khốn cùng chưa thôi.
Lại nghe nỗi Lào Cai, Yên Bái[15],
So muôn người như giải lũ tù.
Ăn cho ngày độ vài xu,
Việc làm gian khổ, công phu lạ lùng.
Độc thay phong chướng nghìn trùng,
Nước sâu quẳng xác, hang cùng chất xương.
Nỗi diệt giống bề lo bề sợ,
Người giống ta biết có còn không?
Nói ra sởn gáy động lòng,
Cha con khóc lóc, vợ chồng thở than.
Cũng có lúc bầm gan tím ruột,
Vạch trời kêu mà tuốt gươm ra.
Cũng xương cũng thịt cũng da
Cùng hòn máu đỏ, giống nhà Lạc Long.
Thế mà chịu trong vòng trói buộc,
Bốn mươi năm nhơ nhuốc lầm than.
Thương ôi! Bách Việt giang san,
Văn minh đã sẵn, khôn ngoan có thừa.
Hồn mê mẩn tỉnh chưa, chưa tỉnh?
Anh em ta phải tính nhường sao.
Đôi bên, bên nọ, bên cừu,
Họ khôn phải học, cừu sâu phải đền.
Việc tân học phải đem dựng nước,
Hội dân đoàn, cả nước với nhau.
Sự buôn phải lấy làm đầu.
Mọi nghề cũng ghé địa cầu một vai.
Bây giờ kể còn dài chưa hết,
Chữ tự do xin kết bên lòng.
Gương Nhật Bản đất Á Đông,
Giống ta, ta phải soi trông kẻo nhầm.
Bốn mươi triệu đồng tâm nhất đức,
Mãnh hổ kia đem sức với quần dương.
Hiệu cờ nổi chữ tự cường,
Thay bầy nô lệ làm phường văn minh.
Kìa thuở trước như Anh, Pháp, Đức,
Cũng chẳng qua cùng cực tắc thông,
Hoạ may trời có chiều lòng,
Việt Nam dựng lại, phương Đông có mình.
Thân phiêu bạt đã đành vô lại,
Bấy nhiêu năm Thượng Hải, Hoành Tân.
Chinh Nga nhân lúc hoàn quân,
Tủi mình bô bá[16], theo chân khải hoàn.
Bưng chén rượu ân ban hạ tiệp[17],
Gạt hàng châu khép nép quỳ tâu,
Thiên Nam mù mịt ngàn dâu,
Gió Tây như thồi dạ sầu năm canh.
Biết bao nỗi bất bình khôn giải.
Mượn bút hoa mà cải quốc âm,
Thân giàn bao quản cát lầm,
Khuyên ai đúc chữ đồng tâm sau này.
~Phan-Bôi-Châu~
       (1906)

(Theo "Văn thơ Đông-Kinh nghĩa thục" của Võ-Văn-Sạch, Nxb Văn Hoá, Hà Nội, 1997.


Chú thích:
[1] Á Tế Á: châu Á, phiên âm từ “Asie”.
[2] Âu La Ba: châu Âu, phiên âm từ “Europe”.
[3] Mạc Phủ: thủ lĩnh của chư hầu thường lấn át quyền vua; Phiên Bang: những nước chư hầu nhỏ.
[3] Kể từ khi lập quốc đến nay có 2500 năm lịch sử và trải qua 122 đời vua cùng họ.
[4] Thần Hộ: Kobe
[5] Lưu Cầu: quần đảo Ryukyu ở phía nam Nhật Bản, nay là Okinawa.
[6] Cột đèn bể, nhà bán báo, đầy rẫy ở bến tàu (phụ đầu).
[7] Bác đĩnh: pháo thuyền nhỏ, có đặt súng đại bác.
[8] Phú Sĩ: núi Fuji gần Kyoto; Tì Bà; hồ Biwa gần Kyoto.
[9] Năm 1894. Cả đoạn thơ này nói về việc tranh chấp giữaTrung-Nhật thời đó.
[10] Tức ba tỉnh miền Đông TQ là Phụng Thiên, Cát Lâm, Hắc Long Giang.
[11] Y Đằng tức Ito, thủ tướng Nhật thời đó.
[12] Chỉ Triều Tiên và Mãn Châu bị xâm chiếm.
[13] Đường xe lửa Cáp Nhĩ Tân và bến tàu thuỷ hải Sâm Uy.
[14] Bỉ Đắc: Thành phố Saint Péterbourg, thủ đô Nga. Ý câu này nói Nga có thề mất cả kinh đô.
[15] Chỉ việc làm đường xe lửa Yên Bái-Lào Cai.
[16] bô bá: trốn tránh
[17] hạ tiệp: tiệc tượu vui mừng chiến thắng


<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.01.2011 08:39:15 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dong thơ cũ - 29.01.2011 11:12:59



ĐẶNG-VĂN-BÁ

     
1873-1931

Quê Phất-Náo, Thạch-Hà (Thạch-Bình),
Hà-Tĩnh, đỗ Cử Nhân, tham gia phong trào
Duy-Tân, nhiệt tình yêu nước, bị Pháp bắt
đày đi Côn- Đảo với Ngô-Đức-Kế, được
thả, về Sàigòn, Huế, Sống với Phan-Bội-
Châu, rồi về quê và mất tại đây.


SỐNG

Sống dại mà chi sống chật đời!
Sống xem Âu Mỹ hổ chăng ai?
Sống làm nô lệ cho người khiến,
Sống chịu ngu si để bạn cười!
Sống tưởng công danh không tưởng nước,
Sống lo phú quí chẳng lo đời.
Sống mà như thế đừng nên sống,
Sống dại sinh chi đứng chật đời.
~Đặng-Văn-Bá~


CHẾT

Chết mà vì nước, chết vì dân,
Chết ấy làm trai hết nợ nần.
Chết bởi Đông-Chu hồi thất quốc,
Chết vì Tây-Hán lúc tam phân.
Chết như Hưng-Đạo hồn thành thánh,
Chết tựa Trưng-Vương phách hóa thần.
Chết cụ Tây-Hồ hồn chẳng chết,
Chết mà vì nước, chết vì dân.
~Đặng-Văn-Bá~




LỮ-XUÂN-UY
   
1838-1890

Quê Thượng-Nông, Phong-Doanh, Nam-Định
(Yên-Tiến, Ý-Yên, Nam-Định), đỗ Phó Bảng,
Tuần Phủ Lạng-Sơn, quân Pháp tiến đánh, thành
thất thủ, lánh sang Tàu, sau về liên lạc các
nhóm Nghĩa quân đánh Pháp nhiều nơi, bị
bắt đày ra Côn-Đảo đầu tiên và mất tại đó.
Lúc ngồi tù ông khẩu chiếm bị cạo trọc
đầu như nhà sư:

Kỷ tằng Bắc khứ trang Thanh khách,
Hà sự Nam hành tác trụ trì.
Hải đảo khoát khai tân diện mục,
Doanh châu tân tráng cựu tu mi.
Hoàng y bồng chuyển khan dương thế,
Bạch đáo ô đầu tiếu bỉ khi.
Đính đới hà sơn chung bấtcải,
Quy lai đồng trĩ mạc tương nghi.
~Lữ-Xuân-Uy~

Bản dịch:

Đã từng sang Bắc giả người Tàu,
Sao lại xuôi Nam hóa ở chùa?
Hải đảo mở toang tầm mắt mới,
Doanh châu thêm rạng vẻ mày râu.
Cõi đời luống tựa bồng xoay chuyển.
Cười chúng lừa nhau quạ trắng đầu.
Phụng sự non sông không biến đổi,
Trở về con trẻ khỏi ngờ nhau.
~Lữ-Xuân-Uy~



LÊ-VÕ
…-1941

Quê Trung-Lễ, Văn-Lâm, Đức-Thọ, Hà-Tĩnh, Dự
lập Hội đồng Duy Tân, sang Trung-Quốc, Nhật, về
nước hoạt động, sắp đi lần 2 thì bị bắt giam ở Vinh
rồi bị đưa ra Côn-Đảo, 14 năm sau được thả,
sống âm thầm ở quê, làm thuốc cứu đời, khi
giam ở Vinh ông làm bài thơ:

男 儿 最 苦 公 家 債,
造 物 河 狻 志 士 讎,
身 世 优 危 清 浪 績,
山 河 破 誶 位 亡 区.
梨 圓 子 弟 如 星 散.
故 國 风 云 尽 日 幽.
不 式 武 抬 何 處 覓,
杜 捐 渾 軸 伍 更 秋”


Phiên âm:

Nam nhi tối khổ công gia trái,
Tạo vật hà toan chí sĩ thù.
Thân thế ưu nguy thanh lãng tích,
Sơn hà phá toái vị vong khu.
Lê viên tử đệ như tinh tán,
Cố quốc phong vân tận nhật u.
Bất thức võ đài hà xứ mịch,
Đỗ quyên hồn trục ngũ canh thu!
~Lê-Võ~
            
Dịch nghĩa:

Nợ chung vướng nặng vai nam tử,
Thù nước chi hờn bác hóa công.
Vẫn biết cuộc đời xe cát biển,
Cũng liều cái chết với non sông.
Anh em thuở nọ tìm đâu thấy,
Đất nước hôm rày hết chỗ trông.
Kìa chốn võ đài đâu đấy nhỉ?
Hồn quyên lai láng suốt canh đông!"


<bài viết được chỉnh sửa lúc 28.10.2011 10:43:52 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dong thơ cũ - 09.02.2011 09:40:52




NGUYỄN-THUỢNG-HIỀN

            
1868-1925

Quê Liên-Bạt, Ứng-Hòa, Hà-Đông, đậu Cử-Nhân,
Hoàng-Giáp, làm Toản Tu Quốc Sử, Đốc Học Ninh-
Bình, từ quan, sang Nhật theo phong trào Đông du,
liên lạc với các nhà Cách mạng lo việc cứu nước,
công việc không thành, sang Tầu vào tu ở chùa
Thường-Tịch-Quang tại Hàng-Châu và tịch tại đó,
theo di chúc, tro được thả xuống sông Tiền-Đường.



THUẬT CẢM

術感

匹馬煙塵別舊林,
捐 驅誓報國恩深。
補天填海雖難事,
破釜沉舟自壯心。
萬里征衫隨雁渡,
三更雄劍作龍吟。
何時親繫彊胡頸,
歸對江山酒滿斟。

Thất mã yên trầm biệt cựu lâm,
Quyên khu thị báo quốc ân thâm.
Bổ thiên điền hải tuy nan sự,
Phá phủ trầm chu tự tráng tâm.
Vạn lý chinh san tùy nhạn độ,
Tam canh hùng kiếm tác long ngâm.
Hà thời thân hệ cường Hồ cảnh,
Qui đối giang san tửu mãn châm
~Nguyễn-Thượng-Hiền~

Bản dịch:

Ngựa biệt rừng xưa khói bụi tung,
Cao dày ơn nước quyết đền xong,
Vá trời lấp biển dù gian khổ,
Thuyền đắm rồi tan chẳng ngại ngùng.
Áo khoác đường trường theo bóng nhạn,
Gươm thiêng đêm vẳng thét oai rồng.
Ngày nào tay trói quân Hồ lỗ,
Rót chén vui mừng với núi sông.

Cụ Phan Bội Châu nghe tin ông mất có bài văn tế rất thống thiết:

"Than ôi! Dâu chìm biển nổi ngán cuộc đời mây gió đòi phen; Kẻ Bắc người Nam xót tình bạn ruột tằm mấy đoạn.
Cây tàn núi lở, dấu sư nho khôn biết đâu tìm; Trời sập đất già, nguồn đạo nghĩa chẳng bao giờ cạn.
Lững lơ mây bạc cuối trời; Thấp thoáng gió hương trước án.
Nhớ tiên sinh: thơ kiểu Thịnh Đường, văn khuôn Tiền Hán.
Nức tài danh tự thuơ ấu đồng; Kể môn phiệt vẫn nhà khoa hoạn.
Ngang mắt trắng liếc phường hủ tục, kệ thây cá chậu chim lồng;
Bước mây xanh che mặt trần ai, thời cũng bảng rồng tháp nhạn.
Vận Tổ quốc rủi gặp hồi truân bĩ, nghiệp trung hưng mong mỏi xoay trời;
Nơi đình vi vừa nhẹ gánh thần hôn, đường muôn dặm vội vàng dắt ban.
Ngó cân đai cáng tuôn lệ ngọc, Tống Văn Sơn gay mắt với Hồ Nguyên;
Nhớ nước non thêm nóng gan vàng, Châu Thuấn Thuy băng ngàn qua Nhật Bản.
Vượt khơi cưỡi gió, lưới bủa chẳng nề; nếm mật nằm gai, tuyết sương bao quản.
Gót bôn tẩu trải bao phen nguy hiểm, khi Hương Cảng, khi Quang Đông, khi Long Châu, khi Băng Cốc, tức tối đất không dụng võ, giọt khấp đình ai nếm máu Thân Tư: Thuốc cứu đời toan mượn ngón văn chương, nào Yên Kinh, nào Tam Tinh, nào Ngô Quận, nào Hán Thành, ngậm ngùi trời chẳng chìu người, phường y quốc khó ra tay Biền Hoãn.
Ngoài năm chục thân già lận đận vóc hạc mình mai; Hai mươi năm hồn mộng đi về, sông Lô núi Tản.
Phong triều đất khách, tóc trắng điểm sầu; Nhật nguyệt trời riêng, lòng son chẳng vẹn.
Hai mươi lăm triệu xương tan thịt nát, xót đồng bào giữa biên trầm luân. Những toan một mình mô tối chuông mai, dắt đại chúng thoát vòng hạn hán.
Luống ước trời Nam đất Việt, khắp mọi vùng mưa pháp mây từ, Thôi đành cửa Phật buồng Thiền, chuyên một niệm câu kinh quyển tán...
(...)
Hồn hỡi chứng cho, mấy lời đơn giản.

~Phan-Bội-Châu~




PHẠM-TƯ-TRỰC
     
1869-1921

Tức Phạm-Đăng-Thê, quê Hoàng-Xá, Nguyên-Xá,
Vũ-Thư, Thái-Bình, đậu Tú-Tài, Huấn-Đạo huyện
Thanh-Miện, tham gia phong trào Đông-Du và Duy-
Tân, Phủ Thống-Sứ Bắc-Kỳ giao ông soạn quyển
Quốc Sử Việt-Nam, mmới viết mấy chương đầu, bị
nghi và trả về nhiệm sở cũ. Đoạn mở đầu Việt -sử
ông viết như sau:


Ngô quốc bản phi ti,
Ngô tộc diệc phi di.
Văn phong loát Trung Quốc,
Võ lược khai biên thùy.
Chi Lăng tẩu Tống binh,
Bạch Đằng phá Nguyên si (sư).
Lê tổ, Trần Hưng Đạo,
Hách hách thanh danh thùy.
Phong tuy độc bất thích đồng quần,
Hổ tuy bạo bất thực đồng khí.
Vật loại thương như tư,
Nhân loại hồ bất thị
Phù xà giảo gia kê
Tích nhân sử thâm bi
Tư ngôn như bất tín,
Khuyến quân tộc Nam sử.

Ông tự dịch:

Nước ta vốn văn minh đã trải,
Dân ta nào có phải hèn đâu.
Văn phong ngang sách nước Tàu,
Võ công đánh dẹp bấy lâu lẫy lừng.
Phá giặc Tống, Chi Lăng thuở trước,
Trận Bạch Đằng đuổi được quân Nguyên.
Vua Lê giữ vẹn ngoài biên,
Mà Trần Hưng Đạo nên thiên anh hùng.
Dữ như hổ, độc như ong.
Nhưng trong đàn nó không cùng hại nhau.
Làm người sao chẳng nghĩ sâu,
Để cho người trước chế câu “cắn gà”.
Ví không tin ở lời ta,
Hãy xem Nam sử để mà thử coi.
………………………………
~Phạm-Tư-Trực~



HỐ-SĨ-TẠO
 
1869-1934

Quê Hòa-Cư, Tuy-Viễn (Tuy-Phước) Bình-Định,
đậu Tiến sĩ 35 tuổi, được bổ làm Tri-Huyện Tân-Định
(Ninh-Hoà) Khánh-Hoà. Hưởng ứng phong trào Duy
Tân, bị bắt giam, trong tù ông cảm khái lúc xuân về:

Năm mới ngày xuân cha chả vui
Vui rồi nghĩ lại vẫn bùi ngùi
Một thân võng lọng, gông cùm đủ
Nửa áng xuân thu khổ sướng rồi
Chương chướng ngoài tai trâu ngựa gọi
Khăng khăng trong dạ đá vàng trui,
Từ đây cho đến về sau nữa,
Sau nữa ra răng để thử coi”.
~Hồ-Sĩ-Tạo~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 28.02.2011 20:38:24 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dong thơ cũ - 20.02.2011 00:34:04





TRẦN-TẾ-XƯƠNG
        
1870-1907

Sinh ở Vị Xuyên, Mỹ Lộc, Nam Định
(sau đổi thành phố Hàng Nâu, hiện
nay là phố Minh Khai, phường Vị
Xuyên, thành phố Nam Định.


BA CÁI LĂNG NHĂNG

Một trà một rượu một đàn bà,
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta,
Chừa được cái gì hay cái nấy,
Có chăng chừa rượu với chừa trà.
~Trần-Tế-Xương~


CHỮ NHO

Nào có ra gì cái chữ nho!
Ông nghè ông cống cũng nằm co.
Chi bằng đi học làm ông phán
Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò!
~Trần-Tế-Xương~


ĐÊM DÀI

Sực tỉnh trông ra ngỡ sáng loà,
Đêm sao đêm mãi thế ru mà ?
Lạnh lùng bốn bể ba phần tuyết,
Xao xác năm canh một tiếng gà.
Chim chóc hãy còn nương cửa tổ,
Bướm ong chưa thấy lượn vườn hoa.
Nào ai là kẻ tìm ta đó,
Đốt đuốc mà soi kẻo lẫn nhà.
~Trần-Tế-Xương~


ĐỒNG TIỀN

Phàm kim chi nhân, duy tiền nhi dĩ
Hết tiền tiêu, tráng sĩ cũng nằm co!
Chẳng dại khôn cũng chẳng thân sơ,
Có hơi kẽm, tha hồ ngang ngửa!
Thơ rằng :
Toán lai thế sự kim năng ngữ
Thuyết đáo nhântình kiếm dục minh
Dơ dáng thay những mặt tài tình
Co quắp lắm cũng ra hình thủ lỗ
Tiền dẫu hết, hết rồi lại có
Chữ bất nhân tạc đó không mòn.
Ai ơi giữ lấy lòng son!
~Trần-Tế-Xương~

Chú thích:                                                                   
1-    Người đời nay, thường chỉ tiền mới
        có thể giải quyết được mọi sự
2-    Tính lại việc đời thì vàng (tiền) có thể
        biết nói năng. Nói đến nhân tình (cảnh
        con người) lưỡi kiếm muốn kêu lên.
3-    Ý nói : kể cả những kẻ tài tình mà ham hố
        với đồng tiền quá cũng thành kẻ ki bo, bẩn thỉu.


LỄ XƯỚNG DANH KHOA ĐINH DẬU

Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường Hà
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Ậm ọe quan trường miệng thét loa
Cờ kéo rợp trời, quan sứ đến
Váy lê quét đất, mụ đầm ra
Nhân tài đất Bắc nào ai đó?
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà!
~Trần-Tế-Xương~


NĂM MỚI CHÚC NHAU

Lẳng lặng mà nghe họ chúc nhau
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu.
Phen này ông quyết đi buôn cối
Thiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu

Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang
Đứa thì mua tước đứa mua quan.
Phen này ông quyết đi buôn lọng
Vừa chửi vừa rao cũng đắt hàng.

Nó lại chúc nhau cái sự giàu,
Trăm nghìn vạn mớ để vào đâu?
Phen này ắt hẳn gà ăn bạc
Đồng rụng đồng rơi lọ phải cầu?

Nó lại mừng nhau có lắm con
Sinh năm đẻ bảy được vuông tròn
Phố phường chật hẹp người đông đúc
Bồng bế nhau lên nó ở non,

Bắt chước ai ta chúc mấy lời:
Chúc cho khắp hết cả trên đời
Vua, quan, sĩ, thứ người trong nước
Sao được cho ra cái giống người!
~Trần-Tế-Xương~


PHÚ HỎNG THI KHOA CANH TÝ

      Đau quá đòn hằn,
      Rát hơn lửa bỏng
      Hổ bút hổ nghiên,
      Tủi lều tủi chõng.

Nghĩ đến chữ "lương nhân đắc ý"[1], thêm nỗi thẹn thùng,
Ngẫm đến câu "quyển thổ trùng lai"[2], nói ra ngập ngọng.
Thế mới biết học tài thi phận, miệng đàn bà con trẻ nói vậy mà thiêng.
Nào ai ngờ chữ tốt văn hay, tài bảng nhãn thám hoa lỡ ra cũng hỏng.

 Có một thầy :
 Dốt chẳng dốt nào ;
 Chữ hay, chữ lỏng.
 Nghiện chè nghiện rượu, nghiện cả cao lâu,
 Hay hát hay chơi, hay nghề xuống lõng.[3]
 Quanh năm phong vận, áo hàng gù, khăn nhiễu tím, ô lục soạn xanh,[4]
 Ra phố nghênh ngang, quần tố nữ[5], bít tất tơ, giày Gia Định bóng[6].
 Giá cứ chăm nghề đèn sách thì mười lăm mười sáu đỗ tự bao giờ
 Chỉ vì quen lối thị thành, nên một tuổi một già, hoá ra lóng ngóng[7].
 Tú rốt bảng giữa năm Giáp Ngọ, nổi tiếng tài hoa[8],
 Con nhà dòng ở đất Vị Xuyên, ăn phần cảnh nọng[9]
 Năm vua Thành Thái mười hai,
 Lại mở khoa thi Mỹ Trọng[10]
 Kỳ đệ tam văn đã viết rồi,
 Bảng đệ tứ chưa ra còn ngóng.
 Thầy chắc hẳn văn chương đúng mực, lễ thánh xem giò[11]
 Cô mừng thầm mũ áo đến tay, gặp người nói mộng[12].
 Sáng đi lễ phật, còn kỳ này kỳ nữa là xong,
 Đêm dậy vái trời, qua mồng bốn mồng năm cho chóng.

 Nào ngờ :
 Bảng nhỏ có tên
 Ngoại hàm còn trống.[13]
 Kẻ đến sáng văn còn được chấm, bảng cót nghênh ngang[14] ;
 Người ngồi khuya tên hãy được vào, áo dài lụng thụng.
 Thi là thế, học hành là thế, trò chuyện cùng ai?
 Người một nơi, hồn phách một nơi, than thân với   bóng!

Thôi thời thôi :
 Sách vở mập mờ;
 Văn chương lóng ngóng.
 Khoa trước đã chầy;
 Khoa sau ắt chóng.
 Hẳn có kẻ lo toan việc nước, vua chửa dùng tài;
 Hay không ai dạy dỗ đàn con, trời còn bắt hỏng!
 ~Trần-Tế-Xương~

Chú thích:
1-    Lương nhân đắc ý: Người chồng (hoặc vợ) đắc ý, được thể. Tác giả dùng chữ sẵn trong sách cổ, hàm ý nói những tưởng có thể đỗ đạt vinh dự
2-    Quyển thổ trùng lai: chữ rút từ thơ của Đỗ Mục tiếc thương cho Hạng Vũ, đại ý nói là "Con em xứ Giang Đông có lắm người tài giỏi. Nếu biết dốc hết lực lượng để đánh quật trở lại (quyển thổ trùng lai) thì chưa biết cục diện sẽ thế nào"
3-    Xuống lõng: chỉ việc xuống thuyền chơi gái, hát ả đào trên mặt sông.
4-    Ô lạc hoạn: Ô che bằng thứ lụa màu xanh óng ánh
5-    Quần tố nữ: Quần may bằng vải trắng đẹp hiệu Tố Nữ
6-    Giày Gia Định: giày ta, hở gót, mũi da đen bóng, sản xuất ở Gia Định (Nam Bộ)
7-    Lóng ngóng: lao đao, lận đận
8-    Tú rốt bảng: đỗ tú tài cuối cùng bảng. Tú Xương đỗ vào loại "thiên thủ" (lấy thêm)
9-    Cảnh nọng: khoanh thiệt cắt ở phần cổ trâu, bò hoặc lợn. Theo tục lệ nông thông trước đây, trong mỗi kỳ việc làng, đó là phần được hưởng của người đứng vị trí thứ hai trong làng xã (tiên chỉ, người đứng đầu, được hưởng phần sở).
10-    Mỹ Trọng: tên xã ngoại ô Nam Định, nơi đặt trường thi.
11-    Xem giò: xem chân gà luộc đem cúng để đoán điềm tốt xấu
12-    Nói mộng: kể lại giấc chiêm bao để thầy bói đoán điềm may rủi
13-    Ngoại hàm: Ngoài hòm, theo thể lệ thi củ, thí sinh nộp quyển bỏ vào một cái hòm để sẵn. Hết giờ thu quyển, người ta đánh một hồi trống, dứt hồi trống ấy thì những quyển nộp chậm phải để ngoài hòm, không được chấm nữa. Cả hai câu ý noi: đã phạm trường quy thì dù còn chưa dứt hồi trống thu quyển, quyển coi như bị loại ra ngoài hòm rồi.
14-    Bảng cót: bảng ghi tên những thí sinh được vào kỳ sau


PHÚ THẦY ĐỒ

Thầy đồ thầy đạc,
Dạy học dạy hành.
Vài quyển sách nát,
Dăm thằng trẻ ranh.
Văn có hay đã đỗ làm quan, võng điều võng tía,
Số có giỏi đã ra giúp nước, khố đỏ khố xanh.
Ý hẳn thầy văn dốt vũ dát:
Cho nên thầy lẩn quẩn loanh quanh.

Trông thầy:
Con người phong nhã,
Ở chốn thị thành,
Râu rậm như chổi,
Đầu to tày giành.
Cũng lắm phen đi đó đi đây, thất điên bát đảo,
Cũng nhiều lúc chơi liều chơi lĩnh, tứ đốm tam khoanh.
Nhà lính, tính quan: ăn rặt những thịt quay, lạp xưởng, mặc rặt những quần vân, áo xuyến,
Đất lề quê thói: chỗ ngồi cũng án thư, bàn độc, ngoài hiên cũng cánh xếp, mành mành.
Gần có một mụ, sinh được bốn anh.
Tên Uông, tên Bái, tên Bột, tên Bành.
Mẹ muốn con hay, rắp một nỗi biển, cờ, mũ, áo,
Chủ rước thầy học, tính đủ tiền chè, rượu, cơm, canh.
Chọnh ngày lễ bái,
Mở cửa tập tành
Thầy ngồi chễm chện,
Trò đứng xung quanh.
Dạy câu Kiều lẩy,
Dạy khúc Lý kinh.
Dạy những khi xuống ngựa lên xe, đứng ngồi phải phép,
Dạy những lúc cao lâu chiếu hát, ăn nói cho sành!
~Trần-Tế-Xương~


SÔNG LẤP

Sông kia rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai
Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò
~Trần-Tế-Xương~


THƯƠNG VỢ

Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo xèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ, âu đành phận.
Năm nắng mười mưa, dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc!
Có chồng hờ hững cũng như không.
~Trần-Tế-Xương~


THAN CÙNG

Lúc túng toan lên bán cả trời,
Trời cười thằng bé nó hay chơi.
Cho hay công nợ là như thế,
Mà vẫn phong lưu suốt cả đời.
Tiền bạc phó cho con mụ kiếm,
Ngựa xe chẳng thấy lúc nào ngơi.
Còn dăm ba chữ nhồi trong ruột,
Khéo khéo không mà nữa lại rơi!
~Trần-Tế-Xương~


NHỚ NGƯỜI XA

Ta nhớ người xa cách núi sông,
Người xa, xa có nhớ ta không?
Sao đương vui vẻ ra buồn bã,
Vữa mới quen nhau đã lạnh lùng?
Lúc nhớ, nhớ cùng trong mộng tưởng,
Khi riêng, riêng cả đến tình chung.
Tương tư lọ phải là trai gái,
Một ngọn đèn xanh, trống điểm thùng!
~Trần-Tế-Xương~


CẢM TẾT

Anh em đừng tưởng tết tôi nghèo,
Tiền bạc trong kho chửa lãnh tiêu.
Rượu cúc nhắn đem, hàng biếng quẩy,
Trà sen mượn hỏi, giá còn kiêu.
Bánh chưng sắp gói e nồm chẩy,
Giò lụa toan làm sợ nắng thiu.
Thôi thế thì thôi đành tết khác,
Anh em đừng tưởng tết tôi nghèo.
~Trần-Tế-Xương~


<bài viết được chỉnh sửa lúc 28.02.2011 20:56:23 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dong thơ cũ - 28.02.2011 20:34:12




PHAN-CHU-TRINH
         
1872-1926

Quê Tây-Lộc, Tiên-Phước,Tam-Kỳ, Quảng-Nam,
đậu Cử-Nhân, sớm ý thức cách mạng, làm bài ỀChí
thành thông thánhỂ gây chấn động học giới, chính
giới, văn giới, lập Đông-Kinh nghĩa thục, đường lối
cứu ngước của ông là dựa vào lý tưởng cách mạng
Pháp, không tán thành võ trang bạo động, bị nghi
cầm đầu vụ chống thuế ở miền Trung, bị đày đi
Côn-Đảo.


CẢM TÁC

Làm trai quyết gánh gánh gian nan,
Dám nại xa xôi bỏ giữa đàng,
Coi lại chỉ còn ba tấc lưỡi,
Trải qua đã nát mấy buồng gan,
Tếch dương Ấn Ưộ nhì thiên hạ ,
Lên tháp Ba Lê nhất thế gian.
Mượn bút Tương Như đề mấy chữ
Thân này xin phó với giang san.
~Phan-Chu-Trinh~


ĐẬP ĐÁ CÔN LÔN 

Làm trai đứng giữa đất Côn-Lôn,
Lừng lẫy làm cho lở núi non,
Xách búa đánh tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng chi sờn dạ sắt son.
Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian nan nào sá sự cỏn con.
~Phan-Chu-Trinh~


CHÍ THÀNH THÔNG THÁNH

Thế sự hồi đầu dĩ nhất không
Giang sơn vô lệ khấp anh hùng
Vạn dân nô lệ cường quyền hạ
Bát cổ văn chương túy mộng trung
Trường thử bách niên cam thóa mạ
Cánh tri hà nhật xuất lao lung
Chư quân vị tất vô tâm huyết
Thí hướng tư văn khán nhất thông.
~Phan-Chu-Trinh~

Dịch:

Cuộc đời ngoảnh lại vắng không
Giang sơn nào khóc anh hùng được đâu
Cường quyền dẫm đạp mái đầu
Văn chương tám vế say câu mơ màng
Tháng ngày uất giận đành cam
Sổ lồng tháo cũi biết làm sao đây?
Những ai tâm huyết vơi đầy
Dốc lòng văn đạo thơ này thấu cho.
~Huỳnh-Thúc-Kháng~ (?)


Tâm thành thấu đạo thánh

Thế sự coi kìa nghĩ chán không
Non sông cạn lệ khóc anh hùng
Muôn dân nô lệ vòng cường tỏa
Tám vế văn chương giấc ngủ nồng!
Há nhịn trăm năm người chửi mắng?
Thà trôi ngày tháng kiếp cùm gông!
Quý ông đâu phải không tâm huyết
Xin đọc thơ này chút cảm thông.
~Thích Đức Nhuận~
         21-6-1990

Bài sau có khác vài chữ:

Thế sự hồi đầu dĩ nhất không,        
Giang sơn vô lệ khấp anh hùng.     
Vạn dân nô lệ cường quyền hạ,      
Bát cổ thi văn túy mộng trung. 
Trường thử bách niên cam thoá mạ, 
Bất tri hà nhật xuất lao lung.         
Chư quân vị tất vô tâm huyết,       
Thỉnh bả tư văn khán nhất thông.                                      
~Phan-Chu-Trinh~


Việc thế quay nhìn, vẫn số không,
Nước non lệ hết, vắng anh hùng.
Vạn dân tôi tớ quân cường bạo,
Tám vế say mê giấc mộng nồng.
Sống mãi trăm năm cam mắng nhiếc,
Ngày nào chẳng biết thoát lao lung.
Các ông đâu phải không tâm huyết,
Xin chuyển thơ này để hiểu chung...


KHUYÊN QUỐC DÂN TẤN THỦ

Gió tố mưa dông đổ lộn phèo,
Trời già chi nỡ thắt khi eo,
Ngẫm mùi trung hiếu nên cay đắng,
Dở túi văn chương đã mốc meo,
Bợm điếm lăng xăng lo chợ cháy,
Con hoang lơ lửng khóc cha nghèo .
Non cao bể rộng mênh mông cả,
Mặc sức bơi chơi mặc sức trèo.
~Phan-Chu-Trinh~


TRONG NGỤC QUỐC SỰ
PHẠM SANTÉ
I
Ba năm trải khắp đất Ba-Ri
Lao ngục chưa hề biết tí ti,
Sự khiến xui nên hay buộc tới,
Sống thừa còn có oán hờn chi .
Mỗi ngày đúng bữa ba lần xúp,
Hai đứa chia nhau một bánh mì .
Tám kiếp trâu già chi sợ ách,
Ngồi buồn bắt vế cứ ngâm thi .
II
Từ ấy giam luôn mấy tháng tròn,
Nhờ trời ngủ kỹ lại ăn ngon .
Ngày ba lần xực coi còn đói,
Ưêm chín giờ chơi ngáy vẫn giòn .
Mỗi bữa nửa giờ ra hóng mát ,
Mỗi tuần hai bận xuống thăm con .
Vui buồn mình biết lòng mình vậy,
Miễn trả cho rồi nợ nước non .
~Phan-Chu-Trinh~


<bài viết được chỉnh sửa lúc 28.02.2011 21:05:41 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dong thơ cũ - 06.03.2011 11:29:00




NGUYỄN-ĐÌNH-HIẾN

             1872-1947


Quê Lộc-Đông. Quế-Sơn, Quảng-Nam, đậu Cử-
Nhân, giữ chức Hàn lâm Viện kiểm thảo, được
chọn vào học chữ Pháp ở trường Quốc Học, được
phái sang Pháp học về chính trị và phong tục.


BANG SƠN ĐỘNG
(Vịnh núi Trà Bang ở Ninh Thuận)
 
合分分合此江山,
造化長存一巨觀.
筆撟擎天批曉日,
沙城到海鎮洄瀾,
石懸鍾鼓,高曾去,
岩濟碥丕玉女還.
好位靈區苗胜跡,
碑檯屹立萬年看.
 
Hợp phân phân hợp thử giang sơn,
Tạo hóa trường tồn nhất cự quan.
Bút kiểu kình thiên phê hiểu nhựt,
Sa thành đáo hải trấn hồi lan.
Thạch huyền chung cổ, cao tăng khứ,
Nham tế biển phi, ngọc nữ hoàn.
Hảo vị linh khu miêu thắng tích,
Bi đài ngật lập vạn niên khan.
~Nguyễn-Đình-Hiến~

Dịch:
 
Hợp phân phân hợp, đất nước này,
Cảnh lớn đất trời mãi còn đây.
Núi cao như bút phê trời sáng,
Sa thành tới biển chặn sóng đầy.
Đá chồng chuông trống, tăng đi khỏi,
Đầu non cửa đóng, ngọc nữ về.
Đất linh này ai vẽ thắng tích,
Bia dựng ngất cao vạn năm nhìn.



 
LƯƠNG-THÚC-KỲ
         1873-1947

Quê Hà-Tân, Đại-Lộc, Quảng-Nam,
đậu cử nhân
năm 17 tuổi, làm Thị Lang
tại Huế, tính phóng khoáng, có đức độ
và tài năng, nhiệt tình thúc đẩy phong
trào Duy Tân, mở trường Dục-Thanh
đứng làm Giám-Hiệu.

 

CẢM TÁC
 
Ngọt ngon mặn lạt chục năm thừa,
Mùi thế thôi thôi rứa cũng vừa.
Muôn đội ơn trên soi xét đến.
Trăm phần nợ nước báo đền chưa?
Thú vui người ngọc vừng trăng tỏ.
Dan díu cô tiên ngọn gió đưa.
Thu xếp đồ thư lưng nửa trắp
Non sông kìa đó cảnh nhà xưa.
~Lương-Thúc-Kỳ~



 
PHAN-ĐIỆN
   1875-1945

Quê Tùng-Ảnh, La-Sơn, Hà-Tĩnh, gia đình khoa
bảng, đỗ đầu xứ, chống chế độ bảo hộ Pháp, ghét
triều Nguyễn bất lực để mất nước. Dân ấp Thái-
Hà (Hà-Nội) làm đền Trung-Liệt để thờ các liệt sĩ,
Hoàng-Cao-Khải muốn đổi thành Trung-Luơng
(trung thần, lương tướng) để bắt dân chúng thờ
cả mình nữa, ông đề vào tường bài thơ châm biếm:

 
Các cụ liều thân bỏ chiến trường
Ai đem Trung liệt đổi Trung lương.
Thờ bên trung trực bên gian nịnh.
Thế cũng đền đài cũng khói hương!
Thơm thúi lẫn nhau mùi tắc họng,
Ngọt ngào đầu miệng lưỡi không xương.
Nhà Nho lại có thằng nào đó?
Luồn cúi vào ra nịnh cụ Hoàng!
~Phan-Điện~

<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.03.2011 11:42:29 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dong thơ cũ - 17.03.2011 09:42:35




NGUYỄN-THƯỢNG-HIỀN
              
1868-1925

Quê Liên-Bạt, Ứng-Hòa, Hà-Đông, đậu Cử-Nhân,
Hoàng-Giáp, làm Toản Tu Quốc Sử, Đốc Học Ninh-
Bình, từ quan, sang Nhật theo phong trào Đông du,
liên lạc với các nhà Cách mạng lo việc cứu nước,
công việc không thành, sang Tầu vào tu ở chùa
Thường-Tịch-Quang tại Hàng-Châu và tịch tại đó,
theo di chúc, tro được thả xuống sông Tiền-Đường.

 

THUẬT CẢM

術感

匹馬煙塵別舊林,
捐 驅誓報國恩深。
補天填海雖難事,
破釜沉舟自壯心。
萬里征衫隨雁渡,
三更雄劍作龍吟。
何時親繫彊胡頸,
歸對江山酒滿斟。

Thuật cảm

Thất mã yên trầm biệt cựu lâm,
Quyên khu thị báo quốc ân thâm.
Bổ thiên điền hải tuy nan sự,
Phá phủ trầm chu tự tráng tâm.
Vạn lý chinh san tùy nhạn độ,
Tam canh hùng kiếm tác long ngâm.
Hà thời thân hệ cường Hồ cảnh,
Qui đối giang san tửu mãn châm
~Nguyễn-Thượng-Hiền~

Bản dịch:

Ngựa biệt rừng xưa khói bụi tung,
Cao dày ơn nước quyết đền xong,
Vá trời lấp biển dù gian khổ,
Thuyền đắm rồi tan chẳng ngại ngùng.
Áo khoác đường trường theo bóng nhạn,
Gươm thiêng đêm vẳng thét oai rồng.
Ngày nào tay trói quân Hồ lỗ,
Rót chén vui mừng với núi sông.

Cụ Phan Bội Châu nghe tin ông mất có bài văn tế rất thống thiết:

"Than ôi! Dâu chìm biển nổi ngán cuộc đời mây gió đòi phen; Kẻ Bắc người Nam xót tình bạn ruột tằm mấy đoạn.
Cây tàn núi lở, dấu sư nho khôn biết đâu tìm; Trời sập đất già, nguồn đạo nghĩa chẳng bao giờ cạn.
Lững lơ mây bạc cuối trời; Thấp thoáng gió hương trước án.
Nhớ tiên sinh: thơ kiểu Thịnh Đường, văn khuôn Tiền Hán.
Nức tài danh tự thuơ ấu đồng; Kể môn phiệt vẫn nhà khoa hoạn.
Ngang mắt trắng liếc phường hủ tục, kệ thây cá chậu chim lồng;
Bước mây xanh che mặt trần ai, thời cũng bảng rồng tháp nhạn.
Vận Tổ quốc rủi gặp hồi truân bĩ, nghiệp trung hưng mong mỏi xoay trời;
Nơi đình vi vừa nhẹ gánh thần hôn, đường muôn dặm vội vàng dắt ban.
Ngó cân đai cáng tuôn lệ ngọc, Tống Văn Sơn gay mắt với Hồ Nguyên;
Nhớ nước non thêm nóng gan vàng, Châu Thuấn Thuy băng ngàn qua Nhật Bản.
Vượt khơi cưỡi gió, lưới bủa chẳng nề; nếm mật nằm gai, tuyết sương bao quản.
Gót bôn tẩu trải bao phen nguy hiểm, khi Hương Cảng, khi Quang Đông, khi Long Châu, khi Băng Cốc, tức tối đất không dụng võ, giọt khấp đình ai nếm máu Thân Tư: Thuốc cứu đời toan mượn ngón văn chương, nào Yên Kinh, nào Tam Tinh, nào Ngô Quận, nào Hán Thành, ngậm ngùi trời chẳng chìu người, phường y quốc khó ra tay Biền Hoãn.
Ngoài năm chục thân già lận đận vóc hạc mình mai; Hai mươi năm hồn mộng đi về, sông Lô núi Tản.
Phong triều đất khách, tóc trắng điểm sầu; Nhật nguyệt trời riêng, lòng son chẳng vẹn.
Hai mươi lăm triệu xương tan thịt nát, xót đồng bào giữa biên trầm luân. Những toan một mình mô tối chuông mai, dắt đại chúng thoát vòng hạn hán.
Luống ước trời Nam đất Việt, khắp mọi vùng mưa pháp mây từ, Thôi đành cửa Phật buồng Thiền, chuyên một niệm câu kinh quyển tán...
(...)
Hồn hỡi chứng cho, mấy lời đơn giản.
~Phan-Bội-Châu~




PHẠM-TƯ-TRỰC
       
1869-1921

Tức Phạm-Đăng-Thê, quê Hoàng-Xá, Nguyên-Xá,
Vũ-Thư, Thái-Bình, đậu Tú-Tài, Huấn-Đạo huyện
Thanh-Miện, tham gia phong trào Đông-Du và Duy-
Tân, Phủ Thống-Sứ Bắc-Kỳ giao ông soạn quyển
Quốc Sử Việt-Nam, mmới viết mấy chương đầu, bị
nghi và trả về nhiệm sở cũ. Đoạn mở đầu Việt -sử
ông viết như sau:


Ngô quốc bản phi ti,
Ngô tộc diệc phi di.
Văn phong loát Trung Quốc,
Võ lược khai biên thùy.
Chi Lăng tẩu Tống binh,
Bạch Đằng phá Nguyên si (sư).
Lê tổ, Trần Hưng Đạo,
Hách hách thanh danh thùy.
Phong tuy độc bất thích đồng quần,
Hổ tuy bạo bất thực đồng khí.
Vật loại thương như tư,
Nhân loại hồ bất thị
Phù xà giảo gia kê
Tích nhân sử thâm bi
Tư ngôn như bất tín,
Khuyến quân tộc Nam sử.
Ông tự dịch:
Nước ta vốn văn minh đã trải,
Dân ta nào có phải hèn đâu.
Văn phong ngang sách nước Tàu,
Võ công đánh dẹp bấy lâu lẫy lừng.
Phá giặc Tống, Chi Lăng thuở trước,
Trận Bạch Đằng đuổi được quân Nguyên.
Vua Lê giữ vẹn ngoài biên,
Mà Trần Hưng Đạo nên thiên anh hùng.
Dữ như hổ, độc như ong.
Nhưng trong đàn nó không cùng hại nhau.
Làm người sao chẳng nghĩ sâu,
Để cho người trước chế câu “cắn gà”.
Ví không tin ở lời ta,
Hãy xem Nam sử để mà thử coi.
………………………………
~Phạm-Tư-Trực~




HỔ-SĨ-TẠO
 
1869-1934

Quê Hòa-Cư, Tuy-Viễn (Tuy-Phước) Bình-Định,
đậu Tiến sĩ 35 tuổi, được bổ làm Tri-Huyện Tân-Định
(Ninh-Hoà) Khánh-Hoà. Hưởng ứng phong trào Duy
Tân, bị bắt giam, trong tù ông cảm khái lúc xuân về:


Năm mới ngày xuân cha chả vui
Vui rồi nghĩ lại vẫn bùi ngùi
Một thân võng lọng, gông cùm đủ
Nửa áng xuân thu khổ sướng rồi
Chương chướng ngoài tai trâu ngựa gọi
Khăng khăng trong dạ đá vàng trui,
Từ đây cho đến về sau nữa,
Sau nữa ra răng để thử coi”.
~Hồ-Sĩ-Tạo
~


Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dong thơ cũ - 29.03.2011 20:38:41
tam bỏ
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.12.2012 19:51:04 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dong thơ cũ - 09.04.2011 04:46:32




TRẦN-TẾ-XƯƠNG
        
1870-1907

Sinh ở Vị Xuyên, Mỹ Lộc, Nam
Định (sau đổi thành phố Hàng Nâu,
hiện nay là phố Minh Khai, phường
Vị Xuyên, thành phố Nam Định.


BA CÁI LĂNG NHĂNG

Một trà một rượu một đàn bà,
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta,
Chừa được cái gì hay cái nấy,
Có chăng chừa rượu với chừa trà.
~Trần-Tế-Xương~


CHỮ NHO

Nào có ra gì cái chữ nho!
Ông nghè ông cống cũng nằm co.
Chi bằng đi học làm ông phán
Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò!
~Trần-Tế-Xương~


ĐÊM DÀI

Sực tỉnh trông ra ngỡ sáng loà,
Đêm sao đêm mãi thế ru mà ?
Lạnh lùng bốn bể ba phần tuyết,
Xao xác năm canh một tiếng gà.
Chim chóc hãy còn nương cửa tổ,
Bướm ong chưa thấy lượn vườn hoa.
Nào ai là kẻ tìm ta đó,
Đốt đuốc mà soi kẻo lẫn nhà.
~Trần-Tế-Xương~


ĐỒNG TIỀN

Phàm kim chi nhân, duy tiền nhi dĩ
Hết tiền tiêu, tráng sĩ cũng nằm co!
Chẳng dại khôn cũng chẳng thân sơ,
Có hơi kẽm, tha hồ ngang ngửa!
Thơ rằng :
Toán lai thế sự kim năng ngữ
Thuyết đáo nhântình kiếm dục minh
Dơ dáng thay những mặt tài tình
Co quắp lắm cũng ra hình thủ lỗ
Tiền dẫu hết, hết rồi lại có
Chữ bất nhân tạc đó không mòn.
Ai ơi giữ lấy lòng son!
~Trần-Tế-Xương~

       Chú thích:                                                                   
1-    Người đời nay, thường chỉ tiền mới
       có thể giải quyết được mọi sự
2-    Tính lại việc đời thì vàng (tiền) có thể
       biết nói năng. Nói đến nhân tình (cảnh
       con người) lưỡi kiếm muốn kêu lên.
3-    Ý nói: kể cả những kẻ tài tình mà ham hố
       với đồng tiền quá cũng thành kẻ ki bo, bẩn thỉu.


LỄ XƯỚNG DANH KHOA ĐINH DẬU

Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường Hà
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Ậm ọe quan trường miệng thét loa
Cờ kéo rợp trời, quan sứ đến
Váy lê quét đất, mụ đầm ra
Nhân tài đất Bắc nào ai đó?
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà!


NĂM MỚI CHÚC NHAU

Lẳng lặng mà nghe họ chúc nhau
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu.
Phen này ông quyết đi buôn cối
Thiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu

Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang
Đứa thì mua tước đứa mua quan.
Phen này ông quyết đi buôn lọng
Vừa chửi vừa rao cũng đắt hàng.

Nó lại chúc nhau cái sự giàu,
Trăm nghìn vạn mớ để vào đâu?
Phen này ắt hẳn gà ăn bạc
Đồng rụng đồng rơi lọ phải cầu?

Nó lại mừng nhau có lắm con
Sinh năm đẻ bảy được vuông tròn
Phố phường chật hẹp người đông đúc
Bồng bế nhau lên nó ở non,

Bắt chước ai ta chúc mấy lời:
Chúc cho khắp hết cả trên đời
Vua, quan, sĩ, thứ người trong nước
Sao được cho ra cái giống người!
~Trần-Tế-Xương~


PHÚ HỎNG THI KHOA CANH TÝ

Đau quá đòn hằn,
Rát hơn lửa bỏng
Hổ bút hổ nghiên,
Tủi lều tủi chõng.

Nghĩ đến chữ "lương nhân đắc ý"[1], thêm nỗi thẹn thùng,
Ngẫm đến câu "quyển thổ trùng lai"[2], nói ra ngập ngọng.
Thế mới biết học tài thi phận, miệng đàn bà con trẻ nói vậy mà thiêng.
Nào ai ngờ chữ tốt văn hay, tài bảng nhãn thám hoa lỡ ra cũng hỏng.

 Có một thầy:
 Dốt chẳng dốt nào ;
 Chữ hay, chữ lỏng.
 Nghiện chè nghiện rượu, nghiện cả cao lâu,
 Hay hát hay chơi, hay nghề xuống lõng.[3]
 Quanh năm phong vận, áo hàng gù, khăn nhiễu tím, ô lục soạn xanh,[4]
 Ra phố nghênh ngang, quần tố nữ[5], bít tất tơ, giày Gia Định bóng[6].
 Giá cứ chăm nghề đèn sách thì mười lăm mười sáu đỗ tự bao giờ
 Chỉ vì quen lối thị thành, nên một tuổi một già, hoá ra lóng ngóng[7].
 Tú rốt bảng giữa năm Giáp Ngọ, nổi tiếng tài hoa[8],
 Con nhà dòng ở đất Vị Xuyên, ăn phần cảnh nọng[9]
 Năm vua Thành Thái mười hai,
 Lại mở khoa thi Mỹ Trọng[10]
 Kỳ đệ tam văn đã viết rồi,
 Bảng đệ tứ chưa ra còn ngóng.
 Thầy chắc hẳn văn chương đúng mực, lễ thánh xem giò[11]
 Cô mừng thầm mũ áo đến tay, gặp người nói mộng[12].
 Sáng đi lễ phật, còn kỳ này kỳ nữa là xong,
 Đêm dậy vái trời, qua mồng bốn mồng năm cho chóng.

Nào ngờ :
Bảng nhỏ có tênNgoại hàm còn trống.[13]
Kẻ đến sáng văn còn được chấm, bảng cót nghênh ngang[14] ;
Người ngồi khuya tên hãy được vào, áo dài lụng thụng.
Thi là thế, học hành là thế, trò chuyện cùng ai?
Người một nơi, hồn phách một nơi, than thân với   bóng!

Thôi thời thôi :
Sách vở mập mờ;
Văn chương lóng ngóng.
Khoa trước đã chầy;
Khoa sau ắt chóng.
Hẳn có kẻ lo toan việc nước, vua chửa dùng tài;
Hay không ai dạy dỗ đàn con, trời còn bắt hỏng!
~Trần-Tế-Xương~

Chú thích:
1- Lương nhân đắc ý: Người chồng (hoặc vợ) đắc ý, được thể. Tác giả dùng chữ sẵn trong sách cổ, hàm ý nói những tưởng có thể đỗ đạt vinh dự
2- Quyển thổ trùng lai: chữ rút từ thơ của Đỗ Mục tiếc thương cho Hạng Vũ, đại ý nói là "Con em xứ Giang Đông có lắm người tài giỏi. Nếu biết dốc hết lực lượng để đánh quật trở lại (quyển thổ trùng lai) thì chưa biết cục diện sẽ thế nào"
3- Xuống lõng: chỉ việc xuống thuyền chơi gái, hát ả đào trên mặt sông.
4- Ô lạc hoạn: Ô che bằng thứ lụa màu xanh óng ánh
5- Quần tố nữ: Quần may bằng vải trắng đẹp hiệu Tố Nữ
6- Giày Gia Định: giày ta, hở gót, mũi da đen bóng, sản xuất ở Gia Định (Nam Bộ)
7- Lóng ngóng: lao đao, lận đận
8- Tú rốt bảng: đỗ tú tài cuối cùng bảng. Tú Xương đỗ vào loại "thiên thủ" (lấy thêm)
9- Cảnh nọng: khoanh thiệt cắt ở phần cổ trâu, bò hoặc lợn. Theo tục lệ nông thông trước đây, trong mỗi kỳ việc làng, đó là phần được hưởng của người đứng vị trí thứ hai trong làng xã (tiên chỉ, người đứng đầu, được hưởng phần sở).
10- Mỹ Trọng: tên xã ngoại ô Nam Định, nơi đặt trường thi.
11- Xem giò: xem chân gà luộc đem cúng để đoán điềm tốt xấu
12- Nói mộng: kể lại giấc chiêm bao để thầy bói đoán điềm may rủi
13- Ngoại hàm: Ngoài hòm, theo thể lệ thi củ, thí sinh nộp quyển bỏ vào một cái hòm để sẵn. Hết giờ thu quyển, người ta đánh một hồi trống, dứt hồi trống ấy thì những quyển nộp chậm phải để ngoài hòm, không được chấm nữa. Cả hai câu ý noi: đã phạm trường quy thì dù còn chưa dứt hồi trống thu quyển, quyển coi như bị loại ra ngoài hòm rồi.
14- Bảng cót: bảng ghi tên những thí sinh được vào kỳ sau


PHÚ THẦY ĐỒ

Thầy đồ thầy đạc,
Dạy học dạy hành.
Vài quyển sách nát,
Dăm thằng trẻ ranh.
Văn có hay đã đỗ làm quan, võng điều võng tía,
Số có giỏi đã ra giúp nước, khố đỏ khố xanh.
Ý hẳn thầy văn dốt vũ dát:
Cho nên thầy lẩn quẩn loanh quanh.

Trông thầy:
Con người phong nhã,
Ở chốn thị thành,
Râu rậm như chổi,
Đầu to tày giành.
Cũng lắm phen đi đó đi đây, thất điên bát đảo,
Cũng nhiều lúc chơi liều chơi lĩnh, tứ đốm tam khoanh.
Nhà lính, tính quan: ăn rặt những thịt quay, lạp xưởng, mặc rặt những quần vân, áo xuyến,
Đất lề quê thói: chỗ ngồi cũng án thư, bàn độc, ngoài hiên cũng cánh xếp, mành mành.
Gần có một mụ, sinh được bốn anh.
Tên Uông, tên Bái, tên Bột, tên Bành.
Mẹ muốn con hay, rắp một nỗi biển, cờ, mũ, áo,
Chủ rước thầy học, tính đủ tiền chè, rượu, cơm, canh.
Chọnh ngày lễ bái,
Mở cửa tập tành
Thầy ngồi chễm chện,
Trò đứng xung quanh.
Dạy câu Kiều lẩy,
Dạy khúc Lý kinh.
Dạy những khi xuống ngựa lên xe, đứng ngồi phải phép,
Dạy những lúc cao lâu chiếu hát, ăn nói cho sành!
~Trần-Tế-Xương~


SÔNG LẤP

Sông kia rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai
Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò
~Trần-Tế-Xương~


THƯƠNG VỢ

Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo xèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ, âu đành phận.
Năm nắng mười mưa, dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc!
Có chồng hờ hững cũng như không.
~Trần-Tế-Xương~


THAN CÙNG

Lúc túng toan lên bán cả trời,
Trời cười thằng bé nó hay chơi.
Cho hay công nợ là như thế,
Mà vẫn phong lưu suốt cả đời.
Tiền bạc phó cho con mụ kiếm,
Ngựa xe chẳng thấy lúc nào ngơi.
Còn dăm ba chữ nhồi trong ruột,
Khéo khéo không mà nữa lại rơi!
~Trần-Tế-Xương~


NHỚ NGƯỜI XA

Ta nhớ người xa cách núi sông,
Người xa, xa có nhớ ta không?
Sao đương vui vẻ ra buồn bã,
Vữa mới quen nhau đã lạnh lùng?
Lúc nhớ, nhớ cùng trong mộng tưởng,
Khi riêng, riêng cả đến tình chung.
Tương tư lọ phải là trai gái,
Một ngọn đèn xanh, trống điểm thùng!
~Trần-Tế-Xương~


CẢM TẾT

Anh em đừng tưởng tết tôi nghèo,
Tiền bạc trong kho chửa lãnh tiêu.
Rượu cúc nhắn đem, hàng biếng quẩy,
Trà sen mượn hỏi, giá còn kiêu.
Bánh chưng sắp gói e nồm chẩy,
Giò lụa toan làm sợ nắng thiu.
Thôi thế thì thôi đành tết khác,
Anh em đừng tưởng tết tôi nghèo.
~Trần-Tế-Xương
~


Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dong thơ cũ - 23.04.2011 05:53:17




PHAN-CHU-TRINH
         1872-1926

Quê Tây-Lộc, Tiên-Phước,Tam-Kỳ, Quảng-Nam,
đậu Cử-Nhân, sớm ý thức cách mạng, làm bài “Chí
thành thông thánh” gây chấn động học giới, chính
giới, văn giới, lập Đông-Kinh nghĩa thục, đường lối
cứu ngước của ông là dựa vào lý tưởng cách mạng
Pháp, không tán thành võ trang bạo động, bị nghi
cầm đầu vụ chống thuế ở miền Trung, bị đày đi
Côn-Đảo.

 

CẢM TÁC

Làm trai quyết gánh gánh gian nan,
Dám nại xa xôi bỏ giữa đàng,
Coi lại chỉ còn ba tấc lưỡi,
Trải qua đã nát mấy buồng gan,
Tếch dương Ấn Ðộ nhì thiên hạ ,
Lên tháp Ba Lê nhất thế gian.
Mượn bút Tương Như đề mấy chữ
Thân này xin phó với giang san.

~Phan-Chu-Trinh~

 
ĐẬP ĐÁ CÔN-LÔN 
 
Làm trai đứng giữa đất Côn-Lôn,
Lừng lẫy làm cho lở núi non,
Xách búa đánh tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng chi sờn dạ sắt son.
Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian nan nào sá sự cỏn con.

~Phan-Chu-Trinh~

 
CHÍ THÀNH THÔNG THÁNH

Thế sự hồi đầu dĩ nhất không
Giang sơn vô lệ khấp anh hùng
Vạn dân nô lệ cường quyền hạ
Bát cổ văn chương túy mộng trung
Trường thử bách niên cam thóa mạ
Cánh tri hà nhật xuất lao lung
Chư quân vị tất vô tâm huyết
Thí hướng tư văn khán nhất thông.

~Phan-Chu-Trinh~
 
Dịch:
 
Cuộc đời ngoảnh lại vắng không
Giang sơn nào khóc anh hùng được đâu
Cường quyền dẫm đạp mái đầu
Văn chương tám vế say câu mơ màng
Tháng ngày uất giận đành cam
Sổ lồng tháo cũi biết làm sao đây?
Những ai tâm huyết vơi đầy
Dốc lòng văn đạo thơ này thấu cho.

~Huỳnh-Thúc-Kháng~ (?)
 
Tâm thành thấu đạo thánh

Thế sự coi kìa nghĩ chán không
Non sông cạn lệ khóc anh hùng
Muôn dân nô lệ vòng cường tỏa
Tám vế văn chương giấc ngủ nồng!
Há nhịn trăm năm người chửi mắng?
Thà trôi ngày tháng kiếp cùm gông!
Quý ông đâu phải không tâm huyết
Xin đọc thơ này chút cảm thông.
~Thích-Đức-Nhuận~

          21-6-1990
 
Bài sau có khác vài chữ:
 
Thế sự hồi đầu dĩ nhất không,        
Giang s
ơn vô lệ khấp anh hùng.     
Vạn dân nô lệ cường quyền hạ,      
Bát cổ thi văn túy mộng trung. 
Trường thử bách niên cam thoá mạ, 
B
ất tri hà nhật xuất lao lung.         
Chư quân vị tất vô tâm huyết,       
Th
ỉnh b tư văn khán nhất thông.                                      
~Phan-Chu-Trinh~

 
Việc thế quay nhìn, vẫn số không,
Nước non lệ hết, vắng anh hùng.
Vạn dân tôi tớ quân cường bạo,
Tám vế say mê giấc mộng nồng.
Sống mãi trăm năm cam mắng nhiếc,
Ngày nào chẳng biết thoát lao lung.
Các ông đâu phải không tâm huyết,
Xin chuyển thơ này để hiểu chung...

 
KHUYÊN QUỐC DÂN TẤN THỦ

Gió tố mưa dông đổ lộn phèo,
Trời già chi nỡ thắt khi eo,
Ngẫm mùi trung hiếu nên cay đắng,
Dở túi văn chương đã mốc meo,
Bợm điếm lăng xăng lo chợ cháy,
Con hoang lơ lửng khóc cha nghèo .
Non cao bể rộng mênh mông cả,
Mặc sức bơi chơi mặc sức trèo.

~Phan-Chu-Trinh~

 
TRONG NGỤC QUỐC SỰ
PHẠM SANTÉ
I
Ba năm trải khắp đất Ba-Ri
Lao ngục chưa hề biết tí ti,
Sự khiến xui nên hay buộc tới,
Sống thừa còn có oán hờn chi .
Mỗi ngày đúng bữa ba lần xúp,
Hai đứa chia nhau một bánh mì .
Tám kiếp trâu già chi sợ ách,
Ngồi buồn bắt vế cứ ngâm thi .
II
Từ ấy giam luôn mấy tháng tròn,
Nhờ trời ngủ kỹ lại ăn ngon .
Ngày ba lần xực coi còn đói,
Ðêm chín giờ chơi ngáy vẫn giòn .
Mỗi bữa nửa giờ ra hóng mát ,
Mỗi tuần hai bận xuống thăm con .
Vui buồn mình biết lòng mình vậy,
Miễn trả cho rồi nợ nước non .

~Phan-Chu-Trinh~
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.04.2011 06:09:04 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dong thơ cũ - 04.05.2011 20:54:02




NGUYỄN-ĐÌNH-HIẾN

            
1872-1947

Quê Lộc-Đông. Quế-Sơn, Quảng-Nam, đậu Cử-
Nhân, giữ chức Hàn lâm Viện kiểm thảo, được
chọn vào học chữ Pháp ở trường Quốc Học, được
phái sang Pháp học về chính trị và phong tục.


BANG SƠN ĐỘNG
(Vịnh núi Trà Bang ở Ninh Thuận)

合分分合此江山,
造化長存一巨觀.
筆撟擎天批曉日,
沙城到海鎮洄瀾,
石懸鍾鼓,高曾去,
岩濟碥丕玉女還.
好位靈區苗胜跡,
碑檯屹立萬年看.

Hợp phân phân hợp thử giang sơn,
Tạo hóa trường tồn nhất cự quan.
Bút kiểu kình thiên phê hiểu nhựt,
Sa thành đáo hải trấn hồi lan.
Thạch huyền chung cổ, cao tăng khứ,
Nham tế biển phi, ngọc nữ hoàn.
Hảo vị linh khu miêu thắng tích,
Bi đài ngật lập vạn niên khan.
~Nguyễn-Đình-Hiến~

Bản dịch:

Hợp phân phân hợp, đất nước này,
Cảnh lớn đất trời mãi còn đây.
Núi cao như bút phê trời sáng,
Sa thành tới biển chặn sóng đầy.
Đá chồng chuông trống, tăng đi khỏi,
Đầu non cửa đóng, ngọc nữ về.
Đất linh này ai vẽ thắng tích,
Bia dựng ngất cao vạn năm nhìn.




LƯƠNG-THÚC-KỲ
        
1873-1947

Quê Hà-Tân, Đại-Lộc, Quảng-Nam, đậu
cử nhân năm 17 tuổi, làm Thị Lang tại Huế,
tính phóng khoáng, có đức độ và tài năng,
nhiệt tình thúc đẩy phong trào Duy Tân,
mở trường Dục-Thanh và đứng làm Giám-Hiệu.


CẢM TÁC

Ngọt ngon mặn lạt chục năm thừa,
Mùi thế thôi thôi rứa cũng vừa.
Muôn đội ơn trên soi xét đến.
Trăm phần nợ nước báo đền chưa?
Thú vui người ngọc vừng trăng tỏ.
Dan díu cô tiên ngọn gió đưa.
Thu xếp đồ thư lưng nửa trắp
Non sông kìa đó cảnh nhà xưa.
~Lương-Thúc-Kỳ~




PHAN-ĐIỆN
  
1875-1945

Quê Tùng-Ảnh, La-Sơn, Hà-Tĩnh, gia đình khoa
bảng, đỗ đầu xứ, chống chế độ bảo hộ Pháp, ghét
triều Nguyễn bất lực để mất nước. Dân ấp Thái-
Hà (Hà-Nội) làm đền Trung-Liệt để thờ các liệt sĩ,
Hoàng-Cao-Khải muốn đổi thành Trung-Luơng
(trung thần, lương tướng) để bắt dân chúng thờ
cả mình nữa, ông đề vào tường bài thơ châm biếm:


Các cụ liều thân bỏ chiến trường
Ai đem Trung liệt đổi Trung lương.
Thờ bên trung trực bên gian nịnh.
Thế cũng đền đài cũng khói hương!
Thơm thúi lẫn nhau mùi tắc họng,
Ngọt ngào đầu miệng lưỡi không xương.
Nhà Nho lại có thằng nào đó?
Luồn cúi vào ra nịnh cụ Hoàng!
~Phan-Điện
~


Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dong thơ cũ - 16.05.2011 10:36:39




HUỲNH-THÚC-KHÁNG
            
1876-1947

Sinh tại Thanh Bình,Tiên Cảnh,Tiên Phước,
Quảng Nam. Một trong những nhà lãnh đạo
phong trào Duy Tân, bị đày ở Côn Đảo 1908-
1921. Viện Trưởng viện Dân Biểu Trung Kỳ
1926, Bộ trương Bộ Nội Vụ CPLT nước VN
DCCH 1946.


BÀI CA LƯU BIỆT
(Viết năm 1908, trước khi
bị đày ra Côn Đảo)

Trăng trên trời có khi tròn khi khuyết,
Người ở đời đâu khỏi tiết gian nan.
Đấng trượng phu tuỳ ngộ nhi an,
Tố hoạn nan hành hồ hoạn nạn.
Tiền lộ định tri thiên hữu nhãn,
Thâm tiêu do hứa mộng hoàn gia,
Bấy nhiên năm cũng vẫn chưa già.
Nọ núi Ấn, này sông Đà,
Non sông ấy còn chờ ta thêu dệt.
Kìa tụ tán chẳng qua là tiểu biệt,
Ngựa Tái ông hoạ phúc biết về đâu!
Một mai kia con tạo khéo cơ cầu,
Thảy bốn biển cũng trong vòng trời đất cả.
Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Dẫu đến lúc núi sụp, biển lồi, trời nghiêng, đất ngả,
Tấm lòng vàng, tạc đá vẫn chưa mòn.
Trăng kia khuyết đó lại tròn!
~Huỳnh-Thúc-Kháng~


Khó nhọc nghề nông mới mó tay,
Phong lưu ngày trước, khổ ngày nay.
Sương mai cạnh núi, băng lừa nghé,
Nắng xế bờ khe, gắng kéo cày.
Nước cạn nửa phần chênh ruộng dốc,
Bùn sâu mấy lớp cỏ lùng dày.
Nhà nho chỉ biết cơm xơi mãi,
Hút, trắng trên mâm kéo cải rầy.
~Hùnh-Thúc-Kháng~
  (Thi Tù Tùng Thoại)

Nguyên tác Hán văn, tác giả tự dịch.
Hai câu chót dịch từ hai câu chữ Hán:
Nho gia quán bão nhân gian phạn,
Đản hướng bàn gian luận tế sơ.


Côn Đảo mười năm khổ chửa xong,
Lại mang mền chiếu đến Cỏ Ông.
Dốc cao sớm dậy rề khiêng đá,
Bãi biển trưa nằm hứng gió đông.
Công việc nặng nề ngày bận rộn,
Bạn bè rơi rắc chạy lung tung.
Khác nơi mà cảnh chung cay đắng,
Ngựa dưới tay xe, hạc nhốt lồng.

Quên tù, gặp lúc hứng thơ lên,
Toà Điển nằm chơi sẵn có nền.
Non nước một vùng trông đẹp mắt,
Bệnh sầu trăm mối chất thành vền.
Đá từng cơn nổ như trời đổ,
Sóng mấy lần xoay đất muốn chênh.
Cảnh mới khiến người mơ cảnh cũ,
Hải Vân trên đinh ngắm Thần Kinh.

Mấy cánh bèo trôi giữa biển khơi,
Gió phong một trận tựa sao rơi.
Ngựa tàu cảnh ấy còn ôm giận,
Sâu chạm nghề kia chẳng ích đời.
Cuộc thế, cờ luôn thay nước mới,
Lều non, tre vẫn giữ màu tươi.
Mến xưa, nhớ cảnh, lòng chan chứa,
Sóng dội tai ai, nấy sụt sùi.

Trong nước bôn ba dạt cánh bèo,
Văn hào ngoài đảo khéo nằm queo.
Thi không đuổi giặc, ngâm vô ích,
Rượu vẫn tiêu sầu, uống lại reo.
Nửa kiếp cần gì đầu tóc bạc,
Trăm năm còn có sử, gương treo,
Dời non chí cũ nào đâu đấy?
Một khúc bi ca đọc chán phèo.
~Huỳnh-Thúc-Kháng~

      
CẢM KHÁI LÚC ĐI ĐÀY VỀ 
               (bản dịch)

Nợ bầy đeo đuổi giục bên người,
Chả để nằm yên xó góc trời.
Biển Bắc dê cùng chung mấy độ,
Nhành Nam chim sẵn ổ muôn đời.
Rừng sâu với quế ca xăng xái,
Hang thẳm tìm lan dạo thảnh thơi!
Rốt cuộc máu lòng tìm chỗ dốc,
Sử xanh núi biếc rưới cùng nơi.




NGÔ-TẬP-XUYÊN

Chưa biết lý lịch, nhưng là tù quốc sự phạm
ở Cô Đảo, có lúc cùng làm ruộng, chăn trâu
với cụ Huỳnh.


Bờ ao ủm thủm một gian lều,
Ruộng cỏ xanh um, cuối nước nhiều.
Núi cách gần quên vùng biển bọc,
Đêm khuya thoảng có tiếng gà kêu.
Tóc hai mối rối, già toan đến,
Mưa một cày trâu, khổ đủ điều.
Cho biết hèn hơn cao thượng đấy,
Văn minh học lốinchớ nên kiêu.
~Ngô-Tập-Xuyên~
(Huỳnh-Thúc-Kháng dịch)




DƯƠNG-TỰ-NHU
      1876-1930

Con Dương-Khuê, đỗ cử nhân Thành-Thái
thứ 12 (1900), Tri Huyện, Tri Phủ, Bố Chánh
Hưng Yên.


TẶNG CÔ ĐẦU YẾN

Quân thị phong lưu hồng phấn khách,
Ngã vi du hoạn thiếu niên nhân.
Mối tơ duyên vừa độ thanh xuân,
Tài sắc ấy bắc đồng cân coi cũng phỉ.
Giang sơn gặp gỡ người tri kỷ,
Trăng gió đong đưa thói hữu tình.
Khéo trêu ngươi ai ấy với mình,
Nhị đào đó để chim xanh ngăn cấm mãi.
Nhất tiếu đông phong ưng dĩ đãi,
Đã tìm hoa xin chớ ngại đường dài.
Xin ai đừng có quên ai.
~Dương-Tự-Nhu~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 16.05.2011 10:38:36 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dong thơ cũ - 25.05.2011 10:19:15



ƯNG-BÌNH THÚC-GIA-THỊ  
                     1877-1961



Sinh tại Huế, cháu nội Tuy-Lý-Vương, tốt nghiệp
Quốc học Huế, đậu  Cử nhân Hán văn, làm quan đến

hàm Thượng thư.
 


"Tiếng hát Ngư Ông, giữa sông Bành Lệ,
Tiếng kêu hàn nhạn giữa áng Hoành dương,

Một mình em đứng giữa sông Hương, 

Tiếng ca du nử đoạn trường ai nghe.

Ướt áo xanh lụy tình Tư Mã,

Khách thiên giai vẫn lạ mà quen,

Nước non ai kẻ bạn hiền,

Biết ai ly phụ giữa miền sông Hương.

Biết ở đâu là cầu Ô Thước,

Mênh mông nguyện ước, dưới nước trên trời,

Ðêm khuya ngớt tạnh mù khơi,

Khúc sông quạnh vắng có người sầu riêng.

Nước đầu cầu khúc sâu khúc cạn,

Chèo qua Ngọc Trản đến vạn Kim Long,

Sương sa gió thổi lạnh lùng,

Sóng xao trăng lặng gây lòng nhớ thương.

Bên chợ Ðông Ba tiếng gà gáy sáng,

Bên làng Thọ Lộc tiếng trống sang canh,

Giửa sông Hương tiếng sóng khuynh thành,

Ðêm khuya một chiếc thuyền tình ngữa nghiêng.
~Ưng-Bình Thúc-Gia-Thị~


CÂU HÒ MÁI NHÌ

 
Chiều chiều trước bến Vân Lâu,
Ai ngồi ai câu,

Ai sầu ai thảm,

Ai thương ai cảm,

Ai nhớ ai trông.

Thuyền ai thấp thoáng bên sông,

Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non.
~
Ưng-Bình Thúc-Gia-Thị~





THƯƠNG-TÂN-THỊ
          1878-1966

Nại-Nông, Thừa-Thiên, Huế.



KHUÊ PHỤ THÁN

(Thay lời vợ vua Thành-Thái)
  


I.

Chồng hỡi chồng ơi! Con hỡi con!
Cùng nhau chia cách mấy thu tròn.
Ven trời góc bể buồn chim cá,
Dạn gió dày sương tủi nước non.
Mộng điệp khéo vì ai lẽo đẽo,
Hồn quyên luống để thiếp thon von.
Ngày qua tháng lại trông đăm đẳm,
Muôn vạn xa xuôi mắt đã mòn.
II
Đ
ã mòn con mắt ở Phi Châu,
Có thấy chồng đâu con ở đâụ

Dẫu đặng non xinh cùng bể tốt,
Khó ngăn gió thảm với mưa sầụ

Trách ai dắt nẻo khôn lừa lọc,
Khiến thiếp ra thân chịu dãi dầụ

Bớ bớ xanh kia sao chẳng đoái,
Xui lòng oằn oại trót canh thâụ

III
Canh thâu chưa nghỉ hãy còn ngồi,
Gan ruột như dầu sục sục sôị

Nghĩa gá ấp yêu đành lỡ dở,
Công cho bú mớm chắc thôi rồị

Quyết gìn giữ dạ tròn sau trước,
Biết cậy nhờ ai tỏ khúc nôi!
Dâu bể xanh xanh trời một góc,
Hỡi chồng ơi! Với hỡi con ôi!
IV
Con ôi! Ruột mẹ ngướu như tương,
Bảy nổi ba chìm xiết thảm thương.
Khô héo lá gan cây đỉnh Ngự,
Đầ
y vơi giọt lệ nước sông Hương.
Quê người đành gởi thân trăm tuổi,
Đấ
t tổ mong vì nợ bốn phương.
Mẹ cũng trông mau rồi một kiếp,
Để
cho vẹn vẽ mối cang thường.
V
Cang thường gánh nặng cả hai vai,
Biết cậy cùng ai tỏ với ai.
Để
bụng chỉ e tằm đứt ruột,
Hở môi thì sợ vách nghiêng taị

Trăng khuya nương bóng chinh chinh một,
Kiếng bể soi hình tẻ tẻ hai.
Nhắm thử từ đây qua đến đó,
Đườ
ng đi non nước độ bao dài?
VI
Bao dài non nước chẳng hay cùng,
Xin gởi hồn ta đến ở chung.
Sống thác miễn cho tròn một tiết,
Trước sau khỏi thẹn với ba tùng.
Quê nhà đã có người săn sóc,
Đấ
t khách nương nhau khỏi lạ lùng.
Mảng tính chưa xong vừa chớp mắt,
Trống lầu đâu đã đổ lung tung.
VII
Đ
ã đổ lung tung tiếng trống thành,
Giựt mình tỉnh dậy mới tàn canh.
Sương sa lác đác dằn tàu lá,
Gió thổi lai rai lạc bức mành.
Cảnh ấy tình này thôi hết muốn,
Trời kia đất nọ nỡ bao đành.
Thương nhau chẳng đặng cùng nhau trọn,
Xin hẹn chung cùng kiếp tái sanh.
VIII
Kiếp tái sanh may có gặp không,
Kiếp này đành thẹn với non sông.
Chiêm bao lẩn thẩn theo chơn bướm,
Tin tức bơ vơ lạc cánh hồng.
Tính tới tính lui thân cá chậu,
Lo quanh lo quẩn phận chim lồng.
Đ
ã không chung hưởng thôi thì chớ,
Sao lỡ xa nhau chồng hỡi chồng!
IX
Hỡi chồng! Có thấu nỗi nầy chăng?
Sóng gió khi không dậy đất bằng.
Non nước chia hai trời lồng lộng,
Cha con riêng một biển giăng giăng.
Mối sầu kia gỡ khoanh chưa hết,
Giọt thảm này tuôn bửng khó ngăn.
Ngán bấy cuộc đời khôn gượng gạo,
Canh chầy còn ở dưới cung trăng.
X
dưới cung trăng luống nỉ non,
Đắ
ng cay như ngậm trái bồ hòn.
Khói mây giọng quốc nghe hơi mỏn,
Sương tuyết mình ve nhắm đã mòn.
Lằn mõ làng xa canh lốc cốc,
Tiếng chua chùa cũ dộng bon bon.
Nỗi riêng ai biết ta thương nhớ,
Chồng hỡi chồng ơi! Con hỡi con!

~Thương-Tân-Thị~

(Vi
ết ở Ba Kè, tháng 3 năm 1919)


<bài viết được chỉnh sửa lúc 25.05.2011 10:20:48 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dong thơ cũ - 07.07.2011 20:41:18




DƯƠNG-DÌNH-THẠC
        
1881-1908

Quê Chiên-Đàn, Tam-Kỳ, Quảng-Nam,(Tam-Xuân,
Núi-Thành, QN), khảng khái, nhiệt tình yêu nước,
chống cường hào, quan lại. Kháng thuế, bị đày Côn-
Đảo và mất tại đó, trước khi mấ có làm thơ:



Nhất trích diêu diêu cô đảo trung,
Khả liên Nam Bắc bịnh tương đồng.
Viêm bang văn hiến khan do tạc,
Âu hoá phong trào vị tấu công.
Thủy quốc đào thinh tao mộng điệp,
Cố san vân ý luyến chinh hồng.
Tọa giang mạc sái Tân đình lệ,
Đa khủng Côn Lôn hải nhiễm hồng.
~Dương-Đình-Thạc~

Bản dịch:

Hòn đảo mồ côi giữa cõi cùng
Đày ra, Nam Bắc kiếp tù chung.
Nước nhà văn hiến còn in cũ,
Âu hoá phong trào chửa trót công.
Tiếng sóng góc trời rầy giấc điệp,
Luồng mây núi cũ mến chim hồng.
Thôi đừng rưới lệ Tân đình nữa,
E nhuộm Côn Lôn nước biên hồng.

Phan-Châ-Trinh có thơ viếng trước mộ ông:

Thanh sơn bích thủy ủng cô phần.
Phong vô thiên nhai khấp cố nhân.
Vị cảm tận tình quyên huyết lệ,
Hồi đầu quốc thổ chính trầm luân”.

Bản dịch:

“Non xanh nước biếc nấm mồ côi,
Mưa gió thương ai một góc trời.
Chưa dám hết lòng tuôn nước mắt,
Ngoảnh về nước cũ vẫn chơi vơi”.


<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.07.2011 07:43:13 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dong thơ cũ - 09.07.2011 08:04:40




NGUYỄN-BÁ-TRÁC

          (TIÊU-
ĐẨU)

         
1881-1945

Quê Bảo-An, Điện-Bàn, Quảng-Nam, đậu Cử
Nhân, hưởng ứng phong trào Duy Tân, sang  học
Nhật, Tầu, sau hợp tác với Pháp, làm ở phủ Toàn
Quyền Đông Dương, làm báo, Tuần phủ Quảng-

Ngãi, Tổng đốc Thanh-Hóa, Bình-Đình-Định, bị
xử bắn năm 1945.

 
HỒ TRƯỜNG
 
Đại trượng phu không hay xé gan bể ruột
Phú cương thường
Hà tất tiêu dao bốn bể, luân lạc tha hương
Trời Nam ngàn dặm thẳm
Non nước một màu sương.
Chí chưa thành,
Danh chưa đạt,
Trai trẻ bao năm mà đầu bạc
Trăm năm thân thế bóng tà dương
Vỗ gươm mà hát
Nghiêng bầu mà hỏi
Thiên hạ mang mang
Ai người tri kỷ
Lại đây cùng ta cạn một hồ trường.
Hồ trường, hồ trường!
Ta biết rót về đâu?
Rót về Đông phương?
Nước biển đông chảy xiết sinh cuồng lan
Rót về Tây Phương?
Ngọn bắc phong vi vút, cát chạy đá giương
Rót về Nam phương?
Trời Nam mù mịt
Có người quá chén như điên như cuồng
Nào ai tỉnh, nào ai say?
Chí ta ta biết, lòng ta ta hay.
Nam nhi sự nghiệp ư hồ thỉ
Hà tất cùng sầu đối cỏ cây

~Nguyễn-Bá-Trác~
 
 
HỒ TRƯỜNG
 
Tích tịch tình tang,
Vỗ gươm mà hát, nghiêng bầu mà hỏi,
Trời đất mang mang ai người tri kỷ,
Lại đây cùng ta cạn một hồ trường.
Hồ trường hề! Hồ trường!
Ta biết rót về đâu?
Rót về Đông phương,
       biển Đông nổi sóng sinh cuồng loạn.
Rót về Bắc phương,
ngọn Bắc phong heo hút cát chạy đá giương.
Rót về Tây phương,
       mưa Tây sơn từng trận chứa chan.
Rót về Nam phương,
     trời Nam mờ mịt,
       có người quá chén như điên như cuồng.
Tích tịch tình tang
Nào ai tỉnh, nào ai say?
Chí ta ta biết, lòng ta ta hay.
Nam nhi sự nghiệp ư hồ thỉ,
Hà tất cùng sầu đối cỏ cây.
~Nguyễn-Bá-Trác~
 
 
HỒ TRƯỜNG VÀ NAM PHƯƠNG CA KHÚC

TTO - LTS: Trong văn học VN đầu thế kỷ hai mươi có một bài thơ đăng trên Nam Phong tạp chí và ngay lập tức nổi tiếng trong giới chí sĩ lúc bấy giờ. Đó là bài Hồ trường của Nguyễn Bá Trác (1881-1945) đăng trên tạp chí Nam Phong.

Cho đến năm 1998 trên báo Tuổi Trẻ chủ nhật có đăng một bài của Đông Trình dẫn lời Nguyễn Văn Xuân cho biết bài Hồ Trường do Nguyễn Bá Trác dịch lại từ một ca khúc của Trung Quốc.

Nay nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân sưu lục được nguồn gốc xuất xứ của nguyên tác lời ca tiếng Trung Quốc (mà Nguyễn Bá Trác đã dịch thoát thành bài Hồ Trường), và dịch sát nghĩa lại để bạn đọc có dịp đối chiếu giữa nguyên tác, bản dịch nghĩa và lời thơ.

Cho đến nay, có ít nhất 5 bản in lời ca Hồ Trường (1) mà các bản có nhiều chỗ không giống nhau. Để góp một phần tài liệu cho sự tham khảo, đối chiếu được rộng rãi chúng tôi trích lục các văn bản bằng chữ Hán, chữ Việt đã in trên Nam Phong tạp chí - nơi xuất xứ của lời ca này - cách nay đã 86 năm đối với Nam phương ca khúc và 84 năm đối với Hồ Trường.

Trong bài viết này chúng tôi quy ước như sau: Gọi Hồ Trường đối với lời ca tiếng Việt đã lưu hành từ trước tới nay. Nam phương ca khúc là tên tạm đặt cho lời ca mà Nguyễn Bá Trác đã nghe được, chép lại và dịch thành lời ca Hồ Trường.

I. Nguồn gốc lời ca Hồ Trường

Nam phương ca khúc (NPCk) được đăng lần đầu tiên theo thiên ký sự Hạn mạn du ký (HMDK) của Nguyễn Bá Trác trên Nam Phong tạp chí phần chữ Hán số 30, trang 214 năm 1919.

HMDK trước tiên được viết bằng chữ Hán, đăng tải từ số 22 đến số 35 năm 1919, 1920; sau đó thiên ký sự này được chính tác giả dịch sang chữ Việt và đăng tải ở phần chữ Việt của Nam Phong từ số 38 đến số 43 năm 1920, 1921.

Hạn mạn du ký là thiên ký sự gồm 14 chương kể lại cuộc đông du của tác giả trong khoảng 6 năm (1909 - 1914) từ Sài Gòn sang Xiêm La - Hương Cảng - Nhật - Trung Hoa - rồi về VN.

Nam phương ca khúc nằm ở chương 10: “Tại Thượng Hải gặp người đồng hương”. Vào khoảng năm 1912, khi lưu lạc ở Thượng Hải, tác giả gặp một người đồng hương cùng chí hướng, người này có giọng hát hay (giọng Quảng Đông). Một đêm nọ, hai người đi uống rượu, “rượu ngà ngà, Nguyên quân đứng dậy mà hát” (lời Nam phương ca khúc), ở bàn bên cạnh, một võ quan họ Lưu, người Trực Lệ, nghe điệu hát, sang hỏi là điệu gì, được trả lời: “Ấy là một điệu đặc biệt ở phương nam” (2), họ Lưu nói “nghe tiếng bi mà tráng, nhiều hơi khảng khái, nam phương mà có điệu hát đến thế ru?”. Sau đó họ Lưu xin người hát chép ra giấy lời ca ấy để giữ xem.

Về mặt văn bản mà xét, thì bài ca ấy không rõ tựa đề, không biết tác giả, Nguyễn Bá Trác chép lại toàn vẹn Nam phương ca khúc. Và khi Hạn mạn du ký được sang chữ Việt thì lời ca này đã được dịch rất thoát, tuy nhiên nó vẫn là “lời ca” minh hoạ cho văn cảnh ấy chứ không phải “bài thơ hồ trường” như nhiều người từng gọi.

Cũng vì vậy, trong bài viết này, người viết xin gọi theo cách cũ là “Lời ca hồ trường” (3). Hồ trường so với Nam phương ca khúc có nhiều điểm khác biệt. Người dịch đã linh động nương theo âm điệu tiếng Việt và có chỗ thêm tứ có chỗ bớt lời, khéo giữ được cái thần thái hào sảng của nguyên tác.

Hồi ấy Hồ Trường được dịch thẳng từ lời ca chữ Hán sang lời ca chữ Việt mà không có bản dịch nghĩa, nay thấy cần có nguồn tài liệu để dựa vào mà đính chính một số điểm khác biệt của Hồ Trường, nên tôi chụp lại nguyên tác hán văn Nam phương ca khúc từ Nam Phong tạp chí, đồng thời phiên âm dịch nghĩa để bạn đọc tham khảo.

II. Nam phương ca khúc

Phiên âm:

Trượng phu sanh bất năng phi can chiết hạm vị thế phù cương thường
Tiêu dao tứ hải, hồ vị hồ thử hương
Hồi đầu nam vọng mạc vô cực hề, thiên vân nhất sắc đồ thương thương
Lập công bất thành, học bất tựu, thiếu tráng hữu cơ thời hề, toạ thị bách niên thân thế khu âm dương
Phủ chưởng cuồng ca vấn tư thế, mang mang thiên địa, an đắc tri nhất tri kỷ (4) hề, , thí lai đối chước hữu dư thương.
Dư thương trịch hướng đông minh thủy, đông minh chi thủy vạn đội khởi cuồng lan
Dư thương trịch hướng tây sơn vũ, tây sơn chi vũ nhất trận hà uông dương
Dư thương trịch hướng bắc phong khứ, bắc phong dương sa tẩu thạch phi thù phương
Dư thương trịch hướng nam thiên vụ, vụ trung hữu nhân khai khẩu nhất ẩm cừ nhiên túy
Thiên địa vũ trụ hồn tương vong, dư bất túy hĩ, dư hành dư chí
Nam nhi tự cổ sự tang bồng, hà tất cùng sầu khấp phần tử


Dịch nghĩa:

Kẻ trượng phu sống mà không vạch gan, bẻ cột lo giềng mối cho đời
Rong chơi bốn biển, quê hương ở nơi đâu?
Quay đầu trông về nam, miệt mù vậy hỉ! Trời mây nối màu xanh ngắt
Lập công chẳng được, học không xong, trai trẻ có bao lâu, ngồi ngó trăm năm, thân đuổi cuộc sớm chiều.
Vỗ tay hát khùng, hỏi đời kia, đất trời mờ mịt vậy, một người tri kỷ tìm ở đâu, thử đến giúp ta rót chén rượu này
Ta quăng chén rượu đầy trộn nước biển đông, nước biển đông nổi cuộn vạn lớp sóng
Ta quăng chén rượu đầy vào mưa núi tây, mưa núi tây một trận sao lênh láng
Ta quăng chén rượu đầy đuổi theo gió bắc, gió bắc tung cát lăn đá bay nơi khác
Ta quăng chén rượu đầy vào mây mù trời nam, trong mây mù có người há miệng điềm nhiên say tràn
Trời đất dọc ngang đều mất hết, sao ta không say, chí ta thời ta làm
Từ xưa nam nhi đuổi theo tang bồng, cớ gì sùi sụt sầu cố hương.


Qua bản phiên âm và dịch nghĩa NPCK, chúng tôi thấy cần dừng lại lưu ý một đôi chỗ. Số là trong HMDK đăng tải trên Nam Phong - ở cả phần chữ Hán và chữ Việt - không có phần chú thích các từ khó hiểu thuộc về điển tích đã dùng trong NPCK và Hồ Trường, nay xin nói thêm về các điển ấy.

Ở câu đầu tiên có cụm từ “xé gan bẻ cột”. Trong NPCK ta thấy viết là Bẻ cột - chiết hạm. (Có nhiều người lầm viết là bẻ cật). Theo các từ điển thông dụng Trung Quốc thì điển tích “bẻ cột” xuất phát từ sách Hán Thư – truyện Chu vân: Thời Hán thành Đế, Hòe Lý Lệnh (một chức quan trong hàng Tam Công) là Chu Vấn tâu với vua xin giết An Xương Hầu Trương Vũ, vua nổi giận sai chém Chu vân. Khi bị bắt lôi đi, Chu Vân uất ức bám tay vào vặn cột điện, cột cung điện bị gãy, nhơn lúc lộn xộn ấy, Tân Khánh Kỵ giải cứu Chu Vân. Sau đó Thành đế biết Chu Vân xin giết Trương Vũ là vì lòng trung, bèn tha tội.

Khi sửa cung điện, Thành đế lệnh phải giữ nguyên dạng phần cột bị gãy, lấy hình ảnh đó mà biểu dương lời nói ngay thẳng của Chu Vân. Đời sau thường dùng từ “chiết hạm – bẻ cột” để chỉ hành vi dũng cảm trong việc dùng lời lẽ để can gián vua. Thôi Đồ trong bài thơ Ký cữu (gởi cậu) có câu “trí quân kỳ chiết hạm” (hết lòng vì vua mà bẻ gãy cột).

Chữ “Thương” ở cuối câu thứ năm (được lặp lại nhiều lần trong lời ca) có thể đọc là “trường” hay “tràng” mà Nguyễn Bá Trác đổi thành “Hồ trường”, từ một chữ “thương” biến thành hai chữ “hồ trường” rồi thành hẳn tên bài ca, kể cũng kỳ thú!

Thương có ba nghĩa:

1. Là cái chén uống rượu giống như cái tước, làm bằng sừng, “thương” là chén rót đầy rượu, khi chưa rót rượu vào thì gọi là “chí”;

2. Mời rượu người khác một cách kính trọng gọi là “thương”. Sách Lã Thị Xuân Thu – thiên Đạt Úc có câu “Quản tử thương Hoàn Công” (Quản Từ kính cẩn mời rượu Tề Hoàn Công).

3. Tự uống rượu một mình gọi là “thương”, Phạm Thành Đại trong bài “Túc tư khẩu thỉ văn nhạn” có câu “bá tửu bất năng thương” (nâng ly khó uống một mình).

Khi dịch nghĩa NPCK, chúng tôi dùng nghĩa “thương là chén rượu đầy”. Còn từ “hồ trường” trong lời ca Hồ trường là sự sáng tạo của dịch giả Nguyễn Bá Trác, chúng tôi không dám lạm bàn.

Chữ “phần tử” mà chúng ta thấy ở cuối bài NPCK là một từ chỉ quê hương (mà dịch giả Hồ trường đổi thành “cỏ cây”). Phần và tử là tên hai loại cây. Cây phần là một loại Du trắng nên còn gọi là “Phần du”.

Trong Hán thư - Giao tự chí, quyển thượng có ghi lại rằng: “Trong buổi lễ tế Giao, Hán Cao tổ có khấn mình là người ấp Phong, làng Phần du (làng có trồng cây phần du làm đặc trưng, sau thành tên làng), người đời sau lấy chữ Phần du để chí cố hương. Cây Tử tức là cây Thị, gỗ dùng để đóng đàn, khắc bản in…

Quê cha đất tổ gọi là “tử lý” hay “tang tử”. Kinh thi có câu “duy tang dữ tử, tất cung kính chi” (cây do cha mẹ trồng, ắt phải cung kính vậy); Phạm Thành Đại có câu “thân tu tử lý cung” (cung kính quê nhà mà lo tu sửa thân); truyện Kiều có câu “có khi gốc tử đã vừa người ôm”. “Phần tử” là từ được ghép bởi “Phần du” và “Tử lý” (hoặc “Tang tử”). Nguyễn Du viết: “Đoái thương muôn dặm tử phần; hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa” (Kiều).

Các chú thích vừa nêu có thể là dài dòng nhưng qua đó, phần nào bạn đọc có thể thấy những điểm khác biệt giữa NPCK và Hồ Trường, đồng thời có thể xác định bản Hồ trường nào đã theo đúng bản gốc.

III. Lời ca Hồ trường

Nguyên bản trích từ Nam Phong tạp chí số 41 năm 1920. Trang 400 – 401 (giữ nguyên các lỗi sai so với chính tả ngày nay)

1. Trượng phu không hay sé gan bẻ cột phù cương thường;
2. Hà tất tiêu dao bốn bể, luân lạc tha hương
3. Trời nam nghìn dậm thẳm, mây nước một mầu sương
4. Học không thành, danh chẳng lập, trai trẻ bao lâu mà đầu bạc, trăm năm thân thể bóng tà dương.
5. Vỗ tay mà hát, nghiêng đầu mà hỏi, trời đất mang mang, ai là tri kỷ lại đây cùng ta cạn một hồ trường.
6. Hồ trường! Hồ trường! ta biết rót về đâu?
7. Rót về đông phương, nước bể đông chẩy xiết sinh cuồng lạn;
8. Rót về tây phương, mưa Tây sơn từng trận chứa chan
9. Rót về bắc phương, ngọn bắc phong vì vụt, đá chạy cát dương;
10. Rót về nam phương, trời nam mù mịt, có người quá chén, như điên như cuồng
11. Nào ai tỉnh, nào ai say, chí ta ta biết, lòng ta hay
12. Nam nhi sự ngiệp ở hồ thỉ, hà tất cùng sầu đối cỏ cây.


Qua lời ca Hồ trường này, chúng ta thấy các bản in lại có nhiều chỗ khác biệt. Các điểm sai lệch quan trọng có thể kể:

Ở câu 1: có vài bản in là bẻ cật (có lẽ do liện hệ gan - cật nên thành xé gan bẻ cật thay vì bẻ cột). Ở câu 2: nhầm thành tha phương (nguyên bản là “tha hương”).

Ở câu 4: hầu hết các bản in lại đều là “thân thế” (nguyên bản là “thân thể”), tuy nhiên, ở đây có lẽ bản gốc Nam Phong sai vì trong NPCK chữ Hán dùng chữ “thân thế”.

Ở câu 5 có vài bản in “vỗ gươm mà hát” (thay vì “vỗ tay”) và tiếp đó là “nghiêng bầu mà hỏi” (thay vì “nghiêng đầu”). Ở câu 9 hầu hết các bản đều in “ngọn bắc phong vi vút” (thay vì “vì vụt”)…

Như đã nói, bài viết này chỉ dựa vào bản Hạn mạn du ký in lần đầu trên Nam Phong, người viết chưa được đọc bản in thành sách sau đó, cũng có khả năng tác giả HMDK có điều chỉnh đôi chỗ về ý hoặc về lỗi kỹ thuật, đồng thời bản dịch NPCK của chúng tôi nếu có lầm lẫn, xin bạn đọc điều chỉnh giúp cho.
Bến Nghé - tháng 8 năm Ất Dậu

PHẠM HOÀNG QUÂN


<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.07.2011 09:24:41 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dong thơ cũ - 25.08.2011 11:52:45



ĐOÀN-NHƯ-KHUÊ
      
(HẢI-NAM)

           1883-1957


Quê Hải-Yến, Tiên-Lữ, Hưng-Yên, nhỏ theo
Nho học, sau tự học quốc ngữ, cộng tác với các
báo, chuyên vế dịch văn tiết Trung Quốc.



BỂ  THẢM

Bể thảm mênh mông sóng lụt trời!
Khách trần chèo một lá thuyền chơi.
Thuyền ai ngược gió, ai xuôi gió,
Coi lại cùng trong bể thảm thôi.

Coi lại cùng trong bể thảm thôi,
Nổi chìm, chìm nổi biết bao người!
Kiếp người nghĩ cũng lênh đênh quá,
Quá cánh bèo trên mặt nước trôi.

Quá cánh bèo trên mặt nước trôi,
Nước trôi bèo nổi, ngán cho đời.
Cuộc đời đổi đổi, thay thay mãi,
Trải mấy lần dâu hóa bể khơi.

Trải mấy lần dâu hóa bể khơi,
Một hai ba tuổi, chín mười mươi.
Xiết bao mừng rỡ bao thương xót!
Khóc mấy mươi phen, mấy trận cười!

Khóc mấy mươi phen, mấy trận cười!
Dẫu cười chưa hẳn đã là vui.
Trần vui sao lại cho là tục;
Mới lọt lòng ra đã khóc rồi.


Mới lọt lòng ra đã khóc rồi,
Kiếp trần ngán lắm khách trần ơi!
Một lần mình khóc, lần người khóc,
Sống thác đôi lần, giọt lệ rơi.

Sống thác đôi lần, giọt lệ rơi.
Cảnh phù du cũng khéo trêu người.
Bể bao nhiêu nước, bao nhiêu thảm!
Lấp chẳng đầy, cho tát chẳng vơi!

~Đoàn-Như-Khuê~




LÊ-QUANG-NHƠN
           1883-….

Quê Vĩnh-Long, đậu bằng Thành Chung,
Công chức tòa Khâm Huế, tòa Bố Vĩnh-Long,
Sàigòn, viết báo, làm thơ, ca ngợi các tổ chức
yêu nước, chủ trương Nam Phong thư xã.



THANH NIÊN TIỀN PHONG
 
Dao găm, chiếc nóp, nón, tầm vông,
Bốn món tùy thân với tấm lòng.
Kháng chiến đành rằng tài tiểu nhược,
Thi gan mới rõ mặt anh hùng.
Thà liều với nước xông tên đạn,
Khỏi thẹn cho thân mắc chậu lồng.
Tranh đấu tinh thần lòng sắt đá.
Trăm năm chẳng hỗ tiếng Tiền phong.
~Lê-Quang-Nhơn~


 
XUÂN CẢM CHINH PHU
 
Non sông rạng tiếng bốn phương trời,
Cờ phất tranh hùng khắp khắp nơi.
Tiếng trống khải hoàn mong đón rước,
Xuân về với cảnh vật đua tươi.
~Lê-Quang-Nhơn~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.12.2012 19:59:47 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dong thơ cũ - 26.08.2011 05:06:39




TÔN-THỌ-TƯỜNG



TÔN PHU NHÂN QUY THỤC

Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng,
Ngàn thu rạng tiết gái Giang-Đông.
Lìa Ngô bịn rịn chòm râu bạc,
Về Hán trau tria mảnh má hồng.
Son phấn thà cam dày gió bụi,
Đá vàng chi để thẹn non sông.
Ai về nhắn với Châu-Công-Cẩn,
Thà mất lòng anh đặng bụng chồng.
~Tôn-Thọ-Tường~
 

TỰ THUẬT

Giang sơn ba tỉnh vẫn còn đây,
Trời đất, ai xui đến nỗi nầy?
Chớp nhoáng thẳng bon giây thép kéo,
Mây tuôn đen nghịt khói tầu bay.
Xăng văng, chậm tính, thương đôi chỗ,
Khấp khởi, riêng lo, biết những ngày.
Miệng cọp hàm rồng chưa dễ chọc,
Khuyên đàn con trẻ chớ thày lay.

~Tôn-Thọ-Tường~




PHAN-VĂN-TRỊ

      1830-1910


Quê Hưng-Thạnh, Bảo-An, Bến-Tre, đỗ Cử-Nhân,
Không ra làm quan, sống đạm bạc ở Bìnhh-chánh
(thị xã Tân-An), khi Pháp chiếm Gia-Định, ông cùng
các Sĩ phu khởi xướng tị địa, về đồng bằng Cửu-Long
cổ động nhân dân ủng hộ các nhóm kháng chiến, khi
Pháp chiếm miền Tây, ông về Phong-Điền, Cần-Thơ
dạy học, làm thơ.



 
TÔN PHU NHÂN QUY THỤC
 
Cài trâm sửa trấp, vẹn câu tòng
Mặt giả trời chiều biệt cõi đông
Ngút tỏa vần Ngô, in sắc trắng
Duyên về đất Thục, đượm màu hồng
Hai vai tơ tóc bên trời đất
Một gánh cang thường nặng núi sông
Anh hỡi Tôn Quyền, anh có biết
Trai ngay thờ chúa, gái thờ chồng!
~Phan-Văn-Trị~


TỰ THUẬT
(Họa bài Tự Thuật
của Tôn Thọ Tường)

Hơn thua chưa quyết đó cùng đây,
Chẵng đã nên ta phải thế này.
Bến Nghé quản bao cơn lửa cháy,
Cồn Rồng dầu mặc bụi tro bay.
Nuôi muông giết thỏ còn chờ thuở,
Bửa lưới săn nai cũng có ngày.
Đừng mượn hơi hùm rung nhát khỉ,
Lòng ta sắt đá, há lung lay?
~Phan-Văn-Trị~


 
GIA ĐỊNH THẤT THỦ VỊNH

1. Thương thay đất Gia Định! Tiếc thay đất Gia Định!
Vực thẳm nên cồn, đất bằng nổi sóng
2. Tàu khói chạy mây tuôn sông mấy khúc, lờ lạt bến Trâu
Dây thép giăng chớp nhoáng đất ngàn trùng, ngã xiêu thành Phụng.
3. Bờ cõi phân chia khác mặt, trông ra như quáng như mù.
Giang sơn dời đổi lạ mày, tưởng tới dường mê dường tỉnh
4. Lớp cũ tàn, lớp mới mọc, ngổn ngang xe ngựa đất gò bằng.
Dấu trước lấp, dấu sau bồi, tan nát cửa nhà trời dậy sấm.
5. Inh ỏi súng rền kinh cửa Bắc, hãi hùng trăm họ dứt câu ca.
Tò le kèn thổi trời Nam, mờ mịt năm canh không tiếng trống.
6. Hào kiệt tìm phương lánh mặt, sa cơ gió hạc lúc hư kinh.
Anh hùng kiếm chốn ẩn thân, sút thế nước cờ cơn lúng túng.
7. Từ Bến Thành trải qua chợ Sỏi loài tanh hôi lang lệ biết bao nhiêu.
Nơi Chợ Lớn sắp tới Cầu Kho, quân mọi rợ lẫy lừng nên quá lắm.
8. Cầu Thị Nghè cùng nơi Chợ Quán chúa Giê-su đắc ý vểnh râu.
Chùa Cẩm Đệm trải đến Cây Mai, Phật Bồ Tát chịu nghèo ôm bụng.
9. Nơi nơi nổi xóm đạo nhà thờ.
Chốn chốn lập chùa thiêng miếu thánh
10. Dọc dọc ngang ngang mấy lớp, thảy đều chúng nó lâu đài.
Văn văn võ võ hai bên, nào thấy quan ta võng lọng.
11. Ngậm ngùi thay ba bốn lân Gò Vấp cây cỏ khô thân thế cũng khô.
Bát ngát nhẽ Mười tám thôn Vườn Trầu hoa trái rụng, người đời cũng rụng.
12. Mấy dặm Gò Đen - Rạch Kiến, ngọn lửa thiêu sự nghiệp sạch không.
Đòi nơi Rạch Lá - Gò Công, trận gió quét cửa nhà trống rỗng.
13. Tiếng kêu oan, oan này vì nước, hồn nghĩa dân biết dựa vào đâu?
Thân liều thác, thác cũng vì vua, xương nghĩa sĩ chất đà đầy đống.
14. Sông núi đào, mồ xiêu mả lạc, thương thay kẻ thác chẳng an hồn.
Đường sá đắp, cửa nát nhà tan, cực bấy người còn khôn nỗi sống.
15. Sau trước vầy đàng tả đạo, dân ta đòi bữa đòi suy.
Đêm ngày ỏi tiếng Lang Sa, thế nó càng ngày càng lộng.
16. Cờ Thành Thang sao không thấy phất, bỏ liều con đỏ chốn chông gai.
Áo Võ Vương sao chẳng thấy cài, nỡ để dân đen trong bùn lấm.
17. Đầu Trung nguyên tóc hãy còn dài, công này nhờ Chu Bá, học Xuân Thu xin chớ biếm Hoàn Công.
Tay tả nhậm áo kia khỏi mặc, việc ấy bởi vì ai, học Luận ngữ cớ sao chê Quản Trọng.
18. Bóng xế dặm ngàn trong man mác, nước non này ai thấy chẳng buồn.
Trời chiều chim chóc nhảy lăng xăng, tình cảnh ấy lòng nào chẳng động?
19. Nay ta nhân cảm việc đời, vậy mới tả một bài ngâm vịnh:
Dắng dỏi lầu Tây tiếng địch xoang,
Đoái trông thấp thoáng bóng dương tàn.
Giang sơn tám cõi êm tì báo
Thế giới ba ngàn nổi sói lang.
Áy náy người lo ơn cúc dục,
Bâng khuâng kẻ tưởng nghĩa quân vương.
Ai về bến bắc thăm người Võ,
Hỏi cán cờ mao trải mấy sương?
~Phan-Văn-Trị~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 26.08.2011 05:08:42 bởi Anh Nguyên >

Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 30 trên tổng số 44 bài trong đề mục