Dong thơ cũ
DÒNG THƠ CŨ
1801-1900
NGÔ THẾ VINH
1803-1856
Quê Bái-Dương, Nam-Trực, Nam-Định, hiệu
Trúc-Đường, đậu Tiến Sĩ, làm quan đến Lang
Trung bộ Lễ, sau về nhà dạy học, đào tạo được
nhiều nhân tài. Tác phẩm của ông là một phần
quan trọng của di sả văn hóa dân tộc.
GIÓ MÁT TRĂNG THANH
Giang tâm thu nguyệt
Năo nùng thay khi gió mát, lúc trăng thanh
Bóng thiềm soi đáy nước long lanh
Quang cảnh ấy cũng thanh mà cũng lịch
Vạn lại tịch nhiên thu dạ vĩnh
Nhất hồn oánh nhĩ, nguyệt minh cô
Đàn năm cung, thơ một túi, cờ một cuộc rượu một bầu
Tiếng ca quản một vài câu khiển hứng
Chào mấy mái thuyền lan lững thững
Bạn mấy người tài tử ngao du
Non mấy tầng đá mọc lô nhô
Cầu mấy nhịp bắc ngang sông Vị Thuỷ
Hội Xích Bích nọ năm Tuất nhỉ
Thú phong lưu há để một Tô Công?
Trăng trong gió mát kho chung
~Ngô-Thế-Vinh~
BẾN TẦM DƯƠNG
Tầm Dương giang đầu dạ tống khách
Duyên nước bèo gặp gỡ những chơi vơi
Giữa dòng sông nước chảy trăng soi
Dắt díu cả sắc tài vào một cuộc
Giai nhân tâm sự quy cầm trục
Tài tử phong lưu nhập tửu bôi
Nghe tiếng đàn bà rát ruột đòi thôi
Nghĩ mình luống thương vay cho kẻ khác
Hồng nhan tự cổ đa luân lạc
Thái bút như kim bán lục trầm
Người trăm năm ngoảnh lại cơi trăm năm
Tài với sắc, tính ra là ngộ cả
Quá ngán nhẽ người nằm thiên tải hạ
Cùng với lên chung một gánh sầu
Lệ tình há một giang châu.
~Ngô-Thế-Vinh~
BUI HUU NGHIA
1807-1872
Sinh tại Rạch Bà Đồ, Long Tuyền, Vĩnh Định,
Vĩnh Thanh (Long Tuyền, Bình Thủy, Cần Thơ),
nổi tiếng thơ hay miền lục tỉnh, đỗ Giải Nguyên
1835, Tri Huyện Phước Long, Biên Hòa, sau
chuyển về Trà Vang, bị quan trên sàm tấu, nhờ
vợ ra tân triều đình khiếu kiện mới thoát chết.
QUA HÀ ÂM CẢM TÁC
Mịt mịt mây đen kéo tối sầm
Đau lòng thuở nọ chốn Hà Âm
Đống xương vô định sương phau trắng
Vũng máu phi thường cỏ nhuộm thâm
Gió trốt dật dờ nơi chiến lũy,
Đèn trời leo lét dặm u lâm
Nghĩ thương con tạo sao dời đổi
Dắng dỏi (vang động) đêm trường tiếng dế ngâm.
~Bùi-Hữu-Nghĩa~
BÀI VĂN TẾ VỢ
Hỡi ôi!
Gió Nữ phất phơ;
Mưa Ngâu lác đác.
Duyên bình thuỷ sum vầy đà tan rã, ngạt ngào bọt nước sóng xao;
Đuốc loan phòng tỏ rạng phút khêu lờ, sảng sốt ngọn đèn gió tạt.
Nhớ linh xưa:
Tánh đúc son vàng;
Tình không đen bạc.
Chen với nguyệt tròn hơn nguyệt, phòng khuê đà rực rỡ gương trong;
Ở trên trần mà chẳng nhuốm trần, vườn dâu khỏi lắm nhơ bụi cát.
Trong vấy màu bùn chẳng đục, những dự sang giàu, của trăm xe đưa rước vào màng;
Nghèo manh khố chuối mà thanh, phải duyên đằm thắm, cầu mấy nhịp xa xôi gánh vác.
Ở với mẹ đã trọn niềm hiếu hạnh, chìu lòng theo lân lý với anh em;
Lúc theo chồng vui biết chữ xướng tuỳ, đẹp đẽ với xóm giềng chú bác.
Ưa mùi đạo khuyên chồng nấu sử, nam tử may nợ nước đền bồi;
Thảo nhờ thân vẹn phận chưng lê, nữ công trọn giềng nhà gánh vác.
Trường khoa mục qua nong chí cả, ít nhiều đà rỡ mặt với non sông;
Nhà hàn vi hậu dốc tay nâng, may mắn đặng cất đầu cùng bạn tác.
Chồng vợ thảm đều không cha mẹ, em luống than phận lẻ loi;
Câu cô hoà một cửa anh em, tình vui thuận lời không chích mác.
Công danh lỡ vì mang bệnh quỉ, em chẳng phải vợ Mãi Thần ngày trước, thời chưa nên làm thói dể duôi;
Khó hèn cam nào dám trách trời, bậu chẳng như vợ Tô Tần ngày nọ, vận chưa đạt mà đem lòng khi bạc.
Phận khó khăn yếu đuối, vóc liễu bồ dầu dãi nắng mưa;
Con nhỏ dại thơ ngây, tay chủ quỉ không rời thước tấc.
Ở theo thời, làm theo thế, qua khỏi tuần sấm đất tan bia;
Bay kịp chúng, nhảy kịp thời mới đặng hưởng gió thần đưa các.
Nghiệp tiên thế anh lo gây dựng, mừng thầm đà mở mặt với hương lân;
Đạo thánh hiền bậu dốc khuyến dương, gắn bó đã nên gương cùng hậu giác.
Ăn cần ở kiệm, giàu không khoe, khó cũng không đua;
Mua nghĩa chác nhơn, trước chẳng phai sau chẳng lạt.
Chữ thê tùng phu quý em nan than chẳng nhờ của cũng nhờ công;
Câu phụ tác tử thừa bậu nong nả chưa nên vai đà nên vác.
Ốc đà hết lúc gian truân;
Hay chưa tới chừng hanh đạt.
Bỗng đâu khiến gió day mưa tạt, non hoa hạc lánh trầm trầm;
Nào hay nỗi vật đổi sao dời, cửa sổ ngựa qua thoát thoát.
Ôi!
Sông Lệ vàng chìm;
Non Côn ngọc nát.
Cảnh giai lão trách lòng trời đất, khó có nhau giàu cũng có nhau;
Quỉ vô thường làm cuộc bể dâu, vật tráo chác người sao tráo chác.
Con cháu tuổi thơ ngây một bóng, em bào đành nhắm mắt tầm tiên;
Chồng trăm bề lo lắng một mình, bậu bao nỡ sấp lưng cưỡi hạc.
Ai mượn lão Diêm phù rước khách, mẹ lìa con vì gã ức oan;
Ai mượn ngươi Quỷ bá đưa người, chồng xa vợ ở ngươi nên bạc ác.
Chữ "đại đức tất đắc kỳ thọ" đọc tới phát buồn;
Câu "tích phước tất hữu dư khương" nghe càng thêm lạt.
Qua bể bậu chẳng bằng tiền đũa, phận phân gương chẳng kịp nửa giờ;
Trời giết người chi sá gươm đao, chứng nghèo ngặt không đầy một lát.
Đêm khuya hãy nâng niu một trẻ, nghĩ từ cơn, ruột tợ kim châm;
Ngày ra nào vắng vẻ không em, nhớ từ chặn, gan dường muối xát.
Cuộc long hổ lấp rồi ba tấc đất, ôi thôi rồi má phấn hồng nhan;
Bạn phụng loan phân rẽ một phương trời, lo đáo để duyên đơn phận bạc.
Đã biết kiếp thác là kiếp mất, tấm lòng thành đủ bảy tuần chay;
Cho hay người mất mà nghĩa còn, thô lễ tế vài mâm mặn lạt.
Hỡi ôi, tiếc thay!
Hỡi ôi, tiếc thay!
~Bù-Hữu-Nghĩa~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.01.2011 08:04:20 bởi Anh Nguyên >
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
Kiểu: