Anh Nguyên
-
Số bài
:
1747
-
Điểm thưởng
:
0
- Từ: 21.10.2008
|
RE: Dong thơ cũ
-
28.11.2011 11:40:59
NGUYỄN-ĐÚC-NHUẬN 1900-1982 Sinh Phổ-An, Từ-Nghĩa, Quảng-Ngãi, tốt nghiệp Trung Học, vào Sàigòn làm báo, hiệu Bút-Trà. Bài Khóc Nguyễn An Ninh của ông nói lên được tấc lòng ông đối với các nhà yêu nước, anh hùng dân tộc. Chống thực nung sôi giọt máu hồng, Bốn mươi bốn tuổi trải gan trung! Nhân dân còn mắc vòng nô lệ, Khoa giáp màng chi miếng đỉnh chung. Một thác Côn Sơn bia vạn cổ Bao lần chuông bể dội non sông! Dân quyền đánh thức hồn dân tộc, Trước có Lư Thoa sau có ông! ~Bút-Trà~ TÚ-MỠ 1900-1976 Tức Hồ-Trọng-Hiếu, sinh tại Hà-Nội, chuyên về phú và thơ trào phúng. NÀNG THƠ CỦA TÔI Tú tôi kết bạn với nàng Thơ Cô ả xinh xinh, tính ỡm ờ Nhí nhảnh nhưng mà hơi khó nết Hay dằn, hay dỗi, ít tơ mơ... Những sớm bình minh buổi đẹp trời Cây rung rinh lá, cỏ xanh tươi, Êm đềm, tôi thấy lòng thơ thái Ấy lúc cô nàng quấn quít tôi. Thủng thỉnh đi đôi, bước dịu dàng Đồng quê cùng ngắm cảnh mênh mang Trông mây, nhìn bướm, nghe chim hót Thi hứng lòng tôi thấy chứa chan Nhưng... lúc đưa chân tới sở làm, Vào đời thực tế hết mơ màng! Vô tình cô ả theo chàng Tú Tới chốn làm ăn, cảnh rộn ràng Tiếng máy rào rào tựa pháo ran; Những hồi chuông bấm tiếng kêu vang Kẻ đi tất tưởi, người cặm cụi Giấy má hồ sơ để ngổn ngang Công việc hằng ngày Tú vác ra Giấy tờ sổ sách với ‘‘măng-đa’’ Cô nàng ngơ ngác kề tai hỏi: ‘‘Anh Tú làm chi? chẳng phải thơ!’’ Buồn thỉu buồn thiu, Tú băn khoăn Rằng: ‘‘Việc anh làm kiếm gạo ăn Vương lấy nợ đời nên phải trót, Kéo cày lận đận đã bao xuân. Chốn này chẳng phải để đôi ta Thơ thẩn cùng nhau chuyện phất phơ Nàng hãy dầu lòng lui gót vậy Hẹn hò khi khác sẽ tơ mơ’’ Cô nàng phụng phịu kém vui tươi Nhếch một nụ cười rất mỉa mai Cong cớn, nguýt dài, đi mất hút Mặc anh ký cóp ngẩn ngơ hoài. Nhớ tiếc tôi đành chỉ nhún vai Chúi đầu làm trọn việc sinh nhai Cho qua ngày ấy sang ngày khác Ba chục năm trời, kiếp khổ sai. Để mặc Nàng Thơ với gió giăng Chơi non, chới nước, dạo lăng băng Có khi vắng mặt lâu, lâu lắm Bỏ lửng nhà thơ chẳng đãi đằng. Rồi khi cao hứng bất thình lình Nàng lại về chơi với bạn tình Đem vẻ vui tươi và nhí nhảnh Cho mình an ủi cái vong linh. ~Tú-Mỡ~ 1926 DÂN NGU PHÚ Nghĩ đến thôn dân Ngán thay hủ tục! Dòi từ trong xương Dột từ trên nóc! Việc làng nát tựa tương dầm Trí dân tối như hũ bọc Dưới, đàn em một lũ bần cùng Trên, kẻ cả những người ô trọc Quốc hồn, quốc túy, khư khư giữ mớ lễ nghi quèn Thói tục, thường lề, nhất nhất theo pho hương mốc Ðường sinh sống, chẳng lo bề chỉnh đốn, quả kiếp chân bùn tay lấm, vất vả lầm than; Cách ở ăn, không biết phép vệ sinh, tấm thân lưng đen khố cao, lôi thôi nhem nhuốc. Cơm khoai, gạo hẩm, bữa thường ăn khổ, ăn kham; Vách đất, nhà tranh, kiếp tội ở chui, ở rúc. Cám cảnh anh Nhiêu, chị Xã, luộm thuộm đầu bù, tóc rối, đâm rụi đâm xo; Thường tình cái đĩ, thằng cu, trần truồng bụng ỏng đít teo, bò nheo bò nhóc. Áo ôm khố rách, kẻ nghèo nàn cực khổ điêu linh Tiền nổi của chìm, người giàu có căn cơ ngu ngốc Nằm trên đống của, bo bo chẵng biết lối tiêu xài Chôn chặt cọng tiền, thấp thỏm chỉ lo quân cướp bóc. Duy chỉ biết giỗ lớn, ma to để trang trải nợ mồm quanh xóm mạc, nhắm no, uống say; Hoặc chỉ lo ngồi cao, bậc cả, để vểnh vang bộ mặt chốn đình trung, ăn trên ngồi trốc. Miếng giữa làng bằng sàng xó bếp, ghen hơi tức khí, chỉ vì phần đĩa thịt, nắm xôi; Tiền vào quan như than vào lò, bại sản khuynh gia, thường bởi miếng phao câu, bầu dục. Cải lương, hương tục, tưởng chừng to tát như trời; Cách thức thi hành, rút cục chẳng ra cái cóc! Bọn hương chức học hành dốt nát, tài cán cóc khô; Lũ kì hào lý sự ngang phè, khôn ngoan rùa mốc. Ðộng hội họp là ngả mâm đánh chén, dĩ thực vi tiên; Hơi chi tiêu là động gió bẻ măng, lợi mình làm gốc. Học hành, công nghệ, việc ích chung ai là kẻ lo toan? Ðình đám, hội hè, sự tai hại sao lắm người lăn lóc! Ngán vậy thay! Vì dân ươn hèn? Hay cán ngu ngốc! Báo đọc tèm lem Sách ghi bật gốc... Ðiều văn minh gác bỏ ngoài tai Thói hư hại ăn sâu trong óc. Chốn bùn lầy nước đọng, làm cho dân mờ trí tinh khôn Người bổng hậu quyền cao, nào có biết cầm cương nảy mực... ~Tú-Mỡ~ MƯỜI THƯƠNG Một thương tóc lệch đường ngôi, Hai thương quần trắng, áo mùi, khăn san. Ba thương hôm sớm điểm trang, Bốn thương răng ngọc hai hàng trắng phau. Năm thương lược Huế cài đầu, Sáu thương ô lục ngả màu thanh thiên. Bảy thương lắm bạc nhiều tiền, Tám thương động tí nữ quyền giở ra. Chín thương cô vẫn ở nhà, Mười thương...thôi để mình ta thương mình... ~Tú-Mỡ~ (Giòng Nước Ngược 1) GÂY QUAN Mỗi năm nhà nước mở khoa thi để kén trong trugn bắc lưỡng kỳ lấy mặt sỏi sành ra giúp việc bổ làm tập sự ngạch quan chi Mỗi năm các cậu lớp tân khoa Sung sướng bằng xưa đỗ thám hoa Tuy chẳng vinh quy, cờ võng lọng Cũng là lừng lẫy khắp gần xa Quảng cáo công không, các nhật trình đăng tên, đăng tuổi, lại đăng hình, làm như các cậu “quan non” ấy là những kỳ đồng mới tái sinh Trong làng trưởng giả những cô nào sẵn mỏ nhưng chưa có kẻ đào mấp máy hòng lên bà lớn tắt mơ màng của dẫn lại tay trao Cụ thượng Quỳnh ta cũng sướng ran xoa tay hỉ hả cái gan vàng mừng cho nước Việt còn cơ khá vì chẳng bao giờ tiệt giống quan ~Tú-Mỡ~ Nhà xuất bản Đời nay, 1934 HỒ GƯƠM PHÚ Tặng cô Thoại Ngữ, người bạn xa chưa quen biết. (Hội Khai trí Tiến đức có mở cuộc thi văn chương, trong các môn thi có bài phú Hồ Gươm, hạn vần :’’Hồ đó, gươm đâu?’’ Tú Mỡ thấy đầu đề hay, cũng hứng bút viết chơi. Viết chơi thôi, không dự thi, và cố nhiên không lấy thưởng...!) Nghìn năm văn vật Nhất chốn kinh đô. Tuy nhiều thắng cảnh Đâu đẹp bằng hồ … Thợ Tạo đã tài xếp đặt, Công người cũng khéo điểm tô. Giữa trần tục xen nơi tiên cảnh, Trong thị thành nổi đảo san hô. Sỏng biếc lăn tăn, lấp lánh vàng gieo ngấn nước, Cây xanh rườm rạp, lơ thơ liễu rủ quanh bờ. Đền Ngọc Sơn tháp bút nguy nga, tôn cảnh non bồng tịch mịch. Cầu Thê Húc màu son đỏ thắm, chắn làn n¬ước cuốn lô xô. Nào những khi gió nồm hây hẩy, nào những khi sương tỏa lở mờ, xuân, hạ, thu, đông, mỗi mùa một vẻ, Nào những lúc nắng mới rung rinh, nào những lúc trăng soi vằng vặc, sáng, trưa, chiều, tối, bao cảnh nên thơ. Qua tỉnh Hà đây, Dạo hồ Kiếm đó, Ngắm cảnh ngày nay, Nhớ hồi sử cũ: Diệt vua ngụy Quý Ly, Gớm tướng Minh Trương Phụ, Giả danh nghĩa hiệp khôi phục Trần gia, Giở ngón gian hùng đoạt thâu Việt thổ. Dân lành hai nhăm triệu, rắp đem làm kẻ tì nô; N¬ước cũ bốn nghìn năm, dìm đặt dưới quyền đô hộ. Trên, bọn quan quân tàn bạo, chỉ lo vơ vét, thỏa dạ tham ô; Dưới, dân sưu dịch nặng nề, cam chịu lầm than, nhiều bề cực khổ. Nào xuống bể mò trai, lấy ngọc, ai oán vô cùng. Nào lên rừng tróc tượng, săn tê, căm hờn quá độ. May sao: Nhà nông Lê Lợi, Kẻ sĩ Lam Sơn, Thấy dân khốn đốn, Động lòng xót thương Quyết chí lớn tảo trừ giặc nước Dựa thần thiêng trao tặng lưỡi gươm. Hào kiệt ra tay phất cờ cứu quốc, Anh hùng lập nghiệp, khởi nghĩa xưng vương. Trận Tuy Động, Vương Thông kinh hồn, mảnh giáp chẳng còn, bon về cố quốc. Ải Chi Lăng, Liễu Thăng bỏ xác, đầu lâu lăn lóc tại chốn sa trường. Vùng vẫy ngoại mười năm, quét sạch non sông quân Bắc tặc; Lẫy lửng trong vạn thuở, mở mang bờ cõi đất Nam. Phương. Ôi! Nghìn thu đất nước Một cuộc bể dâu Hồ Gươm vẫn đó., Thần kiếm chìm đâu? Chỉ thấy tượng đồng cao chót vót, Đứng trông làn nước vẩn xanh ngầu! Toà nhà Khai trí ben đền, trống bài điếm chát tom, thái bưởng quá nhỉ! Vườn cảnh Bônbe trước mặt, khách phồn hoa nhộn nhịp, vui vẻ xiết bao! ~Tú-Mỡ~ VĂN TẾ BẢO HỘ A ha! Bảo hộ ! Bỗng nhiên trời hại! Suy thịnh lẽ thưởng, nào ai ái ngại? Đọc bài điếu này, dạ ta thiết tha, Ngươi có khôn thiêng chớ oán giận ta. Nhớ ngươi thuở trước, xâm chiếm Đông Dương, Mưu tinh chước quỷ, nham hiểm khôn lường Trước thả cố đạo, sau dắt con buôn, Rốt đến binh lính, trăm khéo nghìn khôn. Bá Đa mở lối, Đồ Phổ theo đường; Gia Long mắc bợm, Tự Đức phải nhường. Sự sinh sình sự, muốn yên chẳng yên, Được chân lấn cổ, có voi đòi tiên; Chiến tranh lẵng nhẵng, hiệp ước lung tung Rốt cuộc công lý, phải thua bạo hung. Nhớ ngươi đô hộ, đủ khóe gian ngoan, Giả vờ nhân nghĩa, che đậy tham tàn. Miệng rằng: khai hóa, sách viết: văn minh; "Khai" mòn sản vật, "hóa" tận dân tình. Nhớ ngư¬ời cai trị, thật tối dã man: Trong là địa ngục, ngoài bảo thiên đàng; Núi sông khai thác, ruộng đất mở mang, Chẳng qua tư lợi, há vì dân gian; Học hành giỏ giọt, tr¬ường có công khai, Chỉ đủ đào tạo một số tay sai. Nhớ ng¬ười thâm thiểm: dĩ man, trị man Nuôi đàn ¬ưng khuyển, dung bọn ô quan, Cho dễ bóp nặn đám dân hiền lành, Cho dễ đàn áp bọn sĩ tinh anh. Nhớ ng¬ươi vơ vét, đã hả dã tâm, Xấu xa đậy điệm, độc địa ngấm ngầm Nay đến cực điểm, trăm họ lầm than: Binh lửa thảm khốc, sinh linh điêu tàn; Sư¬u cao thuế nặng, lột da róc x¬ương, Thóc gạo tích trữ, đói chết đầy đ¬ường. Ngư¬ơi t¬ưởng cùng ta, nợ báo còn dài, Như¬ng nhìn dĩ vãng, hòng gì t¬ương lai! Trời nào chứng mãi cho người rông càn: Hại nhân nhân hại, thiên địa tuần hoàn. N¬ước ng¬ươi đổ nát, nhà ng¬ươi tan tành; Vận ng¬ươi đã mạt, số ng¬ươi đã đành. Giữ mình chẳng nổi, còn bảo hộ ai? Nay ng¬ươi bị diệt, âu cũng lòng Trời. Tám m¬ươi năm lẻ, đã biết nhau rồi! Tiếc than chi nữa, đời thế là thôi. Tây phư¬ơng cực... nhục, hồn ng¬ươi đi về. N¬ước ta giải phóng, dạ ta hả hê. Ba hồn bảy vía, ngươi chóng siêu sinh. Biến về nước mẹ, cùng ta dứt tình. Ngươi có khôn thiêng, hiểu thấu lòng ta. Chớ còn lẩn quất, Nam quốc sơn hà. A ha! Sướng thay! Thượng hưởng ~Tú-Mỡ~ 19-3-1945 BÀI VĂN TẾ VỢ NGUYỄN THỊ TỒN Hỡi ôi! Gió Nữ phất phơ; Mưa Ngâu lác đác. Duyên bình thuỷ sum vầy đà tan rã, ngạt ngào bọt nước sóng xao; Đuốc loan phòng tỏ rạng phút khêu lờ, sảng sốt ngọn đèn gió tạt. Nhớ linh xưa: Tánh đúc son vàng; Tình không đen bạc. Chen với nguyệt tròn hơn nguyệt, phòng khuê đà rực rỡ gương trong; Ở trên trần mà chẳng nhuốm trần, vườn dâu khỏi lắm nhơ bụi cát. Trong vấy màu bùn chẳng đục, những dự sang giàu, của trăm xe đưa rước vào màng; Nghèo manh khố chuối mà thanh, phải duyên đằm thắm, cầu mấy nhịp xa xôi gánh vác. Ở với mẹ đã trọn niềm hiếu hạnh, chìu lòng theo lân lý với anh em; Lúc theo chồng vui biết chữ xướng tuỳ, đẹp đẽ với xóm giềng chú bác. Ưa mùi đạo khuyên chồng nấu sử, nam tử may nợ nước đền bồi; Thảo nhờ thân vẹn phận chưng lê, nữ công trọn giềng nhà gánh vác. Trường khoa mục qua nong chí cả, ít nhiều đà rỡ mặt với non sông; Nhà hàn vi hậu dốc tay nâng, may mắn đặng cất đầu cùng bạn tác. Chồng vợ thảm đều không cha mẹ, em luống than phận lẻ loi; Câu cô hoà một cửa anh em, tình vui thuận lời không chích mác. Công danh lỡ vì mang bệnh quỉ, em chẳng phải vợ Mãi Thần ngày trước, thời chưa nên làm thói dể duôi; Khó hèn cam nào dám trách trời, bậu chẳng như vợ Tô Tần ngày nọ, vận chưa đạt mà đem lòng khi bạc. Phận khó khăn yếu đuối, vóc liễu bồ dầu dãi nắng mưa; Con nhỏ dại thơ ngây, tay chủ quỉ không rời thước tấc. Ở theo thời, làm theo thế, qua khỏi tuần sấm đất tan bia; Bay kịp chúng, nhảy kịp thời mới đặng hưởng gió thần đưa các. Nghiệp tiên thế anh lo gây dựng, mừng thầm đà mở mặt với hương lân; Đạo thánh hiền bậu dốc khuyến dương, gắn bó đã nên gương cùng hậu giác. Ăn cần ở kiệm, giàu không khoe, khó cũng không đua; Mua nghĩa chác nhơn, trước chẳng phai sau chẳng lạt. Chữ thê tùng phu quý em nan than chẳng nhờ của cũng nhờ công; Câu phụ tác tử thừa bậu nong nả chưa nên vai đà nên vác. Ốc đà hết lúc gian truân; Hay chưa tới chừng hanh đạt. Bỗng đâu khiến gió day mưa tạt, non hoa hạc lánh trầm trầm; Nào hay nỗi vật đổi sao dời, cửa sổ ngựa qua thoát thoát. Ôi! Sông Lệ vàng chìm; Non Côn ngọc nát. Cảnh giai lão trách lòng trời đất, khó có nhau giàu cũng có nhau; Quỉ vô thường làm cuộc bể dâu, vật tráo chác người sao tráo chác. Con cháu tuổi thơ ngây một bóng, em bào đành nhắm mắt tầm tiên; Chồng trăm bề lo lắng một mình, bậu bao nỡ sấp lưng cưỡi hạc. Ai mượn lão Diêm phù rước khách, mẹ lìa con vì gã ức oan; Ai mượn ngươi Quỷ bá đưa người, chồng xa vợ ở ngươi nên bạc ác. Chữ "đại đức tất đắc kỳ thọ" đọc tới phát buồn; Câu "tích phước tất hữu dư khương" nghe càng thêm lạt. Qua bể bậu chẳng bằng tiền đũa, phận phân gương chẳng kịp nửa giờ; Trời giết người chi sá gươm đao, chứng nghèo ngặt không đầy một lát. Đêm khuya hãy nâng niu một trẻ, nghĩ từ cơn, ruột tợ kim châm; Ngày ra nào vắng vẻ không em, nhớ từ chặn, gan dường muối xát. Cuộc long hổ lấp rồi ba tấc đất, ôi thôi rồi má phấn hồng nhan; Bạn phụng loan phân rẽ một phương trời, lo đáo để duyên đơn phận bạc. Đã biết kiếp thác là kiếp mất, tấm lòng thành đủ bảy tuần chay; Cho hay người mất mà nghĩa còn, thô lễ tế vài mâm mặn lạt. Hỡi ôi, tiếc thay! Hỡi ôi, tiếc thay! ~Tú-Mỡ~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 25.12.2011 11:04:06 bởi Anh Nguyên >
|