Dong thơ cũ

Thay đổi trang: < 12 | Trang 2 của 2 trang, bài viết từ 31 đến 44 trên tổng số 44 bài trong đề mục
Tác giả Bài
Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dong thơ cũ - 15.09.2011 11:03:59




CƯỜNG-ĐỂ
                      
  1882-1951


Tức Nguyễn-Phúc-Đan, sinh tại Huế, cháu 5 đời Vua
Gia-Long, được phong tuớc Hầu nên gọi là Kỳ Ngoại
Hầu Cường-Để, Hội chủ VN Quang Phục Hội, học trường
Chấn Võ lục quân Nhật, Pháp yêu cầu Nhật trục xuất tất cả

về nước, vào Nam liên lạc với các nhóm chống Pháp,
sang châu Âu, sau về định cư và lập gia đình tại Tokyo.



KHUYẾN CÁO QUỐC DÂN VĂN
(viết ở Nhật Bản gởi về nước kêu gọi đồng bào hưởng
ứng phong trào Đông du. Sau đây là trích vài đoạn)

Nước mất tám mươi năm rồi đó,
Quốc dân ta có nhớ hay không?
Kìa xem các nước Á đông,
Miến, Phi đều đã thoát vòng Mỹ, Anh.
Chỉ còn có một mình ta đó,
Vẫn để cho Pháp nó đè đầu.
(...)
Hỡi hai lăm triệu đồng bào!
Chuyện ta, ta phải tính sao bây giờ!
Chẳng lẽ cứ ngồi chờ đến chết,
Giương mắt trông của hết, dân cùng.
Bảo nhau phải hết một lòng,
Phen này ta quyết chẳng dong quân thù.
Ông cha trước bình Ngô, sát Thát,
Nòi giống mình hèn nhát chi đâu!
Sao ta lại chịu cúi đầu,
Làm tôi tớ Pháp như trâu như bò.
(...)
Đã hay thành sự tại trời,
Gắng công cũng phải tại người mới nên.
Vậy nay có lời khuyên thành thực
Xin quốc dân hợp sức đồng lòng.
Người xuất của, kẻ xuất công,
Người ngoài vận động, người trong thực hành,
Sẽ có kẻ giúp mình thêm nữa,
Việc phen này nếu sợ không xong.
Cốt sao ta phải hết lòng,
Thành công sẽ chỉ trong vòng năm nay.
~Cường-Để~





DƯƠNG-BÁ-TRẠC
    (TUYẾT HUY)
        1884-1943


Quê Phú-Thị, Khoái-Châu, Hưng-Yên
Anh Dương-Quảng-Hàm, đậu cử nhân
16 tuổi, không ra làm quan, suốt đời lo
việc nước, dạy Đông-Kinh-Nghĩa thục
HN, 1908 Pháp kết án 15 năm đày Côn
Đảo, 1917 mới trả tự do, 1943 Nhật bắt
đưa sang Singapore, 1944 bị ung thư và
mất tại đó.


VỊNH HAI BÀ TRƯNG

I. Nước nhà gặp truân bĩ,
Trách nhiệm gái trai chung.
Em ơi đứng cùng chị,
Thù riêng mà nghĩa công.
Quản chi phận bồ liễu,
Kề vai gánh non sông.
Lĩnh Nam bảy mươi quận,
Mặc sức ta vẫy vùng,
Mê Linh dựng nghiệp đế,
Nhi nữ cũng anh hùng.

II. Cấp nạn em cùng chị,
Anh hùng gái giống cha.
Quyết lo đền nợ nước
Chẳng những vị thù nhà.
Voi Triệu đem đường tiến,
Cờ Đinh mở lối ra.
Cõi Nam nền độc lập,
Muôn thuở tiếng hai bà.
~Dương-Bá-Trạc~



VÀO HÈ

Ai xui con cuốc gọi vào hè?
Cái nóng nung người nóng nóng ghê.
Ngõ trước vườn sau um những cỏ,
Hồng rơi thắm rụng ngán cho huê.
Trên cành gọi bạn chim xao xác,
Trong tối đua bay đóm lập lòe.
May được nồm mam cơn gió thổi,
Đàn ta ta gảy khúc nam nghe.
~Dương-Bá-Trạc~


QUA SÔNG BẠCH ĐẰNG

Một dòng ra bể nước mênh mông.
Sông Bạch Đằng đây có phải không?
Đánh Hán năm nao thuyền giáp trận,
Bình Hồ nơi đó đã ghi công.
Sóng dồn lớp lớp làn tên bắn,
Gió thổi ào ào tiếng trống rung.
Ngô chúa Trần vương đâu vắng hết,
Ngùi ngùi hiu quạnh cả non sông.
~Dương-Bá-Trạc~




LÂM-HOÀI-VŨ


BI HÙNG CA YÊN-BÁI

- Kính dâng hương hồn những liệt sĩ đã
vị quốc vong thân trong ngày tang Yên Bái
                    (17-6-1930)


Sương màn đêm dâng mờ trên khắp lối
Gió từng cơn lồng lộng thổi tung trời
Bánh xe lửa lắc lư rít từng hồi
Người nữ kiệt thấy lòng se thắt lại.
Cùng một chuyến hành trình về Yên Bái
Không được nhìn, không được nói một câu
Nỗi yêu thương, niềm đau xót dâng trào
Bao căm hận dập dồn trong tâm trí.
Vài tiếng nữa sẽ mất người tri kỷ
Nguyễn-Thị-Giang lảo đảo bước xuống ga
Trống tàn canh báo hiệu hết canh ba
Cô lặng lẽ đến pháp trường hành quyết
Lòng thầm nhủ hôm nay cho chúng biết
Phá pháp trường giải thoát đấng hùng anh.

Khi tới nơi bọn mật thám bủa giăng
Trăm tay súng lưỡi lê không hé hở
Làm sao đây? Tim gan như đốt lửa
Đã đến giờ máu chẩy thịt xương tan
Bọn thực dân dạ lang sói hung tàn
Dẫn người một đưa lên đài máy chém.
Việt Nam muôn năm! Tiếng hô hùng tráng!
Một đầu rơi cho Cách Mạng nở hoa
Việt Nam muôn năm! Vang khắp sơn hà!
Nguyễn-Thái-Học giơ tay chào vĩnh biệt.
Đôi mắt sáng nhìn đồng bào tha thiết
Dáng uy nghi trầm tĩnh đến đài cao
Việt Nam muôn năm! Tuôn chẩy máu đào!
Làm rung chuyển cả giang sơn nước Việt
Mắt đẫm lệ nhìn mười ba anh kiệt
Hiến thân mình cho Tổ Quốc hồi sinh
Chí hùng anh nhưng mưu sự không thành
Phải thất thế sa cơ vào tay giặc.

Nguyễn-Thị-Giang mặt không hề đổi sắc
Nén căm hờn không để lộ ai hay
Nhìn người yêu tan nát dưới cỏ cây
Như dao cắt vào tim người liệt nữ.
Cô gắng gượng trở về nơi trú ngụ
Viết lá thư tuyệt mệnh gởi song thân
Lá thứ hai lời tâm huyết ân cần
Dặn đồng chí những người còn ở lại
Hãy đánh đổ bọn cầm quyền lang sói
Cứu lấy đồng bào thoát kiếp khổ đau
Hoàn cảnh éo le tan vỡ tình đầu
Mượn phát súng chết vinh hơn sống nhục.

Lửa Yên Bái ngàn thu còn sáng rực
Là đuốc thiêng muôn sắc tỏa hào quang
Những người sau nuôi chí lớn hiên ngang
Viết chính sử hào hùng dân tộc Việt.
~Lâm-Hoài-Vũ~
Báo Đối-Lực, 6-2004


<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.12.2011 11:05:09 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dong thơ cũ - 24.09.2011 10:13:15




PHAN-KHÔI

   
1887-1959 
 
Quê Bảo An, Diên-Phước (Điện Bàn), Quảng-
Nam, gia đình khoa bảng, rớt Cử-Nhân (tức đậu
Tú-Tài), bỏ học khoa cử, dấn thân vào sự nghiệp
Văn chương báo chí, nổi tiếng xuất sắc trong
nhiều lãnh vực học thuật, học quốc ngữ và tiếng
Pháp, là người đầu tiên cắt tóc ngắn hưởng ứng
vận động duy tân, viết bài tình già kêu gọi đổi
mới thi ca.


TÌNH GIÀ

Hai mươi bốn năm xưa,
      một đêm vừa gió lại vừa mưa,
Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ,
      hai cái đầu xanh kề nhau than thở;

- ‘‘Ôi đôi ta, tình thương nhau thì vẫn nặng,
      mà lấy nhau hằn đà không đặng:
Để đến nỗi tình trước phụ sau,
      chi bằng sớm liệu mà buông nhau!’’

- ‘‘Hay nói mới bạc làm sao chớ!
      buông nhau làm sao cho nỡ?
Thương được chừng nào hay chừng ấy.
      chẳng qua ông Trời bắt đôi ta phải vậy!
Ta là nhân ngãi, đâu phải vợ chồng,
      Mà tính chuyện thủy chung!’’

                       *                               
Hai mươi bốn năm sau,
      tình cờ đất khách gặp nhau:
Đôi cái đầu đều bạc. Nếu chẳng quen lung,
      đố có nhìn ra được?
Ôn chuyện cũ mà thôi. Liếc đưa nhau đi rồi,
      con mắt còn có đuôi.   
~Phan-Khôi~
       1932


CHƠI THUYỀN TRÊN SÔNG
TÂN BỉNH (1)

Eo đất vắt rừng già ra nước
Thành con sông xanh biếc dài ghê!
Khỉ ho cò gáy tứ bề
Ta đem thân đến chốn này làm chi!
Nhớ từ trẻ gian nguy từng trải
Bước giang hồ bước mãi chưa thôi
Mảnh thân còn chọi với đời
Hiểm nghèo là bạn, chơi vơi là nhà
Cảnh hiu quạnh, có ta có chủ
Bằng không ta chẳng phụ Hoá công
Vẻ ra cái cảnh lạ lùng
Làm cho cọp biển, cá đồng hay sao?
Xuồng ba lá đâu nào chàng Thổ
Rượu dế mang theo mỗ lưng bầu.
Mũi chàng trước, lái ta sau
Mái chèo khoan nhặt con trào ngược xuôi
Bóng chiều nhuộm lau mũi vàng úa.
Khói, nước, trăng, mây bủa tưng bừng
Vạch lau rẽ khối tung tăng,
Trên trời, dưới nước bên rừng giữa ta.
Lô túp lá xà xà trong ngút,
Chợt thuyền con vùn vụt ngang dòng
Nguồn đào có phải đây không?
Vũng Lương Sơn phảng phất cùng là đây.
Vừng ác lặn chòm cây đen sậm
Vào càng sâu càng lắm vẻ u
Rặng dừa lướt gió vi vu
Chim về ổ thốt, vượn ru con chuyền
Bỗng cái sạt, mái truyền hùm vọt
Sáng lập loè ngọn đuốc ma trơi
ố vùng dậy, khỉ reo cười
Trăm yêu ngàn quái nhè người mà trêu,
Sạt đằng mũi, mái chèo toan đánh
Lái phất ngang, dường tránh cơn nàn
Uỷ kìa, rắn hổ phùng mang
Vượt sông, rẽ sóng băng ngàn như tên
Vụt đáy nước trông lên cây trụ
Hẵng đây rồi cá sấu quých đuôi
Trăm cái sợ, cướp cái vui
Tới dành chẳng tiện, muốn lùi chỉn khôn
Sởn tóc gáy, bồn chồn tấc dạ,
Vững tay chèo nấn ná hồi lâu
Vừng trăng như hẹn hò nhau
Trồi lên mặt biển dọi vào gầm hang
Gợn mát bóng cá vàng giỡn nước
Lá lật sương chim bạc đeo cành
Xa trông rừng thắt khung xanh
Sông phơi dải lụa trắng tinh một màu
Rỡ muôn tượng như chào lạy khách
Lặng một chiều dường trách lấy nhau
Cảnh sao biến đổi quá mau
Rõ hai thế giới trước sau nửa giờ
Cảnh đối cảnh những ngờ mộng mị
Hoặc là do tâm lý mà ra
Tầm u bước đã quá xa
Canh khuya trăng lặn liệu mà về đi
Xoàng hơi cúc khì khì cười mãi
.................
.................
Người như rõ biết ý ta.
Thì nâng chén rượu mà ca khúc này.
~Phan-Khôi~

(1) Bài này sáng tác vào năm 1930, nhân buồn
bực, Phan Khôi cùng người bạn bơi xuồng trên
sông Tân Bình thuộc vùng Cà mau.


Ngoài ra ông có bài thơ ngụ ngôn ám chỉ
Phong trào Xin Xâu có nhan đề:

DÂN QUẠ ĐỈNH CÔNG
 
Mồng bảy tháng bảy năm Mậu Thân,
Chiếu lệ bắt cầu qua sông Ngân.
Hằng hà sa số cu li quạ,
Bay bổng về trời dường trẩy quân.
Hai bên bờ sông đậu lóc ngóc,
Con thì kêu đói, con kêu nhọc.
Bỗng nghe lệnh trời truyền khởi công,
Nào con đầu cúi, con lưng cong,
Thêm thầy Lý Bẻo đứng coi việc,
Đụng đâu đánh đó như bao bông!
Ngán cho cái kiếp làm dân thiệt!
Làm có ăn không, chết cho chết,
Cắn cỏ kêu trời, trời chẳng nghe!
Một con bay lên đứng diễn thuyết.
ỀHỡi đồng bào nghe tôi nói đây:
Dân quyền mạnh nhất là đời nay,
Việc mà chẳng phải việc công ích,
Không ai có phép đem dân đày.
Trối kệ Hoàng Ngưu với Chức Nữ,
Qua được thời qua không thời chớ?
Quốc dân Ô Thước tội tình chi?
Mà bắt xâu bơi làm khổ sở,
Anh em ta, hè về quách thôi!Ể
Luôn thể kéo nhau vào cửa trời,
Dộng trống đăng văn, ầm đế tọa,
Ngai vàng bệ ngọc rung rinh rơi.
Nghe tin dân QUẠ nổi cách mệnh,
Đường sá xa xuôi, việc nặng nề,
Phần lũ con thơ ở nhà khóc!
Trời sai Thiên lôi ra thám thính,
Đầu đen máu đỏ quyết hy sinh!
Ngừng búa Thiên lôi không dám đánh.
Năm mây bỗng thấy chiếu trời ra,
Đánh chữ đại xá trời ban tha.
Dân QUẠ ở đâu về ở đó,
Từ nay khỏi bắt cầu Ngân Hà.
Ồ té ra:
Mềm thì ai cũng cắn!
Rắn thì trời cũng nhả.
Hằng hà sa số cu li QUẠ,
Bay về hạ giới kêu KHÁ! KHÁ!
~Phan-Khôi~


VIẾNG MỘ LÊ CHẤT
(Võ tướng Tây-Sơn, Tổng trấn
Bắc thành, mất năm 1826, 57tuổi)

Bình Tây, trấn Bắc: sử ngàn thu
Cỏ áy, rêu mờ đất một u
Ấy dũng, ấy trung là thế thế
Mà ân, mà nghĩa ở mô mô?
Chim gào hờn sót xuân âm ỉ
Hùm thét oai lưa gió vụt vù.
Câu chuyện anh hùng ai nhớ nữa,
Hồ Tây văng vẳng tiếng chuông bu.
~Phan-Khôi~
 

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dong thơ cũ - 09.10.2011 09:25:26




LƯƠNG-TRỌNG-HỐI
         
1888-1969

Quê Đồng-Thành, Quế-Sơn, Quảng-Nam, Tham
gia phong trào Duy-Tân, bị giam tại Hội-An một
năm, đậu Cử Nhân, Tri Phủ Hàm-Tân, chủ tịch
Mặt Trận Liên-Việt tỉnh Quảng-Nam, Dân biểu
QH/VNCH, Giám đốc viện Hán Học Huế. Ở ngục
Hội-An, ông có bài thơ tỏ ý:

Sang trọng như ta có hội này,
Khi dinh quan tỉnh lúc lầu Tây.
Giờ Ngọ cơm xơi buồng khép kín,
Tưng Dần lính chực súng giăng dây.
Nghiêng vai chung đỡ trời Âu Việt,
Xỏ cẳng ngồi xem cuộc gió mây.
Nghĩ mình nhò nhỏ chưa chi mấy,
Một gánh dân quyền nắm lại đây.
~Lương-Trọng-Hối~

<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.12.2011 11:47:41 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dong thơ cũ - 28.10.2011 11:03:24




HOÀNG-CAO-KHẢI
           1850-1933

Quê Đông-Thái, Hà-Tĩnh, đậu Cử nhân đời
Tự-Đức,Tri huyện Thọ-Xương, Án sát Lạng-
Sơn, Tuần-phủ Hưng-Yên, Quyền Tổng đốc
Hải-Dương, Khâm sai kinh lược sứ Bắc-Kỳ,
cấu kết chặt chẽ với thực dân Pháp, Thượng
thư Bộ Binh.


 
CÔNG CHÚA HUYỀN TRÂN
 
Đổi chác khôn ngoan khéo nực cười,
Vốn đà không mất lại thêm lời,
Hai châu Ô Lý vuông ngàn dặm,
Một gái Huyền Trân của mấy mươi!
Lòng đỏ khá khen lo việc nước,
Môi son phải giống mãi trên đời.
Châu đi rồi lại châu về đó,
Ngơ ngẩn nhẩn nhau mấy đứa Hời.

~Hoàng-Cao-Khải~


TÔ-HIẾN-THÀNH
 
Khinh bề tài, trọng cương thường,

Lòng giải hai triều một tiết sương.
Mặc bạc trách ai toan đổi trắng,
Chiếu son còn đó dám tham vàng!
Nhà yên, gà mái mai không gáy,
Nước vững, anh con cánh lại giương.
Phò chúa xin ai nên giữ lấy,
Nghìn năm bia miệng có Tô Trương.
~Hoàng-Cao-Khải~




LÊ-ĐÌNH-CẨN

       1879-1914

Quê La-Hà, Tư-Nghĩa, Quảng-Ngãi, đậu Cử
Nhân, Huấn Đạo Mộ-Đức, bỏ về nhà làm ruộng,
Mưu việc duy tân cứu nước, bị Pháp bắt đày đi
Dilăng rồi Côn-Đảo, mất năm 1914 mới 44 tuổi.


 
TÂM SỰ

Cố quốc sơn hà trọng,
Tân triều thế lực khinh,
Hùng tâm vong đảnh hoạch,
Tố mộng đoạn nghê kình,
Dục hiệu Cao trường khấp,
Ninh tri Cát bất thành,
Túng nhiên lưu nhiệt huyết,
Đồng loại hấp văn minh.

~Lê-Đình-Cẩn~

Dịch:


Non sông ơn vẫn nặng.
Sóng gió cuộc vừa xoay.
Vạc lửa lòng quên sợ.
Tăm kình mộng đuổi ngay.
Khóc đời Cao chửa chán, (1)
Hỏng việc Cát nào hay. (2)
Máu nóng còn trôi chạy.
Văn minh hấp cả bầy.
————
(1) Cao-sơn Chính-chi, nhân vật trong cuộc

Nhật Bản mới duy tân khóc mãi đến chết.
(2) Cát-điền Tùng-âm, người mở đường

xuất dương đầu tiên nước Nhật.


<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.12.2011 11:48:27 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dong thơ cũ - 03.11.2011 18:50:04



NGUYỄN-HUY-TÚC




TIÊU CUNG TUẪN TIẾT HÀNH

"Đất Thuận An cạnh sông Thiên Đức, (1)
Người đời xưa gọi ấp Tỳ Bà.
Khúc tỳ mượn ý đặt ra,
Trời sinh người đẹp sánh hoa Đại-đề (2)

Khí tươi tốt nhóm về khuê tú,
Năm Cảnh Hưng Ất-dậu mừng sao,
Nhà sang sinh bậc nữ hào,
Công, dung, ngôn, hạnh vẻ nào kém đâu.

Tuổi mười bảy kén vào cung khuyết,
Bính ngọ liền sớm biết điềm hùng (3)
Ơn trên cao cả muôn trùng,
Đượm nhuần mưa móc phúc hồng chứa chan

Năm đinh vị Tây Sơn khởi biến.
Cảnh phong trần chợt đến khôn lường.
Ngoài thành giong ruổi xe hương,
Quân hầu tan tác, bàng hoàng bên sông.

Vó ngựa lạc Văn phong mấy độ,
Theo từ vi (4) đến Võ Nhai sơn.
Quần Hồng lận đận núi ngàn
Liễu bồ phải chịu muôn vàn long đong,

Xa trông đợi tin rồng vắng bặt,
Chốn nhàn đình nước mắt chứa chan.
Bỗng đâu tiếng trống nổi ran,
Tướng Cao Bằng rước xe loan lên đường.

Tới Mục Mã vội vàng nghỉ lại,
Thuyền vua giong lên ải Phất Mê.
Địch nghe tin, kíp đuổi kề,
Tên bay đạn lạc bốn bề rối ren.

Bè một mảng qua phen kinh hãi,
Bao hiểm nghèo rồi lại bình yên.
Vin cây giẫm đá trèo lên,
Mưa mù lam chướng đầy trên một trời.

Dân sở tại chào mời, đưa dắt,
Gập ghềnh theo lối tắt đường ngang.
Hết đường, tới núi, vào hang,
Giếng thơm trong suốt, nước đang dạt dào.

Biết động ấy thuở nào đào đục?
Mà hôm nay hưởng phúc thần tiên!
Nước ngàn rau núi cũng yên,
Chim kêu, hoa rụng, nỗi buồn tạm khuây.

Trong nội địa (5) tin đâu bay đến,
Quan trên liền sai khiến người sang.
Trước sau căn vặn tỏ tường,
Long Châu tạm đón dọc đường nghỉ chân.

Cấp phẩm vật mọi phần tươm tất,
Lính đưa đường cẩn mật, tận tình.
Rồi cho đến ở Nam Ninh,
Cửa nhà rộng rãi quán đình nghiêm trang.

Dù Nam, Bắc, đôi đường chua xót,
Lễ nghi thường chưa chút đơn sai,
Một niềm từ huấn vâng lời,
Tiêu phòng (6) giữ lễ trong ngoài phân minh.

Nhờ thượng quốc đề binh cứu viện,
Muôn dặm xa đưa đến tin vui,
Về Nam cờ quạt rợp trời,
Vườn xưa điện cũ sáng ngời vẻ xuân.

Tiếng đàn, trống muôn phần rộn rã,
Cảnh cỏ hoa thoả dạ lâu nay.
Nào ngờ vạ gió tai bay,
Buồn vui chốc lát đổi thay khôn lường

Trên ngự giá vội vàng ra ải,
Từ vi và cháu dại cùng đi.
Não lòng thay lúc biệt ly,
Bỗng dưng kẻ ở người đi rã rời.

Sang phía tây tìm nơi lẩn tránh,
Cảnh chơ vơ, cô quạnh, đau thương.
Mỵ, Ngu xưa cũng một phường (7),
Ai làm nên nỗi dặm đường gian truân.

Xưa nhà Hạ có lần suy bại,
Một lữ, thành dấy lại cơ đồ.
Giáo gươm thượng quốc giùm cho,
Nằm gai nếm mật vua lo đủ điều.

Ví xã tắc có nhiều người giỏi,
Phận thuyền quyên đâu phải gian nan.
Khoảng năm quí sửu đồn sang,
"Chầu trời" tin ấy bàng hoàng một phen (8).

Nghĩ vì lẽ dân đen mong mỏi,
Nên Tây Sơn kia nói sai ngoa,
Đến khi vận mở nước nhà,
Sứ thần sang, mới biết là không sai.

Ví ngọc nát, về nơi chín suối,
Hương hồn khôn bạn với tiên quân (9).
Mười sáu năm, biết mấy lần,
Rắp theo Tôn muội làm thân chết chìm (10).

Khiến gia thuộc dò tìm mấy độ,
Lên ải quan hỏi rõ nguyên nhân.
Thề sang tới mộ cố quân,
Quyết liều tính mệnh với khăn lụa là.

Sống là khó, xưa đà có biết,
Nào hay đâu muốn chết cũng gay.
Cơ trời sao khéo vần xoay,
Quan trên đã lấy việc này tâu lên.

Cho về nước, vua liền có chỉ,
Tiết Trung thu, Giáp Tý vừa qua.
Vội vàng lên đón linh xa,
Cháo cơm biếng nuốt, mặt hoa võ vàng.

Thuyền đủng đỉnh Lô Giang qua bến,
Kiệu toàn che, rước đến từ đường.
Thần liêu dâng chén quỳnh tương,
Trông lên, trăm họ đôi hàng lệ sa.

Tình khuê phụ thật là khó vẽ,
Rửa nước thơm làm lễ gọi là.
Mở quan, cúi mặt nhìn qua,
Chắp tay vái lạy lệ nhoà hai mi.

Cầm thuốc độc thầm thì từ tạ
Lui vào màn uống cả một hơi,
Trẻ già ai nấy rụng rời,
Triều đình nghe tiếng bồi hồi tiếc thương.

Ban gấm vóc bạc vàng phúng viếng,
Bao vần thơ lên tiếng ngợi khen.
Khen thay! một chết phỉ nguyền,
Thơm tho muôn thuở con thuyền thanh danh,

Kìa khuê các ngọc lành hiếm có,
Sá chi luống mộ vũ triêu vân (11).
Đai vàng nọ đứa nịnh thần,
Một đời ton hót làm thân gian tà.

Kịp đến lúc sơn hà biến đổi,
Trước quân thù quỳ gối, chắp tay.
Lạnh lòng khi đọc thơ này,
Khác nào roi quất, mặt dày mày ê.

Thân khuê các giúp bề Tiết giáo,
Mặt phấn son phụ đạo Cao hình (12).
So thơ Cù, Cát đã đành (13),
Trúc Tương vằn đẹp lưu danh muôn đời (14).

Người xưa làm việc dễ rồi.
Nay làm việc khó không người đó sao? (15).
~Tô phái hầu Nguyễn-Huy-Túc~


------------------------------------------------------------------
(1) Tức sông Đuống.
(2) Tên một khúc ca trong Cổ nhạc phủ, ca ngợi người con gái đẹp như hoa. ở đây mượn tên đó để chỉ người con gái đẹp.
(3) Điềm con gấu; thơ "Tư can" Kinh Thi nói nằm mộng thấy con bi con hùng (gấu) là điềm sinh con trai.
(4) Chỉ mẹ vua.
(5) Chỉ Trung Quốc.
(6) Phòng ở của cung phi có trát hồ tiêu vào vách cho ấm; đây chỉ vợ vua.
(7) Mỵ Châu, vợ Trọng Thuỷ; Ngu Cơ, vợ Hạng Võ; cả hai người con gái đều chết trong cảnh loạn lạc, rồi Mỵ Châu hoá thành viên ngọc, Ngu Cơ hoá thành cỏ thơm.
(8) Chỉ vào tin Chiêu Thống chết.
(9) Hai câu này ý nói, nếu hoàng phi chết trước di thì hương hồn không được làm bạn với vua Lê, lúc đó thi hài còn ở Trung Quốc.
(10) Tôn muội tức em gái Tôn Quyền và là vợ Lưu Bị đời Tam quốc. Tôn muội bị anh bắt về ở bên Giang Đông; lúc Lưu Bị đánh Giang Đông bị hại, có tin đồn Lưu Bị đã chết, Tôn muội bèn nhảy xuống sông tự tử. Ở đây ý nói hoàn cảnh chưa cho phép Lê Hoàng phi chết được như Tôn muội.

(11) Mộ Vũ Triêu Vân: Chiều mưa sớm mây. Nguyên ở tích Sở Tương Vương đi chơi Vân-mộng, nằm mơ thấy một thần nữ chung chăn gối với mình, khi từ biệt có nói rằng: Nhà thiếp ở phía nam non Vu, sớm làm mây chiều làm mưa... Sau người ta thường dùng chữ "mây mưa" để chỉ việc trai gái giao hoan. Ở đây ý nói không thiết gì đến chuyện ái ân nữa.
(12) Tiết giáo, Cao hình là việc giáo dục của ông Tiết và việc hình án của ông Cao Dao; hai ông này đều là những danh thần mẫu mực đời vua Thuấn.
(13) Thơ "Cù mộc" và thơ "Cát đàm" trong Kinh Thi, nội dung đều ca ngợi các bà hậu phi nhà Chu.
(14) Tương truyền vua Thuấn chết ở núi Thương Ngô, hai vợ là Nga Hoàng và Nữ Anh đến viếng, khóc lóc thê thảm, nước mắt thấm vào các khóm trúc ở xung quanh, thành ra các cây trúc có vằn rất đẹp. Tục gọi là "trúc Tương phi" hoặc "trúc Tương". Sau hai bà nhảy xuống sông Tương để chết theo chồng.
(15) Hai câu này ý nói, chết ngay theo chồng như hai bà vợ vua Thuấn xưa đã làm, là một việc dễ; còn chịu đựng đau khổ trong một thời gian dài rồi mới chết theo chồng như bà Lê hoàng phi, là việc khó.

 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.12.2011 10:43:00 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dong thơ cũ - 04.11.2011 07:24:04



TẢN-ĐÀ
1888-1939


Tức Nguyễn-Khắc-Hiếu. Sinh tại Khê-Thượng,
Bất-Bạt, Sơn-Tây (nay là Sơn-Đà, Ba-Vì, Hà Nội),
nguyên quán làng Lũ (Kim-Lũ), Thanh-Trì, Hà-Nội.
 Mồ côi cha từ 3 tuổi, được anh khác mẹ là Phó
Bảng nuôi dạy, thi rớt Cử Nhân nên hôn nhân tan
vỡ. Nhà viết văn, viết thơ và Soạn kịch nổi tiếng,
mất năm 51 tuổi.


 
THU CẢM

Từ vào thu đến nay:
Gió thu hiu hắt,
Sương thu lạnh,
Trăng thu bạch,
Khói thu xây thành,
Lá thu rơi rụng đầu ghềnh
Sông thu đưa lá bao ngành biệt ly.
Nhạn về, én lại bay đi,
Đêm thì vượn hót, ngày thì ve ngâm.
Lá sen tàn tạ trong đầm,
Nặng mang giọt lệ âm thầm khóc hoa.
Sắc đâu nhuộm ố quan hà,
Cỏ vàng cây đỏ bóng tà tà dương.
Nào người cố lý tha hương,
Cảm thu ai có tư lường, hỡi ai!

Nào những ai:
Bảy thước thân nam tử,
Bốn bể chí tang bồng
Đường mây chưa bổng cánh hồng,
Tiêu ma tuế nguyệt, ngại ngùng tu mi.

Nào những ai:
Sinh trưởng nơi khuê các,
Khuya sớm phận nữ nhi,
Song the ngày tháng thoi đi,
Vương tơ ngắm nhện nhỡ thì thương hoa.

Nào những ai:
Tha phương khách thổ
Hải giác thiên nha,
Ruột tằm héo, tóc sương pha,
Góc phần trạnh tưởng quê nhà đòi cơn.

Nào những ai:
Cù lao báo đức
Sinh dưỡng đền ơn
Kinh sương nghĩ nỗi mền đơn,
Giàu sang bất nghĩa mà hơn nghèo hèn!

Nào những ai:
Tóc xanh mây cuốn
Má đỏ hoa ghen
Làng chơi duyên đã hết duyên
Khúc sông trăng dãi con thuyền chơi vơi!

Nào những ai:
Dọc ngang trời rộng,
Vùng vẫy bể khơi
Đội trời đạp đất ở đời
Sa cơ thất thế quê người chiếc thân.

Nào những ai:
Kê vàng tỉnh mộng
Tóc bạc thương thân
Vèo trông lá rụng đầy sân,
Công danh phù thế có ngần ấy thôi.

Thôi nghĩ cho:
Thu tự trời,
Cảm tự người.
Người đời ai cảm ta không biết!
Ta cảm thay ai viết mấy lời.

Thôi thời:
Cùng thu tạm biệt
Thu hãy tạm lui,
Chỉ để khách đa tình đa cảm,
Một mình thay cảm những ai ai!
~Tản-Đà~
Tháng chín, Canh Thân 1920.

 
THỀ NON NƯỚC    

Nước non nặng một lời thề,
Nước đi đi mãi không về cùng non.
Nhớ lời nguyện nước thề non,
Nước đi chưa lại, non còn đứng không.
Non cao những ngóng cùng trông,
Suối tuôn dòng lệ chờ mong tháng ngày.
Xương mai một nắm hao gầy,
Tóc mây một mái đã dày tuyết sương.
Trời tây ngả bóng tà dương,
Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha.
Non cao tuổi vẫn chưa già,
Non thời nhớ nước, nước mà quên non.
Dù cho sông cạn đá mòn,
Còn non còn nước hãy còn thề xưa.
Non xanh đã biết hay chưa,
Nước đi ra biển lại mưa về nguồn.
Nước non hội ngộ còn luôn,
Bảo cho non chớ có buồn làm chi.
Nước kia dù hãy còn đi,
Ngàn dâu xanh tốt, non thì cứ vui.
Nghìn năm giao ước kết đôi,
Non non nước nước khôn nguôi lời thề.
~Tản-Đà~

 
TỐNG BỆT           
 
Lá đào rơi rắc lối Thiên thai,
Suối tiễn oanh đưa, những ngậm ngùi.
Nửa năm tiên cảnh,
Một bước trần ai.
Ước cũ duyên thừa có thế thôi.
Đá mòn, rêu nhạt,
Nước chảy, hoa trôi.
Cái vạc bay lên vút tận trời!
Trời đất từ nay xa cách mãi.
Cửa động,
Đầu non,
Đường lối cũ,
Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi.
~Tản-Đà~

 
GIÓ THU               

Ngọn gió thu phong rụng lá vàng
Lá bay hàng xóm lá bay sang
Vàng bay mấy lá năm già nửa
Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng

Ngọn gió thu phong rụng lá hồng
Lá bay tường bắc lá sang đông
Vàng bay mấy lá năm hồ hết
Thơ thẩn kìa ai vẫn đứng trông.
~Tản-Đà~


MẮNG CON QUỐC TIẾC XUÂN
              (Gởi cho các chiến sĩ tại
                       Đông-kinh Nghĩa-thục)

Ai khuyên con quốc nó đừng kêu,
Xuân đã qua rồi cứ gọi theo...
Sao cứ lo co trong bụi rậm,
Lại còn eo óc với trời cao!
Cỏ non nước lục chờ mi mãi,
Liễu yếu đào tơ chán kẻ yêu.
Đen đủi chẳng nên năn nỉ phận,
Mặc cơn mưa sớm, hạt mưa chiều.
~Tản-Đà~

 
CẢNH VUI CỦA NHÀ NGHÈO

Trong tr ần thế cảnh nghèo là khổ
Nỗi sinh nhai khốn khó qua ngày
Quanh năm gạo chịu tiền vay
Vợ chồng lo tính hôm rày hôm mai.
áo lành rách vá may đắp điếm
Nhà ở thuê chật hẹp quanh co
Tạm yên đủ ấm vừa no
Cái buồn khôn xiết, cái lo khôn cùng.
Con đi học con bồng con dắt
Lớn chưa khôn lắt nhắt thơ ngây,
Hôm hôm lớn bé sum vầy
Cũng nên vui vẻ mà khuây nỗi buồn.

Ngh ĩ thiên hạ cho con đi học
Cảnh phong lưu phú túc nói chi!
Những ai bần bạc hàn vi
Lo buồn, đã vậy, vui thì cũng vui.
Tan buổi học mẹ ngồi tựa cửa
Mắt trông con đứa đứa về dần.
Xa xa con đã tới gần
Các con về đủ quây quần bữa ăn.
Cơm dưa muối khó khăn mới có,
Của không ngon, nhà khó cũng ngon.
Khi vui câu chuyện thêm giòn
Chồng chồng vợ vợ con con một nhà.
Ă n rồi học, tối qua lại sáng,
ễt tiền tiêu ngày tháng thảnh thơi,
Chiều chiều tối tối mai mai
Miễn sao no đủ, việc đời quản chi!

Con nhà khó nhi ều khi vất vả,
Ngoài học đường thư thả được đâu,
Khi thời quẩy nước tưới rau
Chợ tan đón gánh theo sau mẹ già.
Việc giấy bút vẫn là đi học
Cảnh gia đình khó nhọc nhường ai?
Ví chăng có chí có tài
Khi nên, trời cũng cho người làm nên.
Khắp xã hội nghèo hèn ai đó
Mẹ thương con thời cố công nuôi.
Những con nhà khó kia ơi
Có thương cha mẹ thời vui học hành!
Cũng chẳng kể thành danh lúc khác
Trời đã cho bước bước càng hay
Nghèo mà học được như nay
Vinh hoa chưa dễ sánh tày cái vui.
Trong trần thế nhiều nơi phú quí
Nỗi buồn riêng ai ví như ai?
Bày ra cái cảnh có trời
Vui buồn cũng ở tự người thế gian.
~Tản-Đà~

<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.12.2011 11:02:01 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dong thơ cũ - 08.11.2011 11:27:14




THIÊN-THÊ                      
      1893-...


PHÒNG THỦ

Vẻ vang thay xứ Đông-dương,
Làm cho Xiêm, Nhật họ đương muốn thèm.
Ấy đấy! Họ đàn em ta trước,
Mà bây giờ láo xược thế ư?...
Quân phát-xít thật là hư!
Sao không nghĩ cái nhục xưa đó mà?
Còn toan cướp nước ta, gớm nhỉ?
Đồ dã-man đáng bỉ làm sao.
Để hai chính phủ nôn nao,
Lo cuộc phòng thủ tốn hao nhiều tiền.
Bốn tư triệu hoa-viên quốc-trái,
Hai chiến thuyền, hai cái tầu bay.
Pháo đài, quân cảng vừa xây,
Tuyển hai vạn lính mấy ngày vừa xong.
Rõ thực là các ông nghĩ quẩn,
Lo làm chi cho bận tấc lòng!
Xưa nay giòng giống Lạc-Hồng,
Biết bao sự nghiệp chiến công vẫn còn.
Vì các cụ tôi khôn vô số,
Lúc dụng binh có đủ kinh luân.
Lược thao văn võ muôn phần,
Đeo ngù vác giáo xuất quân rất hùng.
Cho cả súng thần công uống thuốc,
Lại phong cho voi tước quận-công.
Lúc mà giao chiến dưới sông,
Lấy nhựa thông đánh hỏa công đốt tàu.
Khi nào phải đánh nhau trên bộ,
Hái ổi xanh đem đổ tung ra.
Chân giặc một gióng thôi mà,
Trượt ổi nó ngã ắt là phải thua.
Quan thì phải trung vua ‘‘trị nước’’,
Cấm dân thường chẳng được hé răng,
Hễ ai nói chuyện ngoại bang,
Phải đem voi xé, phải đem trầm hà.
Nước ta xưa khôn là thế đãy,
Đố anh nào dám lấy nước ta!
Việc gì mà phải lo xa...
Cứ phương pháp cũ đem ra thi hành.
Trừ cho tuyệt mấy anh phát xít,
Cướp nước ta, ta giết không thương.
Việc gì mà phải lo lường,
Việc gì mà phải tìm phương đề phòng.
~Thiên-Thê~




Á-NAM TRẦN-TUẤN-KHẢI
               1895-1983


HAI CHỮ NƯỚC NHÀ
          (Nghĩ lời ông Phi-Khanh dặn
                  ông Nguyên-Trãi khi ông bị
                  quân Minh bắt giải sang Tàu)


Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm,
Cõi trời Nam gió thảm đìu hiu.
Bốn bề hổ thét chim kêu,
Đoái nom phong cảnh như khêu bất bình.
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước,
Chút thân tàn lần bước dậm khơi,
Trông con tầm tã châu rơi,
Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên:
Giống Hồng-Lạc, hoàng-thiên đã định,
Mấy ngàn năm suy thịnh đổi thay,
Trời Nam riêng một cõi này,
Anh-hùng hiệp-nữ xưa nay kém gì!
Than vận nước gặp khi biến đổi,
Để quân Minh thừa hội xâm lăng,
Bốn phương khói lửa bừng bừng,
Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông!
Nơi đô thị thành tung quách vỡ,
Chố dân gian bỏ vợ lìa con,
Làm cho tiêu tán hao mòn,
Lạ gì khác giống dễ còn thương đâu!
Thảm vong quốc kể sao xiết kể!
Trông cơ đồ nhường xé tâm can,
Ngậm ngùi đất khóc trời than,
Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này!
Khói Nùng-lĩnh như xây khối uất,
Sóng Long-giang nhường vật cơn sầu,
Con ơí! Càng nói càng đau...
Lấy ai tế độ đàn sau đó mà?
Cha xót phận tuổi già sức yếu,
Lỡ sa cơ đành chịu bó tay,
Thân lươn bao quản vũng lầy,
Giang sơn gánh vác sau này cậy con.
Con nên nhớ tổ tông khi trước:
Đã từng phen vì nước gian lao,
Bắc Nam bờ cõi phân mao,
Ngọn cờ độc lập máu đào còn giây.
Kìa Trưng-Nữ ra tay buồm lái,
Phận liễu bồ xoay với cuồng phong,
Giết giặc nước, trả thù chồng,
Nghìn thu tiếng nữ-anh-hùng còn ghi.
Kìa Hưng-Đạo gặp khi quốc biến,
Vì giống nòi huyết chiến bao phen!
Sông Bạch-Đằng phá quân Nguyên,
Gươm reo chính khí, nước rền dư-uy.
Coi lịch sử gương kia còn tỏ,
Mở dư đồ đất nọ chưa tan,
Giang san này vẫn giang san,
Mà nay sẻ nghé tan đàn vì ai?
Con nay cũng một người trong nước,
Phải nhắc cân Gia, Quốc đôi đường,
Làm trai hồ thỉ bốn phương,
Sao cho khỏi thẹn với gương Lạc-Hồng.
Thời thế có anh hùng là thế,
Chữ vinh hoa sá kể làm chi!
Mấy trang hào kiệt xưa kia,
Hy sinh thân thế cũng vì nước non.
Con đương độ đầu son tuổi trẻ,
Bước cạnh tranh há để cùng ai?
Phải nên thương lấy giống nòi,
Đừng tham phú quý mà nguôi tấc lòng.
Kiếp luồn cúi đỉnh chung cũng nhục,
Thân tự do chiên chúc mà vinh.
Con ơi! nhớ đức sinh thành,
Sao cho khỏi để ô danh với đời.
Chớ lần lữa theo loài nô lệ,
Bán tổ tiên kiếm kế sinh nhai,
Đem thân đầy đọa tôi đòi,
Nhục nhằn bêu riếu muôn đời hay chi?
Sốg như thế sống đê sống mạt,
Sống làm chi thêm chật non sông!
Thà rằng chết quách cho xong,
Cái thân cẩu trệ ai mong có mình!
Huống con cũng học hành khôn biết,
Làm giống người phải xét nông sâu,
Tuồng chi gục mặt cúi đầu,
Cam tâm làm kiếp ngựa trâu cho đành!
Nỗi tâm sự đinh ninh nhường ấy,
Cha khuyên con có bấy nhiêu lời,
Con ơi! con phải là người,
Thì con theo lấy những lời cha khuyên.
Cha nay đã muôn nghìn bi thảm,
Nói bao nhiêu tâm khảm càng đau!
Chân mây mặt cỏ rầu rầu,
Càng trông cố quốc mạch sầu càng thương!
Lời cha dặn khắc xương để dạ,
Mấy gian lao con chớ sai nguyền,
Tuốt gươm thề với khuôn thiêng,
Phải đem tâm huyết mà đền cao sâu.
Gan tráng sĩ vững sau như trước,
Chí nam nhi lấy nước làm nhà,
Tấm thân sẻ với sơn hà,
Tượng đồng bia đá họa là cam công.
Nữa mai mốt giết xong thù nghịch,
Mủi Long-tuyền lau sạch máu tanh.
Làm cho đất động trời khinh,
Bấy giờ quốc hiển gia vinh có ngày!
Nghĩa vụ đó con hay chăng tá?
Tính toan sao vẹn cả đôi đường.
Cha dù đất khách gửi xương,
Trông về cố quốc khỏi thương hồn già.
Con ơi! HAI CHữ NƯỚC NHà...
~Á-Nam Trần-Tuấn-Khải~


TIỄN CHÂN ANH KHOÁ XUỐNG TÀU

Anh khóa ơi! Em tiễn chân anh xuống tận bến tàu,
Đôi tay em đỡ cái khăn trầu, em lấy đưa anh.
Tay cầm trầu giọt lệ chạy quanh,
Anh xơi một miếng cho bõ chút tình em nhớ thương.
Anh khóa ơi!
Cái bước công danh ngoắt ngoéo đủ trăm đường.
Anh đi một bước tấm gan vàng em xé làm hai.
Kìa người ta bè bạn vui cười,
Đôi ta thương nhớ chỉ ngậm ngùi mà đứng bên nhau.
Anh khóa ơi! Còi tu tu tàu sắp kéo cầu,
Đường trần em sắp sửa gánh sầu từ đây.
Trông anh, em chẳng nỡ rời tay,
Nói riêng em dặn câu này anh chớ có quên:
Anh khóa ơi! Người ta lắm bạc nhiều tiền,
Anh em ta phận kém duyên hèn mới phải long đong.
Một mình anh nay Bắc lại mai Đông,
Lấy ai trò chuyện cho khuây lòng lúc sớm khuya!
Anh khóa ơi! Chữ tương tư vai gánh nặng nề,
Giang hồ anh sớm liệu trở về kẻo nữa em mong,
Tính toán sao cho phỉ chí tang bồng?
Ở nhà em cũng dốc một lòng giữ phận thuyền quyên.
Anh khoá ơi! Cái máy phân ly sình sịch sắp chia duyên,
Thôi anh ngồi lại, để em bước lên trên mạn bờ,
Gió hiu hiu ngọn nước chảy lờ đờ,
Dưới sông con tàu chạy, trên bờ em với trông.
Anh khóa ơi! Anh ra đi mây nước muôn trùng,
Em trở về vò võ phòng không một mình,
Với trông theo tàu ngoắt khúc sông quanh,
Sông bao nhiêu nước, giọt lệ tình em bấy nhiêu.
~Á-Nam Trần-Tuấn-Khải~


MONG ANH KHOÁ

Bài này nối vần với bài "Tiễn chân anh Khoá
xuống tầu", in trong quyển "Duyên nợ phù sinh"
thứ nhất)


Anh Khoá ơi! Lúc đêm khuya em ngồi tựa chốn buồng điều,
Một mình em mở quyển Kim Vân Kiều em đọc em ngâm.
Đọc đến câu "Đã nguyền đôi chữ đồng tâm",
Giật mình tưởng khách xa xăm em lại sầu.
Anh Khoá ơi! Kể từ khi em tiễn chân anh ra đến bến tầu,
Lời phân ly em chưa cạn mà con tầu nó đã quay đi.
Một mình em vơ vẩn bước ra về,
Với trông mây nước trăm bề em những ngổn ngang.
Anh Khoá ơi! Ở trên đời chi hiếm kẻ giầu sang,
Sao anh không luồn cúi để khuênh khoang cho nó qua đời.
Can chi mà nay ngược lại mai xuôi?
Để buồng không em than thở mà bên trời anh cũng lênh đênh?
Anh Khoá ơi! Cái kiếp nam nhi anh gánh vác đã đành,
Như em là phận gái dễ xuân xanh được mấy mươi lần?
Mới ngày nào đào hạnh vẫn cười xuân,
Mà quyên kêu ve gọi lần lần cảnh đã sang đông.
Anh Khoá ơi! Bấy lâu nay xa cách vân mòng,
Bên đường em trông ngóng, bên sông em đợi chờ;
Đường vắng tanh, sông nước chảy lờ đờ,
Một thương hai nhớ biết bao giờ cho lại gặp nhau?
Anh Khoá ơi! Trời cao cao, nước biển sâu sâu,
Hỏi rằng trời biển thấu nỗi nhau chăng là?
Một mình em thu xếp cửa nhà,
Dạy con em thay bố, nuôi mẹ già em lại thay con.
Anh Khoá ơi! Tính đốt tay đã một năm tròn,
Ăn sương nuốt gió kể cũng hao mòn cái kiếp con ve.
Nghĩ nguồn cơn khuya sớm đi về,
Một thân em vò võ biết hề than thở cùng ai?
Anh Khoá ơi! Cuộc phân ly con tạo khéo trêu ngươi,
Non cao biển rộng, nợ đời em trả biết bao xong?
Nhớ đến câu "xuất giá theo chồng"
Dẫu trăm cay ngàn đắng cũng dốc một lòng với gánh giang san.
Anh Khoá ơi! Kiếp tài tình đã trót đa mang,
Năm chìm bảy nổi xin anh chàng cũng chớ ăn năn.
Nữa một mai thiên địa xoay vần,
Nụ xanh hoa thắm, gặp ngày xuân ta lại tươi cười.
Anh Khoá ơi! Đướng bắc nam bao xiết nỗi ai hoài,
Gạt sầu pha lệ, viết mấy lời tỏ dạ nhớ mong.
Nước non xa muôn dặm vẫy vùng,
Quê nhà đất cũ xin thấu tấm lòng cho ai.
Này hỡi anh Khoá em ơi!!!
~Á-Nam Trần-Tuấn-Khải~


DUYỆT VĂN HỮU CẢM

Trăm mối tơ vương nỗi nước nhà,
Thẩn thơ dưới nguyệt một mình ta.
Câu văn than khóc kìa ai đó?
Sầu phá non sông động cỏ hoa.

Trên biển á bao la nước bạc,
Cõi giời Nam man mác mây cao.
Giời mây biển nước dạt dào,
Người đây biển đấy biết bao nhiêu tình.
Hội niên thiếu sinh thành một nước,
Chữ chung tình gánh vác hai vai.
Sa chân bước xuống cõi đời.
Kiếp trần hồ dễ ai người khác nhau!
Trông bể thảm biết đâu là hết?
Tưởng tri âm xa tít băng ngàn.
Ấy ai vơ vẩn canh tàn?
Càng ngâm nghĩ nỗi càng chan chứa sầu.
Cuộc nhân thế bể dâu chuyển vận,
Áng quần thoa son phấn thờ ơ
Lần lần tuyết sớm sương trưa
Khối tình đập phá bao giờ cho tan!
Lầu thu nguyệt thở than chiếc bóng
Mái thư hiên trông ngóng xa vời
Thương ai mà giận cho giời,
Vô duyên buộc mãi con người tài hoa.
Đau đớn nhẽ! giăng ngà cay nghiệt,
Dắt dun nhau vào kiếp đoạn trường.
Sắc tài xưa đến Huệ nương
Ngàn thu còn để mảnh gương ái tình.
Khi viện sách đêm thanh tịch mịch,
Xem câu văn tưởng khách xa đường.
Đa mang duyên nợ văn chương,
Người trong một hội thì thương nhau cùng.
Buổi Âu Á văn chương còn mới,
Bước thân danh đường lối còn xa.
Non xanh nước bạc chưa già,
Nợ đời ta phải liệu mà lo toan...
~Á-Nam Trần-Tuấn-Khải~


TRÁNG SĨ HÀNH

"Gió đìu hiu sông Dịch lạnh lùng ghê,
Tráng sĩ một đi, không bao giờ về!" (*)
Tay nâng chén rượu giã người cũ,
Miệng đọc câu ca chân bước đi.
Dao tình mài liếc với thanh khí.
Chí hùng tung bốc đầy sơn khê.
Nghe tiếng đờn trúc gõ réo rắt,
Mặc cho kể hết niềm phân ly.

Niềm phân ly!
Đã bước chân ra khôn hẹn kỳ,
Đời người bất quá vị tri kỷ,
Sống, chết, nên, chăng, ai sá chi!
Túi áo xênh xang ba tấc kiếm,
Bụi hồng rong ruổi đôi bánh xe.
Ngoảnh lại thành Yên đầy uất khí,
Thấu lòng hoạ chỉ người tương tri

Người tương tri,
Lá gan bầu mật, cùng nhau thế:
Thề đem tấm thân tới hang hổ,
Giết con cọp dữ rừng man di,
Đời nếu chôn lấp hết công lý,
Anh hùng hào kiệt còn ra gì!
Phá núi Thái Sơn, lấp Đông Hải;
Ấy là phận sự đàn nam nhi.

Đàn nam nhi,
Chuyển đất xoay giời thường có khi.
Khuyên ai chớ học bọn khăn yếm:
Xa nhau một bước lệ đầm đìa.
Liếc mắt khắc trông vũ trụ đó.
Đâu không là cảnh ta say mê!
Chếch choáng hơi men bốc chính khí,
Ngâm câu khẳng khái mình ta nghe...

"Gió đìu hiu sông Dịch lạnh lùng ghê,
Tráng sĩ một đi không bao giờ trở về"
~Á-Nam Trần-Tuấn-Khải~
                1933
<bài viết được chỉnh sửa lúc 25.12.2011 10:57:51 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dong thơ cũ - 23.11.2011 10:07:46




NHƯỢNG-TỐNG
       1897-1948



GIÃ TỪ TUYÊN-QUANG

Dứt tiếng ly ca ném chén vàng,
Bòi hồi từ giã đất Tuyên-Quang.
Biết tìm đâu thấy người trong mộng,
Khéo não nùng thay! cảnh dọc đường!

Cây cỏ ba đông trời cố quốc,
Nước non muôn đặm bóng tà dương.
Xanh xanh sông nọ bao nhiêu khúc,
Một khúc xa nhau một dặm trường.

Người một phương trời, khách một phuơng,
Đôi lòng ai giắt sợi tơ vương.
Không quen thuộc đã thành dan díu,
Có biệt ly đành phải nhớ thương.

Ơn nặng chưa đền cho đất nước,
Tình riêng tạm gởi với văn chương.
Thăm nhau muốn hỏi đường trong mộng,
Núi Tản sông Lô mấy dặm đường.

Người bến sông Lô, kẻ chợ Bờ,
Tìm nhau chẳng thấy ruột vò tơ.
Chiếc thân đất khách ta buồn lắm,
Giấc mộng đêm trường khách tỉnh chưa?

Sự trước đã lầm ra thế ấy,
Đường xa sớm liệu tự bây giờ.
Mông mênh bốn bể ai tri kỷ?
Canh tối đèn tàn, tiếng gió mưa!...
~Nhượng-Tống~




THẠCH-HÀ

Sinh tại Huế, học Quốc Học. Tham gia
Thanh Niên Tiền Tuyến, tù 8 năm khổ sai,
8 năm biệt sứ. Sáng lập Hội Cảm Xạ Học.



TÂM SỰ DÀI

Sực tỉnh giấc mơ vọng cố sầu
Suốt đời toàn gặp chuyện chi đâu
Đua bơi đèn sách vàng đôi mắt
Đeo đuổi công danh bạc nửa đầu
Chí cả không thành , đành dẹp xó
Tài dư nghịch đải, phải vùi sâu
Tái sinh xin được làm cây cỏ
Tránh cõi trần gian, mọi khổ đau
                    *
Thời gian hờ hửng vẫn trôi qua
Hà dễ ngồi đây mãi đến già
Sinh kế gia đình sầu man mác
Tiền đồ tổ quốc hận bao la
Ham vui, con cháu ra riêng sớm
Lo đói bạn bè lập nghiệp xa
Tri kỷ hỏi ai còn đó nhỉ
Bao giờ về lại được quê nhà 
~Thạch-Hà~


VÀO TÙ

giật mình tỉnh dậy, chốn nào đây?
bốn bức tường đen, tối đặc dày
thoang thoảng quanh đây mùi ẩm ướt
vo ve cùng góc, muỗi bao vây

mặt mày sưng húp đau khôn xiết
thân thể bầm tê, máu tắm đầy
mật thám cho mời ta khi sáng
giờ đây mới nếm cảnh tù Tây
~Thạch-Hà~
      7/1948
Thừa Thiên Giam cứu tại sở
Liêm Phóng Liên Bang





TƯƠNG-PHỐ
    
1900-... 

KHÚC THU HẬN      

Chàng đi buổi thu sơ năm ấy,
Thu nay về nào thấy chàng về.
Chàng đi, đi chẳng trở về,
Thu về thiếp những tái tê dạ sầu!
Làn mây nước biết đâu nhắn gửi?
Khoảng đất trời để mãi nhớ thương.
Vì chàng chín khúc đoạn trường,
Vì chàng trăm mối sầu vương tháng ngày.
Thu xưa khóc thu này lại khóc,
Năm năm thu mải khóc mà già.
Người xưa khuất, cảnh cũ qua,
Non buồn, nước lạnh, cỏ hoa tiêu điều.
Nỗi ly hận mây chiều gió sớm,
Tình tương tư khoảng vắng canh trường.
Gió mưa tâm sự thê lương,
Chỉ kim ai vá đoạn trường nhau đây?
Sầu ngây ngất những ngày thu lại,
Giọt Ngâu tuôn lệ lại chan hòa.
Ngàn xanh sắc lá vàng pha,
Bông lau lả lướt la đà ngọn may.
Non nước buồn cỏ cây hiu hắt,
Khói mây tuôn mặt đất chân trời.
Vời trông muôn dặm đường đời,
Bước trăm năm luống ngậm ngùi cho thân.
Kể từ độ phong trần lạc bước,
Mười lăm năm mặt nước cánh bèo,
Gieo lòng theo ngọn thủy triều,
Lênh đênh thôi cũng mặc chiều nước sa!
Con măng sữa nay đà mười sáu,
Chốn hầu môn nương náu đức dầy.
Sách đèn cơm áo bấy nay,
Vì con nuốt hết chua cay cuộc đời!
Phong lưu để ngậm ngùi tấc dạ,
Chén vinh hoa lã chã giọt hồng.
Khóc than khôn xiết sự lòng,
Bèo xuôi sóng ngược cho lòng xót xa!
Khăn lệ cũ chan hòa lệ mới,
Mối sầu xưa chấp nối sầu nay.
Tân sầu cựu hận bao khuây,
Tuyết sương một gốc mai gầy thảm thương.
Thu năm về thê lương dạ cũ,
Nước dòng thu khôn rũ tấm sầu.
Bi ca một khúc thu sầu,
Trăng thu giãi bóng canh thâu lạnh lùng!
~Tương-Phố~


TIM EM

Tim em tan nát từ năm ấy
Những vết thương đau mãi chẳng lành,
Tuổi trẻ dễ tin, em những chắc,
Duyên sau chắp lại mối tơ mành.

Hạnh phúc đời em, ai cướp cả?
Em theo ân ái chẳng may gì,
Hờn duyên, em lại nhìn cha khóc,
Ứa lệ, cha em ngoảng mặt đi!

Từ đấy thương cha em nín khóc,
Cha em thường thấy mặt em vui
Người đời cũng tưởng em sung sướng
Em biết tim em đã nát rồi!

Em cười phong kín hai hàng lệ,
Lệ ứa thương em lỡ cuộc đời,
Thổn thức canh dài em dẫu khóc,
Nhưng mai, son phấn lại tươi rồi!

Vì đứa con côi, em phải sống,
Nuôi con rỏ lệ máu tim hòa,
Muôn vàn hạnh phúc hy sinh hết,
Tim nát, thời gian lặng lẽ qua! ....
~Tương-Phố~
       1933

<bài viết được chỉnh sửa lúc 25.12.2011 11:01:31 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dong thơ cũ - 28.11.2011 11:40:59




NGUYỄN-ĐÚC-NHUẬN
           
1900-1982

Sinh Phổ-An, Từ-Nghĩa, Quảng-Ngãi, tốt nghiệp
Trung Học, vào Sàigòn làm báo, hiệu Bút-Trà. Bài
Khóc Nguyễn An Ninh của ông nói lên được
tấc lòng ông đối với các nhà yêu nước, anh
hùng dân tộc.


Chống thực nung sôi giọt máu hồng,
Bốn mươi bốn tuổi trải gan trung!
Nhân dân còn mắc vòng nô lệ,
Khoa giáp màng chi miếng đỉnh chung.
Một thác Côn Sơn bia vạn cổ
Bao lần chuông bể dội non sông!
Dân quyền đánh thức hồn dân tộc,
Trước có Lư Thoa sau có ông!
~Bút-Trà~




TÚ-MỠ
1900-1976

Tức Hồ-Trọng-Hiếu, sinh tại Hà-Nội,
chuyên về phú và thơ trào phúng.


NÀNG THƠ CỦA TÔI

Tú tôi kết bạn với nàng Thơ
Cô ả xinh xinh, tính ỡm ờ
Nhí nhảnh nhưng mà hơi khó nết
Hay dằn, hay dỗi, ít tơ mơ...

Những sớm bình minh buổi đẹp trời
Cây rung rinh lá, cỏ xanh tươi,
Êm đềm, tôi thấy lòng thơ thái
Ấy lúc cô nàng quấn quít tôi.

Thủng thỉnh đi đôi, bước dịu dàng
Đồng quê cùng ngắm cảnh mênh mang
Trông mây, nhìn bướm, nghe chim hót
Thi hứng lòng tôi thấy chứa chan

Nhưng... lúc đưa chân tới sở làm,
Vào đời thực tế hết mơ màng!
Vô tình cô ả theo chàng Tú
Tới chốn làm ăn, cảnh rộn ràng

Tiếng máy rào rào tựa pháo ran;
Những hồi chuông bấm tiếng kêu vang
Kẻ đi tất tưởi, người cặm cụi
Giấy má hồ sơ để ngổn ngang

Công việc hằng ngày Tú vác ra
Giấy tờ sổ sách với ‘‘măng-đa’’
Cô nàng ngơ ngác kề tai hỏi:
‘‘Anh Tú làm chi? chẳng phải thơ!’’

Buồn thỉu buồn thiu, Tú băn khoăn
Rằng: ‘‘Việc anh làm kiếm gạo ăn
Vương lấy nợ đời  nên phải trót,
Kéo cày lận đận đã bao xuân.

Chốn này chẳng phải để đôi ta
Thơ  thẩn cùng nhau chuyện phất phơ
Nàng hãy dầu lòng lui  gót vậy
Hẹn hò khi khác sẽ tơ mơ’’

Cô nàng phụng phịu kém vui tươi
Nhếch một nụ cười rất mỉa mai
Cong cớn, nguýt dài, đi mất hút
Mặc anh ký cóp ngẩn ngơ hoài.

Nhớ tiếc tôi đành chỉ nhún vai
Chúi đầu làm trọn việc sinh nhai
Cho qua ngày ấy sang ngày khác
Ba chục năm trời, kiếp khổ sai.

Để mặc Nàng Thơ với gió giăng
Chơi non,  chới nước, dạo lăng băng
Có khi vắng mặt lâu, lâu lắm
Bỏ lửng nhà thơ chẳng đãi đằng.

Rồi khi cao hứng bất thình lình
Nàng lại về chơi với bạn tình
Đem vẻ vui tươi và nhí nhảnh
Cho mình an ủi cái vong linh.
~Tú-Mỡ~
   1926


DÂN NGU PHÚ

Nghĩ đến thôn dân
Ngán thay hủ tục!
Dòi từ trong xương
Dột từ trên nóc!

Việc làng nát tựa tương dầm
Trí dân tối như hũ bọc
Dưới, đàn em một lũ bần cùng
Trên, kẻ cả những người ô trọc

Quốc hồn, quốc túy, khư khư giữ mớ lễ nghi quèn
Thói tục, thường lề, nhất nhất theo pho hương mốc

Ðường sinh sống, chẳng lo bề chỉnh đốn, quả kiếp chân bùn tay lấm, vất vả lầm than;
Cách ở ăn, không biết phép vệ sinh, tấm thân lưng đen khố cao, lôi thôi nhem nhuốc.

Cơm khoai, gạo hẩm, bữa thường ăn khổ, ăn kham;
Vách đất, nhà tranh, kiếp tội ở chui, ở rúc.

Cám cảnh anh Nhiêu, chị Xã, luộm thuộm đầu bù, tóc rối, đâm rụi đâm xo;
Thường tình cái đĩ, thằng cu, trần truồng bụng ỏng đít teo, bò nheo bò nhóc.

Áo ôm khố rách, kẻ nghèo nàn cực khổ điêu linh
Tiền nổi của chìm, người giàu có căn cơ ngu ngốc
Nằm trên đống của, bo bo chẵng biết lối tiêu xài
Chôn chặt cọng tiền, thấp thỏm chỉ lo quân cướp bóc.

Duy chỉ biết giỗ lớn, ma to để trang trải nợ mồm quanh xóm mạc, nhắm no, uống say;
Hoặc chỉ lo ngồi cao, bậc cả, để vểnh vang bộ mặt chốn đình trung, ăn trên ngồi trốc.

Miếng giữa làng bằng sàng xó bếp, ghen hơi tức khí, chỉ vì phần đĩa thịt, nắm xôi;
Tiền vào quan như than vào lò, bại sản khuynh gia, thường bởi miếng phao câu, bầu dục.

Cải lương, hương tục, tưởng chừng to tát như trời;
Cách thức thi hành, rút cục chẳng ra cái cóc!

Bọn hương chức học hành dốt nát, tài cán cóc khô;
Lũ kì hào lý sự ngang phè, khôn ngoan rùa mốc.

Ðộng hội họp là ngả mâm đánh chén, dĩ thực vi tiên;
Hơi chi tiêu là động gió bẻ măng, lợi mình làm gốc.

Học hành, công nghệ, việc ích chung ai là kẻ lo toan?
Ðình đám, hội hè, sự tai hại sao lắm người lăn lóc!

Ngán vậy thay!

Vì dân ươn hèn?
Hay cán ngu ngốc!
Báo đọc tèm lem
Sách ghi bật gốc...

Ðiều văn minh gác bỏ ngoài tai
Thói hư hại ăn sâu trong óc.

Chốn bùn lầy nước đọng, làm cho dân mờ trí tinh khôn
Người bổng hậu quyền cao, nào có biết cầm cương nảy mực...
~Tú-Mỡ~


MƯỜI THƯƠNG

Một thương tóc lệch đường ngôi,
Hai thương quần trắng, áo mùi, khăn san.
Ba thương hôm sớm điểm trang,
Bốn thương răng ngọc hai hàng trắng phau.
Năm thương lược Huế cài đầu,
Sáu thương ô lục ngả màu thanh thiên.
Bảy thương lắm bạc nhiều tiền,
Tám thương động tí nữ quyền giở ra.
Chín thương cô vẫn ở nhà,
Mười thương...thôi để mình ta thương mình...
~Tú-Mỡ~
(Giòng Nước Ngược 1)


GÂY QUAN

Mỗi năm nhà nước mở khoa thi
để kén trong trugn bắc lưỡng kỳ
lấy mặt sỏi sành ra giúp việc
bổ làm tập sự ngạch quan chi

Mỗi năm các cậu lớp tân khoa
Sung sướng bằng xưa đỗ thám hoa
Tuy chẳng vinh quy, cờ võng lọng
Cũng là lừng lẫy khắp gần xa

Quảng cáo công không, các nhật trình
đăng tên, đăng tuổi, lại đăng hình,
làm như các cậu “quan non” ấy
là những kỳ đồng mới tái sinh

Trong làng trưởng giả những cô nào
sẵn mỏ nhưng chưa có kẻ đào
mấp máy hòng lên bà lớn tắt
mơ màng của dẫn lại tay trao

Cụ thượng Quỳnh ta cũng sướng ran
xoa tay hỉ hả cái gan vàng
mừng cho nước Việt còn cơ khá
vì chẳng bao giờ tiệt giống quan
~Tú-Mỡ~
Nhà xuất bản Đời nay, 1934


HỒ GƯƠM PHÚ
Tặng cô Thoại Ngữ, người bạn
xa chưa quen biết.


(Hội Khai trí Tiến đức có mở  cuộc thi văn
chương, trong các môn thi có bài phú Hồ Gươm,
hạn vần :’’Hồ đó, gươm đâu?’’ Tú Mỡ thấy đầu
đề hay, cũng hứng bút viết chơi. Viết chơi thôi,
không dự thi, và cố nhiên không lấy thưởng...!)

Nghìn năm văn vật
Nhất chốn kinh đô.
Tuy nhiều thắng cảnh
Đâu đẹp bằng hồ  …

Thợ Tạo đã tài xếp đặt,
Công người cũng khéo điểm tô.
Giữa trần tục xen nơi tiên cảnh,
Trong thị thành nổi đảo san hô.

Sỏng biếc lăn tăn, lấp lánh vàng gieo ngấn nước,
Cây xanh rườm rạp, lơ thơ liễu rủ quanh bờ.
Đền Ngọc Sơn tháp bút nguy nga, tôn cảnh non  bồng tịch mịch.
Cầu Thê Húc màu son đỏ thắm, chắn làn n¬ước cuốn lô xô.
Nào những khi gió nồm hây hẩy, nào những khi sương tỏa lở mờ,
xuân, hạ, thu, đông, mỗi mùa một vẻ,
Nào những lúc nắng mới rung rinh, nào những lúc trăng soi vằng vặc,
sáng, trưa, chiều, tối, bao cảnh nên thơ.

Qua tỉnh Hà đây,
Dạo hồ Kiếm đó,
Ngắm cảnh ngày nay,
Nhớ hồi sử cũ:

Diệt vua ngụy Quý Ly,
Gớm tướng Minh Trương Phụ,
Giả danh nghĩa hiệp khôi phục Trần gia,
Giở ngón gian hùng đoạt thâu Việt thổ.

Dân lành hai nhăm triệu, rắp đem làm kẻ tì nô;
N¬ước cũ bốn nghìn năm, dìm đặt dưới quyền đô hộ.
Trên, bọn quan quân tàn bạo, chỉ lo vơ vét, thỏa dạ tham ô;
Dưới, dân sưu dịch nặng nề, cam chịu lầm than, nhiều bề cực khổ.
Nào xuống bể mò trai, lấy ngọc, ai oán vô cùng.
Nào lên rừng tróc tượng, săn tê, căm hờn quá độ.

May sao:
Nhà nông Lê Lợi,
Kẻ sĩ Lam Sơn,
Thấy dân khốn đốn,
Động lòng xót thương

Quyết chí lớn tảo trừ giặc nước
Dựa thần thiêng trao tặng lưỡi gươm.
Hào kiệt ra tay phất cờ cứu quốc,
Anh hùng lập nghiệp, khởi nghĩa xưng vương.

Trận Tuy Động, Vương Thông kinh hồn, mảnh giáp chẳng còn, bon về cố quốc.
Ải Chi Lăng, Liễu Thăng bỏ xác, đầu lâu lăn lóc tại chốn sa trường.
Vùng vẫy ngoại mười năm, quét sạch non sông quân Bắc tặc;
Lẫy lửng trong vạn thuở, mở mang bờ cõi đất Nam. Phương.

Ôi!
Nghìn thu đất nước
Một cuộc bể dâu
Hồ Gươm vẫn đó.,
Thần kiếm chìm đâu?

Chỉ thấy tượng đồng cao chót vót,
Đứng trông làn nước vẩn xanh ngầu!
Toà nhà Khai trí ben đền, trống bài điếm chát tom, thái bưởng quá nhỉ!
Vườn cảnh Bônbe trước mặt, khách phồn hoa nhộn nhịp, vui vẻ xiết bao!
~Tú-Mỡ~


VĂN TẾ BẢO HỘ

A ha! Bảo hộ ! Bỗng nhiên trời hại!
Suy thịnh lẽ thưởng, nào ai ái ngại?
Đọc bài điếu này, dạ ta thiết tha,
Ngươi có khôn thiêng chớ oán giận ta.
Nhớ ngươi thuở trước, xâm chiếm Đông Dương,
Mưu tinh chước quỷ, nham hiểm khôn lường
Trước thả cố đạo, sau dắt con buôn,
Rốt đến binh lính, trăm khéo nghìn khôn.
Bá Đa mở lối, Đồ Phổ theo đường;
Gia Long mắc bợm, Tự Đức phải nhường.
Sự sinh sình sự, muốn yên chẳng yên,
Được chân lấn cổ, có voi đòi tiên;
Chiến tranh lẵng nhẵng, hiệp ước lung tung
Rốt cuộc công lý, phải thua bạo hung.
Nhớ ngươi đô hộ, đủ khóe gian ngoan,
Giả vờ nhân nghĩa, che đậy tham tàn.
Miệng rằng: khai hóa, sách viết: văn minh;
"Khai" mòn sản vật, "hóa" tận dân tình.
Nhớ ngư¬ời cai trị, thật tối dã man:
Trong là địa ngục, ngoài bảo thiên đàng;
Núi sông khai thác, ruộng đất mở mang,
Chẳng qua tư lợi, há vì dân gian;
Học hành giỏ giọt, tr¬ường có công  khai,
Chỉ đủ đào tạo một số tay sai.
Nhớ ng¬ười thâm thiểm: dĩ man, trị man
Nuôi đàn ¬ưng khuyển, dung bọn ô quan,
Cho dễ bóp nặn đám dân hiền lành,
Cho dễ đàn áp bọn sĩ tinh anh.
Nhớ ng¬ươi vơ vét, đã hả dã tâm,
Xấu xa đậy điệm, độc địa ngấm ngầm

Nay đến cực điểm, trăm họ lầm than:
Binh lửa thảm khốc, sinh linh điêu tàn;
Sư¬u cao thuế nặng, lột da róc x¬ương,
Thóc gạo tích trữ, đói chết đầy đ¬ường.
Ngư¬ơi t¬ưởng cùng ta, nợ báo còn dài,
Như¬ng nhìn dĩ vãng, hòng gì t¬ương lai!
Trời nào chứng mãi cho người rông càn:
Hại nhân nhân hại, thiên địa tuần hoàn.
N¬ước ng¬ươi đổ nát, nhà ng¬ươi tan tành;
Vận ng¬ươi đã mạt, số ng¬ươi đã đành.
Giữ mình chẳng nổi, còn bảo hộ ai?
Nay ng¬ươi bị diệt, âu cũng lòng Trời.
Tám m¬ươi năm lẻ, đã biết nhau rồi!
Tiếc than chi nữa, đời thế là thôi.
Tây phư¬ơng cực... nhục, hồn ng¬ươi đi về.
N¬ước ta giải phóng, dạ ta hả hê.
Ba hồn bảy vía, ngươi chóng siêu sinh.
Biến về nước mẹ, cùng ta dứt tình.
Ngươi có khôn thiêng, hiểu thấu lòng ta.
Chớ còn lẩn quất, Nam quốc sơn hà.
A ha! Sướng thay!
Thượng hưởng
~Tú-Mỡ~
 19-3-1945


BÀI VĂN TẾ VỢ
NGUYỄN THỊ TỒN

Hỡi ôi!
Gió Nữ phất phơ;
Mưa Ngâu lác đác.

Duyên bình thuỷ sum vầy đà tan rã, ngạt ngào bọt nước sóng xao;
Đuốc loan phòng tỏ rạng phút khêu lờ, sảng sốt ngọn đèn gió tạt.

Nhớ linh xưa:
Tánh đúc son vàng;
Tình không đen bạc.

Chen với nguyệt tròn hơn nguyệt, phòng khuê đà rực rỡ gương trong;
Ở trên trần mà chẳng nhuốm trần, vườn dâu khỏi lắm nhơ bụi cát.

Trong vấy màu bùn chẳng đục, những dự sang giàu, của trăm xe đưa rước vào màng;
Nghèo manh khố chuối mà thanh, phải duyên đằm thắm, cầu mấy nhịp xa xôi gánh vác.

Ở với mẹ đã trọn niềm hiếu hạnh, chìu lòng theo lân lý với anh em;
Lúc theo chồng vui biết chữ xướng tuỳ, đẹp đẽ với xóm giềng chú bác.

Ưa mùi đạo khuyên chồng nấu sử, nam tử may nợ nước đền bồi;
Thảo nhờ thân vẹn phận chưng lê, nữ công trọn giềng nhà gánh vác.

Trường khoa mục qua nong chí cả, ít nhiều đà rỡ mặt với non sông;
Nhà hàn vi hậu dốc tay nâng, may mắn đặng cất đầu cùng bạn tác.

Chồng vợ thảm đều không cha mẹ, em luống than phận lẻ loi;
Câu cô hoà một cửa anh em, tình vui thuận lời không chích mác.

Công danh lỡ vì mang bệnh quỉ, em chẳng phải vợ Mãi Thần ngày trước, thời chưa nên làm thói dể duôi;
Khó hèn cam nào dám trách trời, bậu chẳng như vợ Tô Tần ngày nọ, vận chưa đạt mà đem lòng khi bạc.

Phận khó khăn yếu đuối, vóc liễu bồ dầu dãi nắng mưa;
Con nhỏ dại thơ ngây, tay chủ quỉ không rời thước tấc.

Ở theo thời, làm theo thế, qua khỏi tuần sấm đất tan bia;
Bay kịp chúng, nhảy kịp thời mới đặng hưởng gió thần đưa các.

Nghiệp tiên thế anh lo gây dựng, mừng thầm đà mở mặt với hương lân;
Đạo thánh hiền bậu dốc khuyến dương, gắn bó đã nên gương cùng hậu giác.

Ăn cần ở kiệm, giàu không khoe, khó cũng không đua;
Mua nghĩa chác nhơn, trước chẳng phai sau chẳng lạt.

Chữ thê tùng phu quý em nan than chẳng nhờ của cũng nhờ công;
Câu phụ tác tử thừa bậu nong nả chưa nên vai đà nên vác.

Ốc đà hết lúc gian truân;
Hay chưa tới chừng hanh đạt.

Bỗng đâu khiến gió day mưa tạt, non hoa hạc lánh trầm trầm;
Nào hay nỗi vật đổi sao dời, cửa sổ ngựa qua thoát thoát.

Ôi!
Sông Lệ vàng chìm;
Non Côn ngọc nát.

Cảnh giai lão trách lòng trời đất, khó có nhau giàu cũng có nhau;
Quỉ vô thường làm cuộc bể dâu, vật tráo chác người sao tráo chác.

Con cháu tuổi thơ ngây một bóng, em bào đành nhắm mắt tầm tiên;
Chồng trăm bề lo lắng một mình, bậu bao nỡ sấp lưng cưỡi hạc.

Ai mượn lão Diêm phù rước khách, mẹ lìa con vì gã ức oan;
Ai mượn ngươi Quỷ bá đưa người, chồng xa vợ ở ngươi nên bạc ác.

Chữ "đại đức tất đắc kỳ thọ" đọc tới phát buồn;
Câu "tích phước tất hữu dư khương" nghe càng thêm lạt.

Qua bể bậu chẳng bằng tiền đũa, phận phân gương chẳng kịp nửa giờ;
Trời giết người chi sá gươm đao, chứng nghèo ngặt không đầy một lát.

Đêm khuya hãy nâng niu một trẻ, nghĩ từ cơn, ruột tợ kim châm;
Ngày ra nào vắng vẻ không em, nhớ từ chặn, gan dường muối xát.

Cuộc long hổ lấp rồi ba tấc đất, ôi thôi rồi má phấn hồng nhan;
Bạn phụng loan phân rẽ một phương trời, lo đáo để duyên đơn phận bạc.

Đã biết kiếp thác là kiếp mất, tấm lòng thành đủ bảy tuần chay;
Cho hay người mất mà nghĩa còn, thô lễ tế vài mâm mặn lạt.

Hỡi ôi, tiếc thay!
Hỡi ôi, tiếc thay!
~Tú-Mỡ
~

<bài viết được chỉnh sửa lúc 25.12.2011 11:04:06 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dong thơ cũ - 29.11.2011 21:43:43




HỒ-VIẾT-TRUNG
       
1….-1933

Quê Diễn-Yên, Diễn-Châu, Nghệ-An. Y tá,
Tham gia VN Thanh Niên Cách Mạng Đồng
Chí Hội, rồi Đảng CS/ĐD, bị bắt giam ở Lao-
Bảo, mất trong tù.



SÓNG XÍCH NGA

Sóng xích Nga tràn khắp tứ tung,
Biểu tình rầm rộ Bắc, Nam, Trung.
Xôn xao tiếng trống miền thôn dã,
Đỏ chói ngọn cờ chốn xương công.
Mặt nạ bay đem tàu súng dọa,
Tay không choa (tao) vác búa liềm dong.
Cường quyền áp bức choa sao đặng,
Choa cứ bước lên cõi đại đồng.
~Hồ-Viết-Trung~

<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.12.2011 11:30:20 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dong thơ cũ - 03.12.2011 11:11:51




PHẠM-PHÚ-THUẦN

        
1900-1956

Quê Đông-Bàn, Diên-Phước, Quảng-Nam, cháu
danh sĩ Phạm-Phú Thứ, tham gia công tác văn nghệ
ở Quảng-Nam và Liên-Khu 5 ở Bình-Định.


VỀ THĂM LÀNG VÙNG BỊ CHIẾM

Đùng! Đùng! Đùng!
Bom đạn nổ lung tung
Quân địch tràn Gò Nổi
Vị trí đúng Phú Bông
Bao nhiêu làng lân cận
Hàng ngày chúng đi lùng
Mới đến đà khó chịu,
Ít lâu càng hành hung
Hãm dân đốt nhà cửa
Giết người cướp của dùng
Không thể ở làng cũ
Đi tuốt vô miền trong
Đất khác một mình trông
Tản cư mười tháng ròng.
Nghe đồn tin giặc như chừng dịu
Hơi thu vườn cũ khêu tấm lòng
Tò mò theo chúng đi về thử
Quanh co chỉ ngại đường long đong
Trèo đèo lặn suối hai hôm sớm
Mây ngàn cỏ nội ngó mênh mông...
Đến làng hết canh một
Mọi người chia tây đông
Cặm cụi lần bước dọ
Mập mờ chống mắt trông
Xóm làng đều khác hẳn
Đường sá sao bịt bùng?
Hú vía khốn nạn! chắc ma dẫn
Lạc đường nên nỗi đi bao đồng
Bình tĩnh đứng lại nghỉ một lát
Lần hồi nhắm hướng tìm nẻo thông
Về đến vườn cũ nhìn đúng ngõ
Vạch gai chun bụi, đàng cũ cong
Mây mù, gió nẻo sao lòe lập
Cảnh đêm lặng ngắt trông rợn rùng
Nhà lớn xiêu đổ, nhà ngang cháy
Lặng nghe ngủ ngáy giấc đang nồng
Gõ cửa se sẽ, kêu nho nhỏ,
Vợ nhà nghe tiếng còn phập phồng...
Tiếng nữa nhận rõ, đẩy hé cửa:
Ngạc nhiên trong mắt ứa đôi tròng
Biệt li hai ngã gần năm trọn
Ngờ trong hồn mộng được trùng phùng?
Đầu trên ngủ đậu, ông hàng xóm
Giấc mơ chợt tỉnh, vọt rào dông...
Đêm khuya khoắt, gió heo rung
Leo lắt một tia sáng,
Hình ảnh hai vợ chồng
Ngọt ngào kể câu chuyện
Chưa cạn nỗi thủy chung
Tạm gác chờ mai đã
Tắt đèn đi ngủ chùng.
Đặt lưng xuống chiếu vừa chốc lát,
Tiếng đâu ngoài ngõ ồn như ong!
– Ủa, chớ chuyện gì vậy?
– Tiếng ai như tiếng ông?
Tây lên gần tới cổng
Liên lạc đã giục cồng.
Tốc mền nhảy dông đã
Tung ngõ theo dân nông
Trời tối bùn lầy bờ bụi rậm
Trâu nhiều đường hẹp, người ta đông
Mặc dầu tuổi già đầu gối yếu
Nhờ có sức mạnh cây gậy chống
Chạy lên đường sắt ba cây số
Mồ hôi nước mắt chảy ròng ròng
Hai chân khấp khểnh thở hì hục
Vừa nghỉ vài phút, đạn bay cùng
Cong lưng chạy lại cây số nữa
Lên tới Hoàng Diệu đói thót hông
Mười giờ nghe vắng lò mò xuống
Dọc đường trông thấy càng não nùng
Nhà tranh cháy sạch, nhà ngói đổ
Vườn tược, mít chuối khói đương lồng
Ai không có xứ sở
Trăm năm quê tổ tông
Ai không mến nhà cửa
Một giờ hóa bụi hồng.
Làm lơ đi ông về một mạch
Để xem tình thế mà đề phòng
Bàn thờ, ghế đẳng... xô đổ ngã
Sách vở, đồ đạc xáo lộn mòng
Gạo thóc, mắm muối đổ từng đống
Tây lên hồi nãy như điên khùng!
Cơm xáo canh rau dọn dưới đất
Mâm hũ bát bể ngồi xây vòng
Lót lòng vài miếng nuốt lấy được
Trương mắt bốn phía ngó mắt mong...
Tiếp tục kể lại câu chuyện cũ:
Tàn sát còn hơn lúc tấn công
Đốt nhà, chôn một bãi con nít
Quăng vô lửa đỏ quay mòng mòng
Xẻ trâu có chửa gần ngày đẻ
Nghé con trong bụng đương vẫy vùng.
Ngày kia mười một ông phụ lão
Chúng thường gặp mặt đã nhìn dung
Một tua súng máy quanh vừa dứt
Xương tan thịt nát đường bắn bông
Chặt đầu một chú đặt trên thớt
Trần thiết muối ớt giả chơi lung
Giết trâu, đốt nhà, cướp bóc, hiếp
Ví chạy bữa một ngày nào không
“Coi bộ đàn ông thế khó ở
Ông nên tránh gấp chớ ngại ngùng
Ngày kia Tổ quốc được Độc lập
Đầu bạc cũng gặp lại non sông”
Cầm tay dài vắn, mặt nhìn mặt
Nỗi niềm tan hợp nỗi bình bồng
Phần tôi cố nhiên là phải tránh
Còn nỗi ở lại biết có xong
Mưa to gió lớn, nhà một cột
Bể sâu, sóng cả thuyền giữa dòng
Xóm giềng hiu quạnh dễ mô ở
Làm ăn biết có chắc mà mong.
Phần ông cầu chúc cho yên ổn
Sự đời xin chớ lo viễn vông
Vơ vét làng ta chúng đốt sạch
Của cải đâu nữa mà còn hòng
Huống là ủy ban đang làm việc
Hơn nữa đồng bào còn đóng sòng
Qua mùa mưa lụt dễ đi tới
Thời mối lo ngại cũng thong dong
Lúc muốn về thăm sẽ về lại
Cùng vui năm mới xem quang phong
~Phạm-Phú-Thuần
~

<bài viết được chỉnh sửa lúc 25.12.2011 11:05:33 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dong thơ cũ - 18.12.2011 11:36:52




MẠC-THIÊN-TÍCH


BÌNH SAN ĐIỆP THUÝ
(Búi dựng một màu xanh)
 
Một bước càng thêm một thú yêu,
Lằng cây vít đá vẽ hay thêu?
Mây tòng khói liễu bay chồng chập,
Đờn suối ca chim giọng thấp kiêu.
Ngọc luật Châu Công chăng phải trỗi,
Ngòi sương Ma Cật cũng thua nhiều.
Đến đây mới biết lâm tuyền quới,
Dám trách Sào Do lánh Đế Nghiêu.

~Mạc-Thiên-Tích~


 
TIÊU TỰ THẦN CHUNG
(Chuông sớm ở chùa vắng)
 
Rừng thiền xích xác án ngoài tào,
Chuông gióng chùa Tiêu tiếng tiếng cao.
Chày thỏ khắp vang muôn khói sóng,
Oai kình tan tác mấy cung sao.
Não phiền kẻ nấu sôi như vạc,
Trí huệ người mài sắc tợ dao.
Mờ mịt gẫm dường say mới tỉnh,
Phù sanh trong một giấc chiêm bao.

~Mạc-Thiên-Tích~

 
GIANG THÀNH DẠ Ổ
(Trống đêm ở đồn bên sông)
 
Trống quân giang thú ỏi oai phong,
Nghiêm gióng đòi canh dậy núi sông.
Đánh phá lũ gian người biết mặt,
Vang truyền lịnh sấm chúng kiêng lòng.
Phao tuông đã thấy an ba vạc,
Nhặt nhiệm chi cho lọt mảy lông.
Thẻ lụn sớm hầu trưa bóng ác,
Tiếng xe rầm rạc mới nên công.

Mạc-Thiên-Tích~

 
THẠCH ĐỘNG THÔN VÂN

(Động đá nuốt mây)
 
Quỉ trổ thần xoi nổi một toà,
Chòm cây khóm đá dấu tiên gia.
Hang sâu thăm thẳm mây vun lại,
Cửa rộng thinh thinh gió thổi qua.
Trống lổng bốn bề thâu thế giái,
Chang bang một đãy chứa yên hà.
Chưn trời mới biết kho trời đấy
Cân đái hèn chi rỡ ỷ la.

~Mạc-ThiêniTích~

 
CHÂU NHAM LẠC ĐỘ
(Đàn cò đáp xuống núi châu báu)
 
Biết chỗ mà nương ấy mới khôn,
Bay về đầm cũ mấy mươi muôn.
Đã giăng chữ nhất dài trăm trượng,
Lại xấp bàn vây trắng mấy non.
Ngày giữa ba thu ngân phấn vẽ,
Đêm trường chín hạ tuyết sương còn.
Quen cây chim thể người quen chúa,
Dễ đổi ngàn cân một tấm son.

~Mạc-Thiên-Tích~

 
ĐÔNG HỒ ẤN NGUYỆT
(Hồ phía đông in hình trăng)

 
Một hồ lẻo lẻo tiết thu quang,
Giữa có vừng trăng nổi rõ ràng.
Đáy nước chơn mây in một sắc,
Ả Hằng nàng Tố lố đôi phang.
Rạng banh đã hứng thuyền Tô Tử,
Lạnh lẽo càng đau kiểng Nhạc xương.
Cảnh một mà tình người dễ một,
Kẻ thì ngả ngớn kẻ sầu thương.

~Mạc-Thiên-Tích~

 
NAM PHỐ TRỪNG BA
(Bãi nam sóng lặng)

 
Dòng Nam vững rạng khách dầu chơi,
Hai thức như in nước với trời.
Bãi khói dưới không hương lại bỏ,
Hồ gương trong có gấm thêm rơi.
Sóng chôn vảy ngạc tình khôn xiết,
Nhạn tả thơ trời giá mấy mươi.
Một lá yên ba dầu lỏng lẻo,
Đong trăng lường gió nước vơi vơi.

Mạc-Thiên-Tích~


LỘC TRĨ THÔN CƯ
(Nông trại mũi nai )

 
Lộc trĩ ai rằng thú chẳng thanh ?
Nửa kề nước biếc nửa non xanh.
Duỗi co chẳng túng càn thôn hẹp,
Cúi ngửa vì vưng đức giáo lành.
Lưu lác hưởng dư ơn nước thạnh,
Ê hề sẵn có của trời dành.
Đâu vui thì đấy là an lạc,
Lựa phải chen chơn chốn thị thành.

Mạc-ThìiênìTích~


 LƯ KHÊ NGƯ BẠC
(Thuyền đánh cá đỗ bến Vược)

 
Bến Vược thuyền ngư chật mấy tầng,
Trong nhàn riêng có việc lăng xăng.
Lưới chày phơi trải đầy trời hạ,
Gỏi rượu hi ha toại nghiệp hằng.
Nghề Thuấn hãy truyền bền trác trác,
Dấu Nghiêu còn thấy đủ răn răn.
Suy trong mười kiểng thanh hòa lịch,
Họa kiểng Bồng Lai mới sánh bằng.
~Mạc-Thiên-Tích~


TỔNG VỊNH

Mười kiểng Hà Tiên rất hữu tình,
Non non nước nước gẫm nên xinh.
Đông Hồ, Lộc Trĩ luôn dòng chảy,
Nam Phố, Lư Khê một mạch xanh.
Tiêu Tự, Giang Thành, chuông trống ỏi,
Châu Nham, Kim Dự cá chim doanh.
Bình Sơn, Thạch Động là trường cột,
Đồ sộ muôn đời cũng để danh.

~Mạc-Thiên-Tích~

<bài viết được chỉnh sửa lúc 25.12.2011 11:28:01 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dong thơ cũ - 21.12.2011 11:58:28




HỒ-XUÂN-LAN


Quê Hà-Tĩnh, không rõ năm sinh, năm
mất, nổi tiếng văn thơ, đỗ tú tài, tính khảng
khái, phóng khoáng, thích ngao du, mượn
nghề thầy thuốc du phương mà kết giao sĩ
phu khắp ba miền.


 
NAM KỲ PHONG CẢNH CÓ GÌ HAY?
 
Tài tử giai nhân chửa mấy tài!
Chén rượu tiêu sầu thêm chán miệng,
Câu thơ khiển hứng chẳng siêng tay.
Nghe ma đọc phú thêm buồn mãi,
Mời quỷ chơi cờ giải muộn đây.
Thật xứ Đàng Trong người khác tục,
Nhọc lòng Gia Cát bấy lâu nay.
~Hồ-Xuân-Lan~


Ông bị nữ sĩ Trần Kim Phụng
họa đáp, mỉa mai xem thường.

 
Thoạt nghe tiếng thốt, úy chà hay!
Nẻo tắt đường quanh cũng gọi tài!
Chưa hẳn dại khôn hầu nể mặt,
Cho tường cao thấp sẽ nhường tay.
Văn chương lối Hán kìa ai đó,
Thao lược bên Đường hiếm kẻ đây.
Mựa chớ khoe khoang tài tử ẻ,
Cửa Ban thường tại thế xưa nay.
~Trần-Kim-Phụng~



KIM DỰ LAN ĐÀO
(
Đảo vàng ngăn sóng lớn)
 
Kim Dự đây là núi chốt then,
Xanh xanh giành trấn cửa Hà Tiên.
Ngăn ngừa nước dữ khôn vùng vẫy,
Che chở dân lành khỏi ngửa nghiêng.
Thế cả vững vàng trên Bắc Hải,
Công cao đồ sộ giữa Nam Thiên.
Nước an chẳng chút lông thu động,
Rộng bủa nhơn xa khắp bách xuyên.

~Hồ-Xuân-Lan~



<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.12.2011 11:43:52 bởi Anh Nguyên >

Anh Nguyên
  • Số bài : 1747
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.10.2008
RE: Dong thơ cũ - 05.01.2012 11:27:29




MAC-THIÊN-TICH


BÌNH SAN ĐIỆP THUÝ
(Núi dựng một màu xanh)

 
Một bước càng thêm một thú yêu,
Lằng cây vít đá vẽ hay thêu?
Mây tòng khói liễu bay chồng chập,
Đờn suối ca chim giọng thấp kiêu.
Ngọc luật Châu Công chăng phải trỗi,
Ngòi sương Ma Cật cũng thua nhiều.
Đến đây mới biết lâm tuyền quới,
Dám trách Sào Do lánh Đế Nghiêu.

~Mạc-Thiên-Tích~

 
TIÊU TỰ THẦN CHUNG
(Chuông sớm ở chùa vắng)

 
Rừng thiền xích xác án ngoài tào,
Chuông gióng chùa Tiêu tiếng tiếng cao.
Chày thỏ khắp vang muôn khói sóng,
Oai kình tan tác mấy cung sao.
Não phiền kẻ nấu sôi như vạc,
Trí huệ người mài sắc tợ dao.
Mờ mịt gẫm dường say mới tỉnh,
Phù sanh trong một giấc chiêm bao.

~Mạc-Thiên-Tích~

 
GIANG THÀNH DẠ CỔ
(Trống đêm ở đồn bên sông)

 
Trống quân giang thú ỏi oai phong,
Nghiêm gióng đòi canh dậy núi sông.
Đánh phá lũ gian người biết mặt,
Vang truyền lịnh sấm chúng kiêng lòng.
Phao tuông đã thấy an ba vạc,
Nhặt nhiệm chi cho lọt mảy lông.
Thẻ lụn sớm hầu trưa bóng ác,
Tiếng xe rầm rạc mới nên công.

~Mạc-Thiên-Tích~

 
THẠCH ĐỘNG THÔN VÂN
(Động đá nuốt mây)

 
Quỉ trổ thần xoi nổi một toà,
Chòm cây khóm đá dấu tiên gia.
Hang sâu thăm thẳm mây vun lại,
Cửa rộng thinh thinh gió thổi qua.
Trống lổng bốn bề thâu thế giái,
Chang bang một đãy chứa yên hà.
Chưn trời mới biết kho trời đấy
Cân đái hèn chi rỡ ỷ la.

~Mạc-Thiên-Tích~

 
CHÂU NHAM LẠC LỘ
(Đàn cò đáp xuống núi châu báu)

 
Biết chỗ mà nương ấy mới khôn,
Bay về đầm cũ mấy mươi muôn.
Đã giăng chữ nhất dài trăm trượng,
Lại xấp bàn vây trắng mấy non.
Ngày giữa ba thu ngân phấn vẽ,
Đêm trường chín hạ tuyết sương còn.
Quen cây chim thể người quen chúa,
Dễ đổi ngàn cân một tấm son.

~Mạc-Thiên-Tích~

 
ĐÔNG HỒ ẤN NGUYỆT
(Hồ phía đông in hình trăng)

 
Một hồ lẻo lẻo tiết thu quang,
Giữa có vừng trăng nổi rõ ràng.
Đáy nước chơn mây in một sắc,
Ả Hằng nàng Tố lố đôi phang.
Rạng banh đã hứng thuyền Tô Tử,
Lạnh lẽo càng đau kiểng Nhạc xương.
Cảnh một mà tình người dễ một,
Kẻ thì ngả ngớn kẻ sầu thương.

~Mạc-Thiên-Tích~

 
NAM PHỐ TRỪNG BA
(Bãi nam sóng lặng)

 
Dòng Nam vững rạng khách dầu chơi,
Hai thức như in nước với trời.
Bãi khói dưới không hương lại bỏ,
Hồ gương trong có gấm thêm rơi.
Sóng chôn vảy ngạc tình khôn xiết,
Nhạn tả thơ trời giá mấy mươi.
Một lá yên ba dầu lỏng lẻo,
Đong trăng lường gió nước vơi vơi.

~Mạc-Thiên-Tích~

 
LỘC TRĨ THÔN CƯ
(Nông trại mũi nai)

 
Lộc trĩ ai rằng thú chẳng thanh?
Nửa kề nước biếc nửa non xanh.
Duỗi co chẳng túng càn thôn hẹp,
Cúi ngửa vì vưng đức giáo lành.
Lưu lác hưởng dư ơn nước thạnh,
Ê hề sẵn có của trời dành.
Đâu vui thì đấy là an lạc,
Lựa phải chen chơn chốn thị thành.

~Mạc-Thiên-Tích~

 
LƯ KHÊ NGƯ BẠC
(Thuyền đánh cá đỗ bến Vược)

 
Bến Vược thuyền ngư chật mấy tầng,
Trong nhàn riêng có việc lăng xăng.
Lưới chày phơi trải đầy trời hạ,
Gỏi rượu hi ha toại nghiệp hằng.
Nghề Thuấn hãy truyền bền trác trác,
Dấu Nghiêu còn thấy đủ răn răn.
Suy trong mười kiểng thanh hòa lịch,
Họa kiểng Bồng Lai mới sánh bằng.

~Mạc-Thiên-Tích~



TỔNG VỊNH

Mười kiểng Hà Tiên rất hữu tình,
Non non nước nước gẫm nên xinh.
Đông Hồ, Lộc Trĩ luôn dòng chảy,
Nam Phố, Lư Khê một mạch xanh.
Tiêu Tự, Giang Thành, chuông trống ỏi,
Châu Nham, Kim Dự cá chim doanh.
Bình Sơn, Thạch Động là trường cột,
Đồ sộ muôn đời cũng để danh.
~Mạc-Thiên-Tích~


           */~   */~   */~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 05.01.2012 11:52:48 bởi Anh Nguyên >

Thay đổi trang: < 12 | Trang 2 của 2 trang, bài viết từ 31 đến 44 trên tổng số 44 bài trong đề mục