Dòng thơ cổ
DÒNG THƠ CỔ
……-1800 TS PHÁP THUẬN
(914-990)
Khi nhà Tiền Lê dựng nghiệp, Sư tham dự
đắc lực trù kế hoạch và định sách lược.
VẬN NƯỚC
Nguyên văn chữ Hán:
國祚
國祚如藤絡,
南天裏太平。
無為居殿閣,
處處息刀兵
Phiên âm:
QUỐC TỘ
Quốc tộ như đằng lạc,
Nam thiên lý thái bình.
Vô vi cư điện các,
Xứ xứ tức đao binh.
~TS Pháp-Thuận~
Dịch nghĩa:
Vận nước như dây mây leo quấn quýt,
Ở cõi trời Nam [mở ra] cảnh thái bình.
Vô vi ở nơi cung điện,
[Thì] khắp mọi nơi đều tắt hết đao binh.
Dịch thơ
Vận nước
Vận nước như mây quấn.
Trời Nam mở thái bình.
Vô vi trên điện các.
Xứ xứ hết đao binh.
(Khuyết danh)
ĐẠI SƯ KHUÔNG VIỆT
(933-1011)
Thế danh Ngô Chân Lưu, quê làng Cát Lợi
quận Thường Lạc. Dáng mạo khôi ngô, ý
chí lỗi lạc và tánh tình bình thản. Thọ giáo
Thiền sư Vân Phong ở chùa Khai Quốc, thấu
tột thiền yếu và đọc khắp các kinh điển.
Năm bốn mươi tuổi, danh vang khắp tùng lâm,
vua Đinh Tiên Hoàng mời vào cung hỏi đạo,
Vua phong chức Tăng thống. Năm sau, Vua
lại phong Khuông Việt đại sư.
Đến đời vua Lê Đại Hành, Sư càng được kính
trọng. Bao nhiêu việc binh, việc nước, Vua đều
mời Sư vào hỏi.
Năm 986, nhà Tống sai sứ Lý Giác sang nước ta,
vua Đại Hành sắc Sư ra đón tiếp sứ. Khi Lý Giác
về có để lại một bài thơ:
Hạnh ngộ minh thời tán thạnh du
Nhất thân lưỡng độ sứ Giao Châu
Đông đô tái biệt tâm vưu luyến
Nam Việt thiên trùng vọng vị hưu.
Mã đạp yên vân xuyên lãng thạch
Xa từ thanh chướng phiếm trường lưu
Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu
Khê đàm ba tịnh kiến thiềm thu.
Dịch:
May gặp minh quân giúp việc làm
Một mình hai lượt sứ miền Nam.
Mấy phen qua lại lòng thêm nhớ
Muôn dặm non sông mắt chửa nhàm.
Ngựa đạp mây bay qua suối đá
Xe vòng núi chạy tới dòng lam.
Ngoài trời lại có trời soi rạng
Vừng nguyệt trong in ngọn sóng đầm.
~TT. Mật Thể~
Vua Đại Hành đưa cho Sư xem, hỏi có
ý gì không.
Sư tâu:
- Câu thứ bảy sứ Tống có ý tôn Bệ hạ
ngang hàng với Vua của họ.
Vua Đại Hành nhờ Sư làm một bài tiễn
sứ. Sư vâng lệnh làm bài từ theo điệu
“Tống vương lang qui”:
Tường quang phong hảo cẩm phàm trương
Thần tiên phục đế hương.
Thiên lý vạn lý thiệp thương lương
Cửu thiên qui lộ trường.
Nhân tình thảm thiết đối ly thương
Phan luyến sứ tình lang.
Nguyện tương thâm ý vị nam cương.
Phân minh tấu ngã hoàng.
Dịch:
Gió hòa phấp phới chiếc buồm hoa
Thần tiên trở lại nhà.
Đường muôn ngàn dặm trải phong ba
Cửa trời nhắm đường xa.
Một chén quan hà dạ thiết tha
Thương nhớ biết bao là.
Nỗi niềm xin nhớ cõi Nam hà
Bầy tỏ với Vua ta.
~TT. Mật Thể~
VUA LÝ-THÁI-TỔ
974-1028
Tức Lý-Công-Uẩn, quê Cổ-Pháp, Đình-Bảng,
Từ-Sơn, Bắc-Ninh, con nuôi sư Lý-Khánh-Vân,
Trụ-Trì chùa Cổ-Pháp, có tài văn võ, được sự
bảo trợ của Lý-Vạn-Hạnh là anh của Lý-Khánh
Vân, vào Hoa-Lư làm quan nhà Tiền Lê, năm 35
tuổi được tôn lên ngôi vua thay nhà Tiền Lê, sáng
nghiệp nhà Lý, rời đô ra Đại-La, sau là Thăng-
Long và Hà-Nội ngày nay.
TỨC CẢNH
Thiên vi khâm chẩm, địa vi chiên
Nhật nguyệt đồng song đối ngã miên
Dạ thâm bất cảm tràng thân túc
Chỉ khủng sơn hà xã tắc thiên.
~Lý-Công-Uẩn~
Dịch:
Tức cảnh
Trời làm màn gối, đất làm chiên
Nhật nguyệt cùng ta một giấc yên
Đêm khuya chẳng dám dang chân duỗi
Chỉ sợ sơn hà xã tắc nghiêng.
~Khuyết Danh~
VUA LÝ THÁI TÔNG
1000-1054
Quê Cổ Pháp, Từ-Sơn, Bắc-Ninh, 19 tuổi được
trao quyền Nguyên-Soái đi đánh Chiêm-Thành,
23 tuổi tuổi đi đánh Phong-Châu, 25 tuổi đánh
Diễn-Châu, 27 tuổi dẹp loạn Lạng-Sơn, 28 tuổi
lên ngôi, có thơ truy tán sư Tì-Ni-Đa-Lưu-Chi:
Sáng tự lai Nam quốc,
Văn quân cửu tập Thiền.
Ưng khai chư Phật tiến,
Viễn hợp nhất tâm nguyên.
Hạo hạo lăng già nguyệt,
Phân phân Bát nhã liên.
Hà thời lâm diện kiến,
Tương dữ thoại trùng huyền.
~Lý Thái Tông~
Dịch:
Cõi Nam đầu bước tới,
Nghe đã đượm màu Thiền.
Tin Phật mong thêm rộng,
Nguồn lòng khéo hợp duyên.
Non già ngời bóng nguyệt,
Cõi nhã nức mùi sen.
Hợp mặt chừng bao tá?
Cùng nhau giảng lẽ huyền.
~Khuyết danh~
LÝ THƯỜNG KIỆT
1019-1105
Tức Ngô-Tuấn, Trưởng tử của Ngô-Quyền,
sinh phường Thái-Hòa, thành Thăng-Long,
có tài văn võ, danh tướng, đại thần nhà Lý,
được ban mang họ vua, có công đánh bại
quân Tống, sĩ phu đều cảm phục.
NAM QUỐC SƠN HÀ
南國山河
南 國 山 河 南 帝 居
截 然 定 分 在 天 書
如 何 逆 虜 來 侵 犯
汝 等 行 看 取 敗 虛
Nam quốc sơn hà
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
~Lý-Thường-Kiệt~
Dịch:
Sông núi nước Nam
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận ở sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời!
~Trần-Trọng-Kim~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.12.2013 12:17:26 bởi Anh Nguyên >
LÝ-NGỌC-KIỀU
1041-1113
Quê Phù-Đổng, Tiên-Du, Bắc-Ninh, được
Vua Lý-Thánh-Tông nuôi dạy trong cung
từ nhỏ, lớn lên được gả cho Châu mục Châu-
Đăng (Tam-Nông, Hưng-Hóa, vĩnh-Phú),
chồng chết, đem hết của cải bố thí, xuống tóc
đi tu, được TS Chân-Không cho pháp danh
là Diệu-Nhân, có để lại bài kệ:
Sinh lão bệnh tử,
Tự cổ thường nhiên,
Dục cầu xuất ly,
Giải được phiêm triền.
Mê chi cầu Phật,
Hoặc chi cầu thiên,
Thiên Phật bất cầu
Uổng khẩu vô ngôn.
~Diệu-Nhân~
Bản dịch:
Sinh, lão, bệnh, tử;
Lẽ thường tự nhiên,
Muốn cảnh siêu thoát,
Càng trói buộc thêm.
Mê, phải cầu Phật,
Hoặc, phải cầu Thiên,
Chẳng cầu Thiên, Phật,
Mím miệng ngồi yên.
VUA LÝ-NHÂN-TÔNG
1066-1127
Là minh quân đặt nền móng xây dựng
nền giáo dục Đại học Việt-Nam. Cùng mẹ là
Thái hậu Ỷ-Lan và Thái úy Lý-Thường-Kiệt
hai lần đánh bại quân Tống
TRUY TÁN VẠN HẠNH THIỀN SƯ
Nguyên văn chữ Hán:
追贊萬行禪師
萬行融三際,
真符古讖詩。
鄉關名古法,
拄錫鎮王畿。
Phiên âm Hán Việt:
Vạn Hạnh dung tam tế,
Chân phù cổ sấm thi.
Hương quan danh Cổ Pháp,
Trụ tích trấn vương kỳ.
Dịch nghĩa:
Vạn Hạnh [học rộng] thông suốt được ba cõi,
[Lời nói của sư] quả phù hợp với những câu
thơ sấm cổ.
Quê hương là làng Cổ Pháp,
Chống gậy tầm xích trấn vững kinh kỳ.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.12.2010 04:34:37 bởi Anh Nguyên >
VUA TRÂN-THÁI-TÔNG
1218- 1277
無題
一甕糟糠麴釀成
幾多智者沒聰明
非惟獨破緇流戒
敗國亡家自此生
陳太宗
VÔ ĐỀ
Nhất úng tao khang khúc nhưỡng thành
Kỷ đa trí giả một thông minh
Phi duy độc phá truy lưu giới
Bại quốc vong gia tự thử sinh
~Trần-Thái-Tông~
Dịch:
Không đề
Một vò cám bã ủ lên men
Tài trí thông minh cũng hoá hèn
Giới hạnh sư mô tan nát cả
Bao người nước mất với nhà tan
~Băng-Thanh~
PHỔ THUYẾT SẮC THÂN
Vô vị chân nhân xích nhục đoàn,
Hồng hồng bạch bạch mạc tương man.
Thùy tri vân quyện, trường không tịnh,
Thúy lộ thiên biên, nhất dạng san.
~Trần-Thái-Tông~
Dịch:
Nói rộng sắc thân
Vô vị chân nhân thịt đỏ au,
Hồng hồng bạch bạch chớ lầm nhau.
Ai hay mây cuộn, không toàn tịnh,
Sương biếc bên trời một núi xanh.
~TS Thanh-Từ~
寄清風庵僧德山
風打松關月照亭
心期風景共凄清
個中滋味無人識
付與山僧樂到明
陳太宗
KÝ THANH PHONG AM TĂNG ÐỨC SƠN
Phong đả tùng quan nguyệt chiếu đình
Tâm kỳ phong cảnh cộng thê thanh
Cá trung tư vị vô nhân thức
Phó dữ sơn tăng lạc đáo minh
~Trần-Thái-Tông~
Dịch:
Gửi sư Ðức-Sơn ở am Thanh-Phong
Cổng tùng gió đạp sân trăng
Cảnh nhu hẹn với tâm hằng sáng trong
Ai hay thú vị trong lòng
Chỉ ông sư núi vui cùng đêm thâu
~Nguyễn-Tấn-Hưng~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.12.2010 04:47:20 bởi Anh Nguyên >
TRẦN-HƯNG-ĐẠO
1228-1300
Tức Trần -Quốc-Tuấn, quê Tức-Mặc, Mỹ-Lộc,
Nam-Định, tôn thất nhà Trần, thông minh, hiểu
rộng, có tài văn võ, do đó cả 3 lần quân Nguyên
sang xâm chiếm nước ta, ông đều được cử ra đánh
giặc, ông làm bài hịch tướng sĩ, đôn đốc các Vương
Hầu, binh tướng tận trung cứu nước, đã thắng quân
Nguyên ở Chương-Dương, Hàm-Tử, Vạn-Kiếp,
Bạch-Đằng, đuổi chúng ra khỏi đất nước và được
Phong tước Hưng-Đạo Vương.
諭諸裨將檄文 - 陳興道
余常聞之
紀信以身代死而脫高帝
由于以背受戈而蔽招王
蓣讓吞炭而復主讎
申蒯断臂而赴國難
敬德一小生也身翼太宗而得免世充之圍
杲卿一遠臣也口罵禄山而不從逆賊之計
自古忠臣義士以身死國何代無之
設使數子區區為兒女子之態
徒死牖下烏能名垂竹白
與天地相為不朽哉
汝等
世為將種不曉文義
其聞其說疑信相半
古先之事姑置勿論
今余以宋韃之事言之
王公堅何人也
其裨將阮文立又何人也
以釣魚鎖鎖斗大之城
當蒙哥堂堂百萬之鋒
使宋之生靈至今受賜
骨待兀郎何人也
其裨將赤脩思又何人也
冒瘴厲於萬里之途
獗南詔於數旬之頃
使韃之君長至今留名
況余與汝等生於擾攘之秋
長於艱難之勢
竊見偽使往來道途旁午
掉鴞烏之寸舌而陵辱朝廷
委犬羊之尺軀而倨傲宰祔
托忽必列之令而索玉帛以事無已之誅求
假雲南王之號而揫金銀以竭有限之傥庫
譬猶以肉投餒虎寧能免遺後患也哉
余常
臨餐忘食中夜撫枕
涕泗交痍心腹如搗
常以未能食肉寢皮絮肝飲血為恨也
雖
余之百身高於草野
余之千屍裹於馬革
亦願為之
汝等
久居門下掌握兵權
無衣者則衣之以衣
無食者則食之以食
官卑者則遷其爵
祿薄者則給其俸
水行給舟陸行給馬
委之以兵則生死同其所為
進之在寢則笑語同其所樂
其是
公堅之為偏裨兀郎之為副貳亦未下爾
汝等
坐視主辱曾不為憂
身當國恥曾不為愧
為邦國之將侍立夷宿而無忿心
聽太常之樂宴饗偽使而無怒色
或鬥雞以為樂或賭博以為娛
或事田園以養其家
或戀妻子以私於己
修生產之業而忘軍國之務
恣田獵之遊而怠攻守之習
或甘美酒或嗜淫聲
脱有蒙韃之寇來
雄雞之距不足以穿虜甲
賭博之術不足以施軍謀
田園之富不足以贖千金之軀
妻拏之累不足以充軍國之用
生產之多不足以購虜首
獵犬之力不足以驅賊眾
美酒不足以沈虜軍
淫聲不足以聾虜耳
當此之時我家臣主就縛甚可痛哉
不唯余之采邑被削
而汝等之俸祿亦為他人之所有
不唯余之家小被驅
而汝等之妻拏亦為他人之所虜
不唯余之祖宗社稷為他人之所踐侵
而汝等之父母墳墓亦為他人之所發掘
不唯余之今生受辱雖百世之下臭名難洗惡謚長存
而汝等之家清亦不免名為敗將矣
當此之時汝等雖欲肆其娛樂
得乎
今余明告汝等
當以措火積薪為危
當以懲羹吹虀為戒
訓練士卒習爾弓矢
使
人人逄蒙家家后羿
購必烈之頭於闕下
朽雲南之肉於杲街
不唯余之采邑永為青氈
而汝等之俸祿亦終身之受賜
不唯余之家小安床褥
而汝等之妻拏亦百年之佳老
不唯余之宗廟萬世享祀
而汝等之祖父亦春秋之血食
不唯余之今生得志
而汝等百世之下芳名不朽
不唯余之美謚永垂
而汝等之姓名亦遺芳於青史矣
當此之時汝等雖欲不為娛樂
得乎
今余歷選諸家兵法為一書名曰兵書要略
汝等
或能專習是書受余教誨是夙世之臣主也
或暴棄是書違余教誨是夙世之仇讎也
何則
蒙韃乃不共戴天之讎
汝等記恬然不以雪恥為念不以除凶為心
而又不教士卒是倒戈迎降空拳受敵
使平虜之後萬世遺羞
上有何面目立於天地覆載之間耶
故欲汝等明知余心因筆以檄云
陳興道
DỤ CHƯ TỲ TƯỚNG HỊCH VĂN
Dư thường văn chi:
Kỷ Tín dĩ thân đại tử nhi thoát Cao Đế;
Do Vu dĩ bối thụ qua nhi tế Chiêu Vương.
Dự Nhượng thốn thán nhi phục chủ thù;
Thân Khoái đoạn tí nhi phó quốc nạn.
Kính Đức nhất tiểu sinh dã, thân dực Thái Tông nhi đắc miễn Thế Sung chi vi;
Cảo Khanh nhất viễn thần dã, khẩu mạ Lộc Sơn nhi bất tòng nghịch tặc chi kế.
Tự cổ trung thần nghĩa sĩ, dĩ thân tử quốc hà đại vô chi ?
Thiết sử sổ tử khu khu vi nhi nữ tử chi thái,
Đồ tử dũ hạ, ô năng danh thùy trúc bạch,
Dữ thiên địa tương vi bất hủ tai!
Nhữ đẳng
Thế vi tướng chủng, bất hiểu văn nghĩa,
Kỳ văn kỳ thuyết, nghi tín tương bán.
Cổ tiên chi sự cô trí vật luận.
Kim dư dĩ Tống, Thát chi sự ngôn chi:
Vương Công Kiên hà nhân dã?
Kỳ tỳ tướng Nguyễn Văn Lập hựu hà nhân dã?
Dĩ Điếu Ngư tỏa tỏa đẩu đại chi thành,
Đương Mông Kha đường đường bách vạn chi phong,
Sử Tống chi sinh linh chí kim thụ tứ!
Cốt Đãi Ngột Lang hà nhân dã?
Kỳ tỳ tướng Xích Tu Tư hựu hà nhân dã?
Mạo chướng lệ ư vạn lý chi đồ,
Quệ Nam Chiếu ư sổ tuần chi khoảnh,
Sử Thát chi quân trưởng chí kim lưu danh!
Huống dư dữ nhữ đẳng, Sinh ư nhiễu nhương chi thu;
Trưởng ư gian nan chi thế.
Thiết kiến ngụy sứ vãng lai, đạo đồ bàng ngọ.
Trạo hào ô chi thốn thiệt nhi lăng nhục triều đình;
Ủy khuyển dương chi xích khu nhi cứ ngạo tể phụ.
Thác Hốt Tất Liệt chi lệnh nhi sách ngọc bạch, dĩ sự vô dĩ chi tru cầu;
Giả Vân Nam Vương chi hiệu nhi khu kim ngân, dĩ kiệt hữu hạn chi thảng hố.
Thí do dĩ nhục đầu nỗi hổ, ninh năng miễn di hậu hoạn dã tai?
Dư thường
Lâm xan vong thực, Trung dạ phủ chẩm,
Thế tứ giao di, Tâm phúc như đảo.
Thường dĩ vị năng thực nhục tẩm bì, nhứ can ẩm huyết vi hận dã.
Tuy
Dư chi bách thân, cao ư thảo dã;
Dư chi thiên thi, khỏa ư mã cách,
Diệc nguyện vi chi.
Nhữ đẳng
Cửu cư môn hạ, Chưởng ác binh quyền.
Vô y giả tắc ý chi dĩ y;
Vô thực giả tắc tự chi dĩ thực.
Quan ti giả tắc thiên kỳ tước;
Lộc bạc giả tắc cấp kỳ bổng.
Thủy hành cấp chu; Lục hành cấp mã.
Ủy chi dĩ binh, tắc sinh tử đồng kỳ sở vi;
Tiến chi tại tẩm, tắc tiếu ngữ đồng kỳ sở lạc.
Kỳ thị
Công Kiên chi vi thiên tì, Ngột Lang chi vi phó nhị, Diệc vị hạ nhĩ.
Nhữ đẳng
Tọa thị chủ nhục, tằng bất vi ưu;
Thân đương quốc sỉ, tằng bất vi quý.
Vi bang quốc chi tướng, thị lập di tú nhi vô phẫn tâm;
Thính thái thường chi nhạc, yến hưởng ngụy sứ nhi vô nộ sắc.
Hoặc đấu kê dĩ vi lạc; Hoặc đổ bác dĩ vi ngu.
Hoặc sự điền viên dĩ dưỡng kỳ gia;
Hoặc luyến thê tử dĩ tư ư kỷ.
Tu sinh sản chi nghiệp, nhi vong quân quốc chi vụ;
Tứ điền liệp chi du, nhi đãi công thủ chi tập.
Hoặc cam mỹ tửu; Hoặc thị dâm thanh.
Thoát hữu Mông Thát chi khấu lai,
Hùng kê chi cự, bất túc dĩ xuyên lỗ giáp;
Đổ bác chi thuật, bất túc dĩ thi quân mưu.
Ðiền viên chi phú, bất túc dĩ thục thiên kim chi khu;
Thê noa chi lụy, bất túc dĩ sung quân quốc chi dụng.
Sinh sản chi đa, bất túc dĩ cấu lỗ thủ;
Liệp khuyển chi lực, bất túc dĩ khu tặc chúng.
Mỹ tửu bất túc dĩ trấm lỗ quân;
Dâm thanh bất túc dĩ lung lỗ nhĩ.
Ðương thử chi thời, Ngã gia thần chủ tựu phọc, Thậm khả thống tai!
Bất duy dư chi thái ấp bị tước,
Nhi nhữ đẳng chi bổng lộc diệc vi tha nhân chi sở hữu;
Bất duy dư chi gia tiểu bị khu,
Nhi nhữ đẳng chi thê noa diệc vi tha nhân chi sở lỗ;
Bất duy dư chi tổ tông xã tắc, vi tha nhân chi sở tiễn xâm,
Nhi nhữ đẳng chi phụ mẫu phần mộ, diệc vi tha nhân chi sở phát quật;
Bất duy dư chi kim sinh thụ nhục, tuy bách thế chi hạ, xú danh nan tẩy, ác thụy trường tồn,
Nhi nhữ đẳng chi gia thanh, diệc bất miễn danh vi bại tướng hĩ!
Ðương thử chi thời, Nhữ đẳng tuy dục tứ kỳ ngu lạc,
Đắc hồ?
Kim dư minh cáo nhữ đẳng,
Đương dĩ thố hỏa tích tân vi nguy;
Đương dĩ trừng canh xuy tê vi giới.
Huấn luyện sĩ tốt; Tập nhĩ cung thỉ.
Sử
Nhân nhân Bàng Mông; Gia gia Hậu Nghệ.
Cưu Tất Liệt chi đầu ư Khuyết hạ;
Hủ Vân Nam chi nhục ư Cảo nhai.
Bất duy dư chi thái ấp vĩnh vi thanh chiên,
Nhi nhữ đẳng chi bổng lộc diệc chung thân chi thụ tứ;
Bất duy dư chi gia tiểu đắc an sàng nhục,
Nhi nhữ đẳng chi thê noa diệc bách niên chi giai lão;
Bất duy dư chi tông miếu vạn thế hưởng tự,
Nhi nhữ đẳng chi tổ phụ diệc xuân thu chi huyết thực;
Bất duy dư chi kim sinh đắc chí,
Nhi nhữ đẳng bách thế chi hạ, phương danh bất hủ;
Bất duy dư chi mỹ thụy vĩnh thùy,
Nhi nhữ đẳng chi tính danh diệc di phương ư thanh sử hĩ.
Ðương thử chi thời, Nhữ đẳng tuy dục bất vi ngu lạc,
Đắc hồ!
Kim dư lịch tuyển chư gia binh pháp vi nhất thư, danh viết Binh thư yếu lược.
Nhữ đẳng
Hoặc năng chuyên tập thị thư, thụ dư giáo hối, thị túc thế chi thần chủ dã;
Hoặc bạo khí thị thư, vi dư giáo hối, thị túc thế chi cừu thù dã.
Hà tắc?
Mông Thát nãi bất cộng đái thiên chi thù,
Nhữ đẳng ký điềm nhiên, bất dĩ tuyết sỉ vi niệm, bất dĩ trừ hung vi tâm,
Nhi hựu bất giáo sĩ tốt, thị đảo qua nghênh hàng, không quyền thụ địch;
Sử bình lỗ chi hậu, vạn thế di tu,
Thượng hữu hà diện mục lập ư thiên địa phú tái chi gian da?
Cố dục nhữ đẳng minh tri dư tâm, Nhân bút dĩ hịch vân.
~Trần-Hưng-Đạo~
Dịch nghĩa:
HỊCH TƯỚNG SĨ
Ta thường nghe:
Kỷ Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Đế;
Do Vu chìa lưng chịu giáo, che chở cho Chiêu Vương;
Dự Nhượng nuốt than, báo thù cho chủ;
Thân Khoái chặt tay để cứu nạn cho nước.
Kính Đức một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thái Sung;
Cảo Khanh một bầy tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc.
Từ xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước, đời nào chẳng có?
Ví thử mấy người đó cứ khư khư theo thói nhi nữ thường tình
Thì cũng đến chết hoài ở xó cửa, sao có thể lưu danh sử sách
Cùng trời đất muôn đời bất hủ được?
Các ngươi
Vốn dòng võ tướng, không hiểu văn nghĩa,
Nghe những chuyện ấy nửa tin nửa ngờ.
Thôi việc đời trước hẵn tạm không bàn.
Nay ta lấy chuyện Tống, Nguyên mà nói:
Vương Công Kiên là người thế nào?
Nguyễn Văn Lập, tỳ tướng của ông lại là người thế nào?
Vậy mà đem thành Điếu Ngư nhỏ tày cái đấu
Đương đầu với quân Mông Kha đường đường trăm vạn,
Khiến cho sinh linh nhà Tống đến nay còn đội ơn sâu!
Cốt Đãi Ngột Lang là người thế nào?
Xích Tu Tư tỳ tướng của ông lại là người thế nào?
Vậy mà xông vào chốn lam chướng xa xôi muôn dặm đánh quỵ quân Nam Chiếu trong khoảng vài tuần,
Khiến cho quân trưởng người Thát đến nay còn lưu tiếng tốt!
Huống chi, ta cùng các ngươi sinh ra phải thời loạn lạc,
Lớn lên gặp buổi gian nan.
Lén nhìn sứ ngụy đi lại nghênh ngang ngoài đường,
Uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình;
Đem tấm thân dê chó mà khinh rẻ tổ phụ.
Ỷ mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa để phụng sự lòng tham khôn cùng;
Khoác hiệu Vân Nam Vương mà hạch bạc vàng, để vét kiệt của kho có hạn.
Thật khác nào đem thịt ném cho hổ đói, tránh sao khỏi tai họa về sau.
Ta thường
Tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối,
Ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa;
Chỉ giận chưa thể xả thịt, lột da, ăn gan, uống máu quân thù;
Dẫu cho
Trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ,
Nghìn thây ta bọc trong da ngựa,
Cũng nguyện xin làm.
Các ngươi
Ở lâu dưới trướng, nắm giữ binh quyền,
Không có mặc thì ta cho áo;
Không có ăn thì ta cho cơm.
Quan thấp thì ta thăng tước;
Lộc ít thì ta cấp lương.
Đi thủy thì ta cho thuyền; đi bộ thì ta cho ngựa.
Lâm trận mạc thì cùng nhau sống chết;
Được nhàn hạ thì cùng nhau vui cười.
So với
Công Kiên đãi kẻ tỳ tướng, Ngột Lang đãi người phụ tá, nào có kém gì?
Nay các ngươi
Ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo;
Thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn.
Làm tướng triều đình đứng hầu quân man mà không biết tức;
Nghe nhạc thái thường đãi yến sứ ngụy mà không biết căm.
Có kẻ lấy việc chọi gà làm vui; có kẻ lấy việc cờ bạc làm thích.
Có kẻ chăm lo vườn ruộng để cung phụng gia đình;
Có kẻ quyến luyến vợ con để thỏa lòng vị kỷ.
Có kẻ tính đường sản nghiệp mà quên việc nước;
Có kẻ ham trò săn bắn mà trễ việc quân.
Có kẻ thích rượu ngon; có kẻ mê giọng nhảm.
Nếu bất chợt có giặc Mông Thát tràn sang
Thì cựa gà trống không đủ đâm thủng áo giáp của giặc;
Mẹo cờ bạc không đủ thi hành mưu lược nhà binh.
Vườn ruộng nhiều không chuộc nổi tấm thân ngàn vàng;
Vợ con bận không ích gì cho việc quân quốc.
Tiền của dẫu lắm không mua được đầu giặc;
Chó săn tuy hay không đuổi được quân thù.
Chén rượu ngọt ngon không làm giặc say chết;
Giọng hát réo rắt không làm giặc điếc tai.
Lúc bấy giờ chúa tôi nhà ta đều bị bắt, đau xót biết chừng nào!
Chẳng những thái ấp của ta không còn
Mà bổng lộc các ngươi cũng thuộc về tay kẻ khác;
Chẳng những gia quyến của ta bị đuổi
Mà vợ con các ngươi cũng bị kẻ khác bắt đi;
Chẳng những xã tắc tổ tông ta bị kẻ khác giày xéo
Mà phần mộ cha ông các ngươi cũng bị kẻ khác bới đào;
Chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục đến trăm năm sau tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu còn lưu,
Mà gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang danh là tướng bại trận.
Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui chơi thỏa thích,
Phỏng có được chăng?
Nay ta bảo thật các ngươi:
Nên lấy việc "đặt mồi lửa dưới đống củi nỏ" làm nguy;
Nên lấy điều "kiềng canh nóng mà thổi rau nguội" làm sợ.
Phải huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên,
Khiến cho
Ai nấy đều giỏi như Bàng Mông,
Mọi người đều tài như Hậu Nghệ,
Có thể bêu đầu Hốt Tất Liệt dưới cửa khuyết,
Làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai.
Như thế chẳng những thái ấp của ta mãi mãi vững bền
Mà bổng lộc các ngươi cũng suốt đời tận hưởng;
Chẳng những gia thuộc ta được ấm êm giường nệm,
Mà vợ con các ngươi cũng trăm tuổi sum vầy;
Chẳng những tông miếu ta được hương khói nghìn thu
Mà tổ tiên các ngươi cũng được bốn mùa thờ cúng;
Chẳng những thân ta kiếp này thỏa chí,
Mà đến các ngươi, trăm đời sau còn để tiếng thơm;
Chẳng những thụy hiệu ta không hề mai một,
Mà tên họ các ngươi cũng sử sách lưu truyền.
Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi không muốn vui chơi,
Phỏng có được không?
Nay ta chọn lọc binh pháp các nhà hợp thành một tuyển, gọi là Binh Thư Yếu Lược.
Nếu các ngươi
Biết chuyên tập sách này, theo lời ta dạy bảo, thì trọn đời là thần tử;
Nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời ta dạy bảo thì trọn đời là nghịch thù.
Vì sao vậy?
Giặc Mông Thát với ta là kẻ thù không đội trời chung,
Mà các ngươi cứ điềm nhiên không muốn rửa nhục, không lo trừ hung, lại không dạy quân sĩ,
Chẳng khác nào quay mũi giáo mà xin đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc.
Nếu vậy, rồi đây, sau khi dẹp yên nghịch tặc,
Để thẹn muôn đời, há còn mặt mũi nào đứng trong cõi trời che đất chở này nữa?
Cho nên ta viết bài hịch này để các ngươi hiểu rõ bụng ta.
~Dịch giả Ngô-Tất-Tố~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.12.2010 04:37:06 bởi Anh Nguyên >
TRẦN-THÁNH-TÔNG
1240-1290
Tên thật là Trần Hoảng, làm vua lúc 18 tuổi,
là vị vua thứ hai của nhà Trần, ở ngôi từ năm
1258 đến 1278 và làm Thái thượng hoàng từ
1278 đến khi qua đời. Ông đã cùng với con là
Trần Nhân Tông lãnh đạo đất nước giành chiến
thắng trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên
Mông 1258 và 1288.
CHÂN TÂM CHI DỤNG
真心之用
真心之用,
惺惺寂寂。
無去無來,
無損無益。
入大入小,
任順任逆。
動如雲鶴,
靜如牆壁。
其輕如毛,
其重如石。
洒洒而淨,
躶躶而赤。
不可度量,
全無踪跡。
今日為君,
分明剖劈。
Chân tâm chi dụng,
Tinh tinh tịch tịch.
Vô khứ vô lai,
Vô tổn vô ích.
Nhập đại nhập tiểu,
Nhậm thuận nhậm nghịch.
Động như vân hạc,
Tĩnh như tường bích.
Kỳ khinh như mao,
Kỳ trọng như thạch.
Sái sái nhi tịnh,
Khỏa khỏa nhi xích.
Bất khả đạc lượng,
Toàn vô tung tích.
Kim nhật vị quân,
Phân minh phẫu phách.
CUNG VIÊN XUÂN
NHẬT ỨC CỰU
宮園春日憶舊
宮門半掩徑生苔,
白晝沈沈少往來。
萬紫千紅空爛熳,
春花如許為誰開。
Cung môn bán yểm kính sinh đài,
Bạch trú trầm trầm thiểu vãng lai.
Vạn tử thiên hồng không lạn mạn,
Xuân hoa như hử vị thùy khai?
Dịch nghĩa:
Cửa cung khép hờ, lối đi rêu mọc,
Giữa ban ngày mà sâu lặng, ít người qua lại,
Muôn tía nghìn hồng rực rỡ suông mà thôi,
Hoa xuân đẹp như kia vì ai mà nở?
Dịch thơ:
Cửa ngõ lờ mờ dấu bụi rêu,
Chìm chìm ngày bạc vẻ đìu hiu.
Ðầy vườn rực rỡ hồng chen tía,
Hoa khéo vì ai vẫn nở nhiều.
~Ngô-Tất-Tố~
SINH TỬ
生如著衫,
死如脫褲。
自古及今,
更無異路。
八字打開分付了,
更無餘事可呈君。
Sinh như trước sam,
Tử như thoát khố.
Tự cổ cập kim,
Cánh vô dị lộ.
Bát tự đả khai phân phó liễu,
Cánh vô dư sự khả trình quân.
Dịch nghĩa:
Sống như mặc áo vào,
Chết như trút bỏ quần ra.
Từ xưa tới nay,
Không có con đường nào khác.
Khi thông tám chữ dặn dò xong rồi,
Không còn việc gì phải trình với ông nữa.
VÃN TRẦN TRỌNG TRƯNG
痛哭江南老鉅卿,
東風濕淚為傷情。
無端天上編年月,
不管人間有死生。
萬疊白雲遮故宅,
一堆黃壤覆香名。
回天力量隨流水,
流水灘頭共不平。
Phiên âm Hán Việt:
Thống khốc Giang Nam lão cự khanh,
Đông phong thấp lệ vị thương tình.
Vô đoan thiên thượng biên niên nguyệt,
Bất quản nhân gian hữu tử sinh.
Vạn điệp bạch vân già cố trạch,
Nhất đôi hoàng nhưỡng phúc hương danh.
Hồi thiên lực lượng tùy lưu thủy,
Lưu thủy than đầu cộng bất bình.
Dịch nghĩa:
Đau đớn khóc người bề tôi giỏi kỳ cựu của đất Giang Nam,
Trước gió đông đẫm lệ thương xót cho ông.
Vô cớ mà sổ trời lại ghi năm tháng của ông,
Chẳng kể gì đến trần gian ai nên sống mà ai nên chết.
Mây trắng muôn tầng che ngôi nhà cũ,
Đất vàng một nấm vùi lấp danh thơm.
Sức xoay trời đã phó cho dòng nước chảy,
Dòng nước đầu ghềnh cũng chung nỗi bất bình.
TRẦN-NHÂN-TÔNG
SƠ TỔ TRÚC LÂM
1258-1308
Cối Kê cựu sự quân tu ký,
Hoan Diễn do tồn thập vạn binh.
(Hai câu này được viết
lên đuôi chiến thuyền)
Dịch:
Cối Kê chuyện cũ ngươi nên nhớ,
Hoan Diễn đang còn chục vạn quân.
*
* *
Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã,
Sơn hà thiên cổ điện kim âu.
(Vìết bên lăng Trần-Thái-Tôn tại
Long Hưng, Thái Bình khi làm lễ
ăn mừng chiến thắng lần thứ ba)
Dịch:
Xã tắc hai lần chồn ngựa đá,
Non sông nghìn thuở vững âu vàng.
*
* *
KHUÊ OÁN
Thụy khởi câu liêm khán trụy hồng,
Hoàng li bất ngữ oán đông phong.
Vô đoan lac nhật tây lâu ngoại,
Hoa ảnh, chi đầu tận hướng đông
~Trần-Nhân-Tôn~
Dịch:
Nỗi oán nơi khuê phòng
Vừa dậy vén rèm ngó hoa rơi
Oanh im chừng giận gió đông rồi
Lầu Tây ngày xuống vô tình quá
Thương cảm nỗi niềm chỉ hoa thôi
~Nguyễn-Tâm-Hàn~
CƯ TRẦN LẠC ĐẠO PHÚ
Đệ nhất hội
Chữ Nôm:
第一會
命憹城市
涅用山林
怺業朗安閑體性
姅挧耒自在身心
貪愛源停,庄群汝珠腰玉貴
是非曢朗,特油牐燕說鶯吟
制搩碧隱筃籑,人間固饒勜得意
別桃紅処柳綠,天下能某主知音
月白暈青,芁每祖禪河淶焔
柳綿花岹,屹群生慧日森林
慮換骨約飛升,丹神買服
咅長生衛上界,徃兔群耽
冊易娂制,腰性瞆腰欣珠寶
經閒讀酉,重峼耒重女黃金
Tiếng Việt:
Mình ngồi thành thị;
Nết dụng sơn lâm.
Muôn nghiệp lặng an nhàn thể tính;
Nửa ngày rồi tự tại thân tâm.
Tham ái nguồn dừng, chẳng còn nhớ châu yêu ngọc quý;
Thị phi tiếng lặng, được dầu nghe yến thốt oanh ngâm.
Chơi nước biếc ẩn non xanh, nhân gian có nhiều người đắc ý;
Biết đào hồng hay liễu lục, thiên hạ năng mấy chủ tri âm.
Nguyệt bạc vừng xanh, soi mọi chỗ thiền hà lai láng;
Liễu mềm hoa tốt, ngất quần sinh tuệ nhật sâm lâm.
Lo hoán cốt ước phi thăng, đan thần mới phục;
Nhắm trường sinh về thượng giới, thuốc thỏ còn đam.
Sách dễ xem chơi, yêu tính sáng yêu hơn châu báu;
Kinh nhàn đọc dấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim.
Đệ nhị hội
Chữ Nôm:
第二會
別丕
免特峼耒
庄群法恪
廛性瞆性買侯安
裵念妄念停庄錯
悉除人我時歯相實金剛
停歇貪嗔買老峼牟圓覺
淨土羅峼瑇瀝渚群疑坙典西方
彌陀羅性瞆芁罵沛辱寻衛極樂
察身心煉性識呵浪蒙果報舖誇
倿戒行敵無常儍固詫求名半角
吿蔞吿迀業凩庄嫌所縙枾
運紙運檑身根固礙之顛白
若㐱戞皮道德姅間痆貴姅天宮
油能勉所仁義巴片瓦腰欣樓閣
Tiếng Việt:
Dứt trừ nhân ngã thời ra tướng báu kim cương;
Dừng hết tham sân mới lảu lòng màu viên giác.
Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương;
Di Đà là tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực lạc.
Xét thân tâm, rèn tính thức, há rằng mong quả báo phô khoe;
Cầm giới hạnh, địch vô thường, nào có sá cầu danh bán chác.
Ăn rau ăn trái, nghiệp miệng chẳng hiềm thửa đắng cay;
Vận giấy vận sồi, thân căn có ngại chi đen bạc.
Nhược chỉn vui bề đạo đức, nửa gian lều quý nửa thiên cung;
Dầu năng miễn thửa nhân nghì, ba phiến ngói yêu hơn lầu gác.
Đệ tam hội:
Chữ Nôm:
第三會
裊麻谷
罪乙乑空
法學吏通
纏性瞆罵落邪道
所命學朱沛正宗
㐱孛羅峼舍諳坙隊機馬祖
忘財對色乙寻朱沛退龐公
盎資財性瞆庄貪呵為於歳鷂安子
譤聲色念停庄轉路之憹庵棧筃東
塵俗麻年,福意強腰歇則
山林庄谷,禍箕實垰徒功
願蒙親近明師果菩提蔑店麻佂
福及情期知識花優曇亖劫耽厠
Tiếng Việt:
Nếu mà cốc,
Là ắt đã không,
Pháp học lại thông.
Gìn tính sáng, mựa lạc tà đạo;
Sửa mình học, cho phải chính tông.
Chỉn bụt là lòng, sá ướm hỏi đòi cơ Mã tổ;
Vong tài đối sắc ắt tìm cho phải thói Bàng công.
Áng tư tài tính sáng chẳng tham, há vì ở Cánh Diều Yên Tử;
Răn thanh sắc niềm dừng chẳng chuyển, lọ chi ngồi am Sạn non Đông.
Trần tục mà nên, phúc ấy càng yêu hết tấc;
Sơn lâm chẳng cốc, họa kia thực cả đồ công.
Nguyền mong thân cận minh sư, quả Bồ Đề một đêm mà chín;
Phúc gặp tình cờ tri thức, hoa Ưu Đàm mấy kiếp đâm bông.
Đệ tứ hội:
Chữ Nôm:
第四會
信娂
免谷蔑峼
時耒每惑
轉三毒買證三身
断六根年除六賊
寻唐換骨㐱舍能服藥煉丹
坙法真空分之另櫀聲執色
別真如信般若,渚群寻佛祖西東
證實相年無為,儍辱坙經禪南北
娂三藏教,乙學隊禪苑清規
嘥五分香,庄損典栴檀詹蔔
積仁義修道德,埃処尼庄釋迦
倿戒行断慳貪,㐱實意羅弥勒
Tiếng Việt:
Tin xem,
Miễn cốc một lòng;
Thời rồi mọi hoặc.
Chuyển tam độc mới chứng tam thân;
Đoạn lục căn nên trừ lục tặc.
Tìm đường hoán cốt, chỉn xá năng phục dược luyện đan;
Hỏi pháp chân không, hề chi lánh ngại thanh chấp sắc.
Biết chân như, tin bát nhã, chớ còn tìm Phật Tổ tây đông;
Chứng thực tướng, nên vô vi, nào nhọc hỏi kinh Thiền nam bắc.
Xem Tam Tạng giáo, ắt học đòi Thiền uyển thanh quy;
Đốt ngũ phần hương, chẳng tổn đến chiên đàn chiêm bặc.
Tích nhân nghì, tu đạo đức, ai hay này chẳng Thích Ca;
Cầm giới hạnh, đoạn ghen tham, chỉn thực ấy là Di Lặc.
Đệ ngũ hội:
Chữ Nôm:
第五會
丕買処
孛於宮茹
庄沛寻賒
因虧本年些寻孛
典谷処㐱孛羅些
禪午朩句,聮釀工圭何有
經娂巴遍,憹宜買國新羅
瑇道義曠機關,它突吝場經翓祖
另是非稽声色,櫀制排淡柳塘花
德孛慈悲,蒙饒劫願朱親近
恩堯曠垰,律全身逋沒乑赦
襖免绖潭蔭過務,或針或雉
琟共粥肁奴隊耉,油白油叉
垠八識裵八風,強提強倍
唩三玄箼三要,蔑拮沒磨
琴本少絃,舍彈酉控無生曲
笛庄固魯,共泛制唱太平歌
钖檜寻梗,群可惜俱胝長老
虧頭執俸,乙堪宼演若達多
律圈金剛,呵炦侯通年艶
訥蓬栗棘,儍検沛綽像庒
Tiếng Việt:
Vậy mới hay!
Bụt ở cong nhà;
Chẳng phải tìm xa.
Nhân khuây bản nên ta tìm bụt;
Đến cốc hay chỉn bụt là ta.
Thiền ngỏ năm câu, nằm nhãng cong quê Hà Hữu;
Kinh xem ba bận, ngồi ngơi mái quốc Tân La.
Trong đạo nghĩa, khoảng cơ quan, đà lọt lẫn trường kinh cửa tổ;
Lánh thị phi, ghê thanh sắc, ngại chơi bời dặm liễu đường hoa.
Đức bụt từ bi, mong nhiều kiếp nguyền cho thân cận;
Ân Nghiêu khoáng cả, lọt toàn thân phô việc đã tha.
Áo miễn chăn đầm ấm qua mùa, hoặc châm hoặc xể;
Cơm cùng cháo đói no đòi bữa, dầu bạc dầu thoa.
Ngăn bát thức, nén bát phong, càng đè càng bội;
Lẩy tam huyền, nong tam yếu, một cắt một ma.
Cầm vốn thiếu dây, xá đàn dấu xoang Vô sinh khúc;
Địch chăng có lỗ, cũng bấm chơi xướng Thái bình ca.
Lẩy cội tìm cành, còn khá tiếc Câu Chi trưởng lão;
Quay đầu chớp bóng, ắt kham cười Diễn Nhã Đạt Đa.
Lọt quyển kim cương, há mặt hầu thông nên nóng;
Nuốt bồng lật cức, nào tay phải xước tượng da.
Đệ lục hội:
Chữ Nôm:
第六會
實世
唉舍無心
自然合道
停三業買瞆身心
達蔑峼時通祖教
認文解義,落來年禪客巴為
証理知機,勁葛沛訥僧坤窖
嘆有漏嘆無漏,保朱処硦律杓菱?
坙大乘坙小乘,撪倘悉斅錢絲欕
認別漏漏峼本,庄櫀皮時節因緣
搥朱域域性爯,儍固染根塵喧鬧
釺渚歇霚,舍須佂番篤佂番煉
祿庄群貪,免特蔑時齋蔑時粥
瀝戒峼搥戒相,內外年菩薩莊嚴
桰蜍主討蜍吒,岃杜買丈夫忠孝
參禪見伴,涅身命買可回恩
學道蜍柴,扟昌沃渚通晫報
Tiếng Việt:
Thực thế!
Hãy xá vô tâm;
Tự nhiên hợp đạo.
Dừng tam nghiệp mới lặng thân tâm;
Đạt một lòng thì thông tổ giáo.
Nhận văn giải nghĩa, lạc lài nên thiền khách bơ vơ;
Chứng lý tri cơ, cứng cát phải nạp tăng khôn khéo.
Han hữu lậu, han vô lậu, bảo cho hay: the lọt, duộc thưng;
Hỏi Đại thừa, hỏi Tiểu thừa, thưa thẳng tắt: sồi tiền, tơ gạo.
Nhận biết làu làu lòng vốn, chẳng ngại bề thời tiết nhân duyên;
Chùi cho vặc vặc tính gương, nào có nhuốm căn trần huyên náo.
Vàng chưa hết quặng, xá tua chín phen đúc chín phen rèn;
Lộc chẳng còn tham, miễn được một thì chay một thì cháo.
Sạch giới lòng, dồi giới tướng, nội ngoại nên Bồ Tát trang nghiêm;
Ngay thờ chúa, thảo thờ cha, đi đỗ mới trượng phu trung hiếu.
Tham thiền kén bạn, nát thân mình mới khá hồi ân;
Học đạo thờ thầy, dọt xương óc chưa thông của báo.
Đệ thất hội:
Chữ Nôm:
第七會
徵意
㐱舍須煉
渚年絕學
來意識渚執澄澄
裵念妄罵群觸觸
功名忙(-)意全羅仍打疑(-)
福慧兼奴㐱買可年勜實谷
鄧橋渡,搥廛塔,外莊嚴事相矣修
刪喜捨,軟慈悲,內自在經峼恒讀
煉峼乄孛,㐱舍修蔑飭搥埋
待葛見釺,群吏沛饒番瀘淥
娂經讀錄,乄朱朋所体所処
重孛修身,用罵磊蔑絲蔑泘
穷尼言句,㐱庄兮蔑丿櫀盧
栗所機關,罵群底爑唏突祿
Tiếng Việt:
Chưng ấy:
Chỉn xá tua rèn;
Chớ nên tuyệt học.
Lay ý thức chớ chấp chằng chằng;
Nén niềm vọng mựa còn xóc xóc.
Công danh mảng đắm, ấy toàn là những đứa ngây thơ;
Phúc tuệ gồm no, chỉn mới khá nên người thực cốc.
Dựng cầu đò, dồi chiền tháp, ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu;
Săn hỷ xả, nhuyễn từ bi, nội tự tại kinh lòng hằng đọc.
Rèn lòng làm bụt, chỉn xá tu một sức dùi mài;
Đãi cát kén vàng, còn lại phải nhiều phen lựa lọc.
Xem kinh đọc lục, làm cho bằng thửa thấy thửa hay;
Trọng bụt tu thân, dùng mựa lỗi một tơ một tóc.
Cùng nơi ngôn cú, chỉn chăng hề một phút ngại lo;
Rất thửa cơ quan, mựa còn để tám hơi dọt lọc.
Đệ cửu hội:
Chữ Nôm:
第九會
丕朱処
機關祖教
雖恪饒塘
庄隔某剛
㐱舍吶自罒馬祖
乙乑涓課訳蕭皇
功德全無,性執癡強添磊
廓然不識,碒愚渕乙群肹
生天竺,折少林,畕肁真筃熊耳
身菩提,峼明鏡,牌剶炦壁行廊
王老斬貓,辣忛峼馭首坐
柴胡摳匵,擼娂智珥昆床
悪盧陵欕末過於,庄朱麻垰
所石頭廏瀾歇則,坤典撪當
破灶拮棋,踏笹酉煶神庙
俱胝移阮,用隊躡躡翁盎
攨劍臨济,鑲秘魔,訳衲僧奴油自在
獅子翁端,橮柴佑,譤檀越歛舍迎昂
媫扇子,拮竹篦,驗几學機關珥(-)
芻丸毬,倿木杓,伴禪和所木誇光
船子耶掉,匇籑渚朱羨洗
道吾扄笏乾魔羕体怪光
纅偃老訥乾坤,些娂㐱戾
氜蓊存昂世界,勜体乙揚
夛柏羅峼,托歯訳沛方太白
丙丁屬火,吏呂罒磊向天罡
茶趙老餅韶陽,排禪子矣群肁渴
鋫曹溪園少室,眾衲僧仍底留荒
招勑檜乃厠嘫,因芒買涅
祿桃花宜曢竹,默峃高禥
Tiếng Việt:
Vậy cho hay:
Cơ quan tổ giáo,
Tuy khác nhiều đàng (đường),
Chẳng cách mấy gang.
Chỉn xá nói từ sau Mã tổ;
Ắt đã quen thuở trước Tiêu Hoàng.
Công đức toàn vô, tính chấp si càng thêm lỗi;
Khuếch nhiên bất thức, tai ngu mảng ắt còn vang.
Sinh Thiên Trúc, chết Thiếu Lâm, chôn dối chân non Hùng Nhĩ;
Thân bồ đề, lòng minh kính, bài giơ mặt vách hành lang.
Vương lão chém mèo, lại trẩy lòng ngừa thủ tọa;
Thầy Hồ khua chó, trỏ xem trí nhẹ con giàng.
Chợ Lư Lăng gạo mắt quá ư, chẳng cho mà cả;
Sở Thạch Đầu đá trơn hết tấc, khôn đến thưa đang.
Phá Táo cất cờ, đạp xuống dấu thiêng thần miếu;
Câu Chi dời ngón, dùng đòi nếp cũ ông ang.
Lưỡi gươm Lâm Tế, nạng Bí Ma, trước nạp tăng no dầu tự tại;
Sư tử ông Đoan, trâu thầy Hựu, răn đàn việt hượm xá nghênh ngang.
Đưa phiến tử, cất trúc bề, nghiệm kẻ học cơ quan nhẹ nhẵn;
Xô hòn cầu, cầm mộc thược, bạn thiền hòa thửa khoe khoang.
Thuyền Tử rà chèo, dòng xanh chửa cho tịn tẩy;
Đạo Ngô múa hốt, càn ma dường thấy quái quàng.
Rồng Yển lão nuốt càn khôn, ta xem chỉn lệ;
Rắn ông Tồn ngang thế giới, người thấy ắt dương.
Cây bách là lòng, thác ra trước phải phương Thái Bạch;
Bính đinh thuộc hỏa, lại trở sau lỗi hướng Thiên Cang.
Trà Triệu lão, bánh Thiều Dương, bầy thiền tử hãy còn đói khát;
Ruộng Tào Khê, vườn Thiếu Thất, chúng nạp tăng những để lưu hoang.
Gieo bó củi, nẩy bông đèn, nhân mang mới nết;
Lộc đào hoa, nghe tiếng trúc, mặc vẻ mà sang.
Đệ thập hội:
Chữ Nôm:
第十會
象眾意
谷蔑真空
用隊根器
固峼些旺執坤通
呵機祖哰群所秘
眾小乘谷処渚典,垠寶所化城
等上士證寶麻年,埃技固山林城市
倂荒棱瓊,意羅尼逸士逍遙
廛永庵清,㐱實境道人逾戏
馭高傘垰,閻王儍計打迎昂
閣玉樓釺,獄卒少之勜腰貴
拯功名籠人我,實意凡愚
蔢道德移身心,定年聖智
眉昂每獨,相雖羅娂乙凭饒
炦聖峼凡,實隔忍萬萬千里
Tiếng Việt:
Tượng chúng ấy,
Cốc một chân không,
Dụng đòi căn khí.
Nhân lòng ta vướng chấp khôn thông;
Há cơ tổ nay còn thửa bí.
Chúng Tiểu thừa cốc hay chửa đến, bụt xá ngăn Bảo sở hóa thành;
Đấng Thượng sĩ chứng thực mà nên, ai ghẽ có sơn lâm thành thị.
Núi hoang rừng quạnh, ấy là nơi dật sĩ tiêu dao;
Triền vắng am thanh, chỉn thực cảnh đạo nhân du hí.
Ngự cao tán cả, Diêm vương nào kể đứa nghênh ngang;
Gác ngọc lầu vàng, ngục tốt thiếu chi người yêu quý.
Chuộng công danh, lồng nhân ngã, thực ấy phàm phu;
Say đạo đức, dời thân tâm, định nên thánh trí.
Mày ngang mũi dọc, tướng tuy là xem ắt bằng nhau;
Mặt thánh lòng phàm, thực cách nhẫn vạn vàn thiên lý.
Kệ vân:
Nguyên văn chữ Hán Việt:
偈云
居塵樂道且隨緣,
饑則飧兮困則眠。
家中有宝休尋覓,
對鏡無心莫問禪。
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên,
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên.
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch,
Đối kính vô tâm mạc vấn thiền.
Dịch nghĩa:
Sống giữa phàm trần, hãy tùy duyên mà vui với đạo
Đói thì ăn, mệt thì ngủ
Trong nhà sẵn của báu, đừng tìm đâu khác
Đối diện với mọi cảnh giới mà vẫn vô tâm, thì cần chi hỏi thiền nữa.
~Trần-Nhân-Tông~ Sau khi đánh bại Nguyên Mông lần thứ ba.Nhân lễ chúc thọ Hốt Tất Liệt, vua Trần Nhân Tông có sai sứ sang chúc thọ mà phẩm vật chỉ là một bài thơ có sáu từ: Thiên tứ hoàng đế Đế tứ thứ dân Thần chúc thánh thượng Ức vạn niên xuân (Trời cho làm vua Vua lo cho dân Thần chúc thánh thượng Muôn triệu mùa xuân) Đúng là vị vua nhân từ, sang suốt và tài hoa nhất lịch sử Việt Nam đã dạy cho một ông vua đã từng làm kinh động thế giới hiểu rằng phải biết lo cho dân mình có muôn triệu mùa xuân. Mùa xuân đồng nghĩa với an lạc, thịnh vượng mà muốn thế thì đừng đàn áp kẻ khác, đừng gây chiến tranh làm thương vong ly tán, làm đất nước cạn cùng. (Báo Sàigòn nhỏ Virginia số 1070 1-11- 2013)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.11.2013 21:08:26 bởi Anh Nguyên >
TRẦN-QUANG-KHẢI
(1241-1294)
Con thứ ba Trần Thái Tông, đại tướng nhà Trần,
Tướng quốc đời Trần Thánh Tông. Sang đời
Trần Nhân Tông, khi quân Nguyên xâm lăng,
được phong Thượng tướng Thái sư, trấn giữ
mặt Nam Nghệ An, lập công lớn tại Chương
Dương độ.
頌駕還京師
奪槊章陽渡,
擒胡鹹子關,
太平須致力。
萬古此江山。
TỤNG GIÁ HOÀN KINH SƯ
Đoạt sáo Chương Dương độ
Cầm Hồ Hàm Tử quan
Thái bình nghi nỗ lực
Vån cổ thử giang san.
~Trần-Quang-Khải~
Dịch:
Chương-Dương cướp giáo giặc
Hàm-Tử bắt quân Hồ
Thái bình nên gắng sức
Non nước ấy nghìn thu.
~Trần-Trọng-Kim~
TỐNG BẮC SỨ SÀI TRANG KHANH
Tống quân quy khứ độc bàng hoàng,
Mã thủ xâm xâm chỉ đế hương.
Nam Bắc tâm linh huyền phản bái,
Chủ tân đạo vị phiếm ly trường.
Nhất đàm tiếu khoảnh, ta phân quệ,
Cộng xướng thù gian, tích đối sáng.
Vị thẩm hà thời trùng đổ diện,
Ân cần ác thủ tự huyên lương.
~Trần-Quang-Khải~
Dịch nghĩa:
Tiễn ông ra về, mình tôi luống những bâng khuâng,
Ngựa xăm xăm hướng về nẻo quê hương nhà vua.
Nỗi lòng Nam Bắc lưu luyến trên ngọn cờ người ra đi,
Tình chủ khách dạt dào trong chén rượu giã biệt.
Vừa nói cười đó mà thoắt đã ngậm ngùi dứt áo,
Tiếc những lúc hai giường đối diện, xướng họa cùng nhau.
Biết bao giờ lại được gặp mặt,
Để nắm tay ân cần kể nỗi hàn huyên.
~Nguyễn-Huệ-Chi~
CẢM XUÂN
Vũ bạch phì mai tế nhược ti,
Bế môn ngột ngột tọa thư si.
Bán phần xuân sắc nhàn sai quá,
Ngũ thập suy ông dĩ tự tri.
Cố quốc tâm tùy phi điểu quyện,
Ân ba hải khoát túng lân trì.
Sinh bình đởm khí luân khuân tại,
Giải đảo đông phong phú nhất thi.
~Trần-Quang-Khải~
Dịch:
Cảm xuân
Lâm râm mưa bụi gội hoa mai,
Khép chặt phòng thơ ngất ngưởng ngồi.
Già nửa phần xuân cam bỏ uổng,
Tới năm chục tuổi biết suy rồi.
Mơ màng nước cũ chim bay mỏi,
Khơi thẳm nguồn ân, cá khó bơi.
Đảm khí ngày nào rày vẫn đó,
Đè nghiêng ngọn gió đọc thơ chơi!
~Ngô-Tất-Tố~
劉家渡 - 陳光凱
劉家渡口樹參天,
扈從東行昔泊船。
舊塔江亭秋水上,
荒祠古塚石麟前。
太平圖志幾千里,
李代山河二百年。
詩客重來頭髮白,
梅花如雪照晴川。
LƯU-GIA ĐỘ
Lưu Gia độ khẩu thụ tham thiên,
Hỗ tụng đông hành tích bạc thuyền.
Cựu tháp giang đình lưu thủy thượng,
Hoang tử cổ trùng thạch lân tiền.
Thái bình đồ chí kỷ thiên lý,
Lý đại quan hà nhị bách niên.
Thi khách trùng lai đầu phát bạch,
Mai hoa như tuyết chiếu tình xuyên.
~Trần-Quang-Khải~
Dịch nghĩa:
Bến đò Lưu-Gia cây cao ngất trời,
Xưa phò giá sang đông từng đỗ thuyền nơi đây.
Tháp cũ, đình xưa dựng trên sông thu,
Đền hoang, mộ cổ trước mấy con lân đá.
Bản đồ thái bình ghi mấy ngàn dặm,
Non sông nhà Lý trải hai trăm năm.
Khách thơ nay trở lại đầu đã bạc,
Hoa mai như tuyết chiếu xuống sông trong.
~Hà-Ân Trần-Quốc-Vượng~
DÃ THỰ
Dã thự sơ khai cảnh tướng tân,
Phân phi đào lý tứ thời xuân.
Nhất thanh ngưu địch thanh lâu nguyệt,
Kỷ phiến nông thoa bích lũng vân.
Lộ vãn dương trường thông tử mạch,
Khê phân yến vĩ đoạn hồng trần.
Quỷ thần ám địa thâu tương ngữ,
Nhất đoạn phong quang khả ẩn quân.
~Trần-Quang-Khải~
Dịch:
Nhà nơi đồng quê
Nhà dựng chốn quê mới lạ thay
Mận đào tươi tốt bốn mùa bay
Một âm ngưu địch bên lầu nguyệt
Vài bóng nông thoa dưới lũng mây
Đường kéo ruột dê thông mạch ruộng
Suối chia đuôi én đứt trần ai
Quỷ thần ám đất như đều nói:
Một mảnh phong quang để trú đây!
~Ứng Hòa Dã Phu sưu tầm~
TRÂN-LÂU
QUÁ HÀM TỬ QUAN
Thuyết trước sa trường cảm khái đa,
Nhi kim Hàm Tử mạn kinh qua.
Cổ chinh húng dũng triều thanh cấp,
Kỳ bái sâm si trúc ảnh tà.
Vương đạo hồi xuân nồng cổ thụ,
Hồ quân bão hận thấu hàn ba.
Toa Đô thụ thủ tri hà xứ?
Thủy lục sơn thanh nhập vọng xa.
~Trần-Lâu~
Dịch nghĩa:
Cảm khái bao nhiêu cuộc chiến này!
Mà nay Hàm Tử mới qua đây.
Trống chiêng rộn rịp: triều lên gấp,
Cờ xí tưng bừng: tre lả lay.
Vương đạo hồi xuân, cây thắm lại,
Quân Hồ ôm hận, sóng vùi thây.
Toa Đô nộp mạng nơi nào nhỉ?
Nước biếc non xanh mắt chứa đầy!
~Nguyễn-Huệ-Chi~
TÔN GIẢ HUYỀN-QUANG
(1254-1334)
CHU TRUNG
Nhất diệp biên chu hồ hải khách,
Sanh xuất vi hàng phong thích thích.
Vi mang tứ cố vãn triều sinh,
Giang thủy liên thiên nhất âu bạch.
~TG Huyền-Quang~
Dịch:
Trong thuyền
Sông hồ nổi chiếc thuyền nan
Chèo...xao xác gió qua hàng cỏ lau
Ngọn triều bốn phía lên mau
Thênh thang trời nước cánh âu an nhàn.
~Nguyễn-Tấn-Hưng~
Thuyền con một mảnh trên hồ
Mái chèo khua nước ven bờ cỏ lau
Mênh mông triều lớn dâng mau
Trời xa một cánh hải âu trắng ngần
~Nguyễn-Tâm-Hàn~
TỨC CẢNH NGÀY XUÂN
Nhị bát giai nhân thích tú trì,
Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly.
Khả liên vô hạn thương xuân ý,
Tận tại đình châm bất ngữ thì. ~Huyền-Quang~ Dịch: Người xinh mười sáu, dừng kim, Dưới chùm hoa đỏ, hót chim oanh vàng. Thương, xuân bao ý mơ màng, Trút vào giây phút cô nàng lặng im... ~Anh-Nguyên~
PHẠM-NGŨ-LÃO
(1255-1320)
Phù-Ủng, Đường-Hào, Hải-Dương, nay
thuộc Ân Thi, Hưng Yên. Tướng nhà Trần.
THUẬT HOÀI
Nguyên văn chữ Hán:
述懷
橫槊江山恰幾秋,
三軍貔虎氣吞牛。
男兒未了功名債,
羞聽人間說武侯。
Phiên âm Hán Việt:
Thuật hoài
Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu,
Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu.
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.
~Phạm-Ngũ-Lão~
Dịch nghĩa:
Cắp ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu,
Ba quân như gấu hổ, át cả sáo Ngưu[1].
Thân nam nhi nếu chưa trả xong nợ công danh,
Ắt thẹn thùng khi nghe người đời kể chuyện Vũ hầu.
Dịch thơ:
Tỏ lòng
Múa giáo non sông trải mấy thu,
Ba quân hùng khí át sao Ngưu.
Công danh nam tử còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ-Hầu.
~Trần-Trọng-Kim~
VÃN THƯỢNG TƯỚNG QUỐC CÔNG
HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG
Nguyên văn chữ Hán:
輓上將國公興道大王
長樂鐘聲遞一槌,
秋風蕭颯不勝悲。
九重明鑑今亡矣,
萬里長城孰壞之。
雨暗長江空淚血,
雲低複道銷愁眉。
仰觀奎藻詞非溢,
魚水情深見詠詩。
Phiên âm Hán Việt:
Trường lạc chung thanh hưởng nhất chùy
Thu phong tiêu táp bất thăng bi
Cửu trùng minh giám kim vong hĩ
Vạn lý trường thành thục hoại chi
Vũ ám trường giang không lệ huyết
Vân đê phức đạo tỏa sầu mi
Ngưỡng quan khuê tảo từ phi dật
Ngư thủy tình thâm kiến vịnh thi
~Phạm-Ngũ-Lão~
Việt Dịch nghĩa:
Tiếng chuông cung Trường-Lạc một hồi vang lên,
Gió thu hiu hắt, đau thương khôn xiết.
Tấm gương sáng của cửu trùng nay đã mất rồi,
Bức trường thành vạn dặm ai làm cho sụp đổ?
Mưa phủ kín sông dài, luống tuôn lệ máu,
Mây sa xuống đường sạn đạo nhíu hàng my sầu.
Ngước xem văn chương lời lời cô đúc,
Tình sâu cá nước đã hiện ra ở lời thơ vịnh.
Dịch thơ:
Điếu Hưng-Đạo đại vương
Trên cung Trường-Lạc tiếng chuông hồi
Hiu hắt mây thu luống ngậm ngùi!
Gương sáng soi vua đà mất hẳn
Thành dài muôn dậm bỗng đổ rồi!
Lê sa mưa máu sông xuôi chảy,
Mày nhíu mây sầu lối đứng coi!
Thơ ngự rành rành ghi chuyện thật
Tình sâu cá nước đúng như lời.
~Thi-Hàm~
HÀN-THUYÊN
(1258-1308)
Tức Nguyễn-Thuyên, Lai-Hạ,
Lương-Tài, Bắc-Ninh, Thượng-
Thư Bộ Hình thời Trần-Nhân-Tông
VĂN TẾ CÁ SẤU
Ngặc ngư kia hỡi mày có hay
Biển Đông rộng rãi là nơi này
Phú Lương đây thuộc về thánh vực
Lạc lối đâu mà lại đến đây
Há chẳng nhớ rằng nước Việt xưa
Dân quen chài lưới chẳng tay vừa
Đời Hùng vẽ mình vua từng dạy
Xuống nước giao long cũng phải chừa
Thánh thần nối dõi bản triều nay
Dấy từ Hải Ấp ngôi trời thay
Võ công lừng lẫy bốn phương tịnh
Biển lặng sông trong mới có rày
Hùm thiêng xa dấu dân cày cấy
Nhân vật đều yên đâu ở đấy
Ta vâng đế mạng bảo cho mày
Hãy vào biển Đông mà vùng vẫy
~Hàn-Thuyên~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.03.2011 23:50:11 bởi Anh Nguyên >
MẠC-ĐĨNH-CHI
1280-1346
Lũng-Động, Nam-Sách, Hải-Dương
VÃN CẢNH
Nguyên văn chữ Hán
晚景
空翠浮煙色,
春藍發水紋。
墻烏啼落照,
野雁送歸雲。
漁火前灣見,
樵歌隔岸聞。
旅顏悲冷落,
借酒作微醺。
Âm Hán Việt:
Vãn cảnh
Không thúy phù yên sắc
Xuân lam phát thủy văn
Tường ô đề lạc chiếu
Dã nhạn tống quy vân
Ngư hỏa tiền loan kiến
Tiều ca cách ngạn văn
Lữ nhan bi lãnh lạc
Tá tửu tác vi huân
~Mạc-Đĩnh-Chi~
Dịch:
Cảnh chiều
Khói bồng bềnh trời biếc
Sóng gợn nước xuân xanh
Quạ xế chiều kêu rộn
Nhạn theo mây về nhanh
Lửa chài leo trườc vũng
Tiều hát vẳng bên ghềnh
Mặt khách buồn tê tái
Mượn chén giải u tình
~Huệ-Chi~
TẢO HÀNH
Văn chữ Hán
早行
蝴蝶醒殘夢,
商郎聞櫂歌。
張帆開夙霧,
擺櫂破晴波。
水入九江闊,
山歸三楚多。
濂溪何處是?
我欲訪煙蘿。
Âm Hán Việt:
Tảo hành
Hồ điệp tỉnh tàn mộng
Thương Lang văn trạo ca
Trương phàm khai túc vụ
Bãi trạo phá tình ba
Thủy nhập Cửu Giang khoát
Sơn quy Tam Sở đa
Liêm khê hà xứ thị
Ngã dục phỏng yên la
~Mạc-Đĩnh-Chi~
Dịch:
Đi sớm
Tỉnh mộng tàn giấc bướm
Thương Lang hát giữa dòng
Buồm giăng khua sương đặc
Chèo cạy quẫy sóng trong
Nước Cửu giang bát ngát
Non Tam Sở chập chồng
Liêm khê nơi nào nhỉ
Hỏi chốn khói cây lồng
~Huệ-Chi~
THƠ ĐIẾU HẬU PHI
VUA NGUYÊN
青天一朵雲
烘爐一點雪
上苑一枝花
瑤池一片月
噫雲散雪消花殘月缺
Thanh thiên nhất đóa vân,
Hồng lô nhất điểm tuyết,
Thượng uyển nhất chi hoa,
Dao trì nhất phiến nguyệt.
Y ! Vân tán, tuyết tiêu,
Hoa tàn, nguyệt khuyết!...
~Mạc-Đĩnh-Chi~
Tạm dịch:
Một đám mây giữa trời xanh
Một bông tuyết trong lò lửa
Một bông hoa giữa vườn thượng uyển
Một vầng trăng trên mặt nước hồ
Ôi! mây tản, tuyết tan, hoa tàn, trăng khuyết!
NGỌC TỈNH LIÊN PHÚ
...Phi đào lý chi thô tục; phi mai trúc chi cô hàn
Phi tăng phòng chi cẩu kỷ; phi Lạc thổ chi mẫu đơn
Phi Đào lệnh đông ly chi cúc; phi linh quân cửu uyển chi lan
Nãi thái hoa phong đầu ngọc tỉnh chi liên...
Dịch Thơ:
Sen trong giếng ngọc
Chẳng phải như đào trần, lý tục; chẳng phải như trúc cỗi, mai gầy
Cẩu kỷ phòng tăng khó tránh; mẫu đơn đất Lạc nào bì
Giậu Đào lệnh cúc sao ví được; vườn Linh quân lan sá kể gì
Ấy là giống sen giếng ngọc ở đầu núi Thái Hoa vậy!...
~Khuyết Danh~
PHẠM-SƯ-MẠNH
Thế kỷ 14
Tức Phạm-Độ, sau được vua đổi tên cho là
Phạm-Sư-Manh, quê Hiệp-Thạch, Hiệp-Sơn
Kim-Môn, Hải-Dương, học trò Chu-Văn-An,
đỗ Tiến-Sĩ, làm quan đời Trần, đi sứ sang Tầu
để tranh luận về địa giới cột đồng, dược cử
trông coi phòng thủ biên cương.
ĐỀ BÁO-THIÊN THÁP
(Tháp là một trong Đại-Nam tứ khí,
địa điểm hiện nay là Nhà thờ Lớn
ở Hà-Nội 題報天塔 鎮壓東西鞏帝畿, 巋然一塔獨巍巍。 山河不動擎天柱, 今古難磨立地錐。 風擺鐘鈴時應答, 星移燈燭夜光輝。 我來欲泚題名筆, 管領春江作硯池 范師孟 Âm Hán
Trấn áp đông tây củng đế kỳ
Khuy nhiên nhất tháp độc nguy nguy
Sơn hà bất động kình thiên bút
Kim cổ nam ma lập địa chùy
Phong bãi chung linh thời ứng đáp
Tinh di đăng chúc dạ quang huy
Ngã lai dục túy đề thi bút
Quản lãnh xuân giang tác nghiễn trì.
~Phạm-Sư-Mạnh~
(Thế kỷ XIV)
Dịch:
Trấn áp đông tây giữ đế kỳ
Một mình cao ngất tháp uy nghi
Chống trời cột trụ non sông vững
Sừng sững ngàn năm một đỉnh chùy
Chuông khánh gió đưa vang đối đáp
Đèn sao đêm đến rực quang huy
Đến đây những muốn nêu danh tính
Mài mực sông xuân viết ngẫu thi.
~Vô-Ngã Phạm-Khắc-Hàm~ ĐỀ HIỆP SƠN BẢO PHÚC NHAM
題峽山抱福巖
抱福洞天滄海頭,
茲因公暇得閒遊。
方壼圓嶠雲中出,
紫府清都水上浮。
宇宙奇觀暘谷日,
江山清氣白藤收。
題詩參問葛仙伯,
分我青山一半掊?
Đề Hiệp-Sơn Bảo-Phúc nham
Bão Phúc động thiên thương hải đầu,
Tư nhân công hạ đắc nhàn du.
Phương Hồ, Viên Kiệu vân trung xuất,
Tử Phủ, Thanh Đô thuỷ thượng phù.
Vũ trụ kỳ quan Dương Cốc nhật,
Giang sơn thanh khí Bạch Đằng thâu.
Đề thi tham vấn Cát Tiên bá,
Phân ngã thanh sơn nhất bán phầu?
~Phạm-Sư-Mạnh~
Dịch nghĩa:
Đề vách động Bảo-Phúc ở huyện Hiệp-Sơn
Động Bão Phúc ở đầu biển xanh,
Nhân rảnh việc công được đi chơi thong thả.
Núi Phương Hồ, Viên Kiệu, hiện ra trong mây,
Chốn Tử Phủ, Thanh Đô nổi trên mặt nước.
Kì quan của vũ trụ là mặt trời lên ở hang Dương Cốc,
Khí thiêng của núi sông đọng lại ở chốn Bạch Đằng.
Đề thơ ướm hỏi bác Cát Tiên,
Chia cho ta nửa dãy núi xanh này chăng?
CHI LĂNG ĐỘNG
支陵洞
千里巡邊殷鼓鼙,
藩城蠻寨一醯雞。
澗南澗北紅旗轉,
軍後軍前青兕啼。
漊瀨谷深於井底,
支陵關險與天齊。
臨風跋馬高回首,
禁闕岧嶢雲氣西。
Chi Lăng động
Thiên lý tuần biên ẩn cổ bề,
Phiên thành man trại nhất ê kê.
Giản nam giản bắc hồng kỳ chuyển,
Quân hậu quân tiền thanh huỷ đề.
Lâu Lại cốc thâm ư tỉnh để,
Chi Lăng quan hiểm dữ thiên tề.
Lâu phong bạt mã cao hồi thủ,
Cấm khuyết thiều nghiêu vân khí tê (tây).
~Phạm-Sư-Manh~
Dịch nghĩa:
Động Chi-Lăng
Đi nghìn dặm tuần tra biên giới, trống trận vang ầm,
Thành Phiên, trại Mán bé bằng con sâu.
Phía Nam, phía bắc giòng suối, cờ hồng lay động, Trước gió ghì cương ngựa, lên cao ngoảnh đầu nhìn,
Ải Chi Lăng hiểm bằng lên trời.
Hang Lâu Lại sâu hơn đáy giếng,
Đằng trước, đằng sau đội quân, trâu rừng rống vang.
Cửa khuyết cao chót vót ở tầng mây phía tây. Dịch thơ: Nổi trống tuần biên bước dặm ngàn, Xem tày trùng nhỏ khóm Phiên, Man. Quạt cờ đồng đội che đầu núi, Gầm thét ba quân kéo một đoàn. Lâu Lại hang sâu dò khó tới, Chi Lăng cửa hiểm vượt khôn toan. Ngựa dong trước gió nghiêng đầu ngắm, Cung khuyết mây đài lúc rợp tan. ~Đinh-Văn-Chấp~ ĐĂNG HOÀNG LÂU TẨU BÚT THỊ BẮC SỨ THỊ GIẢNG DƯ GIA TÂN 登黃樓走筆示北使侍講余嘉賓 青山疊疊圍彭城, 侵雲插漢青玉屏。 黃河滔滔浸坤軸, 跳波濺沫東南傾。 黃樓起出半天裡, 憑高一望三千里。 項王臺前落日紅, 冠軍塞上悲風起。 天荒地老古戰場, 千載英雄今已矣! 我家遠在交南頭, 手持玉節登黃樓。 摩挲石刻坡公字, 如今不負平生遊。 范師孟 Âm Hán Thanh sơn điệp điệp vi Bành Thành, Xâm vân sáp Hán thanh ngọc bình. Hoàng Hà thao thao tẩm khôn trục, Khiêu ba tiện mạt đông nam khuynh. Hoàng Lâu khởi xuất bán thiên lý, Bằng cao nhất vọng tam thiên lý. Hạng Vương đài tiền lạc nhật hồng, Quán Quân mộ thượng bi phong khởi. Thiên hoang địa lão cổ chiến trường, Thiên tải anh hùng kim dĩ dĩ! Ngã già viễn tại Giao Nam đầu, Thủ trì ngọc tiết đăng Hoàng Lâu. Ma sa thạch khắc Pha công tự, Như kim bất phụ bình sinh du. ~Phạm-Sư-Mạnh~ Dịch: LÊN HOÀNG LÂU VIẾT VỘI VẦN THƠ ĐƯA SỨ BẮC LÀ QUAN THỊ GIẢNG DƯ GIA TÂN Bành Thành núi chất non chồng, Lấn mây, tựa bức bình phong ngang trời. Hoàng Hà cuồn cuộn nước trôi, Thấm xuyên lòng đất, tung trời sóng xô. Lầu vàng ai dựng nhấp nhô, Suốt ba ngàn dặm cơ hồ nhìn thông. Đài Hạng Vương bóng chiều hồng, Mộ Quán Quân trận gió lồng bi thương. Hoang vu sao, cổ chiến trường, Anh hùng xưa khuất nay còn thấy đâu! Nhà ta ở Giao Nam đầu, Nay ta cầm ngọc tiết lên lầu ngóng trông. Tay xoa nét chữ Pha Ông, Chuyến đi quả chẳng phụ lòng ước mơ. ~Đào-Thái-Tôn~ Ô GIANG HẠNG VŨ MIẾU 烏江項羽廟 說著興亡事莫窮, 一杯聊為酹重曈。 殺降背約千年恨, 爭霸圖王一旦空。 雲暗江東愁父老, 月明垓下泣英雄。 幾多蓋世拔山力, 盡在閒華野草中。 范師孟 Âm Hán Thuyết trước hưng vong sự mạc cùng, Nhất bôi liêu vị lỗi Trùng đồng. Sát hàng bội ước thiên niên hận, Tranh bá đồ vương nhất đán không. Vân ám Giang Đông sầu phụ lão, Nguyệt minh Cai Hạ khấp anh hùng. Kỷ đa cái thế bạt sơn lực, Tận tại nhàn hoa dã thảo trung. ~Phạm-Sư-Manh~ Dịch: Miếu Hạng Vũ ở Ô Giang Bàn tới hưng vong việc chẳng cùng, Rượu thơm hãy tưới viếng Trùng đồng. Giết hàng, bội ước, ngàn năm hận, Cướp bá, đồ vương, một sớm không. Mây khuất Giang Đông, sầu phụ lão, Trăng soi Cai Hạ, khóc anh hùng. "Bạt núi trùm đời" bao chí lực, Vùi trong cỏ dại với hoa hồng. ~Đào-Phương-Bình~ DU PHẬT TÍCH SƠN NGẪU ĐỀ 遊佛跡山偶題 吟鞭詞客上岧嶢, 踏遍招提絕世囂。 松浪翻風寒洞口, 原神拖帛勒山腰。 群峰煙霧三神島, 萬竅笙鏞九奏韶。 徐氏怪奇休說著, 徘徊吟罷又吹簫。 范師孟 Âm Hán Ngâm tiên từ khách thượng thiều nghiêu, Đạp biến chiêu đề tuyệt thế hiêu. Tùng lãng phiên phong hàn động khẩu, Nguyên thần tha bạch lặc sơn yêu. Quần phong yên vụ Tam Thần đảo, Vạn khiếu sinh dung cửu tấu Thiều. Từ thị quái kỳ hưu thuyết trước, Bồi hồi ngâm bãi hựu xuy tiêu. ~Phạm-Sư-Mạnh~ Dịch: Chơi núi Phật Tích ngẫu nhiên đề Ngâm nga thẳng tếch đỉnh cheo leo, Cảnh bụt lên thăm, dứt mọi điều. Lụa vắt sườn non, thần dúi đặt, Gió lùa cửa động, sóng thông reo. Bầy non mây phủ, Tam Thần đảo, Vạn hốc chuông rung chín khúc Thiều. Chuyện lạ họ Tứ, thôi gác bỏ, Ngâm thơ xong lại thổi bài tiêu. ~Đào-Phương-Bình~ QÚA TIÊU TƯƠNG 過瀟湘 湘水北連青草湖, 年年楓葉映菰蒲。 帝妃一去殿門閉, 紅日下山啼鷓鴣。 范師孟 Âm Hán Tương thuỷ bắc Liên Thanh thảo hồ, Niên niên phong diệp ánh cô bồ. Đế phi nhất khứ điện môn kế, Hồng nhật hạ sơn đề giá cô. ~Phạm-Sư-Mạnh~ Dịch: Qua Tiêu Tương Tiêu Tương, Thanh Thảo giáp đôi bờ, Thu tới phong soi sóng cỏ bồ. Đế phi khuất bóng, cung không mở, Ác lặn, vang non tiếng giá cô. ~Đào-Phương-Bình~ TIỄN VŨ VĂN ĐỒNG NHẤT DỤ CHIÊM THÀNH QUỐC 餞宇文同一諭占城國 皇詔九重頒北闕, 使臣萬里極南溟。 觀風錫邁梵文域, 擁節闍槃佛誓城。 象騎蛇船霑聖化, 鯨波颶霧仰文明。 好將寸舌安危徼, 早駕回鞭覲玉京。 Âm Hán Hoàng chiếu cửu trùng ban bắc khuyết, Sứ thần vạn lý cực nam minh. Quan phong Tích Mại Phạn văn vực, Ủng tiết Đồ Bàn Phật Thệ thành. Tượng kỵ xà thuyền chiêm thánh hoá, Kình ba cụ vụ ngưỡng văn minh. Hảo tương thốn thiệt an nguy kiếu, Tảo giá hồi tiên cận Ngọc Kinh. Tiễn Vũ Văn Đồng đi dụ Chiêm Thành Thánh hoàng ban chiều từ phương bắc, Sứ giả lên đường xuống biển nam. Phong hoá thân xem miền Tích Mại, Tiết mao cờ hướng đất Đồ Bàn. Văn minh soi tới nơi kình, bão, Thánh giáo đưa vào chốn rắn, voi. Cõi hiểm chiêu an nhờ tấc lưỡi, Về chầu điện ngọc, sớm lên yên. ~Đào-Phương-Bình~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.12.2013 07:54:13 bởi Anh Nguyên >
CHU-VĂN-AN
(1292-1370)
Tức Chu-An. Là nhà giáo, thầy thuốc,
đại quan nhà Trần.
ĐỀ DƯƠNG CÔNG THỦY
HOA ĐỉNH
Nguyên văn chữ Hán:
題揚公水華亭
上人遠公裔,
朗悟有高識。
屢結白社盟,
為愛青蓮色。
方塘貯碧漪,
環以芙蕖植。
上構水華亭,
意與蓮比德。
好風時一來,
滿座聞芳馥。
隱幾觀眾妙,
悠然心自得。
不知清淨身,
已在荷華側。
明月相友朋,
閒雲同偃息。
渴傾珠露飲,
飢摘玉房食。
回頭謝世紛,
逍遙遊八極。
Phiên âm Hán Việt:
Thượng nhân Viễn công duệ,
Lãng ngộ hữu cao thức.
Lũ kết Bạch Xã minh,
Vị ái thanh liên sắc.
Phương đường trữ bích y,
Hoàn dĩ phù cừ thực.
Thượng cấu Thủy Hoa đình,
Ý dữ liên tỷ đức.
Hảo phong thời nhất lai,
Mãn tọa văn phương phức.
Ẩn kỷ quan chúng diệu,
Du nhiên tâm tự đắc.
Bất tri thanh tĩnh thân,
Dĩ tại hà hoa trắc.
Minh nguyệt tương hữu bằng,
Nhàn vân đồng yển tức.
Khát khuynh châu lộ ẩm,
Cơ trích ngọc phòng thực.
Hồi đầu tạ thế phân,
Tiêu dao du bát cực.
Dịch nghĩa:
Thượng nhân là dòng dõi của Viễn công,
Hiểu biết một cách sáng suốt, có kiến thức cao.
Luôn kết lời minh ước ở Bạch Xã,
Vì yêu sắc sen xanh.
Ao vuông chứa đựng nước trong biếc,
Xung quanh trồng toàn sen.
Trên ao dựng ngôi đình Thủy Hoa,
Ý chừng muốn sánh đức với sen.
Gió mát thường xuyên thổi tới,
Làm thơm ngát khắp ngôi đình.
Tựa bên ghế để quan sát mọi điều huyền diệu,
Lâng lâng cảm thấy thoải mái trong lòng.
Chẳng biết tấm thân thanh tịnh,
Đã ở bên cạnh đóa hoa sen.
Trăng sáng cùng làm bạn với mình,
Mây nhàn cùng ta nghỉ ngơi.
Khát thì nghiêng rót những hạt sương châu để uống,
Đói thì lấy những chùm quả bằng ngọc mà ăn.
Ngoảnh lại quên hết mọi rắc rối ở đời,
Để nhởn nhơ vui chơi tám cõi.
~Chu-Văn-An~
TRƯƠNG-HÁN-SIÊU
(...? -1354)
Người Phúc-Thành, Yên-Ninh, Trường-Yên
(phường Phúc-Thành, Phúc-Am, Yên-Khánh,
Ninh-Bình). Nhiều công trạng trong 2 cuộc
kháng chiến chống giặc Nguyên . Một danh sĩ
nổi tiếng đời Trần, được thờ tại Văn Miếu.
BẠCH-ĐẰNG GIANG PHÚ
Văn Hán:
白藤江賦
客有:
掛汗漫之風帆,
拾浩蕩之海月。
朝嘎舷兮沅湘,
暮幽探兮禹穴。
九江五湖,
三吳百粵。
人跡所至,
靡不經閱。
胸吞雲夢者數百而,
四方壯志猶闕如也。
乃舉楫兮中流,
縱子長之遠遊。
涉大灘口,
溯東潮頭。
抵白藤江,
是泛是浮。
接鯨波於無際,
蘸繇尾之相繆。
水天一色,
風景三秋。
渚获岸蘆,
瑟瑟颼颼。
折戟沉江,
枯骨盈丘。
慘然不樂,
佇立凝眸。
念豪傑之已往,
嘆蹤跡之空留。
江邊父老,
謂我何求。
或扶黎杖,
或棹孤舟。
揖余而言曰:
此重興二聖擒烏馬兒之戰地,
與昔時吳氏破劉弘操之故洲也。
當期:
舳艫千里,
旌旗旖旎。
貔貅六軍,
兵刃蜂起。
雌雄未決,
南北對壘。
日月昏兮無光,
天地凜兮將毀。
彼:
必烈之勢強,
劉龔之計詭。
自謂投鞭,
可掃南紀。
既而:
皇天助順,
凶徒披靡。
孟德赤壁之師談笑飛灰,
符堅合淝之陣須臾送死。
至今江流,
終不雪恥。
再造之功,
千古稱美。
雖然:
自有宇宙,
故有江山。
信天塹之設險,
賴人傑以奠安。
孟津之會鷹揚箬呂,
濰水之戰國士如韓。
惟此江之大捷,
猶大王之賊閒。
英風可想,
口碑不刊。
懷古人兮隕涕,
臨江流兮厚顏。
行且歌曰:
大江兮滾滾,
洪濤巨浪兮朝宗無盡。
仁人兮聞名,
匪人兮俱泯。
客從而賡歌曰:
二聖兮並明,
就此江兮洗甲兵。
胡塵不敢動兮,千古昇平。
信知:不在關河之險兮,
惟在懿德之莫京。
張漢超
Âm Việt:
Bạch-Đằng giang phú
Khách[1] hữu:
Quải hạn mạn chi phong phàm,
Thập hạo đãng chi hải nguyệt.
Triêu dát huyền hề[2] Nguyên, Tương[3],
Mộ u thám hề Vũ Huyệt[4].
Cửu Giang[5], Ngũ Hồ[6],
Tam Ngô[7], Bách Việt[8].
Nhân tích sở chí,
Mị bất kinh duyệt.
Hung thôn Vân Mộng[9] giả sổ bách nhi,
Tứ phương tráng chí do khuyết như dã.
Nãi cử tiếp hề trung lưu,
Túng Tử Trường[10] chi viễn du.
Thiệp Đại Than khẩu,
Tố Đông Triều đầu.
Để Bạch Đằng giang,
Thị phiếm thị phù.
Tiếp kình ba ư vô tế,
Trám diêu vĩ chi tương mâu.
Thuỷ thiên nhất sắc,
Phong cảnh tam thu.
Chử địch ngạn lô,
Sắt sắt sâu sâu.
Chiết kích trầm giang,
Khô cốt doanh khâu.
Thảm nhiên bất lạc,
Trữ lập ngưng mâu.
Niệm hào kiệt chi dĩ vãng,
Thán tung tích chi không lưu.
Giang biên phụ lão,
Vị ngã hà cầu.
Hoặc phù lê trượng,
Hoặc trạo cô châu.
Ấp dư nhi ngôn viết:
"Thử Trùng Hưng[11] nhị thánh[12] cầm Ô Mã Nhi[13] chi chiến địa,
Dữ tích thời Ngô thị[14] phá Lưu Hoằng Thao[15] chi cố châu dã".
Đương kỳ:
Trục lô thiên lý,
Tinh kỳ ỷ nỉ.
Tỳ hưu lục quân,
Binh nhẫn phong khỉ.
Thư hùng vị quyết,
Nam Bắc đối luỹ.
Nhật nguyệt hôn hề vô quang,
Thiên địa lẫm hề tương huỷ.
Bỉ:
Tất Liệt[16] chi thế cường,
Lưu Cung[17] chi kế quỷ.
Tự vị đầu tiên,
Khả tảo Nam kỷ.
Ký nhi:
Hoàng thiên trợ thuận,
Hung đồ phi mỵ.
Mạnh Đức Xích Bích[18] chi sư đàm tiếu phi hôi,
Bồ Kiên Hợp Phì[19] chi trận tu du tống tử.
Chí kim giang lưu,
Chung bất tuyết sỉ.
Tái bạo chi công,
Thiên cổ xưng mỹ.
Tuy nhiên:
Tự hữu vũ trụ,
Cố hữu giang san.
Tín thiên tạm chi thiết hiểm,
Lại nhân kiệt dĩ điện an.
Mạnh Tân chi hội ưng dương nhược Lã[20],
Duy Thuỷ chi chiến quốc sĩ như Hàn[21].
Duy thử giang chi đại tiệp,
Do đại vương chi tặc nhàn.
Anh phong khả tưởng,
Khẩu bi bất san.
Hoài cổ nhân hề vẫn thế,
Lâm giang lưu hề hậu nhan.
Hành thả ca viết:
"Đại giang hề cổn cổn,
Hồng đào cự lãng hề triều tông vô tận.
Nhân nhân hề văn danh,
Phỉ nhân hề câu dẫn".
Khách tòng nhi canh ca viết:
"Nhị thánh hề tịnh minh,
Tựu thử giang hề tẩy giáp binh.
Hồ trần bất cảm động hề, thiên cổ thăng bình.
Tín tri: bất tại quan hà chi hiểm hề,
Duy tại ý đức chi mạc kinh".
~Trương-Hán-Siêu~
Dịch thơ:
Bài phú Sông Bạch-Đằng
Đương khi ấy:
Thuyền tàu muôn đội, tinh kỳ phấp phới
Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói
Trận đánh được thua chửa phân
Chiến lũy bắc nam chống đối
ánh nhật nguyệt chừ phải mờ
Bầu trời đất chừ sắp đổi
Kìa: Tất Liệt thế cùng, Lưu Cung chước đốt
Những tưởng gieo roi một lần
Quét sạch Nam bang bốn cõi
Thế nhưng:
Trời cũng chiều người
Hung đồ hết lối!
Khác nào khi xưa:
Trận Xích Bích quân Tào Tháo tan tác tro bay
Trận Hợp Phì quân Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi
Đến nay nước sông tuy chảy hoài
Mà nhục quân thù khôn rửa nổi!
Sông Đằng một giải dài ghê
Sóng hồng cuồn cuộn tuôn về bể Đông
Những người bất nghĩa tử vong
Nghìn xưa chỉ có anh hùng lưu danh
Giặc tan muôn thuở thái bình
Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao.
~Trương-Hán-Siêu~
(Bùi-Văn-Nguyên dịch?)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 27.12.2010 07:10:10 bởi Anh Nguyên >
BÙI-TÔNG-QUÁN
Sinh thời Trần-Nghệ-Tông (1321-1394)
hiệu Thủy-Hiên, làm quan thanh liêm, sau
về mở trường day học ở quê nhà, có tài thi
ca từ phú tình tứ cao diệu.
GIANG THÔN THU VỌNG
江 村秋望
拂衣獨自立江阡,
秋色誰將到眼邊。
旅雁行行過別浦,
客帆點點落晴天。
溪頭佛寺依紅葉,
竹 外人家隔淡煙。
日暮誰知凝佇處,
綠雲暗野看豐年。
Phất y độc tự lập giang thiên,
Thu sắc thùy tương đáo nhãn biên.
Lữ nhạn hàng hàng qua biệt phố,
Khách phàm điểm điểm lạc tình thiên.
Khê đầu phật tự y hồng diệp,
Trúc ngoại nhân gia cách đạm yên.
Nhật mộ thùy tri nhưng trữ xứ.
Lục vân ám dã khán phong niên.
~Bùi-Tông-Quán~
Bản dịch:
Khoác áo ven sông đứng một mình
Màu thu ai nhuộm cứ mông mênh?
Nhạn rủ rê bầy qua bến lạ
Buồm xa thấp thoáng giữa thiên thanh
Bờ khe chùa nọ lùm cây úa
Giậu trúc nhà kia ngọn khói quành
Chiều muộn ngắm trông ai có thấy
Lúa vờn mây biếc ngập đồng xanh
ĐỖ-TỬ-VY
Sinh thời Trần-Nghệ-Tông, tính cương trực,
khí khái, hết lòng chăm lo việc nước.
QUÁ VIỆT TỈNH CƯƠNG
(Cảm khái truyện Việt-Vương Triệu
Quang-Phục và Lý-Phật-Tử xưa.)
Việt tỉnh thê lương thảo mộc thu,
Trích lưu sự khứ sử nhân sầu.
Bằng thùy mịch đắc tam niên ngãi,
Y ngã càn khôn nhất chuế vưu.
~Đỗ-Tử-Vy~
Bản dịch:
Qua gò Việt-Tỉnh
Việt tỉnh buồn thu cỏ một vùng,
Đâu còn việc vắng khách đau lòng.
Ba năm cây ngãi ai tìm được,
Thử chữa người thừa của hóa công.
TRẦN NGUYÊN ĐÁN 1326-1390
TIỂU VŨ
Tiểu vũ xuân sơn tế phi vi,
Xuất tụ vân thâm phiến phiến phi.
Chướng nhật mông man hôn tự hiểu,
Tùy phong tiêu sắt mật hoàn hy.
Mai hàm ngọc lạp truyền thiên tín,
Trúc bính lang trâm tiết địa ky (cơ).
Thụy khởi lư hương tàn kỷ độ,
Thôn ông vị bả nhất lê quy.
~Trần-Nguyên-Đán~
Dịch:
Mưa nhỏ
Mưa nhỏ núi xuân rơi lất phất
Mây giăng hang đá nhẹ nhàng bay
Mặt trời sớm tối trông mù mịt
Đàn sáo gió sương nghe lắt lay
Mai ngậm lược ngà trời ám hiệu
Trúc cài trâm ngọc đất sum vầy
Mấy lần tỉnh giấc lò hương tắt
Ông lão về thôn...ruộng chửa cày.
~Thiềng-Đức~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.11.2013 20:58:05 bởi Anh Nguyên >
TRẦN-KHÁNH-DƯ
(?-1339)
BÁN THAN
Một gánh kiền khôn quẩy xuống ngàn,
Hỏi chi bán đấy? Gửi rằng than.
Ít nhiều miễn được đồng tiền tốt,
Hơn thiệt nào bao gốc củi tàn.
Ở với lửa hương cho vẹn kiếp,
Thử xem sắt đá có bền gan!
Nghĩ mình nhem nhuốc toan nghề khác,
Nhưng lẽ trời kia lắm kẻ hàn.
~Trần-Khánh-Dư~
LÊ-CẢNH-TUÂN
Cuối đời Trần
Quê Mộ-Trạch, Đường-An, Hải-Dương,
sống cuối đời Trần, qua đời Hồ và đầu thời
Minh thuộc, đậu cử nhân, viết thư khuyên bạn
không cộng tác với quân Minh, bị bắt giải về
Yên Kinh, sống trọng ngục được sáu năm thì
bị bệnh mà chết.
NGUYÊN NHẬT
元日
旅館客仍在,
去年春復來。
歸 期何日是?
老盡故鄉梅。
Lữ quán khách nhưng tại
Khứ niên xuân phục lai
Quy kỳ hà nhật thị,
Lão tận cố hương mai.
~Lê-Cảnh-Tuân~
Dịch:
Ngày đầu năm
Nương thân nơi đất khách
Xuân năm ngoái lại về
Ngày nào quay trở lại
Quê nhà mai đã già
~Đinh-Văn-Chấp~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.12.2013 12:56:00 bởi Anh Nguyên >
HỒ-QUÝ-LY
(1336-1407)
Ở làng Bào-Đột (Quỳnh-Lôi), Quỳnh-Lưu,
Nghệ-An, đại quan nhà Trần, rồi tiếm ngôi
nhà Trần, lên làm vua, nguyên họ Hồ là dòng
dõi nhà Ngu bên Tàu, nên đổi tên nước là Đại-
Ngu, dùng chữ Nôm, in giấy bạc, chỉnh đốn
quân đội, mở mang y tế, tích trữ ương thực,
nhưng chưa được bao lâu đã bị quân Minh
sang xâm lược, thất thế cha con bị bắt đem
về Kim-Lăng.
CẢM HOÀI
Văn Hán:
感懷
更改多端死復生,
悠悠鄉里不勝情。
南關迢遞應頭白,
北館淹留覺夢驚。
相國才難慚李泌,
遷都計拙哭盤庚。
金歐見缺無由合,
待價須知玉匪輕。
Âm Việt:
Canh cải đa đoan tử phục sinh,
Du du hương lý bất thăng tình.
Nam quan điều đệ ưng đầu bạch,
Bắc quán yêm lưu giác mộng kinh.
Tướng quốc tài nan tàm Lý Bật,
Thiên đô kế chuyết khốc Bàn Canh.
Kim âu kiến khuyết vô do hợp,
Đãi giá tu tri ngọc phỉ khinh.
~Hồ-Qúy-Ly~
Nghĩa:
Lắm sự đổi thay, tưởng chết mà lại sống,
Quê hương mờ mịt gợi dậy biết bao tình.
Ải Nam Quan xa xôi mái đầu bạc là phải,
Nơi quán Bắc lâu ngày, tỉnh mộng thấy kinh sợ.
Cứu nước, tài hèn, thẹn với Lý Bật,
Dời đô, kế vụng, khóc chuyện Bàn Canh.
Bình vàng bị mẻ, biết hàn gắn làm sao,
Nên biết ngọc còn đợi giá, chứ không phải
bị xem rẻ đâu.
TỨ THĂNG HOA LỘ TUYÊN
PHỦ SỨ NGUYỄN NGẠN QUANG
Văn Hán:
賜升華路宣撫使阮彥光
邊郡承宣壯志酬,
雄藩節制有微猷。
青松保爾歲寒節,
白髮寬予西顧懮。
訓飭兵農皆就緒,
解停鎮戍是何秋。
勤勞莫謂無知者,
四目原非蔽冕旒。
Âm Việt:
Tứ Thăng Hoa lộ tuyên phủ sứ
Nguyễn Ngạn Quang
Biên quận Thừa tuyên tráng chí thù,
Hùng phiên tiết chế hữu huy du.
Thanh tùng bảo nhĩ tuế hàn tiết,
Bạch phát khoan dư tây cố ưu.
Huấn sức binh nông giai tựu tự,
Giải đình trấn thú thị hà thu?
Cần lao mạc vị vô tri giả,
Tứ mục nguyên phi tế miện lưu!
~Hồ-Qúy-Ly~
Nghĩa:
Làm Thừa tuyên một quận sát biên giới, chí lớn được thực hiện,
Cai quản một phiên trấn mạnh, phải có cơ mưu mới làm nổi.
Hãy giữ tiết tháo của ngươi như cây tùng xanh mùa rét,
Để mái tóc bạc của ta đỡ lo lắng về miền tây.
Luyện tập quân lính, chấn chỉnh nghề nông là công việc hàng đầu,
Tới năm nào sẽ bỏ được chuyện trấn thú?
Chớ cho rằng mình cần cù vất vả mà không ai biết đến,
Giải mũ của nhà vua vốn không che được tầm mắt nhìn ra bốn phương.
ĐÁP BẮC NHÂN VẤN
AN NAM PHONG TỤC
Văn Hán:
答北人問安南風俗
欲問安南事,
安南風俗淳。
衣冠唐制度,
禮樂漢君臣。
玉甕開新酒,
金刀斫細鱗。
年年二三月,
桃李一般春。
Âm Việt:
Đáp Bắc nhân vấn An Nam phong tục
Dục vấn An Nam sự,
An Nam phong tục thuần.
Y quan Đường chế độ,
Lễ nhạc Hán quân thần.
Ngọc ủng khai tân tửu,
Kim đao chước tế lân.
Niên niên nhị tam nguyệt,
Đào lý nhất ban xuân.
~Hồ-Qúy-Ly~
Nghĩa:
Đáp người phương Bắc hỏi
Phong tục ở An-Nam
Muốn hỏi về chuyện nước An Nam ư?
Nước An Nam phong tục vốn thần hậu.
Áo mũ không khác chế độ nhà Đường,
Lễ nhạc tương tự vua quan nhà Hán.
Bình ngọc rót rượu mới cất ngát thơm,
Dao vàng mổ cá ngon nhỏ vảy.
Hàng năm cứ độ tháng hai tháng ba,
Đào, mận đều cùng xuân như nhau cả.
NGUYỄN-PHI-KHANH
1356-1429
Quê Chi-Ngại, Phương-Sơn (Chí-Linh, Hải-
Hưng), gia sư nhà Trần-Nguyên-Đán, sau
làm rể, xuất thân bình dân nên không được
làm quan, đến đời Hồ-Quý-Ly mới được
trọng dung, cùng nhiều người khác bị quân
Minh bắt đem về Tầu và chết ở đó.
THÔN CŨ
村居
松筠三徑在
歲 晚薄言歸
把酒看秋色
攜筇步夕暉
雲空山月出
天闊塞鴻飛
忽聽昏鐘報
呼童掩竹扉
阮飛卿
Tùng quân tam kính tại
Tuế vãn bạc ngôn quy
Bả tửu khan thu sắc
Huề cùng bộ tịch huy
Vân không sơn nguyệt xuất
Thiên khoát tái hồng phi
Hốt thính hôn chung báo
Hô đồng yểm trúc phi
~Nguyễn-Phi-Khanh~
Dịch:
Ở trong xóm
Tùng quân ba dãy đó
Năm cuối nhắc gì quê
Thu sắc nâng bầu ngắm
Trời chiều chống gậy đi
Mây cao trăng mới hé
Trời rộng nhạn bay về
Bỗng nghe chuông chiều gióng
Gọi trẻ cài phên tre
~Hoàng-Khôi~
THU DẠ
秋夜
新愁舊恨撥 難平
南北情懷夢亦驚
月色無人更無籟
秋來夜夜總關情
阮飛卿
Tân sầu cựu hận bát nan bình
Nam bắc tình hoài mộng diệc kinh
Nguyệt sắc vô nhân cánh vô lại
Thu lai dạ dạ tổng quan tình
~Nguyễn-Phi-Khanh~
Dịch:
Đêm thu
Buồn này buồn trước rứt không đành
Mộng mị đâu đâu cũng giật mình
Trăng sáng không người không tiếng động
Thu về tối tối ngẩn ngơ tình
~Hoàng-Khôi~
ĐỀ TIÊN-DU TỰ
題仙遊寺
天德山 河古帝都
名藍形勝小方壺
人間何處非塵跡
虛訪神仙事己無
阮飛卿
Thiên Đức san hà cổ đế đô
Danh lam hình thắng tiểu phương hồ
Nhân gian hà xứ phi trần tích
Hư phóng thần tiên sự dĩ vô
~Nguyễn-Phi-Khanh~
Dịch:
Đề nơi chùa Tiên-Du
Núi sông Thiên Đức tựa đế đô
Cảnh ngỡ bồng lai đẹp mơ hồ
Phảng phất bụi trần vương đây đó
Thần tiên ai dệt truyện vu vơ
~Nguyễn-Tâm-Hàn~
ĐÔNG NGẠN XUÂN MỘNG
東岸春夢
瀘水東 邊瀘岸村
翩翩紅雨暗前門
耳邊新送春歸去
萬綠叢中杜宇魂
阮飛卿
Lô thuỷ đông biên Lô ngạn thôn
Phiên phiên hồng vũ ám tiền môn
Nhĩ biên tân tống xuân quy khứ
Vạn lục tùng trung đỗ vũ hồn
~Nguyễn-Phi-Khanh~
Dịch:
Mộng xuân nơi bờ Đông
Bờ đông Lô Thủy cảnh thôn Lô
Lất phất mưa bay lối cổng mờ
Văng vẳng chừng mang hồn xuân lại
Giữa rừng tiếng cuốc vọng vu vơ
~Nguyễn-Tâm-Hàn~
ĐẠI THÁNH HỰU QUỐC TỰ TẢO KHỞI
大聖佑國寺早起
僊 家宮闕近蓬萊
耳畔鈞天夢易回
睡起春朝無了事
東風亭院看花開
阮飛卿
Tiên gia cung khuyết tận bồng lai
Nhĩ bạn quân thiên mộng dị hồi
Thụy khởi xuân triều vô liễu sự
Đông phong đình viện khán hoa khai
~Nguyễn-Phi-Khanh~
Dịch:
Thức dậy nơi chùa Đại-Thánh Hựu-Quốc
Chùa cao chót vót cạnh bồng lai
Nghe nói cảnh tiên mộng ước hoài
Trở dậy sáng xuân lòng thanh thản
Gió đông đùa bỡn cánh hoa tươi
~Nguyễn-Tâm-Hàn~
CHU TRUNG NGẪU THÀNH
舟中偶成
蕭蕭旅 鬢傷春暮
耿耿孤懷怯瘴氛
俗累不關清興足
看山看水又看雲
阮飛卿
Tiêu tiêu lữ mấn thương xuân mộ
Cảnh cảnh cô hoài khiếp chướng phần
Tục luỵ bất quan thanh hứng túc
Khan sơn khan thuỷ hựu khan vân
~Nguyễn-Phi-Khanh~
Dịch:
Ngẫu hứng làm trên thuyền
Xa nhà lòng tủi buổi xuân tàn
Một bóng tâm sầu, dạ héo hon
Ngán ngẩm cảnh đời đành phó mặc
Trông non, nhìn nước, ngắm mây ngàn
~Nguyễn-Tâm-Hàn~
HOÀNG-GIANG DẠ Ũ
黃江夜雨
蓼浦三 秋雨
筠篷半夜聲
孤燈明又滅
湖海十年情
阮飛卿
Liệu phố tam thu vũ
Quân bồng bán dạ thanh
Cô đăng minh hựu diệt
Hồ hải thập niên tình
~Nguyễn-Phi-Khanh~
Dịch:
Mưa Đêm Bến Hoàng Giang
Dầm dề Phố Liệu mưa ba tháng
Đêm gió tre khua tiếng xạc xào
Khêu ngọn đèn lên rồi vụt tắt
Mười năm trôi nổi ngỡ chiêm bao
~Nguyễn-Tâm-Hàn~
Mưa thu rả rích bên sông.
Tiếng rơi thánh thót mái bồng đêm khuya.
Ánh đèn mờ tỏ canh tà.
Tấm lòng hồ hải chốc đà mười năm
~Chung-Kim-Khánh~
BỒI BĂNG HỒ TƯỚNG CÔNG
DU XUÂN GIANG
三 春媚煙景
一櫂擊滄浪
習氣俱湖海
憂心只廟堂
清詩魚鳥共
佳句芷蘭香
興盡中流返
山間日己黃
阮 飛卿
Tam xuân mị yên cảnh
Nhất trạo kích thương lương
Tập khí câu hồ hải
Ưu tâm chỉ miếu đường
Thanh thi ngư điểu cộng
Giai cú chỉ lan hương
Hứng tận trung lưu phản
Sơn gian nhật dĩ hoàng
~Nguyễn-Phi-Khanh~
Dịch:
Theo Băng-Hồ tướng công du xuân trên sông
Tháng ba mây khói phủ ven sông
Thả mái chèo khua nước thuận dòng
Chí cả lâng lâng niềm hồ hải
Miếu đường tâm trí vẫn vời trông
Múa bút dệt vần thơ tức cảnh
Lời hay, Ý đẹp đượm hương nồng
Quay chèo trở lại khi tàn hứng
Sườn núi ánh vàng toả mênh mông
~Nguyễn-Tâm-Hàn~
HOÁ-THÀNH THẦN CHUNG
化城晨鐘
遠遠從 僧寺
鼕鼕落客篷
潮生天地曉
月白又江空
阮飛卿
Viễn viễn tòng tăng tự
Đông đông lạc khách bồng
Trào sinh thiên địa hiểu
Nguyệt bạch hựu giang không
~Nguyễn-Phi-Khanh~
Dịch:
Chuông Sớm Hoá Thành
Xa xa vọng tiếng chuông đưa
Khách ngơ ngẩn ngỡ ghé bờ bồng lai
Ánh mờ nhẹ tỏa khung trời
Sông in bóng nguyệt chơi vơi giữa dòng
~Nguyễn-Tâm-Hàn~
Xa xa chuông vọng chùa Thày,
Ngẩn ngơ khách tưởng chốn này Bồng-Lai.
Mờ mờ trời đất sớm mai,
Vầng trăng nhợt nhạt nằm dài trên sông.
~Anh-Nguyên~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.01.2011 07:23:32 bởi Anh Nguyên >
BÙI-TÔNG-HOÀN
GIANG THÔN THU VỌNG
Phi y độc tự lập giang thiên,
Thu sắc thùy tương đáo nhãn biên.
Lữ nhạn hàng hàng qua biệt phố,
Khách phàm điểm điểm lạc tình thiên.
Khê đầu Phật tự y hồng diệp,
Trúc ngoại nhân gia cách đạm yên.
Nhật mộ thùy tri ngưng trữ xứ,
Lục vân ám dã khán phong niên.
~Bùi-Tông-Hoàn~
Dịch:
Một mình khoác áo đứng ven sông,
Ai kéo mùa thu sát mắt trông
Nhạn lướt, hàng hàng, qua bến nọ,
Buồm đi, chấm chấm, giữa bầu không.
Bên khe chùa dựa lùm cây đỏ,
Sau trúc, nhà xen đám khói lồng.
Chiều muộn ai hay còn mãi ngắm,
Mây xanh, ngờ thấy lúa chan đồng.
~Huệ-Chi~
VŨ HẬU TÂN CƯ TỨC SỰ
Liễm vũ phiên tình tựu kỷ hồi,
Kim triêu hoàn thị xuất mòn lai.
Thảo sinh khúc kính song my hợp,
Thủy trướng phương trì nhất nhãn khai.
Bất tảo đình nê hòa lạc diệp,
Dục khuynh thế thạch hữu niêm đài.
Nhàn trung cảnh thú hồn như hứa,
Thuyết dữ bàng nhân mạc lãng sai.
~Bùi-Tông-Hoàn~
Dịch:
Sau cơn mưa tức cảnh đề chỗ ở mới
Hửng nắng tan mưa mấy lượt rồi,
Sớm nay ra ngõ đứng nhìn chơi.
Đường cong cỏ mượt : đôi mày khép,
Nước đẫy ao vuông : một mắt soi.
Lá lẫn bùn lầy sân khó quét,
Thềm trơn rêu mốc, đá toan dời.
Hồn nhiên trong cảnh nhàn như vậy,
Bác láng giềng xin chớ vội cười.
~Huệ-Chi~
LÊ-THỊ-Ỷ-LAN
SẮC KHÔNG
Sắc thị không, không tức sắc,
Không thị sắc, sắc tức không.
Sắc, không câu bất quản,
Phương đắc khế chân tông.
~Lê-Thị-Ỷ-Lan~
Dịch:
SẮC VÀ KHÔNG
Sắc là không, không tức sắc,
Không là sắc, sắc tức không.
Sắc không đều chăng quản,
Mới khế hợp chân tông.
~Hoa-Bằng~
ĐẶNG-DUNG
(1373 -1414)
Thiên-Lộc, Nghệ-An. Danh tướng
Hậu Trần, bị Trương-Phụ giết
CẢM HOÀI
Nguyên văn chữ Hán:
感懷
世事悠悠奈老何,
無窮天地入酣歌。
時來屠釣成功昜,
運去英雄飲恨多。
致主有懷扶地軸,
洗兵無路挽天河。
國讎未報頭先白,
幾度龍泉戴月磨。
Phiên âm Hán Việt:
Thế sự du du nại lão hà?
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
Thời lai đồ điếu thành công dị,
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.
Trí chủ hữu hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
Kỷ độ Long Tuyền đái nguyệt ma.
Dịch nghĩa:
Việc đời dằng dặc mà ta đã già, biết làm thế nào?
Trời đất mênh mông đắm trong cuộc rượu hát ca.
Khi gặp thời, người làm nghề hàng thịt, kẻ câu cá cũng dễ thành công,
Lúc lỡ vận, bậc anh hùng đành phải nuốt hận nhiều.
Giúp chúa, những mong xoay trục đất lại,
Rửa vũ khí không có lối kéo tuột sông Ngân xuống.
Thù nước chưa trả được mà mái tóc đã bạc sớm,
Bao phen mang gươm báu mài dưới bóng trăng.
Dịch thơ:
Việc đời bối rối tuổi già vay,
Trời đất vô cùng một cuộc say.
Bần tiện gặp thời lên cũng dễ,
Anh hùng lờ bước ngẫm càng cay.
Vai khiêng trái đất mong phò chúa,
Giáp gột sông trời khó vạch mây.
Thù trả chưa xong đầu đã bạc,
Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày.
~Phan-Kế-Bính~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.01.2011 07:55:10 bởi Anh Nguyên >
VUA TRẦN-TRÙNG-QUANG, (?-1413) NGUYỄN-BIỂU
(?-1413) Ông Nguyễn Biểu người huyện La Sơn, Nghệ An, đỗ Tiến sĩ cuối đời Trần làm quan Ngự Sử, phò vua Hậu Trần Trùng Quang. Năm 1413, Ông đi sứ vào trại giặc nghị hòa.Khi đi, vua Trùng Quang có bài thơ tiễn Ông, Ông có bài đáp họa. Vào trại giặc, tướng Trương Phụ cho dọn Cỗ Đầu Người để thử đởm lược. Ông ung dung móc mắt nhắm rượu và khinh mạn làm thơ trước giặc. Trương Phụ cảm phục khí phách, cho Ông về. Sau, do lời sàm tấu, bèn sai lính đuổi theo bắt trói Ông rồi dùng tóc của Ông cột vào chân cầu bên bờ sông Lam, gần chùa Yên Quốc, nước lớn Ông bị chết ngộp. Dưới đây là 3 bài thơ:ThơTiễn Nguyễn Biểu Đi Sứ của vua Trùng Quang. Bài Thơ Họa và Thơ Cỗ Đầu Người của Ông. Ngoài ra, còn có 3 bài của người soạn là Nguyễn Minh Thanh để trải lòng kính cẩn với Ông.
TIỄN NGUYỄN BIỂU ĐI SỨ Mấy vần thơ cũ ngợi hoàng hoa(1)
Trịnh trọng rầy nhân dựng khúc ca
Chiếu phượng mấy hàng tơ cặn kẽ
Vó câu ngàn dặm tuyết xông pha
Tang bồng đã bấm lòng(2) khi trẻ
Khương quế(3) thêm cay tính tuổi già
Việc nước một mai công ngõ vẹn
Gác lân danh tiếng dõi lầu xa
~
Vua Trùng-Quang~
(1) Kinh Thi: bài thơ Hoàng Hoàng Giả Hoa, lời vua sai tôi thần đi Sứ
(2) quyết chí
(3) gừng & quế
BÀI THƠ HỌA (dâng vua Trùng Quang)
Tiếng ngọc từ vâng trước bệ hoa
Ngóng tai đồng vọng thuở thi(âu) ca
Đường mây vó ký lần lần trải
Ải tuyết cờ mao thức thức pha
Há một cung tên lồng chí trẻ
Bội mười vàng sắt đúc gan già
Hổ mình vả thiếu tài chuyên đối(1)
Dịch lộ(2) ba ngàn dám ngại xa.
~
Nguyễn-Biểu~
(1) tài đối đáp khi đi Sứ
(2) đường đi Sứ
NGUYỄN BIỂU ĐI SỨ
Nghiêng mình kính cẩn đấng tài hoa
Nguyễn Biểu anh hùng chính khí ca
Râu cọp vuốt chơi hòng thách thức
Hang hùm vào thử quyết xông pha
Tiền phương chống giặc thành phần trẻ
Phụng sứ giúp vua bổn phận già
Chí nguyện khải hoàn cho Tổ Quốc
Mặc tình nguy hiểm mặc đường xa...! ~Nguyễn-Minh-Thanh~ cẩn họa
CỖ ĐẦU NGƯỜI Ngọc thiện trân tu đã đủ mùi
Gia hào(1) thêm có cỗ đầu người
Nem công chả phượng còn thua béo
Thịt gấu gan lân hẳn kém tươi
Ca lối Lộc minh(2) so cũng một
Vật bày Thỏ thủ bội gấp mười
Kìa kìa ngon ngọt tày vai lợn
Tráng sĩ như Phàn(3) tiếng để đời
~
Nguyễn-Biểu~
(1) thức nhắm ngon
(2) bài thơ trong Kinh Thi tả việc vua đãi Sứ Giả
(3) Phàn Khoái, cận tướng của Lưu Bang, nhà Hán.
NGUYỄN BIỂU ĂN CỖ ĐẦU NGƯỜI La Sơn, Nghệ Tĩnh đất thơm mùi
Thế giới xưa nay chỉ một người
Ăn cỗ đầu lâu nghe ruột héo(1)
Giận quân xâm lược uất gan tươi
Luận lời đanh thép tài cao vợi
Thần thái ung dung đởm vẹn mười
Tướng giặc(2) kiêng dè trang dũng khí
Sông Lam(3) sóng vỗ tiếng muôn đời..!!
~Nguyễn-Minh-Thanh~ cẩn họa
(1) Vì ăn thịt người dân mình
(2) Trương Phụ, tướng nhà Minh xâm lược nước ta.
(3) Dòng sông chảy ngang qua quê hương Ông.
NGỰ SỬ NGUYỄN BIỂU
Gầy gầy mắt sáng tóc hoa râm
Cương trực kiên trung ánh nguyệt rằm
Trọng trách mệnh vua vào hổ huyệt
Thiết tha vận nước vượt sơn lâm
Giữa triều xin được làm thông sứ
Trước giặc(!) không quì tỏ quyết tâm
Sang sảng trang nghiêm trong đối đáp
Trải thân tuẫn quốc dưới cầu Lam(2)..!!
~Nguyễn-Minh-Thanh~ cẩn tác
(1) Trương Phụ
(2) Cầu bên bờ sông Lam Thiển ý: Lịch sử cổ kim, Đông Tây, anh hùng trận mạc, liệt nữ yên cương rất nhiều, rất nhiều...Duy, dũng khí gan liền tướng quân như ô. Nguyễn Biểu đã ung dung lẫm liệt ăn cỗ đầu người và còn làm thơ khinh mạn giặc dữ là vô tiền khoáng hậu trong lịch sử Việt Nam nói riêng và nhân loại nói chung..!! NMT, (GA, 19-6-2009)
SƯ CHÙA YÊN-QUỐC
CẦU SIÊU ĐỘ NGUYỄN-BIỂU Chói chói một vùng tuệ nhật, Đùn đùn mấy đóa từ ân. Tam giới soi hòa trên dưới, Thập phương trải khắp xa gần. Giải thoát lần lần nghiệp chướng, Quang khai chốn chốn mê tân Trần quốc xảy vừa mạt tạo(1), Sứ hoa (2) bỗng có trung thần. Vàng đúc lòng son một tấm, Sắt rèn tiết cứng mười phân. Trần kiếp vì đâu oan khổ, Phương hồn đến nỗi trầm luân! Tế độ dặn nhờ từ phiệt, Chân linh ngõ đượcc phúc thần.(3) ~
Sư chùa Yên-Quốc~
(1) cuối đời, cuối vận. (2) Nguyễn-Biểu. (3) danh nhân khi chết được thờ làm thần.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 31.01.2011 09:44:20 bởi Anh Nguyên >
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 6 bạn đọc.
Kiểu: