Dòng thơ cổ
DÒNG THƠ CỔ
……-1800 TS PHÁP THUẬN
(914-990)
Khi nhà Tiền Lê dựng nghiệp, Sư tham dự
đắc lực trù kế hoạch và định sách lược.
VẬN NƯỚC
Nguyên văn chữ Hán:
國祚
國祚如藤絡,
南天裏太平。
無為居殿閣,
處處息刀兵
Phiên âm:
QUỐC TỘ
Quốc tộ như đằng lạc,
Nam thiên lý thái bình.
Vô vi cư điện các,
Xứ xứ tức đao binh.
~TS Pháp-Thuận~
Dịch nghĩa:
Vận nước như dây mây leo quấn quýt,
Ở cõi trời Nam [mở ra] cảnh thái bình.
Vô vi ở nơi cung điện,
[Thì] khắp mọi nơi đều tắt hết đao binh.
Dịch thơ
Vận nước
Vận nước như mây quấn.
Trời Nam mở thái bình.
Vô vi trên điện các.
Xứ xứ hết đao binh.
(Khuyết danh)
ĐẠI SƯ KHUÔNG VIỆT
(933-1011)
Thế danh Ngô Chân Lưu, quê làng Cát Lợi
quận Thường Lạc. Dáng mạo khôi ngô, ý
chí lỗi lạc và tánh tình bình thản. Thọ giáo
Thiền sư Vân Phong ở chùa Khai Quốc, thấu
tột thiền yếu và đọc khắp các kinh điển.
Năm bốn mươi tuổi, danh vang khắp tùng lâm,
vua Đinh Tiên Hoàng mời vào cung hỏi đạo,
Vua phong chức Tăng thống. Năm sau, Vua
lại phong Khuông Việt đại sư.
Đến đời vua Lê Đại Hành, Sư càng được kính
trọng. Bao nhiêu việc binh, việc nước, Vua đều
mời Sư vào hỏi.
Năm 986, nhà Tống sai sứ Lý Giác sang nước ta,
vua Đại Hành sắc Sư ra đón tiếp sứ. Khi Lý Giác
về có để lại một bài thơ:
Hạnh ngộ minh thời tán thạnh du
Nhất thân lưỡng độ sứ Giao Châu
Đông đô tái biệt tâm vưu luyến
Nam Việt thiên trùng vọng vị hưu.
Mã đạp yên vân xuyên lãng thạch
Xa từ thanh chướng phiếm trường lưu
Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu
Khê đàm ba tịnh kiến thiềm thu.
Dịch:
May gặp minh quân giúp việc làm
Một mình hai lượt sứ miền Nam.
Mấy phen qua lại lòng thêm nhớ
Muôn dặm non sông mắt chửa nhàm.
Ngựa đạp mây bay qua suối đá
Xe vòng núi chạy tới dòng lam.
Ngoài trời lại có trời soi rạng
Vừng nguyệt trong in ngọn sóng đầm.
~TT. Mật Thể~
Vua Đại Hành đưa cho Sư xem, hỏi có
ý gì không.
Sư tâu:
- Câu thứ bảy sứ Tống có ý tôn Bệ hạ
ngang hàng với Vua của họ.
Vua Đại Hành nhờ Sư làm một bài tiễn
sứ. Sư vâng lệnh làm bài từ theo điệu
“Tống vương lang qui”:
Tường quang phong hảo cẩm phàm trương
Thần tiên phục đế hương.
Thiên lý vạn lý thiệp thương lương
Cửu thiên qui lộ trường.
Nhân tình thảm thiết đối ly thương
Phan luyến sứ tình lang.
Nguyện tương thâm ý vị nam cương.
Phân minh tấu ngã hoàng.
Dịch:
Gió hòa phấp phới chiếc buồm hoa
Thần tiên trở lại nhà.
Đường muôn ngàn dặm trải phong ba
Cửa trời nhắm đường xa.
Một chén quan hà dạ thiết tha
Thương nhớ biết bao là.
Nỗi niềm xin nhớ cõi Nam hà
Bầy tỏ với Vua ta.
~TT. Mật Thể~
VUA LÝ-THÁI-TỔ
974-1028
Tức Lý-Công-Uẩn, quê Cổ-Pháp, Đình-Bảng,
Từ-Sơn, Bắc-Ninh, con nuôi sư Lý-Khánh-Vân,
Trụ-Trì chùa Cổ-Pháp, có tài văn võ, được sự
bảo trợ của Lý-Vạn-Hạnh là anh của Lý-Khánh
Vân, vào Hoa-Lư làm quan nhà Tiền Lê, năm 35
tuổi được tôn lên ngôi vua thay nhà Tiền Lê, sáng
nghiệp nhà Lý, rời đô ra Đại-La, sau là Thăng-
Long và Hà-Nội ngày nay.
TỨC CẢNH
Thiên vi khâm chẩm, địa vi chiên
Nhật nguyệt đồng song đối ngã miên
Dạ thâm bất cảm tràng thân túc
Chỉ khủng sơn hà xã tắc thiên.
~Lý-Công-Uẩn~
Dịch:
Tức cảnh
Trời làm màn gối, đất làm chiên
Nhật nguyệt cùng ta một giấc yên
Đêm khuya chẳng dám dang chân duỗi
Chỉ sợ sơn hà xã tắc nghiêng.
~Khuyết Danh~
VUA LÝ THÁI TÔNG
1000-1054
Quê Cổ Pháp, Từ-Sơn, Bắc-Ninh, 19 tuổi được
trao quyền Nguyên-Soái đi đánh Chiêm-Thành,
23 tuổi tuổi đi đánh Phong-Châu, 25 tuổi đánh
Diễn-Châu, 27 tuổi dẹp loạn Lạng-Sơn, 28 tuổi
lên ngôi, có thơ truy tán sư Tì-Ni-Đa-Lưu-Chi:
Sáng tự lai Nam quốc,
Văn quân cửu tập Thiền.
Ưng khai chư Phật tiến,
Viễn hợp nhất tâm nguyên.
Hạo hạo lăng già nguyệt,
Phân phân Bát nhã liên.
Hà thời lâm diện kiến,
Tương dữ thoại trùng huyền.
~Lý Thái Tông~
Dịch:
Cõi Nam đầu bước tới,
Nghe đã đượm màu Thiền.
Tin Phật mong thêm rộng,
Nguồn lòng khéo hợp duyên.
Non già ngời bóng nguyệt,
Cõi nhã nức mùi sen.
Hợp mặt chừng bao tá?
Cùng nhau giảng lẽ huyền.
~Khuyết danh~
LÝ THƯỜNG KIỆT
1019-1105
Tức Ngô-Tuấn, Trưởng tử của Ngô-Quyền,
sinh phường Thái-Hòa, thành Thăng-Long,
có tài văn võ, danh tướng, đại thần nhà Lý,
được ban mang họ vua, có công đánh bại
quân Tống, sĩ phu đều cảm phục.
NAM QUỐC SƠN HÀ
南國山河
南 國 山 河 南 帝 居
截 然 定 分 在 天 書
如 何 逆 虜 來 侵 犯
汝 等 行 看 取 敗 虛
Nam quốc sơn hà
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
~Lý-Thường-Kiệt~
Dịch:
Sông núi nước Nam
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận ở sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời!
~Trần-Trọng-Kim~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.12.2013 12:17:26 bởi Anh Nguyên >
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 5 bạn đọc.
Kiểu: