Dòng thơ cổ
NGUYỄN-TRÃI
1380-1442
Quê Nhị-Khê, Thượng-Phúc, Hà-Đông, đậu Thái
sinh, quân Minh đánh nước ta, cha bị bắt đem về
Tầu, vào Lam-Sơn, tham gia cuộc khởi nghĩa của
Lê-Lợi, có nhiều sách lược giúp cuộc khởi nghĩa
thành công, bị gian thần gièm, về ở ẩn Côn-Sơn,
vua Lê-Thái-Tông ra Hải-Dương, đến nghỉ ở
vườn vải của ông, bị bệnh đột ngột và mất tại đó,
bị cáo giết vua và bị tru di tam tộc, mãi hai mươi
năm sau mới được giải oan. BÌNH NGÔ ĐẠi CÁO Từng nghe: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, Quân điếu phạt trước lo trừ bạo; Như nước đại Việt ta từ trước, Vốn xưng nền văn hiến đã lâu, Nước non bờ cỏi đã chia, Phong tục Bắc Nam cũng khác; Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập; Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương; Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau, Song hào kiệt thời nào cũng có. Cho nên: Lưu Cung tham công nên thất bại; Triệu Tiết chí lớn phải vong thân; Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã Việc xưa xem xét. Chứng cứ còn ghi. Vừa rồi: Nhân họ Hồ chính sự phiền hà Để trong nước lòng dân oán hận Quân cuồng Minh thừa cơ gây loạn Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế Gây thù kết oán trải mấy mươi năm Bại nhân nghĩa nát cả đất trời. Nặng thúê khóa sạch không đầm núi. Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng. Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc. Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng. Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt. Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ, Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng. Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán, Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa? Nặng nề những nổi phu phen Tan tác cả nghề canh cửi. Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội, Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi! Lòng người đều căm giận, Trời đất chẳng dung tha; Ta đây: Núi Lam sơn dấy nghĩa Chốn hoang dã nương mình Ngẫm thù lớn há đội trời chung Căm giặc nước thề không cùng sống Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối. Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh, Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ. Những trằn trọc trong cơn mộng mị, Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi Vừa khi cờ nghĩa dấy lên, Chính lúc quân thù đang mạnh. Lại ngặt vì: Tuấn kiệt như sao buổi sớm, Nhân tài như lá mùa thu, Việc bôn tẩu thiếu kẻ đở đần, Nơi duy ác hiếm người bàn bạc, Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông, Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả. Thế mà: Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi. Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đói. Phần vì giận quân thù ngang dọc, Phần vì lo vận nước khó khăn, Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần, Lúc Khôi Huyện quân không một đội. Trời thử lòng trao cho mệnh lớn Ta gắng trí khắc phục gian nan. Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào. Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh, Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều. Trọn hay: Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, Lấy chí nhân để thay cường bạo. Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật, Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay. Sĩ khí đã hăng Quân thanh càng mạnh. Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía, Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân. Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại, Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về. Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh hôi vạn dặm Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm. Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng. Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng. Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt, Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công. Tưởng chúng biết lẽ ăn năn nên đã thay lòng đổi dạ Ngờ đâu vẫn đương mưu tính lại còn chuốc tội gây oan. Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác, Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian. Bởi thế: Thằng nhãi con Tuyên đức động binh không ngừng Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy Đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang. Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong Sau lại sai tướng chẹn đường tuyệt nguồn lương thực Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng Liễu Thăng thất thế Ngày hai mươi, trận Mã Yên Liễu Thăng cụt đầu Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn. Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau Lại thêm quân bốn mặt vây thành Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc Sĩ tốt kén người hùng hổ Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh Gươm mài đá, đá núi cũng mòn Voi uống nước, nước sông phải cạn. Đánh một trận, sạch không kình ngạc Đánh hai trận tan tác chim muông. Cơn gió to trút sạch lá khô, Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ. Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội, Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng. Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi, Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ. Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật ! Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân. Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen. Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp, Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc, Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run. Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức. Chẳng những mưu kế kì diệu Cũng là chưa thấy xưa nay Xã tắc từ đây vững bền Giang sơn từ đây đổi mới Càn khôn bĩ rồi lại thái Nhật nguyệt hối rồi lại minh Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu Muôn thuở nền thái bình vững chắc Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ; Than ôi! Một cỗ nhung y chiến thắng, nêu công oanh liệt ngàn năm Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn. Xa gần bá cáo, Ai nấy đều hay. ~Nguyễn-Trãi~
QUY CÔN SƠN CHU TRUNG TÁC
Thập niên phiêu chuyển thán bồng bình
Qui tứ dao dao nhật tự tinh
Kỉ thác mộng hồn tầm cố lí
Không tương huyết lệ tẩy tiên oanh
Binh dư cân phủ ta nan cấm
Khách lí giang sơn chỉ thử tình
Uất uất thốn hoài vô nại xứ
Thuyền song thôi chẩm đáo thiên minh
~Nguyễn-Trãi~
Dịch:
TRONG THUYỀN VỀ CÔN SƠN CẢM TÁC
Mười năm phiêu giạt bồng bèo,
Mong về phất phất cờ treo gió lùa.
Đi tìm làng cũ trong mơ,
Luống đem nước mắt rửa mồ tổ tiên.
Sau cơn binh lửa muộn phiền,
Non sông đất khách một niềm khôn nguôi.
Tấc lòng cố quốc ngùi ngùi,
Cửa thuyền trở gối sáng trời không hay.
~Đặng-Thế-Kiệt~
Bềnh bồng trôi nổi
Đã cả mười năm
Tâm tư dao động khóc thầm
Nhớ về làng cũ bao lần nằm mơ
Dâng nước mắt
rửa mộ xưa
Binh đao dù dứt, cõi bờ chẳng yên
Đành thôi...
tình nước sao quên
Dù sầu trong dạ, niềm riêng nén lòng
Suốt đêm mắt dõi trời không
~Nguyễn-Tâm-Hàn~
CÔN SƠN
Côn sơn hữu tuyền
Kỳ thanh lanh lanh nhiên,
Ngô dĩ vi cầm huyền.
Côn sơn hữu thạch,
Vũ tẩy đài phô bích,
Ngô dĩ vi đạm tịch.
Nham trung hữu tùng,
Vạn lý thúy đồng đồng,
Ngô ư thị hồ yển tức kỳ trung.
Lâm trung hữu trúc,
Thiên mẫu ấn hàn lục,
Ngô ư thị hồ ngâm khiếu kỳ trắc.
Vấ quân hà bất quy khứ lai,
Bán sinh trần khổ trường giao cốc?
Vạn chung cửu đỉnh hà tất nhiên,
Ẩm thủy phạn sơ tùy phận túc.
Quân bất kiến Đổng Trác hoàng kim doanh nhất ổ,
Nguyên Tải hồ tiêu bát bạch hộc?
Hựu bất kiến Bá Di dữ Thúc Tề,
Thú Dương ngạ tử bất thực túc?
Hiền ngu lưỡng giả bất tương mâu
Diệc các tự cầu kỳ sở dục.
Nhân sinh bách tuế nội,
Tất cánh đồng thảo mộc
Hoan bi ưu lạc điệt vãng lai,
Nhất vinh nhất tạ hoàn tương tục.
Khâu sơn hoa ốc diệc ngẫu nhiên,
Tử hậu thùy vinh cánh thùy nhục?
Nhân sinh nhược hữu Sào Do đồ,
Khuyến cừ thính ngã sơn trung khúc.
~Nguyễn-Trãi~
Dịch:
Côn Sơn
Côn Sơn có suối nước trong,
Ta nghe suối chảy như cung đàn cầm.
Côn Sơn có đá tần ngần,
Mưa tuôn đá sạch ta ngồi ta chơi.
Côn Sơn thông tốt ngất trời,
Ngả nghiêng dưới bóng ta thời tự do.
Côn Sơn trúc mọc đầy gò,
Lá xanh bóng rợp tha hồ tiêu dao.
Sao không về phắt đi nào,
Đời người vương vất xiết bao sai lầm.
Cơm rau nước lã an thân,
Muôn chung nghìn tứ có cần quyền chi.
Sao không xem:
Gian tà những kẻ xưa kia,
Trước thì họ Đổng sau thì họ Nguyên.
Đổng thì mấy vực kim tiền,
Nguyên, hồ tiêu chứa mấy nghìn muôn cân.
Lại chẳng xem:
Di Tề hai đấng thánh nhân,
Nằm trên núi Thú nhịn ăn đến già.
Nào ai khôn dại du mà,
Chẳng qua chỉ tại lòng ta sở cầu.
Trăm năm trong cuộc bể dâu,
Người cùng cây cỏ khác nhau chút nào.
Khóc cười, mừng sợ xôn sao,
Đang tươi bỗng héo biết bao nhiêu lần!
~Nguyễn-Trọng-Thuật~
3-1930
ĐỀ KIẾM
Lam Sơn tự tích ngọa thần long
Thế sự huyền tri tại chưởng trung
Đại nhiệm hữu quy thiên khải thánh
Xương kỳ nhất ngộ hổ sinh phong
Quốc thù tẩy tận thiên niên sỷ
Kim quỹ chung tàng vạn thế công
Chỉnh đốn càn khôn tòng thử liễu
Thế gian na cánh sổ anh hùng.
~Nguyễn-Trãi~
Dịch:
Rồng thần ẩn tích non Lam
Việc đời nằm gọn trong bàn tay không
Trời trao gánh nặng non sông
Gặp cơn mây gió vẫy vùng hùm thiêng.
Quốc thù rửa sạch nghìn niên
Công lao vạn thế vất yên hòm vàng
Càn khôn chỉnh đốn rõ ràng
Thế gian đếm được mấy trang anh hùng.
~Trần-Lam-Giang~
12-1991
KHUYẾT ĐỀ
Nam quốc sơn hà nam đế cư,
Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
~Nguyễn-Trãi~
CÔ BÁN CHIẾU
Cô ở đâu đây bán chiếu gon?
Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn?
Xuân thu nay đã bao tròn lẻ?
Đã có chồng chưa? được mấy con?
~Nguyễn-Trãi~
Tôi ở Tây-Hồ bán chiếu gon,
Cớ chi ông hỏi hết hay còn?
Xuân thu nay đã trăng tròn lẻ,
Chồng còn chưa có, hỏi chi con.
~Nguyễn-Thị-Lộ~
TỰ THÁN
Chiếc thuyền lơ lửng bên sông,
Biết đem tâm sự ngõ cùng ai hay.
Chắc chi thiên hạ đời nay,
Mà đem non nước làm rầy chiêm bao.
Đã buồn về trận mưa rào,
Lại đau về nỗi ào ào gió đông.
Mây trôi nước chảy xuôi dòng,
Chiếc thuyền lơ lửng trên sông một mình.
~Nguyễn-Trãi~
CHÍ LINH SƠN PHÚ
Rồng thiêng dậy, bay rợp Lam Kinh
Giáo trời chỉ, dẹp tan bắc binh
Dựng nước thành công nhiều khó nhọc
Miền Tây sông núi hẳn anh linh
Ôi ! Vua ta tài thánh vũ
Đứng lên bốn phương kinh dinh
Vận nước gian truân, khổ tâm lo tính
Thấy lẽ tất yếu của trời càng quyết chí để nghiệp thành
Nhờ thế ngày nay Hồ Việt đưọc một nhà, mà núi này cũng lưu danh muôn thuở
Khi nghĩa quân mới dấy là lúc thế giặc đương hăng
Anh hào cả nước lưa thưa như lá thu gặp sương
Chí nuốt giặc Ngô, ai Chủng, ai Lãi
Mưu dựng nghiệp Hán, ai Bình, ai Lương
Vua ta ẩn náu núi này, đành bặt tăm hơi, bưng kín ánh sáng
Vợ con lưu lạc, quân sĩ tha phương
Trong cảnh khốn vẫn bền lòng, vững tin ở ngày hưng vượng
Lấy giáo sắt làm áo mặc, lấy rễ lau làm quân lương
Chí rộn ràng lo khôi phục, lòng u uất thật khôn lường
Tưởng núi này lúc ấy khác nào đất Mang Đăng khi Hán hoàng khởi nghiệp
Biết người, biết mình, khi mềm, khi mạnh
Chờ thời, rình mệt, giấu nhọn, che sắc
Gôi củi nằm gai, ngậm cay nuốt đắng
Lo rửa nhục trước, giành lại quê hương
Tưởng núi này khi đó khác nào đất Cối Kê thời Việt vương ẩn náu
Thế rồi, thu nhặt tàn quân, nuôi dưỡng ân cần
Trong sửa chiến cụ, ngoài giả hoà thân
Quyên tiền mộ lính, giết voi khao quân
Ai cũng thân người trên, chết cho người trưởng, cố sức để đền ân
Từ đấy, luyện quân kén tướng, đánh địch ra kỳ
Chết vinh hơn sống nhục, biết quân ta dùng đuợc
Lấy của giặc đánh giặc, thu quân lương vũ khí
Vẹn toàn vững kế, một mũi tên không để phí
Cầm Bành rạp đầu dâng đất
Phương Chính khiếp vía chạy dài
Bèn giữ hiểm để lập công
Lại nhiều phương lừa đánh địch
Đêm lửa đốt, ngày cờ bay
Sớm chiếm Đỗ Gia, giành thế tiện trên núi ấy
Trước vượt Khả Lưu, đánh đắm địch trên sông này.
Nhưng thịnh đức của vua ta ngày nay, chỉ quy mô rộng lớn của Hán Cao Tổ mới sánh kịp
Còn như Câu Tiễn, ngoài chí phục thù là đáng kể, thì trong muôn phần không so được với vua ta
Đến như: uy thần chẳng giết, đức lớn hiếu sinh
Nghĩ kế nước nhà trường cửu
Tha cho mười vạn hàng binh
Gây lại hoà hảo hai nước
Dập tắt chiến tranh cho muôn đời
Địch phải theo thượng sách: hai nước vẹn toàn dân được an ninh
Như thế thì thịnh đức của vua ta Cao tổ nhà Hán sao sánh kịp
Vua ta phải sánh ngang hàng với hai đế ba vương lừng danh thuở trước
Than ôi! Xưa nay đi lại, trăm đời nên nghĩ
Nghiêu nổi dậy từ Đường hầu, Thuấn khởi dậy tự hàn vi
Thành Thang dấy nghĩa nơi đất bạc, Thái vương khởi binh tại núi Kỳ
Nhiều hoạn nạn là nền dựng nước
Lắm lo toan là gốc trị vì
Biến cố trải nhiều thì suy nghĩ sâu
Mọi việc lo trước thì thành công kì
Nối nghiệp đế vương, không thể khác thế
Vậy thì vua ta dựng nghiệp thật đã tự núi này trở đi
Công cao đức cả của vua ta cũng sẽ cùng núi này hùng vĩ muôn đời
Bèn cúi đầu chắp tay, dâng lời ca rằng
Trời sinh vua thánh, đất dấy nghiệp vương
Càn khôn mờ mịt, vận hội phi thường
Nhìn Linh Sơn cao vút, nhớ những ngày gian khổ
Vỗ nghiệp vương bền vững, không một ngày xao lãng
Xin ghi thịnh đức vào đá, lưu truyền bất hủ
Ngàn vạn đời sau, vẫn cùng trời đất dài lâu.
~Nguyễn-Trãi~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 05.12.2013 09:24:17 bởi Anh Nguyên >
VUA LÊ-THÁI-TỔ
1385-1433
Quê Lam-Sơn (Thọ-Xuân), Thanh-Hóa, khởi
nghĩa chống quân Minh, lên ngôi vua, khai
sáng nhà Lê, đóng đô ở Đông-Kinh (Hà-Nội),
Hai bài thơ sau đây của nhà vua đã được khắc
trên vách đá sau khi nhà vua thân chinh đi
đánh dẹp cuộc nổi dậy của Đèo Cát Hãn, một
thổ quan ở châu Mường Lễ (Điện-Biên và Lai-
Châu ngày nay)
Bài I
Âm chữ Hán:
Cuồng tặc cảm bô tru
Biên dân cửu hệ tô
Bạn thần tòng cổ hữu
Hiểm địa tự kim vô
Thảo mộc kinh phong lạc[3]
Sơn xuyên nhập bản đồ.
Đề thi khắc nham thạch
Trấn ngã Việt Tây ngung.
Tân Hợi quý đông cát nhật
Ngọc Hoa động chủ đề.
Dich nghĩa:
Bọn quân điên cuồng sao dám tránh sự trừng phạt,
Dân biên thùy đã từ lâu đợi ta đến cứu sống.
Kẻ bầy tôi làm phản từ xưa vẫn có,
Đất đai hiểm trở từ nay không còn.
Tiếng gió thổi hạc kêu làm cho quân giặc run sợ,
Sông núi từ nay nhập vào bản đồ.
Đề thơ khắc vào núi đá
Trấn giữ phía Tây nước Việt ta.
Ngày lành tháng Chạp năm Tân Hợi (1431)
Ngọc Hoa động chủ đề.
Bài II
Âm chữ Hán:
Kỳ khu hiểm lộ bất từ nan,
Lão ngã do tồn thiết thạch can.
Nghĩa khí tảo không thiên chướng vụ,
Tráng tâm di tận vạn trùng san.
Biên phòng vị hảo trù phương lược,
Xã tắc ưng tu kế cửu an.
Hư đạo nguy than tam bách khúc,
Như kim chỉ tác thuận lưu khan.
Dịch nghĩa:
Đường gồ ghề hiểm trở, chẳng ngại khó khăn,
Ta tuy già mà gan còn vững như sắt đá.
Nghĩa khí quét sạch nghìn lớp mây mù
Tráng tâm dời hết vạn trùng núi non.
Lo việc biên phòng cần có phương lược sẵn sàng.
Giữ nền xã tắc nên tính kế dài lâu,
Lời truyền ba trăm ngọn thác[4] tức quanh co, rất
nguy hiểm đã thành lời hư không,
Ngày nay chỉ coi như nước thuận dòng chảy xuôi.
Và bài sau đây làm khi đánh giặc về qua đê
Long Thủy (sông Hắc-Giang):
Khi khu hiểm lộ bất từ nan,
Lão ngã do tồn thiết thạch can.
Nghĩa khí tảo không thiên chướng vụ,
Tráng tâm di tận vạn trùng san.
Biên phòng vị hảo trù phương lược,
Xã tắc ưng tu kế cửu an.
Hưu đạo nguy nan tam bách khúc,
Như kim chỉ tác thuận lưu khang.
~Vua Lê-Thái-Tổ~
Bản dịch:
Gập ghềnh nào nại núi cùng non,
Già lão nhưng gan sắt đá còn.
Nghĩa khí quét tan mù mấy lớp.
Lòng ngay san phẳng núi muôn hòn.
Biên phòng nên khéo tìm phương lược,
Xã tắc càng thêm giữ vững yên.
Đừng nói quanh co đường hiểm trở,
Từ nay nước chảy một dòng liền.
VUA LÊ-THÁNH-TÔNG
1442-1497
Sinh tại chùa Huy-Văn, quận Đống-Đa Hà-Nội,
Lên ngôi 18 tuổi, hiểu nhiều môn học thuật, một
triều đại thịnh vượng với nhiều cải cách về kinh tế,
chính trị, văn hóa, ở ngôi 37 năm, mất năm 55 tuổi.
ĐỀ HỒ CÔNG ĐỘNG
Thần chuỳ quỷ tạc vạn trùng san,
Hư thất cao song vũ trụ khoan.
Thế thượng công danh đô thị mộng,
Hồ trung nhật nguyệt bất thăng nhàn.
Hoa dương long hoá huyền châu truỵ.
Bích động tuyền lưu bạch ngọc hàn.
Ngã dục thừa phong lăng tuyệt đính,
Vọng cùng vân hải hữu vô gian.
~Lê Thánh-Tông~
Dịch:
Đề động Hồ Công
Thần đào quỷ đẽo núi muôn trùng,
Cửa trống nhà cao rộng thoáng không.
Cõi tục công danh toàn mộng mị,
Trong hồ ngày tháng rất ung dung.
Non hoa rồng hóa châu rơi rắc,
Động biếc khe tuôn ngọc lạnh lùng.
Muốn cưỡi gió trèo lên tuyệt đỉnh,
Khắp nhìn trời biển khoảng mênh mông.
~Á Nam Trần-Tuấn-Khải~
Chú thích:
Động Hồ Công ở trong núi Xuân Đài, xã Thọ-Vực,
huyện Vĩnh Lộc, trấn Thanh Hóa; phía trước sát
với sông Mã, cảnh trí rất đẹp.
HOA BIẾT NÓI
Quốc sắc xem bằng ngọc mới đông,
Hay cười hay thốt (nói) khá dường bông (tựa như hoa).
Nhiều phen hỏi nguyệt đeo hơi quế,
Mấy phút chào xuân kém nhụy hồng,
Một thức thơm tho lầu gác phượng,
Mười phần tươi tốt mặt tai rồng (vua).
Bên thành cách ngỡ lòng chưa phỉ,
Bao mượn Huyền Đô đắp đỉnh Bồng (Bồng Lai)
~Lê-Thánh-Tông~
CÁI CHỔI
Lời chúa vầng truyền xuống ngọc giai
Cho làm lệnh tướng quét trần ai
Một tay vùng vẫy trời tung gió
Bốn cõi tung hoành đất sạch gai
Ngày vắng dủ mây cung bắc hán
Đêm thanh tựa nguyệt chốn lâu đài
Ôm lòng gốc rễ lâu càng dãi
Mòn mỏi lưng còn một cái đai.
~Vua Lê-Thánh-Tôn~
CÁI XE ĐIẾU
Vốn ở lâu đài đã bấy nay
Khi lên dễ khiến thế gian say
Lưng in chính trực mười phân thẳng
Dạ vẫn hư linh một tiết ngay
Động sóng tuôn mây khi chán miệng
Nghiêng trời lệch đất thuở buông tay
Dưới từ dã lục trên đền đỏ
Ai chẳng quen hơi mến đức này.
~Lê-Thánh-Tông~
VỊNH NGƯỜI ĂN MÀY
Góp giang sơn xách một quai
Lượng bằng sông biển chẳng từ ai!
Vườn đào ngõ mận từng len lỏi
Gác tía lầu son mặc nghỉ ngơi.
No (đủ) biết thế tình mùi mặn nhạt
Quản bao nhật nguyệt (ngày tháng) bữa đầy vơi!
Vương tôn thuở trước làm sao tá?
Bái tướng phong hầu, ấy những ai?
~Lê-Thánh-Tông~
VỊNH THẰNG MÕ
Mõ này cả tiếng lại dài hơi,
Mẫn cán ra tay chẳng phải chơi!
Mộc đạc (mõ gỗ) vang lừng trong bốn cõi,
Kim thanh chuyển động khắp đôi nơi.
Trẻ già chốn chốn đều nghe hiệu,
Làng nước ai ai cũng cứ lời.
Thứ bậc dưới trên quyền cắt đặt
Một mình một chiếu thảnh thơi ngồi.
~Lê-Thánh-Tông~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.02.2011 09:46:00 bởi Anh Nguyên >
NGÔ-CHI-LAN
Sống thời vua Lê-Thánh-Tông, quê Phù-Lỗ,
Kim-Anh, trấn Kinh B ắc, có tài thơ văn, dạy
về lễ nghi, đạo đức và truyền đạt văn hóa cho
các cung nhân.
采蓮曲
相看綠鬢年
無事采溪蓮
小姑嬌不語
帶笑學撐船
蓮花遠近香
采采總山娘
莫遣風吹鬢
冰肌原自涼
THÁI LIÊN KHÚC
Tương khan lục mấn niên,
Vô sự thái khê liên.
Tiểu cô, kiều bất ngữ,
Ðái tiếu học sanh thuyền.
Liên hoa viễn cận hương,
Thái thái tổng sơn nương.
Mạc khiển phong xuy mấn,
Băng cơ nguyên tự hương.
Bản dịch:
Khúc hát hái sen
Kìa em cô mái tóc xanh,
Gặp khi thong thả ra ghềnh hái sen.
Cô em duyên dáng lặng yên,
Mỉm cười tập lái đưa thuyền lướt qua.
Hương sen thoang thoảng gần xa,
Cô em miền núi hái hoa trên dòng.
Tóc mây chẳng khiến gió lồng,
Làn da trắng hồng, cảm thấy mát thay!
HOÀNG-ĐỨC-LƯƠNG
Dưới đời Lê-Thánh-Tông(1442-1497), quê
Cửu-Cao, Văn-Giang, Hưng-Yên, năm 1478
đậu Nhị giáp Tiến sĩ (Hoàng Giá), năm 1489
làm phó sứ sang TQ giao thiệp với nhà Minh.
ĐẠO THƯỢNG
Lộ viễn vô tận đầu,
Cổ kim trường quy khứ.
Kim nhân vị khẳng hưu,
Cổ nhân tại hà xứ?
~Hoàng-Đức-Lương~
Nghĩa:
Trên đường
Con đường dài thăm thẳm, chẳng biết đâu là đầu, cuối;
Xưa nay biết bao hành khách đi đi về về, dòng người dài dằng dặc.
Người nay vẫn chưa chịu dừng chân nghỉ (và mãi mãi như thế),
Còn người xưa chẳng biết nay ở chốn nào?
NGUYỄN-BỈNH-KHIÊM
(1491-1585)
Người làng Trung-Am, Vĩnh-Lại (Cổ-Am, Vĩnh-
Bảo, ngoại thành Hải-Phòng, học vấn uyên thâm,
đỗ Trạng nguyên, nhà học giả, nhà triết gia của
thế kỷ, là học trò của, được thầy dạy và truyền
cho quyển Thái Ất thần kinh, nên ông rất tinh
thông Lý học và Tướng số học.
CẢNH NHÀN
Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dù ai vui thú nào.
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chốn lao xao.
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Rượu đến gốc cây ta sẽ nhắp,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.
~Nguyễn-Bỉnh-Khiêm~
LÊ-QUANG-BÍ
1504-…….
Quê Mộ-Trạch, Đường-An, Hải-Dương,
Đi sứ bị vua Minh giữ lại, vẫn giữ tiết tháo,
18 năm sau mới được về đã 62 tuổi, được
phong chức Thượng Thư bộ Hộ, ông làm
tập thơ “Tô Công phụng sứ để gửi gấm
tâm sự của mình.
BẮC HẢI CHĂN DÊ
Cờ sứ vững cầm một cán không,
Mười thu nghìn dặm, tiết cô trung.
Đất Hồ, sương tuyết gầy mình hạc,
Đền Hán, ngày đêm nhớ mặt Rồng.
Bể Bắc ngày chầy dê chưa đẻ,
Trời Nam nẻo viễn nhạn khôn không
Khăng khăng chẳng chuyển lời vàng đá,
Bia tạc muôn đời tượng tướng công.
~Lê-Quang-Bí~
GỬI THƯ MƯỢN NHẠN
Khôn lấy mồi thơm dỗ tiết ngay,
Cho nên lưu lạc nước non này,
Bốn mùa đắp đổi kho trăng gió,
Một áng thừa lưa lộc tháng ngày.
Chẳng những lòng vàng trên bể Bắc,
Đã nguyền đầu bạc dưới đền Tây.
Tấc niềm bộc bạch hàng thư lụa,
Phó mặc bên trời chiếc nhạn bay.
~Lê-Quang-Bí~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 27.02.2011 11:02:09 bởi Anh Nguyên >
BÍCH CÂU KỲ NGỘ (Không rõ tác giả) 1.- Mở đầu (câu 1- câu 8) Mấy trăm năm một chữ tình, Dưới trời ai kẻ lọt vành hoá-nhi Cơ duyên ngẫm lại mà suy, Trời Nam nào có xa gì cõi Tây. Tương duyên kỳ ngộ xưa nay, Trước kia Lưu, Nguyễn; sau này Bùi-Trương. Kìa ai mê giấc đài Dương, Mây mưa là chuyện hoang-đường biết đâu? 2.- Cảnh Bích-câu (câu 9 - câu 16) Thành Tây có cảnh Bích-câu, Cỏ hoa góp lại một bầu xinh sao! Đua chen thu cúc, xuân đào, Lựu phun lửa hạ, mai chào gió đông, Xanh xanh dãy liễu, ngàn thông, Cỏ lan lối mục, rêu phong dấu tiều. Một vùng non nước quỳnh-giao, Phất-phơ gió trúc, dặt-dìu mưa hoa. 3.- Trần công-tử Tú-Uyên (câu 17 - câu 34) Triều Lê đương hội thái hòa, Có Trần công-tử tên là Tú Uyên. Phúc lành nhờ ấm xuân-huyên, So trong tài mạo kiêm tuyền kém ai. Thông minh sẵn có tư trời, Còn khi đồng ấu mải vui cửa Trình. Trải xem phong cảnh hữu tình, Lâm-toàn pha lẫn thị thành mà ưa. Liền khu trùm một lầu thơ, Lau già chắn vách, trúc thưa giủ rèm. Thừa hư đàn suối ca chim, Nửa song đèn sách, bốn thềm gió trăng. Của chung huy-hoắc đâu bằng. Chứa kho vàng cúc, chất từng tiền sen. Khắp so trong cõi ba nghìn, Yên-hà riêng nửa, lâm-tuyền chia đôi. Thú vui bốn bạn thêm vui, Khắp trong bể thánh, đủ ngoài rừng tao. 4.- Nỗi buồn của Tú-Uyên sau khi cha mẹ mất (câu 35 - câu 50) Thoi đưa ngày tháng sương sao, Ngô vừa rụng lá lại đào nẩy hoa. Trời hôm giục bóng dâu tà, Xuân già e tuyết, huyên già ngại sương. Não người thay! nỗi tang thương, Trông vùng mây trắng ngất đường non xanh. Vai còn đôi gánh thâm tình, Bầu Nhan đã sạch-sành-sanh còn gì! Mấy phen hạ tới thu về, Lọt mành nắng rõ, quanh hè tuyết xây. Chiều trời lạnh ngắt hơi may, Mai tàn trước gió, liễu gầy sau sương! Lơ-thơ nửa mái thảo-đường, Phên thềm lọt gió, vôi tường thấm mưa! Phong-quang lạ khác dấu xưa, Ao tù sen rũ, rào thưa, cúc cằn. 5.- Tú-Uyên nổi tiếng thi-hào (câu 51- câu 70) Sinh từ gặp bước gian-truân, Vinh khô gọi nếm mùi trần chút chơi. Cùng thông dù mặc có trời, Nguôi dần bể khổ, san vơi mạch sầu. Lôi thôi cơm giỏ nước bầu, Những loài yến-tước biết đâu chí hồng. Thề xưa đã nặng với lòng, Dẫu sau trắng nợ tang bồng mới thôi. Ao nghiên giá bút thảnh thơi, Tây-hồ tiên-tích mấy nơi phẩm bình. Thi-hào dậy tiếng Phượng-thành, Vào phen Lý, Đỗ, nức danh Tô, Tào. Ngửa nghiêng lưng túi phong tao, Nước, non, mây, gió, chất vào còn vơi. Châu ken chữ, gấm thêu lời, Vàng gieo tiếng đất, hạc khơi bóng thuyền. Đã người trong sách là duyên, Mấy thu hạt ngọc Lam-điền chưa giâm. Lửng lơ chiếc lá doành nhâm, Cắm thuyền đợi khách, ôm cầm chờ trăng. 6.- Tú-Uyên đi xem hội chùa(câu 71- câu 90) Ngọc hồ có đám chay tăng, Nức nô cảnh Phật, tưng-bừng hội xuân. Dập dìu tài-tủ giai-nhân, Ngổn ngang mã tích xa trần thiếu ai. Thưởng xuân sinh cũng dạo chơi, Thơ lưng lưng túi, rượu vơi vơi bầu. Mảng xem cây phạm thú mầu, Vầng kim ô đã gác đầu non tê. Tiệc thô ai nấy cùng về, Gió chiều lay bóng hoa lê la đà. Bân cầu đàn lũ năm ba, Thần tiên trưóc mắt ai là kẻ hay! Sinh vừa tựa liễu nương cây, Lá hồng đâu đã thổi bay lại gần. Mắt coi mới tỏ dần dần, Mấy giòng chũ viết ba vần bốn câu. Trông qua lặng ngắt giờ lâu, ?y ai thả lá doành câu ghẹo người. Vừa toan họa lại mấy lời, Gió hương đâu đã bay hơi nồng nàn. 7.- Tú-Uyên gặp mỹ-nhân (câu 91- câu 108) Thấy người trước cửa tam-quan, Theo sau ba bảy con hoàn nhởn nhơ. Lạ lùng con mắt người thơ, Hoa còn phong nhụy, trăng vừa tròn gương. Rành rành xuyến ngọc thoa vàng, Quần Nghê tha thưót, sóng Tương rượm rà. Mỉa chiều nét ngọc làn hoa, Cá chìm mặt nước, nhạn sa lưng trời. Gần xem vẻ mặt thêm tươi, Mùi hương thoang thoảng thơm rơi ít nhiều. Làn thu lóng lánh đưa theo, Não người nhăn chút lông nheo cũng tình. Vốn mang cái bệnh Trương-sinh, Gặp người nghiêng nước nghiêng thành biết sao? Đưa tình một nét sóng đào, Dẫu lòng sắt đá cũng xiêu, lọ người. Nhân duyên ví chẳng tự trời, Từ-lang chưa dễ lạc vời non tiên. 8.- Tú-Uyên đối thoại với mỹ-nhân dưới cây đu (câu 109 - câu 142) Dù mặt lạ đã lòng quen, Cả liều đến gốc thu-thiên ướm nàng: "Quá vui nên trót sỗ-sàng, "Thử tình cho kẻo bẽ bàng với hoa." Khách rằng: "Trong hội Vô-già, "Cửa không, ngàn giác đấy là từ-bi. "Gió bay những tiếng thị phi, "Trót lầm thôi có trách gì đến ai" Giọng kiều nghe lọt vào tai, Đã gần bể sắc, khôn vơi sóng tình. Thưa rằng: "Chút phận thư-sinh, "Đèn từ soi đến tấm thành với nao! "Chi-viên nỡ hẹp-hòi sao, "Mở đường phương tiện chút nào được chăng?" Răng: "Đây về đạo kim-thằng, "Trăng hoa sao khéo nói năng những lời. "Bến từ có hẹp chi ai, "Giốc đem thuyền giác độ người bến mê. "Ngán cho bên cõi bồ-đề, "Phải đưòng ong bướm đi về đấy sao? "Đoá hoa sẵn nhạc vàng treo, "Tiếng oanh chỉ để lao-xao trên cành." Lặng nghe lọt đến giọng tình, Lòng tham quanh cả bên mình mỹ-nhân. Rằng: "Đây lầm xuống mê tân, "Tiền duyên xin để kim thân tu đền. "Ba sinh cho vẹn mười nguyền, "Nhờ tay kim-tướng, đưa duyên xích-thằng. "Gậy linh mượn phép cao-tăng, "Phá thành sầu-khổ cho bằng mới cam. "Chày sương đợi khách cầu Lam, "Phẩm tiên may bén tay phàm biết đâu. "Nước bèo dù có duyên sau, "Bên sông thử bắc nhịp cầu từ đây." 9.- Nỗi nghi hoặc của Tú-Uyên sau khi mỵ-nhân biến đi (câu 143- câu 160) Người còn cợt gió, đợi mây, Gót tiên khách đã trở giầy làm thinh. Ngóng theo đến Quảng-văn đình, Bóng trăng trông đã trên cành lướt qua. Mượn người thăm hỏi gần xa, Hồng lâu tử các đâu mà đến đây? Hay là quán nước, làn mây, Gió xuân thổi xuống chốn này đấy sao? Dám xin trỏ lối cho nao, Tới non Ngọc dễ ai nào về a! Nản lòng nhắm liễu thăm hoa, Biết đâu sắc sắc vẫn là không không. Thoắt thôi lẩn bóng ngàn thông, Hương trầm còn thoảng cánh hồng đã khơi. Xe loan gió cuốn lưng trời, Tiên về động bích, tình rơi cõi trần. Ngửa trông năm thức mây vần, Hồn chưa đến chốn non thần đã mê. 10.- Tú-Uyên trở về mang bệnh tương tư (câu 161 - câu 190) Lần trăng ngơ ngẩn ra về, Đèn thông khêu cạn, giấc hoè chưa nên. Nỗi nàng canh cánh nào quên, Vẫn còn quanh quẩn người tiên khéo là? Bướm kia vương lấy sầu hoa, Đoạn tương-tư ấy nghĩ mà buồn tênh! Có khi gẩy khúc đàn tranh, Nước non ngao-ngán ra tình hoài nhân. Cầu hoàng tay tựa nên vần, Tương-Như lòng ấy, Văn-Quân lòng nào. Có khi mượn chén rượu đào, Tiệc mồi chưa cạn, ngọc dao đã đầy. Hơi men chưa nhấp đã say, Như xông mùi nhớ, như gây giọng tình. Có khi ngồi suốt năm canh, Mõ quyên điểm nguyệt, chuông kềnh nện sương. Oỏi tai những tiếng đoạn trường, Lửa tình dễ nguội, sông Tương khôn hàn. Có đêm ngắm bóng trăng tàn, Tiếng quyên hót sóm, trận nhàn bay khuya. Ngổn ngang cãnh nọ tình kia, Nỗi riêng, riêng biết, dãi dề với ai! Vui xuân chung cảnh một trời, Sầu xuân riêng nặng một người tương tư. lòng yêu tay tả nên thơ, Mảnh tình phong với mảnh tờ đưa theo. Ả Hằng ví nặng lòng yêu, Rẽ mây mở lối tinh-thiều cho nao ! Hỏi cho giáp mặt hoa đào, Vườn xuân chẳng lẽ ngăn rào mãi ru ! 11.- Hà-Sinh đến thăm bạn, Tú-Uyên kể sự tình (câu 191 - câu 218) Đồng song có gã họ Hà, Ướm tình mới hỏi lân-la gót đầu. Cớ sao chuốc não mua sầu, Bữa thường ngao-ngán như màu nhớ ai? Bấy nay vắng vẻ thư-trai, Vóc sương nghe đã kém vài bốn phân. Nguồn cơn ngỏ với cố nhân, Hoạ may sẽ giúp được phần nào chăng? Điều đâu thực khéo như rằng, Nói vào hợp ý, khôn bưng lòng người. Song mà tình chẳng riêng ai, Bệnh tương tư có trải mùi mới hay. Người ngu đấng thánh xưa nay, Tình chung chẳng ở vòng này hay sao? Nói dù nghe cũng thế nào, Lặng dù, nghe cũng nao-nao chẳng đành. Bệnh căn khôn lẽ dấu quanh, Cầm tay mới kể đinh ninh mọi điều. Nói bao nhiêu, tưởng bấy nhiêu, Ghê cho sắc ngọc dễ xiêu lòng vàng. Những là tiếc phấn say hương, Nên vò lưới nhện mà vương tơ tằm. Sầu dường bể, khắc như năm, Xương mai chịu được mấy lăm mà gầy! Nghìn xưa âu cũng thế này, Gánh sầu san-sẻ ai đầy ai vơi? Lạ cho cái giống hương trời, Biết năm biết thuở, biết đời nào quên. 12.- Hà-Sinh nhắc lại chuyện Thánh-Tông gặp tiên (câu 219 - câu 244) Hà nghe nói hết căn nguyên, Nghĩ xem chuyện ấy quả nhiên rằng kỳ. Chẳng thần nữ, cũng tiên-phi, Duyên xưa còn có chút gì hay không. Lá hồng ra mối chỉ hồng, Nước bèo kia cũng tương phùng có phen. Ngọc-Liên nghe có Hoa-tiên, Thánh-Tông thủa trước qua miền ấy chơi. Lầu chuông bỗng gặp môt người, Ngâm câu thần kệ, vịnh bài quốc âm. Ngự khen tú khẩu cẩm tâm, Mến riêng vì sắc, yêu thầm vì thơ. Rước về rắp gạn tóc tơ, Gót tiên bỗng thoắt bao giờ còn đâu? Mười lăm năm nọ chưa lâu, Còn di tích đó là lầu vọng tiên. Lạ tai nghe những chẳng tin, Thử coi cho thấy nhỡn tiền mà ghê. Nhận ra trong lá thơ đề, Bút tiên chi để điểm mê lòng phàm. Những là én bắc nhạn nam, Cánh hoa mặt nước dễ làm sao đây? Tuy rằng cách trở đông tây, Dẫu xa, xa cũng có ngày gần nơi. Gác xuân cách mấy dặm khơi, Nhân duyên đành để gió trời thổi đưa. 13.- Hà-Sinh khuyên bạn không nên mơ tưởng hão (câu 245 - câu 272) Hà rằng: "Hương lửa duyên ưa, "Có khi tình trước còn chờ hội sau. "Đành rằng ký ngộ nan cầu, "Biết đâu non thẳm doành sâu mà tìm. "Biết đâu nhắn cá gửi chim, "Vớt trăng dưới nước, mò kim trong doành. "Biết đâu ả Tố, nàng Quỳnh, "Cớ chi nhớ quẩn sầu quanh khéo là. "Chuốc mua lấy nợ phong hoa, "Mối tơ phó mặc trăng già phải nao! "Xuân sang xuân đã già nào, "Chờ sau mai nở thì đào chẳng lâu." Vắt tay ngẵm nghĩ xưa sau, Như ai cất hẳn gánh sầu thoảng không. Nói cười tươi tắn thong dong, Đổi lòng phong nguyệt ra lòng vân-thiên. Thôi mong khách, lại chờ tin, Thư hồng ngày mỏi, chăn uyên đêm dài. Bâng khuâng một mối viễn hoài, Khi trong sân tuyết, khi ngoài trời tây. Ngày thường ngắm cảnh am mây, Người buồn xui cả cỏ cây cũng buồn. Còn trời, còn nước, còn non, Mây xanh nước biếc vẫn còn như xưa. Hoa đào còn đó trơ trơ, Mà người năm ngoái bây giờ là đâu? Vù vù gió thổi rèm lau, Càng như chất mối tơ sầu vào thêm. 14.- Tú-Uyên xem bói thẻ và nằm mộng (câu 273 - câu 290) Chạnh đâu nhớ chuyện bốc tiêm, Tới đền Bạch-mã, giải niềm cầu duyên. Khấn rồi ra góc tây hiên, Nén hương tắt đỏ, ngọn đèn nhỏ to. Bóng trăng vừa xế cành ngô, Giấc hoè dìu-dịu, chăn cù êm êm. Thấy người cao mũ rộng xiêm, Tay cầm thiết bảng, trang nghiêm khác vời. Trước sân sang sảng dạy lời, Rằng: "Mai sớm đợi ta ngoài sông Tô; "Lọ là oanh yến hẹn-hò, "Cầu Đông sẵn lối, cầu ? đó mà!" Vội mừng chợt tỉnh giấc hoa, Sao vừa nhàn-nhạt, trời vừa eo eo. Lòng yêu phải bước chân theo, Xăm xăm ra đó vắng teo thấy gì. Nước trong vắt, cỏ xanh rì, Thạch-kiều thấy đó giai kỳ nào đâu? 15.- Gặp người bán tranh, Tú-Uyên mua về treo (câu 291 - câu 304) Trông mong đã suốt giờ lâu, ?m cây mãi thế, ra màu cũng quê. Chán chiều thơ thẩn ra về, Xem tình dở tỉnh dở mê nực cười. Bỗng may lại gặp một người, Tay mang tranh vẽ, gót dời đường hoa. Liền tay xin lĩnh xem qua, Truyền-thần một tượng Tố-nga rành rành. Dịu dàng vẻ đạm màu thanh, Như người gặp Quảng-văn đình ngày xưa. Càng nhìn nét bút càng ưa, Chàng Vương dẫu mạc bao giò cho nên. Mua về treo chốn thư-hiên, Như ai đem ngọc giải phiền lại cho. 16.- Tú-Uyên với bức tranh Tố-nữ (câu 305 - câu 327) Mưa hoa khép cánh song hồ, Sớm khuya với bức họa đồ làm đôi. Mâm chung một, đũa thêm hai, Thơ trao dưới nguyệt, rượu mời trước hoa. Tưởng gần thôi lại nghĩ xa, Có khi hình ảnh cũng là phát phu. ?m trời vừa tiết trăng thu, Ngàn sương rắt bạc, lá khô rụng vàng. Chiều thu như gợi tấm thương, Lòng người trông xuống sông Tương mơ hình. Kề bên năn nỉ bày tình, Nỗi nhà thuở trước, nỗi mình ngày xưa. Từ phen giáp mặt đến giờ, Những là ngày tưởng đêm mơ đã chồn. ?ấy ai điểm phấn tô son, Để ai ruột héo, gan mòn vì ai? Buồn đào nửa bước chẳng rời, Nghìn vàng đổi được trận cười ấy chăng? Rày xin bẻ khoá cung trăng, Vén mây mở mặt chi Hằng, chút nao! Chợt trông mấp máy miệng đào, Mặt hoa hớn-hở dường chào chúa Đông. 17.- Tố-nữ trong tranh hiện thành người thực (câu 327 - câu 340) Cho hay tình cũng là chung, Khách tiên chưa dễ qua vòng ái ân! Một khi ra việc tràng văn, Trở về đã thấy bát trân sẵn sàng. So xem phong vị khác thường, Mùi hoa sực nức, mùi hương ngạt-ngào. Bếp trời sẵn đấy hay sao? Của đâu thấy lạ, lòng nào chẳng nghi? Rạng mai cứ buổi ra đi, Liệu chừng thoắt trở lại nhà thử coi. Sẩy đâu thấy sự lạ đời: Trong tranh sao có bóng người vào ra? Nhơn nhơn mày liễu mặt hoa, Này người khi trước, đâu mà đến đây? 18.- Tú-Uyên cùng Giáng-Kiều trò chuyện (câu 341 - câu 374) Nàng đương trang điểm nào hay, Cửa ngoài sẽ hé cánh mây bước vào. Vội-vàng đánh tiếng ra chào, Bên mừng, bên lệ, xiết bao là tình! Rằng:"Bấy lâu một chữ tình, "Gặp đây xin tỏ tính danh cho tường". Nàng rằng: "Bồ liễu phận thường, "Vì mang má phấn, nen vương tơ điều. "Vốn xưa thiếp khách thanh-tiêu, "Tiên-thù là hiệu, Giáng-Kiều là tên. "Ba sinh đã nặng vì duyên, "Đem thân liễu yếu, kết nguyền đào thơ. "Nhân duyên đã định ngày xưa, "Tơ trăng xe đến bây giờ mới thân. "Cũng là nhờ đức tiên-quân, "Đoá hoa biết mặt chúa xuân từ rày." Sinh rằng: "Trong bấy lâu nay, "Nhắp sầu, gối muộn, có ngày nào ngơi! "Đã rằng: Tác hợp duyên trời, "Lám chi cho vẩn lòng người lắm nau?" Nàng rằng: "Xin quyết gieo cầu, "Tấm son thề với trên đầu xanh xanh. "Dám đâu học thói yến oanh, "Mặn tình trăng gió, nhạt tình lửa hương. "Gieo thoi trước đã dở dang. "Sau nên nát đá phai vàng như chơi. "Mái Tây còn để tiếng đời, "Treo gương kim cổ cho người soi chung. "Lạ chi hoa với gió đông, "Tiếc hương, vả cũng nể lòng chim xanh. "Một mai mưa gió bất tình, Vóc tàn, nên để yến oanh "hững hờ. "Nghĩ trong thân-phận yếu thơ, "Làm chi để tiếng sờ-sờ lại sau?" 19.- Giáng-Kiều dùng phép tiên biến hoá (câu 375 - câu 400) Nói thôi rút chiếc trâm đầu, Biến hình liền thấy đôi hầu theo ra. Tưng bừng sắm sửa tiệc hoa, Bình trầm đưa khói, chén hà đậm hương. Giọng tình sánh với quỳnh-tương, Giả say sinh mớ toan đường lần khân. Thưa rằng: "Túc trái tiền nhân, "Không dưng dễ xuống cõi trần làm chi. "Song còn mấy bạn tương tri, "Bấy lâu chưa có chút gì là đâu. "Trước xin từ biệt cùng nhau, "Chữ duyên này trở về sau còn dài." Nghe lời nói cũng êm tai, Chìu lòng chi nỡ ép nài mưa mây. Trước sân mừng cuộc tỉnh say, Tiếng vui đãi nguyệt, tiệc bày đối hoa. Bóng mâ bỗng kéo quanh nhà, Thảo am thoát đã đổi ra lâu đài. Tường-quang sáng một góc trờ, Nhởn nhơ áo, mũ, xiêm, hài, biết bao! Người yểu điệu, khách thanh-tao, Mỗi người một vẻ, ai nào kém ai. Lả-lơi bên nói bên cười, Bên mừng cố hữu, bên mời tân-lang. Đong đưa khoe thắm đua vàng, Vũ-y thấp-thoáng, Nghê-thường thiết tha. 20.- Tú-Uyên cùng Giáng-Kiều kết duyên (câu 401 - câu 428) Yến tân chuốc chén năm ba, Người còn vui tiệc, khách đà cáo say. Kẻ ra nương bánh xe mây, Người vào trong gấm vui-vầy bạn loan. Lả-lơi cười với hoa-nhan, Trải chăn thúy-vũ, buông màn phù-dung. Phòng tiên dìu-dặt chén đồng, Rèm tương giủ thấp, trướng hồng treo cao. Ngẩn-ngơ hé cửa động đào, Mây tuông bể ái, mưa rào sông ân. Mấy vàng đổi được khắc xuân. Xưa nay tài-tử, giai-nhân lạ gì? Cho hay thiên tải giai kỳ, Trăng già xe đã phải thì đào non. Cũng là môt mốt tơ son, Năm-trăm năm cũng vuông tròn từ đây. Đàn cầm từ thủa bén dây, Khi đằm thắm đã, bỏ ngày nhớ nhung! Khi gió mát, lúc trăng trong, Bầu tiên chuốc rượu, tơ đồng nối dây. Khi tuyết xuống, lúc hương bay, Câu thơ trên gác, bàn vây bên bình. Tài hoa-quốc, sắc khuynh thành, Cầm, kỳ, thi, tửu, đủ vành trần duyên. Ngươi tao-nhã, khách thuyền-quyên, Phong, hoa, tuyết, nguyệt, là tiên trên đời. Nhà lan sum-họp ban mai, Đã trong tần-tảo, lại ngoài ty-ca. 21.- Tú-Uyên say đắm rượu chè, Giáng-Kiều can ngăn không nổi (câu 429 - câu 444) Dần dần năm đã kể ba, Hạnh và độ thắm, liễu và phần son. Duyên ai tính đã vuông tròn, Nào hay nợ trước chút còn dở-dang. Trần-sinh từ thủa gặp nàng, Vui-vầy mê-mả nên càng quá xưa. Môt ngày say mấy canh thừa, Khuyên can nàng mới ngỏ thưa ít nhiều. Rằng: "Xin gửi một hai điều, "Thân trăm-năm nỡ bỏ liều thế ư! "Thiếu gì những chuyện ngày xưa, "Còn bia miệng đó trơ trơ chưa mòn! "?ấy ai dỗi gót bên non, "Bóng trăng Thái-thạch là hồn ai say! Ví còn lầm trước chưa hay, "Thì đem gương ấy sau này mà soi." 22.- Giáng-Kiều bị ngược-đãi giận bực bỏ đi (câu 445 - câu 476) Ngán thay khuyên-nhủ đến lời, Nưóc kia dội đá có mùi gì đâu. Thôi ngày trọn, lại đêm thâu, Cạn chung Lý-Bạch, nghiêng bầu Lưu-Linh. Ma men quanh-quẩn bên mình, Cho đàn trễ phím, cho bình nhạt hương. Mải-mê say tỉnh tâm-trường, Liệu bài nàng lại tìm đường van-lơn. Trái tai vả lại ngứa gan, Đang tay nỡ dập hoa tàn tả-tơi. Dây đồng đứt hẳn làm đôi, Cánh bèo theo ngọn nước trôi cũng rầu! Nàng càng tầm-tả tuôn châu, Ngán nhân tình khéo ra màu thắm phai. Rằng: "Thôi, tôi đã quá lời, "Xui lòng nghĩ lại một hai kẻo mà..." Sinh đang vui chén la đà, Vẩn-vơ tính qủi hồn ma biết gì. Nói thôi, nói cũng chi chi, Nghe ra tiếng nặng như chì, giọng say! Nàng rằng: "Duyên-nợ bấy nay, "Thương ôi nước đổ bốc đầy được đâu "Tiếc cho nỗi vợ chồng Ngâu, "Doành thu nên để bắc cầu mấy phen! "Sá chi nữa, cái hoa hèn, "Nghĩ làm chi nữa cái duyên cũ-càng. "Đã lòng rẻ thúy chia hương, "Đành lòng rẫy ngọc, ruồng vàng thì vâng. "Thôi thôi, thôi cũng cầm bằng, "Tơ hồng phó trả bà trăng cho rồi." Lạy rồi, đứng lại sân ngoài, Bên bàn say tỉnh mặc người ngồ trơ. 23.- Sau khi tỉnh ra Tú-Uyên hối-hận (câu 477 - câu 516) Sinh còn đương cuộc nào ngờ, Tỉnh dần dần lại, bây giờ biết sao? Biết phương nào, biết chước nào. Có chăng còn lúc chiêm bao họa là! Non thần mấy dặm đường xa, Khói mây man-mác dễ mà hỏi, vay! Cát vàng bụi bạc xa bay, Mây trên mặt đất, non xây chân trời. Ngắt chừng bể thẳm doành khơi, Đường xa bao nả tình dài bấy nhiêu. Buồn trông quãng vắng đường queo, Gió lay nhẹ lá, sương gieo nặng cành. Buồn trông cửa bể mông-mênh, Con thuyền thấp-thoáng cuối ghềnh ngổn-ngang. Buồn trông cuối phố hàng Đường, Cánh hồng man-mác, hạt sương đầm-đìa. Buồn trông theo giải Tô-khê, Chim kêu bụi rậm, trâu về đồng không. Cảnh buồn như giục tấm lòng, Lại thêm vấn-vít mấy vòng tơ vương. ?ấy ai phải vía chàng Trương, Non tiên cách một bước đường nên xa. Hay là lỗi sổ Hằng-Nga, Đêm đông vò-võ bóng tà sao thưa. Nghĩ tình nên những ngẩn-ngơ, Ai lên đường ấy, ai chờ đợi ai? Dần dần trăng tối gió may, Nghĩ sao cho xiết sự đời phôi-pha! Trêu ngươi chi bấy trăng già, Xe dây mỏng-mảnh ỡm-ờ mà chơi. Cho nên cách trở đôi nơi, Hoa trôi cửa động, nước xuôi cõi trần. Nghĩ riêng, riêng những ăn-năn, Phấn hồ, còn đó, tinh-thần nào đâu? Càng thêm ngao-ngán trăm chiều, Giấc nào nào nhắp, bữa nào nào ngon. Xác ve ngày một héo mòn, Xác gan con vượn, mơ hồn cái quyên. Tả lòng tay thảo mười thiên, Mấy câu mấy chữ, mấy nghìn câu rơi. 24.- Hà-Sinh khuyên-giải Tú-Uyên (câu 517 - câu 536) Hà-sinh phải buổi sang chơi, Xót tình khế-hữu liêu bài giải-khuyên: "Biết đâu rằng quỉ rằng tiên, "Một may một rủi thôi phiền não chi. "Dù tiên duyên đã mãn kỳ, "Chờ cho duyên hợp châu về mõn hơi! "Hãy xin gắng-gượng làm tươi, "Gánh sầu trút cả cho người phải nao! "Lỡ ra khi đến thế nào, "Mà cho mắt tục trông vào sao nên." Rằng: "Xưa trót đã nặng nguyền, "Phải đem vàng đá mà đền mới xuôi. "Cũng đành cho thế-gian cười, "Còn hơn cam phụ với người tri-âm. "Duyên xưa âu chẳng xe lầm, "Bao giờ kéo hêt tơ tằm mà hay! "Công đâu nghĩ mướn lo vay, "Dẫu mòn bia đà khôn lay tấc lòng." Xem chiều nói cũng như không, Hà-sinh ra ý sượng-sùng cáo lui. 25.- Tú-Uyên toan tự-ải, Giáng-Kiều bỗng hiện về (câu 437 - câu 570) Khách đà về chốn tây-trai, Một mình một bóng đứng ngồi sao yên. Quyết tìm khắp nước non tiên, Đem duyên giai lão đính nguyền lai sinh. Giải là giủ sẵn bên mình, Cũng liều trắng nợ, trần tình thử xem! Gió hương đâu bỗng lai rèm, Bóng hoa đâu đã trước thềm lả-lơi. Đương khi rằng một rằng hai, Sịch hài nàng đã tớ nơi bao giờ! Mặt trông mặt, hãy ngẩn ngơ, Nào hay đã tỉnh còn ngờ rằng mê. May sao may khéo đi về, Chậm chân chút nữa còn gì là ai! Mắt nhìn chung cả con ngươi, Bên lòng mừng tủi, bên lời hợp tan, Sinh rằng: "Từ vắng phương-nhan. "Lòng theo trăng, bể, mây ngàn thiếu đâu. "Quản bao bể rộng sông sâu, "Đã toan quên cả cái cầu tư-sinh. "Dám đâu riêng phụ với tình, "Dưới vàng có đất, trên xanh có trời. "Kể chi những sự đã rồi, "Sắt son ghi tạc một lời từ đây." Thưa rằng: "Cầm đã bén dây, "Có tri âm đó, cuốn dây sao đành. "Cũng công hương lửa ba sinh, "Nguồn ân chưa cạn, sóng tình còn xao." Đinh ninh gắn bó tất giao, Trước sau nối gót trướng đào song song. Vườn xuân hoa đã quen ong, Từng xa-xôi lắm, lại nồng nàn thêm. Mấy thu gối ấm chăn êm, Cửa cài then nghĩa, phòng niêm khoá tình. 26.- Sau khi tái hợp, vợ chồng Tú-Uyên sinh Chân-Nhi (câu 571 - câu 576) Trên đào vừa thấy tinh oanh, Gốc giao sớm đã nối cành quế Yên. Chân Nhi rơi chút dấu tiên, Một mai dành để dõi truyền thi thư. Sinh càng chăm-chút sớm trưa, Cá mong rẽ sóng, rồng chờ tung mây. 27.- Giáng-Kiều khuyên chồng tòng tiên (câu 577 - câu 608) Đường trời chưa mỏi cánh bay, Thung-dung nàng lại giãi-bày một hai. Rằng: "Coi cho thấu sụ đời, "Giam danh khoá lợi, những người thế-gian. "Trời thu mây hợp, lại tan, "Ngày xuân hoa nở, hoa tàn mấy lăm. "Gẫm trong tám, chín mươi năm, "Bóng câu cửa sổ, dễ cầm mãi ru! "Thịt xương gửi đám Diêm-phù, "Sinh sinh hóa hóa trong lò hồng-quân. "Đố ai vượt khỏi lòng trần, "Sông mê chìm nổi, thế-nhân đã đầy. "Anh hùng những mặt xưa nay, "Trăm năm nát vớt cỏ cây cũng là. "Dần dần tháng trọn ngày qua, "Má hồng mấy chốc đã ra bạc đầu. "Thôn hoang mấy nắm cổ khâu, "ấy nền Đồng-tước, hay lầu Nhạc-dương. "Chưa đầy một cuộc tang thương, "Non đồng cũng lở, núi vàng cũng nghiêng. "Sao bằng ngày tháng cung tiên, "Vui chung tám cõi, xuân riêng bốn mùa. "Dọc ngang bốn bể, năm hồ, "Khắp trong ba cõi chín châu mặc dầu. "Ra vào kim khuyết quỳnh-lâu, "Treo tranh yên-thủy, giắt bầu kiền-khôn. "Đi về tuyết điếm hoa thôn, "Thông rền nhịp phách, suối tuôn ngón đàn. "Một này trong thú thanh-nhàn, "Mấy trăm mươn cảnh nhân-hoàn đọ sao! "Khuyên chàng sớm nghĩ lấy nao, "Gà lồng, hạc nội, bên nào là hơn?" 28.- Nghe Giáng-Kiều thuyết về tiên đao, Tú-Uyên tỉnh ngộ dần (câu 609 - câu 630) Mảnh riêng sinh những bàng hoàng, Tuy say cõi tĩnh, chưa tan lòng phàm. Trót xưa túi sách con gươm, Ví ta Sào, Hứa, ai làm Y, Chu? Thưa rằng: "Đã tiếng trượng-phu, "Sụ đời vinh nhục chi cho bận lòng. "Ví ham nghìn tứ, muôn chung, "Con chim bay mãi cũng trong khuôn trời. "Làm chi cho bạn tiên cười, "Ai vui viên hạc, ai vui yên-hà, "Vẩn-vơ trong đám phồn hoa, "Ba mươi sáu động, ai là chủ nhân?" Sinh nghe tỉnh chuyện tiền-nhân, Rửa dần bụi tục, tỏ dần lối mê. Rằng: "Xưa Hoàng-Đế, An-Kỳ, "Nào phương thoát hoá tu từ sao đây?" Nàng rằng: "Thiên đạo nhiệm thay, "Kiều, Tùng xưa cũng thế này chứ sao! "Vả chàng dự bậc thanh-tao, "Mà xem trong sổ Tiên-tào có tên. "Học sao cho hết chân truyền, "Tu sao cho hết tinh-huyền thì tu." 29.- Sau khi trao nhận tiên-phù, hai người cùng cỡi hạc lên tiên (câu 631 - câu 648) Tay trao một đạo tiên-phù, Môt phương hỏa-tảo, một lò kim-đan. Đường tu sẵn cách khảo bàn, Rượu sen thắm giọng, trà lan thơm lòng. Dần theo gió liễu, trăng đồng, Thân phàm như chấp cánh lông nhẹ nhàng. Đương khi lốt trắng điểm vàng, Tỉnh say Vương-mẫu, mơ-màng Lão-quân. Mây đưa năm sắc tường vân, Hạc đâu đôi chiếc, trước sân đón người. Dang tay cỡi hạc cả cười, Nhủ Chân-Nhi lại nối lời thề xưa: "Còn kỳ dậy gió tuôn mưa, "Mai sau gặp gỡ bấy giờ sẽ hay!" Nói rồ thẳng rẽ đường mây, Trông theo cánh hạc về tây tuyệt vời. Bồng lai riêng một bầu trời, Màn hoa, cầu đá, mấy nơi thiên thành. ***
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.11.2013 20:47:44 bởi Anh Nguyên >
PHÙNG-KHẮC-KHOAN
1528-1613
Quê Phùng-Xá, Thạch-Thất, Sơn-Tây, cùng mẹ
khác cha với Trạng Trình, đỗ Nhị giáp Tiến-Sĩ,
đi sứ nhà Minh năm 1597 khí phách khẳng khái,
biện luận áp đảo các quan nhà Minh, văn chương
của ông cũng được vua quan nhà Minh khâm phục,
mang nghề dệt lụa và giống bắp về cho dân làng,
đưọc phong Thượng thư bộ Hộ, bộ Công, dân chúng
gọi ông là Trạng Bùng (tên tục của làng Phùng-Xá).
TỰ THUẬT
Nhĩ mục thông minh nam tử thân,
Định tri nho sự bất trường bần.
Truyền gia vị dẫn thi thư mạch,
Vi học thường kì trung hiếu nhân.
Phi thị thế gian kim ngọc thốc,
Dã ưng thiên thượng thạch kì lân.
Trượng phu khởi dĩ cùng thông luận,
Cửu khuất ưng tri tất đại thân.
~Phùng-Khắc-Khoan~
Bản dịch:
TỎ NỖI LÒNG KHI CÒN LẬN ĐẬN
Làm trai tai mắt ở đời,
Lo chi nghèo khó vốn nòi nho gia.
Thi thư vốn sẵn nếp nhà,
Hiếu trung trọn vẹn mới ra con người.
Nếu không long phượng ở đời.
Cũng là giống quí trên trời kì lân.
Trượng phu há kể khuất, thân,
Bĩ lâu rồi hẳn đến tuần thái lai.
賞 春 詞
天 上 陽 回,
人 間 春 至.
又 一 番 新.
蓋 開 泰 乾 坤,
韶 光 郁 郁,
向 陽 光 草,
生 意 欣 欣.
紅 襯 桃 腮,
青 窺 柳 眼,
鶯 簧 蝶 拍 弄 繽 紛.
二 三 子,
遇 到 來 時 節,
風 光 可 人.
這 般 美 景 良 辰,
欲 行 樂 須 及 此 青 春.
聊 問 柳 問 花 香,
攜 紅 袖 一 觴.
一 詠 歌 遏 白 雲,
進 士 打 毬,
侍 臣 陪 宴.
古 來 樂 事 尚 傳 聞,
今 遭 逢,
聖 天 子,
幸 得 致 身.
Thưởng xuân từ
Thiên thượng dương hồi,
Nhân gian xuân chí.
Hựu nhất phiên tân.
Cái văn Thái càn khôn,
Thiều quang úc úc,
Hướng dương quang thảo,
Sinh ý hân hân.
Hồng sấn đào tai,
Thanh khuy liễu nhãn,
Oanh hoàng điệp phách lộng tân phân.
Nhị tam tử,
Ngộ đáo lai thời tiết,
Phong quang khả nhân.
Giá ban mỹ cảnh lương thần,
Dục hành lạc tu cập thử thanh xuân.
Liêu vấn liễu, vấn hoa hương,
Huề hồng tụ nhất thương,
Nhất vịnh ca yết bạch vân,
Tiến sĩ đả cầu,
Thị thần bồi yến.
Cổ lai lạc sự thượng truyền văn,
Kim tao phùng,
Thánh thiên tử,
Hạnh đắc chí thân.
Dịch nghĩa:
Khí dương về giời,
Mùa xuân đến nhân gian.
Lại một phen đổi mới.
Xét lẽ, trời đất mở vận thái,
Ánh xuân nồng nàn,
Cỏ cây hướng về vầng thái dương,
Bừng bừng sức sống.
Da đào phô sắc sắc hồng,
Mắt liễu hé chồi xanh.
Chim oanh thổi sáo, lũ bướn đánh nhịp phách,
múa rộn tưng bừng.
Các vị,
Gặp khi tiết đẹp đến,
Phong cảnh say lòng người.
Lúc cảnh đẹp, thời tiết tốt như thế này;
Muốn hành lạc cho kịp thanh xuân này.
Hãy hỏi liễu biếc, hỏi hương hoa;
Tay áo hồng nâng chén rượu.
Cùng vịnh cùng ca cho vang tận làn mây trắng,
Tiến sĩ đánh cầu,
Thị thần hầu yến.
Những việc vui thuở xưa vẫn truyền nghe,
Nay gặp gỡ,
Thánh thiên tử,
May được tiến thân.
Dịch từ:
Thưởng xuân từ
Điệu Thấm viên xuân
Dương khí tràn về,
Xuân quang khắp chốn,
Lại một tinh khôi.
Nghĩ, quẻ Thái mở ra,
Thiều quang lộng lẫy,
Cỏ cây đón nắng,
Vạn vật sinh sôi.
Liễu hé chồi xanh,
Đào phô má đỏ,
Đàn oanh phách bướm rộn muôn nơi.
Nô nức kẻ,
Gặp vẻ xinh nhường ấy,
Nào chẳng say người.
Này đây cảnh đẹp màu tươi,
Mau vui thú kẻo lỡ khắc xuân ngời.
Dạm hỏi liễu, hỏi hoa hương,
Chén rượu vén tay nương,
Xướng ca ngâm, vọng mây trôi.
Tiến sĩ đánh cầu,
Thị thần hầu yến.
Chuyện vui thuở trước vẫn truyền đời.
Nay may gặp,
Thánh thiên tử,
Nhờ đội ơn trời.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.04.2011 12:03:40 bởi Anh Nguyên >
NGUYỄN-VĂN-GIAI
1554-1628
Thiên-Lộc(Can-Lộc), Hà-Tĩnh,
Thượng thư bộ Lại
HÀ THÀNH CHÁNH KHÍ CA
Tương truyền là của Ba Giai, một nhà thơ châm biếm ở cuối thế kỷ 19. Đây một thi phẩm dài nhằm ca ngợi sự tuẫn tiết của Tổng đốc Hoàng Diệu, đồng thời phê phán những quan lại phản bội (bỏ chạy hay đầu hàng), khi thành Hà Nội bị thực dân Pháp đánh chiếm lần thứ hai (1882).
Ba Giai tức Nguyễn Văn Giai, sống vào khoảng thời gian dưới triều Thiệu Trị (1841 - 1847) và Tự Đức (1848 - 1883). Người làng Hồ Khẩu, huyện Vĩnh Thuận (Hà Nội), là con thứ ba trong gia đình nên có tên gọi là Ba Giai. Ông sinh ra và lớn lên trong cảnh nghèo khó. Cha mẹ ông đều mất sớm. Năm 18 tuổi, chú bác muốn ông chăn giữ trâu, nhưng ông không thuận, chỉ muốn dùng tài học để lập thân.
Vì vậy, ông phải đi gánh thuê để có tiền ăn học. Học giỏi, nhưng gặp lúc nước nhà lâm cảnh loạn lạc, nên ông không đi thi.
HÀ THÀNH CHÍNH KHÍ CA
Một vừng chánh khí lưu hình,
Rộng trong trời đất: nhựt, tinh, sơn, hà,
Hạo nhiên ở tại lòng ta,
Tấc vuông son sắt hiện ra khi cùng (1)
Nên thua theo vận truân phong,
Ngàn thu rạng tiếng anh hùng sử xanh.
Có quan tổng đốc Hà-Ninh
Hiệu là Quang Viễn, trung trinh ai bằng? (2)
Lâm nguy, lý hiểm (3) đã từng,
Vâng ra trọng trấn mới chừng ba năm.
Thôn Hồ (4) dạ vẫn nhăm nhăm,
Ngoài tuy giao thiệp, trong căm những là...
Vừa năm Nhâm Ngọ, tháng ba,
Rạng ngày mồng tám, mới qua giờ thìn,
Biết cơ trước đã giữ gìn,
Hơn trăm võ sĩ, vài nghìn tinh binh.
Tiên nghiêm (5) sai đóng trên thành,
Thệ sư (6) rót chén rượu quỳnh đầy vơi.
Văn quan võ tướng nghe lời,
Hầm hầm xin quyết một bài tận trung.
Ra uy xuống lịnh vừa xong,
Bỗng nghe ngoài đã đùng đùng súng ran.
Tiêm cừu (7) nổi giận xung quan (8)
Quyết rằng chẳng để chi đàn chó dê
Lửa phun súng phát bốn bề,
Khiến loài bạch quỉ hồn lìa phách xiêu
Bắn ra nó chết cũng nhiều
Phố phường trông thấy, tiếng reo ầm ầm.
Quan quân đắc chí bình tâm,
Cửa Đông, cửa Bắc vẫn cầm vững binh.
Chém cha cái lũ hôi tanh
Phen này quét sạch sành sanh mới là!
Không ngờ thất ý tại ta,
Rõ ràng thắng trận, thế mà thua cơ!
Nội công rắp tự bao giờ,
Thấy kho thuốc cháy, ngọn cờ ngã theo
Quan quân sợ chết thảy đều,
Cửa Tây, Bạch qủi đánh liều trèo lên .
Nào ai sức mạnh gan liền?
Nào ai cầm vững cho bền ba quân?
Nào ai có chí kinh luân?
Nào ai nghĩ đến thánh quân trên đầu?
Một cơn gió thảm mưa sầu,
Đốt nung gan sắt, giãi dầu lòng son,
Chữ trung còn chút con con,
Quyết đem gởi cái tàn hồn gốc cây.
Trời cao biển rộng đất dày,
Non Nùng sông Nhị chốn nầy làm ghi!
Thương thay trong buổi gian nguy,
Lòng riêng ai chẳng thương vì người trung!
Rủ nhau tiền góp của chung,
Rước người ra táng ở trong học đường.
Đau đớn nhẽ, ngẩn ngơ dường!
Tả tơi thành quách, tồi tàn cỏ hoa!
Kể từ năm Dậu bao xa,(9)
Đến nay tính đốt phỏng đà mười niên.
Long thành thất thủ hai phen,
Kho tàng hết sạch, quân quyền dời tan.
Đổi thay trải mấy ông quan,
Quyên sanh tựu nghĩa, có gan mấy người?
Trước quan Võ hiển khâm sai (10)
Sau, quan Tổng đốc (11) một vài mà thôi.
Ngoài ra võ giáp văn khôi,
Quan, bào, trâm, hốt nhác coi, ngỡ là...
Khi bình làm hại dân ta,
Túi tham vơ nhặt chẳng tha miếng gì.
Đến khi hoạn nạn gian nguy,
Mắt trông ngơ ngác, chơn đi gập ghình.
Võ như đề đốc Lê Trinh, (12)
Cùng là chánh phó lãnh binh một đoàn,
Đương khi giao chiến ngang tàng,
Thấy quân hầu đổ vội vàng chạy ngay.
Nghĩ xem thật cũng ghê thay,
Bảo thân chước ấy ai bày sẵn cho?
Thế mà nghe nói mơ hồ
Rằng: quan đề đốc xuống hồ cửa tây;
Kẻ rằng: Treo ở cành cây
Người rằng: hẳn xuống giếng nầy không sai.
Thăm tìm ngày một ngày hai,
Định rằng hiệp táng cùng nơi học đường.
Hỏi ra sau mới tỏ tường,
Cũng loài úy tử, cũng phường tham sanh.
Phép công nên bắt gia hình,
Rồi ra nặng chữ nhơn tình lại thôi.
Văn như Tuần phủ nực cười,
Bình Chi là hiệu, năm mươi tuổi già (13)
Biết bao cơm áo nước nhà?
Nhắm trong sĩ tịch cũng là đại viên.
Chén son chưa cạn lời nguyền,
Nỡ nào bỗng chốc quên liền ngay đi?
Lại còn lẩn khuất làm chi?
Hay là tham tiếc mùi gì ở đây?
Hay là còn chước bình Tây,
Chực làm nội ứng, đợi ngày viện binh? (14)
Hay là tiếc gái xuân xanh?
Tìm nơi kiếm chốn gieo mình trú chân ?
Hay là còn chút từ thân,
Rắp toan tịch cốc (15) mấy lần lại thôi !
Sao không sợ tiếng với đời?
Sao không thẹn với người tử trung ?
Kìa Tôn Thất Bá niết công, (16)
Kim chi ngọc diệp, vốn dòng tôn nhân,
Đã quốc tộc, lại vương thần,
Cũng nên hết sức kinh luân mới là...
Nước non vẫn nước non nhà,
Nỡ sao bán rẻ một tòa Thăng Long?
Thề xưa liệu đã chẳng xong,
Lại còn mở mặt trong vòng lưỡng gian. (17)
Tư giao rắp những mưu gian,
Thừa cơ xin chữ hội thương ra ngoài.
Ấy mới khôn, ấy mới tài,
Lẩn đi tránh tiếng, giục người nói quanh.
Dâng công quyền nhận tỉnh thành,
Xui người đổ tiếng một mình quan trên.
Tội danh thiệt đã quả nhiên,
Xin đem giao xuống cửu nguyên chế đài. (18)
Thung dung kể đến phiên đài, (19)
Xỉ ban (20) cũng đã tuổi ngoài sáu mươi.
Thác trong thôi cũng nên đời.
Sống thừa chi để kẻ cười, người chê !
Nhĩ Hà, Tản lĩnh đi về,
Giang sơn tuyết chở, sương che cũng liều!
Còn như ty thuộc hạ liêu,
Kẻ công người quả còn nhiều chan chan,
Biết đâu cho khắp mà bàn,
Sau nầy sẽ có sử quan phẩm bình,
Trước rèm gió mát trăng thanh
Thừa lương nhân chốn nhàn đình thong dong.
Xa trông chót vót Bình phong (21)
Chúc mừng vạn thọ thánh cung lâu dài!
Rồi khi cá nước duyên hài,
Ra tay khang tế, giở tài kinh luân.
Nghiêu Thuấn quân, Nghiêu Thuấn dân,
Bát thiên thu, bát thiên xuân thái hòa!
Bây giờ ta gắn với ta,
Túy tinh khiển hứng, ngâm nga tiêu sầu.
Ở đời văn võ công hầu,
Càng nghe câu chuyện càng sầu bên tai!
Diễn ca Chánh khí một bài,
Để cho thiên hạ người người khuyên răn.
Chú thích :
(1) Mấy câu này dựa theo ý mở đầu bài Chánh khí ca của Văn Thiên Tường.
(2) Quang Viễn: tên hiệu của Hoàng Diệu.
(3) Lý hiểm: từng trải sự nguy hiểm.
(4) Thôn Hồ: nuốt rợ Hồ (chỉ quân Pháp).
(5) Tiên nghiêm: ra nghiêm lệnh trước.
(6) Thệ sư: cùng với quân sĩ thề sống chết đánh quân xâm lược.
(5) Có người đã chứng kiến trong khi giao chiến, nói rằng bấy giờ trong thành bắn ra, lính Pháp chẳng chết mấy; đấy là lời nói khoe đó thôi.
(6) Bấy giờ bốn ông quan tỉnh chia giữ bốn cửa, quan Tổng đốc giữ Cửa Bắc.
(7) Tiêm cừu: chỉ muốn giết kẻ thù.
(8) Xung quan: giận, tóc dựng lên đội cả mũ mão.
(9) Năm Quí Dậu, Tự Đức thứ 25 (1873), Thiếu tá hải quân Gác-nhi-ê (Francis Garnier) đánh thành Hà Nội lần đầu.
(10) Chỉ Nguyễn Tri Phương, vị tướng đã uống thuốc độc chết sau khi để mất thành Hà Nội (lần thứ nhứt).
(11) Chỉ Tổng đốc Hoàng Diệu.
(12) Đoạn nầy nói Đề đốc Lê Trinh không chết trong khi thành mất mà lại chạy trốn, theo phép phải có tội, song vì đút tiền nên được khỏi.
(13) Hoàng Hữu Xứng, tự Bình Chi, làm Tuần phủ Hà Nội bấy giờ. Ban đầu cũng thề còn mất với thành, nhưng nhịn ăn được vài bữa lại thôi và bằng lòng hợp tác với thực dân.
(14) Bản của Huỳnh Lý ghi Nghiên tinh, có nghĩa nghiên cứu tinh thường.
(15) Tịch cốc: nhịn các thứ lúa gạo, ngũ cốc.
(16) Niết công: chỉ Tôn Thất Bá làm Án sát bấy giờ. Buổi sớm mai ngày mồng tám, quân Pháp mới kéo đến, ông Bá xin giấy ra thành để thương thuyết với tướng Pháp xin hoãn binh. Sau khi thành bị hạ, tướng Pháp giao thành lại, ông Bá đứng nhận. Ông ấy lấy chứng cớ mình ra ngoài hội thương mà đổ trách nhiệm đánh nhau cho một mình quan Tổng đốc, còn mình không can dự.
(17) Lưỡng gian: hai vùng trời và đất, ý nói sống ở trên đời.
(18) Chế đài là Tổng đốc.
(19) Phiên đài là quan Bố chính.
(20) Xỉ ban: hạng tuổi tác.
(21) Bình phong là núi Ngự Bình ở Huế.
HÀ THÀNH THẤT THỦ CA
(Trích 138 trong số 262 câu của toàn bài)
...Quan đi cả mà còn thành lũy,
Chạnh lòng người ngẫm nghĩ mà thương!
Kính Thiên[2] ngai ngự thếp vàng,
Tây ngồi đánh chén với đoàn thanh lâu[3].
Các chùa miếu đâu đâu đấy tá,
Can gì Tây cũng phá tan tành?
Chủ kho tượng[4]cũng chẳng linh,
Để Tây đem đốt, ra tình trêu ngươi.
Kể chi hắn hại người đến thế,
Hạ thành rồi chẳng để cho xây;
Có người rằng: "Lũ Tây này,
Khác Tây Quý Dậu[5] mà rầy lăng nhăng".
Dân xiêu lạc hỏi săng hỏi đón:
"Về đánh Tây có bọn nào không?"
Đồn: "Quan Tiết chế Hoàng công[6],
Hắc Kỳ[7] hợp với Sơn Hùng[8] cũng đông.
Đang sắm sửa hỏa công, khí giới,
Tế cờ rồi ngài mới cất quân".
Người ta tấp tểnh nghe dần,
Bữa mai bữa mốt đại thần về đây.
Đỏ như mắt cá chầy mong mỏi,
Tính ngón tay đã ngoại tháng Ba;
Bỗng đâu có sứ kinh ra:
Tỉnh biên Đình Túc giảng hòa với Tây.
Được hai bữa kéo ngay vào tỉnh,
Thấy kho tàng dinh sảnh sạch không;
Bàn nhau sớ tấu cửu trùng,
Thấy sao nói vậy đủ trong tình hình.
Kìa như kẻ học sinh cửa thánh,
Hễ làm trai phải gánh cương thường;
Ngán cho Đốc bộ họ Hoàng[9]
Đan tâm có một can tràng không hai.
Cũng có kẻ van hoài xuất thú,
Lại có người mặt ủ hờn cơm[10];
Nhờ ai cũng dựa tiếng thơm,
Tiếng gì xuân nữa mà sờm sỡ ai?
Được mấy kẻ ai tài phải đạo?
Đều ăn cơm mặc áo trên đời;
Đến khi có việc tày trời,
Trơ trơ chỉ thấy một người tận trung![11]
Trong thế cuộc nào mong như thế,
Nỗi phố phường mới kể mà nghe;
Bằng nay xuân đã sang hè,
Thân này đóng cửa mà nghe sự đời.
Tỉnh Hà Nội những người phố xá,
Chạy loạn Tây vất vả cũng thương;
Xách già ôm trẻ vội vàng,
Về quê ăn tuyệt tư lương sạch rồi.
Ở cũng cực, ra thời cũng cực,
Tưởng bán buôn mà bức mọi bề:
Bằng ai có chợ có quê,
Tiện phương thương mại, tiện nghề điền viên.
Cũng có kẻ quen miền phố xá,
Thói quê mùa bỡ ngỡ xưa nay;
Ra hài vào hán thế này,
Bây giờ lại phải dãi dày tuyết sương.
Xưa chạy loạn, nay đương chạy loạn,
Khúc ngày xưa khác đoạn ngày nay;
Có quan đi giữ dẹp Tây,
Nay quan chẳng thấy, loạn này bao yên?
Rạng nghe đóng trên miền Dày, Kẻ[12],
Mai lại nghe ở Vẽ, ở Vòng[13];
Lại nghe mới bước đến Phùng[14],
Lại nghe Ngài đóng ở vùng Thanh Oai.
Nghe đồn tiếng rằng Ngài phủ Lý[15],
Huyện Nam Xang[16] quân thủy đóng thuyền;
Đồn rằng Ngài ở Tam Tuyên[17]
Hắc kỳ vừa tới, Thanh biền vừa qua.
Thôi thôi hẳn Ngài đà đãi chí,
Hễ mà nghe thánh chỉ mần răng;
Cho nên việc phải dùng dằng,
Hết ngồi mà sợ, hết nằm mà lo!
Quan ta chứa các kho tiền thóc,
Mong làm hòa dở khóc dở van;
Sớ ra giục giã các quan,
Tây thì khẳng khái biết bàn làm sao?
Tòa thất thủ, xiềng trao già tỏa[18],
Phải lai kinh tra đã, không tha;
Loanh quanh ta lại với ta,
Kính Thiên Tây ở thế mà điềm nhiên!
Đồn: Tàu Khách sang miền Tây Bắc,
Làm rọ nhiều hẳn bắt đoàn Tây;
Mấy mươi đinh kéo đến đây,
Những là mong mỏi mà rày thấy đâu!
Hay các chú phá tàu Đông Hải[19],
Còn quay về đóng lại mới sang?
Mau mau cứu lấy Đại Nam,
Gạo đong hầu hết, củ lang không nhiều!
Lúa ngô gạo nếp đều vét sạch,
Vận Bắc Kỳ có bách hay không?
Sự hòa còn nói viễn vong,
Một nhà ba chủ biết trông chủ nào?
Chuyện lúng túng làm sao thế ấy?
Mãi thế này những thấy bét be;
Nực cười kể chuyện lè nhè,
Người cùng tìm cách chở che qua ngày.
Đàn bà phải lấy Tây cũng bức,
Dẫu rậm râu mạnh sức cũng liều;
Người Nam lớn bé bao nhiêu,
Ở hầu làm bếp cũng đều làm ăn.
Cô thống sát, thông năm[20]vô số,
Vợ quan Tây bà cố chan chan;
Võng đào giày thắm nghênh ngang,
Mới hôm nọ đã bà quan tềnh tàng!
Phường nhà bếp nghênh ngang đi phố,
Áo quần Tây lăng lố thông ngôn;
Nay tàu lên Hạc[21] lập đồn,
Làm thêm thương chánh bán buôn cho nhiều.
Rày nghe tiếng Thiêu triều đến Quán[22],
Từ Vân Nam mấy vạn kéo sang,
Bắc Ninh với lại Tuyên Quang,
Quảng Yên, Thái, Lạng vô vàn Thanh quân.
Xin cứu lấy nước Nam dành báo,
Có tờ thư thu gạo cho nhiều;
Sứ dân: "Định giá bao nhiêu,
Thuận mua, vừa bán, Thiên triều trả cho!"
Sơn, Hưng, phải làm kho chứa sẵn,
Lưỡng biên giang[23] cứ thẳng kéo về;
Tỉnh thành cho chí chợ quê,
Chỉ lo chết đói mà mê mẩn người.
Còn dũng tráng trêu ngươi bặng nhặng,
Người làm công, thằng thẳng lưng xơi;
Nghĩ buồn Nam Việt sự đời,
Những ăn hà tiện, của thời cho ai!
Nay Tây cậy có tài thiện thủy,
Đường sơn lâm hẳn bí kế thôi;
Tàu bè ngược ngược, xuôi xuôi,
Lên Hưng, Sơn đoạn lại hồi Trường Tây.
Chú Khách cậy quân này thiện bộ,
Dòng Nhị Hà hắn đố dám qua;
Đi đâu quanh quẩn thế mà?
Hết Lâm, Đoan lại Bảo Hà, sông Ngâu.
Hai bên cứ giữ nhau thế mãi,
Hay sợ hơi, có phải hay không?
Bên e tráo phá thần công,
Bên e cờ úp thung trồng[24] đắm ngay.
Sao mà giữ mãi thế này?
Tây thì Hà Nội, Ngô[25]rày Sơn, Hưng.[26]
~Vô danh~
Chú thích:
1.Tương truyền, Hà Thành Chính Khí ca, Hà Thành hiểu vọng và bài thơ này đều của Ba Giai (Nguyễn văn Giai), người huyện Vĩnh Thuận (Hà Nội), một nhà thơ châm biếm ở cuối thế kỷ 19 tại Việt Nam.
2.Kính Thiên: là tòa cung điện trung tâm của hoàng cung thời nhà Lê ở Thăng Long, dùng để vua và các đại thần đến tĩnh tâm và bày tỏ lòng kính trời.
3.Đoàn thanh lâu chỉ những gái ở lầu xanh.
4.Kho tượng: tượng thần giữ kho.
5.Quý Dậu (1873): nhắc năm Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ nhất, tướng Nguyễn Tri Phương tuẫn tiết sau khi thành mất.
6.Tiết chế Hoàng công, ý nói đến Tiết chế quân vụ Bắc Kỳ Hoàng Tá Viêm.
7.Hắc Kỳ, chỉ quân Cờ đen của Đề đốc Lưu Vĩnh Phúc.
8.Sơn, Hùng: tức Sơn Tây và Hưng Hóa (Hùng tức phủ Đoan Hùng thuộc tỉnh Hưng Hóa, nay là Phú Thọ).
9.Chỉ Tuần phủ Hoàng Hữu Xứng. Khi quân Pháp thừa ùa vào thành, viên quan này bỏ trốn trong hành cung. Đoạn thơ này tác giả có ý châm biếm.
10.Mặt ủ hờn cơm: ý nói đến Tuần phủ Hoàng Hữu Xứng, khi thành Hà Nội thất thủ, cũng giả vờ buồn rầu nhịn ăn vài bữa.
11.Ám chỉ Tổng Đốc Hoàng Diệu.
12.Dày, Kẻ: tên hai làng thuộc phủ Hoài Đức ở phía Tây Hà Nội.
13.Vẽ, Vòng: tức làng Đông Ngạc và Dịch Vọng. Cả hai đều thuộc Hà Nội.
14.Phùng: Phùng Xá, thuộc huyện Đan Dương, tỉnh Hà Đông (nay là Hà Nội).
15.Phủ Lý: tức phủ Lý Nhân thuộc tỉnh Hà Nam.
16.Huyện Nam Xang: thuộc tỉnh Hà Nam.
17.Tam Tuyên: gồm Tuyên Quang, Hưng Hóa và Sơn Tây.
18.Tòa thất thủ, xiềng trao già tỏa: Để thành Hà Nội thất thủ, các quan có trách nhiệm tự đem xiềng gông trói lại.
19.Tàu Đông Hải: Tên một chiếc tàu của quân Thanh (Trung Quốc).
20.Thống sát, thông năm: tên tục gọi một số người ra cộng tác với quân Pháp.
21.Hạc: Bạch Hạc, thuộc Phú Thọ.
22.Quán: huyện lỵ Trấn An, gần Bảo Hà (thuộc tỉnh Lào Cai).
23.Lưỡng biên giang: dọc hai bên bờ sông.
24.Cờ úp thung trồng: cờ to có móc câu, có thể dùng để đánh đối phương. Đây là khí cụ quen thuộc của quân Cờ Đen do Đề đốc Lưu Vĩnh Phúc chỉ huy. Thung trồng là cọc đóng ở lòng sông. Đây là biện pháp thường dùng của quân Việt, nhằm chống ngăn tàu địch.
25.Ngô: chỉ quân Thanh. Dùng từ này, tác giả có ý nói lực lượng này cũng là "giặc".
26.Chép trong Mấy bài sử ca trong giai đoạn chống xâm lăng do Huỳnh Lý soạn. Nxb Văn hóa (Hà Nội), 1958.
HÀ THÀNH HIỂU VỌNG
Bốn bề hàng phố tiếng xôn xao,
Giở dậy mà xem những thế nào?
Lục sở bày trò trong rạp tối,
Tam tài cờ cắm ngọn thành cao.
Giày Tàu bít gót, Ngô đi bãi,
Váy lĩnh phơi trôn, đĩ rửa hào.
Nhuốm, vện, khoang, vằn…vô số chó,
Ra tuồng đắc ý chạy xôn xao (1).
~Vô danh~
(1) Chép trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, (1858-1820). Nxb Văn học, 1984, tr. 498
Hà Thành Chính Khí ca, Hà thành thất thủ ca và Hà Thành hiểu vọng là ba bài thơ tiêu biểu trong thời kỳ thực dân Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ (Việt Nam) lần thứ hai (1882).
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.04.2011 12:38:07 bởi Anh Nguyên >
NGUYỄN-DỮ
TK 16, Thanh -Miện, Hải-Dương,
Tác giả Truyền kỳ mạn lục.
NA-SƠN TIỀU ĐỐI LỤC Câu chuyện đối đáp của người tiều phu
ở núi Na. Theo bản dịch của Trúc-Khê, là
truyện thứ 12 trong 20 truyện của quyển
Truyền kỳ mạn lục (Sao chép những chuyện
kỳ lạ) của Nguyễn-Dữ. Na chi sơn hữu thạch toàn ngoan,
Thụ thương thương,
Yên mịch mịch,
Thủy sàn sàn.
Triêu hề ngô xuất,
Mộ hề ngô hoàn.
Hữu y hề chế kỹ,
Hữu bội hề nhận lan.
Thát bài thanh hề bình hiểu chướng,
Điền hộ lục hề chẩm tình than.
Nhậm tha triều thị
Nhậm tha xa mã,
Tri trần bất đáo thử giang san.
U thảo Tống triều cung kiếm,
Cổ khâu Tấn đại y quan.
Vương, Tạ phong lưu,
Triệu, Tào sự nghiệp,
Toán vãng cổ lai kim khanh tướng,
Thạch triện đài man.
Tranh như ngã trạo đầu nhất giác,
Hồng nhật tam can. ~Nguyễn-Dữ~
Dịch:
Trên Na sơn đá mọc ngổn ngang
Cây xanh xanh,
Khói mờ mịt,
Nước tuôn tràn.
Sáng chừ ta ra đi,
Chiều chừ ta về ngàn.
áo ta mặc chừ sẵn đây cây lá,
Cổ ta đeo chừ nào chuỗi cỏ lan.
Núi phơi xanh chừ bình phong sương sớm,
Ruộng trải biếc chừ gối thác chon von.
Mặc ai xe ngựa,
Mặc ai phố phường,
Nước non riêng chiếm, bụi đời không vương.
Cung kiếm Tống triều, vùi cỏ rậm,
Mũ đai Tấn đại, lấp gò hoang.
Sự nghiệp Triệu, Tào (3)
Phong lưu Vương, Tạ (4)
Ngẫm lại cổ kim bao đời khanh tướng,
Rêu phủ bia tàn.
Sao bằng ta: mặt trời đã cao ba thước,
Giấc điệp hãy mơ màng. ~Trúc-Khê~ BÀI CA THÍCH NGỦ
Ngô hà ái? ái duy miên,
ái vị an thư thích tính nhiên.
Thiển mặc trướng thiêm tân phú quý,
ủy đằng sàng kết cựu nhân duyên.
Mai chi hiên, trúc chi viên,
U cư thú vị hữu lâm tuyền.
Thanh nô ủng hậu,
Hồng hữu la tiền.
Mỗi dẫn hắc điềm thắng,
lương tứ khinh biền.
Song yểm nhĩ hồng trần thế thượng,
Tiểu khúc quăng bạch ốc vân biên.
Ký ngạo thảo lư, Nam Dương nhàn nhật nguyệt,
Khiếm thân vân quán, Triệu Tống trách sơn xuyên.
Bắc song ngâm hồn dị xúc,
Tây đường xuân mộng thường viên.
Thư lâu sơ quyển tịch,
Tửu điếm dục tình thiên.
Huyền hạc Hoàng Châu dạ dạ.
Mỹ nhân Tương thủy niên niên.
Hữu thời hướng túy hương đả ngọa,
Thảo phô nhân, hoa phô ác, địa phô chiên.
Bành Trạch dạ thâm, bán liêm tàn nguyệt,
Liêm Khê viện tĩnh, nhất chẩm đề quyên.
Nhậm nhân đạo vi lãn phu sĩ, vi khát
thụy hán, vi ẩn thần tiên. ~Nguyễn-Dữ~
Dich:
Thích gì? Ta thích ngủ thôi,
Vì chưng ngủ được, trong người sởn sang.
Nhân duyên xe chặt giường màn,
Trúc mai, rừng, suối, muôn vàn cảnh thanh.
Quanh mình bạn đỏ hầu xanh,(5)
Giấc ngon bừng tỉnh, tâm linh nhẹ vèo.
Bưng tai chuyện thế eo xèo,
Khoanh tay ngất ngưởng, nằm khoèo bên mây.
Lều tranh một túp xinh thay,
Nam Dương nọ kẻ tháng ngày thảnh thơi.(6)
Quán Vân (7) uể oải nằm dài,
Non sông coi nhỏ kìa ai Tống triều.
Lầu tây, Song bắc tiêu diêu,(8)
Khi mai quán rượu lúc chiều hiên thơ.
Sông Tương người đẹp (9) trong mơ,
Châu Hoàng bóng hạc vật vờ cao bay.(10)
Có khi ngủ tít làng say,
Đất giường cỏ nệm hoa vây làm màn.
Uyên Minh ngủ dưới trăng tàn,(11)
Liêm Khê gối chợp tiếng ran quyên gào(12).
Chê khen ai bảo thế nào:
Đồ lười biếng, bậc thanh cao, mặc lòng. ~Trúc-Khê~
BÀI CA THÍCH CỜ
Ngô hà ái? ái duy kỳ,
ái vị phong vân biến thái kỳ.
Liệt xứ loại long xà thất thế,
Thắng biên như hùng hổ dương uy.
Xa song trì, mã song phi,
Độ hà nhất tốt kháo trùng vi,
Bắc nam tương giới, hình thế tương y,
Mặc vận phương viên động tĩnh, diệu toán vô di.
Xuân tịch tịch xạ khao tàn mộng,
Thủ dao dao bãi toán hương nê.
Độc lạc viên trung, tân bằng sơ định hậu,
Hoàng châu lâu hiểu, mính đính bán tinh thì.
Trú vĩnh thiên lưu khách cửu,
Am cao tử lạc thanh trì.
Viện giao dung thiếp tảo,
Liêm hứa tiểu đồng khuy.
Doanh thâu đổ giang sơn bán cục,
Công danh tiêu đắc thất nhàn ky.
Hồn bất giác nhất thiên hướng tịch,
Nguyệt tà song, yên tà triện, trúc tà chi.
Lãng uyển thần tiên, nhàn trung độ nhật,
Trường An công tử túy lúy vong quy.
Tương đối xứ kiêm tá cầm, kiêm tá họa, kiêm tá bích đề thi. Nguyễn-Dữ~
Dịch:
Thích gì? Ta thích cờ thôi,
Gió mây biến hóa ai ôi lạ lùng.
Cơn thua, rồng rắn khi cùng,
Mà xem lúc thắng hổ hùng dương oai.
Ngựa xe rong ruổi đường dài,
Sang sông một tốt hãm ngoài trùng vi.
Bắc nam hình thế riêng chia,
Tới lui động tĩnh tính suy đủ đường.
Xuân êm khua tỉnh giấc vàng,
Con cờ đập mạnh hương đàn thoảng bay.
Vườn riêng xum họp bạn bày(13),
Châu Hoàng, lầu Trúc rượu say nửa vời.(14)
Ngày dài lưu khách ngồi chơi,
Am cao điểm tiếng quân rơi trước bàn.
Tiểu đồng ngấp ngó bên lan,
Cô hầu quanh viện quét tàn lá rơi.
Giang san vật lộn tay đôi,
Công danh quên bẵng, chuyện đời hơn thua.
Ngày vui thời khắc êm đưa,
Trăng tà hương lạnh trúc ngơ ngẩn cành.
Thần tiên nhàn nhã vườn quỳnh,
Trường An công tử thích tình vui say.
Trong khi vui nước cờ hay,
Thêm đàn, thêm rượu, thêm đầy vách thơ. ~Trúc-Khê~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 12.04.2011 08:19:40 bởi Anh Nguyên >
LƯU-ĐÌNH-CHẤT
1556-1627
Quê Đông-Khê, Quỳ-Chử, Hoằng-Hóa, Thanh-Hóa,
đậu Nhị Giáp Tiến Sĩ, làm quan, đựợc cử Chánh sứ
sang nhà Minh, tiếp xúc với các nhà Nho Tầu và Cao-
Ly, về nước được thăng Tả thị lang Bộ Lại, Đô-Ngự-
Sử, Thượng Thư Bộ Hộ.
LỮ TRUNG THUẬT HOÀI 旅 中 述 懷
中 興 喜 際 日 當天
詩 詠 黃 華 屬 壯年
忠 愛 寸 丹 常 夢寐
詢 諏 一 念 每 勤拳
觀 光 已 喜 詩 懷壯
專 對 重 思 國 命全
若 問 客 裝 何 所有
清 風 明 月 興 無 邊 Lữ trung thuật hoài Trung hưng hỉ tế nhật đương thiên Thi vịnh hoàng hoa thuộc tráng niên Trung ái thốn đan thường mộng mị Tuân tưu nhất niệm mỗi cần quyền Quan quang dĩ hỉ thi hoài tráng Chuyên đối trùng tư quốc mệnh tuyền Nhược vấn khách trang hà sở hữu. ~Lưu-Đình-Chất~ Bản dịch: Nỗi lòng chuyến đi xa Trung hưng mừng buổi mặt trời lên, Thơ vịnh hoàng hoa tuổi tráng niên. Trung ái tấc son thường mộng tưởng, Kế mưu một dạ vẫn chăm chuyên. Quan quang mừng được hồn thơ khoẻ, Chuyên đối xem ra mệnh nước tuyền. Nếu hỏi hành trang gì khách có, Trăng trong gió mát hứng vô biên. ~Lưu-Đình-Chất~ Ông giao tiếp với các nhà Nho Trung Hoa
như Gia Cát Tú, Lỗ Vương Tông Nhượng,
Vương Dụng Phỉ.. . HOẠ ĐÔNG LỖ VƯƠNG TÔNG NHƯỢNG KIẾN KÝ THI VẬN 和 東 魯 王 宗 讓 見 寄 詩 運
切 偲 何 行 得 逢 君
膠 膝 相 投 意 愈 親
餞席 憑 君 敲 白 雪
回 程 快 我 步 青 雲
有 懷 極 覺 交 情 切
靡 盬 剛 嫌 王 事 勤
此 後 日 南 相 記 憶
信 書 好 記 一 封 聞 Hoạ Đông Lỗ Vương Tông Nhượng
kiến ký thi vận Thiết tư hà hạnh đắc phùng quân Giao tất tương đầu ý dũ thân Tiễn tịch bằng quân xao bạch tuyết Hồi trình khoái ngã bộ thanh vân Hữu hoài cực giác giao tình thiết Mị cổ cương hiềm vương sự cần Thử hậu Nhật Nam tương ký ức Tín thư hảo ký nhất phong văn. ~Lưu-Đình-Chất~ Tạm dịch: Hoạ vần bài thơ của Đông Lỗ Vương Tông Nhượng gửi cho Nghĩ thật may sao gặp được ngài, Keo sơn hoà hợp đượm thân tình. Ngài bày tiệc tiễn xua tan tuyết, Tôi rảo đường về mây biếc xanh. Có nhớ mới hay tình thắm thiết, Nhưng hiềm công việc chẳng dứt đành. Nhật Nam mai nữa rồi mong nhớ, Xin gửi phong thư nói ngọn ngành. Ngoài ra, ông còn mở rộng mới giao hảo với
sứ thần Cao Ly là Lý Đẩu Phong tại Yên
Kinh. Hai ông đã tặng thơ cho nhau.
GIẢN TRIỀU TIÊN QUỐC SỨ LÝ ĐẦU PHONG 簡 朝 鮮 國 使 李 斗 峰
東 方 禮 義 久 聞 名
瑞 彩 欣 今 覩 使 星
風 物 山 川 鍾 地 秀
詞 章 奎 斗 燦 天 經
車 書 一 統 歸 王 會
日 月 重 宵 覲 帝 庭
邂 逅 雲 萍 君 莫 怪
人 逢 知 己 眼 常 青 Giản Triều Tiên quốc sứ Lý Đẩu Phong Đông phương lễ nghĩa cửu văn danh, Thuỵ thái hân kim đổ sứ tinh. Phong vật sơn xuyên chung địa tú, Từ chương khuê đẩu xán thiên kinh. Xa thư nhất thống quy vương hội, Nhật nguyệt trùng tiêu cận đế đình. Giải cấu vân bình quân mạc quái, Nhân phùng tri kỷ nhãn thường thanh. ~Lưu-Đình-Chất~
Bản dịch: Gửi quốc sứ Triều Tiên Lý Đẩu Phong Phương Đông lễ nghĩa vốn nghe danh, Nay gặp sứ đây vẻ tốt lành. Văn vật núi sông chung đất đẹp, Từ chương khuê đẩu rực thiên kinh. Xa thư một mối về vương hội, Nhật nguyệt chín tầng chầu đế đình. Vận hội bèo mây anh chớ lạ, Gặp người tri kỷ mắt thường xanh.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 05.05.2011 07:54:35 bởi Anh Nguyên >
CỐNG QUỲNH
1677-1748
Quê làng Bột-Thượng, xã Hoằng-Lộc,
huyện Hoằng-Hóa, tỉnh Thanh-hóa.
Ông đậu Giải-Nguyên, nhưng thi Hội
nhiều lẩn bị hỏng. Là danh sĩ thời Lê,
đỗ Hương Cống, nên còngọi là Cống-
Quỳnh. Ông nổi tiếng về trào phúng.
NÓI PHÉT
Ta con ông Cống, cháu ông Nghè,
Nói phét trên trời dưới đất nghe.
Sức khỏe Hạng-Vương cho một đấm,
Cờ cao Đế-Thích chấp hai xe.
Nhảy ngay xuống biển lôi tầu lại,
Chạy thẳng lên non cưỡi cọp về.
Thong thả vào cung chơi với chúa,
Ba ngàn cung nữ thỏa lòng mê.
~Cống-Quỳnh~
NGÔ-TRÂN
1679-1760
Quê Tả-Thanh-Oai, Thanh-Oai, Hà-Đông,
đậu Cử Nhân, nổi tiếng uyên bác, sống thanh
bần, có khí tiết, 80 tuổi còn dạy học, đào tạo
được nhiều nhân tài, có bài tự thuật trước khi
mất:
八旬掐似始生兒,
一片丹心赤子 時.
健順五常巡我 性,
任它言智与言 痴.
Bát tuần cáp tự thủy sinh nhi,
Nhất phiến đan tâm xích tử thì.
Kiện thuận ngũ thường tuần ngã tính,
Nhiệm tha ngôn trí dữ ngôn si.
~Ngô-Trân~
Bản dịch:
Tám mươi lại hóa nhi đồng,
Lòng son như trẻ lọt lòng mới sinh.
Cương thường vẹn giữ tính mình,
Rằng khôn rằng dại mặc tình khen chê.
NGUYÊN-BÁ-LÂN
1701-1785
Quê Cổ-Độ, Tiên-Phong, Sơn-Tây (Ba-Vì,
Hà-Tây), đậu Tiến-Sĩ, làm quan đến Thượng
Thư, nổi tiếng về văn chương.
PHÚ NGÃ BA HẠC
Vui thay! Ngã ba Hạc;
Vui thay! Ngã ba Hạc.
Dưới họp một dòng;
Trên chia ba ngác.
Ngóc ngách khôn đo rộng hẹp, dòng biếc lẫn dòng đào;
Lênh lang dễ biết sâu nông, nước đen pha nước bạc.
Nhớ xưa:
Vũ trụ mơ màng;
Càn khôn xếch xác.
Vua Bàn Cổ khai lò tạo hoá, hồng mông đà phơi phới hơi xuân;
Họ Hữu Ngu khơi mạch sơn hà, cương giới vẫn rành rành dấu tạc.
Vậy có:
Nắm đất Đoài phương;
Cạnh giời Nam quốc.
Ba góc bờ chia vành vạnh, huyệt kim qui hẻm đá rộng hông hênh;
Hai bên cỏ mọc lâm dâm, hang anh vũ giữa dòng sâu huếch hoác.
Mọi thú mọi vui;
Một chiều một khác.
Lơ thơ đầu ông Lã thả cần;
Trần trụi mặc Chử Đồng ngâm nước.
Bè khách thương bạ bến, cắm neo quỳ gối lắc cày xuôi;
Thuyền ngư phủ thuận dòng, giương nách khom lưng chèo tếch ngược.
Dùi điểm thùng thùng trống gọi, cửa tuần ty rộn rã khách chen vai;
Chày đâm văng vẳng chuông đưa, nền Phật tự lao xao người rén bước.
Khác gì:
Những chốn Tiêu Tương;
Đồ Tranh thuỷ mặc.
Trên lọ phải vén quần vua Tống, ra sức anh uy;
Dưới cũng vỗ bụng giời Nghiêu, dắng ca canh tạc.
Ta nay:
Qua miền Tam Đái, dứt dải sông lô;
Thấy ngã ba Hạc vui thay, làm chơi một đạc.
Ai hữu tình ngắm cảnh mà coi, kể làm cực nhân sinh chi khoái lạc.
~Nguyễn-Bá-Lân~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.12.2012 19:42:48 bởi Anh Nguyên >
ĐẶNG-TRẦN-CÔN
1710-1745
Nhân-Mục, Thanh-Trì, Hà-Đông (Thanh-Trì,
Hà-Nội), đậu Hương-Cống, Tri-huyện Thanh-Oai,
Hà-Đông, lúc trẻ làm nhiều thơ, bị bà Đoàn-Thị-Điểm
chê là dở, sau đó ông sáng tác Chinh phụ ngâm, bà
Điểm cũng phải phục và dịch ra quốc âm. Ông cũng
là ác giả Bích câu kỳ ngộ.
CHINH PHỤ NGÂM KHÚC
Nguyên bản chữ Hán:
征婦吟曲
一。亂時
1. Loạn Thời
天 地 風 塵
紅 顏 多 屯
悠 悠 彼 蒼 兮 誰 造 因
鼓 鼙 聲 動 長 城 月
5
烽 火 影 照 甘 泉 雲
九 重 按 劍 起 當 席
半 夜 飛 檄 傳 將 軍
清 平 三 百 年 天 下
從 此 戎 衣 屬 武 臣
10
使 星 天 門 催 曉 發
行 人 重 法 輕 離 別
弓 箭 兮 在 腰
妻 孥 兮 別 袂
獵 獵 旌 旗 兮 出 塞 愁
15
喧 喧 簫 鼓 兮 辭 家 怨
有 怨 兮 分 攜
有 愁 兮 契 闊
良 人 二 十 吳 門 豪
投 筆 硯 兮 事 弓 刀
20
直 把 連 城 獻 明 聖
願 將 尺 劍 斬 天 驕
丈 夫 千 里 志 馬 革
泰 山 一 擲 輕 鴻 毛
便 辭 閨
閫
從 征 戰
25
西 風 鳴 鞭 出 渭 橋
Thiên địa phong trần
Hồng nhan đa truân
Du du bỉ thương hề thuỳ tạo nhân
Cổ bề thanh động Trường Thành nguyệt
Phong hỏa ảnh chiếu Cam Tuyền vân
Cửu trùng án kiếm khởi đương tịch
Bán dạ phi hịch truyền tướng quân
Thanh bình tam bách niên thiên hạ
Tùng thử nhung y thuộc vũ thần
Sứ tinh thiên môn thôi hiểu phát
Hành nhân trọng pháp khinh ly biệt
Cung tiễn hề tại yêu
Thê noa hề biệt khuyết
Liệp liệp tinh kỳ hề xuất tái sầu
Huyên huyên tiêu cổ hề từ gia oán
Hữu oán hề phân huề
Hữu sầu hề khế khoát
Lương nhân nhị thập Ngô môn hào
Đầu bút nghiên hề sự cung đao
Trực bả liên thành hiến minh thánh
Nguyện tương xích kiếm trảm thiên kiêu
Trượng phu thiên lý chí mã cách
Thái Sơn nhất trịch khinh hồng mao
Tiện từ khuê khổn tùng chinh chiến
Tây phong minh tiên xuất Vỵ kiều
二。出征
2. Xuất Chinh
渭 橋 頭 清 水 溝
清 水 邊 青 草 途
送 君 處 兮 心 悠 悠
君 登 途 兮 妾 恨 不 如 駒
30
君 臨 流 兮 妾 恨 不 如 舟
清 清 有 流 水
不 洗 妾 心 愁
青 青 有 芳 草
不 忘 妾 心 憂
35
語 復 語 兮 執 君 手
步 一 步 兮 牽 君
襦
妾 心 隨 君 似 明 月
君 心 萬 里 千 山 箭
擲 離 杯 兮 舞 龍 泉
40
橫 征 槊 兮 指 虎 穴
云 隨 介 子 獵 樓 蘭
笑 向 蠻 溪 談 馬 援
君 穿 壯 服 紅 如 霞
君 騎 驍 馬 白 如 雪
45
驍 馬 兮 鸞 鈴
征 鼓 兮 人 行
須 臾 中 兮 對 面
頃 刻 裡 兮 分 程
分 程 兮 河 梁
50
徘 徊 兮 路 旁
路 旁 一 望 兮 旆 央 央
前 車 兮 北 細 柳
後 騎 兮 西 長 楊
騎 車 相 擁 君 臨 塞
55
楊 柳 那 知 妾 斷 腸
去 去 落 梅 聲 漸 遠
行 行 征 旆 色 何 忙
望 雲 去 兮 郎 別 妾
望 山 歸 兮 妾 思 郎
Vỵ kiều đầu thanh thuỷ câu
Thanh thuỷ biên thanh thảo đồ
Tống quân xứ hề tâm du du
Quân đăng đồ hề thiếp hận bất như câu
Quân lâm lưu hề thiếp hận bất như chu
Thanh thanh hữu lưu thuỷ
Bất tẩy thiếp tâm sầu
Thanh thanh hữu phương thảo
bất vong thiếp tâm ưu
Ngữ phục ngữ hề chấp quân thủ
Bộ nhất bộ hề khiên quân nhu
Thiếp tâm tuỳ quân tự minh nguyệt
Quân tâm vạn lý Thiên Sơn tiễn
Trịch ly bôi hề vũ Long Tuyền
Hoành chinh sáo hề chỉ hổ huyệt
Vân tuỳ Giới Tử liệp Lâu Lan
Tiếu hướng Man Khê đàm Mã Viện
Quân xuyên trang phục hồng như hà
Quân kỵ kiêu mã bạch như tuyết
Kiêu mã hề loan linh
Chinh cổ hề nhân hành
Tu du trung hề đối diện
Khoảnh khắc lý hề phân trình
Phân trình hề hà lương
Bồi hồi hề lộ bàng
Lộ bàng nhất vọng hề bái ương ương
Tiền xa hề Bắc Tế Liễu,
Hậu kỵ hề Tây Trường Dương
Kỵ xa tương ủng quân lâm tái
Dương liễu na tri thiếp đoạn trường
Khứ khứ lạc mai thanh tiệm viễn
Hành hành chinh bái sắc hà mang
Vọng vân khứ hề lang biệt thiếp
Vọng sơn quy hề thiếp tư lang
60
郎 去 程 兮 濛 雨 外
妾 歸 處 兮 昨 夜 房
歸 去 兩 回 顧
雲 青 兮 山 蒼
郎 顧 妾 兮 咸 陽
65
妾 顧 郎 兮 瀟 湘
瀟 湘 煙 阻 咸 陽 樹
咸 陽 樹 隔 瀟 湘 江
相 顧 不 相 見
青 青 陌 上 桑
70
陌 上 桑 陌 上 桑
妾 意 君 心 誰 短 長
Lang khứ trình hề mông vũ ngoại
Thiếp quy xứ hề tạc dạ phòng
Quy khứ lưỡng hồi cố
Vân thanh hề sơn thương
Lang cố thiếp hề Hàm Dương
Thiếp cố lang hề Tiêu Tương
Tiêu Tương yên trở Hàm Dương thụ
Hàm Dương thụ cách Tiêu Tương giang
Tương cố bất tương kiến
Thanh thanh mạch thượng tang
Mạch thượng tang mạch thượng tang
Thiếp ý quân tâm thuỳ đoản trường
三。 悲懼
3. Bi Cụ
自 從 別 後 風 沙 隴
明 月 知 君 何 處 宿
古 來 征 戰 場
75
萬 里 無 人 屋
風 熬 熬 兮 打 得 人 顏 憔
水 深 深 兮 怯 得 馬 蹄 縮
戍 夫 枕 鼓 臥 龍 沙
戰 士 抱 鞍 眠 虎 陸
80
今 朝 漢 下 白 登 城
明 日 胡 窺 青 海 曲
青 海 曲 青 山 高 復 低
青 山 前 青 溪 斷 復 續
青 山 上 雪 蒙 頭
85
青 溪 下 水 沒 腹
可 憐 多 少 鐵 衣 人
思 歸 當 此 愁 顏 蹙
錦 帳 君 王 知 也 無
艱 難 誰 為 畫 征 夫
90
料 想 良 人 經 歷 處
蕭 關 角 瀚 海 隅
霜 村 雨 店
Tự tùng biệt hậu phong sa lũng
Minh nguyệt tri quân hà xứ túc
Cổ lai chinh chiến trường
Vạn lý vô nhân ốc
Phong ngao ngao hề đả đắc nhân nhan tiều
Thuỷ thâm thâm hề khiếp đắc mã đề súc
Thú phu chẩm cổ ngọa Long sa
Chiến sĩ bão yên miên hổ lục
Kim triêu Hán há Bạch Đăng thành
Minh nhật Hồ khuy Thanh Hải khúc
Thanh Hải khúc thanh sơn cao phục đê
Thanh sơn tiền thanh khê đoạn phục tục
Thanh sơn thượng tuyết mông đầu
Thanh khê hạ thuỷ một phúc
Khả liên đa thiểu thiết y nhân
Tư quy đương thử sầu nhan xúc
Cẩm trướng quân vương tri dã vô
Gian nan thuỳ vị họa chinh phu
Liệu tưởng lương nhân kinh lịch xứ
Tiêu Quan giác hãn hải ngung.
Sương thôn vũ điếm
虎 落 蛇 區
風 餐 露 宿
95
雪
脛
冰 鬚
登 高 望 雲 色
安 復 不 生 愁
自 從 別 後 東 南 徼
東 南 知 君 戰 何 道
100
古 來 征 戰 人
性 命 輕 如 草
鋒 刃 下 溫 溫 挾 纊 主 恩 深
時 刻 中 歷 歷 橫 戈 壯 士 夭
祈 山 舊 塚 月 茫 茫
105
淝
水 新 墳 風 裊 裊
風 裊 裊 空 吹 死 士 魂
月 茫 茫 曾 照 征 夫 貌
征 夫 貌 兮 誰 丹 青
死 士 魂 兮 誰 哀 弔
110
可 憐 爭 鬪 舊 江 山
行 人 過 此 情 多 少
古 來 征 戰 幾 人 還
班 超 歸 時 鬢 已 斑
料 想 良 人 馳 騁 外
115
三 尺 劍 一 戎 鞍
秋 風 沙 草
明 月 關 山
馬 頭 鳴 鏑
城 上 緣 竿
120
功 名 百 忙 裏
勞 苦 未 應 閒
Hổ lạc xà khu
Phong xan lộ túc
Tuyết hĩnh băng tu
Đăng cao vọng vân sắc
An phục bất sinh sầu
Tự tùng biệt hậu Ðông Nam kiếu
Đông Nam tri quân chiến hà đạo
Cổ lai chinh chiến nhân
Tính mệnh khinh như thảo
Phong nhận hạ ôn ôn hiệp khoáng chủ ân thâm
Thời khắc trung lịch lịch hoành qua tráng sĩ yểu
Kỳ sơn cựu trủng nguyệt mang mang
Phì thuỷ tân phần phong niểu niểu
Phong niểu niểu không xuy tử sĩ hồn
Nguyệt mang mang tằng chiếu chinh phu mạo
Chinh phu mạo hề thuỳ đan thanh
Tử sĩ hồn hề thuỳ ai điếu
Khả liên tranh đấu cựu giang sơn
Hành nhân quá thử tình đa thiểu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hoàn
Ban Siêu quy thời mấn dĩ ban
Liệu tưởng lương nhân trì sính ngoại
Tam xích kiếm nhất nhung yên
Thu phong sa thảo
Minh nguyệt quan sơn
Mã đầu minh đích
Thành thượng duyên can
Công danh bách mang lý
Lao khổ vị ưng nhàn
四。懷想
4. Hoài Tưởng
勞 與 閒 誰 與 言
君 在 天 涯 妾 倚 門
倚 門 固 妾 今 生 分
125
天 涯 豈 君 平 生 魂
自 信 相 隨 魚 水 伴
那 堪 相 隔 水 雲 村
妾 身 不 想 為 征 婦
君 身 豈 學 為 王 孫
130
何 事 江 南 與 江 北
令 人 愁 曉 更 愁 昏
一 個 是 風 流 少 年 客
一 個 是 深 閨 少 年 婚
可 堪 兩 年 少
135
千 里 各 寒 暄
憶 昔 與 君 相 別 時
柳 條 猶 未 囀 黃 鸝
問 君 何 日 歸
君 約 杜 鵑 啼
140
杜 鵑 已 逐 黃 鸝 老
青 柳 樓 前 語 鷾 鴯
憶 昔 與 君 相 別 中
雪 梅 猶 未 識 東 風
問 君 何 日 歸
145
君 指 桃 花 紅
桃 花 已 伴 東 風 去
老 梅 江 上 又 芙 蓉
與 我 約 何 所
乃 約 隴 西 岑
150
日 中 兮 不 來
墜 葉 兜 我 簪
竚 立 空 涕 泣
荒 邨 喧 午 禽
與 我 約 何 所
Lao dữ nhàn thuỳ dữ ngôn
Quân tại thiên nhai, thiếp ỷ môn
Ỷ môn cố thiếp kim sinh phận
Thiên nhai khởi quân bình sinh hồn
Tự tín tương tuỳ ngư thuỷ bạn
Na kham tương cách thuỷ vân thôn
Thiếp thân bất tưởng vi chinh phụ
Quân thân khởi học vi vương tôn
Hà sự giang Nam dữ giang Bắc
Linh nhân sầu hiểu cánh sầu hôn
Nhất cá thị phong lưu thiếu niên khách
Nhất cá thị thâm khuê thiếu niên hôn
Khả kham lưỡng niên thiếu
Thiên lý các hàn huyên
Ức tích dữ quân tương biệt thời
Liễu điều do vị chuyển hoàng ly
Vấn quân hà nhật quy
Quân ước đỗ quyên đề
Đỗ quyên dĩ trục hoàng ly lão
Thanh Liễu lâu tiền ngữ ý nhi
Ức tích dữ quân tương biệt trung
Tuyết mai do vị thức Ðông phong,
Vấn quân hà nhật quy
Quân chỉ đào hoa hồng
Đào hoa dĩ bạn Ðông phong khứ
Lão mai giang thượng hựu phù dung
Dữ ngã ước hà sở
Nãi ước Lũng Tây sầm
Nhật trung hề bất lai
Trụy diệp đâu ngã trâm
Trữ lập không thế khấp
Hoang thôn huyên ngọ cầm
Dữ ngã ước hà sở
155
乃 約 漢 陽 橋
日 晚 兮 不 來
谷 風 吹 我 袍
竚 立 空 涕 泣
寒 江 起 暮 潮
160
昔 年 寄 信 勸 君 回
今 年 寄 信 勸 君 來
信 來 人 未 來
楊 花 零 落 委 蒼 苔
蒼 苔 蒼 苔 又 蒼 苔
165
一 步 閒 庭 百 感 催
昔 年 回 書 訂 妾 期
今 年 回 書 訂 妾 歸
書 歸 人 未 歸
紗 窗 寂 寞 轉 斜 暉
170
斜 暉 斜 暉 又 斜 暉
十 約 佳 期 九 度 違
Nãi ước Hán Dương kiều
Nhật vãn hề bất lai
Cốc phong xuy ngã bào
Trữ lập không thế khấp
Hàn giang khởi mộ trào
Tích niên ký tín khuyến quân hồi
Kim niên ký tín khuyến quân lai
Tín lai nhân vị lai
Dương hoa linh lạc uỷ thương đài
Thương đài thương đài hựu thương đài
Nhất bộ nhàn đình bách cảm thôi
Tích niên hồi thư đính thiếp kỳ
Kim niên hồi thư đính thiếp quy
Thư quy nhân vị quy
Sa song tịch mịch chuyển tà huy
Tà huy tà huy hựu tà huy
Thập ước giai kỳ cửu độ vi
五。孤另
5. Cô Lánh
試 將 去 日 從 頭 數
不 覺 荷 錢 已 三 鑄
最 苦 是 連 年 紫 塞 人
175
最 苦 是 千 里 黃 花 戍
黃 花 戍 誰 無 堂 上 親
紫 塞 人 誰 無 閨 中 婦
有 親 安 可 暫 相 離
有 婦 安 能 久 相 負
180
君 有 老 親 鬢 如 霜
君 有 兒 郎 年 且 孺
老 親 兮 倚 門
兒 郎 兮 待 哺
供 親 餐 兮 妾 為 男
185
課 子 書 兮 妾 為 父
供 親 課 子 此 一 身
傷 妾 思 君 今 幾 度
思 君 昨 日 兮 已 過
Thí tương khứ nhật tùng đầu sổ
Bất giác hà tiền dĩ tam chú
Tối khổ thị liên niên tử tái nhân
Tối khổ thị thiên lý hoàng hoa thú
Hoàng hoa thú thuỳ vô đường thượng thân
Tử tái nhân thuỳ vô khuê trung phụ
Hữu thân an khả tạm tương ly
Hữu phụ an năng cửu tương phụ
Quân hữu lão thân mấn như sương
Quân hữu nhi lang niên thả nhụ
Lão thân hề ỷ môn
Nhi lang hề đãi bộ
Cung thân xan hề thiếp vi nam
Khóa tử thư hề thiếp vi phụ
Cung thân khóa tử thử nhất thân
Thương thiếp tư quân kim kỷ độ
Tư quân tạc nhật hề dĩ quá
思 君 今 年 兮 又 暮
190
君 淹 留 二 年 三 年 更 四 年
妾 情 懷 百 縷 千 縷 還 萬 縷
安 得 在 君 邊
訴 妾 衷 腸 苦
妾 有 漢 宮 釵
195
曾 是 嫁 時 將 送 來
憑 誰 寄 君 子
表 妾 相 思 懷
妾 有 秦 樓 鏡
曾 與 郎 初 相 對 影
200
憑 誰 寄 君 子
照 妾 今 孤 另
妾 有 鉤 指 銀
手 中 時 相 親
憑 誰 寄 君 子
205
微 物 寓 慇 懃
妾 有 搔 頭 玉
嬰 兒 年 所 弄
憑 誰 寄 君 子
他 鄉 幸 珍 重
Tư quân kim niên hề hựu mộ
Quân yêm lưu nhị niên tam niên cánh tứ niên
Thiếp tình hoài bách lũ thiên lũ hoàn vạn lũ
An đắc tại quân biên
Tố thiếp trung trường khổ
Thiếp hữu Hán cung thoa
Tằng thị giá thời tương tống lai
Bằng thuỳ ký quân tử
Biểu thiếp tương tư hoài
Thiếp hữu Tần lâu kính
Tằng dữ lang sơ tương đối ảnh
Bằng thùy ký quân tử
Chiếu thiếp kim cô lánh
Thiếp hữu câu chỉ ngân
Thủ trung thời tương thân
Bằng thuỳ ký quân tử
Vi vật ngụ ân cần
Thiếp hữu tao đầu ngọc
Anh nhi niên sở lộng
Bằng thuỳ ký quân tử
Tha hương hạnh trân trọng
六。望想
6. Vọng Tưởng
210
昔 年 音 信 有 來 時
今 年 音 稀 信 亦 稀
見 雁 枉 然 思 塞 帛
聞 霜 漫 自 製 綿 衣
西 風 欲 寄 無 鴻 便
215
天 外 憐 伊 雪 雨 垂
雪 寒 伊 兮 虎 帳
雨 冷 伊 兮 狼 幃
寒 冷 般 般 苦
天 外 可 憐 伊
220
錦 字 題 詩 封 更 展
金 錢 問 卜 信 還 疑
Tích niên âm tín hữu lai thời
Kim niên âm hy tín diệc hy
Kiến nhạn uổng nhiên tư tái bạch
Văn sương mạn tự chế miên y
Tây phong dục ký vô hồng tiện
Thiên ngoại liên y tuyết vũ thuỳ
Tuyết hàn y hề hổ trướng
Vũ lãnh y hề lang vi
Hàn lãnh ban ban khổ
Thiên ngoại khả liên y
Cẩm tự đề thi phong cánh triển
Kim tiền vấn bốc tín hoàn nghi
幾 度 黃 昏 時 重 軒 人 獨 立
幾 回 明 月 夜 單 枕 鬢 斜 攲
不 關 酖 與 酣 惛 惛 人 似 醉
225
不 關 愚 與 惰 懵 懵 意 如 癡
簪 斜 委 鬌 髼 無 奈
裙 褪 柔 腰 瘦 不 支
晝 沈 沈 午 院 行 如 墜
夕 悄 悄 湘 簾 捲 又 垂
230
簾 外 窺 日 出 枝 頭 無 鵲 報
簾 中 坐 夜 來 心 事 只 燈 知
燈 知 若 無 知
妾 悲 只 自 悲
Kỷ độ hoàng hôn thời trùng hiên nhân độc lập
Kỷ hồi minh nguyệt dạ đơn chẩm mấn tà khi
Bất quan trầm dữ hàm hôn hôn nhân tự tuý
Bất quan ngu dữ nọa mộng mộng ý như si
Trâm tà uỷ đoả bồng vô nại
Quần thối nhu yêu sấu bất chi
Trú trầm trầm ngọ viện hành như truỵ
Tịch tiêu tiêu tương liêm quyển hựu thuỳ
Liêm ngoại khuy nhật xuất chi đầu vô thước báo
Liêm trung tọa dạ lai tâm sự chỉ đăng tri
Đăng tri nhược vô tri
Thiếp bi chỉ tự bi
七。愁悶
7. Sầu Muộn
悲 又 悲 兮 更 無 言
235
燈 花 人 影 總 堪 憐
咿 喔 雞 聲 通 五 夜
披 拂 槐 陰 度 八 磚
愁 似 海
刻 如 年
240
強 燃 香 花 魂 消 檀 炷 下
強 臨 鏡 玉 筋 墜 菱 花 前
強 援 琴 指 下 驚 停 鸞 鳳 柱
強 調 瑟 曲 中 悲 遏 鴛 鴦 絃
此 意 春 風 若 肯 傳
245
千 金 借 力 寄 燕 然
燕 然 未 能 傳
憶 君 迢 迢 兮 路 如 天
天 遠 未 易 通
憶 君 悠 悠 兮 思 何 窮
250
懷 人 處 傷 心 胸
樹 葉 青 霜 裡
蛩 聲 細 雨 中
霜 斧 殘 兮 楊 柳
雨 鋸 損 兮 梧 桐
Bi hựu bi hề cánh vô ngôn
Đăng hoa nhân ảnh tổng kham liên
Y ốc kê thanh thông ngũ dạ
Phi phất hòe âm độ bát chuyên
Sầu tự hải
Khắc như niên
Cưỡng nhiên hương hoa hồn tiêu đàn chú hạ
Cưỡng lâm kính ngọc cân trụy lăng hoa tiền
Cưỡng viện cầm chỉ hạ kinh đình loan phượng trụ
Cưỡng điều sắt khúc trung bi yết uyên ương huyền
Thử ý xuân phong nhược khẳng truyền
Thiên kim tá lực ký Yên Nhiên
Yên Nhiên vị năng truyền
Ức quân thiều thiều hề lộ như thiên
Thiên viễn vị dị thông
Ức quân du du hề tứ hà cùng
Hoài nhân xứ thương tâm hung
Thụ diệp thanh sương lý
Cùng thanh tế vũ trung
Sương phủ tàn hề dương liễu
Vũ cứ tổn hề ngô đồng
255
鳥 返 高 舂
露 下 低 叢
寒 垣 候 虫
遠 寺 曉 鐘
蟋 蟀 數 聲 雨
260
芭 蕉 一 院 風
風 裂 紙 窗 穿 帳 隙
月 移 花 影 上 簾
櫳
花 前 月 照 月 自 白
月 下 花 開 花 自 紅
265
月 花 花 月 兮 影 重 重
花 前 月 下 兮 心 忡 忡
Điểu phản cao thung
Lộ há đê tùng
Hàn viên hậu trùng
Viễn tự hiểu chung
Tất suất sổ thanh vũ
Ba tiêu nhất viện phong
Phong liệt chỉ song xuyên trướng khích
Nguyệt di hoa ảnh thướng liêm lung
Hoa tiền nguyệt chiếu nguyệt tự bạch
Nguyệt hạ hoa khai hoa tự hồng
Nguyệt hoa hoa nguyệt hề ảnh trùng trùng
Hoa tiền nguyệt hạ hề tâm xung xung
八。失望
8.Thất Vọng
千 般 懶 萬 事 慵
慵 女 工 錦 軸 恥 拋 鴛 對 偶
慵 婦 巧 金 針 羞 刺 蝶 雌 雄
270
慵 粧 對 曉 空 施 粉
慵 語 終 朝 悶 倚 窗
倚 窗 倚 窗 復 倚 窗
郎 君 去 兮 誰 為 容
誰 為 容 兮 空 盤 桓
275
郎 君 去 兮 隔 重 關
何 啻 天 帝 孫 冷 落 泣 銀 渚
何 啻 姮 娥 婦 凄 凉 坐 廣 寒
藉 愁 兮 為 枕
煮 悶 兮 為 餐
280
欲 將 酒 制 愁 愁 重 酒 無 力
欲 將 花 解 悶 悶 壓 花 無 顏
愁 悶 總 為 愁 悶 誤
悶 愁 化 作 九 泉 灘
試 瓊 笙 兮 不 成 響
285
抱 銀 箏 兮 不 忍 彈
思 遠 塞 兮 行 路 難
念 征 夫 兮 囊 索 單
Thiên ban lãn vạn sự dung
Dung nữ công cẩm trục sỉ phao uyên đối ngẫu
Dung phụ xảo kim châm tu thích điệp thư hùng
Dung trang đối hiểu không thi phấn
Dung ngữ chung triêu muộn ỷ song
Ỷ song ỷ song phục ỷ song
Lang quân khứ hề thuỳ vi dung
Thuỳ vi dung hề không bàn hoàn
Lang quân khứ hề cách trùng quan
Hà thí Thiên đế tôn lãnh lạc khấp Ngân Chử
Hà thí Hằng Nga phụ thê lương tọa Quảng Hàn
Tạ sầu hề vi chẩm
Chử muộn hề vi xan
Dục tương tửu chế sầu sầu trọng tửu vô lực
Dục tương hoa giải muộn muộn áp hoa vô nhan
Sầu muộn tổng vi sầu muộn ngộ
Muộn sầu hóa tác cửu tuyền than
Thí quỳnh sanh hề bất thành hưởng
Bão ngân tranh hề bất nhẫn đàn
Tư viễn tái hề hành lộ nan
Niệm chinh phu hề nang tác đơn
鵑 聲 啼 落 關 情 淚
樵 鼓 敲 殘 帶 憊 肝
290
不 勝 憔 悴 形 骸 軟
始 覺 睽 離 滋 味 酸
Quyên thanh đề lạc quan tình lệ
Tiều cổ xao tàn đái bại can
Bất thăng tiều tụy hình hài nhuyễn
Thủy giác khuê ly tư vị toan
九。望尋
9. Vọng Tầm
滋 味 酸 兮 酸 更 辛
酸 辛 端 的 為 良 人
為 良 人 兮 雙 妾 淚
295
為 良 人 兮 隻 妾 身
妾 身 不 到 君 征 帳
妾 淚 不 到 君 征 巾
惟 有 夢 魂 無 不 到
尋 君 夜 夜 到 江 津
300
尋 君 兮 陽 台 路
會 君 兮 湘 水 濱
記 得 幾 番 歡 會 處
無 非 一 枕 夢 中 春
此 身 反 恨 不 如 夢
305
隴 水 函 關 與 子 親
夢 去 每 憎 驚 更 斷
夢 回 又 慮 幻 非 真
惟 有 寸 心 真 不 斷
未 嘗 頃 刻 少 離 君
310
心 不 離 君 未 見 君
凭 高 幾 度 望 征 輪
望 君 何 所 見
江 洲 滿 白 蘋
燕 草 披 青
縷
315
秦 桑 染 綠 雲
南 來 井 邑 半 兵 塵
落 日 平 沙 鷺 一 群
望 君 何 所 見
官 路 短 長 亭
320
雲 間 吳 樹 暗
Tư vị toan hề toan cánh tân
Toan tân đoan đích vị lương nhân
Vị lương nhân hề song thiếp lệ
Vị lương nhân hề chích thiếp thân
Thiếp thân bất đáo quân chinh trướng
Thiếp lệ bất đáo quân chinh cân
Duy hữu mộng hồn vô bất đáo
Tầm quân dạ dạ đáo giang tân
Tầm quân hề Dương Đài lộ
Hội quân hề Tương thuỷ tân
Ký đắc kỷ phiên hoan hội xứ
Vô phi nhất chẩm mộng trung xuân.
Thử thân phản hận bất như mộng
Lũng Thuỷ, Hàm Quan dữ tử thân
Mộng khứ mỗi tăng kinh cánh đoạn
Mộng hồi hựu lự huyễn phi chân
Duy hữu thốn tâm chân bất đoạn
Vị thường khoảnh khắc thiểu ly quân
Tâm bất ly quân vị kiến quân,
Bằng cao kỷ độ vọng chinh luân
Vọng quân hà sở kiến
Giang châu mãn bạch tần
Yên thảo phi thanh lũ
Tần tang nhiễm lục vân
Nam lai tỉnh ấp bán binh trần
Lạc nhật bình sa lộ nhất quần
Vọng quân hà sở kiến
Quan lộ đoản trường đình
Vân gian Ngô thọ ám
天 際 蜀 山 青
北 來 禾 黍 半 荒 城
微 雨 江 樓 笛 一 聲
望 君 何 所 見
325
崆 山 葉 做 堆
自 飛 青 野 雉
自 舞 隔 江 梅
東 去 煙 嵐 慘 不 開
西 風 飄 薄 鳥 聲 哀
330
望 君 何 所 見
河 水 曲 如 鉤
長 空 數 點 雁
遠 浦 一 歸 舟
西 去 松 楸 接 斷 蕪
335
行 人 微 沒 隔 蒼 洲
望 盡 天 頭 又 地 頭
幾 日 登 樓 更 下 樓
凍 雲 阻 盡 相 思 眼
何 處 玉 關 征 戰 陬
Thiên tế Thục sơn thanh
Bắc lai hoà thử bán hoang thành
Vi vũ giang lâu địch nhất thanh
Vọng quân hà sở kiến
Không sơn diệp tố đôi
Tự phi thanh dã trĩ
Tự vũ cách giang mai
Đông khứ yên lam thảm bất khai
Tây phong phiêu bạc điểu thanh ai
Vọng quân hà sở kiến
Hà thủy khúc như câu
Trường không sổ điểm nhạn,
Viễn phố nhất quy châu
Tây khứ tùng thu tiếp đoạn vu
Hành nhân vi một cách thương châu
Vọng tận thiên đầu hựu địa đầu
Kỷ nhật đăng lâu cánh há lâu
Đống vân trở tận tương tư nhãn
Hà xứ Ngọc quan chinh chiến tưu
十。懷疑
10. Hoài Nghi
340
恨 無 長 房 縮 地 術
恨 無 仙 子 擲 巾 符
有 心 誠 化 石
無 淚 可 登 樓
回 首 長 堤 楊 柳 色
345
悔 教 夫 婿 覓 封 侯
不 識 離 家 千 里 外
君 心 有 似 妾 心 不
君 心 倘 與 妾 心 似
妾 亦 於 君 何 怨 尤
350
妾 心 如 花 常 向 陽
只 怕 君 心 如 流 光
流 光 一 去 不 復 照
花 為 流 光 黃 又 黃
Hận vô trường phòng súc địa thuật
Hận vô tiên tử trịch cân phù
Hữu tâm thành hóa thạch
Vô lệ khả đăng lâu
Hồi thủ trường đề dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu.
Bất thức ly gia thiên lý ngoại
Quân tâm hữu tự thiếp tâm phầu
Quân tâm thảng dữ thiếp tâm tự
Thiếp diệc ư quân hà oán vưu
Thiếp tâm như hoa thường hướng dương
Chỉ phạ quân tâm như lưu quang
Lưu quang nhất khứ bất phục chiếu
Hoa vị lưu quang hoàng hựu hoàng
花 黃 更 向 誰 邊 笑
355
流 光 不 肯 一 迴 照
黃 花 卻 為 流 光 老
黃 花 老 兮 落 滿 墻
Hoa hoàng cánh hướng thuỳ biên tiếu
Lưu quang bất khẳng nhất hồi chiếu
Hoàng hoa khước vi lưu quang lão
Hoàng hoa lão hề lạc mãn tường
十一。憂老
11. Ưu Lão
花 落 如 今 經 幾 霜
庭 蘭 兮 已 摘
360
江 藻 兮 又 芳
攝 衣 步 前 堂
仰 目 觀 天 章
纖 雲 時 彷 彿
北 斗 忽 低 昂
365
河 水 翻 明 滅
參 躔 乍 現 藏
月 照 兮 我 床
風 吹 兮 我 牆
玉 顏 隨 年 削
370
丈 夫 猶 他 方
昔 為 形 與 影
今 為 參 與 商
君 邊 雲 擁 青 絲 騎
妾 處 苔 生 嚮
屧
廊
375
廊 內 春 風 日 將 歇
可 憐 誤 盡 良 時 節
良 時 節 姚 黃 魏 紫 嫁 東 風
良 時 節 織 女 牛 郎 會 明 月
昨 日 未 笄 西 家 娘
380
今 年 已 歸 東 鄰 倩
可 怜 兔 守 一 空 房
年 年 誤 盡 良 時 節
良 時 節 兮 忽 如 梭
人 世 青 春 容 易 過
385
況 復 是 春 悶 未 消 秋 恨 續
況 復 是 合 歡 更 少 別 愁 多
Hoa lạc như kim kinh kỷ sương
Đình lan hề dĩ trích
Giang tảo hề hựu phương
Nhiếp y bộ tiền đường
Ngưỡng mục quan thiên chương
Tiêm vân thời phảng phất
Bắc đẩu hốt đê ngang
Hà thuỷ phiên minh diệt
Sâm triền sạ hiện tàng
Nguyệt chiếu hề ngã sàng
Phong xuy hề ngã tường
Ngọc nhan tuỳ niên tước
Trượng phu do tha phương
Tích vi hình dữ ảnh
Kim vi Sâm dữ Thương
Quân biên vân ủng thanh ty kỵ
Thiếp xứ đài sinh Hưởng điệp lang
Lang nội xuân phong nhật tương yết
Khả liên ngộ tận lương thời tiết
Lương thời tiết Diêu hoàng Nguỵ tử giá Ðông phong
Lương thời tiết Chức nữ Ngưu lang hội minh nguyệt
Tạc nhật vị kê Tây gia nương
Kim niên dĩ quy Ðông lân thiến
Khả linh thố thủ nhất không phòng
Niên niên ngộ tận lương thời tiết
Lương thời tiết hề hốt như thoa
Nhân thế thanh xuân dung dị qua
Huống phục thị xuân muộn vị tiêu thu hận tục
Huống phục thị hợp hoan cánh thiểu biệt sầu đa
別 愁 秋 恨 兩 相 磨
蒲 柳 青 青 能 幾 何
空 漢 惜 淚 咨 嗟
390
只 怕 白 到 文君 頭 空 嘆 惜
只 恐 花 到 潘 郎 鬢 浪咨 嗟
嘆 惜 何 以 為
顏 色 猶 紅 如 嫩 花
咨 嗟 何 以 為
395
光 陰 一 擲 無 回 戈
咨 命 薄 惜 年 花
紛 紛 少 婦 幾 成
皤
香 閣 重 懷 陪 笑 臉
花 樓 尚 記 解 香 羅
400
恨 天 不 與 人 方 便
底 事 到 今 成 坎 坷
坎 坷 坎 坷 知 奈 何
為 妾 嗟 兮 為 君 嗟
Biệt sầu thu hận lưỡng tương ma
Bồ liễu thanh thanh năng kỷ hà
Không thán tích lệ tư ta
Chỉ phạ bạch đáo Văn Quân đầu không thán tích
Chỉ khủng hoa đáo Phan lang mấn lãng tư ta
Thán tích hà dĩ vi
Nhan sắc do hồng như nộn hoa
Tư ta hà dĩ vi
Quang âm nhất trịch vô hồi qua
Tư mệnh bạc tích niên hoa
Phân phân thiếu phụ kỷ thành bà
Hương các trùng hoài bồi tiếu kiểm
Hoa lâu thượng ký giải hương la
Hận thiên bất dữ nhân phương tiện
Để sự đáo kim thành khảm kha
Khảm kha khảm kha tri nại hà
Vị thiếp ta hề vị quân ta
十二。願約
12. Nguyện Ước
君 不 見 野 外 雙 鴛 鴦
405
甘 心 不 忍 兩 分 張
又 不 見 樑 間 雙 燕 燕
白 首 何 曾 忘 眷 戀
鶼 鶼 也 無 情
比 翼 相 隨 過 一 生
410
蛩 蛩 也 無 知
並 驅 到 老 不 相 違
路 柳 曾 傳 連 理 處
池 蓮 亦 有 並 頭 時
負 蟨 兮 駏 驉
415
抱 蘿 兮 菟 絲
何 人 生 之 相 違
嗟 物 類 之 如 斯
安 得 在 天 為 比 翼 鳥
Quân bất kiến dã ngoại song uyên ương
Cam tâm bất nhẫn lưỡng phân trương
Hựu bất kiến lương giang song yến yến
Bạch thủ hà tằng vong quyến luyến
Kiêm kiêm dã vô tình
Tỷ dực tương tuỳ quá nhất sinh
Cùng cùng dã vô tri
Tịnh khu đáo lão bất tương vi
Lộ liễu tằng truyền liên lý xứ
Trì liên diệc hữu tịnh đầu thời
Phụ quyết hề cự hư
Bão la hề thố ty
Hà nhân sinh chi tương vi
Ta vật loại chi như tư
An đắc tại thiên vi tỷ dực điểu
在 地 為 連 理 枝
420
寧 甘 死 相 見
不 忍 生 相 離
雖 然 死 相 見
曷 若 生 相 隨
安 得 君 無 老 日
425
妾 常 少 年
願 為 影 兮 隨 君 邊
君 有 行 兮 影 不 遠
君 依 光 兮 妾 如 願
願 君 許 國 心 如 丹
430
願 君 庇 民 身 如 鐵
饑 來 吞 下 月 氏 頭
渴 來 飲 下 單 于 血
Tại địa vi liên lý chi
Ninh cam tử tương kiến
Bất nhẫn sinh tương ly
Tuy nhiên tử tương kiến
Hạt nhược sinh tương tuỳ
An đắc quân vô đáo lão nhật
Thiếp thường thiếu niên
Nguyện vi ảnh hề tuỳ quân biên
Quân hữu hành hề ảnh bất viễn
Quân y quang hề thiếp như nguyện
Nguyện quân hứa quốc tâm như đan
Nguyện quân tỳ dân thân như thiết
Cơ lai thôn hạ Nhục Chi đầu
Khát lai ẫm hạ Thiền Vu huyết
十三。懇求
13. Khẩn Cầu
何 幸 期 門 鋒 刃 中
老 天 著 意 護 英 雄
435
護 英 雄 百 戰 功
長 驅 駟 馬 靜 關 東
關 東 關 北 休 傳 箭
山 尾 山 頭 早 掛 弓
捷 色 旌 旗 辭 塞 月
440
凱 歌 將 士 背 邊 風
勒 詩 兮 燕 然 石
獻
馘
兮 未 央 宮
未 央 宮 兮 向 天 朝
挽 銀 河 兮 洗 刀 弓
445
詞 人 刪 下 平 淮 頌
樂 府 歌 傳 入 漢 謠
凌 煙 閣 兮 秦 叔 寶
麒 麟 台 兮 霍 嫖 姚
天 長 地 久 茅 苴 券
450
子 蔭 妻 封 爵 祿 標
Hà hạnh Kỳ môn phong nhẫn trung
Lão thiên trước ý hộ anh hùng
Hộ anh hùng bách chiến công
Trường khu tứ mã tịnh quan Ðông
Quan Đông Quan Bắc hưu truyền tiễn,
Sơn vĩ sơn đầu tảo quải cung
Tiệp sắc tinh kỳ từ tái nguyệt
Khải ca tướng sĩ bối biên phong
Lặc thi hề Yên Nhiên thạch
Hiến quắc hề Vị Ương cung
Vị Ương cung hề hướng thiên triều
Vãn Ngân hà hề tẩy đao cung
Từ nhân san hạ Bình Hoài Tụng
Nhạc phủ ca truyền nhập Hán dao
Lăng Yên các hề Tần Thúc Bửu
Kỳ Lân đài hề Hoắc Phiêu Diêu
Thiên trường địa cửu mao thư khoán
Tử ấm thê phong tước lộc tiêu
有 愁 兮 此 日
得 意 兮 來 時
妾 非 蘇 家 癡 心 婦
君 亦 洛 陽 好 男 兒
455
歸 來 倘 佩 黃 金 印
肯 學 當 年 不 下 機
願 為 君 兮 解 征 衣
願 為 君 兮 捧 霞
巵
為 君 梳 櫛 雲
鬟
髻
460
為 君 粧 點 玉
臙
脂
取 君 看 兮 舊 淚 帕
訴 君 聽 兮 舊 情 詞
舊 情 詞 兮 換 新 聯
語 新 話 舊 兮 酒 杯 前
465
淺 斟 兮 慢 慢
底 唱 兮 連 連
斟 不 斟 兮 蒲 城 釀
唱 不 唱 兮 紫
騮
篇
願 斟 九 醞 兮 唱 雙 聯
470
與 君 整 頓 兮 舊 姻 緣
交 頸 成 雙 到 老 天
償 了 功 名 離 別 債
相 憐 相 守 太 平 年
太 平 年 願 君 止 戈 置
475
若 然 此 別 妾 何 淚
將 會 之 期 將 寄 言
嗟 乎 丈 夫 當 如 是
Hữu sầu hề thử nhật
Đắc ý hề lai thời
Thiếp phi Tô gia si tâm phụ
Quân diệc Lạc dương hảo nam nhi
Quy lai thảng bội hoàng kim ấn
Khẳng học đương niên bất há ky
Nguyện vi quân hề giải chinh y
Nguyện vi quân hề bổng hà chi
Vi quân sơ trất vân hoàn kế
Vi quân trang điểm ngọc yên chi
Thủ quân khan hề cựu lệ phạ
Tố quân thính hề cựu tình từ
Cựu tình từ hề hoán tân liên
Ngữ tân thoại cựu hề tửu bôi tiền
Thiển châm hề mạn mạn
Đê xướng hề liên liên
Châm bất châm hề Bồ thành nhưỡng
Xướng bất xướng hề Tử lưu thiên
Nguyện châm cửu uấn hề xướng song liên
Dữ quân chỉnh đốn hề cựu nhân duyên
Giao kỉnh thành song đáo lão thiên
Thường liễu công danh ly biệt trái
Tương liên tương thủ thái bình niên
Thái bình niên nguyện quân chỉ qua trí
Nhược nhiên thử biệt thiếp hà lệ
Tương hội chi kỳ tương ký ngôn
Ta hồ trượng phu đương như thị
Chú Thích
1. Các tiểu đề 1-13 và ngắt dòng theo Hoàng Xuân Hãn, Chinh Phụ Ngâm Bị Khảo.
2. Chữ Việt được đánh dấu trên nguyên âm thay vì trên bán âm theo Nguyễn Ðình
Hoà và Phạm Văn Hải.
Thí dụ 1: Trong chữ “hoà”, o là bán âm, a là nguyên âm, nếu đánh dấu trên
mẫu tự o theo lối xưa: “hò-a” không phát đúng âm của chữ.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.12.2013 08:01:12 bởi Anh Nguyên >
ĐOÀN-THỊ-ĐIỂM
(1705-1746)
Quê Hiếu-Phạm, Giai-Phạm, Văn-Giang,
Bắc-Ninh, sau vào Đường-Hào, Hải-Dương
cần cù học tập cùng anh. Baø coù nhan saéc, ñöùc haïnh
ñoan trang, noùi naêng hoa myõ, hieành laønh, rất sành
văn chương, năm 15 tuổi đã nổi danh thi phuù,
kén chồng, 25 tuổi vẫn chưa đính hôn,vào cung
dậy cung tần, sau về dạy học, 37 tuoåi môùùi kết
duyeâên với Tiến sĩ Nguyễn-Kieàu, ñöôïc chöøng
4 naêm sau thì qua ñôøi. Bà nguyên họ Đoàn, lấy
chồng họ Nguyễn, lại theo họ chồng thường gọi
là Nguyễn Thị Điểm, là em gái ông Giám Sinh
(tiến sĩ) Đoàn Luân, biệt hiệu là Hồng Hà Nữ Sĩ.
Tư chất bà rất thông minh, từ năm lên sáu tuổi
đă học đến Sử Kư.
Một hôm, ông Luân lấy chữ Sử Kư Hán Cao Tổ ra cho bà một câu nguyên văn:
"Bạch xà đương đạo, Quí bạt kiếm nhi trảm chi"
(Con rắn trắng đón đường, ông Quí rút gươm mà chém đấy).
Bà liền lấy một câu nguyên văn ở Sử Kư, điển ông Vũ đời Thuấn mà đối rằng:
"Hoàng Long phụ châu, Vũ ngưỡng thiên nhi thán viết"
(Con rồng vàng đội chiếc thuyền, ông Vũ trông trời mà than rằng).
Đối như vậy mỗi chữ xứng nhau, lại dùng cả chữ ở nguyên văn Sử Kư.
Lại một hôm, bà soi gương, ông Luân ra câu đối rằng:
"Đối kỉnh họa my, nhất điểm phiên thành lưỡng điểm"
(Soi gương vẽ mày, một chấm hóa ra hai chấm).
Câu này có chữ Điểm nghĩa là chấm, lại là tên của bà.
Bà đối ngay lại rằng:
"Lâm trì ngoạn nguyệt, chích luân chuyển tác song luân"
(Đến ao xem trăng, một vành hiện ra hai vành).
Chữ Luân là vành lại là tên ông Luân. Đối có tài và lanh, thật đáng gọi là Tiên Phận Thiên Tài khá cao vậy.
Khi có sứ Tàu sang, bà giả làm người bán quán rượu. Sứ Tàu vào uống rượu thấy bà đang biên sổ, lại thấy ở cột quán rượu có lắm câu đối hay, và bên ghế bà ngồi có nhiều sách vở, mới ra cho bà một câu đối rằng:
"An Nam nhất thốn thổ, bất tri kỷ nhân canh"
(An Nam một tấc đất, chẳng biết mấy người cày) - có ư xấc ngạo và ghẹo chọc.
Bà đối ngay rằng:
"Bắc quốc chư đại phu, giai nho thử đồ xuất"
(Nước Bắc (Tàu) các vị đại phu thảy do đường ấy mà ra cả).
Bà cũng đáp lời phúng thích lại chẳng chịu kém ư lời ra đối. Các sứ giả chịu tài và cũng lấy làm thẹn.
Bà có tài học cao siêu nên phải ở nơi địa vị kén chồng, muốn kén cả người có đủ tài ba và môn hộ tương đương, nên đă lâu không có người vừa ư. Sau bà đă ba mươi tuổi, mới kết duyên làm thứ nhất ông Nguyễn Kiều, làm quan Thượng Thư, hiệu là Hạo Hiên, cùng nhau ở chốn khuê pḥng yêu kính đáng gọi là "Tương Kính Như Tân".
Khi ông mất, học trọ̀ ông theo học với bà. Bà mở trường dạy học, măi đến bảy mươi tuổi mới từ trần.
Bà có soạn tập "Tục Truyền Kỳ" và diễn Nôm bài "Chinh Phụ Ngâm" này.
Chinh Phụ Ngâm gồm 12 hồi như sau:
1- Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
2- Xếp bút nghiên theo việc đao cung
3- Lòng chàng ý thiếp, ai sầu hơn ai
4- Dòng nước sâu, ngựa nản chân bon
5- Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây
6- Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ
7- Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai?
8- Vì chàng lệ thiếp nhỏ đôi
9- Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong
10- Sợ khi mái tóc điểm sương cũng ngừng
11- Tiếng khải ca trở lại thần kinh
12- Giữ gìn nhau vui thuở thái bình
========================
1- Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
1. Thủa trời đất nổi cơn gió bụi,
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên.
Xanh kia thăm thẳm tầng trên,
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này?
2- Xếp bút nghiên theo việc đao cung
5. Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt,
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây.
Chín tầng gươm báu trao tay,
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh.
Nước thanh bình ba trăm năm cũ.
10. Áo nhung trao quan vũ từ đây.
Sứ trời sớm giục đường mây,
Phép công là trọng, niềm tây sá nào.
Đường giong ruổi lưng đeo cung tiễn,
Buổi tiễn đưa lòng bận thê noa.
15. Bóng cờ tiếng trống xa xa,
Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng.
Chàng tuổi trẻ vốn giòng hào kiệt,
Xếp bút nghiên theo việc đao cung.
Thành liền mong tiến bệ rồng,
20. Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc trời.
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa,
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao.
Giã nhà đeo bức chiến bào,
Thét roi cầu Vị, ào ào gió thu.
3- Lòng chàng ý thiếp, ai sầu hơn ai
25. Ngòi đầu cầu, nước trong như lọc,
Đường bên cầu cỏ mọc còn non.
Đưa chàng lòng dằng dặc buồn,
Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền.
Nước có chảy mà phiền chẳng rửa,
30. Cỏ có thơm mà dạ chẳng khuây.
Nhủ rồi nhủ lại cầm tay,
Bước đi một bước dây dây lại dừng.
Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi,
Dạ chàng xa tìm cõi Thiên San.
35. Múa gươm rượu tiễn chưa tàn,
Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo,
Săn Lâu Lan, rằng theo Giới Tử,
Tới Man Khê, bàn sự Phục Ba,
Áo chàng đỏ tựa ráng pha,
40. Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in.
Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống,
Giáp mặt rồi phút bỗng chia taỵ
Hà Lương chia rẽ đường này,
Bên đường, trông bóng cờ bay ngùi ngùi.
45. Quân trước đã gần ngoài doanh Liễu,
Kỵ sau còn khuất nẻo Tràng Dương,
Quân đưa chàng ruổi lên đường,
Liễu dương, biết thiếp đoạn trường này chăng?
Tiếng địch thổi nghe chừng đồng vọng,
50. Hàng cờ bay trong bóng phất phơ.
Dấu chàng theo lớp mây đưa,
Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà.
Chàng thì đi cõi xa mưa gió,
Thiếp thì về buồng cũ gối chăn.
55. Đoái trông theo đã cách ngăn,
Tuôn màu mây biếc, trải ngần núi xanh,
Chốn Hàm Dương, chàng còn ngoảnh lại,
Bến Tiêu Tương, thiếp hãy trông sang.
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương,
60. Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu,
Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?
4- Dòng nước sâu, ngựa nản chân bon
65. Chàng từ đi vào nơi gió cát,
Đêm trăng này nghỉ mát phương nao?
Xưa nay chiến địa dường bao,
Nội không muôn dặm xiết bao dãi dầu.
Hơi gió lạnh, người rầu mặt dạn,
70. Dòng nước sâu, ngựa nản chân bon.
Ôm yên gối trống đã chồn,
Nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh.
Nay Hán xuống Bạch Thành đóng lại,
Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua.
75. Hình khe, thế núi gần xa,
Dứt thôi lại nối, thấp đà lại cao.
Sương đầu núi buổi chiều như giội,
Nước lòng khe nẻo suối còn sâu.
Thương người áo giáp bấy lâu,
80. Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây.
Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ,
Mặt chinh phu ai vẽ cho nên?
Tưởng chàng giong ruổi mấy niên,
Chẳng nơi Hãn Hải thì miền Tiêu Quan.
85. Đã trắc trở đòi ngàn xà hổ,
Lại lạnh lùng những chỗ sương phong.
Lên cao trông thức mây lồng,
Lòng nào là chẳng động lòng bi thương!
5- Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây
Chàng từ sang Đông Nam khơi nẻo,
90. Biết nay chàng tiến thảo nơi đâu?
Những người chinh chiến bấy lâu,
Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây.
Nức hơi mạnh, ơn dày từ trước,
Trải chốn nghèo, tuổi được bao nhiêu?
95. Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo,
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò.
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi.
Chinh phu tử sĩ mấy người,
100. Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn.
Dấu binh lửa, nước non như cũ,
Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương.
Phận trai già ruổi chiến trường,
Chàng Siêu tóc đã điểm sương mới về.
105. Tưởng chàng trải nhiều bề nắng nỏ,
Ba thước gươm, một cỗ nhung yên.
Xông pha gió bãi trăng ngàn,
Tên reo đầu ngựa, giáo dan mặt thành.
Áng công danh trăm đường rộn rã,
110. Những nhọc nhằn nào đã nghỉ ngơi.
Nỗi lòng biết ngỏ cùng ai,
Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây.
6- Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ
Trong cửa này đã đành phận thiếp,
Ngoài mây kia há kiếp chàng vay?
115. Những mong cá nước sum vầy,
Nào ngờ đôi ngả nước mây cách vời.
Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ,
Chàng há từng học lũ vương tôn.
Cớ sao cách trở nước non,
120. Khiến người thôi sớm thôi hôm những sầu.
Khách phong lưu đương chừng niên thiếu,
Sánh nhau cùng dan díu chữ duyên.
Nỡ nào đôi lứa thiếu niên,
Quan sơn để cách, hàn huyên bao đành.
125. Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu,
Hỏi ngày về, ước nẻo quyên ca.
Nay quyên đã giục, oanh già,
Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo.
Thuở đăng đồ, mai chưa dạn gió,
130. Hỏi ngày về, chỉ độ đào bông.
Nay đào đã quyến gió Đông,
Phù dung lại đã bên sông bơ sờ.
Hẹn cùng ta: Lũng Tây nham ấy,
Sớm đã trông, nào thấy hơi tăm?
135. Ngập ngừng, lá rụng cành trâm,
Thôn trưa nghe dậy tiếng cầm lao xao.
Hẹn nơi nao, Hán Dương cầu nọ,
Chiều lại tìm, nào thấy tiêu hao?
Ngập ngừng gió thổi chéo bào,
140. Bãi hôm tuôn dẫy nước trào mênh mông.
Tin thường lại, người không thấy lại,
Hoa dương tàn đã trải rêu xanh.
Rêu xanh mấy lớp chung quanh,
Sân đi một bước, trăm tình ngẩn ngơ.
145. Thư thường tới, người không thấy tới,
Bức rèm thưa lần dãi bóng dương.
Bóng dương mấy buổi xuyên ngang,
Lời sao mười hẹn, chín thường đơn sai.
Thử tính lại diễn khơi ngày ấy,
150. Tiền sen này đã nẩy à ba.
Xót người lần lữa ải xa,
Xót người nương chốn Hoàng Hoa dặm dài.
Tình gia thất nào ai chẳng có,
Kìa lão thân, khuê phụ nhớ thương.
155. Mẹ già phơ phất mái sương,
Con thơ măng sữa, vả đương phù trì.
Lòng lão thân buồn khi tựa cửa,
Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm.
Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam,
160. Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân.
Nay một thân nuôi già dạy trẻ,
Nỗi quan hoài mang mẻ biết bao!
Nhớ chàng trải mấy sương sao,
Xuân từng đổi mới, Đông nào còn dư.
165. Kể năm đã ba tư cách diễn,
Mối sầu thêm nghìn nỗi ngổn ngang.
Ước gì gần gũi tấc gang,
Giải niềm cay đắng để chàng tỏ hay.
Thoa cung Hán thuở ngày xuất giá,
170. Gương lầu Tần dấu đã soi chung.
Cậy ai mà gửi tới cùng,
Để chàng thấu hết tấm lòng tương tư.
Nhẫn đeo tay mọi khi ngắm nghía,
Ngọc cài đầu thuở bé vui chơi.
175. Cậy ai mà gửi tới nơi,
Để chàng trân trọng dấu người tương thân.
7- Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai?
Trải mấy xuân, tin đi tin lại,
Tới xuân này tin hãy vắng không.
Thấy nhàn, luống tưởng thư phong,
180. Nghe hơi sương, sắm áo bông sẵn sàng.
Gió tây nổi không đường hồng tiện,
Xót cõi ngoài tuyết quyến mưa sa.
Màn mưa trướng tuyết xông pha,
Nghĩ thêm lạnh lẽo kẻ ra cõi ngoài.
185. Đề chữ gấm, phong thôi lại mở,
Gieo bói tiền tin dở còn ngờ.
Trời hôm tựa bóng ngẩn ngơ,
Trăng khuya nương gối bơ phờ tóc mai.
Há như ai, hồn say bóng lẫn,
190. Bỗng thơ thơ thẩn thẩn như không.
Trâm cài, xiêm giắt thẹn thùng,
Lệch làn tóc rối, lỏng vòng lưng eo.
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
195. Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?
Đèn có biết, dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
200. Hoa đèn kia với bóng người khá thương!
Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa.
205. Hương gượng đốt, hồn đà mê mải,
Gương gượng soi, lệ lại chứa chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.
Lòng này gửi gió đông có tiện,
210. Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.
215. Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun.
Sương như búa bổ mòn gốc liễu,
Mưa dường cưa xẻ héo cành ngô.
Giọt sương phủ bụi chim gù,
220. Sâu tường kêu vẳng, chuông chùa nện khơi.
Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc,
Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên.
Lá màn lay ngọn gió xuyên,
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm.
225. Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm,
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông.
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,
Trước hoa, dưới nguyệt, trong lòng xiết đau.
Đâu xiết kể, muôn sầu nghìn não,
230. Từ nữ công, phụ xảo đều nguôi.
Biếng cầm kim, biếng đưa thoi,
Oanh đôi thẹn dệt, bướm đôi ngại thùa.
Mặt biếng tô, miệng càng biếng nói,
Sớm lại chiều, dòi dõi nương song.
235. Nương song luống ngẩn ngơ lòng,
Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai?
Biếng trang điểm, lòng người sầu tủi,
Xót nỗi chàng, ngoài cõi Giang Lăng.
Khác gì ả Chức, chị Hằng,
240. Bến Ngân sùi sụt, cung trăng chốc mòng.
8- Vì chàng lệ thiếp nhỏ đôi
Sầu ôm nặng, hãy chồng làm gối,
Buồn chứa đầy, hãy thổi làm cơm.
Mượn hoa, mượn rượu giải buồn,
Sầu làm rượu nhạt, muộn làm hoa ôi.
245. Gõ sanh ngọc mấy hồi không tiếng,
Ôm đàn tranh mấy phím rời tay.
Xót người hành dịch bấy nay,
Dặm xa mong mỏi hết đầy lại vơi.
Ca quyên ghẹo, làm rơi nước mắt,
250. Trống tiều khua, như rứt buồng gan.
Võ vàng đổi khác dung nhan,
Khuê ly mới biết tân toan dường này.
Nếm chua cay tấm lòng mới tỏ,
Chua cay này, há có vì ai?
255. Vì chàng lệ thiếp nhỏ đôi,
Vì chàng thân thiếp lẻ loi một bề.
Thân thiếp chẳng gần kề dưới trướng,
Lệ thiếp nào chút vướng bên khăn.
Duy còn hồn mộng được gần,
260. Đêm đêm thường đến Giang Tân tìm người.
Tìm chàng thuở Dương Đài lối cũ,
Gặp chàng nơi Tương Phố bến xưa.
Sum vầy mấy lúc tình cờ,
Chẳng qua trên gối một giờ mộng Xuân.
265. Giận thiếp thân lại không bằng mộng,
Được gần chàng bến Lũng, thành Quan.
Khi mơ những tiếc khi tàn,
Tình trong giấc mộng, muôn vàn cũng không!
Duy có một tấm lòng chẳng dứt,
270. Vốn theo chàng giờ khắc nào nguôi.
Lòng theo nhưng chửa thấy người,
Lên cao mấy lúc trông vời bánh xe.
Trông bến Nam, bãi che mặt nước,
Cỏ biếc um, dâu mướt ngàn xanh.
275. Nhà thôn mấy xóm chông chênh,
Một đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm.
Trông đường Bắc, đôi chòm quán khách,
Mây rà cây xanh ngất núi non.
Lúa thành thoi thóp bên cồn,
280. Nghe thôi ngọc địch véo von bên lầu.
Non Đông thấy lá hầu chất đống,
Trĩ xập xoè, mai cũng bẻ bai.
Khói mù nghi ngút ngàn khơi,
Con chim bạt gió lạc loài kêu thương.
285. Lũng Tây thấy nước dường uốn khúc,
Nhạn liệng không, sóng giục thuyền câu.
Ngàn thông chen chúc chòm lau,
Cách duềnh thấp thoáng người đâu đi về.
Trông bốn bề chân trời mặt đất,
290. Lên xuống lầu thấm thoát đòi phen.
Lớp mây ngừng mắt ngại nhìn,
Biết đâu chinh chiến là miền Ngọc Quan?
9- Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong
Gậy rút đất dễ khôn học chước,
Khăn gieo cầu nào được thấy tiên.
295. Lòng này hóa đá cũng nên,
E không lệ ngọc mà lên trông lầu.
Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu,
Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong.
Chẳng hay muôn dặm ruổi giong,
300. Lòng chàng có cũng như lòng thiếp chăng?
Lòng chàng ví cũng bằng như thế,
Lòng thiếp đâu dám nghĩ gần xa.
Hướng dương lòng thiếp như hoa,
Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương.
305. Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái,
Hoa để vàng bởi tại bóng dương.
Hoa vàng hoa rụng quanh tường,
Trải xem hoa rụng đêm sương mấy lần.
Chồi lan nọ trước sân đã hái,
310. Ngọn tần kia bên bãi đưa hương.
Sửa xiêm dạo bước tiền đường,
Ngửa trông xem vẻ thiên chương thẩn thờ.
Bóng Ngân Hà khi mờ khi tỏ,
Độ Khuê Triền buổi có buổi không.
315. Thức mây đòi lúc nhạt nồng,
Chuôi sao Bắc Đẩu thôi Đông lại Đoài.
Mặt trăng tỏ thường soi bên gối,
Bừng mắt trông sương gội cành ngô.
Lạnh lùng thay bấy chiều thu,
320. Gió may hiu hắt trên đầu tường vôi.
Một năm một nhạt mùi son phấn,
Trượng phu còn thơ thẩn miền khơi.
Xưa sao hình ảnh chẳng rời,
Bây giờ nỡ để cách vời Sâm Thương.
325. Chàng ruổi ngựa dặm trường mây phủ,
Thiếp dạo hài lầu cũ rêu in.
Gió Xuân ngày một vắng tin,
Khá thương lỡ hết mấy phen lương thì.
Xảy nhớ khi cành Diêu đóa Ngụy,
330. Trước gió xuân vàng tía sánh nhau.
Nọ thì ả Chức chàng Ngâu,
Tới trăng thu lại bắc cầu sang sông.
Thương một kẻ phòng không luống giữ,
Thời tiết lành lầm lỡ đòi nau.
335. Thoi đưa ngày tháng ruổi mau,
Người đời thấm thoắt qua màu xuân xanh.
10- Sợ khi mái tóc điểm sương cũng ngừng
Xuân thu để giận quanh ở dạ,
Hợp ly đành buồn quá khi vui.
Oán sầu nhiều nỗi tơi bời,
340. Vóc bồ liễu dễ ép nài chiều xuân.
Kìa Văn Quân mỹ miều thuở trước,
E đến khi đầu bạc mà thương.
Mặt hoa nọ gã Phan Lang,
Sợ khi mái tóc pha sương cũng ngừng.
345. Nghĩ nhan sắc đương chừng hoa nở,
Tiếc quang âm lần lữa gieo qua.
Nghĩ mệnh bạc, tiếc niên hoa,
Gái tơ mấy chốc xảy ra nạ dòng.
Gác nguyệt nọ mơ màng vẻ mặt,
350. Lầu hoa kia phảng phất hơi hương.
Trách trời sao để lỡ làng,
Thiếp rầu thiếp lại rầu chàng chẳng quên.
Chàng chẳng thấy chim uyên ở nội,
Cũng dập dìu, chẳng vội phân trương.
355. Chẳng xem chim yến trên rường,
Bạc đầu không nỡ đôi đường rẽ nhau.
Kìa loài sâu đôi đầu cùng sánh,
Nọ loài chim chắp cánh cùng bay.
Liễu, sen là thức cỏ cây,
360. Đôi hoa cùng sánh, đôi dây cùng liền.
Ấy loài vật tình duyên còn thế,
Sao kiếp người nỡ để đấy đây?
Thiếp xin muôn kiếp sau này,
Như chim liền cánh, như cây liền cành.
365. Đành muôn kiếp chữ tình đã vậy,
Theo kiếp này hơn thấy kiếp sau.
Thiếp xin chàng chớ bạc đầu,
Thiếp thì giữ mãi lấy màu trẻ trung.
Xin làm bóng theo cùng chàng vậy,
370. Chàng đi đâu cũng thấy thiếp bên.
Chàng nương vầng nhật, thiếp nguyền,
Mọi bề trung hiếu thiếp xin vẹn tròn.
11- Tiếng khải ca trở lại thần kinh
Lòng hứa quốc tựa son ngăn ngắt,
Sức tỳ dân dường sắt tri tri.
375. Máu Thuyền Vu, quắc Nhục Chi,
Ấy thì bữa uống, ấy thì bữa ăn.
Mũi đong vác đòi lần hăm hở,
Đã lòng trời gìn giữ người trung.
Hộ chàng trăm trận nên công,
380. Buông tên ải Bắc, treo cung non Đoài.
Bóng kỳ xí giã ngoài quan ải,
Tiếng khải ca trở lại Thần Kinh.
Đỉnh non khắc đá đề danh,
Triều thiên vào trước cung đình dâng công.
385. Nước duềnh Hán việc đòng rửa sạch,
Khúc nhạc từ réo rắt lừng khen.
Tài so Tần, Hoắc vẹn tuyền,
Tên ghi gác Khói, tượng truyền đài Lân.
Nền huân tướng đai cân rạng vẻ,
390. Chữ đồng hưu bia để nghìn đông.
Ấn trên tử ấm thê phong,
Hiển vinh thiếp cũng đượm chung hương trời.
12- Giữ gìn nhau vui thuở thái bình
Thiếp chẳng dại như người Tô Phụ,
Chàng hẳn không kém lũ Lạc Dương.
395. Khi về chẳng quả ấn vàng,
Trên khung cửi dám dẫy duồng làm cao.
Xin vì chàng xếp bào cởi giáp,
Xin vì chàng giũ lớp phong sương.
Vì chàng tay chuốc chén vàng,
400. Vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng.
Giở khăn lệ, chàng trông từng tấm,
Đọc thơ sầu, chàng thẩm từng câu.
Câu vui đổi với câu sầu,
Rượu khà cùng kể trước sau mọi lời.
405. Sẽ rót vơi lần lần từng chén,
Sẽ ca dần ren rén đòi liên.
Liên ngâm đối ẩm đòi phen,
Cùng chàng lại kết mối duyên đến già.
Cho bõ lúc xa sầu, cách nhớ,
410. Giữ gìn nhau vui thuở thanh bình.
Ngâm nga mong gửi chữ tình,
Dường này âu hẳn tài lành trượng phu!
~Đoàn-Thị-Điểm~
(Nguồn: Hoa Sơn trang)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.12.2013 08:32:24 bởi Anh Nguyên >
ĐOÀN-NGUYỄN-THỤC
1718 – 1775
Tên Duy-Tĩnh, người Hải An, Quỳnh Côi,
đậu tiến sĩ năm 1752. Năm 1771 thăng
Phó Đô Ngự Sử, được sung chức chánh
sứ, đi sứ nhà Thanh, ở kinh đô nhà Thanh
gặp gỡ sứ Triều Tiên, có làm thơ qua lại
cùng sứ Triều Tiên
.
TIỄN TRIỀU TIÊN QUỐC SỨ
Việt điện sơn xuyên giảng biện thần,
Tha hương kim hạnh ấp thanh trần.
Tằng chiêm đại tiết vi tinh đẩu,
Cánh địch nam trì huyến phượng lân.
Lữ huống hữu tâm giai thượng hữu,
Văn quang vô địa bất đồng luân.
Tương phùng mạc nhạ phân tiêu tảo,
Cố quốc mai hoa kim hựu xuân.
~Đoàn-Nguyễn-Thục~
Hoàng Việt thi tuyển quyển 6
Dịch:
Tiễn quốc sứ Triều Tiên
Làm sứ thần của giang sơn Đại Việt
Chốn tha hương hân hạnh chén tẩy trần
Coi khí tiết lớn cao như tinh đẩu
Sánh thềm nam rực rỡ giống phượng lân
Cảnh lữ thứ có lòng thêm bạn quý
Nét văn minh hai xứ cũng chia phân
Gặp nhau đây lạ gì chia tay sớm
Hoa mai vàng cố quốc đã vào xuân
~Phan-Lang~
Hoàng Việt thi tuyển: Trước lấy tên là
Thi sao 诗抄 , sau đổi thành Hoàng Việt
thi tuyển 皇越诗选 , do Bùi Huy Bích
(Tồn Am) biên soạn, góp thơ văn từ triều
Lý đến triều Hậu Lê, trích từ những tập:
Việt âm thi tập 越音诗集 ,
Tinh tuyển tập 精选集 ,
Trích diễm tập 摘艳集 ,
Toàn Việt thi lục 全越诗录 .
MẠC-THIÊN-TÍCH
1718-1780
Tức Mạc-Thiên-Tứ, danh sĩ, danh tướng, một quan cai trị, một nhà dinh điền làm rạng rỡ đất Phụng-Thành vùng Hà-Tiên
. KIM DỰ LAN ĐÀO (Đảo vàng ngăn sóng lớn ) Kim Dự đây là núi chốt then,
Xanh xanh giành trấn cửa Hà Tiên.
Ngăn ngừa nước dữ khôn vùng vẫy,
Che chở dân lành khỏi ngửa nghiêng.
Thế cả vững vàng trên Bắc Hải,
Công cao đồ sộ giữa Nam Thiên.
Nước an chẳng chút lông thu động,
Rộng bủa nhơn xa khắp bách xuyên. ~Mạc-Thiên-Tích~
BÌNH SAN ĐIỆP THUÝ (Núi dựng một màu xanh) Một bước càng thêm một thú yêu,
Lằng cây vít đá vẽ hay thêu?
Mây tòng khói liễu bay chồng chập,
Đờn suối ca chim giọng thấp kiêu.
Ngọc luật Châu Công chăng phải trỗi,
Ngòi sương Ma Cật cũng thua nhiều.
Đến đây mới biết lâm tuyền quới,
Dám trách Sào Do lánh Đế Nghiêu. ~Mạc-Thiên-Tích~ TIÊU TỰ THẦN CHUNG (Chuông sớm ở chùa vắng ) Rừng thiền xích xác án ngoài tào,
Chuông gióng chùa Tiêu tiếng tiếng cao.
Chày thỏ khắp vang muôn khói sóng,
Oai kình tan tác mấy cung sao.
Não phiền kẻ nấu sôi như vạc,
Trí huệ người mài sắc tợ dao.
Mờ mịt gẫm dường say mới tỉnh,
Phù sanh trong một giấc chiêm bao. ~Mạc-Thiên-Tích~ GIANG THÀNH DẠ CỔ (Trống đêm ở đồn bên sông ) Trống quân giang thú ỏi oai phong,
Nghiêm gióng đòi canh dậy núi sông.
Đánh phá lũ gian người biết mặt,
Vang truyền lịnh sấm chúng kiêng lòng.
Phao tuông đã thấy an ba vạc,
Nhặt nhiệm chi cho lọt mảy lông.
Thẻ lụn sớm hầu trưa bóng ác,
Tiếng xe rầm rạc mới nên công. ~Mạc-Thiên-Tích~ THẠCH ĐỘNG THÔN VÂN (Động đá nuốt mây ) Quỉ trổ thần xoi nổi một toà,
Chòm cây khóm đá dấu tiên gia.
Hang sâu thăm thẳm mây vun lại,
Cửa rộng thinh thinh gió thổi qua.
Trống lổng bốn bề thâu thế giái,
Chang bang một đãy chứa yên hà.
Chưn trời mới biết kho trời đấy
Cân đái hèn chi rỡ ỷ la. ~Mạc-Thiên-Tích~ CHÂU NHAM LẠC LỘ (Đàn cò đáp xuống núi châu báu) Biết chỗ mà nương ấy mới khôn,
Bay về đầm cũ mấy mươi muôn.
Đã giăng chữ nhất dài trăm trượng,
Lại xấp bàn vây trắng mấy non.
Ngày giữa ba thu ngân phấn vẽ,
Đêm trường chín hạ tuyết sương còn.
Quen cây chim thể người quen chúa,
Dễ đổi ngàn cân một tấm son. ~Mạc-Thiên-Tích~ ĐÔNG HỒ ẤN NGUYỆT (Hồ phía đông in hình trăng ) Một hồ lẻo lẻo tiết thu quang,
Giữa có vừng trăng nổi rõ ràng.
Đáy nước chơn mây in một sắc,
Ả Hằng nàng Tố lố đôi phang.
Rạng banh đã hứng thuyền Tô Tử,
Lạnh lẽo càng đau kiểng Nhạc xương.
Cảnh một mà tình người dễ một,
Kẻ thì ngả ngớn kẻ sầu thương. ~Mạc-Thiên-Tích~ NAM PHỐ TRỪNG BA (Bãi nam sóng lặng ) Dòng Nam vững rạng khách dầu chơi,
Hai thức như in nước với trời.
Bãi khói dưới không hương lại bỏ,
Hồ gương trong có gấm thêm rơi.
Sóng chôn vảy ngạc tình khôn xiết,
Nhạn tả thơ trời giá mấy mươi.
Một lá yên ba dầu lỏng lẻo,
Đong trăng lường gió nước vơi vơi. ~Mạc-Thiên-Tích~ LỘC TRĨ THÔN CƯ (Nông trại mũi nai ) Lộc trĩ ai rằng thú chẳng thanh?
Nửa kề nước biếc nửa non xanh.
Duỗi co chẳng túng càn thôn hẹp,
Cúi ngửa vì vưng đức giáo lành.
Lưu lác hưởng dư ơn nước thạnh,
Ê hề sẵn có của trời dành.
Đâu vui thì đấy là an lạc,
Lựa phải chen chơn chốn thị thành. ~Mạc-Thiên-Tích~ LƯ KHÊ NGƯ BẠC (Thuyền đánh cá đỗ bến Vược ) Bến Vược thuyền ngư chật mấy tầng,
Trong nhàn riêng có việc lăng xăng.
Lưới chày phơi trải đầy trời hạ,
Gỏi rượu hi ha toại nghiệp hằng.
Nghề Thuấn hãy truyền bền trác trác,
Dấu Nghiêu còn thấy đủ răn răn.
Suy trong mười kiểng thanh hòa lịch,
Họa kiểng Bồng Lai mới sánh bằng.
TỔNG VỊNH:
Mười kiểng Hà Tiên rất hữu tình,
Non non nước nước gẫm nên xinh.
Đông Hồ, Lộc Trĩ luôn dòng chảy,
Nam Phố, Lư Khê một mạch xanh.
Tiêu Tự, Giang Thành, chuông trống ỏi,
Châu Nham, Kim Dự cá chim doanh.
Bình Sơn, Thạch Động là trường cột,
Đồ sộ muôn đời cũng để danh. ~Mạc-Thiên-Tích~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 08.07.2011 03:59:28 bởi Anh Nguyên >
LÊ-QUÝ-ĐÔN
1726-1784
Tên thật là Lê-Danh-Phương, gia đình khoa
bảng, cha tiến sĩ Lê-Trọng-Thứ, quê Diên-Hà,
trấn Sơn-Nam Hạ, nay là thôn Phú-Hiếu, Độc-
Lập, Hưng-Hà, Thái-Bình.làm quan nhà Hậu
Lê, là nhà khoa học trong nhiều lãnh vực.
RẮN ĐẦU BIẾNG HỌC
Chẳng phải liu điu vẫn giống nhà!
Rắn đầu biếng học ắt không tha
Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ,
Nay thét, mai gầm rát cổ cha.
Ráo mép chỉ quen tuồng lếu láo,
Lằn lưng chẳng khỏi vết năm ba.
Từ nay Châu Lỗ xin siêng học,
Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia!
~Lê-Quý-Đôn~
THÀNH CỔ-LỘNG
Thành hoang tường đổ đã bốn trăm năm,
Dây dưa, dây đậu leo quấn xanh tốt.
Sóng biếc đã rửa sạch nỗi hận cho vua Trần,
Cỏ xanh khó che lấp sự hổ thẹn của Mộc Thạnh.
Sau trận mưa bò vàng cầy bật gươm cũ,
Dưới trăng chim lạnh kêu bên lầu tàn.
Bờ cõi cần gì phải mở rộng mãi
Đời Nghiêu Thuấn xưa chỉ có chín châu thôi.
~Lê-Quý-Đôn~
NGÔ-THẾ-LÂN
1726 - ?
Vu-Lai, Quảng-Điền, Triệu-Phong,
Thừa-Thiên
VỊNH HOÀI
Nam phương hữu nhất sĩ
Chí đại nhi số kỳ,
Thiếu du Tuyên thánh môn,
Trưởng tiến tâm vô nghi.
Đan thư phế tẩm thực,
Nhiệm hiệp vong quyền uy.
Cử mục thương sinh khổ,
Hưng trung vô sở thi.
Tự phụ thả uẩn quỹ
Thiện giá ưng hữu kỳ.
Hành niên vị tứ thập,
Thử tâm hốt dĩ suy.
Viễn cư hữu my lộc,
Kết ốc ngọa sơn bi.
Nhàn phi cổ nhân tích ,
Sở đắc tại Phục Hy.
Thùy tri phú quý ngoại,
Biệt hữu ta tử nhi.
Điểm đầu xí cổ nhân,
Thành nhiên bất nhã khi.
Hồi thủ thiếu niên trường.
Phàm sự giai võng vi.
Hạnh ai thoát cương tỏa,
Mặc niệm tâm tự di.
Triết nhân thán vân viễn,
Ngô kim thùy kỳ qui.
~Ngô-Thế-Lân~
Dịch nghĩa:
Tỏ nỗi nhớ
Phương Nam có một nho sĩ,
Chí thì lớn, mà số lại lận đận.
Tuổi trẻ theo học cửa Tuyên thánh (tức Khổng Tử),
Quyết tâm thành tài, không nghi ngờ gì.
Ham đọc sách, quên ăn quyên ngủ,
Tính hào hiệp, coi khinh bọn quyền uy
Ngước mắt nhìn thấy nhân dân khổ cực.
Nhưng trong lòng không có kế chước gì thi thố được.
Tự nghĩ ngọc lành hãy để dành trong rương,
Chắc có ngày bán được giá đắt.
Đến khi tuổi chưa đầy bốn chục,
Tấm lòng xưa thoắt đã suy tàn.
Xa tìm nơi ở, bạn cùng hươu nai,
Dựng một căn nhà nằm khểnh bên sườn núi.
Khi nhàn hạ, mở xem sách người xưa,
Học được đạo lý của Phục Hy
Ai hay ngoài sự phú quý ở đời,
Riêng có một chút này quí giá.
Gật đầu khen ngợi người xưa,
Thật không dối ta chút nào!
Ngoảnh đầu nhớ lại hồi tuổi trẻ,
Mọi việc làm thảy đều càn rỡ.
May thay thoát được vòng cương tỏa,
Lặng nghĩ, lòng tự vui sướng.
Than ôi! Hiền triết đã xa vắng,
Giờ đây ta biết theo ai?
TRƯ ĐIỂU ĐỀ
Ô hô kỳ tai trư điểu đề!
Ngũ canh minh phệ phong thê thê
Thái Sơn khuynh đồi bạch nhật ám,
Bình địa ba khởi hắc vân mê.
Hồng nhạn bi minh tán lâm tẩu,
Sài lang hoành hành đương lộ khê.
Triều dã thôn thanh bất cảm thuyết,
Ô hô kỳ tai trư điểu đề!
~Ngô-Thế-Lân~
Dịch nghĩa:
Tiếng chim lợn kêu
Than ôi, lạ thay! Tiếng chim lợn kêu,
Năm canh kêu thét, gió thổi lạnh lẽo.
Thái Sơn xuêu đổ, ban ngày tối mò,
Đất bằng sóng cuộn, mây đen mờ mịt
Đàn hồng nhạn kêu thương bay tản nơi rừng chầm,
Bầy sài lang đi ngang ngược trên lối đường lớn.
Trong triều ngoài nội ai cũng nín hơi không dám nói,
Than ôi, lạ thay! Tiếng chim lợn kêu.
THIỆP THẾ NGÂM
Thâm sơn hữu hổ lang,
Đại đàm hữu kình ngạc.
Thế thượng hữu qua mâu,
Thử nhân hà xứ thác?
Nào lý khổ đa dăng,
Tĩnh lý khổ đa văn.
Như hà lưỡng tiểu trùng
Thiên khán khiết nhân thân?
~Ngô-Thế-Lân~
Dịch nghĩa:
Bài ngâm trải đời
Núi sâu có hổ lang,
Đầm lớn có kình ngạc.
Ở trên đời có giáo mác,
Thân này biết tựa vào chốn nào?
Nơi nhộn, khổ nhiều ruồi,
Nơi tĩnh, khổ nhiều muỗi.
Vì sao hai con trùng nhỏ ấy,
Chỉ tìm cắn người mãi?
~Bùi-Thụy-Đào-Nguyên~
BÙI-HUY-BÍCH
1741-1818
Quê Thịnh-Liệt (làng Sét), Thanh-Trì, trấn
Sơn-Nam, đậu Tiến-Sĩ, làm tới chức Nhập
Thị Bồi-Tụng đứng hàng thứ hai trong phủ
Chúa, sau từ quan không tham gia các triều
sau nữa. DẠ TỌA THÍNH ĐỖ QUYÊN Bán khải thư quynh vũ hậu thiên Nhất khuê chủng cúc, nhất bồn liên Tú Uyên cao định hồ trung nguyệt La diệp trù sơ thu điểu yên... ~Bùi-Huy-Bích~
Dịch: Đêm ngồi nghe tiếng cuốc kêu Sau mưa hé cánh song nhìn Một vồng cúc, một bồn sen bên ngoài Giữa hồ Tú bóng trăng cài Trên thành La khói phủ dày cây thưa...
VÃN HÀNH QUÁCH NGOẠI KÝ KIẾN Nhân ảnh thiên trường tới tịch huy Viễn thôn vân thụ lượng y vi Huề cùng xuyên quá điền gian kính Vạn mẫu thanh thanh nhất lộ phi ~Bùi-Huy-Bích~ Dịch: Chiều đi dạo bên ngoài lũy ghi sự nhìn thấy Bóng người dài theo bóng tà Khói cây mờ lẩn thôn xa Chống gậy đi ngang đồng ruộng Ngàn xanh nổi cánh cò hoa NGẪU HỨNG I Hạ hạn thu lâm đông hữu hoàng Thủ niên sắc sự tẫn kham thương Bỉ nho mạc tác điều nguyên thoại Nhục thực hương nhân tại miếu đường. Dịch: Bỗng nhiên có hứng I Hè hạn, thu mưa, đông có sâu Năm nay mùa lúa biết bao sầu Bỉ nho chớ nói câu điều tiết(3) Toà đẹp cơm ngon có đáng đâu. NGẪU HỨNG II Thiên giáng cơ hoành bệnh thử dân Cô cùng chuyển tỉ cực thoan tân Dạ lai phong vũ hàn như hử Quá lộ ưng đa thất sở nhân. ~Bùi-Huy-Bích~ Dịch: Bỗng nhiên có hứng II Giời gieo tai ách khổ dân chưa Cùng kiết muôn nhà đã xác xơ Mưa gió đêm qua trời lạnh lắm Ngoài đường chi thiếu kẻ bơ vơ(4) THU DẠ Tâm mục lưỡng đô manh Chi li độ thử sinh Dân gian phương khổ lạo Quốc nội vị hưu binh ~Bùi-Huy-Bích~ Dịch: Đêm Thu Gượng sống đời lay lứt Mắt lòa lòng cũng lòa Dân đương sầu lụt lội Nước chửa hết binh qua…
<bài viết được chỉnh sửa lúc 26.08.2011 04:41:01 bởi Anh Nguyên >
NGUYỂN-GIA-THIỀU
(ÔN-NHƯ-HẦU)
1741-1798
Sinh dưới thời vua Lê chúa Trịnh, quê
x.Liễu-Ngạn, h.Siêu-Loại, Kinh-Bắc (Bắc-Hà)
CUNG OÁN NGÂM KHÚC
l - Cung oán ngâm khúc (câu 1 - câu 12)
1- Trải vách quế gió vàng hiu-hắt,
Mảnh vũ-y lạnh ngắt như đồng;
Oán chi những khách tiêu-phòng,
Mà xui phận bạc nằm trong má đào!
5-Duyên đã may cớ sao lại rủi?
Nghĩ nguồn-cơn dở-dói sao đang?
Vì đâu nên nỗi dở-dang,
Nghĩ mình, mình lại thêm thương nỗi mình!
Trộm nhớ thủa gây hình tạo-hóa,
10-Vẻ phù-dung một đóa khoe tươi ;
Nhuỵ hoa chưa mỉm miệng cười,
Gấm nàng Ban đã nhạt mùi thu-dung.
ll - Cung-oán ngâm khúc (câu 13 - câu 32)
Áng Đào Kiển đâm bông não chúng
Khoé thu-ba dợn sóng khuynh thành;
Bóng gươm lấp-loáng dưới mành,
Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa!
17- Chìm đáy nước cá lờ-đờ lặn,
Lửng da trời, nhạn ngẩn-ngơ sa!
Hương trời đắm nguyệt say hoa,
Tây Thi mất vía, Hằng Nga giật mình.
21- Câu cẩm-tú đàn anh họ Lý
Nét đan-thanh bậc chị chàng Vương
Cờ tiên rượu thánh ai đang,
Lưu Linh, Đế Thích là làng tri-âm.
25- Cầm điếm nguyệt, phỏng tầm Tư-mã
Địch lầu thu, đọ gã Tiêu-lang
Dẫu mà tay múa, miệng xang,
Thiên-tiên cũng ngảnh Nghê-thường trong trăng.
29- Tài-sắc đã vang-lừng trong nước,
Bướm-ong càng xao-xác ngoài hiên,
Tai nghe nhưng mắt chưa nhìn,
Bệnh Tề Tuyên đã nổi lên đùng đùng.
lll - Cung-oán ngâm khúc (câu 33 - câu 132)
Hoa xuân nọ còn phong nộn nhụy,
Nguyệt thu kia, chưa hé hàn-quang,
Hồng-lâu còn khóa then sương,
Thâm-khuê còn giấm mùi hương khuynh thành.
37- Làng cung-kiếm rấp-ranh bắn sẻ,
Khách công-hầu gấm-ghé mong sao
Vườn xuân bướm hãy còn rào,
Thấy hoa mà chẳng lối vào tìm hương.
41- Gan chẳng đá khôn đường há chuyển
Mặt phàm kia dễ đến Thiên-thai?
Hương trời sá động trần-ai,
Dẫu vàng nghìn lạng dễ cười một khi.
45- Ngẫm nhân-sự cớ chi ra thế?
Sợi xích-thằng chi để vương chân
Vắt tay nằm nghĩ cơ trần,
Nước dương muốn rảy nguội dần lửa duyên.
49- Kìa thế-cục như in giấc mộng.
Máy huyền-vi mở đóng khôn lường!
Vẻ chi ăn uống sự thường,
Cũng còn tiền-định khá thương, lọ là.
53- Đòi những kẻ thiên-ma bách-chiết
Hình thì còn, bụng chết đòi nau!
Thảo nào khi mới chôn nhau,
Đã mang tiếng khóc bưng đầu mà ra!
57- Khóc vì nỗi thiết-tha sự thế,
Ai bày trò bãi bể nương dâu?
Trắng răng đến thuở bạc đầu,
Tử, sinh, kinh, cụ làm nau mấy lần?
61- Cuộc thành bại hầu cằn mái tóc,
Lớp cùng-thông như đốt buồng gan,
Bệnh trần đòi đoạn tâm can,
Lửa cơ đốt ruột dao hàn cắt da!
65- Gót danh-lợi bùn pha sắc xám,
Mặt phong-trần nắng nám mùi dâu,
Nghĩ thân phù-thế mà đau,
Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê.
69- Mùi tục-vị lưỡi tê tân-khổ,
Đương thế-đồ gót rỗ khi-khu,
Sóng cồn cửa bể nhấp-nhô,
Chiếc thuyền bào ảnh lô-xô gập-ghềnh.
73- Trẻ tạo-hóa đành-hanh quá ngán,
Chết đuối người trên cạn mà chơi!
Lò cừ nung nấu sự đời,
Bức tranh vân-cẩu vẽ người tang-thương.
77- Đền vũ-tạ nhện giăng cửa mốc,
Thú ca-lâu dế khóc canh dài,
Đất bằng bỗng rấp trông gai,
Ai đem nhân-ảnh nhuốm mùi tà-dương?
81- Mùi phú-quí nhử làng xa-mã,
Bả vinh-hoa lừa gã công-khanh,
Giấc Nam-kha khéo bất tình
Bừng con mắt dậy, thấy mình tay không!
85- Sân đào-lý giâm lồng man-mác
Nền đỉnh-chung nguyệt gác mơ-màng
Cái phong-ba khéo cợt phường lợi danh.
89- Quyền họa-phúc trời tranh mất cả,
Chút tiện-nghi chẳng trả phần ai!
Cái quay búng sẵn trên trời,
Mờ-mờ nhân-ảnh như người đi đêm.
93- Hình mộc-thạch vàng kim ố cổ,
Sắc cầm-ngư ủ vũ ê phong,
Tiêu-điều nhân-sự đã xong,
Sơn-hà cũng huyễn, côn-trùng cũng hư.
97- Cầu Thệ-thủy ngồi trơ cổ-độ
Quán Thu-phong đứng rũ tà-huy
Phong-trần đến cả sơn khê,
Tang-thương đến cả hoa kia cỏ này.
101- Tuồng huyễn-hóa đã bày ra đấy,
Kiếp phù-sinh trông thấy mà đau!
Trăm năm còn có gì đâu,
Chẳng qua một nắm cổ-khâu xanh rì!
105- Mùi tục-lụy dường kia cay-đắng,
Vui chi mà đeo-đẳng trần-duyên?
Cái gương nhân-sự chiền-chiền,
Liệu thân này với cơ-thiền phải nao.
109- Thà mượn thú tiêu-dao cửa Phật,
Mối thất tình quyết dứt cho xong
Đa-mang chi nữa đèo-bòng?
Vui gì thế-sự, mà mong nhân-tình!
113- Lấy gió mát trăng thanh kết nghĩa,
Mượn hoa đàm đuốc tuệ làm duyên
Thoát trần một gót thiên-nhiên,
Cái thân ngoại vật là tiên trong đời.
117- ý cũng rắp ra ngoài đào-chú,
Quyết lộn vòng phu-phụ cho cam!
Ai ngờ trời chẳng cho làm,
Quyết đem dây thắm mà giam bông đào!
121- Hẳn túc-trái làm sao đây tá?
Hay tiền-nhân hậu-quả xưa kia?
Hay Thiên-cung có điều gì?
Xuống trần mà trả nợ đi cho rồi.
125- Kìa điểu-thú là loài vạn vật,
Dẫu vô tri cũng bắt đèo-bòng,
Có âm-dương, có vợ chồng,
Dẫu từ thiên-địa cũng vòng phu-thê.
129- Đường tác-hợp trời kia giong-ruổi,
Lọt làm sao cho khỏi nhân-tình,
Thôi thôi ngảnh mặt làm thinh
Thử xem con tạo gieo mình nơi nao? IV- Cung-oán ngâm khúc (câu 133 - câu 196)
Tay Nguyệt-lão khờ sao có một,
Bỗng tơ-tình vướng gót cung-phi
Cái đêm hôm ấy, đêm gì?
Bóng Dương lồng bóng Đồ-my trập-trùng.
137- Khoa thược-dược mơ-mòng thụy-vũ,
Đóa hải-đường thức ngủ xuân tiêu
Cành xuân hoa chúm-chím chào,
Gió đông thôi đã cợt đào ghẹo mai.
141- Xiêm nghê nọ tả-tơi trước gió,
Áo vũ kia lấp-ló trong trăng,
Sanh-ca mấy khúc vang lừng,
Cái thân Tây Tử lên chừng điện Tô.
145-Đệm hồng-thúy thơm-tho mùi xạ
Bóng bội-hoàn lấp-ló trăng thanh
Mây-mưa mấy giọt chung tình.
Đình Trầm-hương khóa một cành mẫu-đơn.
149- Tiếng thánh-thót cung đàn thuý-dịch.
Giọng nỉ-non ngón địch đan-trì,
Càng đàn, càng địch, càng mê,
Càng gay-gắt điệu, càng tê-tái lòng!
153- Mày ngài lẫn mặt rồng lồ lộ,
Sắp song song đôi lứa nhân-duyên.
Hoa thơm muôn đội ơn trên.
Cam công mang tiếng thuyền-quyên với đời.
157- Trên chín bệ mặt trời gang tấc,
Chữ xuân riêng sớm trực trưa chầu
Phải duyên hương-lửa cùng nhau
Xe dê lọ rắc lá dâu mới vào.
161- Khi ấp mận ôm đào gác nguyệt,
Lúc cười sương cợt tuyết đền phong,
Đóa lê ngon mắt cửu-trùng
Tuy mày điểm nhạt nhưng lòng cũng xiêu
165- Vẻ vưu vật trăm chiều chải-chuốt
Lòng quân-vương chi chút trên tay
Má hồng không thuốc mà say,
Nước kia muốn đổ, thành này muốn long!
169- Vườn Tây-uyển khúc trùng Thanh-dạ,
Gác Lâm-xuân điệu ngã Đình hoa.
Thừa ân một giấc canh tà,
Tờ mờ nét ngọc, lập-lòa vẻ son.
173- Trên trướng gấm Chí-tôn vòi vọi,
Những khi nào gần-gũi quân-vương
Dẫu mà ai có nghìn vàng,
Đố ai mua được một tràng mộng xuân .
177- Thôi cười nọ lại nhăn mày liễu,
Ghẹo hoa kia, lại nhíu gót xen,
Thân này uốn éo vì duyên,
Cũng cam một tiếng thuyền-quyên với người!
181- Lan mấy đóa lạc-loài sơn-dã,
Uổng mùi hương vương-giả lắm thay!
Gẫm như cân-trất duyên này,
Cam công đặt cái khăn này tắc-ơ!
185- Tranh tỹ-dực nhìn ưa chim nọ,
Đồ liên-chi lần trỏ hoa kia,
Chữ đồng lấy đó mà ghi,
Mượn điều thất-tịch mà thề bách niên.
189- Hạt mưa đã lọt miền đài-các,
Những mừng thầm cá nước duyên may
Càng lâu, càng lắm mùi hay,
Cho cam công kẻ nhúng tay thùng chàm
193- Ai ngờ bỗng một năm một nhạt,
Nguồn cơn kia chẳng tát mà vơi!
Thôi-di đâu biết cơ trời,
Bỗng không mà hóa ra người vị vong! V - Cung-oán ngâm khúc (câu 197 - câu 243)
Đuốc vương-gỉa chí công là thế
Chẳng soi cho đến khoé âm-nhai!
Muôn hồng nghìn tía đua tươi,
Chúa xuân nhìn hái một hai bông gần.
201- Vốn đã biết cái thân câu trõ
Cá no mồi cũng khó nhử lên,
Ngán thay cái én ba nghìn,
Một cây Cù-mộc biết chen cành nào ?
205- Song đã cậy má đào chon-chót,
Hẳn duyên tươi phận tốt hơn người
Nào hay con tạo trêu ngươi,
Hang sâu chút hé mặt trời lại giâm !
209- Trong cung quế âm-thầm chiếc bóng
Đêm năm canh trông-ngóng lần lần,
Khoảnh làm chi, bấy chúa xuân !
Chơi hoa cho rữa nhụy dần lại thôi !
213- Lầu đãi nguyệt đứng ngồi dạ-vũ
Gác thừa-lương thức ngủ thu-phong,
Phòng tiêu lạnh ngắt như đồng
Gương loan bẻ nửa, giải đồng xẻ đôi,
217- Chiều ủ-dột giấc mai trưa sớm
Vẻ bâng khuâng hồn bướm vẩn-vơ
Thâm-khuê vắng ngắt như tờ,
Cửa châu gió lọt rèm ngà sương gieo.
221- Ngấn phượng-liễn chòm rêu lỗ-chỗ,
Dấu dương-xa đám cỏ quanh-co
Lầu Tần chiều nhạt vẻ thu,
Gối loan tuyết đóng, chăn cù gía đông.
225- Ngày sáu khắc tin mong nhạn vắng,
Đêm năm canh tiếng lắng chuông rền
Lạnh lùng thay giấc cô-miên
Mùi hương tịch mịch bóng đèn thâm u.
229- Tranh biếng ngắm trong đồ Tố-nữ,
Mặt buồn trông trên cửa Nghiêm-lâu.
Một mình đứng tủi, ngồi sầu,
Đã than với nguyệt, lại rầu với hoa !
233- Buồn mọi nỗi lòng đà khắc khoải,
Ngán trăm chiều bước lại ngẩn-ngơ
Hoa này bướm nỡ thờ-ơ !
Để gầy bông thắm, để xơ nhụy vàng.
237- Đêm năm canh lần nương vách quế,
Cái buồn này ai dễ giết nhau
Giết nhau bằng cái Lưu-cầu,
Giết nhau bằng cái ưu-sầu, độc chưa ?
241- Tay Nguyệt-lão chẳng xe thì chớ,
Xe thế này có dở-dang không ?
Đang tay muốn dứt tơ-hồng,
Bực mình muốn đạp tiêu-phòng mà ra.
Vl - Cung-oán ngâm khúc (câu 245 - câu 284)
245- Nào lối dạo vườn hoa năm ngoái,
Đóa hồng đào hái buổi còn xanh
Trên gác phượng, dưới lầu oanh,
Gối Du-tiên hãy rành rành, song song.
249- Bây giờ đã ra lòng rẻ-rúng
Để thân này cỏ úng tơ mành,
Đông-quân sao khéo bất tình,
Cành hoa tàn nguyệt bực mình hoài xuân.
253- Nào lúc tựa lầu Tần hôm nọ,
Cành liễu mành bẻ thủa đương tơ
Khi trướng ngọc, lúc rèm ngà,
Mảnh xuân-y hãy sờ sờ dấu phong.
257- Bây giờ đã ra lòng ruồng-rẫy,
Để thân này nước chảy hoa trôi !
Hóa công sao khéo trêu người ?
Bóng đèn tà nguyệt nhử mùi ký-sinh.
261- Cảnh hoa lạc nguyệt minh dường ấy,
Lửa hoàng-hôn như cháy tấm son
Hoàng-hôn thôi lại hôn-hoàng,
Nguyệt-hoa thôi lại thêm buồn nguyệt-hoa !
265- Buồn vì nỗi nguyệt tà ai trọng ?
Buồn vì điều hoa rụng ai nhìn ?
Tình buồn cảnh lại vô duyên,
Tình trong cảnh ấy, cảnh bên tình này.
269- Khi trận gió lung-lay cành bích,
Nghe rì-rào tiếng mách ngoài xa,
Mơ-hồ nghĩ tiếng xe ra,
Đốt phong hương-hả mà hơ áo tàn.
273- Ai ngờ tiếng dế ran ri-rỉ,
Giọng bi thu gọi kẻ cô phòng
Vắng tanh nào thấy vân-mồng
Hơi thê-lương lạnh ngắt song phi-huỳnh
277- Khi bóng thỏ chênh-vênh trước nóc,
Nghe vang lừng tiếng giục bên tai
Dè chừng nghĩ tiếng tiểu đòi,
Nghiêng bình phấn mốc, mà giồi má nheo.
281- Ai ngờ tiếng quyên kêu ra rả
Điệu thương xuân khóc ả sương-khuê
Lạnh-lùng nào thấy ủ-ê,
Khí bi-thương sực nức, hè lạc hoa.
VlI - Cung-oán ngâm khúc (câu 285 - câu 323)
285- Tiếng thúy-điện cười già ra gắt
Mùi quyền-môn thắm rất nên phai !
Nghĩ nên tiếng cửa quyền ôi
Thì thong-thả vậy, cũng thôi một đời !
289- Ví sớm biết lòng trời đeo-đẳng,
Dẫu thuê tiền cũng chẳng buồn tênh !
Nghĩ mình lại ngán cho mình,
Cái hoa đã trót gieo cành biết sao ?
293- Miếng cao-lương phong-lưu nhưng lợm
Mùi hoắc-lê thanh-đạm mà ngon.
Cùng nhau một giấc hoành-môn
Lau-nhau ríu-rít cò con cũng tình.
297- Mình có biết phận mình ra thế,
Giải-kiết điều oé-ọe làm chi
Thà rằng cục kịch nhà quê,
Dẫu lòng nũng-nịu nguyệt kia hoa này !
301- Chiều tịch-mịch đã gầy bóng thỏ
Vẻ tiêu tao lại võ hoa đèn
Muốn đem ca-tiếu giải phiền,
Cười nên tiếng khóc, hát nên giọng sầu.
305- Ngọn tâm-hỏa đốt rầu nét liễu
Giọt hồng-băng thấm ráo làn son
Dơ buồn đến thú cỏn con,
Trà chuyên nước nhất, hương dồn khói đôi.
309- Trong gang tấc mặt trời xa mấy !
Phận hẩm-hiu nhường ấy vì đâu ?
Sinh-ly đòi rất thời Ngâu
Một năm còn thấy mặt nhau một lần.
313- Huống chi cũng lạm phần son phấn,
Luống năm-năm chực phận buồng không!
Khéo vô duyên với cửu-trùng !
Thắm nào nhuộm lại tơ-hồng cho tươi ?
317- Vườn Thượng-uyển hoa cười với nắng,
Lối đi về ai chẳng chiều ong ?
Doành Nhâm một giải nông-nông,
Bóng dương bên ấy, đứng trông bên này.
321- Tình rầu-rĩ khôn khuây nhĩ-mục
Chốn phòng không như giục mây-mưa
Giấc chiêm-bao những đêm xưa,
Giọt mưa cửu-hạn còn mơ đến rày.
325- Trên chín bệ có hay chăng nhẽ ?
Khách quần-thoa mà để lạnh-lùng !
Thù nhau chi, hỡi đông-phong ?
Góc vườn dãi nắng cầm bông hoa đào.
Vlll - Cung-oán ngâm khúc (câu 329 - câu 356)
329- Tay Tạo-hóa cớ sao mà độc,
Buộc người vào Kim-ốc mà chơi.
Chống tay ngồi ngẫm sự đời,
Muốn kêu một tiếng cho dài, kẻo căm !
333- Nơi lạnh-lẽo, nơi xem gần-gặn,
Há phai son nhạt phấn ru mà !
Trêu ngươi chi bấy trăng già ?
Sao cho chỉ thắm mà ra tơ mành ?
337- Lòng ngán-ngẩm buồn-tênh mọi nỗi,
Khúc sầu-tràng bối rối dường tơ,
Ngọn đèn phòng động đêm xưa
Chòm hoa tịnh-đế trơ-trơ chưa tàn
341- Mà lượng thánh đa-đoan kíp mấy,
Bỗng ra lòng rún-rẩy vì đâu ?
Bõ-già tỏ nỗi xưa sau,
Chẳng đem nỗi ấy mà tâu ngự cùng ?
345- Đem phong-vũ lạnh-lùng có một,
Giọt ba-tiêu thánh-thót cầm canh,
Bên tường thấp-thoáng bóng huỳnh,
Vách sương nghi- ngút, đèn xanh lờ-mờ.
349- Mắt chưa nhắp, đồng-hồ đã cạn,
Cảnh tiêu điều ngao-ngán dường bao !
Buồn này mới gọi buồn sao ?
Một đêm nhớ cảnh biết bao nhiêu tình !
353- Bóng câu thoáng bên mành mấy nỗi,
Những hương sầu phấn tủi sao xong !
Phòng khi động đến cửu-trùng
Giữ sao cho được má hồng như xưa.
~Nguyễn-Gia-Thiều~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.11.2011 10:08:40 bởi Anh Nguyên >
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 7 bạn đọc.
Kiểu: