Anh Nguyên
-
Số bài
:
1747
-
Điểm thưởng
:
0
- Từ: 21.10.2008
|
RE: Dòng thơ cổ
-
06.07.2012 12:36:24
NGUYỄN-CÔNG-TRỨ 1778-1858 Quê Uy-Viễn, Xuân-Giang, Nghi-Xuân, Hà-Tĩnh, đậ Tú-Tài, Tri-Huyện Đường-Hào, Lang Trung Bộ Lại, Hữu Tham Tri Bộ Hình, Dinh Điền Sứ Nam-Định, Ninh-Bình, Tuần Phủ An-Giang. Tính khảng khái, hào hùng, phong nhã nên văn ông rất phóng khoáng. KẺ SĨ Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt, Dân hữu tứ sĩ vi chi tiên. Có giang sơn thì sĩ đã có tên, Từ Chu Hán, vốn sĩ này là quí. Miền hương đảng đã khen rằng hiếu nghị, Đạo lập thân phải giữ lấy cương thường. Khí hạo nhiên chí đại, chí cương, So chính khí đã đầy trong trời đất. Lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng tất, Hiêu hiêu nhiên điếu Vị, canh Sằn. Xe bồ luân dầu chưa gặp Thang, Văn, Phù thế giáo một vài câu thanh nghị. Cầm chính đạo để tịch tà, cự bí, Hồi cuồng lan nhi chướng bách xuyên. Rồng mây khi gặp hội ưa duyên Đem quách cả sở tồn làm sở dụng. Trong lang miếu, ra tài lương đống, Ngoài biên thùy rạch mũi can tương. Làm sao cho bách thế lưu phương, Trước là sĩ sau là khanh tướng. Kinh luân khởi tâm thượng, Binh giáp tàng hung trung. Vũ trụ chi gian giai phận sự, Nam nhi đáo thử thị hào hùng. Nhà nước yên mà sĩ được thung dung, Bấy giờ sĩ mới tìm ông Hoàng Thạch. Năm ba chú tiểu đồng lếch thếch, Tiêu dao nơi hàn cốc, thanh sơn, Nào thơ, nào rượu, nào địch, nào đờn, Đồ thích chí chất đầy trong một túi. Mặc ai hỏi, mặc ai không hỏi tới, Gẩm việc đời mà ngắm kẻ trọc thanh, Này này sĩ mới hoàn danh. CHÍ LÀM TRAI Vòm trời đất dọc ngang, ngang dọc, Nợ tang bồng vay trả trả vay. Chí làm trai Nam, Bắc, Đông, Tây, Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể. Nhân sinh tự cổ thùy vô tử, Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh. Đã cắc rằng ai nhục ai vinh, Mấy kẻ biết anh hùng khi vị ngộ. Cũng có lúc mưa dồn sóng vỗ, Quyết ra tay buồm lái với cuồng phong. Chí những toan xẻ núi lấp sông, Làm nên đấng anh hùng đâu đãy tỏ. Đường mây rộng thênh thênh cử bộ, Nợ tang bồng trang trắng, vỗ tay reo. Thảnh thơi thơ túi rượu bầu. ~Nguyễn Công Trứ~ GÁNH GẠO ĐƯA CHỒNG Mưỡu: Con cò lặn lội bờ sông, Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non. Nói: Lộ diệc vũ trùng trung chi nhất, Thương cái cò lặn lội bờ sông. Tiếng nỉ non gánh gạo đưa chồng, Ngoài nghìn dặm một trời, một nước. Trông bóng nhạn bâng khuâng từng bước, Nghe tiếng quyên, khắc khoải năm canh. Nghĩa tép tôm ai nỡ dứt tình, Ơn thủy thổ phải đền cho vẹn sóng, Trường tên đạn xin chàng bảo trọng, Thiếp lui về nuôi cái cùng con. Cao Bằng cách trở nước non, Mình trong trắng có quỉ thần gia hộ. Sức bay nhẩy một phen năng nổ, Đá Yên Nhiên còn đó chẳng mòn. Đồng hưu rạng chép thẻ son, Chàng nên danh giá, thiếp còn trẻ trung. Yêu nhau khăng khít giải đồng. ~Nguyễn-Công-Trứ~ NGẤT NGƯỞNG Vũ trụ nội mạc phi phận sự, Ông Hi Văn tài bộ đã vào lòng, Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông, Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng. Lúc Bình tây cầm cờ đại tướng, Có khi về Phủ doãn Thừa thiên. Đô môn giải tổ chi niên, Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng. Kìa núi nọ phau phau mây trắng, Tay kiếm cung mà nên dáng từ bi. Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi khi, Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng. Được mất dương dương người thái thượng, Khen chê phơi phới ngọn đông phong. Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng, Không Phật, không Tiên, không vướng tục. Chẳng Hàn Nhạc, cũng phường Mai Phúc, Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung. Đời ai ngất ngưởng như ông! ~Nguyễn-Công-Trứ~ CÂY THÔNG Ngồi buồn mà trách ông xanh, Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười. Kiếp sau xin chớ làm người, Làm cây thông đứng giữa trời mà reo. Giữa trời vách đá cheo leo, Ai mà chịu rét thì trèo với thông. ~Nguyễn-Công-Trứ~ CHỮ TÌNH Mưỡu: Chữ tình là chữ chi chi, Dẫu chi cũng chi chi với tình. Sầu ai lấp cả vòm trời, Biết chăng chẳng biết hỡi người tình chung? Nói: Đa tình là dở, Đã mắc vào đố gỡ cho ra! Khéo quấy người một cái tinh ma, Trói buộc kẻ hào hoa biết mấy! Đã gọi người nằm thiên cổ dậy, Lại đưa hồn lúc ngũ canh đi. Nực cười thay lúc phân kỳ, Trông chẳng nói, xiết bao nhiêu biệt lệ. Tình huống ấy dẫu bút thần khôn vẽ, Càng tài tình càng ngốc càng si! Cái tình là cái chi chi?! ~Nguyễn-Công-Trứ CHỮ NHÀN Thị tại môn tiền náo, Nguyệt lai môn hạ nhàn. So lao tâm lao lực cũng một đoàn, Người trần thế muốn nhàn sao được? Nên phải giữ lấy nhàn làm trước, Dẫu trời cho có tiếc cũng xin nài. Cuộc nhân sinh chừng bảy tám chín mười mươi, Mười lăm trẻ, năm mươi già không kể. Thoạt sinh ra thì đà khóc chóe, Trần có vui sao chẳng cười khì. Khi hỷ lạc, khi ái ố, khi sầu bi, Chứa chi lắm một bầu nhân dục. Tri túc tiện túc, đãi túc hà thời túc, Tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn hà thời nhàn? Cầm ký thi tửu với giang sơn, Dễ mấy kẻ xuất trần xuất thế. Ngã kim nhật tại tọa chi địa, Cổ chi nhân tằng tiên ngã tọa chi. Ngàn muôn năm âu cũng thế ni, Ai hay hát mà ai hay nghe hát? Sông Xích Bích buông thuyền năm Nhâm tuất, Để ông Tô riêng một thú thanh cao. Cữ nhàn là chử làm sao?! ~Nguyễn-Công-Trứ~ TƯƠNG TƯ Tương tư không biết cái làm sao, Muốn vẽ mà chơi vẽ được nào? Lúc đứng, khi ngồi, khi nói chuyện, Lúc say, lúc tỉnh, lúc chiêm bao. Trăng soi trước mặt ngờ chân bước, Gió thổi bên tai ngỡ miệng chào. Một nước một non người một ngả, Tương tư không biết cái làm sao? ~Nguyễn-Công-Trứ~ HÀN NHO PONG VỊ PHÚ Chém cha cái khó! Chém cha cái khó! Khôn khéo mấy ai? Xấu xa một nó! Lục cực bày hàng sáu, rành rành kinh huấn chẳng sai, Vạn tội lấy làm đầu, ấy ấy ngạn ngôn hẳn có. Kìa ai: Bốn vách tường mo, Ba gian nhà cỏ . Đầu kèo mọt đục vẽ sao, Trước cửa nhện giăng màn gió . Phên trúc ngăn nửa bếp nửa buồng, Ống nứa đựng đầu kê đầu đỗ. Đầu giường tre, mối dũi quanh co, Góc tường đất, giun đùn lố nhố. Bóng nắng dọi trứng gà bên vách, thằng bé tri trô, Hạt mưa soi hang chuột trong nhà , con mèo ngấp ngó . Trong cũi, lợn nằm gặm máng, đói chẳng muốn kêu, Đầu giàn, chuột cậy khua niêu, buồn thôi lại bỏ. Ngày ba bữa, vỗ bụng rau bịch bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no, Đêm năm canh, an giấc ngáy kho kho, đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ. Ấm trà góp lá bàng lá vối, pha mùi chát chát chua chua, Miếng trầu têm vỏ mận vỏ dà, buồn miệng nhai nhai nhổ nhổ. Áo vải thô nặng trịch, lạnh làm mền, nực làm gối, bốn mùa thay đổi bấy nhiêu, Khăn lau giắt đỏ lòm, giải làm chiếu, vận làm quần, một bộ ăn chơi quá thú. Đỡ mồ hôi, võng lác, quạt mo, Chống hơi đất, dép da, guốc gỗ. Miếng ăn sẵn cà non mướp luộc, ngon khéo là ngon, Đồ chơi nhiều quạt sậy điếu tre, của đâu những của. Đồ chuyên trà , ấm đất sứt vòi , Cuộc uống rượu , be sành chắp cổ . Đồ cổ khí bức tranh treo trên vách, khói bay lem luốc, mầu thủy mạc lờ mờ, Của tiểu đồng pho sách gác đầu giàn, gián nhấm lăm nhăm, dấu thổ châu đo đỏ. Cỗ bài lá, ba đời cửa tướng, hàng văn sách mập mờ, Bàn cờ săng, bảy kiếp nhà ma, chữ nhật chữ điền xiêu xó. Lộc nhĩ điền lúa chất đầy rương, Phương tịch cốc khoai vừa một rỏ. Tiêu dụng lấy chi mà phao phóng, thường giữ ba cọc ba đồng, Mùa màng dành để có bao nhiêu, chừng độ một chiêng một bó, Mỏng lưng xem cũng không giầu, Nhiều miệng lấy chi cho đủ . Đến bữa chưa sẵn bữa, con trẻ khóc dường ong, Qúa kỳ lại hẹn kỳ, nhà nợ kêu như ó . Thuốc men rắp bòn chài gỡ bữa, song nghĩ câu ý dã, thế nào cho đáng giá lương y, Thầy bà mong dối trá kiếm ăn, lại nghĩ chữ dũng như, phép chi được nổi danh pháp chủ. Quẻ dã hạc toan nhờ lộc thánh, trút muối đổ biển, ta chẳng bõ bèn, Huyệt chân long toan bán đất trời, ngôi mả táng cha, tìm còn chửa chỗ. Buôn bán rắp theo nghề đỏ, song lạ mặt, chúng hòng rước gánh,mập mờ nên hàng chẳng có lời, Bạc cờ toan gỡ con đen, chưa sẵn lưng, làng lại dành nơi, hỏi gạn mãi giạm không ra thổ. Gâp khúc lươn, nên ít kẻ yêu vì, Gương mắt ếch, biết vào đâu mượn mõ. Đến lúc niên chung nguyệt qúy, lấy chi tiêu đồng nợ đồng công? Gặp khi đường xẩy chân cùng, nên phải tới cửa này cửa nọ. Thân thỉ to to nhỏ nhỏ, ta đã mỏi cẳng ngồi trì, Dần dà nọ nọ kia kia, nó những vuốt râu làm bộ. Thầy tớ sợ men tìm đến cửa, ngảnh mặt cúi đầu, Chị em e vất lấm vào lưng, chìa môi nhọn mỏ. Láng giềng ít kẻ tới nhà, Thân thích chẳng ai nhìn họ. Mất việc toan dở nghề cơ tắc, tủi con nhà mà hổ mặt anh em, Túng đường mong quyết chí cùng tư, e phép nước chưa nên gan sừng sỏ. Cùng con cháu thuở nói năng chuyện cũ, dường ngâm câu lạc đạo vong bần, Gặp anh em khi bàn bạc sự đời, lại đọc chữ vi nhân bất phú. Tất do thiên, âu phận ấy là thường, Hữu kỳ đức, ắt trời kia chẳng phụ. Tiếc tài cả phải phạn ngưu bản trúc, dấu xưa ông Phó ông Hề, Cần nghiệp kho khi tạc bích tụ huỳnh, thuở trước chàng Khuông chàng Vũ. Nơi thành hạ đeo cần câu cá, kìa kìa người quốc sĩ Hoài âm, Chốn lý trung xách thớt chia phần, nọ nọ đấng mưu thần Dương võ. Khó ai bằng Mãi Thần Mông Chính, cũng có khi ngựa cưỡi dù che, Giàu ai bằng Vương Khải Thạch Sùng, cũng có hội tường xiêu ngói đổ. Mới biết: Khó bởi tại trời, Giàu là cái số. Dầu ai ruộng sâu trâu nái, đụn lúa kho tiền, Cũng bất quá thủ tài chi lỗ. ~Nguyễn-Công-Trú~ Trích Văn Đàn Bảo Giám Trần Trung Viên sưu tập 1926 Hư Chu hiệu chính 1968 Xuân Thu in lại ở California LÝ-VĂN-PHÚC 1785-1849 Tự Lân Chi, hiệu Khắc Trai, sinh 1785 tại Hồ khẩu, Vĩnh Thuận, Hà Nội,. Đỗ cử nhân 1819. Làm quan ba triều Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Ðức. Được cử đi công cán nhiều nước ở Viễn đông. Hai mươi bốn truyện hiếu diễn ra quốc âm: Người tai mắt đứng trong trời đất, Ai là không cha mẹ sinh thành, Gương treo đất nghĩa, trời kinh, ở sao cho xứng chút tình làm con. Chữ hiếu niệm cho tròn một tiết, Thì suy ra trăm nết đều nên, Chẳng xem thuở trước Thánh Hiền, Thảo hai mươi bốn, thơm nghìn muôn thu . NHỊ THẬP TỨ HIẾU: 1.- Ngu Thuấn Ðức đại thánh họ Ngu, vua Thuấn, Buổi tiềm long gặp vận hàn vi, Tuổi xanh khuất bóng từ vi, Cha là Cổ Tẩu người thì ương ương Mẹ ghẻ tính lại càng khe khắt, Em Tượng thêm rất mực điêu ngoa . Một mình thuận cả, vừa ba Trên chiều cha mẹ, dưới hòa cùng em. Trăm cay đắng, một niềm ngon ngọt, Dẫu tử sinh không chút biến dời, Xót tình khóc tối, kêu mai, Xui lòng ghen ghét hóa vui dần dần. Trời cao thẳm mấy lần cũng đến, Vật vô tri cũng mến lọ người, Mấy phen non lịch pha phôi, Cỏ, chim vì nhặt, ruộng, voi vì cày . Tiếng hiếu hữu xa bay bệ thánh, Mệnh trung dung trao chánh nhường ngôi Cầm thi, xiêm áo thảnh thơi, Một nhà đầm ấm, muôn đời ngợi khen. ………………. ~Lý-Văn-Phức~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.11.2013 20:34:02 bởi Anh Nguyên >
|