Dòng thơ cổ
Thay đổi trang: << < 45 > | Trang 4 của 5 trang, bài viết từ 46 đến 60 trên tổng số 65 bài trong đề mục
Anh Nguyên 09.02.2012 10:25:24 (permalink)
13/- Thúc Sinh duyên kết nàng Kiều

Cùng nhau căn dặn đến điều
Chỉ non, thề bể, nặng gieo đến lời
Nỉ non đêm ngắn tình dài
Ngoài hiên thỏ đã non đoài ngậm gương
Mượn điều trúc viện thừa lương
Rước về hãy tạm giấu nàng một nơi
Chiến, hòa, sắp sẵn hai bài
Cậy người thầy thợ, mượn người dò la
Bán tin đến mụ Tú Bà

Thua cơ, mụ cũng cầu hòa, dám sao
Rõ ràng của dẫn tay trao
Hoàn lương một thiếp, thân vào cửa công
Công tư đôi lẽ đều xong
Gót tiên phút đã thoát vòng trần ai
Một nhà sum hợp trúc mai
Càng sâu nghĩa bể, càng dài tình sông
Hương càng đượm, lửa càng nồng
Càng xôi vẻ ngọc, càng lồng màu sen

Nửa năm hơi tiếng vừa quen
Sân ngô cành biếc đã chen lá vàng
Giậu thu vừa nảy giò sương
Gối yên đã thấy xuân đường đến nơi
Phong lôi nổi trận bời bời
Nặng lời e ấp, tính bài phân chia
Quyết ngay biện bạch một bề
Dạy cho má phấn lại về lầu xanh
Thấy lời nghiêm huấn rành rành
Đánh liều Sinh mới lấy tình nài kêu

Rằng: Con biết tội đã nhiều
Dẫu rằng sấm sét búa rìu cũng cam
Trót vì tay đã nhúng chàm
Dại rồi còn biết khôn làm sao đây!
Cùng nhau vả tiếng một ngày
Ôm cầm ai nỡ đứt dây cho đành?
Lượng trên quyết chẳng thương tình
Bạc đen thôi có tiếc mình làm chi!
Thấy lời sắt đá tri tri
Sốt gan, ông mới cáo quì cửa công

Đất bằng nổi sóng đùng đùng
Phủ dường sai lá phiếu hồng thôi tra
Cùng nhau theo gót sai nha
Song song vào trước sân hoa lạy quì
Trông lên mặt sắt đen sì
Lập nghiêm trước đã, ra uy nặng lời
Gã kia dại nết chơi bời
Mà con người thế là người đong đưa
Tuồng gì hoa thải, hương thừa
Mượn màu son phấn đánh lừa con đen!
Suy trong tình trạng bên nguyên

Bề nào thì cũng chưa yên bề nào
Phép công chiếu án luận vào
Có hai đường ấy, tính sao mặc mình
Một là cứ phép gia hình
Một là lại cứ lầu xanh phó về!
Nàng rằng: Đã quyết một bề
Nhện này vương lấy tơ kia mấy lần!
Đục trong thân cũng là thân
Yếu thơ, vâng chịu trước sân lôi đình
Dạy rằng: Cứ phép gia hình!

Ba cây chập lại một cành mẫu đơn
Phận đành chi dám kêu oan
Đào hoen quyên má, liễu tan tác mày
Một sân lầm cát đã đầy
Gương lờ nước thủy, mai gầy vóc sương
Nghĩ tình chàng Thúc mà thương
Nẻo xa trông thấy lòng càng xót xa
Khóc rằng: Oan khốc vì ta!
Có nghe lời trước, chớ đà lụy sau
Cạn lòng chẳng biết nghĩ sâu

Để ai trăng tủi, hoa sầu vì ai?
Phủ đường nghe thoảng vào tai
Động lòng lại gạn đến lời riêng tây
Sụt sùi chàng mới thưa ngay
Đầu đuôi kể lại sự ngày cầu thân:
Nàng đà tính trước xa gần
Từ xưa nàng đã biết thân có rày!
Tại tôi hứng lấy một tay
Để nàng cho đến nỗi này vì tôi!
Nghe lời nói cũng thương lời

Dẹp uy mới dạy mở bài giải vi
Rằng: Như hẳn có thế thì
Trăng hoa, song cũng thị phi biết điều!
Sinh rằng: Chút phận bọt bèo
Theo đòi vả cũng ít nhiều bút nghiên.
Cười rằng: Đã thế thì nên!
Mộc già hãy thử một thiên trình nghề.
Nàng vâng cất bút tay đề
Tiên hoa trình trước án phê xem tường
Khen rằng: Giá lợp Thịnh Đường
Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân!

Thật là tài tử giai nhân
Châu Trần còn có Châu Trần nào hơn?
Thôi đừng rước dữ cưu hờn
Làm chi lỡ nhịp cho đờn ngang cung?
Đã đưa đến trước cửa công
Ngoài thì là lý, song trong là tình
Dâu con trong đạo gia đình
Thôi thì dẹp nỗi bất bình là xong!
Kíp truyền sắm sửa lễ công
Kiệu hoa cất gió, đuốc hồng điểm sao.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.02.2012 11:29:10 bởi Anh Nguyên >
#46
    Anh Nguyên 25.02.2012 10:48:05 (permalink)
    14/Hoạn Thư ngấm ngầm mưu kế
    đầy đoạ Thuý Kiều


    Bày hàng cổ xúy xôn xao
    Song song đưa tới trướng đào sánh đôi
    Thương vì hạnh, trọng vì tài
    Thúc ông thôi cũng dẹp lời phong ba
    Huệ lan sực nức một nhà
    Từng cay đắng lại mặn mà hơn xưa
    Mảng vui rượu sớm cờ trưa
    Đào đà phai thắm, sen vừa nảy xanh
    Trướng hồ vắng vẻ đêm thanh
    E tình, nàng mới bày tình riêng chung:
    Phận bồ từ vẹn chữ tòng
    Đổi thay nhạn yến đã hòng đầy niên
    Tin nhà ngày một vắng tin
    Mặn tình cát lũy, lạt tình tao khang
    Nghĩ ra thật cũng nên đường
    Tăm hơi, ai kẻ giữ giàng cho ta?

    Trộm nghe kẻ lớn trong nhà
    Ở vào khuôn phép, nói ra mối giường
    E thay những dạ phi thường
    Dễ dò rốn biển, khôn lường đáy sông!
    Mà ta suốt một năm ròng
    Thế nào cũng chẳng giấu xong được nào
    Bấy chầy chưa tỏ tiêu hao
    Hoặc là trong có làm sao chăng là?
    Xin chàng liệu kíp lại nhà
    Trước người đẹp ý, sau ta biết tình

    Đêm ngày giữ mực giấu quanh
    Rày lần, mai lữa, như hình chưa thông!
    Nghe lời khuyên nhủ thong dong
    Đành lòng Sinh mới quyết lòng hồi trang
    Rạng ra gửi đến xuân đường
    Thúc ông cũng vội giục chàng ninh gia
    Tiễn đưa một chén quan hà
    Xuân đình thoát đã dạo ra Cao đình
    Sông Tần một giải xanh xanh
    Lôi thôi bờ liễu mấy cành Dương quan

    Cầm tay dài ngắn thở than
    Chia phôi ngừng chén, hợp tan nghẹn lời
    Nàng rằng: Non nước xa khơi
    Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm
    Dễ lòa yếm thắm trôn kim
    Làm chi bưng mắt bắt chim khó lòng!
    Đôi ta chút nghĩa đèo bòng
    Đến nhà, trước liệu nói sòng cho minh
    Dầu khi sóng gió bất tình
    Lớn ra uy lớn, tôi đành phận tôi

    Hơn điều giấu ngược, giấu xuôi
    Lại mang những việc tầy trời đến sau
    Thương nhau xin nhớ lời nhau
    Năm chầy cũng chẳng đi đâu mà chầy!
    Chén đưa nhớ bữa hôm nay
    Chén mừng xin đợi ngày này năm sau.
    Người lên ngựa, kẻ chia bào
    Rừng phong, thu đã nhuốm màu quan san
    Dặm hồng bụi cuốn chinh an
    Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh

    Người về chiếc bóng năm canh
    Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi
    Vầng trăng ai xẻ làm đôi?
    Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường

    Kể chi những nỗi dọc đường
    Buồng trong này nỗi chủ trương ở nhà
    Vốn dòng họ Hoạn danh gia
    Con quan Lại bộ tên là Hoạn Thư
    Duyên Đằng thuận nẻo gió đưa
    Cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày
    Ở ăn thì nết cũng hay
    Nói điều ràng buộc thì tay cũng già
    Từ nghe vườn mới thêm hoa
    Miệng người đã lắm, tin nhà thì không
    Lửa tâm càng giập càng nồng

    Trách người đen bạc ra lòng trăng hoa
    Ví bằng thú thật cùng ta
    Cũng dong kẻ dưới mới là lượng trên
    Dại chi chẳng giữ lấy nền
    Tốt chi mà rước tiếng ghen vào mình?
    Lại còn bưng bít giấu quanh
    Làm chi những thói trẻ ranh nực cười!
    Tính rằng cách mặt, khuất lời
    Giấu ta, ta cũng liệu bài giấu cho
    Lo gì việc ấy mà lo
    Kiến trong miệng chén có bò đi đâu?
    Làm cho nhìn chẳng được nhau
    Làm cho đầy đọa cất đầu chẳng lên!
    Làm cho trông thấy nhỡn tiền
    Cho người thăm ván, bán thuyền, biết tay!
    Nỗi lòng kín chẳng ai hay
    Ngoài tai để mặc gió bay mái ngoài
    Tuần sau bỗng thấy hai người
    Mách tin, ý cũng liệu bài tâng công
    Tiểu thư nổi giận đùng đùng:
    Gớm tay thêu dệt ra lòng trêu ngươi!

    Chồng tao nào phải như ai
    Điều này hẳn miệng những người thị phi!
    Vội vàng xuống lệnh ra uy
    Đứa thì vả miệng, đứa thì bẻ răng
    Trong ngoài kín mít như bưng
    Nào ai còn dám nói năng một lời!
    Buồng đào khuya sớm thảnh thơi
    Ra vào một mực nói cười như không
    Đêm ngày lòng những giận lòng
    Sinh đà về đến lầu hồng, xuống yên

    Lời tan hợp, nỗi hàn huyên
    Chữ tình càng mặn, chữ duyên càng nồng
    Tẩy trần vui chén thong dong
    Nỗi lòng, ai ở trong lòng mà ra?
    Chàng về xem ý tứ nhà
    Sự mình cũng rắp lân la giãi bày
    Mấy phen cười nói tỉnh say
    Tóc tơ bất động mảy may sự tình
    Nghĩ: Đà bưng kín miệng bình
    Nào ai có khảo mà mình lại xưng?

    Những là e ấp dùng dằng
    Rút dây sợ nữa động rừng, lại thôi
    Có khi vui chuyện mua cười
    Tiểu thư lại giở những lời đâu đâu
    Rằng: Trong ngọc đá vàng thau
    Mười phần ta đã tin nhau cả mười
    Khen cho những miệng rông dài
    Bướm ong lại đặt những lời nọ kia
    Thiếp dầu vụng, chẳng hay suy
    Đã dơ bụng nghĩ, lại bia miệng cười!

    Thấy lời thủng thỉnh như chơi
    Thuận lời, chàng cũng nói xuôi đỡ đòn
    Những là cười phấn cợt son
    Đèn khuya chung bóng, trăng tròn sánh vai
    Thú quê thuần hức bén mùi
    Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô
    Chạnh niềm nhớ cảnh giang hồ
    Một niềm quan tái, mấy mùa gió trăng
    Tình riêng chưa dám rỉ răng
    Tiểu thư trước đã liệu chừng nhủ qua:

    Cách năm, mây bạc xa xa
    Lâm Chuy cũng phải tính mà thần hôn
    Được lời như cởi tấc son
    Vó câu thẳng ruổi nước non quê người
    Long lanh dáy nước in trời
    Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng
    Roi câu vừa gióng dặm trường
    Xe hương nàng cũng thuận đường qui ninh.
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 28.02.2012 05:23:24 bởi Anh Nguyên >
    #47
      Anh Nguyên 28.02.2012 05:33:49 (permalink)
      15/Hoạn Thư thực hành mưu kế
      bắt cóc Thuý Kiều.

      Thưa nhà huyên hết mọi tình

      Nỗi chàng ở bạc, nỗi mình chịu đen
      Nghĩ rằng: Ngứa ghẻ, hờn ghen

      Xấu chàng mà có ai khen chi mình!
      Vậy nên ngảnh mặt làm thinh
      Mưu cao vốn đã rắp ranh những ngày
      Lâm Chuy đường bộ tháng chầy
      Mà đường hải đạo sang ngay thì gần
      Dọn thuyền lựa mặt gia nhân
      Hãy đem dây xích buộc chân nàng về
      Làm cho, cho mệt, cho mê
      Làm cho đau đớn, ê chề cho coi!
      Trước cho bõ ghét những người

      Sau cho để một trò cười về sau!
      Phu nhân khen chước rất mầu
      Chiều con, mới dạy mặc dầu ra tay
      Sửa sang buồm gió, lèo mây
      Khuyển, ưng lại lựa một bầy côn quang
      Dặn dò hết cả mọi đường
      Thuận phong một lá, vượt sang bên Tề

      Nàng từ chiếc bóng song the

      Đường kia nỗi nọ như chia mối sầu
      Bóng dâu đã xế ngang đầu
      Biết đâu ấm lạnh, biết đâu ngọt bùi
      Tóc thề đã chấm ngang vai
      Nào lời non nước, nào lời sắt son
      Sắn bìm chút phận cỏn con
      Khuôn duyên biết có vuông tròn cho chăng?
      Thân sao nhiều nỗi bất bằng
      Liều như cung Quảng ả Hằng, nghĩ nau!
      Đêm thu gió lọt song đào

      Nửa vành trăng khuyết, ba sao giữa trời
      Nén hương đến trước thiên đài
      Nỗi lòng khấn chứa cạn lời vân vân...
      Dưới hoa dậy lũ ác nhân
      Ầm ầm khóc quỉ, kinh thần mọc ra
      Đầy sân gươm tuốt sáng lòa
      Thất kinh nàng chửa biết là làm sao
      Thuốc mê đâu đã tưới vào
      Mơ màng như giấc chiêm bao biết gì!
      Vực ngay lên ngựa tức thì
      Phòng đào, viện sách, bốn bề cửa dong;

      Sẵn thây vô chủ bên sông
      Đem vào để đó lận sòng ai hay
      Tôi đòi phách lạc, hồn bay
      Pha càn bụi cỏ, gốc cây ẩn mình
      Thúc ông nhà cũng gần quanh
      Chợt trông ngọn lửa, thất kinh rụng rời
      Tớ thầy chạy thẳng đến nơi
      Tơi bời tưới lửa tìm người lao xao
      Gió cao, ngọn lửa càng cao
      Tôi đòi tìm đủ, nàng nào thấy đâu!
      Hớt hơ, hớt hãi, nhìn nhau

      Giếng sâu, bụi rậm, trước sau tìm quàng;
      Chạy vào chốn cũ phòng hương
      Trong tro, thấy một đống xương cháy tàn
      Ngay tình ai biết mưu gian
      Hẳn nàng, thôi lại còn bàn rằng ai!
      Thúc ông sùi sụt ngắn dài
      Nghĩ con vắng vẻ, thương người nết na
      Di hài nhặt sắp về nhà
      Nào là khâm liệm, nào là tang trai

      Lễ thường đã đủ một hai

      Lục trình chàng cũng đến nơi bấy giờ
      Bước vào chốn cũ lầu thư
      Tro than một đống, nắng mưa bốn tường
      Sang nhà cha, tới trung đường
      Linh sàng, bài vị, thờ nàng ở trên
      Hỡi ôi! Nói hết sự duyên
      Tơ tình đứt ruột, lửa phiền cháy gan
      Gieo mình vật vã khóc than:
      Con người thế ấy, thác oan thế này!
      Chắc rằng mai trúc lại vầy

      Ai hay vĩnh quyết là ngày đưa nhau!
      Thương càng nghĩ, nghĩ càng đau
      Dễ ai rấp thảm, quạt sầu cho khuây
      Gần miền nghe có một thầy
      Phi phù trị quỷ, cao tay thông huyền
      Trên tam đảo, dưới cữu tuyền
      Tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng
      Sắm sanh lễ vật rước sang
      Xin tìm cho thấy mặt nàng hỏi han

      Đạo nhân phục trước tĩnh bàn

      Xuất thần giây phút chưa tàn nén hương
      Trở về minh bạch nói tường:
      Mặt nàng chẳng thấy, việc nàng đã tra:
      Người này nặng kiếp oan gia
      Còn nhiều nợ lắm, sao đà thác cho!
      Mệnh cung đang mắc nạn to
      Một năm nữa mới thăm dò được tin
      Hai bên giáp mặt chiền chiền
      Muốn nhìn mà chẳng được nhìn lạ thay!
      Nghe lời nói, lạ dường này!

      Sự nàng đã thế, lời thầy dám tin?
      Chẳng qua đồng cốt quàng xiên
      Người đâu mà lại thấy trên cõi trần?
      Tiếc hoa những ngậm ngùi xuân
      Thân này dễ lại mấy lần gặp tiên!
      Nước trôi hoa rụng đã yên
      Hay đâu địa ngục ở miền nhân gian!

      Khuyển, ưng đã rắp mưu gian

      Vực nàng đưa xuống để an dưới thuyền
      Buồm cao, lèo thẳng cánh suyền
      Đè chừng huyện Tích, băng miền vượt sang
      Dỡ đò, lên trước sảnh đường
      Khuyển, ưng, hai đứa nộp nàng dâng công
      Vực nàng tạm xuống môn phòng
      Hãy còn thiêm thiếp giấc nồng chưa phai
      Hoàng lương chợt tỉnh hôm mai
      Cửa nhà đâu mất, lâu đài nào đây?
      Bàng hoàng giở tỉnh giở say

      Sảnh đường mảng tiếng đòi ngay lên hầu
      Ả hoàn liền xuống giục mau
      Hãi hùng nàng mới theo sau một người
      Ngước trông tòa rộng, dãy dài
      Thiên quang Chủng tể có bài treo trên
      Ban ngày, sáp thắp hai bên
      Giữa giường thất bảo, ngồi trên một bà
      Gạn gùng ngọn hỏi, ngành tra
      Sự mình, nàng đã cứ mà gửi thưa

      Bất bình nổi trận mây mưa

      Dức rằng: Những giống bờ thờ quen thân!
      Con này chẳng phải thiện nhân
      Chẳng màu trốn chúa, thì quân lội chồng
      Ra tuồng mèo mả, gà đồng
      Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào
      Đã đem mình bán cửa tao
      Lại còn khủng khỉnh làm cao thế này!
      Nào là gia pháp nọ bay!
      Hãy cho ba chục, biết tay một lần!
      A hoàn trên dưới dạ rân

      Dẫu rằng trăm miệng khôn phân lẽ nào!
      Trúc côn ra sức đập vào
      Thịt nào chẳng nát, gan nào chẳng kinh!
      Xót thay đào lý một cành
      Một phen mưa gió tan tành một phen!
      Hoa nô, truyền dạy đổi tên
      Buồng the, dạy ép vào phiên thị tì
      Ra vào theo lũ thanh y
      Dãi dầu tóc rối, da chì quản bao!
      Quản gia có một mụ nào
      Thấy người, thấy nết, ra vào mà thương

      Khi chè chén, khi thuốc thang
      Đem lời phương tiện mở đường hiếu sinh
      Dạy rằng: May rủi đã đành
      Liễu bồ mình giữ lấy mình cho hay
      Cũng là oan nghiệp chi đây
      Sa cơ mới đến thế này, chẳng dung
      Ở đây tai vách mạch rừng
      Thấy ai người cũ cũng đừng nhìn chi
      Kẻo khi sấm sét bất kỳ
      Con ong, cái kiến, kêu gì được oan!

      Nàng càng giọt ngọc như chan
      Nỗi lòng luống những bàn hoàn niềm tây
      Phong trần kiếp đã chịu đày
      Lầm than, lại có thứ này bằng hai!
      Phận sao bạc chẳng vừa thôi?
      Khăng khăng buộc mãi lấy người hồng nhan!
      Đã đành túc trái tiền oan
      Cũng liều ngọc nát, hoa tàn mà chi!
      Những là nương náu qua thì
      Tiểu thư phải buổi mới về ninh gia

      Mẹ con trò chuyện lân la
      Phu nhân mới gọi nàng ra dạy lời:
      Tiểu thư dưới trướng thiếu người
      Cho về bên ấy, theo đòi lầu trang.
      Lĩnh lời, nàng mới theo sang
      Biết đâu dịa ngục, thiên đường là đâu?
      Sớm khuya khăn mặt, lược hầu
      Phận con hầu, giữ con hầu, dám sai!
      Phải đêm êm ả chiều trời
      Trúc tơ, hỏi đến nghề chơi mọi ngày

      Lĩnh lời, nàng mới lựa dây
      Nỉ non thánh thót, dễ say lòng người
      Tiểu thư xem cũng thương tài
      Khuôn uy dường cũng bớt vài bốn phân
      Cửa người đày đọa chút thân
      Sớm năn nỉ bóng, đêm ngơ ngẩn lòng
      Lâm Chuy chút nghĩa đèo bòng
      Nước non để chữ tương phùng kiếp sau!
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.03.2012 19:54:34 bởi Anh Nguyên >
      #48
        Anh Nguyên 02.03.2012 21:05:23 (permalink)
        16/Hoạn-Thư đầy đoạ Thuý Kiều trước
        mắt Thúc Sinh.

        Bốn phương mây trắng một màu

        Trông vời cố quốc, biết đâu là nhà?
        Lần lần tháng trọn ngày qua
        Nỗi gần nào biết đường xa thế này.
        Lâm Chuy từ thuở uyên bay,
        Buồng không, thương kẻ tháng ngày chiếc thân
        Mây xanh, trăng mới in ngần
        Phấn thừa, hương cũ, bội phần xót xa
        Sen tàn, cúc lại nở hoa
        Sầu dài, ngày ngắn, đông đà sang xuân
        Tìm đâu cho thấy cố nhân?
        Lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương
        Trạnh niềm nhớ cảnh gia hương
        Nhớ quê, chàng lại tìm đường thăm quê

        Tiểu thư đón cửa dã dề

        Hàn huyên vừa cạn mọi bề gần xa
        Nhà hương cao cuốn bức là
        Buồng trong, truyền gọi nàng ra lạy mầng
        Bước ra một bước một ngừng
        Trông xa, nàng đã tỏ chừng nẻo xa:
        Phải rằng nắng quáng, đèn lòa
        Rõ ràng ngồi đó chẳng là Thúc Sinh?
        Bấy giờ, tình mới tỏ tình
        Thôi thôi đã mắc vào vành, chẳng sai!

        Chước đâu, có chước lạ đời!

        Người đâu mà lại có người tinh ma!
        Rõ ràng thật lứa đôi ta
        Làm cho con ở, chúa nhà đôi nơi!
        Bề ngoài thơn thớt nói cười
        Mà trong nham hiểm, giết người không dao
        Bây giờ đất thấp trời cao
        Ăn làm sao, nói làm sao bây giờ?
        Càng trông mặt, càng ngẩn ngơ
        Ruột tằm đòi đoạn như tơ rối bời
        Sợ uy dám chẳng vâng lời

        Cúi đầu nép xuống sân mai một chiều

        Sinh đà phách lạc, hồn xiêu:
        Thương ôi! Chẳng phải nàng Kiều ở đây?
        Nhân làm sao đến thế này?
        Thôi thôi ta đã mắc tay ai rồi!
        Sợ quen dám hở ra lời
        Khôn ngăn giọt ngọc, sụt sùi nhỏ sa
        Tiểu thư trông mặt hỏi tra:
        Mới về có việc chi mà động dong?
        Sinh rằng: Hiếu phục vừa xong

        Suy lòng trắc dĩ, đau lòng chung thiên!

        Khen rằng: Hiếu tử đã nên!
        Tẩy trần, mượn chén giải phiền đêm thu.
        Vợ chồng chén tạc chén thù
        Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi
        Bắt khoan, bắt nhặt, đến lời
        Bắt quì tận mặt, bắt mời tận tay
        Sinh càng như dại như ngây
        Giọt dài, giọt ngắn, chén đầy, chén vơi
        Ngảnh đi, chợt nói, chợt cười

        Cáo say, chàng đã giạm bài lảng ra

        Tiểu thư vội thét: Con Hoa!
        Khuyên chàng chẳng cạn thì ta có đòn!
        Sinh càng nát ruột tan hồn
        Chén mời, phải ngậm bồ hòn, ráo ngay!
        Tiểu thư cười nói tỉnh say
        Chửa xong cuộc rượu, lại bày trò chơi
        Rằng: Hoa nô đủ mọi tài
        Bản đàn thử giạo một bài chàng nghe!
        Nàng đà tán hoán, tê mê

        Vâng lời, ra trước bình the vặn đàn

        Bốn dây như khóc, như than
        Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng!
        Cũng trong một tiếng tơ đồng
        Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm
        Giọt châu lã chã khôn cầm
        Cúi đầu, chàng những gạt thầm giọt sương
        Tiểu thư lại thét lấy nàng:
        Cuộc vui gẩy khúc đoạn tràng ấy chi?
        Sao chẳng biết ý tứ gì?
        Cho chàng buồn bã, tội thì tại ngươi!


        Sinh càng thảm thiết bồi hồi
        Vội vàng gượng nói, gượng cười cho qua
        Giọt rồng canh đã điểm ba
        Tiểu thư nhìn mặt, dường đà cam tâm
        Lòng riêng tấp tểnh mừng thầm:
        Vui này đã bõ đau ngầm xưa nay!
        Sinh thì gan héo, ruột đầy
        Nỗi lòng, càng nghĩ càng cay đắng lòng
        Người vào chung gối loan phòng
        Nàng ra tựa bóng đèn giong canh dài


        Bây giờ mới rõ tăm hơi
        Máu ghen, đâu có lạ đời nhà ghen!
        Chước đau rẽ thúy chia uyên!
        Ai ra đường nấy, ai nhìn được ai
        Bây giờ một vực một trời
        Hết điều khinh trọng, hết lời thị phi
        Nhẹ như bấc, nặng như chì
        Gỡ cho ra nữa, còn gì là duyên!
        Lỡ làng chút phận thuyền quyên
        Bể sâu, sóng cả, có tuyền được vay?
        Một mình âm ỷ đêm chầy
        Đĩa dầu vơi, nước mắt đầy năm canh

        Sớm khuya hầu hạ đài doanh

        Tiểu thư chạm mặt, dè tình hỏi tra
        Lựa lời, nàng mới thưa qua:
        Phải khi mình lại xót xa nỗi mình.
        Tiểu thư hỏi lại Thúc sinh:
        Cậy chàng tra lấy thực tình cho nao!
        Sinh đà rát ruột như bào
        Nói ra chẳng tiện, trông vào chẳng đang!
        Những e lại lụy đến nàng
        Đánh liều mới sẽ lựa đường hỏi tra

        Cúi đầu quì trước sân hoa

        Thân cung nàng mới dâng qua một tờ
        Diện tiền trình với tiểu thư
        Thoắt xem dường có ngẩn ngơ chút tình
        Liền tay trao lại Thúc sinh
        Rằng: Tài nên trọng, mà tình nên thương!
        Ví chăng có số giàu sang
        Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên!
        Bể trần, chìm nổi thuyền quyên
        Hữu tài, thương nỗi vô duyên lạ đời!

        Sinh rằng: Thật có như lời

        Hồng nhan bạc mệnh, một người nào vay
        Nghìn xưa âu cũng thế này
        Từ bi âu liệu bớt tay mới vừa.
        Tiểu thư rằng: Ý trong tờ
        Rắp đem mệnh bạc, xin nhờ cửa Không
        Thôi thì thôi, cũng chiều lòng
        Cũng cho nghỉ nghị trong vòng bước ra
        Sẵn Quan âm các vườn ta
        Có cây trăm thước, có hoa bốn mùa.
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.03.2012 19:58:13 bởi Anh Nguyên >
        #49
          Anh Nguyên 05.03.2012 10:36:47 (permalink)
          17/Thúc Sinh mạo hiểm gặp mặt
          Thuý Kiều ở Quán Âm các.


          Có cổ thụ, có sơn hồ
          Cho nàng ra đó giữ chùa tụng kinh.
          Tang tảng, trời mới bình minh
          Hương hoa, ngũ quả, sắm sanh lễ thường
          Đưa nàng đến trước Phật đường
          Tam qui, ngũ giới, cho nàng xuất gia
          Áo xanh đổi lấy cà sa
          Pháp danh lại đổi tên ra Trạc Tuyền
          Sớm khuya tính đủ dầu đèn
          Xuân, Thu, cắt sẵn hai tên hương trà

          Nàng từ lánh gót vườn hoa
          Dường gần rừng tía, dường xa bụi hồng
          Nhân duyên đâu lại còn mong?
          Khỏi điều thẹn phấn, tủi hồng thì thôi
          Phật tiền thảm lấp sầu vùi
          Ngày phò thủ tự, đêm nhồi tâm hương
          Cho hay giọt nước cành dương
          Lửa lòng tưới tắt mọi đường trần duyên
          Nâu sồng từ trở màu thuyền
          Sân thu trăng đã vài phen đứng đầu

          Quan phòng, then nhặt, lưới mau
          Nói lời trước mặt, rơi châu vắng người
          Gác kinh, viện sách, đôi nơi
          Trong gang tấc, lại gấp mười quan san
          Những là ngậm thở nuốt than
          Tiểu thư phải buổi vấn an về nhà
          Thừa cơ, Sinh mới lẻn ra
          Xăm xăm đến mé vườn hoa với nàng
          Sụt sùi, dở nỗi đoạn tràng
          Giọt châu tầm tã đẵm tràng áo xanh

          Đã cam chịu bạc với tình
          Chúa xuân để tội một mình cho hoa
          Thấp cơ, thua trí đàn bà
          Trông vào đau ruột, nói ra ngại lời
          Vì ta cho lụy đến người
          Cát lầm ngọc trắng, thiệt đời xuân xanh!
          Quản chi lên thác xuống ghềnh
          Cũng toan sống thác với tình cho xong
          Tông đường, chút chửa cam lòng
          Nghiến răng bẻ một chữ đồng làm hai

          Thẹn mình đá nát vàng phai
          Trăm thân dễ chuộc một lời được sao?
          Nàng rằng: Chiếc bách song đào
          Nổi chìm cũng mặc lúc nào rủi may
          Chút thân quằn quại vũng lầy
          Sống thừa còn tưởng đến rày nữa sao?
          Cũng liều một giọt mưa đào
          Mà cho thiên hạ trông vào cũng hay!
          Xót vì cầm đã bén dây
          Chẳng trăm năm, cũng một ngày duyên ta

          Liệu bài mở cửa cho ra
          Ấy là tình nặng, ấy là ân sâu!
          Sinh rằng: Riêng tưởng bấy lâu
          Lòng người nham hiểm, biết đâu mà lường
          Nữa khi giông tố phủ phàng
          Thiệt riêng đấy, cũng lại càng cực đây
          Liệu mà xa chạy cao bay
          Ái ân ta có ngần này mà thôi!
          Bây giờ kẻ ngược người xuôi
          Biết bao giờ lại nối lời nước non?

          Dẫu rằng sông cạn đá mòn
          Con tằm đến thác cũng còn vương tơ!
          Cùng nhau kể lể sau xưa
          Nói rồi lại nói, lời chưa hết lời
          Mặt trông, tay chẳng nỡ rời
          Hoa tì đã động tiếng người nẻo xa
          Ngập ngừng, nuốt tủi, đứng ra
          Tiểu thư đâu đã rẽ hoa bước vào
          Cười cười nói nói ngọt ngào
          Hỏi chàng mới ở chốn nào lại chơi?
          Dối quanh, Sinh mới liệu lời:

          Tìm hoa quá bước, xem người viết kinh.
          Khen rằng: Bút pháp đã tinh
          So vào với thiếp Lan đình nào thua!
          Tiếc thay lưu lạc giang hồ
          Nghìn vàng thật cũng nên mua lấy tài!
          Thuyền trà cạn nước hồng mai
          Thong dong nối gót thư trai cùng về

          Nàng càng e lệ ủ ê
          Rỉ tai, hỏi lại Hoa tì trước sau
          Hoa rằng: Bà đến đã lâu
          Rón chân đứng nấp độ đâu nủa giờ
          Rành rành kẽ tóc chân tơ
          Mấy lời nghe hết, đã dư tỏ tường
          Bao nhiêu đoạn khổ tình thương
          Nỗi ông vất vả, nỗi nàng thở than
          Dặn tôi đứng lại một bên
          Chán tai rồi mới bước lên trên lầu.

          Nghe thôi kinh hãi xiết đâu
          Đàn bà thế ấy, thấy âu một người!
          Ấy mới gan! ấy mới tài!
          Nghĩ càng thêm nỗi sởn gai rụng rời!
          Người đâu sâu sắc nước đời
          Mà chàng Thúc phải ra người bó tay!
          Thực tang bắt được dường này
          Máu ghen, ai cũng chau mày nghiến răng
          Thế mà im chẳng đãi đằng
          Chào mời vui vẻ, nói năng dịu dàng!
          Giận dầu ra dạ thế thường
          Cười dầu mới thực khôn lường hiểm sâu
          Thân ta, ta phải lo âu
          Miệng hùm, nọc rắn, ở đâu chốn này!

          Ví chăng chắp cánh cao bay
          Trèo cây lâu cũng có ngày bẻ hoa
          Phận bèo bao quản nước sa
          Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh
          Chỉn e quê khách một mình
          Tay không chưa dễ tìm vành ấm no!
          Nghĩ đi, nghĩ lại quanh co
          Phật tiền, sẵn có mọi đồ kim ngân
          Bên mình giắt để hộ thân
          Lần nghe canh đã một phần trống ba
          Cất mình qua ngọn tường hoa
          Lần đường theo bóng trăng tà về tây.
          Mịt mù dặm cát đồi cây
          Tiếng gà điếm nguyệt, dấu giày cầu sương
          Canh khuya thân gái dặm trường
          Phần e đường sá, phần thương dãi dầu!
          Trời đông vừa rạng ngàn dâu
          Bơ vơ nào đã biết đâu là
          nhà
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 10.05.2012 11:56:51 bởi Anh Nguyên >
          #50
            Anh Nguyên 13.03.2012 00:26:50 (permalink)
            18/Thuý Kiều trốn khỏi Quán Âm các, lại
            gặp Bạc Bà cũng phường lầu xanh, sau gặp
            Từ Hải tại đây.

            Chùa đâu trông thấy nẻo xa
            Rành rành Chiêu Ẩn Am ba chữ bài
            Xăm xăm gõ mái cửa ngoài
            Trụ trì nghe tiếng rước mời vào trong

            Thấy mầu ăn mặc nâu sồng
            Giác Duyên sư trưởng lành lòng liền thương
            Gạn gùng ngành ngọn cho tường
            Lạ lùng, nàng hãy tìm đường nói quanh:
            Tiểu thiền quê ở Bắc kinh,
            Qui sư, qui Phật, tu hành bấy lâu
            Bản sư rồi cũng đến sau
            Dạy đưa pháp bảo sang hầu sư huynh.
            Rày vâng diện hiến rành rành
            Chuông vàng khánh bạc bên mình giở ra

            Xem qua sư mới dạy qua:
            Phải nơi Hằng Thủy là ta hậu tình
            Chỉn e đường sá một mình
            Ở đây chờ đợi sư huynh ít ngày.
            Gửi thân được chốn am mây
            Muối dưa đắp đổi tháng ngày thong dong
            Kệ kinh câu cũ thuộc lòng
            Hương đèn việc cũ, trai phòng quen tay
            Sớm khuya lá bối phướn mây
            Ngọn đèn khêu nguyệt, tiếng chày nện sương

            Thấy nàng thông tuệ khác thường
            Sư càng nể mặt, nàng càng vững chân.
            Cửa thuyền vừa cữ cuối xuân
            Bóng hoa đầy đất, vẻ ngân ngang trời
            Gió quang, mây tạnh thảnh thơi
            Có người đàn việt lên chơi cửa Già
            Giở đồ chuông khánh xem qua
            Khen rằng: Khéo giống của nhà Hoạn nương!
            Giác Duyên thực ý lo lường
            Đêm khuya mới hỏi lại nàng trước sau
            Nghĩ rằng khôn nỗi giấu mầu
            Sự mình nàng mới gót đầu bày ngay:

            Bây giờ sự đã dường này
            Phận hèn dầu rủi, dầu may tại người.
            Giác Duyên nghe nói rụng rời
            Nửa thương, nửa sợ, bồi hồi chẳng xong
            Rỉ tai mới kể sự lòng:
            Ở đây cửa Phật là không hẹp gì
            E chăng những sự bất kỳ
            Để nàng cho đến thế thì cũng thương!
            Lánh xa trước liệu tìm đường
            Ngồi chờ nước đến, nên dường còn quê!
            Có nhà họ Bạc bên kia

            Am mây quen lối đi về dầu hương
            Nhắn sang, dặn hết mọi đường
            Dọn nhà hãy tạm cho nàng trú chân
            Những mầng được chốn an thân
            Vội vàng nào kịp tính gần tính xa
            Nào ngờ cũng tổ bợm già
            Bạc Bà học với Tú Bà đồng môn!
            Thấy nàng mặn phấn, tươi son
            Mầng thầm được buổi bán buôn có lời
            Hư không đặt để nên lời
            Nàng đà lớn sự rụng rời lắm phen

            Mụ càng xua đuổi cho liền
            Lấy lời hung hiểm, ép duyên Châu Trần
            Rằng: Nàng muôn dặm một thân
            Lại mang lấy tiếng dữ gần, lành xa
            Khéo oan gia, của phá gia!
            Còn ai dám chứa vào nhà nữa đây?
            Kíp toan kiếm chốn xe dây
            Không dưng chưa dễ mà bay đàng trời!
            Nơi gần thì chẳng tiện nơi
            Nơi xa thì chẳng có người nào xa

            Này chàng Bạc Hạnh cháu nhà
            Cùng trong thân thích ruột rà, chẳng ai
            Cửa nhà buôn bán châu Thai
            Thực thà có một, đơn sai chẳng hề
            Thế nào nàng cũng phải nghe
            Thành thân rồi sẽ liệu về châu Thai
            Bấy giờ ai lại biết ai
            Dầu lòng bể rộng, sông dài thênh thênh
            Nàng dầu quyết chẳng thuận tình
            Trái lời nẻo trước, lụy mình đến sau!

            Nàng càng mặt ủ mày chau
            Càng nghe mụ nói, càng đau như rần
            Nghĩ mình túng đất, sẩy chân
            Thế cùng, nàng mới xa gần thở than:
            Thiếp như con én lạc đàn
            Phải cung, rày đã sợ làn cây cong
            Cùng đường dầu tính chữ tòng
            Biết người, biết mặt, biết lòng làm sao?
            Nữa khi muôn một thế nào
            Bán hùm buôn sói, chắc vào lưng đâu?

            Dầu ai lòng có sở cầu
            Tâm minh, xin quyết với nhau một lời
            Chứng minh có đất có trời
            Bấy giờ vượt bể, ra khơi quản gì!
            Được lời mụ mới ra đi
            Mách tin họ Bạc tức thì sắm sanh
            Một nhà dộn dịp linh đình
            Quét sân, đặt trác, rửa bình, thắp nhang
            Bạc sinh quì xuống vội vàng
            Quá lời nguyện hết Thành hoàng, Thổ công
            Trước sân lòng đã giãi lòng
            Trong màn làm lễ tơ hồng kết duyên
            Thành thân, mới rước xuống thuyền
            Thuận buồm một lá, xuôi miền châu Thai
            Thuyền vừa đỗ bến thảnh thơi
            Bạc sinh lên trước tìm nơi mọi ngày
            Cũng nhà hành viện xưa nay
            Cũng phường bán thịt, cũng tay buôn người
            Xem người, định giá, vừa rồi
            Mối hàng một, đã ra mười thì buông
            Mượn người, thuê kiệu, rước nàng

            Bạc đem mặt bạc, kiếm đường cho xa
            Kiệu hoa đặt trước thềm hoa
            Bên trong thấy một mụ ra vội vàng
            Đưa nàng vào lạy gia đường
            Cũng thần mày trắng, cũng phường lầu xanh!
            Thoắt trông nàng đã biết tình
            Chim lồng khôn lẽ cất mình bay cao
            Chém cha cái số hoa đào
            Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi!
            Nghĩ đời mà ngán cho đời!
            Tài tình chi lắm cho trời đất ghen!
            Tiếc thay nước đã đánh phèn
            Mà cho bùn lại vẩn lên mấy lần!
            Hồng quân với khách hồng quần
            Đã xoay đến thế còn vần chưa tha
            Lỡ từ lạc bước, bước ra
            Cái thân liệu những từ nhà liệu đi
            Đầu xanh đã tội tình gì
            Má hồng đến quá nửa thì chưa thôi?
            Biết thân chạy thẳng khỏi trời
            Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.

            Lần thâu gió mát trăng thanh
            Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi
            Râu hầm, hàm én, mày ngài
            Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao
            Đường đường một đấng anh hào
            Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài
            Đội trời đạp đất ở đời
            Họ Từ tên Hải, vốn người Việt-Đông
            Giang hồ quen thói vẫy vùng
            Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo

            Qua chơi thấy tiếng nàng Kiều
            Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng
            Thiếp danh đưa đến lầu hồng
            Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa
            Từ rằng: Tâm phúc tương cờ
            Phải người trăng gió vật vờ hay sao?
            Bấy lâu nghe tiếng má đào
            Mắt xanh chẳng để ai vào, có không?
            Một đời được mấy anh hùng
            Bõ chi cá chậu chim lồng mà chơi?
            Nàng rằng: Người dạy quá lời
            Thân này còn dám coi ai làm thường!
            Chút riêng chọn đá thử vàng
            Biết đâu mà gửi can tràng vào đâu?
            Còn như vào trước ra sau
            Ai cho kén chọn vàng thau tại mình?
            Từ rằng: Lời nói hữu tình!
            Khiến người lại nhớ câu Bình nguyên quân
            Lại đây xem lại cho gần
            Phỏng tin được một vài phần hay không?
            Thưa rằng: Lượng cả bao dung
            Tấn Dương được thấy mây rồng có phen
            Rộng thương cỏ nội, hoa hèn
            Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau.
            Nghe lời vừa ý, gật đầu
            Cười rằng: Tri kỷ trước sau mấy người?
            Khen cho con mắt tinh đời
            Anh hùng, đoán giữa trần ai mới già!
            Một lời đã biết đến ta
            Muôn chung, nghìn tứ, cũng là có nhau!
            Hai bên ý hợp tâm đầu
            Khi thân, chẳng lựa là cầu mới thân!
            Ngỏ lời nói với băng nhân
            Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn
            Buồng riêng sửa chốn thanh nhàn
            Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên
            Trai anh hùng, gái thuyền quyên
            Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng
            Nửa năm hương lửa đương nồng
            Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương

            Trông vời trời bể mênh mang
            Thanh gươm, yên ngựa, lên đàng thẳng rong
            Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
            Chàng đi, thiếp cũng một lòng xin đi.
            Từ rằng: Tâm phúc tương tri
            Sao không thoát khỏi nữ nhi thường tình?
            Bao giờ mười vạn tinh binh
            Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường;
            Làm cho rõ mặt phi thường
            Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia
            Bằng nay bốn bể không nhà
            Theo càng thêm bận, biết là đi đâu?
            Đành lòng chờ đón ít lâu
            Chầy chăng là một năm sau vội gì?
            Quyết lời dứt áo ra đi
            Gió đưa bằng tiện đến kỳ dặm khơi
            Nàng thì chiếc bóng song mai
            Đêm thâu đằng đẵng, nhặt cài then mây
            Sân rêu chẳng vẽ dấu giày,
            Cỏ cao hơn thước, liễu gày vài phân
            Đoái thương muôn dặm tử phần
            Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa
            Xót thay huyên cỗi, xuân già
            Tấm lòng thương nhớ biết là có nguôi?
            Chốc là mười mấy năm trời
            Còn ra khi đã da mồi tóc sương
            Tiếc thay chút nghĩa cũ càng
            Dẫu lìa ngó ý, còn vương tơ lòng
            Duyên em dầu nối chỉ hồng
            May ra khi đã tay bồng tay mang
            Tấc lòng cố quốc tha hương
            Đường kia, nỗi nọ, ngổn ngang bời bời

            Cánh hồng bay bổng tuyệt vời
            Đã mòn con mắt, phương trời đăm đăm
            Đêm ngày luống những âm thầm
            Lửa binh đâu đã ầm ầm một phương
            Ngất trời sát khí mơ màng
            Đầy sông kình ngạc, chật đường giáp binh
            Người quen thuộc, kẻ chung quanh
            Nhủ nàng hãy tạm lánh mình một nơi
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 14.03.2012 10:40:42 bởi Anh Nguyên >
            #51
              Anh Nguyên 30.03.2012 19:14:26 (permalink)
              19/-Thuý Kiều báo ân, trả oán

              Nàng rằng: Trước đã hẹn lời
              Dẫu trong nguy hiểm, dám rời uớc xưa.

              Còn đương dùng dắng, ngẩn ngơ
              Mái ngoài đã thấy bóng cờ tiếng loa
              Giáp binh kéo đến quanh nhà
              Đồng thanh cùng gửi: Nào là phu nhân?
              Hai bên mười vị tướng quân
              Đặt gươm, cởi giáp, trước sân khấu đầu
              Cung nga, thế nữ nối sau
              Rằng: Vâng lệnh chỉ rước chầu vu qui.
              Sẵn sàng phượng liễn, loan nghi
              Hoa quan chấp chới, hà y rỡ ràng

              Dựng cờ nổi trống lên đàng
              Trúc tơ nổi trước, đào vàng kéo sau
              Hỏa bài tiền lộ ruổi mau
              Nam đình, nghe động trống chầu đại doanh
              Kéo cờ lũy, phát súng thành
              Từ công ra ngựa, thân nghênh cửa ngoài
              Lữa mình là vẻ cân đai
              Hãy còn hàm én, mày ngài như xưa
              Cười rằng: Cá nước duyên ưa
              Nhớ lời nói những bao giờ hay không?

              Anh hùng mới biết anh hùng
              Rày xem phỏng đã cam lòng ấy chưa?
              Nàng rằng: Chút phận ngây thơ
              Cũng may dây cát được nhờ bóng cây
              Đến bây giờ mới thấy đây
              Mà lòng đã chắc những ngày một hai.
              Cùng nhau trông mặt cả cười
              Dan tay về chốn trướng mai tự tình
              Tiệc bày thưởng tưởng khao binh
              Om thòm trống trận, rập rình nhạc quân
              Vinh hoa bõ lúc phong trần
              Chữ tình ngày lại thêm xuân một ngày

              Trong quân có lúc vui vầy
              Thong dong mới kể sự ngày hàn vi
              Khi Vô Tích, khi Lâm Chuy
              Nơi thì lừa đảo, nơi thì xót thương
              Tấm thân rày đã nhẹ nhàng
              Chút còn ân oán, đôi đường chưa xong.
              Từ công nghe nói thủy chung
              Bất bình nổi trận đùng đùng sấm vang
              Nghiêm quân, tuyển tướng sẵn sàng
              Dưới cờ một lệnh vội vàng ruổi sao
              Ba quân chỉ ngọn cờ đào
              Đạo ra Vô Tích, đạo vào Lâm Chuy
              Mấy người phụ bạc xưa kia
              Chiếu danh tầm nã, bắt về hỏi tra
              Lại sai lệnh tiễn truyền qua
              Giữ giàng họ Thúc một nhà cho yên
              Mụ quản gia, vải Giác Duyên
              Cũng sai lệnh tiễn đem tin rước mời
              Thệ sư kể hết mọi lời
              Lòng lòng cùng giận, người người chấp uy
              Đạo trời báo phục chỉn ghê
              Khéo thay! Một mẻ tóm về đầy nơi
              Quân trung, gươm lớn, giáo dài
              Vệ trong thị lập, cơ ngoài song phi
              Sẵn sàng tề chỉnh uy nghi
              Bác đồng chật đất, tinh kỳ rợp sân
              Trướng hùm mở giữa trung quân
              Từ công sánh với phu nhân cùng ngồi
              Tiên nghiêm, trống chửa dứt hồi
              Điểm danh trước dẫn chực ngoài cửa viên
              Từ rằng: Ân oán hai bên
              Mặc nàng xử quyết, báo đền cho minh.
              Nàng rằng: Nhờ cậy uy linh
              Hãy xin báo đáp ân tình cho phu
              Báo ân rồi sẽ trả thù.
              Từ rằng: Việc ấy để cho mặc nàng.
              Cho gươm mời đến Thúc lang
              Mặt như chàm đổ, mình dường giẽ giun
              Nàng rằng: Nghiã trọng nghìn non
              Lâm Chuy người cũ, chàng còn nhớ không?
              Sâm, Thương, chẳng vẹn chữ tòng
              Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân?
              Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân
              Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là
              Vợ chàng quỉ quái, tinh ma
              Phen này kẻ cắp, bà già gặp nhau
              Kiến bò miệng chén chưa lâu
              Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa!
              Thúc sinh trông mặt bấy giờ
              Mồ hôi chàng đã như mưa ướt dầm
              Lòng riêng mừng sợ khôn cầm
              Sợ thay, mà lại mừng thầm cho ai

              Mụ già, sư trưởng, thứ hai
              Thoắt đưa đến trước, vội mời lên trên
              Dắt tay, mở mặt cho nhìn:
              Hoa nô kia, với Trạc Tuyền, cũng tôi
              Nhớ khi lỡ bước, sẩy vời
              Non vàng chưa dễ đền bồi tấm thương
              Nghìn vàng gọi chút lễ thường
              Mà lòng Xiếu mẫu mấy vàng cho cân!
              Hai người trông mặt tần ngần
              Nửa phần khiếp sợ, nửa phần mừng vui
              Nàng rằng: Xin hãy rốn ngồi
              Xem cho rõ mặt, biết tôi báo thù!
              Kíp truyền chư tướng hiến phù
              Lại đem các tích phạm đồ hậu tra
              Dưới cờ, gươm tuốt nắp ra
              Chính danh thủ phạm tên là Hoạn thư
              Thoắt trông, nàng đã chào thưa:
              Tiểu thư cũng có bây giờ đén đây!
              Đàn bà dễ có mấy tay
              Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan!
              Dễ dàng là thói hồng nhan
              Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều!
              Hoạn thư hồn lạc phách xiêu
              Khấu đầu dưới trướng, lựa điều kêu ca
              Rằng: Tôi chút dạ đàn bà
              Ghen tuông, thì cũng người ta thường tình!
              Nghĩ cho khi các viết kinh
              Với khi khỏi cửa, dứt tình chẳng theo
              Lòng riêng, riêng cũng kính yêu
              Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai!
              Trót lòng gây việc chông gai
              Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng.
              Khen cho: Thật đã nên rằng
              Khôn ngoan đến mực, nói năng phải lời
              Tha ra thì cũng may đời
              Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen
              Đã lòng tri quá thì nên!
              Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay
              Tạ lòng, lạy trước sân mây

              Cửa viên lại dắt một dây dẫn vào
              Nàng rằng: Lồng lộng trời cao!
              Hại nhân, nhân hại, sự nào tại ta?
              Trước là Bạc Hạnh, Bạc bà,
              Bên là ưng, Khuyển, bên là Sở Khanh
              Tú bà cùng Mã Giám Sinh
              Các tên tội ấy đáng tình còn sao?
              Lệnh quân truyền xuống nội đao
              Thề sao, thì lại cứ sao ra hình
              Máu rơi, thịt nát, tan tành
              Ai ai trông thấy hồn kinh, phách rời
              Cho hay muôn sự tại trời
              Phụ người chẳng bõ khi người phụ ta!
              Mấy người bạc ác tinh ma
              Mình làm, mình chịu, kêu mà ai thương!
              Ba quân đông mặt pháp trường
              Thanh thiên, bạch nhật, rõ ràng cho coi
              Việc nàng báo phục vừa rồi
              Giác Duyên vội đã gửi lời từ qui
              Nàng rằng: Thiên tải nhất thì
              Cố nhân đã dễ mấy khi bàn hoàn
              Rồi đây bèo hợp mây tan
              Biết đâu hạc nội, mây ngàn là đâu?
              Sư rằng: Cũng chẳng mấy lâu
              Trong năm năm lại gặp nhau đó mà
              Nhớ ngày hành cước phương xa
              Gặp sư Tam hợp, vốn là tiên tri
              Báo cho hội hợp chi kỳ:
              Năm nay là một, nữa thì năm năm
              Mới hay tiền định chẳng lầm
              Đã tin điều trước, ắt nhằm điều sau
              Còn nhiều ân ái với nhau
              Cơ duyên nào đã hết đâu vội gì?
              Nàng rằng: Tiền định tiên tri
              Lời sư đã dạy, ắt thì chẳng sai
              Họa bao giờ có gặp người
              Vì tôi cậy hỏi một lời chung thân.
              Giác Duyên vâng dặn ân cần
              Tạ từ, thoắt đã dời chân cõi ngoài

              Nàng từ ân oán rạch ròi
              Bể oan dường đã vơi vơi cạnh lòng
              Tạ ân, lạy trước Từ công:
              Chút thân bồ liễu nào mong có rày
              Trộm nhờ sấm sét ra tay
              Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi
              Khắc xương ghi dạ xiết chi
              Dễ đem gan óc đền nghì trời mây!
              Từ rằng: Quốc sĩ xưa nay
              Chọn người tri kỷ một ngày được chăng?
              Anh hùng tiếng đã gọi rằng
              Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha!
              Huống chi việc cũng việc nhà
              Lựa là thâm tạ, mới là tri ân!
              Xót nàng còn chút song thân
              Bấy nay kẻ Việt, người Tần cách xa
              Sao cho muôn dặm một nhà
              Cho người thấy mặt, là ta cam lòng.
              Vội truyền sửa tiệc quân trung
              Muôn binh, nghìn tướng hội đồng tẩy oan
              <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.03.2012 19:36:37 bởi Anh Nguyên >
              #52
                Anh Nguyên 19.04.2012 10:07:21 (permalink)
                20/- Hồ Tôn Hiến dùng kế chiêu an, Từ Hải chết đứng
                Thuý Kiều gieo mình xuống sông Tiền Đường, được sư
                Giác Duyên đón vớt.

                Thừa cơ trúc chẻ, ngói tan
                Binh uy từ đấy sấm ran trong ngoài
                Triều đình riêng một góc trời
                Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà
                Đòi cơn gió quét mưa sa
                Huyện thành đạp đổ năm tòa cõi nam
                Phong trần, mài một lưỡi gươm
                Những loài giá áo, túi cơm sá gì!
                Nghênh ngang một cõi biên thùy
                Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương

                Trước cờ ai dám tranh cường
                Năm năm hùng cứ một phương hải tần
                Có quan Tổng đốc trọng thần
                Là Hồ Tôn Hiến, kinh luân gồm tài
                Đẩy xe vâng chỉ đặc sai
                Tiện nghi bát tiễu, việc ngoài đổng nhung
                Biết Từ là đấng anh hùng
                Biết nàng cũng dự quân trung luận bàn
                Đóng quân, làm chước chiêu an
                Ngọc, vàng, gấm vóc, sai quan thuyết hàng

                Lại riêng một lễ với nàng:
                Hai tên thể nữ, ngọc vàng nghìn cân
                Tin vào gửi trước trung quân
                Từ công riêng hãy mười phân hồ đồ
                Một tay gây dựng cơ đồ
                Bấy lâu bể Sở, sông Ngô tung hoành!
                Bó thân về với triều đình
                Hàng thần lơ láo, phận mình ra đâu?
                Áo xiêm buộc trói lấy nhau
                Vào luồn ra cúi, công hầu mà chi!

                Sao bằng riêng một biên thùy
                Sức này đã dễ làm gì được nhau
                Chọc trời, khuấy nước, mặc dầu
                Dọc ngang nào biết trên đầu có ai.
                Nàng thì thật dạ tin người
                Lễ nhiều, nói ngọt, nghe lời dễ xiêu
                Nghĩ mình mặt nước cánh bèo
                Đã nhiều lưu lạc, lại nhiều gian truân
                Bằng nay chịu tiếng vương thần
                Thênh thênh đường cái thanh vân hẹp gì

                Công, tư, vẹn cả hai bề
                Dần dà rồi sẽ liệu về cố hương
                Cũng ngôi mệnh phụ đường đường
                Nở nang mày mặt, rỡ ràng mẹ cha
                Trên vì nước, dưới vì nhà
                Một là đắc hiếu, hai là đắc trung
                Chẳng hơn chiếc bách giữa dòng
                E dè gió dập, hãi hùng sóng va.
                Nhân khi bàn bạc gần xa
                Thừa cơ, nàng mới bàn ra nói vào

                Rằng: ơn Thánh đế dồi dào
                Tưới ra đã khắp, thấm vào đã sâu
                Bình thành công đức bấy lâu
                Ai ai cũng đội trên đầu biết bao
                Ngẫm từ dấy việc binh đao
                Đống xương vô định đã cao bằng đầu
                Làm chi để tiếng về sau
                Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào
                Sao bằng lộc trọng, quyền cao
                Công danh ai dứt lối nào cho qua?

                Nghe lời nàng nói mặn mà
                Thế công, Từ mới đổi ra thế hàng
                Chỉnh nghi tiếp sứ vội vàng
                Hẹn kỳ thúc giáp, quyết đường giải binh
                Tin lời thành hạ yêu minh
                Ngọn cờ ngơ ngác, trống canh trễ tràng
                Việc binh bỏ chẳng giữ giàng
                Vương sư dò đã tỏ tường thực hư
                Hồ-công quyết kế thừa cơ
                Lễ tiên, binh hậu, khắc cờ tập công

                Kéo cờ chiêu phủ tiên phong
                Lễ nghi giàn trước, bác đồng phục sau
                Từ-công hờ hững biết đâu?
                Đại quan lễ phục ra đầu cửa viên
                Hồ-công ám hiệu trận tiền
                Ba bề phát súng, bốn bên kéo cờ
                Đang khi bất ý chẳng ngờ
                Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn!
                Tử sinh, liều giữa trận tiền
                Dạn dầy cho biết gan liền tướng quân!

                Khí thiêng khi đã về thần
                Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng
                Trơ như đá, vững như đồng
                Ai lay chẳng chuyển, ai rung chẳng rời
                Quan quân truy sát đuổi dài
                Ầm ầm sát khí, ngất trời ai đang
                Trong hào, ngoài lũy, tan hoang
                Loạn quân vừa dắt tay nàng đến nơi
                Trong vòng tên đá bời bời
                Thấy Từ còn đứng giữa trời trơ trơ

                Khóc rằng: Trí, dũng có thừa
                Bởi nghe lời thiếp đến cơ hội này!
                Mặt nào trông thấy nhau đây?
                Thà liều sống chết một ngày với nhau!
                Dòng thu như xối cơn sầu
                Dứt lời, nàng cũng gieo đầu một bên
                Lạ thay oan khí tương triền!
                Nàng vừa phục xuống, Từ liền ngã ra
                Quan quân, kẻ lại người qua
                Xót nàng, sẽ lại vực ra dần dần

                Đem vào đến trước trung quân
                Hồ-công thấy mặt, ân cần hỏi han
                Rằng: Nàng chút phận hồng nhan
                Gặp cơn binh cách, nhiều nàn cũng thương!
                Đã hay thành toán miếu đường
                Chấp công cũng có lời nàng mới nên
                Bây giờ sự đã vẹn tuyền
                Mặc lòng nghĩ lấy, muốn xin bề nào?
                Nàng càng giọt ngọc tuôn đào
                Ngập ngừng mới gửi thấp cao sự lòng

                Rằng: Từ là đấng anh hùng
                Dọc ngang trời rộng, vẫy vùng bể khơi
                Tin tôi nên quá nghe lời
                Đem thân bách chiến làm tôi Triều đình
                Ngỡ là phu quí phụ vinh
                Ai ngờ một phút tan tành thịt xương!
                Năm năm trời bể ngang tàng
                Dẫn mình đi bỏ chiến tràng như không
                Khéo khuyên kể lấy làm công
                Kể bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu!

                Xét mình công ít, tội nhiều
                Sống thừa, tôi đã nên liều mình tôi!
                Xin cho thiển thổ một đôi
                Gọi là đắp điếm lấy người tử sinh.
                Hồ-công nghe nói thương tình
                Truyền cho kiểu táng di hình bên sông.

                Trong quân mở tiệc hạ công
                Xôn xao tơ trúc, hội đồng quân quan
                Bắt nàng thị yến dưới màn
                Giở say, lại ép vặn đàn nhặt tâu
                Một cung gió tủi mưa sầu
                Bốn dây rỏ máu năm đầu ngón tay
                Ve ngâm, vượn hót, nào tày
                Lọt tai Hồ cũng nhăn mày, rơi châu
                Hỏi rằng: Này khúc ở đâu?
                Nghe ra muôn oán, nghìn sầu lắm thay!

                Thưa rằng: Bạc mệnh khúc này
                Phổ vào đàn ấy những ngày còn thơ
                Cung cầm, lựa những ngày xưa
                Mà gương bạc mệnh bây giờ là đây!
                Nghe càng đắm, đắm càng say
                Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình!
                Dạy rằng: Hương hỏa ba sinh
                Dây loan xin nối cầm lành cho ai.
                Thưa rằng: Chút phận lạc loài
                Trong mình, nghĩ đã có người thác oan

                Còn chi nữa, cánh hoa tàn
                Tơ lòng đã dứt, dây đàn Tiểu lân
                Rộng thương còn mảnh hồng quần
                Hơi tàn được thấy gốc phần là may!
                Hạ công chén đã quá say
                Hồ công đến lúc rạng ngày nhớ ra
                Nghĩ mình phương diện quốc gia
                Quan trên nhắm xuống, người ta trông vào
                Phải tuồng trăng gió hay sao?
                Sự này, biết tính thế nào được đây?

                Công nha vừa buổi rạng ngày
                Quyết tình, Hồ mới đoán ngay một bài
                Lệnh quan ai dám cãi lời?
                Ép tình mới gán cho người thổ quan
                Ông tơ thực nhé đa đoan!
                Xe tơ sao khéo vơ quàng vơ xiên?
                Kiệu hoa áp thẳng xuống thuyền
                Lá rèm rủ thấp, ngọn đèn khêu cao
                Nàng càng ủ liễu phai đào
                Trăm phần, nào có phần nào phần tươi

                Đành thân cát dập sóng vùi
                Cướp công cha mẹ, thiệt đời thông minh!
                Chân trời, mặt bể, lênh đênh
                Nắm xương biết gửi tử sinh chốn nào?
                Duyên đâu, ai dứt tơ đào?
                Nợ đâu, ai đã dắt vào tận tay?
                Thân sao, thân đến thế này?
                Còn ngày nào cũng dư ngày ấy thôi!
                Đã không biết sống là vui
                Tấm thân nào biết thiệt thòi là thương!

                Một mình cay đắng trăm đường
                Thôi thì nát ngọc, tan vàng, thì thôi!
                Mảnh trăng đã gác non đoài
                Một mình luống những đứng ngồi chưa xong
                Triều đâu nổi sóng đùng đùng
                Hỏi ra mới biết là sông Tiền-đường
                Nhớ lời thần mộng rõ ràng
                Này thôi hết kiếp đoạn tràng là đây!
                Đạm Tiên, nàng nhé có hay?
                Hẹn ta thì đợi dưới này rước ta.

                Dưới đèn sẵn bức tiên hoa
                Một thiên tuyệt bút, gọi là để sau
                Cửa bồng vội mở rèm châu
                Trời cao, sông rộng, một màu bao la
                Rằng: Từ công hậu đãi ta
                Xót vì việc nước mà ra phụ lòng
                Giết chồng mà lại lấy chồng
                Mặt nào mà lại đứng trong cõi đời?
                Thôi thì một thác cho rồi
                Tấm lòng phó mặc trên trời dưới sông!

                Trông vời con nước mênh mông
                Đem mình gieo xuống giữa dòng tràng giang
                Thổ quan theo với vội vàng
                Thì đà đắm ngọc, chìm hương cho rồi!
                Thương thay! Cũng một thân người
                Hại thay! Mang lấy sắc tài làm chi?
                Những là oan khổ lưu ly
                Chờ cho hết kiếp, còn gì là thân?
                Mười lăm năm, bấy nhiêu lần
                Làm gương cho khách hồng quần thử soi

                Đời người đến thế thì thôi!
                Trong cơ âm cực, dương hồi khôn hay
                Mấy người hiếu nghĩa xưa nay
                Trời làm chi đến lâu ngày càng thương

                Giác Duyên từ tiết giã nàng
                Đeo bầu quảy níp, rộng đường vân du
                Gặp bà Tam hợp đạo cô
                Thong dong, hỏi hết nhỏ to sự nàng:
                Người sao hiếu nghĩa đủ đường
                Kiếp sao rặt những đoạn trường thế thôi?
                Sư rằng: Phúc họa đạo Trời
                Cỗi nguồn, cũng ở lòng người mà ra
                Có Trời mà cũng tại ta
                Tu là cõi phúc, tình là dây oan

                Thúy Kiều sắc sảo, khôn ngoan
                Vô duyên là phận hồng nhan đã đành
                Lại mang lấy một chữ tình
                Khư khư mình buộc lấy mình vào trong
                Vậy nên những chốn thong dong
                Ở không yên ổn, ngồi không vững vàng
                Ma đưa lối, quỷ đưa đường
                Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi
                Hết nạn ấy, đến nạn kia
                Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần

                Trong vòng giáo dựng, gươm trần
                Kề lưng hùm sói, gửi thân tôi đòi
                Giữa dòng nước dẫy sóng giồi
                Trước hàm rồng cá, gieo mồi vắng tanh
                Oan kia theo mãi với tình
                Một mình mình biết, một mình mình hay
                Làm cho sống đọa thác đầy
                Đoạn trường cho hết kiếp này mới thôi!
                Giác Duyên nghe nói rụng rời:
                Một đời nàng nhé! Thương ôi còn gì?

                Sư rằng: Song chẳng hề chi
                Nghiệp duyên cân lại, nhắc đi còn nhiều
                Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều
                Mắc điều tình ái, khỏi điều tà dâm
                Lấy tình thâm, trả nghĩa thâm
                Bán mình đã động hiếu tâm đến Trời
                Hại một người, cứu một người
                Biết đường khinh trọng, biết lời phải chăng
                Thực công đức ấy ai bằng
                Túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi

                Khi nên, Trời cũng chiều người
                Nhẹ nhàng nợ trước, đền bồi duyên sau
                Giác Duyên dầu nhớ nghĩa nhau
                Tiền Đường thả một bè lau rước người
                Trước sau cho vẹn một lời
                Duyên ta mà cũng phúc Trời chi không?
                Giác Duyên nghe nói mầng lòng
                Lân la tìm thú bên sông Tiền đường
                Đánh tranh, chụm nóc thảo đường
                Một gian nước biếc, mây vàng chia đôi

                Thuê năm, ngư phủ hai người
                Đóng thuyền chực bến, kết chài giăng sông
                Một lòng chẳng quản mấy công
                Khéo thay! Gặp gỡ cũng trong chuyển vần
                Kiều từ gieo xuống dòng ngân
                Nước xuôi bỗng đã trôi dần tận nơi
                Ngư ông kéo lưới vớt người
                Ngẫm lời Tam hợp rõ mười chẳng ngoa!
                Trên mui lướt thướt áo là
                Tuy dầm hơi nước, chưa lòa bóng gương

                Giác Duyên nhận thật mặt nàng
                Nàng còn thiêm thiếp giấc nồng chưa phai
                Mơ màng phách quế, hồn mai
                Đạm Tiên, thoắt đã thấy người ngày xưa
                Rằng: Tôi đã có lòng chờ
                Mất công mười mấy năm thừa ở đây
                Chị sao phận mỏng, đức dày?
                Kiếp xưa đã vậy, lòng này dễ ai!
                Tâm thành đã thấu đến Trời
                Bán mình là hiếu, cứu người là nhân

                Một niềm vì nước vì dân
                Đem công cất một đồng cân đã già
                Đoạn trường sổ, rút tên ra
                Đoạn trường thơ, phải đưa mà trả nhau
                Còn nhiều hưởng thụ về sau
                Duyên xưa đầy đặn, phúc sau dồi dào.
                Nàng còn ngơ ngẩn biết sao
                Trạc Tuyền! nghe tiếng gọi vào bên tai
                Giật mình thoắt tỉnh giấc mai
                Bâng khuâng, nào đã biết ai mà nhìn

                Trong thuyền, nào thấy Đạm Tiên?
                Bên mình chỉ thấy Giác Duyên ngồi kề
                Thấy nhau mầng rỡ trăm bề
                Dọn thuyền, mới rước nàng về thảo lư
                Một nhà chung chạ sớm trưa
                Gió trăng mát mặt, muối dưa chay lòng
                Bốn bề bát ngát mênh mông
                Triều dâng hôm sớm, mây lồng trước sau
                Nạn xưa, trút sạch lầu lầu
                Duyên xưa chưa dễ biết đâu chốn này.

                Nỗi nàng tai nạn đã đầy
                Nỗi chàng Kim Trọng bấy chầy mới thương
                Từ ngày muôn dặm phù tang
                Nửa năm ở đất Liêu dương lại nhà
                Vội sang vườn Thúy dò la
                Nhìn xem phong cảnh nay đà khác xưa
                Đầy đường cỏ mọc lau thưa
                Song trăng quạnh quẽ, vách mưa rã rời
                Trước sau nào thấy bóng người
                Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông

                <bài viết được chỉnh sửa lúc 23.04.2012 20:26:01 bởi Anh Nguyên >
                #53
                  Anh Nguyên 23.04.2012 11:35:56 (permalink)
                  21/- Kim Trọng sau khi chịu tang trở về,
                  biết Thuý Kiều bán mình chuộc tội cho cha,
                  đau sót vô cùng.


                  Nỗi nàng tai nạn đã đầy
                  Nỗi chàng Kim Trọng bấy chầy mới thương
                  Từ ngày muôn dặm phù tang
                  Nửa năm ở đất Liêu dương lại nhà
                  Vội sang vườn Thúy dò la
                  Nhìn xem phong cảnh nay đà khác xưa
                  Đầy đường cỏ mọc lau thưa
                  Song trăng quạnh quẽ, vách mưa rã rời
                  Trước sau nào thấy bóng người
                  Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông

                  Xập xè én liệng lầu không
                  Cỏ lan mặt đất, rêu phong dấu giày
                  Cuối tường gai gốc mọc đầy
                  Đi về, này những lối này năm xưa
                  Chung quanh lặng ngắt như tờ
                  Nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai?
                  Láng giềng có kẻ sang chơi
                  Lân la sẽ hỏi một hai sự tình
                  Hỏi ông, ông mắc tụng đình
                  Hỏi nàng, nàng đã bán mình chuộc cha
                  Hỏi nhà, nhà đã dời xa

                  Hỏi chàng Vương với Vương bà, Thúy Vân
                  Đều là sa sút, khó khăn
                  Thuê may, bán viết, kiếm ăn lần hồi
                  Điều đâu sét đánh lưng trời
                  Thoạt nghe, chàng thoắt rụng rời xiết bao!
                  Vội han di trú nơi nao?
                  Đánh đường, chàng mới tìm vào tận nơi
                  Nhà tranh, vách đất tả tơi
                  Lau treo rèm nát, trúc gài phên thưa
                  Một sân đất cỏ dầm mưa

                  Càng ngao ngán nỗi, càng ngơ ngẩn dường!
                  Đánh liều lên tiếng ngoài tường
                  Chàng Vương nghe tiếng, vội vàng chạy ra
                  Dắt tay vội rước vào nhà
                  Mái sau, viên ngoại ông bà ra ngay


                  Khóc than kể hết niềm tây:
                  Chàng ôi! Biết nỗi nước này cho chưa?
                  Kiều nhi phận mỏng như tờ
                  Một lời đã lỗi tóc tơ với chàng!
                  Gặp cơn gia biến lạ dường

                  Bán mình nó đã tìm đường cứu cha
                  Dùng dằng khi bước chân ra
                  Cực trăm nghìn nỗi, dặn ba bốn lần
                  Trót lời nặng với lang quân
                  Mượn con em nó Thúy Vân thay lời
                  Gọi là trả chút nghĩa người
                  Sầu này dằng dặc muôn đời chưa quên!
                  Kiếp này duyên đã phụ duyên
                  Dạ đài còn biết, sẽ đền lai sinh
                  Mấy lời ký chú đinh ninh

                  Ghi lòng để dạ, cất mình ra đi
                  Phận sao bạc bấy, Kiều nhi!
                  Chàng Kim về đó, con thì đi đâu?
                  Ông bà càng nói càng đau
                  Chàng càng nghe nói, càng dầu như dưa
                  Vật mình, vẫy gió, tuôn mưa
                  Dầm dề giọt ngọc, thẫn thờ hồn mai
                  Đau đòi đoạn, ngất đòi thôi
                  Tỉnh ra lại khóc, khóc rồi lại mê
                  Thấy chàng đau nỗi biệt ly

                  Nhận ngừng, ông mới vỗ về giải khuyên:
                  Bây giờ ván đã đóng thuyền
                  Đã đành phận bạc, khôn đền tình chung!
                  Quá thương chút nghĩa đèo bòng
                  Nghìn vàng thân ấy, dễ hòng bỏ sao?
                  Dỗ dành, khuyên giải trăm chiều
                  Lửa phiền càng dập, càng khêu mối phiền
                  Thề xưa giở đến kim hoàn
                  Của xưa lại giở đến đàn với hương
                  Sinh càng trông thấy, càng thương
                  Gan càng tức tối, ruột càng xót xa
                  Rằng: Tôi trót quá chân ra
                  Để cho đến nỗi trôi hoa, dạt bèo
                  Cùng nhau thề thốt đã nhiều
                  Những điều vàng đá, phải điều nói không?
                  Chưa chăn gối cũng vợ chồng
                  Lòng nào mà nỡ dứt lòng cho đang?
                  Bao nhiêu của, mấy ngày đàng
                  Còn tôi, tôi gặp mặt nàng mới thôi!
                  Nỗi thương nói chẳng hết lời
                  Tạ từ, sinh mới sụt sùi trở ra

                  Vội về sửa chốn vườn hoa
                  Rước mời viên ngoại ông bà cùng sang
                  Thần hôn, chăm chút lễ thường
                  Dưỡng thân, thay tấm lòng nàng ngày xưa
                  Đinh ninh mài lệ, chép thư
                  Cắt người tìm tõi, đưa tờ nhắn nhe
                  Biết bao công mượn, của thuê
                  Lâm thanh mấy độ đi về dặm khơi
                  Người một nơi, hỏi một nơi
                  Mênh mông nào biết bể trời nơi nao?

                  <bài viết được chỉnh sửa lúc 23.04.2012 20:50:23 bởi Anh Nguyên >
                  #54
                    Anh Nguyên 23.04.2012 20:46:02 (permalink)
                    22/- Kim Trọng kết duyên cùng Thuý Vân,
                    cùng gia đình Viên Ngoại tìm gặp
                    được Thuý Kiều.


                    Kim càng thảm thiết, khát khao
                    Như nung gan sắt, như bào lòng son
                    Ruột tằm ngày một héo dòn
                    Tuyết sương ngày một hao mòn mình ve
                    Thẩn thơ, lúc tỉnh, lúc mê
                    Máu theo nước mắt, hồn lìa chiêm bao

                    Xuân huyên lo sợ biết bao
                    Quá ra, khi đến thế nào mà hay!
                    Vội vàng sắm sửa chọn ngày
                    Duyên Vân sớm đã xe dây cho chàng
                    Người yểu điệu, kẻ văn chương
                    Trai tài, gái sắc, xuân đương vừa thì
                    Tuy rằng vui chữ vu qui
                    Vui này, đã cất sầu kia được nào!
                    Khi ăn ở, lúc ra vào
                    Càng sâu duyên mới, càng dào tình xưa
                    Nỗi nàng nhớ đến bao giờ
                    Tuôn châu đôi trận, vò tơ trăm vòng
                    Có khi vắng vẻ thư phòng
                    Đốt lò hương, giở phím đồng ngày xưa
                    Bẻ bai, rủ rỉ tiếng tơ
                    Trầm bay lạt khói, gió đưa lay rèm
                    Dường như bên nóc bên thềm
                    Tiếng Kiều đồng vọng, bóng xiên mơ màng
                    Bởi lòng tạc đá ghi vàng
                    Tưởng nàng, nên lại thấy nàng về đây
                    Những là phiền muộn đêm ngày
                    Xuân thu, biết đã đổi thay mấy lần

                    Chế khoa gặp hội tràng văn
                    Vương, Kim, cùng chiếm bảng xuân một ngày
                    Cửa trời rộng mở đường mây
                    Hoa chào ngõ hạnh, hương bay dặm phần
                    Chàng Vương nhớ đến xa gần
                    Sang nhà Chung lão tạ ân chu tuyền
                    Tình xưa, ân trả, nghĩa đền
                    Gia thân bèn mới kết duyên Châu Trần
                    Kim từ nhẹ bước thanh vân
                    Nỗi nàng, càng nghĩ xa gần, càng thương
                    Ấy ai dặn ngọc thề vàng
                    Bây giờ kim mã, ngọc đường với ai
                    Rễ bèo, chân sóng lạc loài
                    Nghĩ mình vinh hiển, thương người lưu ly
                    Vâng ra ngoại nhận Lâm Chuy
                    Quan sơn nghìn dặm, thê nhi một đoàn
                    Cầm đường ngày tháng thanh nhàn
                    Sớm khuya tiếng hạc, tiếng đàn tiêu dao
                    Phòng xuân trướng rủ hoa đào
                    Nàng Vân nằm bỗng chiêm bao thấy nàng
                    Tỉnh ra mới rỉ cùng chàng
                    Nghe lời, chàng cũng hai đường tin nghi
                    Nọ Lâm thanh với Lâm chuy
                    Khác nhau một chữ, hoặc khi có lầm
                    Trong cơ thành khí, tương tầm
                    Ở đây hoặc có giai âm chăng là?

                    Thăng đường chàng mới hỏi tra
                    Họ Đô có kẻ lại già thưa lên:
                    Sự này đã ngoại mười niên
                    Tôi đã biết mặt, biết tên rành rành
                    Tú bà cùng Mã Giám Sinh
                    Đi mua người ở Bắc kinh đưa về
                    Thúy Kiều tài sắc ai bì
                    Có nghề đàn lại đủ nghề văn thơ
                    Kiên trinh chẳng phải gan vừa
                    Liều mình thế ấy, phải lừa thế kia
                    Phong trần chịu đã ê chề
                    Dây duyên, sau lại gả về Thúc lang
                    Phải tay vợ cả phũ phàng
                    Bắt về Vô tích, toan đường bẻ hoa
                    Bực mình, nàng mới trốn ra
                    Chẳng may lại gặp một nhà Bạc kia
                    Thoắt buôn về, thoắt bán đi
                    Mây trôi bèo nổi, thiếu gì là nơi!
                    Bỗng đâu lại gặp một người
                    Hơn người trí dũng, nghiêng trời uy linh
                    Trong tay muôn vạn tinh binh
                    Kéo về đóng chật một thành Lâm chuy
                    Tóc tơ các tích mọi khi
                    Oán thì trả oán, ân thì trả ân
                    Đã nên có nghiã có nhân
                    Trước sau trọn vẹn, xa gần ngợi khen
                    Chưa tường được họ được tên
                    Sự này, hỏi Thúc Sinh viên mới tường.

                    Nghe lời Đỗ nói rõ ràng
                    Tức thì đệ thiếp mời chàng Thúc Sinh
                    Nỗi nàng hỏi hết phân minh
                    Chồng con đâu tá, tính danh là gì?
                    Thúc rằng: Gặp lúc lưu ly
                    Trong quân, tôi hỏi thiếu gì tóc tơ
                    Đại vương tên Hải họ Từ
                    Đánh quen trăm trận, sức dư muôn người
                    Gặp nàng thì ở châu Thai
                    Lạ gì quốc sắc, thiên tài phải duyên
                    Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên
                    Làm nên động địa, kinh thiên đùng đùng
                    Đại quân đồn đóng cõi đông
                    Về sau chẳng biết vân mồng làm sao?
                    Nghe tường ngành ngọn tiêu hao
                    Lòng riêng, chàng luống lao đao thẫn thờ

                    Xót thay chiếc lá bơ vơ
                    Kiếp trần, biết dũ bao giờ cho xong?
                    Hoa theo nước chảy xuôi dòng
                    Xót thân chìm nổi, đau lòng hợp tan!
                    Lời xưa đã lỗi muôn vàn
                    Mảnh hương còn đó, phím đàn còn đây
                    Đàn cầm khéo ngẩn ngơ dây
                    Lửa hương biết có kiếp này nữa thôi?
                    Bình bồng còn chút xa xôi
                    Đỉnh chung sao nỡ ăn ngồi cho an!
                    Rắp mong treo ấn từ quan
                    Mấy sông cũng lội, mấy ngàn cũng qua
                    Giấn mình trong áng can qua
                    Vào sinh ra tử, họa là thấy nhau
                    Nghĩ điều trời thẳm vực sâu
                    Bóng chim tăm cá, biết đâu mà tìm?
                    Những là nấn ná đợi tin
                    Nắng mưa đã biết mấy phen đổi dời!

                    Năm mây, bỗng thấy chiếu Trời
                    Khâm ban sắc chỉ đến nơi rành rành
                    Kim thì cải nhậm Nam bình
                    Chàng Vương, cũng cải nhậm thành Phú dương
                    Sắm sanh xe ngựa vội vàng
                    Hai nhà cùng thuận một đường phó quan
                    Xẩy nghe thế giặc đã tan
                    Sóng êm Phúc kiến, lửa tàn Tích giang
                    Được tin Kim mới rủ Vương
                    Tiện đường, cùng lại tìm nàng sau xưa
                    Hàng-châu đến đó bấy giờ
                    Thật tin hỏi được tóc tơ rành rành
                    Rằng: Ngày hôm nọ giao binh
                    Thất cơ, Từ đã thu linh trận tiền
                    Nàng Kiều công cả, chẳng đền
                    Lệnh quan lại bắt ép duyên Thổ-tù
                    Nàng đà gieo ngọc, trầm châu
                    Sông Tiền đường đó, ấy mồ hồng nhan!
                    Thương ôi! Không hợp mà tan
                    Một nhà vinh hiển, riêng oan một nàng!

                    Chiêu hồn, thiết vị, lễ thường
                    Giải oan, lập một đàn tràng bên sông
                    Ngọn triều non bạc trùng trùng
                    Vời trông còn tưởng cánh hồng lúc gieo
                    Tình thâm, bể thảm, lạ điều
                    Nào hồn tinh vệ biết theo chốn nào?

                    Cơ duyên đâu bỗng lạ sao?
                    Giác Duyên đâu bỗng tìm vào đến nơi
                    Trông lên linh vị chữ bài
                    Thất kinh mới hỏi: Những người đâu ta?
                    Với nàng thân thích gần xa?
                    Người còn, sao bỗng làm ma khóc người?
                    Nghe tin ngơ ngác rụng rời
                    Xúm quanh kể họ, rộn lời hỏi tra:
                    Này chồng, này mẹ, này cha
                    Này là em ruột, này là em dâu
                    Thật tin nghe đã bấy lâu
                    Pháp sư dạy thế, sự đâu lạ dường!
                    Sư rằng: Nhân quả với nàng
                    Lâm chuy buổi trước, Tiền đường buổi sau
                    Khi nàng gieo ngọc, trầm châu
                    Đón nhau, tôi đã gặp nhau rước về
                    Cùng nhau nương cửa Bồ-đề
                    Thảo-am đó, cũng gần kề chẳng xa
                    Phật tiền ngày bạc lân la
                    Đăm đăm, nàng cũng nhớ nhà khôn khuây.
                    Nghe tin, nở mặt nở mày
                    Mầng nào lại quá mầng này nữa chăng?
                    Từ phen chiếc lá lìa rừng
                    Thăm tìm luống những liệu chừng nước mây

                    Rõ ràng hoa rụng hương bay
                    Kiếp sau họa thấy, kiếp này hẳn thôi
                    Minh, dương, đôi ngã chắc rồi
                    Cõi trần mà lại thấy người cửu nguyên
                    Cùng nhau lạy tạ Giác Duyên
                    Bộ hành một lũ, theo liền một khi
                    Bẻ lau, vạch cỏ, tìm đi
                    Tình thâm luống hãy hồ nghi nửa phần
                    Quanh co theo giải giang tân
                    Khỏi rừng lau đã tới sân Phật đường
                    Giác Duyên lên tiếng gọi nàng
                    Buồng trong, vội dạo sen vàng bước ra
                    Trông xem đủ mặt một nhà:
                    Xuân già còn khỏe, huyên già còn tươi
                    Hai em phương trưởng hòa hai
                    Nọ chàng Kim đó, là người ngày xưa!
                    Tưởng bây giờ là bao giờ
                    Rõ ràng mở mắt, còn ngờ chiêm bao!
                    Giọt châu thánh thót quyên bào
                    Mầng mầng, tủi tủi, biết bao sự tình!
                    Huyên già dưới gối gieo mình
                    Khóc than, mình kể sự mình đầu đuôi:
                    Từ con lưu lạc quê người
                    Bèo trôi, sóng vỗ, chốc mười lăm năm
                    Tính rằng sông nước cát lầm
                    Kiếp này, ai lại còn cầm gặp đây?
                    Ông bà trông mặt, cầm tay
                    Dung quang chẳng khác chi ngày bước ra
                    Bấy chầy dãi nguyệt dầu hoa
                    Mười phần xuân có gầy ba bốn phần
                    Nỗi mầng, biết lấy chi cân?
                    Lời tan hợp, chuyện xa gần, thiếu đâu?
                    Hai em hỏi trước han sau
                    Đứng trông, chàng cũng trở sầu làm tươi.
                    <bài viết được chỉnh sửa lúc 10.05.2012 11:59:06 bởi Anh Nguyên >
                    #55
                      Anh Nguyên 09.05.2012 11:45:51 (permalink)
                      23/Thuý Kiều về với gia đình, kết hôn
                      cùng Kim Trọng.


                      Quây nhau lạy trước Phật đài
                      Tái-sinh trần tạ lòng người từ bi
                      Kiệu hoa giục giã tức thì
                      Vương ông dạy rước cùng về một nơi
                      Nàng rằng: Chút phận hoa rơi
                      Nửa đời nếm trải mọi mùi đắng cay
                      Tính rằng mặt nước chân mây
                      Lòng nào còn tưởng có rày nữa không?
                      Được rày tái thế tương phùng
                      Khát khao đã thỏa tấm lòng lâu nay
                      Đã đem mình bỏ am mây
                      Tuổi này gửi với cỏ cây cũng vừa
                      Mùi thiền, đã bén muối dưa
                      Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng
                      Sự đời đã tắt lửa lòng
                      Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi?
                      Dở dang nào có hay gì?
                      Đã tu, tu trót qua thì, thì thôi!
                      Trùng sinh ân nặng biển trời
                      Lòng nào nỡ dứt nghĩa người ra đi?

                      Ông rằng: Bỉ thử nhất thì
                      Tu hành thì cũng phải khi tòng quyền
                      Phải điều cầu Phật cầu tiên
                      Tình kia, hiếu nọ, ai đền cho đây?
                      Độ sinh nhờ đức cao dày
                      Lập am, rồi sẽ rước thầy ở chung.
                      Nghe lời nàng phải chiều lòng
                      Giã sư, giã cảnh, đều cùng bước ra
                      Một đoàn về đến quan nha
                      Đoàn viên, vội mở tiệc hoa vui vầy

                      Tàng tàng, chén cúc dở say
                      Đứng lên, Vân mới giải bày một hai
                      Rằng: Trong tác hợp cơ trời
                      Hai bên gặp gỡ, một lời kết giao
                      Gặp cơn bình địa ba đào
                      Vậy đem duyên chị buộc vào duyên em
                      Cũng là phận cải, duyên kim
                      Cũng là máu chảy ruột mềm chứ sao?
                      Những là rày ước mai ao
                      Mười lăm năm ấy, biết bao nhiêu tình!
                      Bây giờ gương vỡ lại lành
                      Khuôn thiêng lừa lọc, đã đành có nơi
                      Còn duyên may lại còn người
                      Còn vầng trăng bạc, còn lời nguyền xưa
                      Quả mai ba bảy đương vừa
                      Dào non sớm liệu xe tơ kịp thì.

                      Dứt lời, nàng vội gạt đi:
                      Sự muôn năm cũ kể chi bây giờ?
                      Một lời tuy có ước xưa
                      Xét mình dãi gió, dầm mưa đã nhiều
                      Nói càng hổ thẹn trăm chiều
                      Thì cho ngọn nước thủy triều chảy xuôi!

                      Chàng rằng: Nói cũng lạ đời!
                      Dẫu lòng kia vậy, còn lời ấy sao?
                      Một lời đã trót thâm giao
                      Dưới giày có đất, trên cao có trời!
                      Dẫu rằng vật đổi sao dời
                      Tử sinh cũng giữ lấy lời tử sinh!
                      Duyên kia có phụ chi tình
                      Mà toan chia gánh chung tình làm hai?

                      Nàng rằng: Gia thất duyên hài
                      Chút lòng ân ái, ai ai cũng lòng
                      Nghĩ rằng: Trong đạo vợ chồng
                      Hoa thơm phong nhụy, trăng vòng tròn gương
                      Chữ trinh đáng giá nghìn vàng
                      Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa!
                      Thiếp từ ngộ biến đến giờ
                      Ong qua, bướm lại, đã thừa xấu xa
                      Bấy chầy gió táp mưa sa
                      Mấy trăng cũng khuyết, mấy hoa cũng tàn!
                      Còn chi là cái hồng nhan?
                      Đã xong thân thế, còn toan nỗi nào?
                      Nghĩ mình chẳng hổ mình sao?
                      Dám đem trần cấu dự vào bố kinh!
                      Đã hay chàng nặng vì tình
                      Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru!
                      Từ rày khép cửa phòng thu
                      Chẳng tu thì cũng như tu mới là!
                      Chàng dầu nghĩ đến tình xa
                      Đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ
                      Nói chi kết tóc xe tơ?
                      Đã buồn cả ruột, lại dơ cả đời!

                      Chàng rằng: Khéo nói nên lời!
                      Mà trong lẽ phải có người có ta
                      Xưa nay trong đạo đàn bà
                      Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường:
                      Có khi biến, có khi thường
                      Có quyền, nào phải một đường chấp kinh?
                      Như nàng lấy hiếu làm trinh
                      Bụi nào cho đục được mình ấy vay?
                      Trời còn để có hôm nay
                      Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời
                      Hoa tàn mà lại thêm tươi
                      Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa
                      Có điều chi nữa mà ngờ
                      Khách qua đường để hững hờ chàng Tiêu?

                      Nghe chàng nói đã hết điều
                      Hai thân thì cũng quyết theo một bài
                      Hết lời khôn lẽ chối lời
                      Cúi đầu, nàng những ngắn dài thở than
                      Nhà vừa mở tiệc đoàn viên
                      Hoa soi ngọn đuốc, hồng chen bức là
                      Cùng nhau giao bái một nhà
                      Lễ đà đủ lễ, đôi đà đủ đôi
                      Động phòng dìu dặt chén mồi
                      Bâng khuâng duyên mới, ngậm ngùi tình xưa
                      Những từ sen ngó đào tơ
                      Mười lăm năm, mới bây giờ là đây!
                      Tình duyên ấy, hợp tan này
                      Bi hoan mấy nỗi, đêm chầy trăng cao
                      Canh khuya bức gấm rủ thao
                      Dưới đèn tỏ dạng, má đào thêm xuân
                      Tình nhân lại gặp tình nhân
                      Hoa xưa ong cũ, mấy phân chung tình!

                      Nàng rằng: Phận thiếp đã đành
                      Có làm chi nữa cái mình bỏ đi!
                      Nghĩ chàng nghĩa cũ tình ghi
                      Chiều lòng gọi có xướng tùy mảy may
                      Riêng lòng đã thẹn lắm thay
                      Cũng là mặt dạn, mày dày khó coi!
                      Những như âu yếm vành ngoài
                      Còn toan mở mặt với người cho qua
                      Lại như những thói người ta
                      Vớt hương dưới đất, bẻ hoa cuối mùa
                      Cũng dơ giở nhuốc bày trò
                      Còn tình đâu nữa, là thù đấy thôi!
                      Người yêu, ta xấu với người
                      Yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau
                      Cửa nhà dù tính về sau
                      Thì còn em đó, lọ cầu chị đây?
                      Chữ trinh còn một chút này
                      Chẳng cầm cho vững, lại giày cho tan!
                      Còn nhiều ân ái chan chan
                      Hay gì vầy cái hoa tàn mà chơi?

                      Chàng rằng: Gắn bó một lời
                      Bỗng không cá nước, chim trời lỡ nhau
                      Xót người lưu lạc bấy lâu
                      Tưởng thề thốt nặng cũng đau đớn nhiều!
                      Thương nhau sinh tử đã liều
                      Gặp nhau còn chút bấy nhiêu là tình
                      Chừng xuân tơ liễu còn xanh
                      Nghĩ rằng chưa thoát khỏi vành ái ân
                      Gương trong chẳng chút bụi trần
                      Một lời quyết hẳn muôn phần kính thêm
                      Bấy lâu đáy bể mò kim
                      Là nhiều vàng đá, phải tìm trăng hoa?
                      Ai ngờ lại hợp một nhà
                      Lọ là chăn gối, mới ra sắt cầm!

                      Nghe lời sửa áo, cài trâm
                      Khấu đầu lạy tạ cao thâm nghìn trùng
                      Thân tàn gạn đục khơi trong
                      Là nhờ quân tử khác lòng người ta
                      Mấy lời tâm phúc ruột rà
                      Tương tri dường ấy, mới là tương tri!
                      Chở che, đùm bọc, thiếu gì?
                      Trăm năm danh tiết cũng vì đêm nay!

                      Thoắt thôi, tay lại cầm tay
                      Càng yêu vì nết, càng say vì tình
                      Thêm nến giá, nối hương bình
                      Cùng nhau lại chúc chén quỳnh giao hoan
                      Tình xưa lai láng khôn hàn
                      Thong dong, lại hỏi ngón đàn ngày xưa
                      Nàng rằng: Vì mấy đường tơ
                      Làm người cho đến bây giờ mới thôi!
                      Ăn năn thì sự đã rồi!
                      Nể lòng người cũ, vâng lời một phen.
                      Phím đàn dìu dặt tay tiên
                      Khói trầm cao thấp, tiếng huyền gần xa
                      Khúc đầu đầm ấm dương hòa!
                      Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh?
                      Khúc đâu êm ái xuân tình!
                      Ấy hồn Thục đế hay mình đỗ-quyên?
                      Trong sao châu rõ duềnh quyên
                      Ấm sao hạt ngọc Lam điền mới đông!
                      Lọt tai nghe suốt năm cung
                      Tiếng nào là chẳng não nùng xôn xao

                      Chàng rằng: Phổ ấy tay nào?
                      Xưa sao sầu thảm, nay sao vui vầy?
                      Tẻ vui bởi tại lòng này
                      Hay là khổ-tận đến ngày cam-lai?
                      Nàng rằng: Vì chút nghề chơi
                      Đoạn trường tiếng ấy hại người bấy lâu!
                      Một phen tri kỷ cùng nhau
                      Cuốn dây từ đấy, về sau cũng chừa.
                      Truyện trò chưa cạn tóc tơ
                      Gà đà gáy sáng, trời vừa rạng đông
                      Tình riêng, chàng lại nói sòng
                      Một nhà ai cũng lạ lùng khen khao

                      Cho hay thục nữ chí cao
                      Phải người sớm mận tối đào như ai?
                      Hai tình vẹn vẽ hòa hai
                      Chẳng trong chăn gối, cũng ngoài cầm thơ
                      Khi chén rượu, lúc cuộc cờ
                      Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên
                      Ba sinh đã phỉ mười nguyền
                      Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy
                      Nhớ lời, lập một am mây
                      Khiến người thân tín rước thầy Giác Duyên
                      Đến nơi đóng cửa gài then
                      Rêu trùm kẽ ngạch, cỏ lên mái nhà
                      Sư đà hái thuốc phương xa
                      Mây bay, hạc lánh, biết là tìm đâu?
                      Nặng vì chút nghĩa bấy lâu
                      Trên am cứ giữ hương dầu hôm mai
                      Một nhà phúc lộc gồm hai
                      Nghìn năm dằng dặc, quan giai lần lần
                      Thừa gia chẳng hết nàng Vân
                      Một cây cù-mộc, một sân quế-hòe
                      Phong lưu phú quí ai bì
                      Vườn xuân một cửa để bia muôn đời

                      Ngẫm hay muôn sự tại trời
                      Trời kia đã bắt làm người có thân
                      Bắt phong trần, phải phong trần
                      Cho thanh cao, mới được phần thanh cao
                      Có đâu thiên vị người nào
                      Chữ Tài, chữ Mệnh dồi dào cả hai
                      Có tài, mà cậy chi tài?
                      Chữ tài liền với chữ tai một vần
                      Đã mang lấy nghiệp vào thân
                      Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa
                      Thiện căn ở tại lòng ta
                      Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài!
                      Lời quê chắp nhặt dông dài
                      Mua vui cũng được một vài trố
                      ng canh.
                      ~Nguyễn-Du~
                      <bài viết được chỉnh sửa lúc 10.05.2012 11:34:08 bởi Anh Nguyên >
                      #56
                        Anh Nguyên 10.05.2012 11:48:18 (permalink)


                        LONG THÀNH GIAI NHÂN

                        Tính thị bất kí thanh
                        Độc thiện Nguyễn cầm (1)
                        Cử thành chi nhân dĩ Cầm danh
                        Học đắc tiên triều cung trung Cung phụng khúc
                        Tự thị thiên thượng nhân gian đệ nhất thanh
                        Dư ức thiểu niên tằng nhất kiến
                        Giám hồ hồ biên dạ khai yến
                        Kì thì tam thất chính phương niên
                        Hồng trang yểm ái đào hoa diện
                        Đà nhan hám thái tối nghi nhân
                        Lịch loạn ngũ thanh tùy thủ biến
                        Hoãn như sơ phong độ tùng lâm
                        Thanh như song hạc minh tại âm
                        Liệt như Tiến Phúc bi (4) đầu toái tích lịch
                        Ai như Trang Tịch (5) bệnh trung vi việt ngâm
                        Thính giả mĩ mĩ bất tri quyện
                        Tiện thị Trung Hòa (6) đại nội âm
                        Tây Sơn chư thần mãn tọa tận khuynh đảo
                        Triệt dạ truy hoan bất tri bão
                        Tả phao hữu trịch tranh triền đầu
                        Nê thổ kim tiền thù thảo thảo
                        Hào hoa ý khí lăng vương hầu
                        Ngũ lăng (7) niên thiếu bất túc đạo
                        Tịnh tương tam thập lục (8) cung xuân
                        Hoạt tố Trường An vô giá bảo
                        Thử tịch hồi đầu nhị thập niên
                        Tây Sơn bại hậu dư Nam thiên
                        Chỉ xích Long Thành bất phục kiến
                        Hà huống thành trung ca vũ diên
                        Tuyên Phủ (9) sứ quân vi dư trùng mãi tiếu
                        Tịch trung ca kĩ giai niên thiếu
                        Tịch mạt nhất nhân phát bán hoa
                        Nhan sấu thần khô hình lược tiểu
                        Lang tạ tàn mi bất sức trang
                        Thùy tri tựu thị đương niên thành trung đệ nhất diệu
                        Cựu khúc thanh thanh ám lệ thùy
                        Nhĩ trung tĩnh thính tâm trung bi
                        Mãnh nhiên ức khởi nhị thập niên tiền sự
                        Giám hồ tịch trung tằng kiến chi
                        Thành quách suy di nhân sự cải
                        Ki xứ tang điền biến thương hải
                        Tây Sơn cơ nghiệp tận tiêu vong
                        Ca vũ không di nhất nhân tại
                        Thuấn tức bách niên năng kỉ thì
                        Thương tâm vãng sự lệ triêm y
                        Nam Hà quy lai đầu tận bạch
                        Quái để giai nhân nhan sắc suy
                        Song nhãn trừng trừng không tưởng tượng
                        Khả liên đối diện bất tương tri
                        ~Nguyễn-Du~

                        Bài ca v
                        người gy đàn đất Long Thành


                        Ti
                        u dn:
                        Người gảy đàn đất Long Thành ấy, tên họ là gì không rõ. Nghe nói lúc nhỏ nàng học đàn Nguyễn nơi đội nữ nhạc trong cung vua Lê. Binh Tây Sơn dấy lên, các đội nhạc cũ lớp chết lớp bỏ đi. Nàng lưu lạc ở các chợ, ôm đàn gảy dạo. Những bản đàn do nàng gảy là những khúc trong cung phụng gảy cho vua nghe, người ngoài không ai biết. Cho nên tài danh của nàng lừng lẫy một thời.
                        Buổi thiếu niên, đến kinh đô thăm anh, tôi trọ gần Giám hồ. Cạnh đó các quan Tây Sơn tập hộo nữ nhạc, danh cơ không dưới vài chục. Nàng ăn đứt mọi người với cây đàn Nguyễn, lại hát hay và khéo nói khôi hài. Cử tọa đều say mê điên đảo đua nhau ban thưởng. Những chén rượu thưởng to lớn, nàng nhận uống cạn. Tiền thưởng nhiều vô số. Vàng lụa chồng chất đầy cả đất. Lúc bấy giờ tôi núp trong bóng tối, trông thấy nàng không rõ lắm. Sau gặp lại ở nhà anh tôi. Nàng người thấp má bầu, trán giô, mặt gẫy. Không đẹp lắm, nhưng da trắng trẻo, khéo trang điểm, mày thanh, má phấn, áo màu hồng, quần sắc túy, hớn hở có bề phong tao. Tánh lại hay rượu, ưa hí hước. Đôi mắt long lanh không để một ai vào tròng. Khi ở nhà anh tôi, mỗi lần uống rượu, năng uống say vùi, nôn mửa bừa bãi, nằm lăn trên đất, bạn bè chê trách, không lấy làm điều.
                        Sau đó vài năm, tôi dời nhà vào Nam, ngót mấy năm liền không trở lại Long Thành. Mùa xuân năm nay, phụng mệnh đi sứ Trung Quốc, tôi đi ngang qua Long Thành. Các bạn mở tiệc tiễn tôi tại dinh Tuyên Phủ, có gọi vài chục nữ nhạc, tôi đều không quen mặt biết tên. Tiệc khởi múa hát. Kế đến tiếng đàn trổi lên, nghe trong trẻo khác thường không chút giống thời khúc. Lòng tôi kinh dị. Nhìn người gảy đàn, thì thấy thân gầy, thân khô, mặt đen, sắc trông như quỷ, áo quần toàn vải thô, bạc màu lại vá nhiều mảnh trắng, ngồi lầm lì ở cuối chiếu, không nói cũng không cười, hình trạng thật khó coi. Tôi không biết là ai, nhưng nghe tiếng đàn thì dường như có quen, nên động lòng trắc ẩn. Tiệc tan, hỏi thăm thì ra là người trước kia đã gặp.
                        Than ôi! Người ấy sao đến nỗi thế này! Cúi ngửa bồi hồi, nghĩ đến cảnh cổ kim, lòng tôi cảm kích vô hạn. Đời người trăm năm, những cảnh vinh nhục buồn vui thật sao không lường được! Sau khi từ biệt, trên đường đi, cảm thương khôn nén, nên soạn bài ca để gửi hứng:



                        Quách Tn dch xuôi:

                        Người đẹp đất Long Thành

                        Không nghe tên họ
                        Riêng thạo đàn Nguyễn
                        Người trong thành bèn lấy chữ Cầm mà đặt tên.
                        Nàng học được khúc Cung Phụng trong cung tiền triều (2)
                        Đó là những khúc đàn hay nhất trời đất.
                        Tôi nhớ lúc thiếu thời đã gặp một lần
                        Bên bờ hồ Giám trong một cuộc dạ yến,
                        Lúc đó nàng khoảng hai mươi mốt tuổi,
                        Áo hồng ánh lên mặt hoa đào,
                        Má hừng rượu, vẻ ngây thơ, rất dễ thương,
                        Năm cung réo rắt, theo ngón tay mà thay đổi điệu.
                        Tiếng khoan như gió thoảng qua rừng thông,
                        Tiếng trong như đôi hạc kêu trên cao thẳm,
                        Tiếng lạnh như sét đánh tan bia Tiến Phúc,
                        Tiếng buồn như Trang Tịch ngâm tiếng Việt lúc bệnh,
                        Người nghe say sưa không biết mỏi,
                        Đó là những khúc đàn trong đại nội Trung Hòa.
                        Các quan Tây Sơn trong tiệc đều say mê điên đảo,
                        Mải vui suốt đêm không biết chán.
                        Bên tả bên hữu tranh nhau vãi thưởng,
                        Tiền bạc coi rẻ như đất bùn.
                        Ý khí đào hoa át cả các bậc vương hầu,
                        Đám thiếu niên đất Ngũ Lăng không đáng kể.
                        Tưởng chừng ba mươi sáu cung xuân,
                        Chung đúc một vật báu vô giá đất Trường An.

                        Nhớ lại từ bữa tiệc ấy đến nay đã hai mươi năm,
                        Sau khi Tây Sơn bại vong, tôi vào Nam,
                        Long Thành trong gang tấc không được thấy lại,
                        Huống hồ tiệc múa hát ở trong thành.
                        Quan Tuyên Phủ vì tôi bày cuộc mua cười,
                        Trong đám ca kĩ đều trẻ tuổi.
                        Duy ở cuối chiếu có một nàng tóc đã hoa râm.
                        Mặt gầy thần khô hình bé nhỏ,
                        Đôi mày phờ phạc không điểm tô,
                        Ai biết đó là người trước kia nổi danh tài hoa đệ nhất trong một thời,
                        Khúc xưa đàn lên, tôi tuôn nước mắt ngầm theo từng tiếng.
                        Tai lắng nghe mà lòng chua xót!
                        Bỗng nhớ lại chuyện hai mươi năm xưa
                        Đã từng thấy trong chiếu tiệc bên hồ Giám.
                        Thành quách suy dời, việc người đổi,
                        Bao nương dâu đã biến thành biển xanh.
                        Cơ nghiệp Tây Sơn tiêu tan sạch,
                        Trong làng múa hát còn sót lại một người!

                        Trăm năm thấm thoát trong một hơi thở một nháy mắt
                        Cảm thương việc cũ lệ thấm áo
                        Từ Nam trở về, đầu tôi bạc trắng!
                        Không trách người đẹp nhan sắc suy tàn.
                        Hai mắt trừng trừng luống tưởng lại chuyện cũ
                        Khá thương giáp mặt nhau mà không nhận được nhau!

                        Chú thích:

                        (1) Đàn Nguyễn: Đàn Nguyệt. Gọi như vậy là vì đàn nguyệt do Nguyễn Hàm, một trong thất hiền vườn Trúc đời Tấn sáng chế.
                        (2) Tiền Triều: Triều nhà Lê. Vì lúc đó thuộc triều Tây Sơn.
                        (3) Giám hồ: Hồ Hoàn Kiếm.
                        (4) Bia Tiến Phúc: Bia dựng ở Nhiêu Châu, tỉnh Giang Tây, chữ rất đẹp. Đời nhà Tống có một người học trò nghèo dâng lên Phạm Trọng Yêm một bài thơ. Để giúp đỡ, Phạm cho phép người học trò rập một nghìn bản chữ bia để bán lấy tiền. Người học trò vừa đến nơi thì bia bị trời đánh vỡ tan.
                        (5) Trang Tịch: Người nước Việt, làm quan nước Sở. Ngày thường nói tiếng Sở, nhưng lúc bệnh năng thường ngâm thơ bằng tiếng nước Việt.
                        (6) Đại nội Trung Hòa: Cung nhà Lê.
                        (7) Ngũ Lăng: Địa danh, có năm lăng tẩm của các vua nhà Hán. Nơi đây, bọn hào hoa phú quý thường tụ hội.
                        (8) Tam thập lục cung: Trong đền vua ngày xưa bên Tàu có 36 cung chứa đầy mĩ nữ.
                        (9) Quan Tuyên Phủ: Quan Trấn thủ.



                        Bn dch thơ ca Đặng Thế Kit

                        Người đẹp đất Long Thành

                        Tên họ chi ta không biết rõ
                        Thạo Nguyễn cầm nên có tên Cầm
                        Khúc kia Cung Phụng nhất trần
                        Ngày thơ được học nhạc thần chầu vua
                        Đã một lần thuở xưa gặp gỡ
                        Bên bờ hồ cuộc dạ yến sang
                        Tuổi hai mươi mốt cô nàng
                        Mặt hoa áo thắm còn tham rượu nồng
                        Theo ngón tay năm cung réo rắt
                        Tiếng khoan như gió mát rừng thông
                        Hạc kêu cao thẳm: tiếng trong
                        Mạnh như sét đánh vỡ tung bia mồ
                        Buồn: Trang Tịch ngâm thơ tiếng Việt
                        Người nghe say chẳng biết mỏi a
                        Khúc đâu đại nội Trung Hòa
                        Tây Sơn quan chức nghe mà đảo điên
                        Mải vui suốt cả đêm không chán
                        Hai bên người tranh cạnh thưởng tài,
                        Tiền như bùn đất vãi rơi.
                        Đào hoa ý khí vượt nơi vương hầu
                        Đám Ngũ Lăng còn đâu đáng kể
                        Băm sáu cung xuân để mà coi
                        Đúc chung vật báu trên đời
                        Của kia vô giá đất trời Trường An
                        Nay đã hai mươi năm tiệc ấy
                        Sau Tây Sơn chiến bại, vào Nam
                        Long Thành chẳng thấy tấc gang
                        Huống chi tiệc múa mơ màng thành xưa
                        Quan Tuyên Phủ vui mua cuộc hát
                        Đám ca cơ tươi mát xuân xanh
                        Mà sao một mái hoa râm
                        Mặt gầy khô héo nhỏ thân hình hài
                        Không điểm tô nét mày phờ phạc
                        Ai biết từng đệ nhất tài danh
                        Khúc xưa réo rắt dây đàn
                        Nghe tuôn nước mắt từng làn âm thanh
                        Tai lắng nghe mà đành chua xót
                        Hai mươi năm chuyện trước là đây
                        Bên hồ chiếu tiệc mê say
                        Đã từng gặp gỡ những ngày thơ ngây
                        Thành quách suy việc thay người đổi
                        Bao nương dâu thành bãi biển xanh
                        Tây Sơn cơ nghiệp tan tành
                        Trong làng múa hát còn đành một ai
                        Một cuộc thế không đầy chớp mắt
                        Cảm việc xưa lệ ướt áo này
                        Từ Nam về tóc trắng mây
                        Trách chi người đẹp tàn phai má đào
                        Trừng trừng hai mắt nhìn nhau
                        Cố nhân chẳng biết khác nào người dưng



                        B
                        n dch thơ ca Trn Nht Lang

                        Bài ca người gảy đàn đất Long Thành


                        Gái Long Thành (1) không hay tên họ
                        Giỏi Nguyễn cầm lấy đó đặt tên (2)
                        Tiếng đàn như nhạc cõi tiên
                        Khúc Cung phụng ấy của tiền triều xưa.
                        Nhớ thuở trước Giám Hồ yến tiệc
                        Tóc ta xanh đã biết tiếng nàng
                        Ngây thơ đôi tám mơ màng
                        Áo hồng, má đỏ lại càng dễ thương!
                        Tay nhẹ lướt năm cung trầm bổng
                        Tiếng khoan như gió thoảng ngàn thông
                        Trong như tiếng hạc trên không
                        Mạnh như tiếng sét đánh tung bia chùa; (3)
                        Buồn như thể Trang xưa ngâm Việt (4)
                        Khiến người nghe mải miết say sưa
                        Vốn là khúc nhạc ngày xưa
                        Trung Hòa Đại Nội để vua thưởng nhàn.
                        Khi quân lính Tây Sơn tiệc mở
                        Đã say như điếu đổ thâu canh
                        Thưởng tiền, tả hữu đua tranh
                        Bạc vung như nước cốt giành cuộc vui;
                        Nét hào hoa vương hầu nào sánh
                        Trẻ Ngũ Lăng có thấm vào đâu (5)
                        Vẻ xuân hun đúc hạt châu
                        Cầm ca chi bảo đứng đầu Trường An.
                        Từ năm ấy đã tròn hai chục
                        Tây Sơn tàn, ta được vào Nam
                        Long Thành lâu chửa ghé thăm
                        Người xưa múa hát thấy thầm trong mơ.
                        Quan Tuyên Phủ vì ta khoản đãi
                        Trong tiệc này có giải ca vui
                        Đào nương xuân nữ đương thời
                        Duy nơi cuối chiếu một người hoa râm,
                        Mặt vàng võ, tấm thân bé nhỏ
                        Môi không son, mày bỏ không tô
                        Ai hay người ấy bây giờ
                        Tài hoa đệ nhất ngày xưa một thời!
                        Khúc cũ dạo, lệ rơi từng giọt
                        Tai lắng nghe mà xót lòng ta
                        Bỗng dưng nhớ chuyện đã qua
                        Hai mươi năm trước Giám Hồ gặp nhau.
                        Cuộc hưng phế, bể dâu mấy độ
                        Thành đổi dời, người có khác chi
                        Tây Sơn triều cũ còn gì?
                        Còn chăng là một ca nhi tên Cầm!
                        Cõi nhân thế trăm năm là mấy
                        Cảm chuyện xưa áo tẩy dòng châu
                        Từ Nam trở lại, bạc đầu
                        Trách sao nhan sắc người đâu chẳng tàn.
                        Gặp nhau không dám hỏi han
                        Rưng rưng đôi mắt bàng hoàng xót xa.

                        Chú Thích:

                        (1)Long Thành: Thành Thăng Long cũ, nay là Hà Nội
                        (2)Nguyễn cầm: Đàn nguyệt do Nguyễn Hàm đời Tấn chế ra.
                        (3)Bia chùa Tiến Phúc ở Nhiêu Châu tỉnh Giang Tô có khắc bài thơ chữ rất đẹp, bị sét đánh vỡ tan.
                        (4)Trang Tích khi ốm ngâm nga bằng tiếng Việt.
                        (5)Ngũ Lăng: Nơi có năm lăng tẩm vua đời Hán, lớp hào hoa phú quí thường làm nhà ở đây và đám thanh niên sài tiền bạc rất rộng rãi.

                        Bn dch ca NguynTâmHàn

                        Người gảy đàn ở Long-Thành

                        Nổi danh mỹ nữ Long Thành
                        Người từ đâu đến, phương danh chẳng tường
                        Tiếng đồn đàn Nguyễn khắp phương
                        Tên cô nào biết, gọi thương Nàng Cầm
                        Khúc xưa Cung Phụng nhập tâm
                        Khảy người nghe ngỡ lạc lầm cõi tiên
                        Khi xưa tôi đã hữu duyên
                        Gặp nơi hồ Giám tiệc đêm một lần
                        Nàng vừa hai mốt tuổi xuân
                        Mặt xinh như mộng trong thân áo hồng
                        Hây hây da thấm men nồng
                        Tay nàng dạo phím, khách lòng ngẩn ngơ
                        Tưởng thông giỡn gió vi vu
                        Ngỡ âm tiên hạc vọng từ ngàn xa
                        Ầm ầm đá tảng vỡ ra
                        Tiếng buồn Trương Tích ngâm nga Việt lời
                        Âm càng trói buộc chân người
                        Khi nàng dạo khúc xưa nơi Trung Hòa
                        Tây Sơn quan tướng say sưa
                        Ngả nghiêng thụ hưởng vui đùa thâu đêm
                        Chung quanh đua thảy bạc tiền
                        Tặng nàng thưởng ngón đàn tiên tuyệt vời
                        Vương hầu nhường vẻ ăn chơi
                        Ngũ Lăng công tử kém nòi hào hoa
                        Trong cung xuân thắm mượt mà
                        Đâu thua báu vật giữa tòa Trường An
                        Hai mươi năm bụi thời gian
                        Tây Sơn mất nghiệp, trời Nam tìm vào
                        Long Thành chẳng thấy được nào
                        Nói chi đến chuyện lao xao ca đàn
                        Hôm nay giữa chốn yến bàn
                        Quan truyền ca múa bao nàng thắm xinh
                        Duy người ngồi góc một mình
                        Tấm thân nhỏ bé, tóc xanh úa mầu
                        Không son phấn, mặt u sầu
                        Ai nào ngờ đưọc từ lâu danh tài
                        Khúc xưa khiến dạ bùi ngùi
                        Càng nghe càng thấy rối bời ruột gan
                        Đã hai mươi độ thu tàn
                        Thuở bên hồ Giám nghe đàn nàng rung
                        Thành rời, người cũ tứ tung
                        Cuộc đời dâu biển chẳng ngừng đổi thay
                        Nghiệp Tây Sơn đã xa bay
                        Còn chăng sót lại người này mà thôi
                        Cuộc trăm năm tủi phận người
                        Áo nâng thấm lệ buồn rơi chán chường
                        Ta giờ đầu bạc như sương
                        Trách sao nàng chẳng sắc hương phai tàn
                        Mắt đăm đăm giữa không gian
                        Gặp nhau mà lạ ... ta, nàng dửng dưng

                         
                         
                        ĐỘC TIỂU-THANH KÝ
                         
                        讀小青記               
                               
                        西湖花宛盡成墟                 
                        獨吊窗前一紙書                
                        脂粉冇神憐死後                               
                        文章無命累焚餘                                                           
                        古今恨事天難問              
                        風韻奇冤我自居                 
                        不知三百餘年後                 
                        天下何人泣素如

                        Độc Tiểu-Thanh Ký
                         
                        Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
                        Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
                        Chi phấn hữu thần lân tử hậu     
                        Văn chương vô mệnh lụy phần dư
                        Cổ kim hận sự thiên nan vấn
                        Phong vận kỳ oan ngã tự cư
                        Bất tri tam bách dư niên hậu                 
                        Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.
                        ~Nguyễn-Du~
                         
                         Dịch nghĩa:
                         
                        Đọc bài ký Truyện nàng Tiểu Thanh
                         
                        Vườn hoa ở Tây Hồ đã thành gò bãi hoang
                        Trước song cửa, một mình đọc một trang sách để viếng nàng
                        Bức vẽ có thần, sau khi chết còn để lại niềm thương tiếc
                        Văn chương không có số mệnh mà cũng lụy đến tập thơ (bị đốt còn sót lại)
                        Mối hận cổ kim khó mà hỏi trời được
                        Ta tự coi mình như người cùng một hội với kẻ mắc nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã.
                        Không biết hơn ba trăm năm sau
                        Thiên hạ có ai là người khóc Tố Như?
                        ~Trần-Văn-Nhĩ~
                         
                        Dịch thơ:
                         
                        Vườn cảnh Tây Hồ nay xác xơ
                        Trước song xin đọc viếng người xưa
                        Văn chương không mệnh phần dư lụy
                        Son phấn hữu thần tử hậu như?
                        Sầu hận cổ kim trời khó hỏi
                        Oan tình phong nhã tự ôm khư.
                        Ba trăm năm nữa nào ai biết
                        Thiên hạ ai người khóc Tố Như?
                        ~Trần-Văn-Nhĩ~
                          
                        Hồ Tây cảnh đẹp hóa gò hoang,
                        Thổn thức bên song mảnh giấy tàn,
                        Son phấn có hồn chôn vãn hận
                        Văn chương không mệnh đốt còn vương
                        Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
                        Cái án phong lưu khách tự mang.
                        Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
                        Người đời ai khóc Tố Như chăng?
                        ~Lê-Thước~
                         
                         Vườn(cũ) Tây Hồ đã hết hoa
                         Thăm nàng, thơ cũ giỡ xem qua
                         Tình trong phấn bụi tan rồi nhỉ
                         Mệnh ở văn chương sót đấy à
                         Nõi hận hỏi trời không tiếng đáp!
                         Niềm oan đối bóng, giọt châu sa
                         Ba trăm năm nữa mơ hồ quá
                         Nhắc Tố Như này…Ai xót xa?
                         ~Huệ-Thu~
                         
                         Tây Hồ, vườn biến gò hoang
                         Trước song, nhặt đọc một trang sách này
                         Thấy tranh phấn vẽ, thương thay
                         Văn chương không mệnh mà nay cháy rồi
                         Xưa nay, hận, khó hỏi trời
                         Nỗi oan phong nhã, có tôi dự phần
                         Ba trăm năm nữa, quên dần
                         Tố-Như, ai có một lần lệ tuôn!…
                          ~Anh-Nguyên~

                        < Sửa đổi bởi: Anh Nguyên -- 9.2.2012 10:38:31 >
                        <bài viết được chỉnh sửa lúc 09.06.2012 18:04:40 bởi Anh Nguyên >
                        #57
                          Anh Nguyên 09.06.2012 18:21:21 (permalink)



                          CÔNG CHÚA NGỌC-HÂN
                                  
                                 1770-1799

                          Quê Phù-Ninh, Hạ-Dương, Từ-Sơn, Bắc-Ninh,
                          Thông minh, thanh tú, thùy mị, mới 15 tuổi, được
                          Vua Lê-Hiển-Tông gả cho Bắc Bình Vương Nguyễn-
                          Huệ, về Phú-Xuân được phong là Bắc cung Hoàng-
                          Hậu, sinh được 2 con, năm 1972 vua Quang-Trung
                          đột ngột qua đời, năm 1799 bà mất mới 28 tuổi.


                          AI TƯ VÃN

                          Gió hiu hắt, phòng tiêu lạnh lẽo,
                          Trước thềm lan hoa héo ron ron!
                          Cầu Tiên khói tỏa đỉnh non,
                          Xe rồng thăm thẳm, bóng loan rầu rầu!
                          Nỗi lai lịch dễ hầu than thở,
                          Trách nhân duyên mờ lỡ cớ sao?
                          Sầu sầu, thảm thảm xiết bao,
                          Sầu đầy giạt bể, thảm cao ngất trời!
                          Từ cờ thắm trỏ vời cõi Bắc,
                          Nghĩa tôn phò vằng vặc bóng dương,
                          Rút dây vâng mệnh phụ hoàng,
                          Thuyền lan, chèo quế thuận đường vu qui.
                          Trăm ngàn dặm quản chi non nước,
                          Chữ nghi gia mừng được phải duyên,
                          Sang yêu muôn đội ơn trên,
                          Rỡ ràng vẻ thúy, nối chen tiếng cầm.
                          Lượng che chở, vụng lầm nào kể,
                          Phận đinh ninh cặn kẽ mọi lời,
                          Dầu rằng non nước biến dời,
                          Nguồn tình ắt chẳng chút vơi đâu là.
                          Lòng đùm bọc thương hoa đoái cội,
                          Khắp tôn thân cũng đội ơn sang,
                          Miếu đường còn dấu chưng thường,
                          Tùng thu còn rậm mấy hàng xanh xanh.
                          Nhờ hồng phúc, đôi cành hòe quế,
                          Đượm hơi dương, dây rễ cùng tươi.
                          Non Nam lần chúc tuổi trời,
                          Dâng câu thiên bảo, bày lời Hoa phong.
                          Những ao ước trập trùng tuổi hạc,
                          Nguyền trăm năm ngõ được vầy vui,
                          Nào hay sông cạn, bể vùi,
                          Lòng trời tráo trở, vận người biệt ly!
                          Từ nắng hạ, mưa thu trái tiết,
                          Xót mình rồng mỏi mệt chẳng yên!
                          Xiết bao kinh sợ lo phiền,
                          Miếu thần đã đảo, thuốc tiên lại cầu.
                          Khắp mọi chốn đâu đâu tìm rước.
                          Phương pháp nào đổi được cùng chăng?
                          Ngán thay, máy Tạo bất bằng!
                          Bóng mây thoắt đã ngất chừng xe loan!
                          Cuộc tụ, tán, bi, hoàn kíp bấy!
                          Kể sum vầy đã mấy năm nay?
                          Lênh đênh chút phận bèo mây,
                          Duyên kia đã vậy, thân này nương đâu!
                          Trằn trọc luống đêm thâu, ngày tối,
                          Biết cậy ai dập nỗi bi thương?
                          Trong mong luống những mơ màng,
                          Mơ hồ bằng mộng, bàng hoàng như say.
                          Khi trận gió, hoa bay thấp thoáng,
                          Ngỡ hương trời bảng lảng còn đâu:
                          Vội vàng sửa áo lên chầu,
                          Thương ôi, quạnh quẽ trước lầu nhện chăng!
                          Khi bóng trăng, lá in lấp lánh,
                          Ngỡ tàn vàng nhớ cảnh ngự chơi:
                          Vội vàng dạo bước tới nơi,
                          Thương ơi, vắng vẻ giữa trời tuyết sa!
                          Tưởng phong thể xót xa đòi đoạn,
                          Mặt rồng sao cách dán lâu nay!
                          Có ai chốn ấy về đây,
                          Nguồn cơn xin ngỏ cho hay được lành?
                          Nẻo u minh khéo chia đôi ngả,
                          Nghĩ đòi phen, nồng nã đòi phen!
                          Kiếp này chưa trọn chữ duyên,
                          Ước xin kiếp khác vẹn tuyền lửa hương.
                          Nghe trước có đấng vương Thang, Võ,
                          Công nghiệp nhiều, tuổi thọ thêm cao;
                          Mà nay áo vải, cờ đào,
                          Giúp dân, dựng nước biết bao công trình!
                          Nghe rành rành trước vua Nghiêu, Thuấn,
                          Công đức dày, ngự vận càng lâu;
                          Mà này lượng cả, ơn sâu,
                          Móc mưa rưới khắp chín châu đượm nhuần.
                          Công dường ấy mà nhân dường ấy,
                          Cõi thọ sao hẹp bấy hóa công?
                          Rộng cho chuộc được tuổi rồng,
                          Đổi thân ắt hẳn bõ lòng tôi ngươi.
                          Buồn thay nhẽ! sương rơi, gió lọt,
                          Cảnh đìu hiu, thánh thót châu sa!
                          Tưởng lời di chúc thiết tha,
                          Khóc nào nên tiếng, thức mà cũng mê!
                          Buồn thay nhẽ! xuân về, hoa ở,
                          Mối sầu riêng ai gỡ cho xong!
                          Quyết liều mong vẹn chữ tòng,
                          Trên rường nào ngại, giữa dòng nào e.
                          Còn trứng nước thương vì đôi chút,
                          Chữ tình thâm chưa thoát được đi!
                          Vậy nên nấn ná đòi khi,
                          Hình tuy còn ở, phách thì đã theo;
                          Theo buổi trước ngự đèo Bồng đảo,
                          Theo buổi sau ngự nẻo sông Ngân,
                          Theo xa thôi lại theo gần,
                          Theo phen điện quế, theo lần nguồn hoa.
                          Đương theo, bỗng tiếng gà sực tỉnh,
                          Đau đớn thay, ấy cảnh chiêm bao!
                          Mơ màng thêm nỗi khát khao,
                          Ngọc kinh chốn ấy ngày nào tới nơi!
                          Tưởng thôi lại bồi hồi trong dạ,
                          Nguyện đồng sinh sao đã kíp phai.
                          Xưa sao sớm hỏi, khuya bày,
                          Nặng lòng vàng đá, cạn lời tóc tơ.
                          Giờ sao bỗng thờ ơ lặng lẽ!
                          Tình cô đơn, ai kẻ xét đâu?
                          Xưa sao gang tấc gần chầu,
                          Trước sân phong nguyệt, trên lầu sinh ca,
                          Giờ sao bỗng cách xa đôi cõi,
                          Tin hàn huyên khôn hỏi thăm nhanh!
                          Nửa cung gẫy phím cầm lành,
                          Nỗi con côi cút, nỗi mình bơ vơ!
                          Nghĩ nông nỗi, ngẩn ngơ đòi lúc,
                          Tiếng tử qui thêm giục lòng thương!
                          Não người thay cảnh tiên hương!
                          Dạ thường quanh quất mắt thường ngóng trông.
                          Trông mái đông: lá buồm xuôi ngược,
                          Thấy mênh mông những nước cùng mây!
                          Đông rồi thì lại trông tây:
                          Thấy non ngân ngất, thấy cây rườm rà!
                          Trông nam: thấy nhạn sa lác đác!
                          Trông bắc: thấy ngàn bạc màu sương!
                          Nọ trông trời đất bốn phương,
                          Cõi tiên khơi thẳm biết đường nào đi!
                          Cậy ai có phép gì tới đó,
                          Dâng vật thường, xin ngỏ lòng trung:
                          Này gương là của Hán cung,
                          Ơn trên xưa đã soi chung đòi ngày.
                          Duyên hảo hợp xót rày nên lẻ!
                          Bụng ai hoài vội ghẽ vì đâu?
                          Xin đưa gương ấy về chầu,
                          Ngõ soi cho tỏ gót đầu trông ơn.
                          Tưởng linh sảng nhơn nhơn còn dấu,
                          Nỗi sinh cơ có thấu cho không?
                          Cung xanh đang tuổi ấu sung,
                          Di mưu sao nỡ quên lòng đoái thương?
                          Gót lân chỉ mấy hàng lẩm chẩm,
                          Đầu mũ mao, mình tấm ái gai!
                          U ơ ra trước hương đài,
                          Tường quang cảnh ấy chua cay dường nào!
                          Trong sáu viện ố đào, ủ liễu,
                          Xác ve gầy, lỏng lẻo xiêm nghê!
                          Long đong xa cách hương quê,
                          Mong theo: lầm lối; mong về: tủi duyên!
                          Dưới bệ ngọc, hàng uyên vò võ,
                          Cất chân tay thương khó xiết chi!
                          Hang sâu nghe tiếng thương bi,
                          Kẻ sơ còn thế, huống gì người thân?
                          Cảnh ly biệt nhiều phần bát ngát,
                          Mạch sầu tuôn, ai tát cho vơi!
                          Càng trông càng một xa vời,
                          Tấc lòng thảm thiết, chín trời biết chăng?
                          Buồn trông trăng, trăng mờ thêm tủi:
                          Gương Hằng Nga đã bụi màu trong!
                          Nhìn gương càng thẹn tấm lòng,
                          Thiên duyên lạnh lẽo, đêm đông biên hà.
                          Buồn xem hoa, hoa buồn thêm thẹn:
                          Cánh hải đường đã quyện giọt sương!
                          Trông chim càng dễ đoạn trường:
                          Uyên ương chiếc bóng, phượng hoàng lẻ đôi.
                          Cảnh nào cũng ngùi ngùi cảnh ấy.
                          Tiệc vui mừng còn thấy chi đâu!
                          Phút giây bãi biển nương dâu,
                          Cuộc đời là thế, biết hầu nài sao?
                          Chữ tình nghĩa trời cao, đất rộng,
                          Nỗi đoạn trường còn sống, còn đau!
                          Mấy lời tâm sự trước sau,
                          Đôi vầng nhật nguyệt trên đầu chứng cho.

                          Năm 1792, vua Quang Trung mất, bà còn trẻ đã

                          trở thành một góa phụ. Đây là bài Ai tư vãn, thi
                          phẩm của Ngọc Hân công chúa mà nhiều người
                          như ông Thuần Phong đã nói trong sách Chinh
                          phụ ngâm khúc giảng luận (do Á Châu xuất bản),
                          công nhận là chịu ảnh hưởng bản dịch Chinh phụ

                          ngâm của bà Đoàn Thị Điểm.





                          NGÔ-NGỌC-DU
                              

                          VUA QUANG-TRUNG
                          VÀO THĂNG THĂNG-LONG


                          Giặc đâu tàn bạo sang điên cuồng,
                          Quân vua một trận oai bốn phương.
                          Thần tốc ruổi dài xông thẳng tới,
                          Như trên trời xuống ai dám đương.
                          Một trận rồng lửa giặc tan tành,
                          Bỏ thành cướp đò trốn cho nhanh.
                          Ba quân đội ngũ chỉnh tề tiến,
                          Trăm họ chật đường vui tiếp nghênh.
                          Mây tạnh mù tan trời lại sáng,
                          Đầy thành già trẻ mặt như hoa.
                          Chen vai khoác cánh cùng nhau nói:
                          Kinh đô vẫn thuộc núi sông ta.
                          ~Ngô-Ngọc-Du
                          ~




                          LÊ-TRIỆU                   
                           1771-1846
                          Lệ-Trung, Đại-Trung, Hoàng-Hóa, Thanh-Hóa



                          KIẾN QUANG-TRUNG LINH CỮU

                          Trấp niên sấp sá tẩu phong vân
                          Như thử anh hùng cổ hãn văn
                          Hàm Dã độc Lưu thiên vạn cốt
                          "Khuân Sơn" họa tại bách niên phần
                          Không hàm chỉ chỉ thiên thu hận
                          Cô phụ đường đường bát xích thân
                          Quang cảnh nhất ban thành phấn mị
                          Linh nhân chung cổ tiểu Doanh Tần!

                          ~Lê-Triệu~

                          Dịch nghĩa:

                          Nhìn thấy linh cữu vua Quang-Trung

                          Hai mươi năm tiếng thét át cả gió mây
                          Chỉ chừng ấy cũng đủ thấy là bậc anh hùng hiếm có!
                          Trên chiến trường Hàm Đan hận vùi muôn vạn xác thù
                          Núi Khuân không ngờ lại để mối họa liên lụy đến phần mộ nơi yên giấc ngàn năm
                          Bỗng phải chịu sự chỉ trích của mối hận muôn đời
                          Nỡ phụ đến tấm thân tám thước của bậc anh hùng
                          Quang cảnh nói chung tất cả đã trở thành cát bụi
                          Khiến cho người đời muôn thuở cười Tần Doanh bạo chúa
                          ~Hồng Phi~

                          Dịch thơ:

                          Nhìn thấy linh cữu Quang-Trung

                          Bao năm thét át phong vân
                          Bấy nhiêu đủ thấy minh quân, anh hùng
                          Hàm Đan vùi xác quân thù
                          Núi Khuân…
                          liên lụy mộ phần…
                          trăm năm…
                          Ngàn thu ngậm mãi hờn căm
                          Tấm thân tám thước…
                          nỡ đem dập vùi
                          Giờ đây cát bụi…
                          ngậm ngùi…
                          Doanh Tần bạo chúa, muôn đời cười chê.

                          ~Hồng-Phi~
                          <bài viết được chỉnh sửa lúc 09.06.2012 18:35:14 bởi Anh Nguyên >
                          #58
                            Anh Nguyên 25.06.2012 08:44:35 (permalink)
                             
                             
                            HỒ-XUÂN-HƯƠNG
                                       1772-1822
                            Người làng Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu,
                            Nghệ An. Sinh cuối nhà Lê, đầu nhà
                            Nguyễn. Nhà thơ Nôm nổi tếng, phong
                            cách thơ vừa thanh vừa tục.

                            THU VŨ
                            Thiên cách vân âm thảm bất inh
                            Tiêu tiêu thu vũ lạc nhàn đình
                            Đoản trường khô thụ chi đầu lệ
                            Thư cấp hoàng tiêu diệp thượng thanh.
                            Ngâm đoạn đê mê thiên lý mộng
                            Sầu khiên liêu tịch ngũ canh tình
                            Thâm khuê tối khổ như hoa diện
                            Nhất phiến sầu dung họa bất thành.
                            ~Hồ-Xuân-Hương~

                            Dịch:

                            MƯA THU
                            Trời cao mây phủ mịt mờ
                            Ngoài sân tí tách mưa thu gợi sầu
                            Cành khô dài vắn hạt châu
                            Tiêu vàng trên lá thưa mau tiếng buồn
                            Ngâm câu mơ vạn dặm đường
                            Sầu giăng tiếp nối còn vương canh dài
                            Nỗi lòng khuê phụ nào hay
                            Mặt hoa ủ dột biết ai vẽ thành.
                            ~Trần-Nhất-Lang~

                            CẢNH THU
                            Thánh thót tầu tiêu mấy hạt mưa,
                            Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ.
                            Xanh om cổ thụ tròn xoe tán,
                            Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ.
                            Bầu dốc giang Sơn say chắp rượu,
                            Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ.
                            Ơ hay, cảnh cũng ưa người nhỉ,
                            Ai thấy, ai mà chẳng ngẩn ngơ.
                            ~Hồ-Xuân-Hương~

                            DỆT CỬI
                            Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phau;
                            Con cò mấp máy suốt đêm thâu.
                            Hai chân đạp xuống năng năng nhắc,
                            Một suốt đâm ngang thích thích mau.
                            Rộng, hẹp, nhỏ, to vừa vặn cả,
                            Ngắn, dài, khuôn khổ vẫn như nhau.
                            Cô nào muốn tốt ngâm cho kỹ,
                            Chờ đến ba thu mới dãi mầu.
                            ~Hồ-Xuân-Hương~

                            CÁI QUẠT GIẤY
                            Một lỗ sâu sâu mấy cũng vừa,
                            Duyên em dính dáng tự ngàn xưa.
                            Vành ra ba góc da còn thiếu,
                            Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa.
                            Mát mặt anh hùng khi tắt gió,
                            Che đầu quân tử lúc sa mưa.
                            Nâng niu ướm hỏi người trong trướng,
                            Phì phạch trong lòng đã sướng chưa?
                            ~Hồ-Xuân-Hương~

                            QUÁN NƯỚC BÊN ĐƯỜNG
                            Đứng tréo trông theo cảnh hắt heo,
                            Đường đi thiên thẹo, quán cheo leo.
                            Lợp lều, mái cỏ tranh xơ xác,
                            Xỏ kẽ, kèo tre đốt khẳng kheo.
                            Ba trạc cây xanh hình uốn éo,
                            Một dòng nước biếc, cỏ leo teo.
                            Thú vui quên cả niềm lo cũ,
                            Kìa cái diều ai thả lộn lèo.
                            ~Hồ-Xuân-Hương~

                            ĐÁNH CỜ
                            Chàng với thiếp đêm khuya trằn trọc,
                            Đét đồn lên đánh cuộc cờ người.
                            Hẹn rằng đấu trí mà chơi,
                            Cấm ngoại thuỷ không ai được biết.
                            Nào tướng sĩ dàn ra cho hết,
                            Để đôi ta quyết liệt một phen.
                            Quân thiếp trắng, quân chàng đen,
                            Hai quân ấy chơi nhau đà đã l»a.
                            Thọat mới vào chàng liền nhảy ngựa,
                            Thiếp vội vàng vén phứa tịnh lên.
                            Hai xe hà, chàng gác hai bên,
                            Thiếp thấy bí, thiếp liền ghểnh sĩ.
                            Chàng lừa thiếp đương khi bất š,
                            Đem tốt đầu dú dí vô cung,
                            Thiếp đang mắc nước xe lồng,
                            Nước pháo đã nổ đùng ra chiếu.
                            Chàng bảo chịu, thiếp rằng chẳng chịu
                            Thua thì thua quyết níu lấy con.
                            Khi vui nước nước non non,
                            Khi buồn lại giở bàn son quân ngà.
                            ~Hồ-Xuân-Hương~

                            ĐÁNH ĐU
                            Tám cột khen ai khéo khéo trồng,
                            Người thì lên đánh, kẻ ngồi trông.
                            Trai đu gối hạc khom khom cật,
                            Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng.
                            Bốn mảnh quần hồng bay phất phới.
                            Hai hàng chân ngọc duỗi song song.
                            Chơi xuân ai biết xuân chăng tá!
                            Cột nhổ đi rồi, lỗ bỏ không.
                            ~Hồ-Xuân-Hương~

                            ĐÈO BA DỌI
                            Một đèo, một đèo, lại một đèo,
                            Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo.
                            Cửa son đỏ loét tùm hum nóc,
                            Hòn đá xanh rì lún phún rêu.
                            Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc,
                            Đầm đià lá liễu giọt sương gieo.
                            Hiền nhân, quân tử ai là chẳng ...
                            Mỏi gối, chồn chân vẫn muốn trèo.
                            ~Hồ-Xuân-Hương~

                            HANG CẮC-CỚ
                            Trời đất sinh ra đá một chòm,
                            Nứt làm hai mảnh hỏm hòm hom.
                            Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn,
                            Luồng gió thông reo vỗ phập phòm.
                            Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm,
                            Con đường vô ngạn tối om om.
                            Khen ai đẽo đá, tài xuyên tạc,
                            Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm.
                            ~Hồ-Xuân-Hương~
                             
                             
                            NGÔ THỜI VỊ

                                   1774-1821
                            ện Thanh-Oai, tỉnh Hà Đông, con Ngô Thời Sĩ. Mồ côi cha năm 6 tuổi, được anh là Ngô Thời Nhậm nuôi dưỡng, đỗ đầu 4 kỳ thi, được Nguyễn Du gọi là Ngô Tứ Nguyên, là một trong An Nam Ngũ Tuyệt. (Nguyễn Du, Nguyễn Huy Tự, Phan Huy Ích, Nguyễn Hành) Được vua Gia Long biết tài trọng dụng ngang với Nguyễn Du. Ông là tác giả chính của Hoàng Lê Nhất Thống Chí và để lại hàng trăm bài thơ với nhiều thể tài khác nhau. Được cử làm phó sứ sang nhà Thanh năm 35 tuổi (1809), chánh sứ năm 1820, trên đường về, mất tại Quảng Tây, hưởng dương 47 tuổi.
                             ĐỀ HOÀNG HẠC LÂUHán thủy thành biên vân thụ thu,Tiên nhân bất kiến chỉ không lâu.Hà thời thiên tế lai hoàng hạc,Đề ý giang trung phó bạch âu.
                            Thôi quân bất hợp tác hương sầu.
                            Đấu đảm đề thi ký thử du.
                            ~Ngô-Th 
                             
                            Sông Hán, thành thu mơ lá, mây,
                            Hạc vàng biết có bao giờ lại,
                            Lý Bá cớ chi dừng bút lại,
                              Quân sao lại nhớ quê ngay.
                            Chẳng sợ làm thơ viếng cảnh này.
                            ~Nh LIỄU THĂNG THẠCHĐề sự hà tu biện hữu vô,
                            Thạch ngàn ẩn ước sương đao lạc,
                            Lưu thủy tuyền như Minh Liễu bại,
                            Đinh luân nhật vãn khan di tích,
                            ~Ngô-Thời-Vị~
                            Dịch:
                            HÒN  ĐÁ  LIỄU  THĂNG Chiến công Lê chúa diệt quân Ngô.
                            Mờ nhạt rêu phong  máu giáp khô.
                            Người vàng đòi mãi nhục Minh ngu.
                            Còn thấy năm nao mở trận đồ.
                            ~Nhất-Uyên~
                            QUÁ HÀ NỘI HUYỆN
                            Trở thủy Hoàng Hà độ,
                            Nhân kinh Hà Nội huyện,
                            Đinh Lan dữ Quách Cự,
                            Nhất vị mẫu mai tử,
                            Nhị nhân tịnh xứng hiếu,
                            Phù Lan vô dung nghị,
                            Ngũ luân bản phi nhất.
                            Lưỡng toàn túng vô kế,
                            Cự hiếu hà kỳ dốc,
                            Cự tâm hà kỳ nhẫn!
                            Hoàng kim cẩu bất hoạch.
                            Tích đồng ngu dữ bạo,
                            Quan chư Đặng Bá Đạo.
                            Xử biến quá kỳ chính,
                            Nhân nhân hiếu tử tân.
                            Vận hồ Thập Nhị Tứ.
                            Nghi hồ Chu Phu Tử,
                            Tiểu Học xứng hiếu dã,
                            Xuân Thu trách hiền giả.
                            Sự thân chí như thử.
                            Nhược thủ kỳ nhất tiết,
                            Giai khả khởi ngoan bạc,
                            Ngữ thương tuy bất túc,
                            Ngã lai quá danh địa,
                            Đình tham vọng hiếu lý,
                            Khô bồng lộ bất tiễn,
                            Thứ tức tư kỳ hiền,
                            Cố ngã khởi năng hiếu,
                            Điếu hoài minh phát chương,
                            ~Ngô-Thời-Vị~
                            Dịch:
                            QUA HUYỆN HÀ NỘI (Tung Quốc) THĂM
                            Lụt lớn qua Hoàng Hà,
                            Nhân qua huyện Hà Nội,
                            Đinh Lan và Quách Cự,
                            Người chôn con nuôi mẹ,
                            « Hai người tiếng con hiếu,
                            Đinh Lan chẳng bàn qua,
                            Ngũ luân nào phải một,
                            Hai đường chẳng bảo toàn,
                            Cự chỉ biết có hiếu,
                            Sao Cự lòng tàn nhẫn,
                            Nếu vàng không bắt được,
                            Thật ngu và tàn bạo,
                            Xem chuyện Đặng Bá Đạo,
                            Việc khác lỗi như nhau.
                            Không phải điều thánh nhân.
                            Suy nghĩ xót thương lòng.
                            Thuấn, Mẫn sao ngang hàng?
                            Thâm ý có gì khuyên?
                            Quách Cự chẳng có tên.
                            Đức xứng mới vẹn toàn.
                            Mọi người có thể theo.
                            Cự, Lan khác gì nhau!
                            Cảm thông cả quỷ thần.
                            Đời sau khó ví bằng .
                            Ngựa về nước qua đây,
                            Lô nhô mộ phần ai?
                            Thôn vắng chiều mây bay.
                            Muốn hỏi chẳng gặp ai.
                            Dám nghị luận bốc đồng.
                            Lệ sa ướt cả khăn.
                            ~Nhất-Uyên~
                             
                            Phủng vi băng ngọc, tiễn vi nê,
                              nhân bộ bất tề.
                            Cô tùng tuyệt điến nhiệm quân thê.
                            ~Ngô-Th 
                             
                            Nâng lên tuyết trắng, xéo bùn đen,
                            Tiết sạch lẽ nào sa xuống thấp,
                            ~Nhất-Uyên~
                            TS Khoa Học Giáo Dục viện
                             


                            PHẠM-THÁI
                                     1777-1813

                            Tức Phạm-Đan-Phượng, quê Yên-Thị, Yên-Thường
                            Đông-Ngàn, Kinh-Bắc (Gia-Lâm, Hà-Nội), ông và bạn
                            chống lại Tây-Sơn, thất bại, bị truy nã, trá hình tu chùa
                            Tiêu-Sơn, lại được Trưong-Đăng-Thụ đưa lên Lạng-Sơn
                            mưu phù Lê, về thăm quê thì bạn mất, liền đến quê bạn
                            điếu tang, cùng em gái bạn Trương-Quỳnh-Như xướng
                            hoạ thơ văn và thương yêu nhau,, hôn nhân không thành,
                            Quỳnh-Như quyên sinh, ông sống cuộc đời lang bạt, bi
                            quan yếm thế, đắm mình trong men rượu, mất năm 36 tuổi.

                            Sống ở dương gian đánh chén nhè,
                            Thác về âm phủ cắp lè kè.
                            Diêm vương phán hỏi mang gì đó?
                            Be!

                            hoặc:

                            Năm bảy năm nay những loạn li,
                            Cũng thì duyên phận cũng thì thì.
                            Ba mươi tuổi lẻ là bao nả,
                            Năm sáu đời vua khéo chóng ghê!
                            Một tập thơ dày ngâm sang sảng,
                            Vài nai rượu kếch ních tì tì.
                            Chết về tiên bụt cho xong kiếp,
                            Đù ỏa trần gian sống mãi chi?
                            ~Phạm-Thái~

                            <bài viết được chỉnh sửa lúc 29.11.2013 20:22:34 bởi Anh Nguyên >
                            #59
                              Anh Nguyên 06.07.2012 12:36:24 (permalink)


                              NGUYỄN-CÔNG-TRỨ
                                                  1778-1858
                              Quê Uy-Viễn, Xuân-Giang, Nghi-Xuân, Hà-Tĩnh,
                              đậ Tú-Tài, Tri-Huyện Đường-Hào, Lang Trung Bộ
                              Lại, Hữu Tham Tri Bộ Hình, Dinh Điền Sứ Nam-Định,
                              Ninh-Bình, Tuần Phủ An-Giang. Tính khảng khái,
                              hào hùng, phong nhã nên văn ông rất phóng khoáng.

                              KẺ SĨ
                              Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt,
                              Dân hữu tứ sĩ vi chi tiên.
                              Có giang sơn thì sĩ đã có tên,
                              Từ Chu Hán, vốn sĩ này là quí.

                              Miền hương đảng đã khen rằng hiếu nghị,
                              Đạo lập thân phải giữ lấy cương thường.
                              Khí hạo nhiên chí đại, chí cương,
                              So chính khí đã đầy trong trời đất.

                              Lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng tất,
                              Hiêu hiêu nhiên điếu Vị, canh Sằn.
                              Xe bồ luân dầu chưa gặp Thang, Văn,
                              Phù thế giáo một vài câu thanh nghị.

                              Cầm chính đạo để tịch tà, cự bí,
                              Hồi cuồng lan nhi chướng bách xuyên.
                              Rồng mây khi gặp hội ưa duyên
                              Đem quách cả sở tồn làm sở dụng.

                              Trong lang miếu, ra tài lương đống,
                              Ngoài biên thùy rạch mũi can tương.
                              Làm sao cho bách thế lưu phương,
                              Trước là sĩ sau là khanh tướng.

                              Kinh luân khởi tâm thượng,
                              Binh giáp tàng hung trung.
                              Vũ trụ chi gian giai phận sự,
                              Nam nhi đáo thử thị hào hùng.

                              Nhà nước yên mà sĩ được thung dung,
                              Bấy giờ sĩ mới tìm ông Hoàng Thạch.

                              Năm ba chú tiểu đồng lếch thếch,
                              Tiêu dao nơi hàn cốc, thanh sơn,
                              Nào thơ, nào rượu, nào địch, nào đờn,
                              Đồ thích chí chất đầy trong một túi.
                              Mặc ai hỏi, mặc ai không hỏi tới,
                              Gẩm việc đời mà ngắm kẻ trọc thanh,
                              Này này sĩ mới hoàn danh.

                              CHÍ LÀM TRAI
                              Vòm trời đất dọc ngang, ngang dọc,
                              Nợ tang bồng vay trả trả vay.
                              Chí làm trai Nam, Bắc, Đông, Tây,
                              Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể.
                              Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
                              Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.
                              Đã cắc rằng ai nhục ai vinh,
                              Mấy kẻ biết anh hùng khi vị ngộ.
                              Cũng có lúc mưa dồn sóng vỗ,
                              Quyết ra tay buồm lái với cuồng phong.
                              Chí những toan xẻ núi lấp sông,
                              Làm nên đấng anh hùng đâu đãy tỏ.
                              Đường mây rộng thênh thênh cử bộ,
                              Nợ tang bồng trang trắng, vỗ tay reo.
                              Thảnh thơi thơ túi rượu bầu.
                              ~Nguyễn Công Trứ~

                              GÁNH GẠO ĐƯA CHỒNG
                              Mưỡu:
                              Con cò lặn lội bờ sông,
                              Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.
                              Nói:
                              Lộ diệc vũ trùng trung chi nhất,
                              Thương cái cò lặn lội bờ sông.
                              Tiếng nỉ non gánh gạo đưa chồng,
                              Ngoài nghìn dặm một trời, một nước.
                              Trông bóng nhạn bâng khuâng từng bước,
                              Nghe tiếng quyên, khắc khoải năm canh.
                              Nghĩa tép tôm ai nỡ dứt tình,
                              Ơn thủy thổ phải đền cho vẹn sóng,
                              Trường tên đạn xin chàng bảo trọng,
                              Thiếp lui về nuôi cái cùng con.
                              Cao Bằng cách trở nước non,
                              Mình trong trắng có quỉ thần gia hộ.
                              Sức bay nhẩy một phen năng nổ,
                              Đá Yên Nhiên còn đó chẳng mòn.
                              Đồng hưu rạng chép thẻ son,
                              Chàng nên danh giá, thiếp còn trẻ trung.
                              Yêu nhau khăng khít giải đồng.
                              ~Nguyễn-Công-Trứ~

                              NGẤT NGƯỞNG
                              Vũ trụ nội mạc phi phận sự,
                              Ông Hi Văn tài bộ đã vào lòng,
                              Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
                              Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
                              Lúc Bình tây cầm cờ đại tướng,
                              Có khi về Phủ doãn Thừa thiên.
                              Đô môn giải tổ chi niên,
                              Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
                              Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
                              Tay kiếm cung mà nên dáng từ bi.
                              Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi khi,
                              Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
                              Được mất dương dương người thái thượng,
                              Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
                              Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,
                              Không Phật, không Tiên, không vướng tục.
                              Chẳng Hàn Nhạc, cũng phường Mai Phúc,
                              Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.
                              Đời ai ngất ngưởng như ông!
                              ~Nguyễn-Công-Trứ~

                              CÂY THÔNG
                              Ngồi buồn mà trách ông xanh,
                              Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười.
                              Kiếp sau xin chớ làm người,
                              Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.
                              Giữa trời vách đá cheo leo,
                              Ai mà chịu rét thì trèo với thông.
                              ~Nguyễn-Công-Trứ~

                              CHỮ TÌNH
                              Mưỡu:
                              Chữ tình là chữ chi chi,
                              Dẫu chi cũng chi chi với tình.
                              Sầu ai lấp cả vòm trời,
                              Biết chăng chẳng biết hỡi người tình chung?

                              Nói:
                              Đa tình là dở,
                              Đã mắc vào đố gỡ cho ra!

                              Khéo quấy người một cái tinh ma,
                              Trói buộc kẻ hào hoa biết mấy!
                              Đã gọi người nằm thiên cổ dậy,
                              Lại đưa hồn lúc ngũ canh đi.

                              Nực cười thay lúc phân kỳ,
                              Trông chẳng nói, xiết bao nhiêu biệt lệ.
                              Tình huống ấy dẫu bút thần khôn vẽ,
                              Càng tài tình càng ngốc càng si!

                              Cái tình là cái chi chi?!
                              ~Nguyễn-Công-Trứ

                              CHỮ NHÀN
                              Thị tại môn tiền náo,
                              Nguyệt lai môn hạ nhàn.
                              So lao tâm lao lực cũng một đoàn,
                              Người trần thế muốn nhàn sao được?

                              Nên phải giữ lấy nhàn làm trước,
                              Dẫu trời cho có tiếc cũng xin nài.
                              Cuộc nhân sinh chừng bảy tám chín mười mươi,
                              Mười lăm trẻ, năm mươi già không kể.

                              Thoạt sinh ra thì đà khóc chóe,
                              Trần có vui sao chẳng cười khì.
                              Khi hỷ lạc, khi ái ố, khi sầu bi,
                              Chứa chi lắm một bầu nhân dục.

                              Tri túc tiện túc, đãi túc hà thời túc,
                              Tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn hà thời nhàn?
                              Cầm ký thi tửu với giang sơn,
                              Dễ mấy kẻ xuất trần xuất thế.

                              Ngã kim nhật tại tọa chi địa,
                              Cổ chi nhân tằng tiên ngã tọa chi.
                              Ngàn muôn năm âu cũng thế ni,
                              Ai hay hát mà ai hay nghe hát?

                              Sông Xích Bích buông thuyền năm Nhâm tuất,
                              Để ông Tô riêng một thú thanh cao.
                              Cữ nhàn là chử làm sao?!
                              ~Nguyễn-Công-Trứ~

                              TƯƠNG TƯ
                              Tương tư không biết cái làm sao,
                              Muốn vẽ mà chơi vẽ được nào?
                              Lúc đứng, khi ngồi, khi nói chuyện,
                              Lúc say, lúc tỉnh, lúc chiêm bao.
                              Trăng soi trước mặt ngờ chân bước,
                              Gió thổi bên tai ngỡ miệng chào.
                              Một nước một non người một ngả,
                              Tương tư không biết cái làm sao?
                              ~Nguyễn-Công-Trứ~

                              HÀN NHO PONG VỊ PHÚ
                              Chém cha cái khó!
                              Chém cha cái khó!
                              Khôn khéo mấy ai?
                              Xấu xa một nó!
                              Lục cực bày hàng sáu, rành rành kinh huấn chẳng sai,
                              Vạn tội lấy làm đầu, ấy ấy ngạn ngôn hẳn có.

                              Kìa ai:
                              Bốn vách tường mo,
                              Ba gian nhà cỏ .
                              Đầu kèo mọt đục vẽ sao,
                              Trước cửa nhện giăng màn gió .
                              Phên trúc ngăn nửa bếp nửa buồng,
                              Ống nứa đựng đầu kê đầu đỗ.
                              Đầu giường tre, mối dũi quanh co,
                              Góc tường đất, giun đùn lố nhố.
                              Bóng nắng dọi trứng gà bên vách, thằng bé tri trô,
                              Hạt mưa soi hang chuột trong nhà , con mèo ngấp ngó .
                              Trong cũi, lợn nằm gặm máng, đói chẳng muốn kêu,
                              Đầu giàn, chuột cậy khua niêu, buồn thôi lại bỏ.
                              Ngày ba bữa, vỗ bụng rau bịch bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no,
                              Đêm năm canh, an giấc ngáy kho kho, đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ.
                              Ấm trà góp lá bàng lá vối, pha mùi chát chát chua chua,
                              Miếng trầu têm vỏ mận vỏ dà, buồn miệng nhai nhai nhổ nhổ.
                              Áo vải thô nặng trịch, lạnh làm mền, nực làm gối, bốn mùa thay đổi bấy nhiêu,
                              Khăn lau giắt đỏ lòm, giải làm chiếu, vận làm quần, một bộ ăn chơi quá thú.
                              Đỡ mồ hôi, võng lác, quạt mo,
                              Chống hơi đất, dép da, guốc gỗ.
                              Miếng ăn sẵn cà non mướp luộc, ngon khéo là ngon,
                              Đồ chơi nhiều quạt sậy điếu tre, của đâu những của.
                              Đồ chuyên trà , ấm đất sứt vòi ,
                              Cuộc uống rượu , be sành chắp cổ .
                              Đồ cổ khí bức tranh treo trên vách, khói bay lem luốc, mầu thủy mạc lờ mờ,
                              Của tiểu đồng pho sách gác đầu giàn, gián nhấm lăm nhăm, dấu thổ châu đo đỏ.
                              Cỗ bài lá, ba đời cửa tướng, hàng văn sách mập mờ,
                              Bàn cờ săng, bảy kiếp nhà ma, chữ nhật chữ điền xiêu xó.
                              Lộc nhĩ điền lúa chất đầy rương,
                              Phương tịch cốc khoai vừa một rỏ.
                              Tiêu dụng lấy chi mà phao phóng, thường giữ ba cọc ba đồng,
                              Mùa màng dành để có bao nhiêu, chừng độ một chiêng một bó,
                              Mỏng lưng xem cũng không giầu,
                              Nhiều miệng lấy chi cho đủ .
                              Đến bữa chưa sẵn bữa, con trẻ khóc dường ong,
                              Qúa kỳ lại hẹn kỳ, nhà nợ kêu như ó .
                              Thuốc men rắp bòn chài gỡ bữa, song nghĩ câu ý dã, thế nào cho đáng giá lương y,
                              Thầy bà mong dối trá kiếm ăn, lại nghĩ chữ dũng như, phép chi được nổi danh pháp chủ.
                              Quẻ dã hạc toan nhờ lộc thánh, trút muối đổ biển, ta chẳng bõ bèn,
                              Huyệt chân long toan bán đất trời, ngôi mả táng cha, tìm còn chửa chỗ.
                              Buôn bán rắp theo nghề đỏ, song lạ mặt, chúng hòng rước gánh,mập mờ nên hàng chẳng có lời,
                              Bạc cờ toan gỡ con đen, chưa sẵn lưng, làng lại dành nơi, hỏi gạn mãi giạm không ra thổ.
                              Gâp khúc lươn, nên ít kẻ yêu vì,
                              Gương mắt ếch, biết vào đâu mượn mõ.
                              Đến lúc niên chung nguyệt qúy, lấy chi tiêu đồng nợ đồng công?
                              Gặp khi đường xẩy chân cùng, nên phải tới cửa này cửa nọ.
                              Thân thỉ to to nhỏ nhỏ, ta đã mỏi cẳng ngồi trì,
                              Dần dà nọ nọ kia kia, nó những vuốt râu làm bộ.
                              Thầy tớ sợ men tìm đến cửa, ngảnh mặt cúi đầu,
                              Chị em e vất lấm vào lưng, chìa môi nhọn mỏ.
                              Láng giềng ít kẻ tới nhà,
                              Thân thích chẳng ai nhìn họ.
                              Mất việc toan dở nghề cơ tắc, tủi con nhà mà hổ mặt anh em,
                              Túng đường mong quyết chí cùng tư, e phép nước chưa nên gan sừng sỏ.
                              Cùng con cháu thuở nói năng chuyện cũ, dường ngâm câu lạc đạo vong bần,
                              Gặp anh em khi bàn bạc sự đời, lại đọc chữ vi nhân bất phú.
                              Tất do thiên, âu phận ấy là thường,
                              Hữu kỳ đức, ắt trời kia chẳng phụ.
                              Tiếc tài cả phải phạn ngưu bản trúc, dấu xưa ông Phó ông Hề,
                              Cần nghiệp kho khi tạc bích tụ huỳnh, thuở trước chàng Khuông chàng Vũ.
                              Nơi thành hạ đeo cần câu cá, kìa kìa người quốc sĩ Hoài âm,
                              Chốn lý trung xách thớt chia phần, nọ nọ đấng mưu thần Dương võ.
                              Khó ai bằng Mãi Thần Mông Chính, cũng có khi ngựa cưỡi dù che,
                              Giàu ai bằng Vương Khải Thạch Sùng, cũng có hội tường xiêu ngói đổ.

                              Mới biết:
                              Khó bởi tại trời,
                              Giàu là cái số.
                              Dầu ai ruộng sâu trâu nái, đụn lúa kho tiền,
                              Cũng bất quá thủ tài chi lỗ.
                              ~Nguyễn-Công-Trú~

                              Trích Văn Đàn Bảo Giám
                              Trần Trung Viên sưu tập 1926
                              Hư Chu hiệu chính 1968
                              Xuân Thu in lại ở California


                              LÝ-VĂN-PHÚC
                                    1785-1849
                              Tự Lân Chi, hiệu Khắc Trai, sinh 1785
                              tại Hồ khẩu, Vĩnh Thuận, Hà Nội,. Đỗ
                              cử nhân 1819. Làm quan ba triều Minh
                              Mạng, Thiệu Trị và Tự Ðức. Được cử đi
                              công cán nhiều nước ở Viễn đông.

                              Hai mươi bốn truyện hiếu diễn ra quốc âm:

                              Người tai mắt đứng trong trời đất,
                              Ai là không cha mẹ sinh thành,
                              Gương treo đất nghĩa, trời kinh,
                              ở sao cho xứng chút tình làm con.
                              Chữ hiếu niệm cho tròn một tiết,
                              Thì suy ra trăm nết đều nên,
                              Chẳng xem thuở trước Thánh Hiền,
                              Thảo hai mươi bốn, thơm nghìn muôn thu .

                              NHỊ THẬP TỨ HIẾU:

                              1.- Ngu Thuấn
                              Ðức đại thánh họ Ngu, vua Thuấn,
                              Buổi tiềm long gặp vận hàn vi,
                              Tuổi xanh khuất bóng từ vi,
                              Cha là Cổ Tẩu người thì ương ương
                              Mẹ ghẻ tính lại càng khe khắt,
                              Em Tượng thêm rất mực điêu ngoa .
                              Một mình thuận cả, vừa ba
                              Trên chiều cha mẹ, dưới hòa cùng em.
                              Trăm cay đắng, một niềm ngon ngọt,
                              Dẫu tử sinh không chút biến dời,
                              Xót tình khóc tối, kêu mai,
                              Xui lòng ghen ghét hóa vui dần dần.
                              Trời cao thẳm mấy lần cũng đến,
                              Vật vô tri cũng mến lọ người,
                              Mấy phen non lịch pha phôi,
                              Cỏ, chim vì nhặt, ruộng, voi vì cày .
                              Tiếng hiếu hữu xa bay bệ thánh,
                              Mệnh trung dung trao chánh nhường ngôi
                              Cầm thi, xiêm áo thảnh thơi,
                              Một nhà đầm ấm, muôn đời ngợi khen.

                              ……………….

                              ~Lý-Văn-Phức~
                              <bài viết được chỉnh sửa lúc 29.11.2013 20:34:02 bởi Anh Nguyên >
                              #60
                                Thay đổi trang: << < 45 > | Trang 4 của 5 trang, bài viết từ 46 đến 60 trên tổng số 65 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 3 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9