Dòng thơ cổ
13/- Thúc Sinh duyên kết nàng Kiều
Cùng nhau căn dặn đến điều
Chỉ non, thề bể, nặng gieo đến lời
Nỉ non đêm ngắn tình dài
Ngoài hiên thỏ đã non đoài ngậm gương
Mượn điều trúc viện thừa lương
Rước về hãy tạm giấu nàng một nơi
Chiến, hòa, sắp sẵn hai bài
Cậy người thầy thợ, mượn người dò la
Bán tin đến mụ Tú Bà
Thua cơ, mụ cũng cầu hòa, dám sao
Rõ ràng của dẫn tay trao
Hoàn lương một thiếp, thân vào cửa công
Công tư đôi lẽ đều xong
Gót tiên phút đã thoát vòng trần ai
Một nhà sum hợp trúc mai
Càng sâu nghĩa bể, càng dài tình sông
Hương càng đượm, lửa càng nồng
Càng xôi vẻ ngọc, càng lồng màu sen
Nửa năm hơi tiếng vừa quen
Sân ngô cành biếc đã chen lá vàng
Giậu thu vừa nảy giò sương
Gối yên đã thấy xuân đường đến nơi
Phong lôi nổi trận bời bời
Nặng lời e ấp, tính bài phân chia
Quyết ngay biện bạch một bề
Dạy cho má phấn lại về lầu xanh
Thấy lời nghiêm huấn rành rành
Đánh liều Sinh mới lấy tình nài kêu
Rằng: Con biết tội đã nhiều
Dẫu rằng sấm sét búa rìu cũng cam
Trót vì tay đã nhúng chàm
Dại rồi còn biết khôn làm sao đây!
Cùng nhau vả tiếng một ngày
Ôm cầm ai nỡ đứt dây cho đành?
Lượng trên quyết chẳng thương tình
Bạc đen thôi có tiếc mình làm chi!
Thấy lời sắt đá tri tri
Sốt gan, ông mới cáo quì cửa công
Đất bằng nổi sóng đùng đùng
Phủ dường sai lá phiếu hồng thôi tra
Cùng nhau theo gót sai nha
Song song vào trước sân hoa lạy quì
Trông lên mặt sắt đen sì
Lập nghiêm trước đã, ra uy nặng lời
Gã kia dại nết chơi bời
Mà con người thế là người đong đưa
Tuồng gì hoa thải, hương thừa
Mượn màu son phấn đánh lừa con đen!
Suy trong tình trạng bên nguyên
Bề nào thì cũng chưa yên bề nào
Phép công chiếu án luận vào
Có hai đường ấy, tính sao mặc mình
Một là cứ phép gia hình
Một là lại cứ lầu xanh phó về!
Nàng rằng: Đã quyết một bề
Nhện này vương lấy tơ kia mấy lần!
Đục trong thân cũng là thân
Yếu thơ, vâng chịu trước sân lôi đình
Dạy rằng: Cứ phép gia hình!
Ba cây chập lại một cành mẫu đơn
Phận đành chi dám kêu oan
Đào hoen quyên má, liễu tan tác mày
Một sân lầm cát đã đầy
Gương lờ nước thủy, mai gầy vóc sương
Nghĩ tình chàng Thúc mà thương
Nẻo xa trông thấy lòng càng xót xa
Khóc rằng: Oan khốc vì ta!
Có nghe lời trước, chớ đà lụy sau
Cạn lòng chẳng biết nghĩ sâu
Để ai trăng tủi, hoa sầu vì ai?
Phủ đường nghe thoảng vào tai
Động lòng lại gạn đến lời riêng tây
Sụt sùi chàng mới thưa ngay
Đầu đuôi kể lại sự ngày cầu thân:
Nàng đà tính trước xa gần
Từ xưa nàng đã biết thân có rày!
Tại tôi hứng lấy một tay
Để nàng cho đến nỗi này vì tôi!
Nghe lời nói cũng thương lời
Dẹp uy mới dạy mở bài giải vi
Rằng: Như hẳn có thế thì
Trăng hoa, song cũng thị phi biết điều!
Sinh rằng: Chút phận bọt bèo
Theo đòi vả cũng ít nhiều bút nghiên.
Cười rằng: Đã thế thì nên!
Mộc già hãy thử một thiên trình nghề.
Nàng vâng cất bút tay đề
Tiên hoa trình trước án phê xem tường
Khen rằng: Giá lợp Thịnh Đường
Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân!
Thật là tài tử giai nhân
Châu Trần còn có Châu Trần nào hơn?
Thôi đừng rước dữ cưu hờn
Làm chi lỡ nhịp cho đờn ngang cung?
Đã đưa đến trước cửa công
Ngoài thì là lý, song trong là tình
Dâu con trong đạo gia đình
Thôi thì dẹp nỗi bất bình là xong!
Kíp truyền sắm sửa lễ công
Kiệu hoa cất gió, đuốc hồng điểm sao.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.02.2012 11:29:10 bởi Anh Nguyên >
14/Hoạn Thư ngấm ngầm mưu kế
đầy đoạ Thuý Kiều
Bày hàng cổ xúy xôn xao
Song song đưa tới trướng đào sánh đôi
Thương vì hạnh, trọng vì tài
Thúc ông thôi cũng dẹp lời phong ba
Huệ lan sực nức một nhà
Từng cay đắng lại mặn mà hơn xưa
Mảng vui rượu sớm cờ trưa
Đào đà phai thắm, sen vừa nảy xanh
Trướng hồ vắng vẻ đêm thanh
E tình, nàng mới bày tình riêng chung:
Phận bồ từ vẹn chữ tòng
Đổi thay nhạn yến đã hòng đầy niên
Tin nhà ngày một vắng tin
Mặn tình cát lũy, lạt tình tao khang
Nghĩ ra thật cũng nên đường
Tăm hơi, ai kẻ giữ giàng cho ta?
Trộm nghe kẻ lớn trong nhà
Ở vào khuôn phép, nói ra mối giường
E thay những dạ phi thường
Dễ dò rốn biển, khôn lường đáy sông!
Mà ta suốt một năm ròng
Thế nào cũng chẳng giấu xong được nào
Bấy chầy chưa tỏ tiêu hao
Hoặc là trong có làm sao chăng là?
Xin chàng liệu kíp lại nhà
Trước người đẹp ý, sau ta biết tình
Đêm ngày giữ mực giấu quanh
Rày lần, mai lữa, như hình chưa thông!
Nghe lời khuyên nhủ thong dong
Đành lòng Sinh mới quyết lòng hồi trang
Rạng ra gửi đến xuân đường
Thúc ông cũng vội giục chàng ninh gia
Tiễn đưa một chén quan hà
Xuân đình thoát đã dạo ra Cao đình
Sông Tần một giải xanh xanh
Lôi thôi bờ liễu mấy cành Dương quan
Cầm tay dài ngắn thở than
Chia phôi ngừng chén, hợp tan nghẹn lời
Nàng rằng: Non nước xa khơi
Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm
Dễ lòa yếm thắm trôn kim
Làm chi bưng mắt bắt chim khó lòng!
Đôi ta chút nghĩa đèo bòng
Đến nhà, trước liệu nói sòng cho minh
Dầu khi sóng gió bất tình
Lớn ra uy lớn, tôi đành phận tôi
Hơn điều giấu ngược, giấu xuôi
Lại mang những việc tầy trời đến sau
Thương nhau xin nhớ lời nhau
Năm chầy cũng chẳng đi đâu mà chầy!
Chén đưa nhớ bữa hôm nay
Chén mừng xin đợi ngày này năm sau.
Người lên ngựa, kẻ chia bào
Rừng phong, thu đã nhuốm màu quan san
Dặm hồng bụi cuốn chinh an
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh
Người về chiếc bóng năm canh
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi
Vầng trăng ai xẻ làm đôi?
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường
Kể chi những nỗi dọc đường
Buồng trong này nỗi chủ trương ở nhà
Vốn dòng họ Hoạn danh gia
Con quan Lại bộ tên là Hoạn Thư
Duyên Đằng thuận nẻo gió đưa
Cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày
Ở ăn thì nết cũng hay
Nói điều ràng buộc thì tay cũng già
Từ nghe vườn mới thêm hoa
Miệng người đã lắm, tin nhà thì không
Lửa tâm càng giập càng nồng
Trách người đen bạc ra lòng trăng hoa
Ví bằng thú thật cùng ta
Cũng dong kẻ dưới mới là lượng trên
Dại chi chẳng giữ lấy nền
Tốt chi mà rước tiếng ghen vào mình?
Lại còn bưng bít giấu quanh
Làm chi những thói trẻ ranh nực cười!
Tính rằng cách mặt, khuất lời
Giấu ta, ta cũng liệu bài giấu cho
Lo gì việc ấy mà lo
Kiến trong miệng chén có bò đi đâu?
Làm cho nhìn chẳng được nhau
Làm cho đầy đọa cất đầu chẳng lên!
Làm cho trông thấy nhỡn tiền
Cho người thăm ván, bán thuyền, biết tay!
Nỗi lòng kín chẳng ai hay
Ngoài tai để mặc gió bay mái ngoài
Tuần sau bỗng thấy hai người
Mách tin, ý cũng liệu bài tâng công
Tiểu thư nổi giận đùng đùng:
Gớm tay thêu dệt ra lòng trêu ngươi!
Chồng tao nào phải như ai
Điều này hẳn miệng những người thị phi!
Vội vàng xuống lệnh ra uy
Đứa thì vả miệng, đứa thì bẻ răng
Trong ngoài kín mít như bưng
Nào ai còn dám nói năng một lời!
Buồng đào khuya sớm thảnh thơi
Ra vào một mực nói cười như không
Đêm ngày lòng những giận lòng
Sinh đà về đến lầu hồng, xuống yên
Lời tan hợp, nỗi hàn huyên
Chữ tình càng mặn, chữ duyên càng nồng
Tẩy trần vui chén thong dong
Nỗi lòng, ai ở trong lòng mà ra?
Chàng về xem ý tứ nhà
Sự mình cũng rắp lân la giãi bày
Mấy phen cười nói tỉnh say
Tóc tơ bất động mảy may sự tình
Nghĩ: Đà bưng kín miệng bình
Nào ai có khảo mà mình lại xưng?
Những là e ấp dùng dằng
Rút dây sợ nữa động rừng, lại thôi
Có khi vui chuyện mua cười
Tiểu thư lại giở những lời đâu đâu
Rằng: Trong ngọc đá vàng thau
Mười phần ta đã tin nhau cả mười
Khen cho những miệng rông dài
Bướm ong lại đặt những lời nọ kia
Thiếp dầu vụng, chẳng hay suy
Đã dơ bụng nghĩ, lại bia miệng cười!
Thấy lời thủng thỉnh như chơi
Thuận lời, chàng cũng nói xuôi đỡ đòn
Những là cười phấn cợt son
Đèn khuya chung bóng, trăng tròn sánh vai
Thú quê thuần hức bén mùi
Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô
Chạnh niềm nhớ cảnh giang hồ
Một niềm quan tái, mấy mùa gió trăng
Tình riêng chưa dám rỉ răng
Tiểu thư trước đã liệu chừng nhủ qua:
Cách năm, mây bạc xa xa
Lâm Chuy cũng phải tính mà thần hôn
Được lời như cởi tấc son
Vó câu thẳng ruổi nước non quê người
Long lanh dáy nước in trời
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng
Roi câu vừa gióng dặm trường
Xe hương nàng cũng thuận đường qui ninh.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 28.02.2012 05:23:24 bởi Anh Nguyên >
15/Hoạn Thư thực hành mưu kế bắt cóc Thuý Kiều.
Thưa nhà huyên hết mọi tình
Nỗi chàng ở bạc, nỗi mình chịu đen
Nghĩ rằng: Ngứa ghẻ, hờn ghen
Xấu chàng mà có ai khen chi mình!
Vậy nên ngảnh mặt làm thinh
Mưu cao vốn đã rắp ranh những ngày
Lâm Chuy đường bộ tháng chầy
Mà đường hải đạo sang ngay thì gần
Dọn thuyền lựa mặt gia nhân
Hãy đem dây xích buộc chân nàng về
Làm cho, cho mệt, cho mê
Làm cho đau đớn, ê chề cho coi!
Trước cho bõ ghét những người
Sau cho để một trò cười về sau!
Phu nhân khen chước rất mầu
Chiều con, mới dạy mặc dầu ra tay
Sửa sang buồm gió, lèo mây
Khuyển, ưng lại lựa một bầy côn quang
Dặn dò hết cả mọi đường
Thuận phong một lá, vượt sang bên Tề
Nàng từ chiếc bóng song the
Đường kia nỗi nọ như chia mối sầu
Bóng dâu đã xế ngang đầu
Biết đâu ấm lạnh, biết đâu ngọt bùi
Tóc thề đã chấm ngang vai
Nào lời non nước, nào lời sắt son
Sắn bìm chút phận cỏn con
Khuôn duyên biết có vuông tròn cho chăng?
Thân sao nhiều nỗi bất bằng
Liều như cung Quảng ả Hằng, nghĩ nau!
Đêm thu gió lọt song đào
Nửa vành trăng khuyết, ba sao giữa trời
Nén hương đến trước thiên đài
Nỗi lòng khấn chứa cạn lời vân vân...
Dưới hoa dậy lũ ác nhân
Ầm ầm khóc quỉ, kinh thần mọc ra
Đầy sân gươm tuốt sáng lòa
Thất kinh nàng chửa biết là làm sao
Thuốc mê đâu đã tưới vào
Mơ màng như giấc chiêm bao biết gì!
Vực ngay lên ngựa tức thì
Phòng đào, viện sách, bốn bề cửa dong;
Sẵn thây vô chủ bên sông
Đem vào để đó lận sòng ai hay
Tôi đòi phách lạc, hồn bay
Pha càn bụi cỏ, gốc cây ẩn mình
Thúc ông nhà cũng gần quanh
Chợt trông ngọn lửa, thất kinh rụng rời
Tớ thầy chạy thẳng đến nơi
Tơi bời tưới lửa tìm người lao xao
Gió cao, ngọn lửa càng cao
Tôi đòi tìm đủ, nàng nào thấy đâu!
Hớt hơ, hớt hãi, nhìn nhau
Giếng sâu, bụi rậm, trước sau tìm quàng;
Chạy vào chốn cũ phòng hương
Trong tro, thấy một đống xương cháy tàn
Ngay tình ai biết mưu gian
Hẳn nàng, thôi lại còn bàn rằng ai!
Thúc ông sùi sụt ngắn dài
Nghĩ con vắng vẻ, thương người nết na
Di hài nhặt sắp về nhà
Nào là khâm liệm, nào là tang trai
Lễ thường đã đủ một hai
Lục trình chàng cũng đến nơi bấy giờ
Bước vào chốn cũ lầu thư
Tro than một đống, nắng mưa bốn tường
Sang nhà cha, tới trung đường
Linh sàng, bài vị, thờ nàng ở trên
Hỡi ôi! Nói hết sự duyên
Tơ tình đứt ruột, lửa phiền cháy gan
Gieo mình vật vã khóc than:
Con người thế ấy, thác oan thế này!
Chắc rằng mai trúc lại vầy
Ai hay vĩnh quyết là ngày đưa nhau!
Thương càng nghĩ, nghĩ càng đau
Dễ ai rấp thảm, quạt sầu cho khuây
Gần miền nghe có một thầy
Phi phù trị quỷ, cao tay thông huyền
Trên tam đảo, dưới cữu tuyền
Tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng
Sắm sanh lễ vật rước sang
Xin tìm cho thấy mặt nàng hỏi han
Đạo nhân phục trước tĩnh bàn
Xuất thần giây phút chưa tàn nén hương
Trở về minh bạch nói tường:
Mặt nàng chẳng thấy, việc nàng đã tra:
Người này nặng kiếp oan gia
Còn nhiều nợ lắm, sao đà thác cho!
Mệnh cung đang mắc nạn to
Một năm nữa mới thăm dò được tin
Hai bên giáp mặt chiền chiền
Muốn nhìn mà chẳng được nhìn lạ thay!
Nghe lời nói, lạ dường này!
Sự nàng đã thế, lời thầy dám tin?
Chẳng qua đồng cốt quàng xiên
Người đâu mà lại thấy trên cõi trần?
Tiếc hoa những ngậm ngùi xuân
Thân này dễ lại mấy lần gặp tiên!
Nước trôi hoa rụng đã yên
Hay đâu địa ngục ở miền nhân gian!
Khuyển, ưng đã rắp mưu gian
Vực nàng đưa xuống để an dưới thuyền
Buồm cao, lèo thẳng cánh suyền
Đè chừng huyện Tích, băng miền vượt sang
Dỡ đò, lên trước sảnh đường
Khuyển, ưng, hai đứa nộp nàng dâng công
Vực nàng tạm xuống môn phòng
Hãy còn thiêm thiếp giấc nồng chưa phai
Hoàng lương chợt tỉnh hôm mai
Cửa nhà đâu mất, lâu đài nào đây?
Bàng hoàng giở tỉnh giở say
Sảnh đường mảng tiếng đòi ngay lên hầu
Ả hoàn liền xuống giục mau
Hãi hùng nàng mới theo sau một người
Ngước trông tòa rộng, dãy dài
Thiên quang Chủng tể có bài treo trên
Ban ngày, sáp thắp hai bên
Giữa giường thất bảo, ngồi trên một bà
Gạn gùng ngọn hỏi, ngành tra
Sự mình, nàng đã cứ mà gửi thưa
Bất bình nổi trận mây mưa
Dức rằng: Những giống bờ thờ quen thân!
Con này chẳng phải thiện nhân
Chẳng màu trốn chúa, thì quân lội chồng
Ra tuồng mèo mả, gà đồng
Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào
Đã đem mình bán cửa tao
Lại còn khủng khỉnh làm cao thế này!
Nào là gia pháp nọ bay!
Hãy cho ba chục, biết tay một lần!
A hoàn trên dưới dạ rân
Dẫu rằng trăm miệng khôn phân lẽ nào!
Trúc côn ra sức đập vào
Thịt nào chẳng nát, gan nào chẳng kinh!
Xót thay đào lý một cành
Một phen mưa gió tan tành một phen!
Hoa nô, truyền dạy đổi tên
Buồng the, dạy ép vào phiên thị tì
Ra vào theo lũ thanh y
Dãi dầu tóc rối, da chì quản bao!
Quản gia có một mụ nào
Thấy người, thấy nết, ra vào mà thương
Khi chè chén, khi thuốc thang
Đem lời phương tiện mở đường hiếu sinh
Dạy rằng: May rủi đã đành
Liễu bồ mình giữ lấy mình cho hay
Cũng là oan nghiệp chi đây
Sa cơ mới đến thế này, chẳng dung
Ở đây tai vách mạch rừng
Thấy ai người cũ cũng đừng nhìn chi
Kẻo khi sấm sét bất kỳ
Con ong, cái kiến, kêu gì được oan!
Nàng càng giọt ngọc như chan
Nỗi lòng luống những bàn hoàn niềm tây
Phong trần kiếp đã chịu đày
Lầm than, lại có thứ này bằng hai!
Phận sao bạc chẳng vừa thôi?
Khăng khăng buộc mãi lấy người hồng nhan!
Đã đành túc trái tiền oan
Cũng liều ngọc nát, hoa tàn mà chi!
Những là nương náu qua thì
Tiểu thư phải buổi mới về ninh gia
Mẹ con trò chuyện lân la
Phu nhân mới gọi nàng ra dạy lời:
Tiểu thư dưới trướng thiếu người
Cho về bên ấy, theo đòi lầu trang.
Lĩnh lời, nàng mới theo sang
Biết đâu dịa ngục, thiên đường là đâu?
Sớm khuya khăn mặt, lược hầu
Phận con hầu, giữ con hầu, dám sai!
Phải đêm êm ả chiều trời
Trúc tơ, hỏi đến nghề chơi mọi ngày
Lĩnh lời, nàng mới lựa dây
Nỉ non thánh thót, dễ say lòng người
Tiểu thư xem cũng thương tài
Khuôn uy dường cũng bớt vài bốn phân
Cửa người đày đọa chút thân
Sớm năn nỉ bóng, đêm ngơ ngẩn lòng
Lâm Chuy chút nghĩa đèo bòng
Nước non để chữ tương phùng kiếp sau!
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.03.2012 19:54:34 bởi Anh Nguyên >
16/Hoạn-Thư đầy đoạ Thuý Kiều trước
mắt Thúc Sinh.
Bốn phương mây trắng một màu
Trông vời cố quốc, biết đâu là nhà?
Lần lần tháng trọn ngày qua
Nỗi gần nào biết đường xa thế này.
Lâm Chuy từ thuở uyên bay,
Buồng không, thương kẻ tháng ngày chiếc thân
Mây xanh, trăng mới in ngần
Phấn thừa, hương cũ, bội phần xót xa
Sen tàn, cúc lại nở hoa
Sầu dài, ngày ngắn, đông đà sang xuân
Tìm đâu cho thấy cố nhân?
Lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương
Trạnh niềm nhớ cảnh gia hương
Nhớ quê, chàng lại tìm đường thăm quê
Tiểu thư đón cửa dã dề
Hàn huyên vừa cạn mọi bề gần xa
Nhà hương cao cuốn bức là
Buồng trong, truyền gọi nàng ra lạy mầng
Bước ra một bước một ngừng
Trông xa, nàng đã tỏ chừng nẻo xa:
Phải rằng nắng quáng, đèn lòa
Rõ ràng ngồi đó chẳng là Thúc Sinh?
Bấy giờ, tình mới tỏ tình
Thôi thôi đã mắc vào vành, chẳng sai!
Chước đâu, có chước lạ đời!
Người đâu mà lại có người tinh ma!
Rõ ràng thật lứa đôi ta
Làm cho con ở, chúa nhà đôi nơi!
Bề ngoài thơn thớt nói cười
Mà trong nham hiểm, giết người không dao
Bây giờ đất thấp trời cao
Ăn làm sao, nói làm sao bây giờ?
Càng trông mặt, càng ngẩn ngơ
Ruột tằm đòi đoạn như tơ rối bời
Sợ uy dám chẳng vâng lời
Cúi đầu nép xuống sân mai một chiều
Sinh đà phách lạc, hồn xiêu:
Thương ôi! Chẳng phải nàng Kiều ở đây?
Nhân làm sao đến thế này?
Thôi thôi ta đã mắc tay ai rồi!
Sợ quen dám hở ra lời
Khôn ngăn giọt ngọc, sụt sùi nhỏ sa
Tiểu thư trông mặt hỏi tra:
Mới về có việc chi mà động dong?
Sinh rằng: Hiếu phục vừa xong
Suy lòng trắc dĩ, đau lòng chung thiên!
Khen rằng: Hiếu tử đã nên!
Tẩy trần, mượn chén giải phiền đêm thu.
Vợ chồng chén tạc chén thù
Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi
Bắt khoan, bắt nhặt, đến lời
Bắt quì tận mặt, bắt mời tận tay
Sinh càng như dại như ngây
Giọt dài, giọt ngắn, chén đầy, chén vơi
Ngảnh đi, chợt nói, chợt cười
Cáo say, chàng đã giạm bài lảng ra
Tiểu thư vội thét: Con Hoa!
Khuyên chàng chẳng cạn thì ta có đòn!
Sinh càng nát ruột tan hồn
Chén mời, phải ngậm bồ hòn, ráo ngay!
Tiểu thư cười nói tỉnh say
Chửa xong cuộc rượu, lại bày trò chơi
Rằng: Hoa nô đủ mọi tài
Bản đàn thử giạo một bài chàng nghe!
Nàng đà tán hoán, tê mê
Vâng lời, ra trước bình the vặn đàn
Bốn dây như khóc, như than
Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng!
Cũng trong một tiếng tơ đồng
Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm
Giọt châu lã chã khôn cầm
Cúi đầu, chàng những gạt thầm giọt sương
Tiểu thư lại thét lấy nàng:
Cuộc vui gẩy khúc đoạn tràng ấy chi?
Sao chẳng biết ý tứ gì?
Cho chàng buồn bã, tội thì tại ngươi!
Sinh càng thảm thiết bồi hồi
Vội vàng gượng nói, gượng cười cho qua
Giọt rồng canh đã điểm ba
Tiểu thư nhìn mặt, dường đà cam tâm
Lòng riêng tấp tểnh mừng thầm:
Vui này đã bõ đau ngầm xưa nay!
Sinh thì gan héo, ruột đầy
Nỗi lòng, càng nghĩ càng cay đắng lòng
Người vào chung gối loan phòng
Nàng ra tựa bóng đèn giong canh dài
Bây giờ mới rõ tăm hơi
Máu ghen, đâu có lạ đời nhà ghen!
Chước đau rẽ thúy chia uyên!
Ai ra đường nấy, ai nhìn được ai
Bây giờ một vực một trời
Hết điều khinh trọng, hết lời thị phi
Nhẹ như bấc, nặng như chì
Gỡ cho ra nữa, còn gì là duyên!
Lỡ làng chút phận thuyền quyên
Bể sâu, sóng cả, có tuyền được vay?
Một mình âm ỷ đêm chầy
Đĩa dầu vơi, nước mắt đầy năm canh
Sớm khuya hầu hạ đài doanh
Tiểu thư chạm mặt, dè tình hỏi tra
Lựa lời, nàng mới thưa qua:
Phải khi mình lại xót xa nỗi mình.
Tiểu thư hỏi lại Thúc sinh:
Cậy chàng tra lấy thực tình cho nao!
Sinh đà rát ruột như bào
Nói ra chẳng tiện, trông vào chẳng đang!
Những e lại lụy đến nàng
Đánh liều mới sẽ lựa đường hỏi tra
Cúi đầu quì trước sân hoa
Thân cung nàng mới dâng qua một tờ
Diện tiền trình với tiểu thư
Thoắt xem dường có ngẩn ngơ chút tình
Liền tay trao lại Thúc sinh
Rằng: Tài nên trọng, mà tình nên thương!
Ví chăng có số giàu sang
Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên!
Bể trần, chìm nổi thuyền quyên
Hữu tài, thương nỗi vô duyên lạ đời!
Sinh rằng: Thật có như lời
Hồng nhan bạc mệnh, một người nào vay
Nghìn xưa âu cũng thế này
Từ bi âu liệu bớt tay mới vừa.
Tiểu thư rằng: Ý trong tờ
Rắp đem mệnh bạc, xin nhờ cửa Không
Thôi thì thôi, cũng chiều lòng
Cũng cho nghỉ nghị trong vòng bước ra
Sẵn Quan âm các vườn ta
Có cây trăm thước, có hoa bốn mùa.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.03.2012 19:58:13 bởi Anh Nguyên >
17/Thúc Sinh mạo hiểm gặp mặt
Thuý Kiều ở Quán Âm các.
Có cổ thụ, có sơn hồ
Cho nàng ra đó giữ chùa tụng kinh.
Tang tảng, trời mới bình minh
Hương hoa, ngũ quả, sắm sanh lễ thường
Đưa nàng đến trước Phật đường
Tam qui, ngũ giới, cho nàng xuất gia
Áo xanh đổi lấy cà sa
Pháp danh lại đổi tên ra Trạc Tuyền
Sớm khuya tính đủ dầu đèn
Xuân, Thu, cắt sẵn hai tên hương trà
Nàng từ lánh gót vườn hoa
Dường gần rừng tía, dường xa bụi hồng
Nhân duyên đâu lại còn mong?
Khỏi điều thẹn phấn, tủi hồng thì thôi
Phật tiền thảm lấp sầu vùi
Ngày phò thủ tự, đêm nhồi tâm hương
Cho hay giọt nước cành dương
Lửa lòng tưới tắt mọi đường trần duyên
Nâu sồng từ trở màu thuyền
Sân thu trăng đã vài phen đứng đầu
Quan phòng, then nhặt, lưới mau
Nói lời trước mặt, rơi châu vắng người
Gác kinh, viện sách, đôi nơi
Trong gang tấc, lại gấp mười quan san
Những là ngậm thở nuốt than
Tiểu thư phải buổi vấn an về nhà
Thừa cơ, Sinh mới lẻn ra
Xăm xăm đến mé vườn hoa với nàng
Sụt sùi, dở nỗi đoạn tràng
Giọt châu tầm tã đẵm tràng áo xanh
Đã cam chịu bạc với tình
Chúa xuân để tội một mình cho hoa
Thấp cơ, thua trí đàn bà
Trông vào đau ruột, nói ra ngại lời
Vì ta cho lụy đến người
Cát lầm ngọc trắng, thiệt đời xuân xanh!
Quản chi lên thác xuống ghềnh
Cũng toan sống thác với tình cho xong
Tông đường, chút chửa cam lòng
Nghiến răng bẻ một chữ đồng làm hai
Thẹn mình đá nát vàng phai
Trăm thân dễ chuộc một lời được sao?
Nàng rằng: Chiếc bách song đào
Nổi chìm cũng mặc lúc nào rủi may
Chút thân quằn quại vũng lầy
Sống thừa còn tưởng đến rày nữa sao?
Cũng liều một giọt mưa đào
Mà cho thiên hạ trông vào cũng hay!
Xót vì cầm đã bén dây
Chẳng trăm năm, cũng một ngày duyên ta
Liệu bài mở cửa cho ra
Ấy là tình nặng, ấy là ân sâu!
Sinh rằng: Riêng tưởng bấy lâu
Lòng người nham hiểm, biết đâu mà lường
Nữa khi giông tố phủ phàng
Thiệt riêng đấy, cũng lại càng cực đây
Liệu mà xa chạy cao bay
Ái ân ta có ngần này mà thôi!
Bây giờ kẻ ngược người xuôi
Biết bao giờ lại nối lời nước non?
Dẫu rằng sông cạn đá mòn
Con tằm đến thác cũng còn vương tơ!
Cùng nhau kể lể sau xưa
Nói rồi lại nói, lời chưa hết lời
Mặt trông, tay chẳng nỡ rời
Hoa tì đã động tiếng người nẻo xa
Ngập ngừng, nuốt tủi, đứng ra
Tiểu thư đâu đã rẽ hoa bước vào
Cười cười nói nói ngọt ngào
Hỏi chàng mới ở chốn nào lại chơi?
Dối quanh, Sinh mới liệu lời:
Tìm hoa quá bước, xem người viết kinh.
Khen rằng: Bút pháp đã tinh
So vào với thiếp Lan đình nào thua!
Tiếc thay lưu lạc giang hồ
Nghìn vàng thật cũng nên mua lấy tài!
Thuyền trà cạn nước hồng mai
Thong dong nối gót thư trai cùng về
Nàng càng e lệ ủ ê
Rỉ tai, hỏi lại Hoa tì trước sau
Hoa rằng: Bà đến đã lâu
Rón chân đứng nấp độ đâu nủa giờ
Rành rành kẽ tóc chân tơ
Mấy lời nghe hết, đã dư tỏ tường
Bao nhiêu đoạn khổ tình thương
Nỗi ông vất vả, nỗi nàng thở than
Dặn tôi đứng lại một bên
Chán tai rồi mới bước lên trên lầu.
Nghe thôi kinh hãi xiết đâu
Đàn bà thế ấy, thấy âu một người!
Ấy mới gan! ấy mới tài!
Nghĩ càng thêm nỗi sởn gai rụng rời!
Người đâu sâu sắc nước đời
Mà chàng Thúc phải ra người bó tay!
Thực tang bắt được dường này
Máu ghen, ai cũng chau mày nghiến răng
Thế mà im chẳng đãi đằng
Chào mời vui vẻ, nói năng dịu dàng!
Giận dầu ra dạ thế thường
Cười dầu mới thực khôn lường hiểm sâu
Thân ta, ta phải lo âu
Miệng hùm, nọc rắn, ở đâu chốn này!
Ví chăng chắp cánh cao bay
Trèo cây lâu cũng có ngày bẻ hoa
Phận bèo bao quản nước sa
Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh
Chỉn e quê khách một mình
Tay không chưa dễ tìm vành ấm no!
Nghĩ đi, nghĩ lại quanh co
Phật tiền, sẵn có mọi đồ kim ngân
Bên mình giắt để hộ thân
Lần nghe canh đã một phần trống ba
Cất mình qua ngọn tường hoa
Lần đường theo bóng trăng tà về tây.
Mịt mù dặm cát đồi cây
Tiếng gà điếm nguyệt, dấu giày cầu sương
Canh khuya thân gái dặm trường
Phần e đường sá, phần thương dãi dầu!
Trời đông vừa rạng ngàn dâu
Bơ vơ nào đã biết đâu là nhà
<bài viết được chỉnh sửa lúc 10.05.2012 11:56:51 bởi Anh Nguyên >
18/Thuý Kiều trốn khỏi Quán Âm các, lại
gặp Bạc Bà cũng phường lầu xanh, sau gặp
Từ Hải tại đây.
Chùa đâu trông thấy nẻo xa
Rành rành Chiêu Ẩn Am ba chữ bài
Xăm xăm gõ mái cửa ngoài
Trụ trì nghe tiếng rước mời vào trong
Thấy mầu ăn mặc nâu sồng
Giác Duyên sư trưởng lành lòng liền thương
Gạn gùng ngành ngọn cho tường
Lạ lùng, nàng hãy tìm đường nói quanh:
Tiểu thiền quê ở Bắc kinh,
Qui sư, qui Phật, tu hành bấy lâu
Bản sư rồi cũng đến sau
Dạy đưa pháp bảo sang hầu sư huynh.
Rày vâng diện hiến rành rành
Chuông vàng khánh bạc bên mình giở ra
Xem qua sư mới dạy qua:
Phải nơi Hằng Thủy là ta hậu tình
Chỉn e đường sá một mình
Ở đây chờ đợi sư huynh ít ngày.
Gửi thân được chốn am mây
Muối dưa đắp đổi tháng ngày thong dong
Kệ kinh câu cũ thuộc lòng
Hương đèn việc cũ, trai phòng quen tay
Sớm khuya lá bối phướn mây
Ngọn đèn khêu nguyệt, tiếng chày nện sương
Thấy nàng thông tuệ khác thường
Sư càng nể mặt, nàng càng vững chân.
Cửa thuyền vừa cữ cuối xuân
Bóng hoa đầy đất, vẻ ngân ngang trời
Gió quang, mây tạnh thảnh thơi
Có người đàn việt lên chơi cửa Già
Giở đồ chuông khánh xem qua
Khen rằng: Khéo giống của nhà Hoạn nương!
Giác Duyên thực ý lo lường
Đêm khuya mới hỏi lại nàng trước sau
Nghĩ rằng khôn nỗi giấu mầu
Sự mình nàng mới gót đầu bày ngay:
Bây giờ sự đã dường này
Phận hèn dầu rủi, dầu may tại người.
Giác Duyên nghe nói rụng rời
Nửa thương, nửa sợ, bồi hồi chẳng xong
Rỉ tai mới kể sự lòng:
Ở đây cửa Phật là không hẹp gì
E chăng những sự bất kỳ
Để nàng cho đến thế thì cũng thương!
Lánh xa trước liệu tìm đường
Ngồi chờ nước đến, nên dường còn quê!
Có nhà họ Bạc bên kia
Am mây quen lối đi về dầu hương
Nhắn sang, dặn hết mọi đường
Dọn nhà hãy tạm cho nàng trú chân
Những mầng được chốn an thân
Vội vàng nào kịp tính gần tính xa
Nào ngờ cũng tổ bợm già
Bạc Bà học với Tú Bà đồng môn!
Thấy nàng mặn phấn, tươi son
Mầng thầm được buổi bán buôn có lời
Hư không đặt để nên lời
Nàng đà lớn sự rụng rời lắm phen
Mụ càng xua đuổi cho liền
Lấy lời hung hiểm, ép duyên Châu Trần
Rằng: Nàng muôn dặm một thân
Lại mang lấy tiếng dữ gần, lành xa
Khéo oan gia, của phá gia!
Còn ai dám chứa vào nhà nữa đây?
Kíp toan kiếm chốn xe dây
Không dưng chưa dễ mà bay đàng trời!
Nơi gần thì chẳng tiện nơi
Nơi xa thì chẳng có người nào xa
Này chàng Bạc Hạnh cháu nhà
Cùng trong thân thích ruột rà, chẳng ai
Cửa nhà buôn bán châu Thai
Thực thà có một, đơn sai chẳng hề
Thế nào nàng cũng phải nghe
Thành thân rồi sẽ liệu về châu Thai
Bấy giờ ai lại biết ai
Dầu lòng bể rộng, sông dài thênh thênh
Nàng dầu quyết chẳng thuận tình
Trái lời nẻo trước, lụy mình đến sau!
Nàng càng mặt ủ mày chau
Càng nghe mụ nói, càng đau như rần
Nghĩ mình túng đất, sẩy chân
Thế cùng, nàng mới xa gần thở than:
Thiếp như con én lạc đàn
Phải cung, rày đã sợ làn cây cong
Cùng đường dầu tính chữ tòng
Biết người, biết mặt, biết lòng làm sao?
Nữa khi muôn một thế nào
Bán hùm buôn sói, chắc vào lưng đâu?
Dầu ai lòng có sở cầu
Tâm minh, xin quyết với nhau một lời
Chứng minh có đất có trời
Bấy giờ vượt bể, ra khơi quản gì!
Được lời mụ mới ra đi
Mách tin họ Bạc tức thì sắm sanh
Một nhà dộn dịp linh đình
Quét sân, đặt trác, rửa bình, thắp nhang
Bạc sinh quì xuống vội vàng
Quá lời nguyện hết Thành hoàng, Thổ công
Trước sân lòng đã giãi lòng
Trong màn làm lễ tơ hồng kết duyên
Thành thân, mới rước xuống thuyền
Thuận buồm một lá, xuôi miền châu Thai
Thuyền vừa đỗ bến thảnh thơi
Bạc sinh lên trước tìm nơi mọi ngày
Cũng nhà hành viện xưa nay
Cũng phường bán thịt, cũng tay buôn người
Xem người, định giá, vừa rồi
Mối hàng một, đã ra mười thì buông
Mượn người, thuê kiệu, rước nàng
Bạc đem mặt bạc, kiếm đường cho xa
Kiệu hoa đặt trước thềm hoa
Bên trong thấy một mụ ra vội vàng
Đưa nàng vào lạy gia đường
Cũng thần mày trắng, cũng phường lầu xanh!
Thoắt trông nàng đã biết tình
Chim lồng khôn lẽ cất mình bay cao
Chém cha cái số hoa đào
Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi!
Nghĩ đời mà ngán cho đời!
Tài tình chi lắm cho trời đất ghen!
Tiếc thay nước đã đánh phèn
Mà cho bùn lại vẩn lên mấy lần!
Hồng quân với khách hồng quần
Đã xoay đến thế còn vần chưa tha
Lỡ từ lạc bước, bước ra
Cái thân liệu những từ nhà liệu đi
Đầu xanh đã tội tình gì
Má hồng đến quá nửa thì chưa thôi?
Biết thân chạy thẳng khỏi trời
Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.
Lần thâu gió mát trăng thanh
Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi
Râu hầm, hàm én, mày ngài
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao
Đường đường một đấng anh hào
Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài
Đội trời đạp đất ở đời
Họ Từ tên Hải, vốn người Việt-Đông
Giang hồ quen thói vẫy vùng
Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo
Qua chơi thấy tiếng nàng Kiều
Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng
Thiếp danh đưa đến lầu hồng
Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa
Từ rằng: Tâm phúc tương cờ
Phải người trăng gió vật vờ hay sao?
Bấy lâu nghe tiếng má đào
Mắt xanh chẳng để ai vào, có không?
Một đời được mấy anh hùng
Bõ chi cá chậu chim lồng mà chơi?
Nàng rằng: Người dạy quá lời
Thân này còn dám coi ai làm thường!
Chút riêng chọn đá thử vàng
Biết đâu mà gửi can tràng vào đâu?
Còn như vào trước ra sau
Ai cho kén chọn vàng thau tại mình?
Từ rằng: Lời nói hữu tình!
Khiến người lại nhớ câu Bình nguyên quân
Lại đây xem lại cho gần
Phỏng tin được một vài phần hay không?
Thưa rằng: Lượng cả bao dung
Tấn Dương được thấy mây rồng có phen
Rộng thương cỏ nội, hoa hèn
Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau.
Nghe lời vừa ý, gật đầu
Cười rằng: Tri kỷ trước sau mấy người?
Khen cho con mắt tinh đời
Anh hùng, đoán giữa trần ai mới già!
Một lời đã biết đến ta
Muôn chung, nghìn tứ, cũng là có nhau!
Hai bên ý hợp tâm đầu
Khi thân, chẳng lựa là cầu mới thân!
Ngỏ lời nói với băng nhân
Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn
Buồng riêng sửa chốn thanh nhàn
Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên
Trai anh hùng, gái thuyền quyên
Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng
Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm, yên ngựa, lên đàng thẳng rong
Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi, thiếp cũng một lòng xin đi.
Từ rằng: Tâm phúc tương tri
Sao không thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường;
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia
Bằng nay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận, biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đón ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì?
Quyết lời dứt áo ra đi
Gió đưa bằng tiện đến kỳ dặm khơi
Nàng thì chiếc bóng song mai
Đêm thâu đằng đẵng, nhặt cài then mây
Sân rêu chẳng vẽ dấu giày,
Cỏ cao hơn thước, liễu gày vài phân
Đoái thương muôn dặm tử phần
Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa
Xót thay huyên cỗi, xuân già
Tấm lòng thương nhớ biết là có nguôi?
Chốc là mười mấy năm trời
Còn ra khi đã da mồi tóc sương
Tiếc thay chút nghĩa cũ càng
Dẫu lìa ngó ý, còn vương tơ lòng
Duyên em dầu nối chỉ hồng
May ra khi đã tay bồng tay mang
Tấc lòng cố quốc tha hương
Đường kia, nỗi nọ, ngổn ngang bời bời
Cánh hồng bay bổng tuyệt vời
Đã mòn con mắt, phương trời đăm đăm
Đêm ngày luống những âm thầm
Lửa binh đâu đã ầm ầm một phương
Ngất trời sát khí mơ màng
Đầy sông kình ngạc, chật đường giáp binh
Người quen thuộc, kẻ chung quanh
Nhủ nàng hãy tạm lánh mình một nơi
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.03.2012 10:40:42 bởi Anh Nguyên >
19/-Thuý Kiều báo ân, trả oán
Nàng rằng: Trước đã hẹn lời
Dẫu trong nguy hiểm, dám rời uớc xưa.
Còn đương dùng dắng, ngẩn ngơ
Mái ngoài đã thấy bóng cờ tiếng loa
Giáp binh kéo đến quanh nhà
Đồng thanh cùng gửi: Nào là phu nhân?
Hai bên mười vị tướng quân
Đặt gươm, cởi giáp, trước sân khấu đầu
Cung nga, thế nữ nối sau
Rằng: Vâng lệnh chỉ rước chầu vu qui.
Sẵn sàng phượng liễn, loan nghi
Hoa quan chấp chới, hà y rỡ ràng
Dựng cờ nổi trống lên đàng
Trúc tơ nổi trước, đào vàng kéo sau
Hỏa bài tiền lộ ruổi mau
Nam đình, nghe động trống chầu đại doanh
Kéo cờ lũy, phát súng thành
Từ công ra ngựa, thân nghênh cửa ngoài
Lữa mình là vẻ cân đai
Hãy còn hàm én, mày ngài như xưa
Cười rằng: Cá nước duyên ưa
Nhớ lời nói những bao giờ hay không?
Anh hùng mới biết anh hùng
Rày xem phỏng đã cam lòng ấy chưa?
Nàng rằng: Chút phận ngây thơ
Cũng may dây cát được nhờ bóng cây
Đến bây giờ mới thấy đây
Mà lòng đã chắc những ngày một hai.
Cùng nhau trông mặt cả cười
Dan tay về chốn trướng mai tự tình
Tiệc bày thưởng tưởng khao binh
Om thòm trống trận, rập rình nhạc quân
Vinh hoa bõ lúc phong trần
Chữ tình ngày lại thêm xuân một ngày
Trong quân có lúc vui vầy
Thong dong mới kể sự ngày hàn vi
Khi Vô Tích, khi Lâm Chuy
Nơi thì lừa đảo, nơi thì xót thương
Tấm thân rày đã nhẹ nhàng
Chút còn ân oán, đôi đường chưa xong.
Từ công nghe nói thủy chung
Bất bình nổi trận đùng đùng sấm vang
Nghiêm quân, tuyển tướng sẵn sàng
Dưới cờ một lệnh vội vàng ruổi sao
Ba quân chỉ ngọn cờ đào
Đạo ra Vô Tích, đạo vào Lâm Chuy
Mấy người phụ bạc xưa kia
Chiếu danh tầm nã, bắt về hỏi tra
Lại sai lệnh tiễn truyền qua
Giữ giàng họ Thúc một nhà cho yên
Mụ quản gia, vải Giác Duyên
Cũng sai lệnh tiễn đem tin rước mời
Thệ sư kể hết mọi lời
Lòng lòng cùng giận, người người chấp uy
Đạo trời báo phục chỉn ghê
Khéo thay! Một mẻ tóm về đầy nơi
Quân trung, gươm lớn, giáo dài
Vệ trong thị lập, cơ ngoài song phi
Sẵn sàng tề chỉnh uy nghi
Bác đồng chật đất, tinh kỳ rợp sân
Trướng hùm mở giữa trung quân
Từ công sánh với phu nhân cùng ngồi
Tiên nghiêm, trống chửa dứt hồi
Điểm danh trước dẫn chực ngoài cửa viên
Từ rằng: Ân oán hai bên
Mặc nàng xử quyết, báo đền cho minh.
Nàng rằng: Nhờ cậy uy linh
Hãy xin báo đáp ân tình cho phu
Báo ân rồi sẽ trả thù.
Từ rằng: Việc ấy để cho mặc nàng.
Cho gươm mời đến Thúc lang
Mặt như chàm đổ, mình dường giẽ giun
Nàng rằng: Nghiã trọng nghìn non
Lâm Chuy người cũ, chàng còn nhớ không?
Sâm, Thương, chẳng vẹn chữ tòng
Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân?
Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân
Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là
Vợ chàng quỉ quái, tinh ma
Phen này kẻ cắp, bà già gặp nhau
Kiến bò miệng chén chưa lâu
Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa!
Thúc sinh trông mặt bấy giờ
Mồ hôi chàng đã như mưa ướt dầm
Lòng riêng mừng sợ khôn cầm
Sợ thay, mà lại mừng thầm cho ai
Mụ già, sư trưởng, thứ hai
Thoắt đưa đến trước, vội mời lên trên
Dắt tay, mở mặt cho nhìn:
Hoa nô kia, với Trạc Tuyền, cũng tôi
Nhớ khi lỡ bước, sẩy vời
Non vàng chưa dễ đền bồi tấm thương
Nghìn vàng gọi chút lễ thường
Mà lòng Xiếu mẫu mấy vàng cho cân!
Hai người trông mặt tần ngần
Nửa phần khiếp sợ, nửa phần mừng vui
Nàng rằng: Xin hãy rốn ngồi
Xem cho rõ mặt, biết tôi báo thù!
Kíp truyền chư tướng hiến phù
Lại đem các tích phạm đồ hậu tra
Dưới cờ, gươm tuốt nắp ra
Chính danh thủ phạm tên là Hoạn thư
Thoắt trông, nàng đã chào thưa:
Tiểu thư cũng có bây giờ đén đây!
Đàn bà dễ có mấy tay
Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan!
Dễ dàng là thói hồng nhan
Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều!
Hoạn thư hồn lạc phách xiêu
Khấu đầu dưới trướng, lựa điều kêu ca
Rằng: Tôi chút dạ đàn bà
Ghen tuông, thì cũng người ta thường tình!
Nghĩ cho khi các viết kinh
Với khi khỏi cửa, dứt tình chẳng theo
Lòng riêng, riêng cũng kính yêu
Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai!
Trót lòng gây việc chông gai
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng.
Khen cho: Thật đã nên rằng
Khôn ngoan đến mực, nói năng phải lời
Tha ra thì cũng may đời
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen
Đã lòng tri quá thì nên!
Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay
Tạ lòng, lạy trước sân mây
Cửa viên lại dắt một dây dẫn vào
Nàng rằng: Lồng lộng trời cao!
Hại nhân, nhân hại, sự nào tại ta?
Trước là Bạc Hạnh, Bạc bà,
Bên là ưng, Khuyển, bên là Sở Khanh
Tú bà cùng Mã Giám Sinh
Các tên tội ấy đáng tình còn sao?
Lệnh quân truyền xuống nội đao
Thề sao, thì lại cứ sao ra hình
Máu rơi, thịt nát, tan tành
Ai ai trông thấy hồn kinh, phách rời
Cho hay muôn sự tại trời
Phụ người chẳng bõ khi người phụ ta!
Mấy người bạc ác tinh ma
Mình làm, mình chịu, kêu mà ai thương!
Ba quân đông mặt pháp trường
Thanh thiên, bạch nhật, rõ ràng cho coi
Việc nàng báo phục vừa rồi
Giác Duyên vội đã gửi lời từ qui
Nàng rằng: Thiên tải nhất thì
Cố nhân đã dễ mấy khi bàn hoàn
Rồi đây bèo hợp mây tan
Biết đâu hạc nội, mây ngàn là đâu?
Sư rằng: Cũng chẳng mấy lâu
Trong năm năm lại gặp nhau đó mà
Nhớ ngày hành cước phương xa
Gặp sư Tam hợp, vốn là tiên tri
Báo cho hội hợp chi kỳ:
Năm nay là một, nữa thì năm năm
Mới hay tiền định chẳng lầm
Đã tin điều trước, ắt nhằm điều sau
Còn nhiều ân ái với nhau
Cơ duyên nào đã hết đâu vội gì?
Nàng rằng: Tiền định tiên tri
Lời sư đã dạy, ắt thì chẳng sai
Họa bao giờ có gặp người
Vì tôi cậy hỏi một lời chung thân.
Giác Duyên vâng dặn ân cần
Tạ từ, thoắt đã dời chân cõi ngoài
Nàng từ ân oán rạch ròi
Bể oan dường đã vơi vơi cạnh lòng
Tạ ân, lạy trước Từ công:
Chút thân bồ liễu nào mong có rày
Trộm nhờ sấm sét ra tay
Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi
Khắc xương ghi dạ xiết chi
Dễ đem gan óc đền nghì trời mây!
Từ rằng: Quốc sĩ xưa nay
Chọn người tri kỷ một ngày được chăng?
Anh hùng tiếng đã gọi rằng
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha!
Huống chi việc cũng việc nhà
Lựa là thâm tạ, mới là tri ân!
Xót nàng còn chút song thân
Bấy nay kẻ Việt, người Tần cách xa
Sao cho muôn dặm một nhà
Cho người thấy mặt, là ta cam lòng.
Vội truyền sửa tiệc quân trung
Muôn binh, nghìn tướng hội đồng tẩy oan
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.03.2012 19:36:37 bởi Anh Nguyên >
20/- Hồ Tôn Hiến dùng kế chiêu an, Từ Hải chết đứng
Thuý Kiều gieo mình xuống sông Tiền Đường, được sư
Giác Duyên đón vớt.
Thừa cơ trúc chẻ, ngói tan
Binh uy từ đấy sấm ran trong ngoài
Triều đình riêng một góc trời
Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà
Đòi cơn gió quét mưa sa
Huyện thành đạp đổ năm tòa cõi nam
Phong trần, mài một lưỡi gươm
Những loài giá áo, túi cơm sá gì!
Nghênh ngang một cõi biên thùy
Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương
Trước cờ ai dám tranh cường
Năm năm hùng cứ một phương hải tần
Có quan Tổng đốc trọng thần
Là Hồ Tôn Hiến, kinh luân gồm tài
Đẩy xe vâng chỉ đặc sai
Tiện nghi bát tiễu, việc ngoài đổng nhung
Biết Từ là đấng anh hùng
Biết nàng cũng dự quân trung luận bàn
Đóng quân, làm chước chiêu an
Ngọc, vàng, gấm vóc, sai quan thuyết hàng
Lại riêng một lễ với nàng:
Hai tên thể nữ, ngọc vàng nghìn cân
Tin vào gửi trước trung quân
Từ công riêng hãy mười phân hồ đồ
Một tay gây dựng cơ đồ
Bấy lâu bể Sở, sông Ngô tung hoành!
Bó thân về với triều đình
Hàng thần lơ láo, phận mình ra đâu?
Áo xiêm buộc trói lấy nhau
Vào luồn ra cúi, công hầu mà chi!
Sao bằng riêng một biên thùy
Sức này đã dễ làm gì được nhau
Chọc trời, khuấy nước, mặc dầu
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai.
Nàng thì thật dạ tin người
Lễ nhiều, nói ngọt, nghe lời dễ xiêu
Nghĩ mình mặt nước cánh bèo
Đã nhiều lưu lạc, lại nhiều gian truân
Bằng nay chịu tiếng vương thần
Thênh thênh đường cái thanh vân hẹp gì
Công, tư, vẹn cả hai bề
Dần dà rồi sẽ liệu về cố hương
Cũng ngôi mệnh phụ đường đường
Nở nang mày mặt, rỡ ràng mẹ cha
Trên vì nước, dưới vì nhà
Một là đắc hiếu, hai là đắc trung
Chẳng hơn chiếc bách giữa dòng
E dè gió dập, hãi hùng sóng va.
Nhân khi bàn bạc gần xa
Thừa cơ, nàng mới bàn ra nói vào
Rằng: ơn Thánh đế dồi dào
Tưới ra đã khắp, thấm vào đã sâu
Bình thành công đức bấy lâu
Ai ai cũng đội trên đầu biết bao
Ngẫm từ dấy việc binh đao
Đống xương vô định đã cao bằng đầu
Làm chi để tiếng về sau
Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào
Sao bằng lộc trọng, quyền cao
Công danh ai dứt lối nào cho qua?
Nghe lời nàng nói mặn mà
Thế công, Từ mới đổi ra thế hàng
Chỉnh nghi tiếp sứ vội vàng
Hẹn kỳ thúc giáp, quyết đường giải binh
Tin lời thành hạ yêu minh
Ngọn cờ ngơ ngác, trống canh trễ tràng
Việc binh bỏ chẳng giữ giàng
Vương sư dò đã tỏ tường thực hư
Hồ-công quyết kế thừa cơ
Lễ tiên, binh hậu, khắc cờ tập công
Kéo cờ chiêu phủ tiên phong
Lễ nghi giàn trước, bác đồng phục sau
Từ-công hờ hững biết đâu?
Đại quan lễ phục ra đầu cửa viên
Hồ-công ám hiệu trận tiền
Ba bề phát súng, bốn bên kéo cờ
Đang khi bất ý chẳng ngờ
Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn!
Tử sinh, liều giữa trận tiền
Dạn dầy cho biết gan liền tướng quân!
Khí thiêng khi đã về thần
Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng
Trơ như đá, vững như đồng
Ai lay chẳng chuyển, ai rung chẳng rời
Quan quân truy sát đuổi dài
Ầm ầm sát khí, ngất trời ai đang
Trong hào, ngoài lũy, tan hoang
Loạn quân vừa dắt tay nàng đến nơi
Trong vòng tên đá bời bời
Thấy Từ còn đứng giữa trời trơ trơ
Khóc rằng: Trí, dũng có thừa
Bởi nghe lời thiếp đến cơ hội này!
Mặt nào trông thấy nhau đây?
Thà liều sống chết một ngày với nhau!
Dòng thu như xối cơn sầu
Dứt lời, nàng cũng gieo đầu một bên
Lạ thay oan khí tương triền!
Nàng vừa phục xuống, Từ liền ngã ra
Quan quân, kẻ lại người qua
Xót nàng, sẽ lại vực ra dần dần
Đem vào đến trước trung quân
Hồ-công thấy mặt, ân cần hỏi han
Rằng: Nàng chút phận hồng nhan
Gặp cơn binh cách, nhiều nàn cũng thương!
Đã hay thành toán miếu đường
Chấp công cũng có lời nàng mới nên
Bây giờ sự đã vẹn tuyền
Mặc lòng nghĩ lấy, muốn xin bề nào?
Nàng càng giọt ngọc tuôn đào
Ngập ngừng mới gửi thấp cao sự lòng
Rằng: Từ là đấng anh hùng
Dọc ngang trời rộng, vẫy vùng bể khơi
Tin tôi nên quá nghe lời
Đem thân bách chiến làm tôi Triều đình
Ngỡ là phu quí phụ vinh
Ai ngờ một phút tan tành thịt xương!
Năm năm trời bể ngang tàng
Dẫn mình đi bỏ chiến tràng như không
Khéo khuyên kể lấy làm công
Kể bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu!
Xét mình công ít, tội nhiều
Sống thừa, tôi đã nên liều mình tôi!
Xin cho thiển thổ một đôi
Gọi là đắp điếm lấy người tử sinh.
Hồ-công nghe nói thương tình
Truyền cho kiểu táng di hình bên sông.
Trong quân mở tiệc hạ công
Xôn xao tơ trúc, hội đồng quân quan
Bắt nàng thị yến dưới màn
Giở say, lại ép vặn đàn nhặt tâu
Một cung gió tủi mưa sầu
Bốn dây rỏ máu năm đầu ngón tay
Ve ngâm, vượn hót, nào tày
Lọt tai Hồ cũng nhăn mày, rơi châu
Hỏi rằng: Này khúc ở đâu?
Nghe ra muôn oán, nghìn sầu lắm thay!
Thưa rằng: Bạc mệnh khúc này
Phổ vào đàn ấy những ngày còn thơ
Cung cầm, lựa những ngày xưa
Mà gương bạc mệnh bây giờ là đây!
Nghe càng đắm, đắm càng say
Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình!
Dạy rằng: Hương hỏa ba sinh
Dây loan xin nối cầm lành cho ai.
Thưa rằng: Chút phận lạc loài
Trong mình, nghĩ đã có người thác oan
Còn chi nữa, cánh hoa tàn
Tơ lòng đã dứt, dây đàn Tiểu lân
Rộng thương còn mảnh hồng quần
Hơi tàn được thấy gốc phần là may!
Hạ công chén đã quá say
Hồ công đến lúc rạng ngày nhớ ra
Nghĩ mình phương diện quốc gia
Quan trên nhắm xuống, người ta trông vào
Phải tuồng trăng gió hay sao?
Sự này, biết tính thế nào được đây?
Công nha vừa buổi rạng ngày
Quyết tình, Hồ mới đoán ngay một bài
Lệnh quan ai dám cãi lời?
Ép tình mới gán cho người thổ quan
Ông tơ thực nhé đa đoan!
Xe tơ sao khéo vơ quàng vơ xiên?
Kiệu hoa áp thẳng xuống thuyền
Lá rèm rủ thấp, ngọn đèn khêu cao
Nàng càng ủ liễu phai đào
Trăm phần, nào có phần nào phần tươi
Đành thân cát dập sóng vùi
Cướp công cha mẹ, thiệt đời thông minh!
Chân trời, mặt bể, lênh đênh
Nắm xương biết gửi tử sinh chốn nào?
Duyên đâu, ai dứt tơ đào?
Nợ đâu, ai đã dắt vào tận tay?
Thân sao, thân đến thế này?
Còn ngày nào cũng dư ngày ấy thôi!
Đã không biết sống là vui
Tấm thân nào biết thiệt thòi là thương!
Một mình cay đắng trăm đường
Thôi thì nát ngọc, tan vàng, thì thôi!
Mảnh trăng đã gác non đoài
Một mình luống những đứng ngồi chưa xong
Triều đâu nổi sóng đùng đùng
Hỏi ra mới biết là sông Tiền-đường
Nhớ lời thần mộng rõ ràng
Này thôi hết kiếp đoạn tràng là đây!
Đạm Tiên, nàng nhé có hay?
Hẹn ta thì đợi dưới này rước ta.
Dưới đèn sẵn bức tiên hoa
Một thiên tuyệt bút, gọi là để sau
Cửa bồng vội mở rèm châu
Trời cao, sông rộng, một màu bao la
Rằng: Từ công hậu đãi ta
Xót vì việc nước mà ra phụ lòng
Giết chồng mà lại lấy chồng
Mặt nào mà lại đứng trong cõi đời?
Thôi thì một thác cho rồi
Tấm lòng phó mặc trên trời dưới sông!
Trông vời con nước mênh mông
Đem mình gieo xuống giữa dòng tràng giang
Thổ quan theo với vội vàng
Thì đà đắm ngọc, chìm hương cho rồi!
Thương thay! Cũng một thân người
Hại thay! Mang lấy sắc tài làm chi?
Những là oan khổ lưu ly
Chờ cho hết kiếp, còn gì là thân?
Mười lăm năm, bấy nhiêu lần
Làm gương cho khách hồng quần thử soi
Đời người đến thế thì thôi!
Trong cơ âm cực, dương hồi khôn hay
Mấy người hiếu nghĩa xưa nay
Trời làm chi đến lâu ngày càng thương
Giác Duyên từ tiết giã nàng
Đeo bầu quảy níp, rộng đường vân du
Gặp bà Tam hợp đạo cô
Thong dong, hỏi hết nhỏ to sự nàng:
Người sao hiếu nghĩa đủ đường
Kiếp sao rặt những đoạn trường thế thôi?
Sư rằng: Phúc họa đạo Trời
Cỗi nguồn, cũng ở lòng người mà ra
Có Trời mà cũng tại ta
Tu là cõi phúc, tình là dây oan
Thúy Kiều sắc sảo, khôn ngoan
Vô duyên là phận hồng nhan đã đành
Lại mang lấy một chữ tình
Khư khư mình buộc lấy mình vào trong
Vậy nên những chốn thong dong
Ở không yên ổn, ngồi không vững vàng
Ma đưa lối, quỷ đưa đường
Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi
Hết nạn ấy, đến nạn kia
Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần
Trong vòng giáo dựng, gươm trần
Kề lưng hùm sói, gửi thân tôi đòi
Giữa dòng nước dẫy sóng giồi
Trước hàm rồng cá, gieo mồi vắng tanh
Oan kia theo mãi với tình
Một mình mình biết, một mình mình hay
Làm cho sống đọa thác đầy
Đoạn trường cho hết kiếp này mới thôi!
Giác Duyên nghe nói rụng rời:
Một đời nàng nhé! Thương ôi còn gì?
Sư rằng: Song chẳng hề chi
Nghiệp duyên cân lại, nhắc đi còn nhiều
Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều
Mắc điều tình ái, khỏi điều tà dâm
Lấy tình thâm, trả nghĩa thâm
Bán mình đã động hiếu tâm đến Trời
Hại một người, cứu một người
Biết đường khinh trọng, biết lời phải chăng
Thực công đức ấy ai bằng
Túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi
Khi nên, Trời cũng chiều người
Nhẹ nhàng nợ trước, đền bồi duyên sau
Giác Duyên dầu nhớ nghĩa nhau
Tiền Đường thả một bè lau rước người
Trước sau cho vẹn một lời
Duyên ta mà cũng phúc Trời chi không?
Giác Duyên nghe nói mầng lòng
Lân la tìm thú bên sông Tiền đường
Đánh tranh, chụm nóc thảo đường
Một gian nước biếc, mây vàng chia đôi
Thuê năm, ngư phủ hai người
Đóng thuyền chực bến, kết chài giăng sông
Một lòng chẳng quản mấy công
Khéo thay! Gặp gỡ cũng trong chuyển vần
Kiều từ gieo xuống dòng ngân
Nước xuôi bỗng đã trôi dần tận nơi
Ngư ông kéo lưới vớt người
Ngẫm lời Tam hợp rõ mười chẳng ngoa!
Trên mui lướt thướt áo là
Tuy dầm hơi nước, chưa lòa bóng gương
Giác Duyên nhận thật mặt nàng
Nàng còn thiêm thiếp giấc nồng chưa phai
Mơ màng phách quế, hồn mai
Đạm Tiên, thoắt đã thấy người ngày xưa
Rằng: Tôi đã có lòng chờ
Mất công mười mấy năm thừa ở đây
Chị sao phận mỏng, đức dày?
Kiếp xưa đã vậy, lòng này dễ ai!
Tâm thành đã thấu đến Trời
Bán mình là hiếu, cứu người là nhân
Một niềm vì nước vì dân
Đem công cất một đồng cân đã già
Đoạn trường sổ, rút tên ra
Đoạn trường thơ, phải đưa mà trả nhau
Còn nhiều hưởng thụ về sau
Duyên xưa đầy đặn, phúc sau dồi dào.
Nàng còn ngơ ngẩn biết sao
Trạc Tuyền! nghe tiếng gọi vào bên tai
Giật mình thoắt tỉnh giấc mai
Bâng khuâng, nào đã biết ai mà nhìn
Trong thuyền, nào thấy Đạm Tiên?
Bên mình chỉ thấy Giác Duyên ngồi kề
Thấy nhau mầng rỡ trăm bề
Dọn thuyền, mới rước nàng về thảo lư
Một nhà chung chạ sớm trưa
Gió trăng mát mặt, muối dưa chay lòng
Bốn bề bát ngát mênh mông
Triều dâng hôm sớm, mây lồng trước sau
Nạn xưa, trút sạch lầu lầu
Duyên xưa chưa dễ biết đâu chốn này.
Nỗi nàng tai nạn đã đầy
Nỗi chàng Kim Trọng bấy chầy mới thương
Từ ngày muôn dặm phù tang
Nửa năm ở đất Liêu dương lại nhà
Vội sang vườn Thúy dò la
Nhìn xem phong cảnh nay đà khác xưa
Đầy đường cỏ mọc lau thưa
Song trăng quạnh quẽ, vách mưa rã rời
Trước sau nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.04.2012 20:26:01 bởi Anh Nguyên >
21/- Kim Trọng sau khi chịu tang trở về,
biết Thuý Kiều bán mình chuộc tội cho cha,
đau sót vô cùng.
Nỗi nàng tai nạn đã đầy
Nỗi chàng Kim Trọng bấy chầy mới thương
Từ ngày muôn dặm phù tang
Nửa năm ở đất Liêu dương lại nhà
Vội sang vườn Thúy dò la
Nhìn xem phong cảnh nay đà khác xưa
Đầy đường cỏ mọc lau thưa
Song trăng quạnh quẽ, vách mưa rã rời
Trước sau nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông
Xập xè én liệng lầu không
Cỏ lan mặt đất, rêu phong dấu giày
Cuối tường gai gốc mọc đầy
Đi về, này những lối này năm xưa
Chung quanh lặng ngắt như tờ
Nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai?
Láng giềng có kẻ sang chơi
Lân la sẽ hỏi một hai sự tình
Hỏi ông, ông mắc tụng đình
Hỏi nàng, nàng đã bán mình chuộc cha
Hỏi nhà, nhà đã dời xa
Hỏi chàng Vương với Vương bà, Thúy Vân
Đều là sa sút, khó khăn
Thuê may, bán viết, kiếm ăn lần hồi
Điều đâu sét đánh lưng trời
Thoạt nghe, chàng thoắt rụng rời xiết bao!
Vội han di trú nơi nao?
Đánh đường, chàng mới tìm vào tận nơi
Nhà tranh, vách đất tả tơi
Lau treo rèm nát, trúc gài phên thưa
Một sân đất cỏ dầm mưa
Càng ngao ngán nỗi, càng ngơ ngẩn dường!
Đánh liều lên tiếng ngoài tường
Chàng Vương nghe tiếng, vội vàng chạy ra
Dắt tay vội rước vào nhà
Mái sau, viên ngoại ông bà ra ngay
Khóc than kể hết niềm tây:
Chàng ôi! Biết nỗi nước này cho chưa?
Kiều nhi phận mỏng như tờ
Một lời đã lỗi tóc tơ với chàng!
Gặp cơn gia biến lạ dường
Bán mình nó đã tìm đường cứu cha
Dùng dằng khi bước chân ra
Cực trăm nghìn nỗi, dặn ba bốn lần
Trót lời nặng với lang quân
Mượn con em nó Thúy Vân thay lời
Gọi là trả chút nghĩa người
Sầu này dằng dặc muôn đời chưa quên!
Kiếp này duyên đã phụ duyên
Dạ đài còn biết, sẽ đền lai sinh
Mấy lời ký chú đinh ninh
Ghi lòng để dạ, cất mình ra đi
Phận sao bạc bấy, Kiều nhi!
Chàng Kim về đó, con thì đi đâu?
Ông bà càng nói càng đau
Chàng càng nghe nói, càng dầu như dưa
Vật mình, vẫy gió, tuôn mưa
Dầm dề giọt ngọc, thẫn thờ hồn mai
Đau đòi đoạn, ngất đòi thôi
Tỉnh ra lại khóc, khóc rồi lại mê
Thấy chàng đau nỗi biệt ly
Nhận ngừng, ông mới vỗ về giải khuyên:
Bây giờ ván đã đóng thuyền
Đã đành phận bạc, khôn đền tình chung!
Quá thương chút nghĩa đèo bòng
Nghìn vàng thân ấy, dễ hòng bỏ sao?
Dỗ dành, khuyên giải trăm chiều
Lửa phiền càng dập, càng khêu mối phiền
Thề xưa giở đến kim hoàn
Của xưa lại giở đến đàn với hương
Sinh càng trông thấy, càng thương
Gan càng tức tối, ruột càng xót xa
Rằng: Tôi trót quá chân ra
Để cho đến nỗi trôi hoa, dạt bèo
Cùng nhau thề thốt đã nhiều
Những điều vàng đá, phải điều nói không?
Chưa chăn gối cũng vợ chồng
Lòng nào mà nỡ dứt lòng cho đang?
Bao nhiêu của, mấy ngày đàng
Còn tôi, tôi gặp mặt nàng mới thôi!
Nỗi thương nói chẳng hết lời
Tạ từ, sinh mới sụt sùi trở ra
Vội về sửa chốn vườn hoa
Rước mời viên ngoại ông bà cùng sang
Thần hôn, chăm chút lễ thường
Dưỡng thân, thay tấm lòng nàng ngày xưa
Đinh ninh mài lệ, chép thư
Cắt người tìm tõi, đưa tờ nhắn nhe
Biết bao công mượn, của thuê
Lâm thanh mấy độ đi về dặm khơi
Người một nơi, hỏi một nơi
Mênh mông nào biết bể trời nơi nao?
<bài viết được chỉnh sửa lúc 23.04.2012 20:50:23 bởi Anh Nguyên >
22/- Kim Trọng kết duyên cùng Thuý Vân,
cùng gia đình Viên Ngoại tìm gặp
được Thuý Kiều.
Kim càng thảm thiết, khát khao
Như nung gan sắt, như bào lòng son
Ruột tằm ngày một héo dòn
Tuyết sương ngày một hao mòn mình ve
Thẩn thơ, lúc tỉnh, lúc mê
Máu theo nước mắt, hồn lìa chiêm bao
Xuân huyên lo sợ biết bao
Quá ra, khi đến thế nào mà hay!
Vội vàng sắm sửa chọn ngày
Duyên Vân sớm đã xe dây cho chàng
Người yểu điệu, kẻ văn chương
Trai tài, gái sắc, xuân đương vừa thì
Tuy rằng vui chữ vu qui
Vui này, đã cất sầu kia được nào!
Khi ăn ở, lúc ra vào
Càng sâu duyên mới, càng dào tình xưa
Nỗi nàng nhớ đến bao giờ
Tuôn châu đôi trận, vò tơ trăm vòng
Có khi vắng vẻ thư phòng
Đốt lò hương, giở phím đồng ngày xưa
Bẻ bai, rủ rỉ tiếng tơ
Trầm bay lạt khói, gió đưa lay rèm
Dường như bên nóc bên thềm
Tiếng Kiều đồng vọng, bóng xiên mơ màng
Bởi lòng tạc đá ghi vàng
Tưởng nàng, nên lại thấy nàng về đây
Những là phiền muộn đêm ngày
Xuân thu, biết đã đổi thay mấy lần
Chế khoa gặp hội tràng văn
Vương, Kim, cùng chiếm bảng xuân một ngày
Cửa trời rộng mở đường mây
Hoa chào ngõ hạnh, hương bay dặm phần
Chàng Vương nhớ đến xa gần
Sang nhà Chung lão tạ ân chu tuyền
Tình xưa, ân trả, nghĩa đền
Gia thân bèn mới kết duyên Châu Trần
Kim từ nhẹ bước thanh vân
Nỗi nàng, càng nghĩ xa gần, càng thương
Ấy ai dặn ngọc thề vàng
Bây giờ kim mã, ngọc đường với ai
Rễ bèo, chân sóng lạc loài
Nghĩ mình vinh hiển, thương người lưu ly
Vâng ra ngoại nhận Lâm Chuy
Quan sơn nghìn dặm, thê nhi một đoàn
Cầm đường ngày tháng thanh nhàn
Sớm khuya tiếng hạc, tiếng đàn tiêu dao
Phòng xuân trướng rủ hoa đào
Nàng Vân nằm bỗng chiêm bao thấy nàng
Tỉnh ra mới rỉ cùng chàng
Nghe lời, chàng cũng hai đường tin nghi
Nọ Lâm thanh với Lâm chuy
Khác nhau một chữ, hoặc khi có lầm
Trong cơ thành khí, tương tầm
Ở đây hoặc có giai âm chăng là?
Thăng đường chàng mới hỏi tra
Họ Đô có kẻ lại già thưa lên:
Sự này đã ngoại mười niên
Tôi đã biết mặt, biết tên rành rành
Tú bà cùng Mã Giám Sinh
Đi mua người ở Bắc kinh đưa về
Thúy Kiều tài sắc ai bì
Có nghề đàn lại đủ nghề văn thơ
Kiên trinh chẳng phải gan vừa
Liều mình thế ấy, phải lừa thế kia
Phong trần chịu đã ê chề
Dây duyên, sau lại gả về Thúc lang
Phải tay vợ cả phũ phàng
Bắt về Vô tích, toan đường bẻ hoa
Bực mình, nàng mới trốn ra
Chẳng may lại gặp một nhà Bạc kia
Thoắt buôn về, thoắt bán đi
Mây trôi bèo nổi, thiếu gì là nơi!
Bỗng đâu lại gặp một người
Hơn người trí dũng, nghiêng trời uy linh
Trong tay muôn vạn tinh binh
Kéo về đóng chật một thành Lâm chuy
Tóc tơ các tích mọi khi
Oán thì trả oán, ân thì trả ân
Đã nên có nghiã có nhân
Trước sau trọn vẹn, xa gần ngợi khen
Chưa tường được họ được tên
Sự này, hỏi Thúc Sinh viên mới tường.
Nghe lời Đỗ nói rõ ràng
Tức thì đệ thiếp mời chàng Thúc Sinh
Nỗi nàng hỏi hết phân minh
Chồng con đâu tá, tính danh là gì?
Thúc rằng: Gặp lúc lưu ly
Trong quân, tôi hỏi thiếu gì tóc tơ
Đại vương tên Hải họ Từ
Đánh quen trăm trận, sức dư muôn người
Gặp nàng thì ở châu Thai
Lạ gì quốc sắc, thiên tài phải duyên
Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên
Làm nên động địa, kinh thiên đùng đùng
Đại quân đồn đóng cõi đông
Về sau chẳng biết vân mồng làm sao?
Nghe tường ngành ngọn tiêu hao
Lòng riêng, chàng luống lao đao thẫn thờ
Xót thay chiếc lá bơ vơ
Kiếp trần, biết dũ bao giờ cho xong?
Hoa theo nước chảy xuôi dòng
Xót thân chìm nổi, đau lòng hợp tan!
Lời xưa đã lỗi muôn vàn
Mảnh hương còn đó, phím đàn còn đây
Đàn cầm khéo ngẩn ngơ dây
Lửa hương biết có kiếp này nữa thôi?
Bình bồng còn chút xa xôi
Đỉnh chung sao nỡ ăn ngồi cho an!
Rắp mong treo ấn từ quan
Mấy sông cũng lội, mấy ngàn cũng qua
Giấn mình trong áng can qua
Vào sinh ra tử, họa là thấy nhau
Nghĩ điều trời thẳm vực sâu
Bóng chim tăm cá, biết đâu mà tìm?
Những là nấn ná đợi tin
Nắng mưa đã biết mấy phen đổi dời!
Năm mây, bỗng thấy chiếu Trời
Khâm ban sắc chỉ đến nơi rành rành
Kim thì cải nhậm Nam bình
Chàng Vương, cũng cải nhậm thành Phú dương
Sắm sanh xe ngựa vội vàng
Hai nhà cùng thuận một đường phó quan
Xẩy nghe thế giặc đã tan
Sóng êm Phúc kiến, lửa tàn Tích giang
Được tin Kim mới rủ Vương
Tiện đường, cùng lại tìm nàng sau xưa
Hàng-châu đến đó bấy giờ
Thật tin hỏi được tóc tơ rành rành
Rằng: Ngày hôm nọ giao binh
Thất cơ, Từ đã thu linh trận tiền
Nàng Kiều công cả, chẳng đền
Lệnh quan lại bắt ép duyên Thổ-tù
Nàng đà gieo ngọc, trầm châu
Sông Tiền đường đó, ấy mồ hồng nhan!
Thương ôi! Không hợp mà tan
Một nhà vinh hiển, riêng oan một nàng!
Chiêu hồn, thiết vị, lễ thường
Giải oan, lập một đàn tràng bên sông
Ngọn triều non bạc trùng trùng
Vời trông còn tưởng cánh hồng lúc gieo
Tình thâm, bể thảm, lạ điều
Nào hồn tinh vệ biết theo chốn nào?
Cơ duyên đâu bỗng lạ sao?
Giác Duyên đâu bỗng tìm vào đến nơi
Trông lên linh vị chữ bài
Thất kinh mới hỏi: Những người đâu ta?
Với nàng thân thích gần xa?
Người còn, sao bỗng làm ma khóc người?
Nghe tin ngơ ngác rụng rời
Xúm quanh kể họ, rộn lời hỏi tra:
Này chồng, này mẹ, này cha
Này là em ruột, này là em dâu
Thật tin nghe đã bấy lâu
Pháp sư dạy thế, sự đâu lạ dường!
Sư rằng: Nhân quả với nàng
Lâm chuy buổi trước, Tiền đường buổi sau
Khi nàng gieo ngọc, trầm châu
Đón nhau, tôi đã gặp nhau rước về
Cùng nhau nương cửa Bồ-đề
Thảo-am đó, cũng gần kề chẳng xa
Phật tiền ngày bạc lân la
Đăm đăm, nàng cũng nhớ nhà khôn khuây.
Nghe tin, nở mặt nở mày
Mầng nào lại quá mầng này nữa chăng?
Từ phen chiếc lá lìa rừng
Thăm tìm luống những liệu chừng nước mây
Rõ ràng hoa rụng hương bay
Kiếp sau họa thấy, kiếp này hẳn thôi
Minh, dương, đôi ngã chắc rồi
Cõi trần mà lại thấy người cửu nguyên
Cùng nhau lạy tạ Giác Duyên
Bộ hành một lũ, theo liền một khi
Bẻ lau, vạch cỏ, tìm đi
Tình thâm luống hãy hồ nghi nửa phần
Quanh co theo giải giang tân
Khỏi rừng lau đã tới sân Phật đường
Giác Duyên lên tiếng gọi nàng
Buồng trong, vội dạo sen vàng bước ra
Trông xem đủ mặt một nhà:
Xuân già còn khỏe, huyên già còn tươi
Hai em phương trưởng hòa hai
Nọ chàng Kim đó, là người ngày xưa!
Tưởng bây giờ là bao giờ
Rõ ràng mở mắt, còn ngờ chiêm bao!
Giọt châu thánh thót quyên bào
Mầng mầng, tủi tủi, biết bao sự tình!
Huyên già dưới gối gieo mình
Khóc than, mình kể sự mình đầu đuôi:
Từ con lưu lạc quê người
Bèo trôi, sóng vỗ, chốc mười lăm năm
Tính rằng sông nước cát lầm
Kiếp này, ai lại còn cầm gặp đây?
Ông bà trông mặt, cầm tay
Dung quang chẳng khác chi ngày bước ra
Bấy chầy dãi nguyệt dầu hoa
Mười phần xuân có gầy ba bốn phần
Nỗi mầng, biết lấy chi cân?
Lời tan hợp, chuyện xa gần, thiếu đâu?
Hai em hỏi trước han sau
Đứng trông, chàng cũng trở sầu làm tươi.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 10.05.2012 11:59:06 bởi Anh Nguyên >
23/Thuý Kiều về với gia đình, kết hôn
cùng Kim Trọng.
Quây nhau lạy trước Phật đài
Tái-sinh trần tạ lòng người từ bi
Kiệu hoa giục giã tức thì
Vương ông dạy rước cùng về một nơi
Nàng rằng: Chút phận hoa rơi
Nửa đời nếm trải mọi mùi đắng cay
Tính rằng mặt nước chân mây
Lòng nào còn tưởng có rày nữa không?
Được rày tái thế tương phùng
Khát khao đã thỏa tấm lòng lâu nay
Đã đem mình bỏ am mây
Tuổi này gửi với cỏ cây cũng vừa
Mùi thiền, đã bén muối dưa
Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng
Sự đời đã tắt lửa lòng
Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi?
Dở dang nào có hay gì?
Đã tu, tu trót qua thì, thì thôi!
Trùng sinh ân nặng biển trời
Lòng nào nỡ dứt nghĩa người ra đi?
Ông rằng: Bỉ thử nhất thì
Tu hành thì cũng phải khi tòng quyền
Phải điều cầu Phật cầu tiên
Tình kia, hiếu nọ, ai đền cho đây?
Độ sinh nhờ đức cao dày
Lập am, rồi sẽ rước thầy ở chung.
Nghe lời nàng phải chiều lòng
Giã sư, giã cảnh, đều cùng bước ra
Một đoàn về đến quan nha
Đoàn viên, vội mở tiệc hoa vui vầy
Tàng tàng, chén cúc dở say
Đứng lên, Vân mới giải bày một hai
Rằng: Trong tác hợp cơ trời
Hai bên gặp gỡ, một lời kết giao
Gặp cơn bình địa ba đào
Vậy đem duyên chị buộc vào duyên em
Cũng là phận cải, duyên kim
Cũng là máu chảy ruột mềm chứ sao?
Những là rày ước mai ao
Mười lăm năm ấy, biết bao nhiêu tình!
Bây giờ gương vỡ lại lành
Khuôn thiêng lừa lọc, đã đành có nơi
Còn duyên may lại còn người
Còn vầng trăng bạc, còn lời nguyền xưa
Quả mai ba bảy đương vừa
Dào non sớm liệu xe tơ kịp thì.
Dứt lời, nàng vội gạt đi:
Sự muôn năm cũ kể chi bây giờ?
Một lời tuy có ước xưa
Xét mình dãi gió, dầm mưa đã nhiều
Nói càng hổ thẹn trăm chiều
Thì cho ngọn nước thủy triều chảy xuôi!
Chàng rằng: Nói cũng lạ đời!
Dẫu lòng kia vậy, còn lời ấy sao?
Một lời đã trót thâm giao
Dưới giày có đất, trên cao có trời!
Dẫu rằng vật đổi sao dời
Tử sinh cũng giữ lấy lời tử sinh!
Duyên kia có phụ chi tình
Mà toan chia gánh chung tình làm hai?
Nàng rằng: Gia thất duyên hài
Chút lòng ân ái, ai ai cũng lòng
Nghĩ rằng: Trong đạo vợ chồng
Hoa thơm phong nhụy, trăng vòng tròn gương
Chữ trinh đáng giá nghìn vàng
Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa!
Thiếp từ ngộ biến đến giờ
Ong qua, bướm lại, đã thừa xấu xa
Bấy chầy gió táp mưa sa
Mấy trăng cũng khuyết, mấy hoa cũng tàn!
Còn chi là cái hồng nhan?
Đã xong thân thế, còn toan nỗi nào?
Nghĩ mình chẳng hổ mình sao?
Dám đem trần cấu dự vào bố kinh!
Đã hay chàng nặng vì tình
Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru!
Từ rày khép cửa phòng thu
Chẳng tu thì cũng như tu mới là!
Chàng dầu nghĩ đến tình xa
Đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ
Nói chi kết tóc xe tơ?
Đã buồn cả ruột, lại dơ cả đời!
Chàng rằng: Khéo nói nên lời!
Mà trong lẽ phải có người có ta
Xưa nay trong đạo đàn bà
Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường:
Có khi biến, có khi thường
Có quyền, nào phải một đường chấp kinh?
Như nàng lấy hiếu làm trinh
Bụi nào cho đục được mình ấy vay?
Trời còn để có hôm nay
Tan sương đầu ngõ, vén mây giữa trời
Hoa tàn mà lại thêm tươi
Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa
Có điều chi nữa mà ngờ
Khách qua đường để hững hờ chàng Tiêu?
Nghe chàng nói đã hết điều
Hai thân thì cũng quyết theo một bài
Hết lời khôn lẽ chối lời
Cúi đầu, nàng những ngắn dài thở than
Nhà vừa mở tiệc đoàn viên
Hoa soi ngọn đuốc, hồng chen bức là
Cùng nhau giao bái một nhà
Lễ đà đủ lễ, đôi đà đủ đôi
Động phòng dìu dặt chén mồi
Bâng khuâng duyên mới, ngậm ngùi tình xưa
Những từ sen ngó đào tơ
Mười lăm năm, mới bây giờ là đây!
Tình duyên ấy, hợp tan này
Bi hoan mấy nỗi, đêm chầy trăng cao
Canh khuya bức gấm rủ thao
Dưới đèn tỏ dạng, má đào thêm xuân
Tình nhân lại gặp tình nhân
Hoa xưa ong cũ, mấy phân chung tình!
Nàng rằng: Phận thiếp đã đành
Có làm chi nữa cái mình bỏ đi!
Nghĩ chàng nghĩa cũ tình ghi
Chiều lòng gọi có xướng tùy mảy may
Riêng lòng đã thẹn lắm thay
Cũng là mặt dạn, mày dày khó coi!
Những như âu yếm vành ngoài
Còn toan mở mặt với người cho qua
Lại như những thói người ta
Vớt hương dưới đất, bẻ hoa cuối mùa
Cũng dơ giở nhuốc bày trò
Còn tình đâu nữa, là thù đấy thôi!
Người yêu, ta xấu với người
Yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau
Cửa nhà dù tính về sau
Thì còn em đó, lọ cầu chị đây?
Chữ trinh còn một chút này
Chẳng cầm cho vững, lại giày cho tan!
Còn nhiều ân ái chan chan
Hay gì vầy cái hoa tàn mà chơi?
Chàng rằng: Gắn bó một lời
Bỗng không cá nước, chim trời lỡ nhau
Xót người lưu lạc bấy lâu
Tưởng thề thốt nặng cũng đau đớn nhiều!
Thương nhau sinh tử đã liều
Gặp nhau còn chút bấy nhiêu là tình
Chừng xuân tơ liễu còn xanh
Nghĩ rằng chưa thoát khỏi vành ái ân
Gương trong chẳng chút bụi trần
Một lời quyết hẳn muôn phần kính thêm
Bấy lâu đáy bể mò kim
Là nhiều vàng đá, phải tìm trăng hoa?
Ai ngờ lại hợp một nhà
Lọ là chăn gối, mới ra sắt cầm!
Nghe lời sửa áo, cài trâm
Khấu đầu lạy tạ cao thâm nghìn trùng
Thân tàn gạn đục khơi trong
Là nhờ quân tử khác lòng người ta
Mấy lời tâm phúc ruột rà
Tương tri dường ấy, mới là tương tri!
Chở che, đùm bọc, thiếu gì?
Trăm năm danh tiết cũng vì đêm nay!
Thoắt thôi, tay lại cầm tay
Càng yêu vì nết, càng say vì tình
Thêm nến giá, nối hương bình
Cùng nhau lại chúc chén quỳnh giao hoan
Tình xưa lai láng khôn hàn
Thong dong, lại hỏi ngón đàn ngày xưa
Nàng rằng: Vì mấy đường tơ
Làm người cho đến bây giờ mới thôi!
Ăn năn thì sự đã rồi!
Nể lòng người cũ, vâng lời một phen.
Phím đàn dìu dặt tay tiên
Khói trầm cao thấp, tiếng huyền gần xa
Khúc đầu đầm ấm dương hòa!
Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh?
Khúc đâu êm ái xuân tình!
Ấy hồn Thục đế hay mình đỗ-quyên?
Trong sao châu rõ duềnh quyên
Ấm sao hạt ngọc Lam điền mới đông!
Lọt tai nghe suốt năm cung
Tiếng nào là chẳng não nùng xôn xao
Chàng rằng: Phổ ấy tay nào?
Xưa sao sầu thảm, nay sao vui vầy?
Tẻ vui bởi tại lòng này
Hay là khổ-tận đến ngày cam-lai?
Nàng rằng: Vì chút nghề chơi
Đoạn trường tiếng ấy hại người bấy lâu!
Một phen tri kỷ cùng nhau
Cuốn dây từ đấy, về sau cũng chừa.
Truyện trò chưa cạn tóc tơ
Gà đà gáy sáng, trời vừa rạng đông
Tình riêng, chàng lại nói sòng
Một nhà ai cũng lạ lùng khen khao
Cho hay thục nữ chí cao
Phải người sớm mận tối đào như ai?
Hai tình vẹn vẽ hòa hai
Chẳng trong chăn gối, cũng ngoài cầm thơ
Khi chén rượu, lúc cuộc cờ
Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên
Ba sinh đã phỉ mười nguyền
Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy
Nhớ lời, lập một am mây
Khiến người thân tín rước thầy Giác Duyên
Đến nơi đóng cửa gài then
Rêu trùm kẽ ngạch, cỏ lên mái nhà
Sư đà hái thuốc phương xa
Mây bay, hạc lánh, biết là tìm đâu?
Nặng vì chút nghĩa bấy lâu
Trên am cứ giữ hương dầu hôm mai
Một nhà phúc lộc gồm hai
Nghìn năm dằng dặc, quan giai lần lần
Thừa gia chẳng hết nàng Vân
Một cây cù-mộc, một sân quế-hòe
Phong lưu phú quí ai bì
Vườn xuân một cửa để bia muôn đời
Ngẫm hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần, phải phong trần
Cho thanh cao, mới được phần thanh cao
Có đâu thiên vị người nào
Chữ Tài, chữ Mệnh dồi dào cả hai
Có tài, mà cậy chi tài?
Chữ tài liền với chữ tai một vần
Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài!
Lời quê chắp nhặt dông dài
Mua vui cũng được một vài trống canh.
~Nguyễn-Du~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 10.05.2012 11:34:08 bởi Anh Nguyên >
LONG THÀNH GIAI NHÂN
Tính thị bất kí thanh
Độc thiện Nguyễn cầm (1)
Cử thành chi nhân dĩ Cầm danh
Học đắc tiên triều cung trung Cung phụng khúc
Tự thị thiên thượng nhân gian đệ nhất thanh
Dư ức thiểu niên tằng nhất kiến
Giám hồ hồ biên dạ khai yến
Kì thì tam thất chính phương niên
Hồng trang yểm ái đào hoa diện
Đà nhan hám thái tối nghi nhân
Lịch loạn ngũ thanh tùy thủ biến
Hoãn như sơ phong độ tùng lâm
Thanh như song hạc minh tại âm
Liệt như Tiến Phúc bi (4) đầu toái tích lịch
Ai như Trang Tịch (5) bệnh trung vi việt ngâm
Thính giả mĩ mĩ bất tri quyện
Tiện thị Trung Hòa (6) đại nội âm
Tây Sơn chư thần mãn tọa tận khuynh đảo
Triệt dạ truy hoan bất tri bão
Tả phao hữu trịch tranh triền đầu
Nê thổ kim tiền thù thảo thảo
Hào hoa ý khí lăng vương hầu
Ngũ lăng (7) niên thiếu bất túc đạo
Tịnh tương tam thập lục (8) cung xuân
Hoạt tố Trường An vô giá bảo
Thử tịch hồi đầu nhị thập niên
Tây Sơn bại hậu dư Nam thiên
Chỉ xích Long Thành bất phục kiến
Hà huống thành trung ca vũ diên
Tuyên Phủ (9) sứ quân vi dư trùng mãi tiếu
Tịch trung ca kĩ giai niên thiếu
Tịch mạt nhất nhân phát bán hoa
Nhan sấu thần khô hình lược tiểu
Lang tạ tàn mi bất sức trang
Thùy tri tựu thị đương niên thành trung đệ nhất diệu
Cựu khúc thanh thanh ám lệ thùy
Nhĩ trung tĩnh thính tâm trung bi
Mãnh nhiên ức khởi nhị thập niên tiền sự
Giám hồ tịch trung tằng kiến chi
Thành quách suy di nhân sự cải
Ki xứ tang điền biến thương hải
Tây Sơn cơ nghiệp tận tiêu vong
Ca vũ không di nhất nhân tại
Thuấn tức bách niên năng kỉ thì
Thương tâm vãng sự lệ triêm y
Nam Hà quy lai đầu tận bạch
Quái để giai nhân nhan sắc suy
Song nhãn trừng trừng không tưởng tượng
Khả liên đối diện bất tương tri
~Nguyễn-Du~
Bài ca về người gảy đàn đất Long Thành
Tiểu dẫn:
Người gảy đàn đất Long Thành ấy, tên họ là gì không rõ. Nghe nói lúc nhỏ nàng học đàn Nguyễn nơi đội nữ nhạc trong cung vua Lê. Binh Tây Sơn dấy lên, các đội nhạc cũ lớp chết lớp bỏ đi. Nàng lưu lạc ở các chợ, ôm đàn gảy dạo. Những bản đàn do nàng gảy là những khúc trong cung phụng gảy cho vua nghe, người ngoài không ai biết. Cho nên tài danh của nàng lừng lẫy một thời.
Buổi thiếu niên, đến kinh đô thăm anh, tôi trọ gần Giám hồ. Cạnh đó các quan Tây Sơn tập hộo nữ nhạc, danh cơ không dưới vài chục. Nàng ăn đứt mọi người với cây đàn Nguyễn, lại hát hay và khéo nói khôi hài. Cử tọa đều say mê điên đảo đua nhau ban thưởng. Những chén rượu thưởng to lớn, nàng nhận uống cạn. Tiền thưởng nhiều vô số. Vàng lụa chồng chất đầy cả đất. Lúc bấy giờ tôi núp trong bóng tối, trông thấy nàng không rõ lắm. Sau gặp lại ở nhà anh tôi. Nàng người thấp má bầu, trán giô, mặt gẫy. Không đẹp lắm, nhưng da trắng trẻo, khéo trang điểm, mày thanh, má phấn, áo màu hồng, quần sắc túy, hớn hở có bề phong tao. Tánh lại hay rượu, ưa hí hước. Đôi mắt long lanh không để một ai vào tròng. Khi ở nhà anh tôi, mỗi lần uống rượu, năng uống say vùi, nôn mửa bừa bãi, nằm lăn trên đất, bạn bè chê trách, không lấy làm điều.
Sau đó vài năm, tôi dời nhà vào Nam, ngót mấy năm liền không trở lại Long Thành. Mùa xuân năm nay, phụng mệnh đi sứ Trung Quốc, tôi đi ngang qua Long Thành. Các bạn mở tiệc tiễn tôi tại dinh Tuyên Phủ, có gọi vài chục nữ nhạc, tôi đều không quen mặt biết tên. Tiệc khởi múa hát. Kế đến tiếng đàn trổi lên, nghe trong trẻo khác thường không chút giống thời khúc. Lòng tôi kinh dị. Nhìn người gảy đàn, thì thấy thân gầy, thân khô, mặt đen, sắc trông như quỷ, áo quần toàn vải thô, bạc màu lại vá nhiều mảnh trắng, ngồi lầm lì ở cuối chiếu, không nói cũng không cười, hình trạng thật khó coi. Tôi không biết là ai, nhưng nghe tiếng đàn thì dường như có quen, nên động lòng trắc ẩn. Tiệc tan, hỏi thăm thì ra là người trước kia đã gặp.
Than ôi! Người ấy sao đến nỗi thế này! Cúi ngửa bồi hồi, nghĩ đến cảnh cổ kim, lòng tôi cảm kích vô hạn. Đời người trăm năm, những cảnh vinh nhục buồn vui thật sao không lường được! Sau khi từ biệt, trên đường đi, cảm thương khôn nén, nên soạn bài ca để gửi hứng:
Quách Tấn dịch xuôi:
Người đẹp đất Long Thành
Không nghe tên họ
Riêng thạo đàn Nguyễn
Người trong thành bèn lấy chữ Cầm mà đặt tên.
Nàng học được khúc Cung Phụng trong cung tiền triều (2)
Đó là những khúc đàn hay nhất trời đất.
Tôi nhớ lúc thiếu thời đã gặp một lần
Bên bờ hồ Giám trong một cuộc dạ yến,
Lúc đó nàng khoảng hai mươi mốt tuổi,
Áo hồng ánh lên mặt hoa đào,
Má hừng rượu, vẻ ngây thơ, rất dễ thương,
Năm cung réo rắt, theo ngón tay mà thay đổi điệu.
Tiếng khoan như gió thoảng qua rừng thông,
Tiếng trong như đôi hạc kêu trên cao thẳm,
Tiếng lạnh như sét đánh tan bia Tiến Phúc,
Tiếng buồn như Trang Tịch ngâm tiếng Việt lúc bệnh,
Người nghe say sưa không biết mỏi,
Đó là những khúc đàn trong đại nội Trung Hòa.
Các quan Tây Sơn trong tiệc đều say mê điên đảo,
Mải vui suốt đêm không biết chán.
Bên tả bên hữu tranh nhau vãi thưởng,
Tiền bạc coi rẻ như đất bùn.
Ý khí đào hoa át cả các bậc vương hầu,
Đám thiếu niên đất Ngũ Lăng không đáng kể.
Tưởng chừng ba mươi sáu cung xuân,
Chung đúc một vật báu vô giá đất Trường An.
Nhớ lại từ bữa tiệc ấy đến nay đã hai mươi năm,
Sau khi Tây Sơn bại vong, tôi vào Nam,
Long Thành trong gang tấc không được thấy lại,
Huống hồ tiệc múa hát ở trong thành.
Quan Tuyên Phủ vì tôi bày cuộc mua cười,
Trong đám ca kĩ đều trẻ tuổi.
Duy ở cuối chiếu có một nàng tóc đã hoa râm.
Mặt gầy thần khô hình bé nhỏ,
Đôi mày phờ phạc không điểm tô,
Ai biết đó là người trước kia nổi danh tài hoa đệ nhất trong một thời,
Khúc xưa đàn lên, tôi tuôn nước mắt ngầm theo từng tiếng.
Tai lắng nghe mà lòng chua xót!
Bỗng nhớ lại chuyện hai mươi năm xưa
Đã từng thấy trong chiếu tiệc bên hồ Giám.
Thành quách suy dời, việc người đổi,
Bao nương dâu đã biến thành biển xanh.
Cơ nghiệp Tây Sơn tiêu tan sạch,
Trong làng múa hát còn sót lại một người!
Trăm năm thấm thoát trong một hơi thở một nháy mắt
Cảm thương việc cũ lệ thấm áo
Từ Nam trở về, đầu tôi bạc trắng!
Không trách người đẹp nhan sắc suy tàn.
Hai mắt trừng trừng luống tưởng lại chuyện cũ
Khá thương giáp mặt nhau mà không nhận được nhau!
Chú thích:
(1) Đàn Nguyễn: Đàn Nguyệt. Gọi như vậy là vì đàn nguyệt do Nguyễn Hàm, một trong thất hiền vườn Trúc đời Tấn sáng chế.
(2) Tiền Triều: Triều nhà Lê. Vì lúc đó thuộc triều Tây Sơn.
(3) Giám hồ: Hồ Hoàn Kiếm.
(4) Bia Tiến Phúc: Bia dựng ở Nhiêu Châu, tỉnh Giang Tây, chữ rất đẹp. Đời nhà Tống có một người học trò nghèo dâng lên Phạm Trọng Yêm một bài thơ. Để giúp đỡ, Phạm cho phép người học trò rập một nghìn bản chữ bia để bán lấy tiền. Người học trò vừa đến nơi thì bia bị trời đánh vỡ tan.
(5) Trang Tịch: Người nước Việt, làm quan nước Sở. Ngày thường nói tiếng Sở, nhưng lúc bệnh năng thường ngâm thơ bằng tiếng nước Việt.
(6) Đại nội Trung Hòa: Cung nhà Lê.
(7) Ngũ Lăng: Địa danh, có năm lăng tẩm của các vua nhà Hán. Nơi đây, bọn hào hoa phú quý thường tụ hội.
(8) Tam thập lục cung: Trong đền vua ngày xưa bên Tàu có 36 cung chứa đầy mĩ nữ.
(9) Quan Tuyên Phủ: Quan Trấn thủ.
Bản dịch thơ của Đặng Thế Kiệt
Người đẹp đất Long Thành
Tên họ chi ta không biết rõ
Thạo Nguyễn cầm nên có tên Cầm
Khúc kia Cung Phụng nhất trần
Ngày thơ được học nhạc thần chầu vua
Đã một lần thuở xưa gặp gỡ
Bên bờ hồ cuộc dạ yến sang
Tuổi hai mươi mốt cô nàng
Mặt hoa áo thắm còn tham rượu nồng
Theo ngón tay năm cung réo rắt
Tiếng khoan như gió mát rừng thông
Hạc kêu cao thẳm: tiếng trong
Mạnh như sét đánh vỡ tung bia mồ
Buồn: Trang Tịch ngâm thơ tiếng Việt
Người nghe say chẳng biết mỏi a
Khúc đâu đại nội Trung Hòa
Tây Sơn quan chức nghe mà đảo điên
Mải vui suốt cả đêm không chán
Hai bên người tranh cạnh thưởng tài,
Tiền như bùn đất vãi rơi.
Đào hoa ý khí vượt nơi vương hầu
Đám Ngũ Lăng còn đâu đáng kể
Băm sáu cung xuân để mà coi
Đúc chung vật báu trên đời
Của kia vô giá đất trời Trường An
Nay đã hai mươi năm tiệc ấy
Sau Tây Sơn chiến bại, vào Nam
Long Thành chẳng thấy tấc gang
Huống chi tiệc múa mơ màng thành xưa
Quan Tuyên Phủ vui mua cuộc hát
Đám ca cơ tươi mát xuân xanh
Mà sao một mái hoa râm
Mặt gầy khô héo nhỏ thân hình hài
Không điểm tô nét mày phờ phạc
Ai biết từng đệ nhất tài danh
Khúc xưa réo rắt dây đàn
Nghe tuôn nước mắt từng làn âm thanh
Tai lắng nghe mà đành chua xót
Hai mươi năm chuyện trước là đây
Bên hồ chiếu tiệc mê say
Đã từng gặp gỡ những ngày thơ ngây
Thành quách suy việc thay người đổi
Bao nương dâu thành bãi biển xanh
Tây Sơn cơ nghiệp tan tành
Trong làng múa hát còn đành một ai
Một cuộc thế không đầy chớp mắt
Cảm việc xưa lệ ướt áo này
Từ Nam về tóc trắng mây
Trách chi người đẹp tàn phai má đào
Trừng trừng hai mắt nhìn nhau
Cố nhân chẳng biết khác nào người dưng
Bản dịch thơ của Trần Nhất Lang
Bài ca người gảy đàn đất Long Thành
Gái Long Thành (1) không hay tên họ
Giỏi Nguyễn cầm lấy đó đặt tên (2)
Tiếng đàn như nhạc cõi tiên
Khúc Cung phụng ấy của tiền triều xưa.
Nhớ thuở trước Giám Hồ yến tiệc
Tóc ta xanh đã biết tiếng nàng
Ngây thơ đôi tám mơ màng
Áo hồng, má đỏ lại càng dễ thương!
Tay nhẹ lướt năm cung trầm bổng
Tiếng khoan như gió thoảng ngàn thông
Trong như tiếng hạc trên không
Mạnh như tiếng sét đánh tung bia chùa; (3)
Buồn như thể Trang xưa ngâm Việt (4)
Khiến người nghe mải miết say sưa
Vốn là khúc nhạc ngày xưa
Trung Hòa Đại Nội để vua thưởng nhàn.
Khi quân lính Tây Sơn tiệc mở
Đã say như điếu đổ thâu canh
Thưởng tiền, tả hữu đua tranh
Bạc vung như nước cốt giành cuộc vui;
Nét hào hoa vương hầu nào sánh
Trẻ Ngũ Lăng có thấm vào đâu (5)
Vẻ xuân hun đúc hạt châu
Cầm ca chi bảo đứng đầu Trường An.
Từ năm ấy đã tròn hai chục
Tây Sơn tàn, ta được vào Nam
Long Thành lâu chửa ghé thăm
Người xưa múa hát thấy thầm trong mơ.
Quan Tuyên Phủ vì ta khoản đãi
Trong tiệc này có giải ca vui
Đào nương xuân nữ đương thời
Duy nơi cuối chiếu một người hoa râm,
Mặt vàng võ, tấm thân bé nhỏ
Môi không son, mày bỏ không tô
Ai hay người ấy bây giờ
Tài hoa đệ nhất ngày xưa một thời!
Khúc cũ dạo, lệ rơi từng giọt
Tai lắng nghe mà xót lòng ta
Bỗng dưng nhớ chuyện đã qua
Hai mươi năm trước Giám Hồ gặp nhau.
Cuộc hưng phế, bể dâu mấy độ
Thành đổi dời, người có khác chi
Tây Sơn triều cũ còn gì?
Còn chăng là một ca nhi tên Cầm!
Cõi nhân thế trăm năm là mấy
Cảm chuyện xưa áo tẩy dòng châu
Từ Nam trở lại, bạc đầu
Trách sao nhan sắc người đâu chẳng tàn.
Gặp nhau không dám hỏi han
Rưng rưng đôi mắt bàng hoàng xót xa.
Chú Thích:
(1)Long Thành: Thành Thăng Long cũ, nay là Hà Nội
(2)Nguyễn cầm: Đàn nguyệt do Nguyễn Hàm đời Tấn chế ra.
(3)Bia chùa Tiến Phúc ở Nhiêu Châu tỉnh Giang Tô có khắc bài thơ chữ rất đẹp, bị sét đánh vỡ tan.
(4)Trang Tích khi ốm ngâm nga bằng tiếng Việt.
(5)Ngũ Lăng: Nơi có năm lăng tẩm vua đời Hán, lớp hào hoa phú quí thường làm nhà ở đây và đám thanh niên sài tiền bạc rất rộng rãi.
Bản dịch của NguyễnTâmHàn
Người gảy đàn ở Long-Thành
Nổi danh mỹ nữ Long Thành
Người từ đâu đến, phương danh chẳng tường
Tiếng đồn đàn Nguyễn khắp phương
Tên cô nào biết, gọi thương Nàng Cầm
Khúc xưa Cung Phụng nhập tâm
Khảy người nghe ngỡ lạc lầm cõi tiên
Khi xưa tôi đã hữu duyên
Gặp nơi hồ Giám tiệc đêm một lần
Nàng vừa hai mốt tuổi xuân
Mặt xinh như mộng trong thân áo hồng
Hây hây da thấm men nồng
Tay nàng dạo phím, khách lòng ngẩn ngơ
Tưởng thông giỡn gió vi vu
Ngỡ âm tiên hạc vọng từ ngàn xa
Ầm ầm đá tảng vỡ ra
Tiếng buồn Trương Tích ngâm nga Việt lời
Âm càng trói buộc chân người
Khi nàng dạo khúc xưa nơi Trung Hòa
Tây Sơn quan tướng say sưa
Ngả nghiêng thụ hưởng vui đùa thâu đêm
Chung quanh đua thảy bạc tiền
Tặng nàng thưởng ngón đàn tiên tuyệt vời
Vương hầu nhường vẻ ăn chơi
Ngũ Lăng công tử kém nòi hào hoa
Trong cung xuân thắm mượt mà
Đâu thua báu vật giữa tòa Trường An
Hai mươi năm bụi thời gian
Tây Sơn mất nghiệp, trời Nam tìm vào
Long Thành chẳng thấy được nào
Nói chi đến chuyện lao xao ca đàn
Hôm nay giữa chốn yến bàn
Quan truyền ca múa bao nàng thắm xinh
Duy người ngồi góc một mình
Tấm thân nhỏ bé, tóc xanh úa mầu
Không son phấn, mặt u sầu
Ai nào ngờ đưọc từ lâu danh tài
Khúc xưa khiến dạ bùi ngùi
Càng nghe càng thấy rối bời ruột gan
Đã hai mươi độ thu tàn
Thuở bên hồ Giám nghe đàn nàng rung
Thành rời, người cũ tứ tung
Cuộc đời dâu biển chẳng ngừng đổi thay
Nghiệp Tây Sơn đã xa bay
Còn chăng sót lại người này mà thôi
Cuộc trăm năm tủi phận người
Áo nâng thấm lệ buồn rơi chán chường
Ta giờ đầu bạc như sương
Trách sao nàng chẳng sắc hương phai tàn
Mắt đăm đăm giữa không gian
Gặp nhau mà lạ ... ta, nàng dửng dưng ĐỘC TIỂU-THANH KÝ 讀小青記
西湖花宛盡成墟
獨吊窗前一紙書
脂粉冇神憐死後
文章無命累焚餘
古今恨事天難問 風韻奇冤我自居 不知三百餘年後 天下何人泣素如 Độc Tiểu-Thanh Ký Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư Độc điếu song tiền nhất chỉ thư Chi phấn hữu thần lân tử hậu Văn chương vô mệnh lụy phần dư Cổ kim hận sự thiên nan vấn Phong vận kỳ oan ngã tự cư Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như. ~Nguyễn-Du~ Dịch nghĩa: Đọc bài ký Truyện nàng Tiểu Thanh Vườn hoa ở Tây Hồ đã thành gò bãi hoang Trước song cửa, một mình đọc một trang sách để viếng nàng Bức vẽ có thần, sau khi chết còn để lại niềm thương tiếc Văn chương không có số mệnh mà cũng lụy đến tập thơ (bị đốt còn sót lại) Mối hận cổ kim khó mà hỏi trời được Ta tự coi mình như người cùng một hội với kẻ mắc nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã. Không biết hơn ba trăm năm sau Thiên hạ có ai là người khóc Tố Như? ~Trần-Văn-Nhĩ~ Dịch thơ: Vườn cảnh Tây Hồ nay xác xơ Trước song xin đọc viếng người xưa Văn chương không mệnh phần dư lụy Son phấn hữu thần tử hậu như? Sầu hận cổ kim trời khó hỏi Oan tình phong nhã tự ôm khư. Ba trăm năm nữa nào ai biết Thiên hạ ai người khóc Tố Như? ~Trần-Văn-Nhĩ~ Hồ Tây cảnh đẹp hóa gò hoang, Thổn thức bên song mảnh giấy tàn, Son phấn có hồn chôn vãn hận Văn chương không mệnh đốt còn vương Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi Cái án phong lưu khách tự mang. Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa, Người đời ai khóc Tố Như chăng? ~Lê-Thước~ Vườn(cũ) Tây Hồ đã hết hoa Thăm nàng, thơ cũ giỡ xem qua Tình trong phấn bụi tan rồi nhỉ Mệnh ở văn chương sót đấy à Nõi hận hỏi trời không tiếng đáp! Niềm oan đối bóng, giọt châu sa Ba trăm năm nữa mơ hồ quá Nhắc Tố Như này…Ai xót xa? ~Huệ-Thu~ Tây Hồ, vườn biến gò hoang Trước song, nhặt đọc một trang sách này Thấy tranh phấn vẽ, thương thay Văn chương không mệnh mà nay cháy rồi Xưa nay, hận, khó hỏi trời Nỗi oan phong nhã, có tôi dự phần Ba trăm năm nữa, quên dần Tố-Như, ai có một lần lệ tuôn!… ~Anh-Nguyên~
< Sửa đổi bởi: Anh Nguyên -- 9.2.2012 10:38:31 >
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.06.2012 18:04:40 bởi Anh Nguyên >
CÔNG CHÚA NGỌC-HÂN
1770-1799 Quê Phù-Ninh, Hạ-Dương, Từ-Sơn, Bắc-Ninh,
Thông minh, thanh tú, thùy mị, mới 15 tuổi, được
Vua Lê-Hiển-Tông gả cho Bắc Bình Vương Nguyễn-
Huệ, về Phú-Xuân được phong là Bắc cung Hoàng-
Hậu, sinh được 2 con, năm 1972 vua Quang-Trung
đột ngột qua đời, năm 1799 bà mất mới 28 tuổi.
AI TƯ VÃN
Gió hiu hắt, phòng tiêu lạnh lẽo,
Trước thềm lan hoa héo ron ron!
Cầu Tiên khói tỏa đỉnh non,
Xe rồng thăm thẳm, bóng loan rầu rầu!
Nỗi lai lịch dễ hầu than thở,
Trách nhân duyên mờ lỡ cớ sao?
Sầu sầu, thảm thảm xiết bao,
Sầu đầy giạt bể, thảm cao ngất trời!
Từ cờ thắm trỏ vời cõi Bắc,
Nghĩa tôn phò vằng vặc bóng dương,
Rút dây vâng mệnh phụ hoàng,
Thuyền lan, chèo quế thuận đường vu qui.
Trăm ngàn dặm quản chi non nước,
Chữ nghi gia mừng được phải duyên,
Sang yêu muôn đội ơn trên,
Rỡ ràng vẻ thúy, nối chen tiếng cầm.
Lượng che chở, vụng lầm nào kể,
Phận đinh ninh cặn kẽ mọi lời,
Dầu rằng non nước biến dời,
Nguồn tình ắt chẳng chút vơi đâu là.
Lòng đùm bọc thương hoa đoái cội,
Khắp tôn thân cũng đội ơn sang,
Miếu đường còn dấu chưng thường,
Tùng thu còn rậm mấy hàng xanh xanh.
Nhờ hồng phúc, đôi cành hòe quế,
Đượm hơi dương, dây rễ cùng tươi.
Non Nam lần chúc tuổi trời,
Dâng câu thiên bảo, bày lời Hoa phong.
Những ao ước trập trùng tuổi hạc,
Nguyền trăm năm ngõ được vầy vui,
Nào hay sông cạn, bể vùi,
Lòng trời tráo trở, vận người biệt ly!
Từ nắng hạ, mưa thu trái tiết,
Xót mình rồng mỏi mệt chẳng yên!
Xiết bao kinh sợ lo phiền,
Miếu thần đã đảo, thuốc tiên lại cầu.
Khắp mọi chốn đâu đâu tìm rước.
Phương pháp nào đổi được cùng chăng?
Ngán thay, máy Tạo bất bằng!
Bóng mây thoắt đã ngất chừng xe loan!
Cuộc tụ, tán, bi, hoàn kíp bấy!
Kể sum vầy đã mấy năm nay?
Lênh đênh chút phận bèo mây,
Duyên kia đã vậy, thân này nương đâu!
Trằn trọc luống đêm thâu, ngày tối,
Biết cậy ai dập nỗi bi thương?
Trong mong luống những mơ màng,
Mơ hồ bằng mộng, bàng hoàng như say.
Khi trận gió, hoa bay thấp thoáng,
Ngỡ hương trời bảng lảng còn đâu:
Vội vàng sửa áo lên chầu,
Thương ôi, quạnh quẽ trước lầu nhện chăng!
Khi bóng trăng, lá in lấp lánh,
Ngỡ tàn vàng nhớ cảnh ngự chơi:
Vội vàng dạo bước tới nơi,
Thương ơi, vắng vẻ giữa trời tuyết sa!
Tưởng phong thể xót xa đòi đoạn,
Mặt rồng sao cách dán lâu nay!
Có ai chốn ấy về đây,
Nguồn cơn xin ngỏ cho hay được lành?
Nẻo u minh khéo chia đôi ngả,
Nghĩ đòi phen, nồng nã đòi phen!
Kiếp này chưa trọn chữ duyên,
Ước xin kiếp khác vẹn tuyền lửa hương.
Nghe trước có đấng vương Thang, Võ,
Công nghiệp nhiều, tuổi thọ thêm cao;
Mà nay áo vải, cờ đào,
Giúp dân, dựng nước biết bao công trình!
Nghe rành rành trước vua Nghiêu, Thuấn,
Công đức dày, ngự vận càng lâu;
Mà này lượng cả, ơn sâu,
Móc mưa rưới khắp chín châu đượm nhuần.
Công dường ấy mà nhân dường ấy,
Cõi thọ sao hẹp bấy hóa công?
Rộng cho chuộc được tuổi rồng,
Đổi thân ắt hẳn bõ lòng tôi ngươi.
Buồn thay nhẽ! sương rơi, gió lọt,
Cảnh đìu hiu, thánh thót châu sa!
Tưởng lời di chúc thiết tha,
Khóc nào nên tiếng, thức mà cũng mê!
Buồn thay nhẽ! xuân về, hoa ở,
Mối sầu riêng ai gỡ cho xong!
Quyết liều mong vẹn chữ tòng,
Trên rường nào ngại, giữa dòng nào e.
Còn trứng nước thương vì đôi chút,
Chữ tình thâm chưa thoát được đi!
Vậy nên nấn ná đòi khi,
Hình tuy còn ở, phách thì đã theo;
Theo buổi trước ngự đèo Bồng đảo,
Theo buổi sau ngự nẻo sông Ngân,
Theo xa thôi lại theo gần,
Theo phen điện quế, theo lần nguồn hoa.
Đương theo, bỗng tiếng gà sực tỉnh,
Đau đớn thay, ấy cảnh chiêm bao!
Mơ màng thêm nỗi khát khao,
Ngọc kinh chốn ấy ngày nào tới nơi!
Tưởng thôi lại bồi hồi trong dạ,
Nguyện đồng sinh sao đã kíp phai.
Xưa sao sớm hỏi, khuya bày,
Nặng lòng vàng đá, cạn lời tóc tơ.
Giờ sao bỗng thờ ơ lặng lẽ!
Tình cô đơn, ai kẻ xét đâu?
Xưa sao gang tấc gần chầu,
Trước sân phong nguyệt, trên lầu sinh ca,
Giờ sao bỗng cách xa đôi cõi,
Tin hàn huyên khôn hỏi thăm nhanh!
Nửa cung gẫy phím cầm lành,
Nỗi con côi cút, nỗi mình bơ vơ!
Nghĩ nông nỗi, ngẩn ngơ đòi lúc,
Tiếng tử qui thêm giục lòng thương!
Não người thay cảnh tiên hương!
Dạ thường quanh quất mắt thường ngóng trông.
Trông mái đông: lá buồm xuôi ngược,
Thấy mênh mông những nước cùng mây!
Đông rồi thì lại trông tây:
Thấy non ngân ngất, thấy cây rườm rà!
Trông nam: thấy nhạn sa lác đác!
Trông bắc: thấy ngàn bạc màu sương!
Nọ trông trời đất bốn phương,
Cõi tiên khơi thẳm biết đường nào đi!
Cậy ai có phép gì tới đó,
Dâng vật thường, xin ngỏ lòng trung:
Này gương là của Hán cung,
Ơn trên xưa đã soi chung đòi ngày.
Duyên hảo hợp xót rày nên lẻ!
Bụng ai hoài vội ghẽ vì đâu?
Xin đưa gương ấy về chầu,
Ngõ soi cho tỏ gót đầu trông ơn.
Tưởng linh sảng nhơn nhơn còn dấu,
Nỗi sinh cơ có thấu cho không?
Cung xanh đang tuổi ấu sung,
Di mưu sao nỡ quên lòng đoái thương?
Gót lân chỉ mấy hàng lẩm chẩm,
Đầu mũ mao, mình tấm ái gai!
U ơ ra trước hương đài,
Tường quang cảnh ấy chua cay dường nào!
Trong sáu viện ố đào, ủ liễu,
Xác ve gầy, lỏng lẻo xiêm nghê!
Long đong xa cách hương quê,
Mong theo: lầm lối; mong về: tủi duyên!
Dưới bệ ngọc, hàng uyên vò võ,
Cất chân tay thương khó xiết chi!
Hang sâu nghe tiếng thương bi,
Kẻ sơ còn thế, huống gì người thân?
Cảnh ly biệt nhiều phần bát ngát,
Mạch sầu tuôn, ai tát cho vơi!
Càng trông càng một xa vời,
Tấc lòng thảm thiết, chín trời biết chăng?
Buồn trông trăng, trăng mờ thêm tủi:
Gương Hằng Nga đã bụi màu trong!
Nhìn gương càng thẹn tấm lòng,
Thiên duyên lạnh lẽo, đêm đông biên hà.
Buồn xem hoa, hoa buồn thêm thẹn:
Cánh hải đường đã quyện giọt sương!
Trông chim càng dễ đoạn trường:
Uyên ương chiếc bóng, phượng hoàng lẻ đôi.
Cảnh nào cũng ngùi ngùi cảnh ấy.
Tiệc vui mừng còn thấy chi đâu!
Phút giây bãi biển nương dâu,
Cuộc đời là thế, biết hầu nài sao?
Chữ tình nghĩa trời cao, đất rộng,
Nỗi đoạn trường còn sống, còn đau!
Mấy lời tâm sự trước sau,
Đôi vầng nhật nguyệt trên đầu chứng cho.
Năm 1792, vua Quang Trung mất, bà còn trẻ đã
trở thành một góa phụ. Đây là bài Ai tư vãn, thi
phẩm của Ngọc Hân công chúa mà nhiều người
như ông Thuần Phong đã nói trong sách Chinh
phụ ngâm khúc giảng luận (do Á Châu xuất bản),
công nhận là chịu ảnh hưởng bản dịch Chinh phụ
ngâm của bà Đoàn Thị Điểm. NGÔ-NGỌC-DU
VUA QUANG-TRUNG
VÀO THĂNG THĂNG-LONG Giặc đâu tàn bạo sang điên cuồng,
Quân vua một trận oai bốn phương.
Thần tốc ruổi dài xông thẳng tới,
Như trên trời xuống ai dám đương.
Một trận rồng lửa giặc tan tành,
Bỏ thành cướp đò trốn cho nhanh.
Ba quân đội ngũ chỉnh tề tiến,
Trăm họ chật đường vui tiếp nghênh.
Mây tạnh mù tan trời lại sáng,
Đầy thành già trẻ mặt như hoa.
Chen vai khoác cánh cùng nhau nói:
Kinh đô vẫn thuộc núi sông ta.
~Ngô-Ngọc-Du~
LÊ-TRIỆU 1771-1846
Lệ-Trung, Đại-Trung, Hoàng-Hóa, Thanh-Hóa
KIẾN QUANG-TRUNG LINH CỮU
Trấp niên sấp sá tẩu phong vân
Như thử anh hùng cổ hãn văn
Hàm Dã độc Lưu thiên vạn cốt
"Khuân Sơn" họa tại bách niên phần
Không hàm chỉ chỉ thiên thu hận
Cô phụ đường đường bát xích thân
Quang cảnh nhất ban thành phấn mị
Linh nhân chung cổ tiểu Doanh Tần! ~Lê-Triệu~
Dịch nghĩa:
Nhìn thấy linh cữu vua Quang-Trung
Hai mươi năm tiếng thét át cả gió mây
Chỉ chừng ấy cũng đủ thấy là bậc anh hùng hiếm có!
Trên chiến trường Hàm Đan hận vùi muôn vạn xác thù
Núi Khuân không ngờ lại để mối họa liên lụy đến phần mộ nơi yên giấc ngàn năm
Bỗng phải chịu sự chỉ trích của mối hận muôn đời
Nỡ phụ đến tấm thân tám thước của bậc anh hùng
Quang cảnh nói chung tất cả đã trở thành cát bụi
Khiến cho người đời muôn thuở cười Tần Doanh bạo chúa
~Hồng Phi~
Dịch thơ:
Nhìn thấy linh cữu Quang-Trung
Bao năm thét át phong vân
Bấy nhiêu đủ thấy minh quân, anh hùng
Hàm Đan vùi xác quân thù
Núi Khuân…
liên lụy mộ phần…
trăm năm…
Ngàn thu ngậm mãi hờn căm
Tấm thân tám thước…
nỡ đem dập vùi
Giờ đây cát bụi…
ngậm ngùi…
Doanh Tần bạo chúa, muôn đời cười chê. ~Hồng-Phi~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.06.2012 18:35:14 bởi Anh Nguyên >
HỒ-XUÂN-HƯƠNG 1772-1822 Người làng Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An. Sinh cuối nhà Lê, đầu nhà Nguyễn. Nhà thơ Nôm nổi tếng, phong cách thơ vừa thanh vừa tục. THU VŨ Thiên cách vân âm thảm bất inh Tiêu tiêu thu vũ lạc nhàn đình Đoản trường khô thụ chi đầu lệ Thư cấp hoàng tiêu diệp thượng thanh. Ngâm đoạn đê mê thiên lý mộng Sầu khiên liêu tịch ngũ canh tình Thâm khuê tối khổ như hoa diện Nhất phiến sầu dung họa bất thành. ~Hồ-Xuân-Hương~ Dịch: MƯA THU Trời cao mây phủ mịt mờ Ngoài sân tí tách mưa thu gợi sầu Cành khô dài vắn hạt châu Tiêu vàng trên lá thưa mau tiếng buồn Ngâm câu mơ vạn dặm đường Sầu giăng tiếp nối còn vương canh dài Nỗi lòng khuê phụ nào hay Mặt hoa ủ dột biết ai vẽ thành. ~Trần-Nhất-Lang~ CẢNH THU Thánh thót tầu tiêu mấy hạt mưa, Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ. Xanh om cổ thụ tròn xoe tán, Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ. Bầu dốc giang Sơn say chắp rượu, Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ. Ơ hay, cảnh cũng ưa người nhỉ, Ai thấy, ai mà chẳng ngẩn ngơ. ~Hồ-Xuân-Hương~ DỆT CỬI Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phau; Con cò mấp máy suốt đêm thâu. Hai chân đạp xuống năng năng nhắc, Một suốt đâm ngang thích thích mau. Rộng, hẹp, nhỏ, to vừa vặn cả, Ngắn, dài, khuôn khổ vẫn như nhau. Cô nào muốn tốt ngâm cho kỹ, Chờ đến ba thu mới dãi mầu. ~Hồ-Xuân-Hương~ CÁI QUẠT GIẤY Một lỗ sâu sâu mấy cũng vừa, Duyên em dính dáng tự ngàn xưa. Vành ra ba góc da còn thiếu, Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa. Mát mặt anh hùng khi tắt gió, Che đầu quân tử lúc sa mưa. Nâng niu ướm hỏi người trong trướng, Phì phạch trong lòng đã sướng chưa? ~Hồ-Xuân-Hương~ QUÁN NƯỚC BÊN ĐƯỜNG Đứng tréo trông theo cảnh hắt heo, Đường đi thiên thẹo, quán cheo leo. Lợp lều, mái cỏ tranh xơ xác, Xỏ kẽ, kèo tre đốt khẳng kheo. Ba trạc cây xanh hình uốn éo, Một dòng nước biếc, cỏ leo teo. Thú vui quên cả niềm lo cũ, Kìa cái diều ai thả lộn lèo. ~Hồ-Xuân-Hương~ ĐÁNH CỜ Chàng với thiếp đêm khuya trằn trọc, Đét đồn lên đánh cuộc cờ người. Hẹn rằng đấu trí mà chơi, Cấm ngoại thuỷ không ai được biết. Nào tướng sĩ dàn ra cho hết, Để đôi ta quyết liệt một phen. Quân thiếp trắng, quân chàng đen, Hai quân ấy chơi nhau đà đã l»a. Thọat mới vào chàng liền nhảy ngựa, Thiếp vội vàng vén phứa tịnh lên. Hai xe hà, chàng gác hai bên, Thiếp thấy bí, thiếp liền ghểnh sĩ. Chàng lừa thiếp đương khi bất š, Đem tốt đầu dú dí vô cung, Thiếp đang mắc nước xe lồng, Nước pháo đã nổ đùng ra chiếu. Chàng bảo chịu, thiếp rằng chẳng chịu Thua thì thua quyết níu lấy con. Khi vui nước nước non non, Khi buồn lại giở bàn son quân ngà. ~Hồ-Xuân-Hương~ ĐÁNH ĐU Tám cột khen ai khéo khéo trồng, Người thì lên đánh, kẻ ngồi trông. Trai đu gối hạc khom khom cật, Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng. Bốn mảnh quần hồng bay phất phới. Hai hàng chân ngọc duỗi song song. Chơi xuân ai biết xuân chăng tá! Cột nhổ đi rồi, lỗ bỏ không. ~Hồ-Xuân-Hương~ ĐÈO BA DỌI Một đèo, một đèo, lại một đèo, Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo. Cửa son đỏ loét tùm hum nóc, Hòn đá xanh rì lún phún rêu. Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc, Đầm đià lá liễu giọt sương gieo. Hiền nhân, quân tử ai là chẳng ... Mỏi gối, chồn chân vẫn muốn trèo. ~Hồ-Xuân-Hương~ HANG CẮC-CỚ Trời đất sinh ra đá một chòm, Nứt làm hai mảnh hỏm hòm hom. Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn, Luồng gió thông reo vỗ phập phòm. Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm, Con đường vô ngạn tối om om. Khen ai đẽo đá, tài xuyên tạc, Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm. ~Hồ-Xuân-Hương~ NGÔ THỜI VỊ 1774-1821 ện Thanh-Oai, tỉnh Hà Đông, con Ngô Thời Sĩ. Mồ côi cha năm 6 tuổi, được anh là Ngô Thời Nhậm nuôi dưỡng, đỗ đầu 4 kỳ thi, được Nguyễn Du gọi là Ngô Tứ Nguyên, là một trong An Nam Ngũ Tuyệt. (Nguyễn Du, Nguyễn Huy Tự, Phan Huy Ích, Nguyễn Hành) Được vua Gia Long biết tài trọng dụng ngang với Nguyễn Du. Ông là tác giả chính của Hoàng Lê Nhất Thống Chí và để lại hàng trăm bài thơ với nhiều thể tài khác nhau. Được cử làm phó sứ sang nhà Thanh năm 35 tuổi (1809), chánh sứ năm 1820, trên đường về, mất tại Quảng Tây, hưởng dương 47 tuổi. ĐỀ HOÀNG HẠC LÂUHán thủy thành biên vân thụ thu,Tiên nhân bất kiến chỉ không lâu.Hà thời thiên tế lai hoàng hạc,Đề ý giang trung phó bạch âu.
Thôi quân bất hợp tác hương sầu.
Đấu đảm đề thi ký thử du.
~Ngô-Th
Sông Hán, thành thu mơ lá, mây,
Hạc vàng biết có bao giờ lại,
Lý Bá cớ chi dừng bút lại,
Quân sao lại nhớ quê ngay.
Chẳng sợ làm thơ viếng cảnh này.
~Nh LIỄU THĂNG THẠCHĐề sự hà tu biện hữu vô,
Thạch ngàn ẩn ước sương đao lạc,
Lưu thủy tuyền như Minh Liễu bại,
Đinh luân nhật vãn khan di tích,
~Ngô-Thời-Vị~
Dịch:
HÒN ĐÁ LIỄU THĂNG Chiến công Lê chúa diệt quân Ngô.
Mờ nhạt rêu phong máu giáp khô.
Người vàng đòi mãi nhục Minh ngu.
Còn thấy năm nao mở trận đồ.
~Nhất-Uyên~
QUÁ HÀ NỘI HUYỆN
Trở thủy Hoàng Hà độ,
Nhân kinh Hà Nội huyện,
Đinh Lan dữ Quách Cự,
Nhất vị mẫu mai tử,
Nhị nhân tịnh xứng hiếu,
Phù Lan vô dung nghị,
Ngũ luân bản phi nhất.
Lưỡng toàn túng vô kế,
Cự hiếu hà kỳ dốc,
Cự tâm hà kỳ nhẫn!
Hoàng kim cẩu bất hoạch.
Tích đồng ngu dữ bạo,
Quan chư Đặng Bá Đạo.
Xử biến quá kỳ chính,
Nhân nhân hiếu tử tân.
Vận hồ Thập Nhị Tứ.
Nghi hồ Chu Phu Tử,
Tiểu Học xứng hiếu dã,
Xuân Thu trách hiền giả.
Sự thân chí như thử.
Nhược thủ kỳ nhất tiết,
Giai khả khởi ngoan bạc,
Ngữ thương tuy bất túc,
Ngã lai quá danh địa,
Đình tham vọng hiếu lý,
Khô bồng lộ bất tiễn,
Thứ tức tư kỳ hiền,
Cố ngã khởi năng hiếu,
Điếu hoài minh phát chương,
~Ngô-Thời-Vị~
Dịch:
QUA HUYỆN HÀ NỘI (Tung Quốc) THĂM
Lụt lớn qua Hoàng Hà,
Nhân qua huyện Hà Nội,
Đinh Lan và Quách Cự,
Người chôn con nuôi mẹ,
« Hai người tiếng con hiếu,
Đinh Lan chẳng bàn qua,
Ngũ luân nào phải một,
Hai đường chẳng bảo toàn,
Cự chỉ biết có hiếu,
Sao Cự lòng tàn nhẫn,
Nếu vàng không bắt được,
Thật ngu và tàn bạo,
Xem chuyện Đặng Bá Đạo,
Việc khác lỗi như nhau.
Không phải điều thánh nhân.
Suy nghĩ xót thương lòng.
Thuấn, Mẫn sao ngang hàng?
Thâm ý có gì khuyên?
Quách Cự chẳng có tên.
Đức xứng mới vẹn toàn.
Mọi người có thể theo.
Cự, Lan khác gì nhau!
Cảm thông cả quỷ thần.
Đời sau khó ví bằng .
Ngựa về nước qua đây,
Lô nhô mộ phần ai?
Thôn vắng chiều mây bay.
Muốn hỏi chẳng gặp ai.
Dám nghị luận bốc đồng.
Lệ sa ướt cả khăn.
~Nhất-Uyên~
Phủng vi băng ngọc, tiễn vi nê,
nhân bộ bất tề.
Cô tùng tuyệt điến nhiệm quân thê.
~Ngô-Th
Nâng lên tuyết trắng, xéo bùn đen,
Tiết sạch lẽ nào sa xuống thấp,
~Nhất-Uyên~
TS Khoa Học Giáo Dục viện
PHẠM-THÁI
1777-1813
Tức Phạm-Đan-Phượng, quê Yên-Thị, Yên-Thường
Đông-Ngàn, Kinh-Bắc (Gia-Lâm, Hà-Nội), ông và bạn
chống lại Tây-Sơn, thất bại, bị truy nã, trá hình tu chùa
Tiêu-Sơn, lại được Trưong-Đăng-Thụ đưa lên Lạng-Sơn
mưu phù Lê, về thăm quê thì bạn mất, liền đến quê bạn
điếu tang, cùng em gái bạn Trương-Quỳnh-Như xướng
hoạ thơ văn và thương yêu nhau,, hôn nhân không thành,
Quỳnh-Như quyên sinh, ông sống cuộc đời lang bạt, bi
quan yếm thế, đắm mình trong men rượu, mất năm 36 tuổi.
Sống ở dương gian đánh chén nhè,
Thác về âm phủ cắp lè kè.
Diêm vương phán hỏi mang gì đó?
Be!
hoặc:
Năm bảy năm nay những loạn li,
Cũng thì duyên phận cũng thì thì.
Ba mươi tuổi lẻ là bao nả,
Năm sáu đời vua khéo chóng ghê!
Một tập thơ dày ngâm sang sảng,
Vài nai rượu kếch ních tì tì.
Chết về tiên bụt cho xong kiếp,
Đù ỏa trần gian sống mãi chi?
~Phạm-Thái~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.11.2013 20:22:34 bởi Anh Nguyên >
NGUYỄN-CÔNG-TRỨ 1778-1858 Quê Uy-Viễn, Xuân-Giang, Nghi-Xuân, Hà-Tĩnh, đậ Tú-Tài, Tri-Huyện Đường-Hào, Lang Trung Bộ Lại, Hữu Tham Tri Bộ Hình, Dinh Điền Sứ Nam-Định, Ninh-Bình, Tuần Phủ An-Giang. Tính khảng khái, hào hùng, phong nhã nên văn ông rất phóng khoáng. KẺ SĨ Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt, Dân hữu tứ sĩ vi chi tiên. Có giang sơn thì sĩ đã có tên, Từ Chu Hán, vốn sĩ này là quí. Miền hương đảng đã khen rằng hiếu nghị, Đạo lập thân phải giữ lấy cương thường. Khí hạo nhiên chí đại, chí cương, So chính khí đã đầy trong trời đất. Lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng tất, Hiêu hiêu nhiên điếu Vị, canh Sằn. Xe bồ luân dầu chưa gặp Thang, Văn, Phù thế giáo một vài câu thanh nghị. Cầm chính đạo để tịch tà, cự bí, Hồi cuồng lan nhi chướng bách xuyên. Rồng mây khi gặp hội ưa duyên Đem quách cả sở tồn làm sở dụng. Trong lang miếu, ra tài lương đống, Ngoài biên thùy rạch mũi can tương. Làm sao cho bách thế lưu phương, Trước là sĩ sau là khanh tướng. Kinh luân khởi tâm thượng, Binh giáp tàng hung trung. Vũ trụ chi gian giai phận sự, Nam nhi đáo thử thị hào hùng. Nhà nước yên mà sĩ được thung dung, Bấy giờ sĩ mới tìm ông Hoàng Thạch. Năm ba chú tiểu đồng lếch thếch, Tiêu dao nơi hàn cốc, thanh sơn, Nào thơ, nào rượu, nào địch, nào đờn, Đồ thích chí chất đầy trong một túi. Mặc ai hỏi, mặc ai không hỏi tới, Gẩm việc đời mà ngắm kẻ trọc thanh, Này này sĩ mới hoàn danh. CHÍ LÀM TRAI Vòm trời đất dọc ngang, ngang dọc, Nợ tang bồng vay trả trả vay. Chí làm trai Nam, Bắc, Đông, Tây, Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể. Nhân sinh tự cổ thùy vô tử, Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh. Đã cắc rằng ai nhục ai vinh, Mấy kẻ biết anh hùng khi vị ngộ. Cũng có lúc mưa dồn sóng vỗ, Quyết ra tay buồm lái với cuồng phong. Chí những toan xẻ núi lấp sông, Làm nên đấng anh hùng đâu đãy tỏ. Đường mây rộng thênh thênh cử bộ, Nợ tang bồng trang trắng, vỗ tay reo. Thảnh thơi thơ túi rượu bầu. ~Nguyễn Công Trứ~ GÁNH GẠO ĐƯA CHỒNG Mưỡu: Con cò lặn lội bờ sông, Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non. Nói: Lộ diệc vũ trùng trung chi nhất, Thương cái cò lặn lội bờ sông. Tiếng nỉ non gánh gạo đưa chồng, Ngoài nghìn dặm một trời, một nước. Trông bóng nhạn bâng khuâng từng bước, Nghe tiếng quyên, khắc khoải năm canh. Nghĩa tép tôm ai nỡ dứt tình, Ơn thủy thổ phải đền cho vẹn sóng, Trường tên đạn xin chàng bảo trọng, Thiếp lui về nuôi cái cùng con. Cao Bằng cách trở nước non, Mình trong trắng có quỉ thần gia hộ. Sức bay nhẩy một phen năng nổ, Đá Yên Nhiên còn đó chẳng mòn. Đồng hưu rạng chép thẻ son, Chàng nên danh giá, thiếp còn trẻ trung. Yêu nhau khăng khít giải đồng. ~Nguyễn-Công-Trứ~ NGẤT NGƯỞNG Vũ trụ nội mạc phi phận sự, Ông Hi Văn tài bộ đã vào lòng, Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông, Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng. Lúc Bình tây cầm cờ đại tướng, Có khi về Phủ doãn Thừa thiên. Đô môn giải tổ chi niên, Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng. Kìa núi nọ phau phau mây trắng, Tay kiếm cung mà nên dáng từ bi. Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi khi, Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng. Được mất dương dương người thái thượng, Khen chê phơi phới ngọn đông phong. Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng, Không Phật, không Tiên, không vướng tục. Chẳng Hàn Nhạc, cũng phường Mai Phúc, Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung. Đời ai ngất ngưởng như ông! ~Nguyễn-Công-Trứ~ CÂY THÔNG Ngồi buồn mà trách ông xanh, Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười. Kiếp sau xin chớ làm người, Làm cây thông đứng giữa trời mà reo. Giữa trời vách đá cheo leo, Ai mà chịu rét thì trèo với thông. ~Nguyễn-Công-Trứ~ CHỮ TÌNH Mưỡu: Chữ tình là chữ chi chi, Dẫu chi cũng chi chi với tình. Sầu ai lấp cả vòm trời, Biết chăng chẳng biết hỡi người tình chung? Nói: Đa tình là dở, Đã mắc vào đố gỡ cho ra! Khéo quấy người một cái tinh ma, Trói buộc kẻ hào hoa biết mấy! Đã gọi người nằm thiên cổ dậy, Lại đưa hồn lúc ngũ canh đi. Nực cười thay lúc phân kỳ, Trông chẳng nói, xiết bao nhiêu biệt lệ. Tình huống ấy dẫu bút thần khôn vẽ, Càng tài tình càng ngốc càng si! Cái tình là cái chi chi?! ~Nguyễn-Công-Trứ CHỮ NHÀN Thị tại môn tiền náo, Nguyệt lai môn hạ nhàn. So lao tâm lao lực cũng một đoàn, Người trần thế muốn nhàn sao được? Nên phải giữ lấy nhàn làm trước, Dẫu trời cho có tiếc cũng xin nài. Cuộc nhân sinh chừng bảy tám chín mười mươi, Mười lăm trẻ, năm mươi già không kể. Thoạt sinh ra thì đà khóc chóe, Trần có vui sao chẳng cười khì. Khi hỷ lạc, khi ái ố, khi sầu bi, Chứa chi lắm một bầu nhân dục. Tri túc tiện túc, đãi túc hà thời túc, Tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn hà thời nhàn? Cầm ký thi tửu với giang sơn, Dễ mấy kẻ xuất trần xuất thế. Ngã kim nhật tại tọa chi địa, Cổ chi nhân tằng tiên ngã tọa chi. Ngàn muôn năm âu cũng thế ni, Ai hay hát mà ai hay nghe hát? Sông Xích Bích buông thuyền năm Nhâm tuất, Để ông Tô riêng một thú thanh cao. Cữ nhàn là chử làm sao?! ~Nguyễn-Công-Trứ~ TƯƠNG TƯ Tương tư không biết cái làm sao, Muốn vẽ mà chơi vẽ được nào? Lúc đứng, khi ngồi, khi nói chuyện, Lúc say, lúc tỉnh, lúc chiêm bao. Trăng soi trước mặt ngờ chân bước, Gió thổi bên tai ngỡ miệng chào. Một nước một non người một ngả, Tương tư không biết cái làm sao? ~Nguyễn-Công-Trứ~ HÀN NHO PONG VỊ PHÚ Chém cha cái khó! Chém cha cái khó! Khôn khéo mấy ai? Xấu xa một nó! Lục cực bày hàng sáu, rành rành kinh huấn chẳng sai, Vạn tội lấy làm đầu, ấy ấy ngạn ngôn hẳn có. Kìa ai: Bốn vách tường mo, Ba gian nhà cỏ . Đầu kèo mọt đục vẽ sao, Trước cửa nhện giăng màn gió . Phên trúc ngăn nửa bếp nửa buồng, Ống nứa đựng đầu kê đầu đỗ. Đầu giường tre, mối dũi quanh co, Góc tường đất, giun đùn lố nhố. Bóng nắng dọi trứng gà bên vách, thằng bé tri trô, Hạt mưa soi hang chuột trong nhà , con mèo ngấp ngó . Trong cũi, lợn nằm gặm máng, đói chẳng muốn kêu, Đầu giàn, chuột cậy khua niêu, buồn thôi lại bỏ. Ngày ba bữa, vỗ bụng rau bịch bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no, Đêm năm canh, an giấc ngáy kho kho, đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ. Ấm trà góp lá bàng lá vối, pha mùi chát chát chua chua, Miếng trầu têm vỏ mận vỏ dà, buồn miệng nhai nhai nhổ nhổ. Áo vải thô nặng trịch, lạnh làm mền, nực làm gối, bốn mùa thay đổi bấy nhiêu, Khăn lau giắt đỏ lòm, giải làm chiếu, vận làm quần, một bộ ăn chơi quá thú. Đỡ mồ hôi, võng lác, quạt mo, Chống hơi đất, dép da, guốc gỗ. Miếng ăn sẵn cà non mướp luộc, ngon khéo là ngon, Đồ chơi nhiều quạt sậy điếu tre, của đâu những của. Đồ chuyên trà , ấm đất sứt vòi , Cuộc uống rượu , be sành chắp cổ . Đồ cổ khí bức tranh treo trên vách, khói bay lem luốc, mầu thủy mạc lờ mờ, Của tiểu đồng pho sách gác đầu giàn, gián nhấm lăm nhăm, dấu thổ châu đo đỏ. Cỗ bài lá, ba đời cửa tướng, hàng văn sách mập mờ, Bàn cờ săng, bảy kiếp nhà ma, chữ nhật chữ điền xiêu xó. Lộc nhĩ điền lúa chất đầy rương, Phương tịch cốc khoai vừa một rỏ. Tiêu dụng lấy chi mà phao phóng, thường giữ ba cọc ba đồng, Mùa màng dành để có bao nhiêu, chừng độ một chiêng một bó, Mỏng lưng xem cũng không giầu, Nhiều miệng lấy chi cho đủ . Đến bữa chưa sẵn bữa, con trẻ khóc dường ong, Qúa kỳ lại hẹn kỳ, nhà nợ kêu như ó . Thuốc men rắp bòn chài gỡ bữa, song nghĩ câu ý dã, thế nào cho đáng giá lương y, Thầy bà mong dối trá kiếm ăn, lại nghĩ chữ dũng như, phép chi được nổi danh pháp chủ. Quẻ dã hạc toan nhờ lộc thánh, trút muối đổ biển, ta chẳng bõ bèn, Huyệt chân long toan bán đất trời, ngôi mả táng cha, tìm còn chửa chỗ. Buôn bán rắp theo nghề đỏ, song lạ mặt, chúng hòng rước gánh,mập mờ nên hàng chẳng có lời, Bạc cờ toan gỡ con đen, chưa sẵn lưng, làng lại dành nơi, hỏi gạn mãi giạm không ra thổ. Gâp khúc lươn, nên ít kẻ yêu vì, Gương mắt ếch, biết vào đâu mượn mõ. Đến lúc niên chung nguyệt qúy, lấy chi tiêu đồng nợ đồng công? Gặp khi đường xẩy chân cùng, nên phải tới cửa này cửa nọ. Thân thỉ to to nhỏ nhỏ, ta đã mỏi cẳng ngồi trì, Dần dà nọ nọ kia kia, nó những vuốt râu làm bộ. Thầy tớ sợ men tìm đến cửa, ngảnh mặt cúi đầu, Chị em e vất lấm vào lưng, chìa môi nhọn mỏ. Láng giềng ít kẻ tới nhà, Thân thích chẳng ai nhìn họ. Mất việc toan dở nghề cơ tắc, tủi con nhà mà hổ mặt anh em, Túng đường mong quyết chí cùng tư, e phép nước chưa nên gan sừng sỏ. Cùng con cháu thuở nói năng chuyện cũ, dường ngâm câu lạc đạo vong bần, Gặp anh em khi bàn bạc sự đời, lại đọc chữ vi nhân bất phú. Tất do thiên, âu phận ấy là thường, Hữu kỳ đức, ắt trời kia chẳng phụ. Tiếc tài cả phải phạn ngưu bản trúc, dấu xưa ông Phó ông Hề, Cần nghiệp kho khi tạc bích tụ huỳnh, thuở trước chàng Khuông chàng Vũ. Nơi thành hạ đeo cần câu cá, kìa kìa người quốc sĩ Hoài âm, Chốn lý trung xách thớt chia phần, nọ nọ đấng mưu thần Dương võ. Khó ai bằng Mãi Thần Mông Chính, cũng có khi ngựa cưỡi dù che, Giàu ai bằng Vương Khải Thạch Sùng, cũng có hội tường xiêu ngói đổ. Mới biết: Khó bởi tại trời, Giàu là cái số. Dầu ai ruộng sâu trâu nái, đụn lúa kho tiền, Cũng bất quá thủ tài chi lỗ. ~Nguyễn-Công-Trú~ Trích Văn Đàn Bảo Giám Trần Trung Viên sưu tập 1926 Hư Chu hiệu chính 1968 Xuân Thu in lại ở California LÝ-VĂN-PHÚC 1785-1849 Tự Lân Chi, hiệu Khắc Trai, sinh 1785 tại Hồ khẩu, Vĩnh Thuận, Hà Nội,. Đỗ cử nhân 1819. Làm quan ba triều Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Ðức. Được cử đi công cán nhiều nước ở Viễn đông. Hai mươi bốn truyện hiếu diễn ra quốc âm: Người tai mắt đứng trong trời đất, Ai là không cha mẹ sinh thành, Gương treo đất nghĩa, trời kinh, ở sao cho xứng chút tình làm con. Chữ hiếu niệm cho tròn một tiết, Thì suy ra trăm nết đều nên, Chẳng xem thuở trước Thánh Hiền, Thảo hai mươi bốn, thơm nghìn muôn thu . NHỊ THẬP TỨ HIẾU: 1.- Ngu Thuấn Ðức đại thánh họ Ngu, vua Thuấn, Buổi tiềm long gặp vận hàn vi, Tuổi xanh khuất bóng từ vi, Cha là Cổ Tẩu người thì ương ương Mẹ ghẻ tính lại càng khe khắt, Em Tượng thêm rất mực điêu ngoa . Một mình thuận cả, vừa ba Trên chiều cha mẹ, dưới hòa cùng em. Trăm cay đắng, một niềm ngon ngọt, Dẫu tử sinh không chút biến dời, Xót tình khóc tối, kêu mai, Xui lòng ghen ghét hóa vui dần dần. Trời cao thẳm mấy lần cũng đến, Vật vô tri cũng mến lọ người, Mấy phen non lịch pha phôi, Cỏ, chim vì nhặt, ruộng, voi vì cày . Tiếng hiếu hữu xa bay bệ thánh, Mệnh trung dung trao chánh nhường ngôi Cầm thi, xiêm áo thảnh thơi, Một nhà đầm ấm, muôn đời ngợi khen. ………………. ~Lý-Văn-Phức~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.11.2013 20:34:02 bởi Anh Nguyên >
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 3 bạn đọc.
Kiểu: