Anh Nguyên
-
Số bài
:
1747
-
Điểm thưởng
:
0
- Từ: 21.10.2008
|
RE: Dòng thơ kệ
-
24.12.2010 08:42:23
TS NGỘ-ẤN (1019-1088) Diệu tánh hư vô bất khả phan, Hư vô tâm ngộ đắc hà nan. Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận, Liên phát lô trung thấp vị càn. Dịch: Diệu tánh rỗng không chẳng thể vin, Rỗng không tâm ngộ việc dễ tin. Tươi nhuần sắc ngọc trong núi cháy, Lò lửa hoa sen nở thật xinh. ~TS Thanh Từ~ Chân tính hư vô khó đến nơi, Chỉ hư tâm đạt đến mà thôi. Trên núi ngọc thiêu, màu vẫn thắm, Trong lò sen nở, sắc thường tươi. ~Nguyễn-Lang~ TS MÃN-GIÁC 1052-1096 Quê Lũng-Triều, An-Cách, được vua Lý-Thái-Tông và Sư Viên-Chiếu nuôi làm con, 20 tuổi vào cung dạy hoàng tử, 21 tuổi đi xứ nhà Tống, đi tu với sư Quảng- Trí, mất năm 44 tuổi. CÁO TẬT THỊ CHÚNG 告疾示眾 春去百花落, 春到百花開。 事逐眼前過, 老從頭上來。 莫謂春殘花落盡, 庭前昨夜一枝梅。 Xuân khứ bách hoa lạc, Xuân đáo bách hoa khai. Sự trục nhãn tiền quá, Lão tòng đầu thượng lai. Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, Đình tiền tạc dạ nhất chi mai. Dịch nghĩa: Xuân đi, trăm hoa rụng, Xuân đến, trăm hoa nở. Việc đời ruổi qua trước mắt, Tuổi già hiện đến từ trên mái đầu. Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết, Đêm qua, một cành mai trước sân. Dịch thơ: Xuân đi trăm hoa rụng, Xuân đến trăm hoa cười. Trước mắt việc đi mãi, Trên đầu già đến rồi. Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết, Đêm qua sân trước một cành mai ~TS Thanh Từ~ Xuân đi trăm đóa hoa rơi, Xuân về trăm đóa hoa cười với ta, Việc đời trước mắt trôi qua, Theo đầu tóc bạc cái già đến nơi. Xuân tàn tưởng hết hoa rồi, Đêm qua sân trước sáng ngời cành mai. ~TK Chân-Lý~ TS KHÁNH-HỶ (1066-1142) Lao sinh hưu vấn sắc kiêm không, Học đạo vô như phỏng tổ tông. Thiên ngoại mích tâm nan định thể, Nhân gian thực quế khởi thành tùng. Càn khôn tận thị mao đầu thượng, Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung. Đại dụng hiện tiền quyền tại thủ, Thùy tri phàm thánh dữ tây đông. Dịch: Uổng công thôi hỏi sắc cùng không, Học đạo gì hơn phỏng tổ tông. Ngoài trời tìm tâm thật khó thấy, Thế gian trồng quế đâu thành tòng. Đầu lông trùm cả càn khôn thảy, Hạt cải bao gồm nhật nguyệt trong. Đại dụng hiện tiền tay nắm vững, Ai phân phàm thánh với tây đông. ~TS Thanh Từ~ TS GIỚI-KHÔNG Ngã hữu nhất sự kỳ đặc, Phi thanh huỳnh xích bạch hắc, Thiên hạ tại gia xuất gia, Thân sinh ố tử vi tặc. Bất tri sinh tử dị lộ, Sinh tử chỉ thị thất đắc. Nhược ngôn sinh tử nhị đồ, Dịch: Ta có một việc kỳ đặc, Chẳng xanh vàng đen đỏ trắng, Cả người tại gia, xuất gia, Thích sinh, chán tử là giặc. Chẳng rõ sanh tử khác đường, Sanh tử chỉ là được mất. Nếu cho sanh tử khác đường, Lừa cả Thích-ca, Di lặc. Ví biết sanh tử, sanh tử, Mới hiểu lão tăng chỗ náu. Môn nhân hậu học các người, Chớ nhận khuôn mẫu pháp tắc. ~TS Thanh-Từ~ TS CHÂN-KHÔNG (1045-1100) Diệu bản hư vô minh tự khoa, Hòa phong xuy khởi biến ta bà. Nhân nhân tận thức vô vi lạc, Nhược đắc vô vi thủy thị gia. Dịch: Diệu bản thênh thang rõ tự bày, Gió hòa thổi dậy khắp ta bà. Người người nhận được vô vi lạc, Nếu được vô vi mới là nhà. ~TS Thanh-Từ~ TS KHÔNG-LỘ (?-1119) Trạch đắc long xà địa khả cư, Dã tình chung nhật lạc vô dư. Hữu thời trực thướng cô phong đảnh, Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư. Dịch: Lựa nơi rồng rắn đất ưa người, Cả buổi tình quê những mảng vui. Có lúc thẳng lên đầu núi thẳm, Một hơi sáo miệng lạnh bầu trời. ~Ngô-Tất-Tố~ Chọn nơi địa thế đẹp sông hồ, Vui thú tình quê quen sớm trưa. Có lúc trèo lên đầu chót núi, Kêu dài một tiếng lạnh hư vô... ~Nguyễn-Lang~ TS ĐẠO-HUỆ (?-1172) Địa thủy hỏa phong thức, Nguyên lai nhất thiết không. Như vân hoàn tụ tán, Phật nhật chiếu vô cùng. Sắc thân dữ diệu thể, Bất hợp bất phân ly. Nhược nhân yếu chân biệt, Lô trung hoa nhất chi. Dịch: Đất nước lửa gió thức, Nguyên lai thảy đều không. Như mây lại tan hợp, Phật nhật chiếu không cùng. Sắc thân cùng diệu thể, Chẳng hợp chẳng chia lìa. Nếu người cần phân biệt, Trong lò một cành hoa. ~TS Thanh-Từ~ TS BẢO-GIÁM (?-1173) Đắc thành chính giác hãn bằng tu, Chỉ vị lao lung, trí tuệ ưu. Nhận đắc ma-ni huyền diệu lý, Chỉ như thiên thượng hiển kim ô. Trí giả du như nguyệt chiếu thiên, Quang hàm trần sát chiếu vô biên. Nhược nhân yếu thức tu phân biệt, Lãnh thượng phù sơ tỏa mộ yên. Dịch: Được thành chính giác ít nhờ tu, Ấy chỉ nhọc nhằn, trí tuệ ưu. Nhận được ma-ni lý huyền diệu, Vì thế trên không hiện vừng hồng. Người trí khác nào trăng rọi không, Chiếu soi khắp cõi sáng không ngần. Nếu người cần biết, nên phân biệt, Khói mù man mác phủ non chiều. ~TS Thanh-Từ~ TS BỔN-TỊNH (1100-1176) Nhất quỹ nhất quỹ, Thạch miêu diêu vĩ. Trịch thân tróc thử, Hoàn hóa vi quỉ. Nhược yếu phân minh, Kim sinh lệ thủy. Dịch: Một đạo một đạo, Mèo đá vẫy đuôi. Nhảy bổ chụp chuột, Lại hóa thành quỉ. Nếu cần rành rõ, Vàng sanh sông Lệ. ~TS Thanh-Từ~ Huyễn thân bản tự không tịch sinh, Du như cảnh trung xuất hình tượng. Hình tượng giác liễu nhất thiết không, Huyễn thân tu du chứng thật tướng. Dịch: Thân huyễn vốn từ không tịch sanh, Dường tợ trong gương hiện bóng hình. Bóng hình giác rõ không tất cả, Thân huyễn chớp mắt chứng tướng chân, ~TS Thanh-Từ~
<bài viết được chỉnh sửa lúc 25.12.2010 09:04:58 bởi Anh Nguyên >
|