Giờ thứ 25
Thay đổi trang: < 123 > | Trang 2 của 3 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 32 bài trong đề mục
Whatever 08.01.2011 05:55:41 (permalink)
----------------------------------77-----------------------------------

Moritz làm trong xưởng nút áo đã năm tháng rồi, và anh chẳng còn để thùng đồ ngã nữa. Thùng tới trước mặt, anh cứ lấy để trên xe. Anh lấy thùng mà không ngó đến nó, không nghĩ đến nút gì đựng trongddos, không nghĩ đến các Đậi tướng sắp mặt nhung phục có kết nút nầy, không nghĩ đến các quân lính đi diễn hành, sau khi hết giặc, mặc sắc mới với nút áo sáng chói, đựng trong thùng anh đang cầm tay.

Anh không còn suy nghĩ gì nữa. Anh không mơ mộng nữa, cũng không nhớ tới đầu người thợ Ý lăn lóc dưới chân viên đao phủ mà còn cười.

Có vài lúc, anh muốn biết coi người thợ Tcheque ra trước tòa, bữa anh mới đến làm việc trong xưởng, có bị án hay được tha.

Chuyện nầy xảy ra lúc ban đầu. Bây giờ Moritz không còn tò mò tìm hiểu mấy chuyện không đâu nữa.

khi anh vô phòng máy, người thợ pháp luôn luôn đứng nơi của sổ và hô: "Slave Sclave" để chào anh thì anh cũng đáp : "slave Sclave" để chào alij, mà chẳng nghĩ đến đã nói gì. Anh mỉm cười với y mà không biết mình mỉm cười. Đoạn anh leo lên bục, chờ mấy thùng nút áo đến. Có một lần, anh thử giản dị hóa công việc, lấy một lượt hai thùng để lên xe. Nhưng đường rầy cản lại, sợi dây trân trúng cạnh thùng kêu ken két như nghiến răng muốn cắn. Cả sớ thịt của moritz run lên như lúc ai nhổ răng anh. Từ đó về sau, anh không dám thử lấy hai thùng một lượt nữa. Máy móc không bằng lòng như vậy. Và anh phải làm theo ý muốn của máy móc. Dầu anh có thể lấy năm thùng một lượt, anh cũng không làm. Anh bị lôi cuốn theo nhịp nhàng và không thể thoát ra khỏi được. Chuyện làm không khó, cũng không dễ. Lúc trước, mỗi khi anh làm công việc nặng nhọc, đổ mồ hôi và mệt mỏi thì anh chửi thề. Hiện giờ , anh không đổ mồ hôi và cũng không chửi thề nữa. Anh có cảm giác như không làm việc mà cũng không ở không. Lúc trước, khi làm công việc, anh suy nghĩ đủ chuyện và thì giờ qua mau. Hiện giờ, anh không suy nghĩ nữa. Trong lúc anh đang đỡ thùng lên và để xuống xe, anh có dư thì giờ để nghĩ muôn ngàn chuyện, nhưng đầu anh nay trống rỗng không còn hình ảnh nào hết. Ý nghĩ và tưởng tượng cũng rời bỏ anh. Và anh cũng không nghĩ đến công việc anh làm nữa. Anh biết rõ anh làm công việc nầy chẳng những bằng tay mà còn bằng trí não. Nếu không, thì tâm hồn và trí não anh sẽ ở chỗ khác. Nhưng chúng nó ở đây, gần thùng và gând máy móc.

Moritz cảm thấy thân xác khô khan như cây thiếu nước. Tối đến, khi nằm xuống giường, anh tưởng như đang cúi xuống lấy thùng nút. Buổi sáng, khi ngồi dậy, anh tưởng như đang đứng lên, sau khi để thùng nút trên xe rồi, và được rảnh tay vầi phút. Giấc ngủ anh hết còn mộng mị. Trán và mắt anh tối lần. Da anh thấm màu máy móc chớ không phải màu đất. Mấy lúc sau nầy, anh quên luôn những thùng đựng gì, và nếu có nhớ lại, mà cũng không thường nữa, thì anh mỉm cười. Nụ cười cảu anh khô khan như đất nẻ mùa nắng.

Các bác sĩ đều nói anh bịnh, và anh bị nhốt tại nhà thương trong trại.
 

--------------------------------------78-------------------------------

Moritz hiện đang ở trong gian nhà cây dựng làm nhà thương. Cửa sổ có giăng dây kẽm gia. Anh ở đã bốn tuần nay. Phổi anh bị bịnh. Toàn thân anh nóng như lửa và anh cảm thấy như sắp tiêu tan. Anh chỉ mơ tưởng đến xưởng làm nút áo và anh muốn trở lại đi làm. Anh nằm suốt ngày, mắt nhắm nghiền. Có tiếng động chung quanh anh. Anh nói thầm:" Chắc bác sĩ đi thăm bịnh", Thình lình, anh nghe một mùi thơm của da thịt mới tắm sạch sẽ mà anh không ngửi được từ lâu, nhưng anh biết rõ, nên anh mỉm cười mở mắt ra. một người đàn bà, y phục nhà binh, đứng gần anh. Nàng trẻ và trắng hồng. Mình nàng có mùi xa bong và hơi mát. Nàng nghiêm nghị ngó anh, nhưng anh vẫn cười. hai viên hiến binh và mấy bác sĩ đứng bao vây anh. Trong lúc nàng nhìn anh, một bác sĩ nói:
---Phải y không?
Người đàn bà vừa đọc tấm phiếu bịnh trạng trên giường Moritz, vừa nghi ngờ ngó anh. Ai ai ở Đức cũng đều có đôi mắt nghi ngờ. Nàng nói:
---Dân Hongrois hả? Với người Ý, mới là nguy hiểm nhứt!
Rồi nàng nắm góc mền lật lên, thấy ngực Moritz, nàng nói:
---Không phải y. Tên kia có lông ở ngực!
Nàng bỏ đi, đến trước các giường khác, nhìn các gương mặt và dở mền vài bịnh nhân. Nàng không gặp người nàng muốn tìm. Hai viên hiến binh vẫn theo nàng.

Mùi thơm ấy, không ấy, không phải chỉ là mùi nước hợp với mùi xà bong và dầu thơm mà thôi, vẫn còn phưởng phất trong phòng, sau khi nàng đi khỏi. Moritz nhớ lại là mùi da thịt, như của Suzanna và Iulisca.

Một bác sĩ nói:
---Một trong các bạn thợ của anh đã làm tình với một gái Đức. Người đàn bà vừa mới đi ra đã bắt gặp họ. Cô gái Đức bị bắt, gã kia chạy thoát. Gã đen đen, có lông ngực nhiều. Cô gái Đức không muốn nói tên gã. Nhưng rồi thế nào họ cũng tìm ra, và gã sẽ bị năm năm tù. Cũng tội nghiệp!
Bác sĩ là người Hòa Lan. Ông ngó ra cửa sổ và nói:
---Bắt được rồi!
Moritz chỗi dậy. Một người dân Serbe bị trói đi ngang qua cửa sổ. Người đẹp trai, tóc đen, đi giữa hai viên hiến binh. Moritz biết người nầy. Y làm cho xưởng thợ dây nhợ và vui tính lắm. Người đàn bà mặc quân phục đi sau y và nói:
---Tôi đã nói, thế nào cũng bắt được!

---------------------------------79----------------------------------

Khi ở gần Joseph thì Moritz không sợ. Chỉ với người nầy là anh không sợ mà thôi. Mấy lúc sau nầy, anh sợ tất cả. Ở xưởng. anh sợ hoảng khi nghĩ đến phải làm rớt thùng nút, hay lấy chậm trên đường rầy.

Anh sợ khi ngó một người đàn bà Đức. Anh sợ khi tình cờ biết được một chuyện cơ mật về nút áo. Anh sợ tất cả người Đức. Mà chẳng phải chỉ riêng người Đức thôi. mà sợ luôn hết, và nhứt là đất đai Đức, tiếng nói Đức, không khí anh thở, vì nó cũng là của nước Đức. Ở Roumanie, Moritz bị giam cầm, đánh đập, đói khát, nhưng anh không sợ. Anh cũng không sợ người Hongrois đã hành hạ anh, xé da anh từng mảnh, vì họ là con người Iordan cũng là người, nên anh không sợ ông.

Moritz chưa bao giờ run sợ trước con người , vì anh biết họ vùa dữ tợn, vừa tốt bụng cùng một lúc. Cũng có kẽ hiền , cũng có kẽ dữ. Nhưng ai ai cũng đều có cả hai tính nầy.

Ở Roumanie, viên phó quản cho anh điếu thuốc sau khi thoi anh gãy hai cái răng. Ở Hongrois, mấy viên hiến binh cho anh nước uống và thuốc hút, sau khi nướng bàn chân anh bằng sắt đỏ.

Ở Đức, anh chẳng hề bị đánh. Mỗi ngày anh được bánh mì, cà phê nóng và súp. Công việc làm ở đây lại dễ dàng hơn tại kinh đào ở Roumanie hoạc tại pháo lũy ở Hongrie. Nhưng anh lại không thể sống được ở Đức.
Moritz chắc chắn rồi đây dân Đức sẽ chặt đầu anh, mặc dầu anh biét rằng anh nghĩ như thế là dại dột. Nhưng anh có cảm tưởng một ngày kia anh bị còng tay dẫn đi, tuy anh không phạm tội gì cả. Họ sẽ cho anh ngồi tù, dẫu anh chẳng biết mảy may chuyện bí mật về nút áo. Người ở đây xấu như máy móc. Hoạc giả máy móc không xấu và người Đức không dữ tợn. Nhưng anh không sống gần máy móc. Anh khô héo lần mòn. Anh lo sợ. Anh sợ máy móc và luôn cả con người đã giống máy móc. Anh thấy trơ trọi giữa họ và giữa máy móc. Anh muốn la lớn lên vì quá cô độc. Và vì vậy mà anh mến người bạn Pháp của anh.

Joseph tìm tới anh nói:
---Slave Sclave!
Moritz cười và đáp: "Slave Sclave!"
Joseph thích ai trả lời bằng câu nầy lắm. Y cắt nghĩa:
---Chúng ta đều là kẻ nô lệ. Tốt nhứt là ta phải nhắc nhở với nhau luôn cả ngàn lần mỗi ngày, để đừng quên phút nào. Nếu chúng ta lãng quên rằng ta đang làm nô lệ thì nguy mất. Lương trí ta phải luôn luôn được thức tỉnh.

Bữa ấy, chiều chúa nhựt, Moritz và Joseph nằm dài trên cỏ, chỗ hóng mát có một gian nhà gỗ. Joseph thuật lại cho Moritz nghe y yêu một người đàn bà, và Moritz biết nàng tên là Béatrice, ở Ba Lê.
Nàng có đôi mắt to và đen. Nàng khóc mỗi đêm vì Joseph bị cầm tù. Người thợ Pháp nầy đã nói với Moritz bao nhiêu lần rồi, nên anh chắc chắn, nếu một ngày kia gặp Béatrice, anh sẽ nhận ra nàng ngay. Có lúc anh tưởng như nghe nàng nói chuyện. Giọng nàng như hát. Anh cảm thấy hình ảnh nàng giữa anh và Joseph, khi hai người nói chuyện với nhau. Và vì vậy, khi anh ở gần Joseph , anh có cảm tưởng có ba người chuyện trò, và anh lấy làm lạ sao Béatrice không nói năng gì và cũng không trả lời với ai hết...
 

----------------------------------80---------------------------

Qua ống loa, viên cai quản trại giam gọi to:
---Vô trong trại tất cả!
Moritz đứng dậy nói:
---Họ xét gì nữa đây.
Joseph cũng đứng dậy đi theo anh và nói:
---Họ muốn gì mình nữa.!
Người thợ Pháp không bằng lòng. Y không muốn ở trong nhà gỗ buổi chiều chúa nhựt.
Các thợ ra khỏi sân, từng đoàn, Trơiangs và nóng.
Moritz và Joseph đứng dựa cửa sổ, ngó qua lưới sắt, xem chuyện gì xảy ra ngoài sân. Moritz nói:
---Quả thật rồi!
Ba chiếc xe cam nhông nhà binh vô sân, đậu dưới cửa sổ họ.
Mấy lúc sau nầy, có tiếng dồn sẽ có đàn bà dẫn đến trại. Ở mấy trại khác, đã thấy chuyện ấy rồi. Các tù binh không tin. Và bây giờ thì đàn bà đến trại. Đàn bà được dẫn đến cho họ. Cã ba xe chỗ đầy đàn bà: tóc nâu có, hung hung có, đỏ heo có.
Moritz nói với Joseph:
---Anh thấy chưa!
Nhưng Moritz cũng chưa dám tin, mặc dầu anh thấy tận mắt. Song đàn bà đã đến đó, anh ngó họ. Cả thảy đều phấn son và mặc áo mỏng. Họ dòm lên mấy vửa sổ, tù binh chen nhau đứng chật. Và các thị đều cười. Đoạn họ lo sửa soạn xuống xe. Khi nhảy xuống, gió tốc váy lên. Moritz dòm thấy áo lót trong, quần chẽn, đủ màu và mỏng như giấy quyến, phần trên bắp đùi của các thị. Sau lưng Moritz, bọn tù cười ầm lên. Phần anh , anh không tin cặp mắt anh . Anh không cười được.

Viên quản trại nói lớn:
---Không ai được xuống xe. Chưa có lịnh xuống xe mà!
Tiếng trong loa nghe oai nghiêm và dõng dạc. Không ai thấy ông quản trại. Ông nói từ trong phòng làm việc. Mấy người đàn bà đều quay trở lại, xô đảy nhau trèo lên xe, mau lẹ như họ vùa nhảy xuống. Họ sợ bị phạt xuống xe, không đợi lịnh. Lúc họ trèo trở lên, bọn tù lại được dịp thấy một lần nữa, đầu gói, áo lót và quần chẽn đủ màu tươi dợt của họ. Họ vẫn cười, nhung khúc khích và sơ sệt hơn.
 

Viên quản ra lịnh:
---Mười người đàn bà trong một nhà giam, và ở dến chín giờ tối. Các trưởng gian nhà đều có huấn lịnh riêng để thi hành chương trình và sẽ chịu trách nhiệm về trật tự và kỷ luật!
Tiếng loa im.
Đàn bà đứng yên trên xe, chờ lịnh khác.
Người thợ Pháp nghiến răng, chửi thề.
Moritz tưởng y nói chuyện với anh, nên quay lại.
Joseph đang giận dữ, không ngó anh.
Tiếng loa nói:
---Đàn bà phải xuống xe có trật tự, từng tốp.
Lịnh vừa ra, các thị nhảy xuống xe, chia làm năm tốp. Năm viên trưởng gian nhà đến dắt họ đi. Họ tươi cười đi theo năm người ấy.

Moritz không biết "chương trình thi hành " ra sao. Anh lấy làm lại và tọc mạch tìm hiểu. Anh biết đàn bà dẫn đến để làm tình với tù nhơn. Người Đức cho rằng tù nhơn làm việc không đắc lực, nếu không có đàn bà. Và người Đức muốn công việc làm được nhiều kết quả. Vì thế, họ cho dẫn đàn bà đến để thợ làm việc đắc lực hơn tại mấy xưởng nút áo, xưởng nhợ và lò đúc, trong thành phố.

Moritz không hiểu tại sao, khi có đàn bà người ta lại làm việc đắc lực hơn. Và anh cũng không biết bọn tù sẽ làm sao với các thị dẫn đến cho họ. Gian nhà thì rộng lớn và có nhiều giường. Tù thì nhiều mà đàn bà lại ít. Không thể mỗi tù nhơn có một đàn bà. Moritz nói thầm:" Hay là các thị đi từng giường?" Rồi anh nghĩ chắc đàn bà phải hổ thẹn lắm khi đi từ người nầy đến người khác. Anh chua từng nghĩ dến việc được thấy đàn bà trong trại của anh có cửa sổ giăng dây kẽm gai bao giờ. Nhưng họ đã đến đây, đứng ngoài cửa kìa!

Viên trưởng gian nhà nói chuyện với họ, chắc dặn dò cách thức, kiến họ cười to lên.
Joseph kêu Moritz:
---Đi ra anh. Lại đằng chỗ hồi nãy.
Moritz theo Joseph đi ra cửa. Nhiều người khác cũng đi ra.
Đi ngang cửa, họ đụng mấy người đàn bà. Mùi phấn và nước hoa tỏa ra trong nhóm ấy. Tất cả đều ngó Moritz và Joseph, rồi cười. Mấy ả chế nhạo hai anh đã bỏ gian nhà ra đi.

Moritz cảm thấy một bàn tay đàn bà rờ mặt anh. Anh ngó xuống. Bàn tay thơm và mát.
Joseph nói vào mặt họ:
---Salvete Sclavi!
Họ đáp lại bằng một chuỗi cười. Joseph, thì anh không cười. Trán anh xạm lại
Ra sân, anh nằm dài trên bãi cỏ, nhìn trời. Moritz nằm kế anh, nghĩ đến mấy người đàn bà. Joseph chắc cũng có nghĩ đến, nhưng Moritz không biết ý anh nghĩ gì.
Joseph nói:
---Nếu anh muốn, thì cứ trở vô đi!
Moritz đáp:
---Không, tôi không đi.
Hai người làm thinh. Lần đầu tiên, Joseph không nói với Moritz về Béatrice.
Y cắt nghĩa:
---"Họ là đàn bà Ba Lan ở trại giam. nếu họ làm nghề đó trong sáu tháng, thì họ được thả ra liền... Nhưng trong sáu tháng, thì thân tàn xác hoại mất rồi. Họ chỉ ra khỏi trại giam để đi thẳng vào nhà thương, nhà dưỡng bịnh, hay nhà xác.
Moritz nói:
---Vậy mà tôi tưởng nghề của họ chớ!
Bây giờ anh mới thấy thương hại họ. Anh không biết họ cũng là tù binh như anh.
---Họ không phải là nhà nghề, Jean à!( Joseph cứ gọi Moritz bằng tên Jean). họ là nô lệ và cố hết sức mình để lấy lại tự do. Một kiếp nô lệ chỉ biết cố sức bứt phá xiềng xích bằng hai tay trống rỗng, yếu đuối, không có khí cụ nào khác. Anh hùng thật! Nhưng khổ thay, nào họ có làm sao bứt được xiềng xích họ đâu! Chỉ nát thân họ! Xiềng xích nô lệ còn mạnh hơn xác thịt con người.
Đến chín giờ tối, các đàn bà rời khỏi trại
Khi lên xe, họ không cười nữa. Họ im lặng hút thuốc.
Joseph tiễn họ, bằng một giọng chân thành, như chào bạn thân
---Salvete Slcavi !
Đêm ấy, anh tù Pháp vượt ngục.
#16
    Whatever 08.01.2011 05:58:33 (permalink)
    ------------------------------81---------------------------

    Viên chức của xưởng dắt Moritz vô văn phòng và nói:
    ---Các sĩ quan cần dùng một thông dịch viên tiếng Balkan. Anh phải đàng hoàng và cung kính! Các ông ấy là sĩ quan của O.K.W

    Moritz đứng chờ ngoài cửa trót giờ. Rồi anh được dẫn vô. Khói thuốc và mùi rượu nồng nạc cổ họng anh. Trên bàn la liệt ly cốc và chai không.
    Lúc anh bước vô, không ai quay đầu ngó anh cả, Anh đứng dựa cửa chờ. Khói thuốc làm anh ngộp thở . Anh muốn xin trở về xưởng, bưng mấy thùng nút áo như cũ. Ít nữa ở đó anh được yên tịnh hơn, và khỏi bị ngộp khói thuốc. Anh ưa thích mấy sọc đỏ trên quần các sĩ quan. Họ đều còn trẻ. Moritz đếm được bảy người. Mottj viên sĩ quan đến gần Moritz , để tay quay tròn trên đầu anh, như quay trái banh trước khi thảy. Ông ngắm nghía mặt Moritz, ngó nghiêng bên trái, rồi bên phải. Ông bảo:
    ---"Xây lại coi!" Ông nhìn đằng sau đầu anh, rờ rẫm vai anh và nâng càm anh lên. Ông bảo Moritz hả miệng và xem răng rồi ra lịnh:
    ---Cởi đổ ra!
    Moritz lột áo thợ để trên kệ dựa vách. Viên sĩ quan chăm chú ngó theo anh.
    Trong khi anh cởi đồ, ông cân nhắc từng cử chỉ điệu bộ của anh. Mấy vị khác lo nói chuyện, không quan tâm đến anh.
    Viên sĩ quan ấy là Đại tá S.S ông nói:
    ---Các bạn, tôi muốn trình bày ra đây một chứng minh luận thuyết!
    Ai nấy đều im lặng và bao chung quanh Moritz, đang trần truồng đứng ngơ ngác trước mặt họ. Anh được gọi lên để làm thông ngôn, và anh không hiểu gì về chuyện ông Đại tá vừa nói. Anh tưởng một chứng minh như một cuộc diễn trò trong gánh xiếc.

    Rồi anh thấy lại trong trí các cuộc chứng minh. Một khán giả được kêu lên sân khấu để nhà ảo thuật lấy trong túi người ấy ra nào mèo, thỏ, chim chóc còn sống nhăn Theo ý anh chứng minh là vậy đó. Ngoài ra, anh không biết cahs nào khác. Và bây giờ Đại tá lại muốn dùng anh để trình bày một cuộc chứng minh, không chừng cũng như một cuộc diễn trò mà anh đã thấy trong gánh xiếc hồi anh đi lính. Anh tò mò muốn biết. Anh mỉm cười. Anh không sợ cuộc biểu diễn. Anh biết rằng người khán giả được chọn không hề hấn gì. Họ chỉ lấy làm lạ và thán phục thôi. Và anh cũng sẽ thán phục Đại tá khi ông bắt ra những con thỏ, mèo, chim chóc, từ trong nách và cườm tay anh. Anh vẫn thân ái mỉm cười với Đại tá. Anh ưa thích mấy nhà ảo thuật và tự cho mình chẳng khi nào làm được như họ, dầu có luyện tập cả ngàn năm. Anh phục ông Đại tá biết làm trò. Anh nhớ lại lời của mẹ anh: "Mấy nhà ảo thuật là tay sai của ma quỷ" . Anh hơi lo ngại và khong mỉm cười nữa. Ma quỷ thường làm anh sợ hãi. Đại tá nói:
    ---Các bạn, người nầy vô đây chừng mười phút. Tôi chưa hề thấy mặt y. Tôi cũng khong biết tại sao y đến đây!
    Viên chức của xưởng đáp:
    ---Đó là viên thông ngôn tiếng Balkan mà đại tá cần dùng.
    ---Vậy mà tôi quên mất chớ, quên chuyện nhờ ông kiếm cho một thông dịch viên. Lúc anh ta bước vô , khuôn mặt anh làm tôi để ý.

    Đại tá để tay trên đầu Moritz. Anh mỉm cười và nóng nảy đợi Đại tá cho thỏ chun ra từ dưới nách anh. Đại tá thì nghiêm trang. Moritz biết rằng tại các gánh xiệc, nhà ảo thuật nào cũng nghiêm trang. Dầu khán giả có cười vỡ bụng, họ cũng vẫn nghiêm nghị. Moritz chờ nghe ai nấy cười rộ lên. Anh cũng sửa soạn cười. Từ lâu rồi , anh không có cười. Đại tá nói:
    ---Tôi thấy anh nầy lần đầu tiên như các bạn, chừng mười phút, và chưa nói với anh tiếng nào. Thế mà tôi có thể, vịn vào những nhận xét khoa học, thuật lại từng chi tiết tiểu sử của anh và lịch sử gia quyến anh từ ba trăm năm nay.

    Moritz nhớ lại hồi đi lính, cũng có thấy mấy trò xiếc nầy. Nhà ảo thuật kêu trong hàng khán giả một người lên sân khấu và nói rõ tên họ, tuổi tác, vợ con, và lắm chuyện vân vân khác của người đó. Ai cũng lấy làm lạ sao nhà ảo thuật biết được các chuyện bí mật ấy. Nhưng Moritz không thích mấy trò như vậy. Anh chỉ thích những trò diễn thuật ra mèo với thỏ. Anh tiếc sao Đại tá không biết những trò ảo thuật ấy. Anh muốn cho ông lấy trong túi anh ra một con mèo chẳng hạn. Ở trong gánh xiếc, anh cũng có đứng lên để đến trước nhà ảo thuật, nhưng vì có nhiều người muốn lên, nhà ảo thuật lại lựa nhằm người khác.

    Đại tá tên là Muller. Ông nói tiếp:
    ---Dưới chế độ quốc xã, khoa học về nhân chủng phát triển mạnh mẽ nên đã tiến bộ hơn khoa học nầy của các nước khác, gần một trăm năm. Chỉ nhìn người trần truồng nầy, tôi có thể kể rành tổ tông của y, việc cưới hỏi của thân tộcy và phong tục của gia quyến y ra sao? Mouuns thí nghiệm lời trần thuật của tôi, các bạn cứ hỏi người ấy côi đúng hay không?
    Mấy sĩ quan đứng lại gần chung quanh Moritz và nói:
    ---Kỳ lạ thật.
    Đại tá nói:
    ---Theo hình thức của sọ và mô hình của xương trán, xương mũi và xương mặt, và theo cách cấu thức của bộ xương nhứt là xương ngực và vi trí xương vai, thì người nầy thuộc về nhóm dân Germain, hiện còn sống thiểu số tại thung lũng sông Rhin, tại Luxembourg, tại Transylvanie và tại Australie. Còn đúng chắc mười tăm gia quyến ở tại Trung Hoa và Hoa Kỳ. Nhưng họ không được kê vô số thống kê, vì mới tìm được dấu vết họ chừng vài tháng trước chiến tranh. Trong bảng thống kê mà chúng tôi sẽ đăng vào số đặc san, chúng tôi sẽ cho đầy đủ chi tiết rành mạch, và trước tiên về nhóm dân Germain nầy, lấy tên là " Dòng Anh Hùng". Dòng nầy có nhiều nhứt chừng tám trăm người. Tổ tiên họ di cư từng đoàn, từ miền tây nam nước Đức, trong khoảng năm 1500-1600. Họ là dân Đức chánh tông và vẫn giữ được nguyên vẹn huyết thống, mạc dầu bị mọi áp lực nặng nề, trong thời gian lịch sử. Chủng tộc này có một bản năng sinh tồn mà sức người không bì kịp. "Dòng Anh Hùng" mà trong đó có thanh niên đứng trước mặt các bạn đây, chứng tỏ bản năng sinh tồn kiên cường của dân Đức chúng ta. Duyên cớ gì khiếm cho tổ tiên anh nầy, từ ba bốn trăm năm chỉ cưới vợ đồng chủng, trong lúc xung quanh họ có biết bao nhiêu đàn bà quyến rủ hơn. Đó là bản năng sinh tồn, tiếng gọi của huyết thống đã tránh cho gia tộc nầy khỏi phạm trọng tội tạp chủng. Suốt đời lịch sử, gia tộc nầy không bao giờ cưới gái khác chủng tộc. Và bởi duyên cớ duy nhứt ấy, nên bốn thế kỷ, anh trai trẻ nầy mới còn được giống y hệt tổ tiên anh. Tóc anh giống y hệt của tóc "Dòng Anh HÙng" cách đây 4 thế kỷ, mà ta còn thấy trong di hài tàng trữ đến ngày nay. Không thể lầm lẫn với loại tóc nào khác được và người sành sẽ nhận ra tức khắc.
     

    Tóc mịn hơn tóc của các nhóm tộc loại Germain khác, chân tóc thì cũng như nhau. mũi, trán, mắt, càm của thanh niên nầy đều giống như trong hình vẽ từ bốn trăm năm nay. Không có thay đổi với thời gian!

    Các sĩ quan rờ đầu và mân mê tóc của Moritz. Họ trầm trồ ngó anh.

    Moritz thấy bao nhiêu cặp mắt đổ dồn về anh. Chẳng khi nào anh được chiêm ngưỡng nhu thế. Anh như một vị anh hùng. Nhưng anh sợ làm thất vọng các sĩ quan. Anh tiết chẳng có làm việc gì đáng được khen tặng, sự khen tặng chỉ để dành cho những người được gắn huy chương quân công" Croix de fer" có kim cương sáng ngời, và nhành lá cây sồi mà thôi.

    Bàn tay Đại tá lại nắn bóp xuống vai Moritz một cách cảm phục và có vẻ thành kính như rờ vào thánh cốt của Nữ Thánh Paraschiva la Miraculeuse tại nhà thờ Trois Hierarques.

    Moritz cúi nhìn xuống, hổ thẹn vì không có dự mặt trận Miền Đông và không đuọc thành tích vũ dũng nào.

    Đại tá nói:
    ---Chửng tộc được mang danh là " Dòng Anh Hùng", vì đã nêu gương anh dũng của nòi giống oanh liệt.

    Thật ngày hôm nay là 1 ngày lễ của tôi, vì tôi may mắn tìm được một kiểu mãu nhân chủng như vầy. Xin nói phớt qua, tôi có một ông tổ cưới vợ thuộc gia tộc "Dòng Anh Hùng" nầy, song rủi không có con, vì ông ấy chết tại trận tiền, sau ba tháng cưới vợ. Nhưng đây lại là chuyện phụ thuộc. Tôi muốn rằng hình ảnh thanh niên nầy, có phụ chú những dữ kiện lịch sử và nhan chủng trắc định, được đăng trong quyển sách tôi soạn từ mười năm, dưới sự chỉ dẫn của bác sĩ Rosenberg. Tác phẩm nầy là thành quả công trình khảo cứu của tôi.

    Các sĩ quan bèn đứng nghiêm chỉnh chào và nói:
    ---Xin đại tá nhận lời khen tặng của chúng tôi,

    Đại tá đỏ mặt sung sướng. Ông đưa thẳng tay phải lên chào và bắt tay từng người.
    Moritz đứng yên ngó ông. Ông hỏi:
    ---Anh ở Rheinland, Luxembourg hay Transylvanie?
    Moritz đáp:
    Ở Transylvanie.
    Các sĩ quan khen rộ. Đại tá Muller hớn hở. Ông nói:
    ---Tôi sẽ nói rõ chỗ ở của anh nầy.
    Day qua Moritz, ông hỏi:
    ---Anh sang tại Timisoara, tại Brasov, hay tại xứ người Szeklers.
    Moriitz đáp:
    ---Tại xứ Szeklers
    Đại tá xoa tay cười và nói:
    ---Tuyệt diệu! Không thể nào nói tôi sai. Lúc anh nầy mở cửa bước vô, tôi có cảm giác như thấy một nhân vật của Phòng triển lãm chân dung" Dong Anh Hùng". Tôi thuộc lòng các chân dung của gia tộc ấy. Các bạn có thể xem trong quyển sách của tôi, có cả hình màu nữa. Các bạn, tôi có thể nói anh nầy là một kiểu mẫu hoàn toàn về " Dông Anh Hùng". Anh chứng thật cho lý thuyết của tôi.

    Đại tá kêu viên chức của xưởng đem phiếu lý lịch của Moritz. Vừa đọc phiếu, Đại tá nổi giận nói:
    ---Thật là ngu! Một người trong "Dòng Anh Hùng" chẳng khi nào có tên Ianos. Đặt tên như vầy thật là vô lễ, phạm thượng!
    Xây qua Moritz, ông rầu rầu hỏi :
    ---Phải cha anh đặt tên Ianos cho anh không?
    ---"Thưa Đại tá, không phải. Tôi không phải tên Ianos" Anh muốn nói anh tên là Ion.
    Đại tá nói:
    ---Không thể nào một người trong "Dòng Anh Hùng" lại đặt tên con khác hơn tên các thánh trong lịch Đức được. Từ bốn trăm năm nay, chưa bao giờ có chuyện đó. Anh nầy không thể tên Ianos được

    Đại tá ngó Moritz. Lần nầy ông bằng lòng và vui mừng thấy Moritz không phải tên Ianos. Ông hỏi:
    ---Vậy ai đặt tên nầy cho anh?
    ---Tôi không biết. Khi tới nước Đức, từ hai năm nay, tôi được ghi trong giấy tờ với tên nầy.
    Đại tá bèn nói với các sĩ quan:
    ---Nó không phải Ianos đâu? "Dòng Anh Hùng", thường thường bị chịu sự ô danh như thế. Nhũng dân tộc mà họ chung chạ với nhau đã thay đổi tên tộc của họ, nhưng không làm sao thay được huyết thống họ. Máu huyết của "Dòng Anh Hùng" vẫn tinh khiết như một giọt thủy tinh.
    Đại tá đi thẳng đến viên chức của xưởng và nói:
    ---Từ nay thanh niên nầy sẽ để dành cho "Viện Quốc Gia Khảo cứu Chủng tộc", Đây là một kiểu mẫu mà chúng tôi cần dùng.
    Viên chức hỏi:
    ---Vậy anh ấy không làm ở xưởng nữa?
    Đại tá xẳng xớm:
    ---Không, tôi sẽ gởi sau những chỉ thị đặt biệt riêng về anh nầy.

    Đại tá ngó Moritz và suy nghĩ:" Khoa học tiến triển phi thường. Nhưng ta vẫn còn cách xa sự hoàn mỹ. Kiểu mẫu ưu tú nầy, người tiêu biểu cho nhóm chủng tộc kỳ thú nầy, lẽ ra phải ở trong một " Vườn Nhân Chủng" với các kiểu mẫu hiếm lạ và quý báu của loài người. Nhưng tiếc thay, " Vườn Nhân Chủng" chưa thiết lập. Tại Âu Châu có vườn tuyển trạch và bảo tồn các giống cầm và thú. Thế mà, vì thành kiến dư luận, không lập được một" Vườn Nhân Chủng". Một thiệt hại lớn cho khoa học! Về lãnh vực nầy, người Mỹ đã đi trước. Họ có lập vườn bảo tồn những giống thổ dân kỳ lạ của Mỹ Châu. Ta cũng sẽ lập " Vườn Nhân chủng" ở âu châu. Ta phải thắng! Trong kỳ diễn giảng tới, ta sẽ đề nghị sáng lập trước tiên "Vườn Nhân Chủng". Khoa học sẽ nhờ đó mà có sẵn kiểu mẫu để nghiêm cứu dễ dàng. Phần tử nầy của "Dòng Anh Hùng" sẽ là người đầu tiên của Vườn, và chính ta đem tặng"

    Đại tá Muller ngó Moritz và mỉm cười. Ông tưởng tượng tháy moritz ở trong Vườn Nhân Chủng, chỗ trại "Chủng tộc Đức" cùng ở với vợ con. Đại tá nói:
    ---Rồi đây ước vọng sẽ thánh...Hiện giờ, phải kiếm cho anh một nghề xứng đáng với căn cội chủng tộc của anh ta. Đời lính sẽ làm cho anh ta thỏa mãn. Tôi biết rõ "Dòng Anh Hùng". Ấy là chủng tộc háo chiến nhứt của giống Germain. Vậy phải giúp anh ta làm lính mới được.

    Các sĩ quan khen tặng Đại tá một lần nữa, vì họ tán thành ý kiến ông. Đại tá hân hoan kêu viên hầu đem cặp da của ông lại. ông lấy một miếng giấy trên đầu có chữ O.K.W. và viết mấy lời gởi gắm Moritz, để được sung vô quân đội, làm lính S.S.. Đưa mảnh giấy cho viên chức của xưởng, ông ra lịnh:
    ---Về làm các thủ tục cần thiết, và đừng để trễ nãi. Đoạn xây qua Moritz, ông cười và nói:
    ---Trong tháng tới tôi muốn có một tấm ảnh của anh mặc quân phục tân binh. Nó rất quý đối với sự nghiêm cứu của tôi về"Dòng Anh Hùng" mà anh thuộc về gia tộc ấy. Tôi sẽ gởi một tấm tặng Bác sĩ Goebbels. Rồi anh sẽ ngắm hình anh trong các báo chí có tranh ảnh.
     
    --------------------------------82-------------------------------

    Sau khi khám Moritz, Đại úy bác sĩ trong Ủy ban tuyển mộ, nói:
    ---Anh nầy không đủ sức khỏe để làm lính. Phổi bên phải có đốm.Quân sĩ thì buồng phổi phải lành mạnh mới được.

    Đã ba tuần qua, từ lúc Đại tá Muller gặp Moritz. Anh biết làm lính thì được cấp nữa ổ bánh mì mỗi ngày, có giày tốt đi nước không thấm, có áo quần ấm áp, và được ăn uống đầy đủ, có thuốc lá hút. Anh biết đời lính sướng hơn đời tù, nhưng khi nghe nói anh không được chấp thuận thì anh lại mừng. Bác sĩ lật hồ sơ đọc, rồi nói:
    ---Thanh niên nầy của Đại tá Muller, ở Tổng hành dinh và Viện nghiêm cứu chủng tộc gởi gắm. Không thể loại anh ra được.
    Ba vị bác sĩ đều ngó Moritz, Đại úy hỏi:
    ---Anh có biết làm công việc văn phòng không? Anh làm nghề gì?
    ---Tôi làm ruộng.

    Mấy ông bác sĩ hỏi ý kiến với nhau và bảo Moritz ra ngoài chờ. Khi kêu anh vô thì họ cho biết anh có đủ năng lực đi quân dịch, và cấp cho anh giấy đi trình diện tại đơn vị của anh. Đại úy nói:
    ---Anh được bổ vào đội trợ binh. Anh không biết làm việc văn phòng, thì anh sẽ ở trong đội binh canh gác.
    --------------------------------83-----------------------------

    Thiếu tá trại kỷ luật huýt còi kêu ăn trưa. Binh nhì Moritz giựt mình. Anh quên mình đang đứng gác trong chòi canh và lật đật kiếm gà men. Anh đỏ mặt, tức giận, ôm cây súng và nói thầm:" Ngu ngốc làm sao! Cứ quên mình là lính gác chớ không phải là tù nữa!"

    Ba ngày nay đứng gác, anh đều giựt mình mỗi khi nghe còi hiệu. Anh chưa nhớ được anh là lính. Thấy dây kẽm gai giăng cùng trại và đoàn tù, anh quên anh ở đâu và cứ tưởng còn bị giam. Trải nhiều năm ở trong trại giam, ý tưởng là tù trọn đời đã thâm nhập vào xương máu da thịt anh. Anh không thể tưởng nghĩ gì khác được. Khi có lính đến đổi phiên gác, anh run lên vì tưởng người lính nầy đến bắt anh. Giờ đây, khi có đoàn tù cầm gà men chờ nối đuôi nhau để lấy súp, Moritz quên mình đứng gác trong chòi canh và tự hỏi sao phiên xúp của mình lâu tới quá vậy. Anh thấy anh cùng ở trong đoàn tù.
    Mấy ngày đầu, Moritz ngó tìm trong đám tù coi có ai quen không.Anh lấy làm lạ sao không gặp được người nào. Ở Đức, anh đã ở trong cả chục trạm giam, tất anh cũng có một bạn quen trong đám tù ấy. Anh muốn gặp một người quen, dầu anh không được phép nói chuyện với tù. Miễn anh nhìn thấy xa xa một mặt quen là đủ . Thình lình, Moritz lại quên mình là lính gác, vội kêu lên:
    ---Joseph, Joseph!
    Đoàn tù ở sân đều ngó anh. Joseph cũng ngó, nhưng lại cúi xuống ăn, không nhìn biết Moritz.
    Moritz lại kêu nữa. Joseph cầm gà men ngó chăm chỉ anh, rồi bèn đi xa thêm.
    Moritz bèn nói lớn:
    ---Anh không nhớ tôi sao? Tôi là Moritz đây.
    Người tù Pháp nhìn ra anh, cười nói:
    ---Slave Sclave!
    Y để gà men xuống đất, đến gần hàng rào kẽm gai, hỏi:
    ---Tại sao anh ở đây, anh Jean?
    Moritz thuật sơ chuyện anh làm lính. Joseph lúc nầy đã nghe được tiếng Đức. Nhưng vì hai người cách xa quá, nên nghe không rõ. Moritz hỏi lại:
    ---Còn anh, tại sao anh ở đây?
    Joseph đáp:
    ---Tôi bị bắt lại, sau năm ngày vượt ngục. Anh gởi giùm thơ cho Béatrice, vì tôi không được phép viết. Tôi không có tin tức nàng từ bốn tháng nay.
    Moritz hỏi địa chỉ. Người tù Pháp viết vô một mảnh giấy. Khi đó Moritz rút túi lấy một gói thuốc hút vừa được phát hôm qua, thảy qua hàng rào dây kẽm gai, vô sân, dưới chân Joseph, và nói:
    ---Chiều nay tôi gởi thơ liền. Mai tôi đem thuốc hút và bánh mì cho anh.
    Joseph cúi lượm gói thuốc và liệng miếng giấy có địa chỉ của Béatrice, gói một viên đá nhỏ. Nhưng miếng giấy rớt giữa hàng rào dây kẽm gai. Joseph muốn viết miếng khác, song Moritz nói:
    ---Để tôi lượm cho. Không ai bắn tôi đâu, nếu tôi dến gần hàng rào.
    Anh vừa bước xuống thềm chòi canh, thì đằng xa thấy một viên cai đi đến đổi phiên. Moritz lật đật trở lên chòi và nói với Joseph:
    ---Viên cai đi tới rồi, và tôi không thể lượm được. Ngày mai, lúc chín giờ, tôi ra đứng gác sẽ lượm. Chờ tôi, chào anh nghe!
    Joseph nói:
    ---Slave Sclave!
    Y vừa đi vừa đốt thuốc, bộ đồ xám rách lúc trước nay tả tơi hơn. Y ốm nhiều. Ở trại giam luôn luôn thiếu ăn.
    Khi đổi gác với viên cai rồi, Moritz ngó Joseph đang đi xa xa, và nói thầm:
    ---Mai tôi đem nguyên ổ bánh mì cho anh.
    ---------------------------84-----------------------------------

    Đêm đó Moritz bị cảm. Bữa sau, xe chở anh vô nhà thương. Anh biết Joseph đang chờ anh gần vách tường để lấy bánh mì và thuốc hút mà anh đã hứa. Và anh còn phải lượm miếng giấy biên địa chỉ của Béatrice nữa. Anh buồn rầu đã làm cho Joseph chờ anh không được và thất vọng.
    ---"Tội nghiệp Joseph!" Anh thương hại và nghĩ thầm:" Biết đâu anh chẳng nóng lòng trông mau sáng và đến chín giờ để lấy bánh mì!"
    Moritz tự an ủi, trong vài ngày lành bịnh, mình sẽ mỗi ngày đem bánh mì cho Joseph và viết thơ cho Béatrice.
    Nhưng Moritz bị sưng phổi, phải nằm bịnh viện quân y hai tháng trường.

    Bữa mồng một tháng hai, bác sĩ nói với anh:
    ---Tuần nầy anh ra nhà thương được rồi. Anh sẽ có phép nghĩ dưỡng sức 30 ngày.
    Moritz nghĩ thầm nếu nghĩ phép thì làm sao gặp Joseph. Anh tù Pháp chắc vẫn chờ anh hoài, chờ anh lượm địa chỉ viết thơ cho Béatrice, chờ anh tặng bánh mì và thuốc hút.

    Moritz có ý nhứt định bỏ phép nghĩ để trở về phân đội mình. Bác sĩ lại khuyên:
    ---Anh cần nghĩ dưỡng sức, ăn uống và nghĩ ngơi. Nếu không nghỉ thì nguy hại lắm. Anh muốn nghỉ phép ở đâu?
    Moritz hết còn cam đảm xin bỏ phép nghỉ. Anh cúi đầu, đỏ mặt.
    Bác sĩ nói:
    ---Tôi hiểu anh. Anh không có chỗ nào để đi nghỉ. Tôi có thể gởi anh vào một "Viện dưỡng sức". Nhưng ở đó không phải là chỗ cho anh. Anh cần một bầu không khí ấm áp, như trong một gia đình...

    Moritz rất cảm động vì bác sĩ đã đoán được ý nghĩ của anh. Anh ao ước một nơi mà anh có thể ở như tại nhà anh.
    Bác sĩ nói tiếp:
    ---Anh cần một người đàn bà săn sóc và giúp đỡ anh. Anh cần phải tự tin trở lại. Nếu không, anh không bao giờ mạnh hẳn được. Nơi "Viện Dưỡng sức", anh gặp nhiều đàn bà. Nhưng họ ở đó để thỏa mãn nhu cầu sinh lý. Với một người bịnh về thể xác và tinh thần như anh, chuyện ấy không nhằm lối. Anh cần yêu đương hơn kích thích.

    Bác sĩ ngó chung quanh. Ông tin chắc tài khám bịnh của ông. Ông biết rõ cái gì hạp cho bịnh nhơn rồi! Lương tâm nhà nghề bắt buộc ông cho toa trị bịnh bằng yêu đương, không khí gia đình, sự tín cẩn và sự tận tâm của một người đàn bà. Nhưng ông không có các thứ thuốc nầy, mà bịnh nhơn thì chỉ cần có thế, y không thể lành mạnh nếu không có nó. Cặp mắt bác sĩ dừng lại một nữ khán hộ đứng gần ông, tay đang cầm thẻ ghi bịnh trạng. Bác sĩ nói:
    ---Cô Hilda, cô ở gần đây với mẹ cô phải chăng?
    ---Thưa bác sĩ, cách nhà thương vài bước, với mẹ tôi.
    Hilda ngó bác sĩ với sự tin cẩn, phục tùng của một người lính đang chờ lịnh của sĩ quan mình.
    Bác sĩ mỉm cười. Ông đã tìm được phương thuốc hay, ông nói:
    ---Tôi giao Moritz cho cô. cô nên coi anh như một người chồng. Trong một tháng, cô dẫn anh lại cho tôi, hoàn toàn lành mạnh. Tôi muốn thấy anh bình phục trước khi trả về đơn vị của anh. Anh cần có một người đàn bà, vừa là người yêu, người chị, và người mẹ!
    ---Thưa bác sĩ, tôi đã hiểu.
    Hilda được hai mươi tuổi, có đôi má hồng, tròn trịa. Nàng hơi lùn và mập mạp.
    Bác sĩ ngó nàng bằng lòng. Ông thấy nàng có cử chỉ yêu dương cần thiết cho Moritz. Nhìn tóc nàng, ông nói thầm: " tóc hoe hoe nầy êm dịu người bịnh, khi thấy nó. Tóc nâu nâu không hợp mấy!" ÔNg lại nói với HIlda:
    ---Cô được nghỉ mười bốn ngày trong dịp nầy. Cô chỉ lo cho Moritz mà thôi. Mỗi ngày cô cứ xuống nhà bếp bịnh viện lấy khẩu phần thường bữa. Nhưng cô nên nấu ăn thêm ở nhà. Anh ấy cần có món ăn riêng tự tay người yêu mến nấu, hơn là bữa ăn lãnh ở trong nồi nấu chung.
    Hilda đáp:
    ---Thưa bác sĩ tôi hiểu!
    Nàng tự hào về sứ mạng của nàng. Rồi đây các bạn đồng nghiệp sẽ ganh tỵ với nàng. Bác sĩ hỏi :
    ---Cô có phòng ngủ riêng chứ?
    Hilda đỏ mặt trả lời:
    ---Thưa có!
    Bác sĩ lại hỏi thêm:
    ---Tôi tưởng người thanh niên nầy chắc vừa ý cô?
    Rồi không đợi trả lời, ông bảo:
    ---Cô làm giấy ra nhà thương cho Moritz, giấy phép nghỉ cho hai người, và một giấy lãnh phần ăn trong 30 ngày cho hai người, với phần phụ thêm, loại A
    ---Tuân lịnh! Hilda vừa nói vừa mở cửa.
    Bác sĩ dừng lại trên thềm, ngó Moritz và nói hấp tấp:
    ---thôi chào anh, mau mạnh trở lại đây!  
    ---------------------------------85-------------------------

    Moritz ngồi lâu nơi cửa sổ, ngó ra sân nhà thương. Tuyết rơi. Xa xa anh thấy dạng hàng rào dây kẽm gai. Thình lình, hai bàn tay giá lạnh bịt mắt anh. Xây lại, thấy Hilda. Anh đã quên tất cả, luôn những nời của bác sĩ nữa. Hilda nói:
    ---Mặc đồ lính vô và lại đằng " kết " lãnh lương đi anh! Tôi có giấy phép ra nhà thương của anh rồi, và giấy anh nghỉ phép nữa. Giấy nghỉ phép của tôi cũng ký rồi.

    Hilda nói rất mau. Nàng phụ mắc đồ cho Moritz, luồn tay dưới áo lạnh để sửa cho nó thẳng thớm. Moritz nhận thấy bàn tay của Hilda trên ngực mình và có cảm giác như một bàn tay thân yêu quen biết từ lâu. Nàng mặc áo cho Moritz như đã từng làm chuyện nầy cho chồng hay cho con.
    Trước kia Hilda rất lạnh lùng và xa lạ đối với Moritz. Nàng đem thuốc men, lấy thủy, rồi đi liền. Bây giờ, bỗng dưng nàng thân thiện và thân mật. Thân mật hơn cả Suzanna và Iulisca.

    Moritz thấy Hilda đã cảm anh. Cảm anh thình lình, vị lịnh của bác sĩ. Nàng yêu anh. Nàng giữ lời hứa với bác sĩ. Bàn tay chạm vào da ngực của Moritz, sửa lại áo lạnh, hay cài nút áo của anh là một bàn tay vủa người đàn bà yêu đương. Đúng như lời bác sĩ đã dặn.
    Hilda nói:
    ---Bác sĩ cho phép chúng ta lấy một cái giường lớn của nhà thương. Giường lớn sơn trắng trong phòng mổ, với hai cái mền len. Giường của em nhỏ quá không đủ cho hai người.
    Nghĩ tới giường, nàng lại nói:
    ---Bác sĩ bảo em đừng làm anh mệt. Đó là lẽ tự nhiên, anh còn đau nặng. Nhưng chừng một tuần lễ ă uống bổ dưỡng và nghĩ khỏe, thì tất cả sẽ thay đổi.
    Moritz hỏi:
    ---Cái gì sẽ thay đổi?
    Hilda ôm anh hôn, đáp:
    ---Rồi anh sẽ biết.
    Moritz lãnh lương. Anh không sung sướng. Anh chỉ tuân lịnh. Không phải lịnh đi làm ở phòng tuyến, ở xưởng nút áo hay đi gác trại giam. Anh được lịnh đi với Hilda, ăn ở với nàng, và phải mạnh về thể chất với tinh thần, trong vòng một tháng. Đó là một lịnh có lợi cho anh, song là một cái lịnh. Mà hễ là lịnh thì anh không làm sao sung sướng được.
    --------------------------86----------------------------

    Sau một tuần ở với Moritz, Hilda nói:
    ---Anh biết không, nếu ta làm đám cưới thì em có thêm mười bốn ngày nghỉ nữa.
    Moritz âu yếm ngó nàng, Nàng lại nhắc:
    ---Hôm qua anh có nói, ta sẽ cưới nhau.
    Moritz nhớ hôm qua có uống rượu với Hilda và mẹ nàng đến 5 chai. Anh đáp:
    ---Phải !
    ---Vậy sao ta không thi hành? Nếu làm giấy thì em lại được nghỉ thêm và anh cũng vậy. Hai ta sẽ được một căn nhà; bàn ghế trang trí và một giải thưởng hai ngàn đồng "mark"( tiền đức). Anh chỉ ngủ ở đồn khi đi gác thôi. Em có nói với mẹ, và điều hay nhứt, theo em nghĩ, là ta cưới nhau liền.

    Moritz làm thinh. Hilda tưởng anh không muốn lúc nghỉ phép mà phải đi lo giấy tờ, liền nói:
    ---Anh không cần đi đâu hết. Anh cứ ở nhà nghỉ như bây giờ. Em sẽ lo tất cả cho, lo đi đến Phòng Hộ tịch, Phòng Cư Xá, Phòng Cấp lương thực, Phòng Lao động, và Cảnh Sát cuộc, nói tắt, là chạy lo khắp nơi nào cần thiết cho anh. Cần nhứt là không để cho anh mệt!.
    Moritz bằng lòng. Hilda nói có lý. Nếu làm đám cưới thì chỉ toàn có lợi.

    Thế là họ cưới nhau. Họ được một căn nhà có ba phòng, chỗ tắm và nhà bếp. Họ được lãnh hai ngàn đồng" mark" tiền thưởng, phiếu cấp giường nệm, quần áo, bàn ghế, chén dĩa, củi than, rượu, thịt để đãi tiệc cưới, một máy radio và nhièu thứ khác nữa.

    Hlda vừa phụ mặc sắc phục cho Moritz sửa soạn đi đến đồn, vừa nói:
    ---Ta dại khờ lắm mới không làm đám cưới, vì được bao nhiêu là lợi. Có phải anh ngủ ở nhà hơn ở đồn không?
    ---Phải !
    Hilda hớn hở nói tiếp:
    ---Rồi trong hai tháng em khai có thai, em được nghỉ phép thêm, và anh có thể ăn tại nhà. Chúng ta có thêm phần ăn. Đàn bà có thai được ba phiếu lương thực. Anh sẽ được ăn uống đầy đủ. Em muốn thấy anh mập lắm!
    Moritz cười, nói:
    ---Em Hilda thật là một người đàn bà tốt bụng!
    --------------------------87----------------------------------

    Đồn hiến binh làn Fantana tiếp được một thông cáo, gởi đến làm hai bản, để công bố cho dân chúng xem. Viên quản đồn Dobresco đọc:
    " Tên Do thái Moritz Ion, tự Iohann, tự Jacob, tự Iankel bị truy nã khắp nơi trong xứ. Hăn vượt trại giam. Ai chứa chấp, hay biết hắn ở đâu mà không khai báo với nhà chức trách sẽ bị tù"
    Ở góc bên phải tờ rao có ảnh của Moritz, chụp bề nghiêng và bề mặt.
    Viên quản nhìn tấm ảnh và nói thầm:" Vậy ra tên nầy là Do thái thật à". Y cho gọi một tên lính, và bảo:
    ---Lấy cây súng đi bắt cha mẹ tên Do thái nầy tức khắc đem về đây, dán tờ thông cáo tại vách ngoài. Dán cho chắc đừng để gió thổi bay mất."

    Tuyết rơi tại làng Fantana. Viên quản ngó ra ngoài của sổ, thấy mục sư Koruga, hai vai đã khòm, ôm cặp da, đi trên đường, trước đồn.
    Một lát tên đội về, nói:
    ---Tôi bắt bà mẹ thôi. Ông cha đau.
    Viên quản giận dữ. Y muốn hỏi cung hai vợ chồng một lượt. Tên đội nói:
    ---Nếu ông muốn thì tôi đi lôi hắn đi. Hắn không đứng được. Tôi có dở mền thấy mình ông ta phù như cái hũ da bò.
    Viên quản suy nghĩ một hồi, bỏ ý định hỏi cung cha của Moritz. Y cho kêu dẫn bà mẹ Moritz đang đứng chờ trước cửa. Aristitza vô phòng, hằm hằm hỏi:
    ---Tại sao ông sai lính bồng súng tới bắt tôi như một tội sát nhơn? Bộ ông không còn gian phi nào bắt nữa sao mà đi bắt người lương thiện vậy? Hay là tôi đã phạm tội sát nhơn.  
    Bà nổi giận lôi đình. Lúc người lính vô nhà bắt bà dẫn đi, bà định sẽ tới móc mắt viên quản đồn.
    ---Bà không có tội, nhưng con bà bị tập nã.
    Aristitza ngó tờ rao của viên quản đưa ra, thấy hình con bà, bà khóc ào:
    ---Sao mà nó ốm như thế nầy?
    Khi mà Moritz ốm thì chắc bị đánh đập nhiều. Không có gì làm bà quan tâm hơn nữa.
    Viên quản nó:
    ---Bà đọc đi
    Bà lau nước mắt, nói:
    ---Thôi, ích gì nữa! Chỉ thấy ảnh nó là tôi biết nó đói khát, mình đầy chí rận, và bị đánh đập giam cầm rồi. Ông còn muốn tôi đọc gì nữa? Bấy nhiêu đủ rồi!
    Viên quản đọc tờ rao lớn lên. Vừa nghe câu đầu, bà chặn lại liền:
    ---Đọc lại coi! Chắc tại tôi không hiểu rõ! Ônh nói Tên Do thái Moritz Ion hả? Nếu ông đọc trúng, thì người đó không phải con tôi. Tôi bao giờ có con Do thái.
    Viên quản đưa hình cho bà xem. Bà lại mủi lòng một lần nữa khi thấy con ốm tong teo. Viên quản hỏi:
    ---Phải nó không?
    ---Chính nó, tội nghiệp con tôi! Cầu nguyện Chúa đừng tha thứ tội lỗi những kẽ đã giam cầm nó!
    ---Vậy bà nhìn ra nó à? Tại sao bà lại còn nói chắc rằng nó không phải Do thái? Đừng làm mất thì giờ, bà nên lắng nghe tôi đọc. Lời của bà khai không chút giá trị nào, vì bà là tư nhân. Tôi chỉ tin những gì chánh thức công nhận. Giấy tờ nầy là công văn của chánh quyền gởi đến. Vậy nó là bất khả xâm phạm và nó quả quyết con bà là Do thái.
    ---Nếu ông còn dám nói một lần nữa rằng con tôi là Do thái, tôi móc mắt ông cho ông coi! Ông muốn chọc giận tôi hả? Tội nghiệp thằng nhỏ. Hồi ra đi, nó trẻ, đẹp, dũng mạnh như cây tùng, mà bây giờ nó chỉ còn xương với da!
    ---Đừng thóa mạ nhà cầm quyền! Nếu không, tôi sẽ lập biên bản tức thì về tội xúc phạm nhân viên công quyền!
    ---Thằng Ion, tôi có nó với cha nó, chớ không phải với nhà cầm quyền,Tôi mang nặng nó trong bụng, cho nó bú sữa tôi, chớ không phải nhà cần quyền. Và tôi biết rõ nó không phải Do thái!
    ---Theo nguyên văn trong giấy tờ nầy, Bộ Nội vụ quả quyết nó là Do thái.
    ---Vậy Bộ Nội vụ có gan lại đây nói với tôi đi! Tôi thách đấy! Tôi sẽ khạc vào mặt nó nếu nó quả quyết biết hơn tôi, đứa con tôi mang trong bụng tôi.
    ---Nếu bà là dân Roumain, thì chồng bà là DO thái. Một trong hai người. Đây là công văn chánh thức. Hay là hai vợ chồng cũng chưa biết.
    ---Bộ ông say rượu sao chứ? Tôi mà không biết tôi thờ ai và quỳ gối trước Chúa nào à?
    ---Không phải thờ đạo nào? Có thể người Do thái có đạo Thiên chúa. Đây là nói về máu huyết.
    ---Máu của tôi và của chồng tôi đều là máu có đạo. Tụi nào bắt giam con tôi và hành hạ nó khổ sở trong ngục mới là bọn tà giáo thôi!
    Viên quản hỏi châm biếm:
    ---Bà chắc chồng bà có đạo à? Trong bao nhiêu năm ở chung, bà không thấy chi khả nghi sao? Với đàn ông thì dễ thấy chứng tích hơn đàn bà. Hay bà chưa biết tường tận?
    Bà Aristitza gào thét lên:
    --- Ông mà dám cho tôi không biết người tôi ngủ chung trong ba mươi lăm năm à? Một con điếm cũng còn biết gã đàn ông nào chung giường với nó nữa, mà ông dám nói tôi ngủ chung với chồng tôi trong ba mươi lăm năm mà không biết tường tận à? Nhà cầm quyền chắc có biết dược rõ hơn tôi, đứa con mà vợ chồng chúng tôi tạo nên chăng?. Ông và nhà cầm quyền mà lại đi hỏi tôi, về đứa con tôi mang trong bụng và cho bú sữa của tôi chớ?

    Cặp mắt bà chăm chăm ngó vào bình mực để trên bàn viết. Bà giận dữ, mắt đổ hào quang, thấy đỏ tất cả. Bình mực bà định chụp để vụt trên đầu viên quản cũng đỏ. Vách tường cũng đỏ. Và viên quản cũng đỏ.

    Viên quản thấy hướng mắt của bà nhìn nên lật đật kéo bình mực về phía mình.
    Vàn tay Aristitza bấu vào vạt váy một cách giận dữ, như bóp cổ nhà cầm quyền mà bà đang nắm chặt. Bình mực mất đi là khí giới chót của bà bị tước.

    Bà nghiến răng, hai tay chụp vạt váy lật ngược lên trùm phủ đầu. Váy rộng xèo tung ra như bị bọc gió. Áo sơ mi lót cũng lật lên, đưa trần da thịt nhăn nheo và xám xạm, cặp vú thòng xệ như hai túi rỗng, đen sì. Viên quản thấy trong nháy mắt trọn thân mình trần trụi của bà, cả bề mặt, bề nghiêng và bề lưng. Y nhắm mắt lại. Cửa đóng một cái rầm, vách tường chuyển động, trần nhà rớt vài miếng vôi trắng.

    Aristitza chạy ra, tiếng hét của bà còn vọng lại khàn khàn như còi xe, bên tai viên quản đồn:
    ---Đó, tôi trả lời rồi đó! Mấy ông cứ liếm đi, ông và nhà cầm quyền của ông, kẻ trước người sau!
    #17
      Whatever 08.01.2011 06:00:33 (permalink)
      -------------------------88-------------------------

      Về tới nhà, bà Aristitza cổi khăn choàng vai ra, ngồi bên lò sưởi. Bà để thêm củi vô lò và nhìn ngọn lửa chập chờn, le lói và đỏ au, mà nước mắt tuôn trào theo má. Bà ngix thầm :" Ta không nói gì với ông hết. Ông đang đau, đừng làm cho ông lo buồn"

      Bà xây qua, thấy ông nằm ngửa ngủ. Nước mắt giàn giụa, bà dòm ông, và nhớ đến Moritz bị nhà cầm quyền và cảnh binh hành hạ trong các khám đường từ năm năm nay vì họ cho nó là Do thái. Mà nào có phải đâu!
      Nếu thật nó là Do thái thì đâu có bị nhốt. Mà Moritz sao dại khờ quá, hay tin lời người ta, hễ họ đánh đau để cho nó nhận là Do thái, thì nó thú nhận liền. Rồi nhà cầm quyền tin thiệt như thế.

      Bà ngồi như vậy, hai tay ôm đầu khóc. Bà không giấu nổi nữa, tính phải nói với ông rằng có hình ảnh Moritz in trên báo cáo xanh dán ở cửa đồn hiến binh, giống như mấy tờ tuyên ngôn ứng cử. " Nhưng ta không nói nó ốm như chó đói mà ông phải đau lòng. Tuy nhiên, phải thuật lại cho ổng nghe lời viên quản nói nó là Do thái mới được" Bà kêu:
      ---Ông à! Dậy đi! Nếu ông ngủ suốt ngày thì ban đêm ông nghỉ không được ạ!

      Ông già không ứng tiếng. Thường thường ai kêu thức dậy, ông cũng không đáp. Nhưng hôm nay, ông không ngủ, hai mắt mở to và chắc có nghe hỏi, song ông làm biếng không buồn trả lời. Bà nói:
      ---Ông à! Viên quản nói với tôi rằng ông là Do thái. Ông nghĩ cói nó cả gan không? Nhưng tôi đã trả lời xứng đáng rồi.

      Bà thấy đường như ông mỉm cười. Hai ông bà thường hay cãi nhau nhiều, trong ba mươi lăm năm sống chung, nhưng bà thương ông chí thiết. Bà rầy ông vì quá hiền từ và tốt bụng, ai cũng gạt ông được, nhưng bà yêu ông lắm. Aristitza yêu chồng hết tình, yêu trọn cả tâm hồn.
      ---Ông à! Nếu mai ông không mạnh thì tôi ra tỉnh rước bác sĩ. Tôi sẽ bán con heo trả tiền thuốc cho ông. Chừng nào ông mạnh, mua lại con khác. Phần ông phải lo chữa cho mạnh mới được.

      Ông già vẫn không trả lời.
      ---Ông à! Mở mắt ra xem nè! Tôi cho ông điếu thuốc tôi giấu để dành cho ông đây!
      Bà đứng dậy, vói lấy điếu thuốc cất trên sà nhà.
      ---" ÔNg có hộp quẹt chớ? Vừa nói, bà cầm điếu thuốc đi lại gần ông. Bà muốn để điếu thuốc tận nơi miệng ông, như có vài lần, hôi mới cưới. Bà biết ông không mở mắt ra, nhưng sẽ nhách môi khi nghe đưa điếu thuốc kề tới miệng.

      Nhưng hôm nay, đôi môi sưng vù của ông không nhấp máy. Và dẫu bà đưa điếu thuốc đến tận môi, ông cũng vẫn im lìm. Bà hỏi:
      ---Sao vậy ông?
      Bà nắm vai ông, lắc mạnh. Qua làn áo sơ mi, bà nhận thấy da thịt ông lạnh ngắt. Bà rờ trán, trán cũng lạnh. Ông già đã chết

      Bà Aristitza kêu gào lên. Bà muốn chạy ra khỏi phòng. Nhưng bà dừng lại, ở gần với người chết. Dùng diêm quẹt đốt thuốc, bà đốt đèn cầy để chong đầu giường ông nằm. Rôi bà khóc to lên, vì bà biết không còn ai nghe bà nữa...
      ----------------------------89--------------------------

      Bà khóc ngất đi. Tiếng bà đã khan. Bà than thỉ, bà khóc thầm bên xác chết, bà không nói năng, không cử động, khóc trong lòng, nhưng nỗi thống khổ vẫn tràn ngập không kém.

      Tâm trí bà rồi cũng mệt. Bà nín khóc. Lúc đó, bà chỉ thấy trơ trọi, một thân một bóng. Lúc khóc than, bà tưởng có ai bên cạnh. Bà muốn khóc nữa, nhưng không còn sức. Bà đứng dậy, đốt lửa thêm.

      Như thường bữa, bà bắc nước lên bếp, nấu ăn. Bà kéo màn cửa sổ, xong đâu đấy, bà lại càng thấy quạnh hiu cô độc. Bà chóng mặt, mệt mỏi. Bà nhìn mặt ông, bà không sợ người chết. Đêm nay, bà phải ngủ trong phòng một mình bên cạnh xác chết. Còn ba đêm nữa, đến ngày chôn, bà cũng phải ở trong nhà đơn độc một mình với tử thi.

      Bà nhớ đến lời viên quản:" Hay chồng bà là Do thái!"
      Bà đứng giữa nhà, khoanh tay, không biết phải làm gì.

      Nước sôi, nhưng bà không đói. Giường sẵn , bà có thể nằm, nhưng bà không buồn ngủ. Bà phải làm cái gì mới được. Đầu óc, thân xác bà xúc động, thảm khổ, não nề. Bà không thể ngồi yên được. Bà phải cử động cho khuây khỏa. Lại thêm cảnh tỉnh mịch vắng vẻ! Bà kéo màn cửa sổ một lần nữa, và đi lại gần chỗ ông nằm, bà tưởng như viên quản đứng kế bên bà và nói vào tai:" Hay là chồng bà Do thái"

      Bà ngó ông, rồi dở mền ra. Mình ông phù lên. Nhìn áo sơ mi và quần cụt vải gai đã bao lần tự tay bà giặt ủi, bà mở dây nịt và tuột quần khỏi đầu gối. Da người chết đã tím bầm. Bà nói to:" Tại sao ta lại mắc cỡ? Chồng ta mà!"

      Bà nhớ lúc hai vợ chồng còn son trẻ, mà bây giờ thì mình mẩy ông đã tím bầm.
      Câu" Hay là chồng bà Do thái!" văng vẳng bên tai bà. Bà đưa tay rờ ngay chỗ của ông, thấy lạnh ngắt và tím bầm, như mí mắt , cái mũi, đôi môi. Bà giựt mình kéo quần lên và đắp mền lại Bà đứng dậy run run làm dấu thánh giá:" Lạy Chúa! Đội ơn Chúa cho con ngừng lại đúng lúc" Bà lại làm dấu chữ thập lần nữa và nói." Nếu tôi coi thấy thì tôi sẽ bị lửa địa ngục thiêu đốt. Đó làm một trọng tội. Nhung tôi không coi, không thấy gì hết. Tôi không muốn biết ông có phải Do thái hay không. Tôi không muốn!"

      Bà ngó xác ông, khóc và van vái:" Ông thứ lỗi cho tôi. Tôi thề không thấy gì hết và cũng không muốn thấy. Ông biết tôi chẳng khi nào phạm tội nặng nề như thế đâu. Ông hiểu tôi nhiều mà! Viên quản và nhà cầm quyền nhồi sọ tôi, cho chúng nó vô lửa Địa ngục cả hai đi!"
       
      --------------------------------90-----------------------------

      Binh nhì Moritz dẫn 5 tội nhân đi trên đường trong thành phố. Trời vừa bảy giờ sáng. Đi ngang nhà Hilda bồng thằng Franz, con anh , ra cửa sổ, đưa tay chỉ anh chào. Moritz nghe Hilda nói:
      ---Con biết không, ba con đó. Ba có cái nón sắt và cây súng đó!
      Thằng Franz mới có ba tháng, nó chẳng làm sao biết Moritz có súng và dẫn tù, nhưng Hilda mỗi ngày chỉ cho nó cảnh nầy để nó được hãnh diện về ba nó, cũng như nàng tự phụ cho nàng.
      Dọc đường Moritz cứ nghĩ đến con và Hilda.

      Ra khỏi thành phố, bọn tù băng qua một cánh đồng. Moritz lặng lẽ đi theo sau, súng vác vai. Tới dưới cầu, họ ngừng lại, vì đó là chỗ làm. Dòng sông cạn khô. Đến bờ sông, bọn tù quay lại ngó Moritz và cười vang. Ở đây không ai thấy họ.
      Joseph thân mật bắt tay Moritz và hỏi:
      ---Salve Sclave! anh ngủ ngon không?
      Moritz cũng đáp lại:
      ---" salve Sclave!" và bắt tay mọi người. Anh để cây súng dựa tảng đá, mở áo choàng lấy ra một ổ bánh mì và năm gói thuốc hút.
      Đưa thuốc cho Joseph, anh nói:
      ---Tôi còn thiếu anh mươi lăm " mark" Tôi chưa mua được xà bông. Mai tôi đem lại.

      Rồi lấy trong túi dết mang bên mình, một ổ bánh mì , anh trao cho Joseph. Bọn tù ngồi hút thuốc. Moritz cũng hút. Mỗi buổi sáng, từ ngày đi làm cầu nầy tới nay, họ đều nghỉ được nữa giờ, cười giỡn với Moritz, rồi mới làm việc tới trưa. Đó là giờ sung sướng nhứt của tù và của Moritz. Anh trao cho họ mấy thơ nhận được từ bên Pháp gởi đến cho họ, theo địa chỉ anh; anh mua giùm họ thuốc hút, bánh mì cùng các vật cần dùng khác. Họ bắt tay làm việc, Moritz cũng tiếp, song một cách kín đáo, để khỏi bị ngó thấy, làm mà vui thích. Bọn tù không muốn cho anh làm, nhưng anh thương hại họ. vì họ đều là trí thức, không biết cầm cuốc, xuổng như thế nào. Moritz phải chỉ cho họ, vì anh làm đã quen. Joseph nói:
      Anh Jean à! Bữa nay tôi có chuyện bàn với anh.
      Mấy người tù kia đều đứng dậy đi làm. Tiếng cuốc, xuổng đập đều đều trên đá. Còn một mình Moritz với Joseph. Anh tù Pháp nói:
      ---Chúng tôi sẽ trốn. Không phải bữa nay mà một ngày khác. Tất cả năm đứa tôi sẽ trốn.
      Moritz ngó Joseph, tưởng anh nói chơi. Nhưng Joseph nói thiệt, Moritz hỏi:
      ---Tôi không có làm lỗi gì với anh và mấy người kia sao mà các anh vượt ngục? Mấy anh muốn tôi ở tù rục xương mãn đời hả?
      Anh giận xanh mặt nói tiếp:
      ---Anh biết rằng tôi không lòng dạ nào bắn khi các anh trốn. Tôi không thể bắn các anh được. Và nếu tôi không bắn thì tôi bị tù. Song tôi tin chắc là anh nói chơi thôi.
      Joseph nói:
      ---Không, tôi không nói chơi đâu. Chúng tôi sẽ vượt ngục, anh cũng không bị bắt.
      Moritz không thèm nghe, nói:
      ---Tôi xin đổi chỗ khác. Ngày mai tôi không đi với anh, vì các anh muốn trốn. Tôi, thì không muốn bắn các anh, cũng không muốn bị tù rạc. Tôi chưa bao giờ bắn ai, thế mà tôi còn bị ở bao nhiêu năm tù rồi. Kể từ ngày mai, tôi không đi với các anh. Chừng không có tôi, các anh muốn trốn tùy ý.
      Joseph nói:
      ---Tại sao anh không chịu nghe tôi nói chyện chúng tôi sắp đặt. Anh cũng sẽ trốn với chúng tôi.
      ---Tôi không có lý do gì để trốn hết! Tôi có vợ, có con. Tôi không bị giam cầm. Nếu tôi bị ở tù, chừng đó có thể tôi sẽ trốn.
      ---Nhưng anh cũng bị giam, anh Jean à! Anh chỉ là một nô lệ có súng trên vai, còn chúng tôi là nô lệ không súng thôi. Ngoài ra, chúng ta đồng cảnh ngộ như nhau, nên anh phải trốn với chúng tôi.
      Moritz giận đỏ mặt, đốt diếu thuốc, và nói:
      ---Mai tôi không đến dẫn các anh nữa.
      ---Nhưng chúng tôi chỉ làm lợi cho anh mà! Anh biết chiến tranh sắp chấm dứt chớ. Đồng minh đang tiến. Nếu họ gặp anh mặc quân phục S.S thì anh biết số phận anh ra sao rồi. Anh sẽ bị mười hoặc hai mười năm tù.
      ---Anh đừng nói bậy! Nếu Đồng Minh tới thì họ không có lý do gì để giam tôi. Tôi có làm hại ai đâu? Đài phát thanh cũng có nói Đồng Minh là người công bình biết phải kia mà!
      ---Nhưng anh là kẽ nghịch. Anh là người thù của nước Pháp, của quê hương tôi, và của các nước Đông MInh!
      Moritz nổi giận hỏi:
      ---" Tôi là kẻ thù của nước Pháp à? Bởi vì tôi là kẻ thù của nước Pháp, nên tôi mua bánh mì, thuốc hút và các món mấy anh cần dùng hay sao?" Moritz quăng điếu thuốc, nói:
      ---Tôi không dè các anh coi tôi là kẻ nghịch, tôi lại tưởng tôi là bạn của anh chứ!
      ---Anh là bạn của người Đức, anh chiến đấu cho họ, anh là lính của Hitler. Anh không thể quên điều đó.
      ---Khi tôi có chai " bia", tôi uống với lính Đức hay với các anh? Tôi uống ở trong trại hay dưới cầu nầy?
      Moritz giận dữ hỏi tiếp:
      ---Anh Joseph à, tôi có thuốc thì tôi hút với ai? Với ai tôi thuật chuyện tâm tình, và những gì mang nặng trong lòng tôi? Với họ hay với anh? Không khi nào tôi nói chuyện với lính Đức ở trại, mà chỉ nói với anh thôi, vì tôi là bạn anh. Bây giờ anh cho tôi là kẻ thù với anh, và là bạn của dân Đức. Anh có thấy tôi nói chuyện với họ như bạn bè không? Chỉ với anh, anh là bạn của tôi mà thôi.

      Bàn tay Moritz run run đưa điếu thuốc lên miệng. Moritz nói tiếp:
      ---Anh nói nếu Đông Minh tới, thì họ giam tôi trong hai mươi năm. Và biết đâu chính lại là đội quân Pháp sẽ bỏ tù tôi phải không?
      Joseph đáp:
      ---Phải, nếu đội binh Pháp đến.
      ---Nếu vậy, thì tất cả công lý đều mất hết trên mặt đất nầy. Và lúc ấy, họ có bắn tôi, tôi cũng không ân hận. Sống làm chi nữa, nếu hết còn công lý, nếu các anh đều cho tôi là kẻ thù. Ngày mai tôi không đến đây, các anh muốn vượt ngục tùy ý. Tôi không dự. Tôi cũng không bắt các anh . Nếu có thể giúp các anh việc gì mà không hại đến tôi, tôi sẵn lòng. Giúp một tù nhơn vượt ngục là một chuyện nghĩa, nên tôi làm. Nhưng tôi không trốn với các anh, và tôi không muốn suốt đời ngồi tù vì các anh.
       

      Joseph nói:
      ---Vấn đề không phải như thế anh à! Tôi muốn cứu anh, vậy mới thật là tình bạn chớ. Chúng tôi muốn dẫn anh vè Pháp với chúng tôi.
      ---Tôi còn vợ và con ở đây. Tôi không thể đi với các anh được.
      ---Trong vài tháng, Đồng Minh tới. Chừng đó, chúng tôi sẽ lo đem vợ con anh qua Pháp sau. Tôi có một nông trại ở ngoại ô Ba Lê. Anh sẽ ở đó. Anh là nông phu, lo trồng trọt làm ăn và sẽ có tiền, rồi mua đất, cất nhà. Nước Pháp đẹp, người Pháp hiền và tốt. Anh ở nước Đức làm gì, khi chiến tranh chấm dứt? Trốn với chúng tôi đi, anh à!
      ---Không, tôi không trốn !
      ---Tôi để tiền lại cho vợ anh đủ sống cho tới ngày tôi trở qua dẫn về Pháp. Chúng tôi có để dành cho chị năm ngàn " mark" đây. Chừng vài tháng, chúng tôi trở lại dẫn chị đi. Nước Pháp hàm ân anh nếu anh cuuws năm tù binh Pháp. Anh nghĩ sao?

      Moritz không đáp. Anh mãi nghĩ đến nông trại anh sẽ có ở Pháp. Anh rán tưởng tượng thấy miếng đất anh sẽ mua, cái nhà anh sẽ cất và đời sống của anh với Hilda và thằng Franz. Anh nói thầm:" Mình sẽ có con nữa, mình muốn có một đứa con gái để đặt tên Aristitza như mẹ mình". Moritz sực thấy đang mỉm cười về tương lai của anh. Anh tui nghỉu nói:
      ---Không, tôi không muốn trốn.
      ----------------------------------91----------------------------

      Hilda chờ Moritz ngoài cửa. Nàng mặc đồ sẵn, muốn đi xem chớp bóng.
      Moritz không còn biết anh xem phim gì. Trí anh mắc lo ra. Anh chỉ nhớ đoạn thời sự diễn lại cuộc đánh ở mặt trận: xe tăng nát, nhà cháy, người chết. Có chiếu cả bản đồ, ghi mặt trận gần sát biên giới Đức. Vãn hát, ra về, anh không muốn nói chuyện. trước khi đi ngủ, anh dòm con nằm trong nôi. Lên giường nằm, anh không thể ngủ được, anh hỏi:
      ---Hilda à! Nếu nước Đức thua thì chúng ta sẽ ra sao?
      Hilda đáp:
      ---Nước Đức không bao giờ thua.
      Moritz nhớ tới các cuộc đánh nhau ở mặt trận anh vừa xem, nhớ tới tấm bản đồ, tới Joseph và con nằm trong nôi, rồi nói:
      ---Hilda ơi, anh biết nước Đức sẽ thua. Làm sao bây giờ? Phần anh, thì sẽ bị tù. Rồi em và con sống ra sao!.
      ---Ta thắng hay ta chết tới người cuối cùng. Không một dân Đức nào chịu sống trong một nước Đức bị chiếm
      ---Và nếu ta không chết?
      ---Ta phải chiến đấu đến chết. Ai còn sống, lúc hết còn hy vọng nữa, cũng phải tự tử.
      ---Chỉ có đàn ông mới như vậy. Còn đàn bà?
      ---Đàn bà cũng thế. Em sẽ là người đầu tiên tự tử với con, nếu ta bại trận. Em không sống thêm một ngày nào, sau khi thua giặc. Nhưng nước Đức không bao giờ thất trận, không bao giờ thua. Tại sao anh có ý nghĩ như vậy? Thôi ngủ ngon giấc đi!

      Hilda kéo mềm trùm đầu.
      Moritz nghĩ tới Hilda và thằng Kranz, thấy vợ con anh chết. Suốt đêm, anh mơ thấy Đồng Minh tiến vào nước Đức và tới trước nhà anh, xe tăng rần rộ. Anh nằm chiêm bao thấy Hilda cầm súng bắn Kranz trong nôi, rồi tự bắn nàng. Moritz la lên, giựt mình thức dậy, mồ hôi ướt dầm. Cửa sổ có ánh sáng. Trời đã rựng đông. Hilda còn ngủ. Moritz nhè nhẹ bước xuống giường, kẻo nàng thức giấc. Anh mặc đồ đi vô trại. Anh không xin đổi chỗ như đã định hôm qua. Mấy tù binh Pháp làm thinh khi thấy anh đến, nhưng họ đều hân hoan. Họ rất lo sợ Moritz không đến dẫn họ đi làm.
      Tới dưới cầu, Joseph hỏi Moritz như mọi bữa:
      ---Salve Sclave! Anh ngủ ngon giấc không?
      Moritz nhớ tới điềm chiêm bao hồi hôm mà trong đó anh thấy con bị bắn, vợ tự tử, anh hỏi Joseph:
      ---Anh thề sẽ đem vợ con tôi qua Pháp khi nước Đức bại trận không?
      ---Tôi xin thề, khi Đồng Minh vừa tới đây, tôi dẫn vợ con anh đi Ba Lê liền.
      Moritz để súng một bên, bèn thuật lại chuyện bàn cãi với Hilda lúc xem chớp bóng về. Anh nói:
      ---Nếu anh đến trẽ, nàng giết con và tự tử rồi thì sao !
      Bọn tù Pháp hứa sẽ qua tới, khi đoàn quân Đồng Minh đầu tiên tiến vô. MOritz cảm động, nước mắt giàn giụa. Anh nói:
      ---Nếu các anh hứa chắc, thì tôi trốn với các anh. Chừng nào đi?
      ---Ngày mai chúng ta đi làm như thường lệ, nhưng không trở về trại. Anh lập một chiến công vẻ vang với nước Pháp. Nước Pháp sẽ trả ơn anh.
      ---Tôi không có làm gì cho nước Pháp! Tôi biết rõ Hilda. Nàng luôn luôn giữ lời. Nếu các anh không đến kịp thì nàng sẽ tự sát với đứa con trên tay. Cả hai đều chết. Nàng sắt đá lắm. Anh đừng tưởng tôi trốn vì nước Pháp đâu6 Anh học nhiều, đọc nhiều, anh hiểu biết. Còn tôi, tôi không biết nước Pháp là gì. Tôi không có chút gì liên hệ với nước Pháp. Tôi chỉ biết vợ và con tôi đang lâm nguy. Tôi vì chúng nó mà vượt ngục với các anh thôi !.
      ------------------------------92--------------------------------------

      Thơ của Traian gởi cho cha:
      "Raguse, Dalmatie, ngày 20.8.1944
      " Thưa Ba, con viết thơ nầy gởi bằng lối thông điệp ngoại giao. Xin Ba trả lời liền, đừng để trễ. Con sợ có chuyện xảy ra cho Ba. Ba có thể cười về sự lo sợ vô lý của con, hoặc cho con loạn thần kinh cũng được, nhưng con yêu cầu Ba hồi âm liền. Con muốn gấp biết Ba còn sống.
      " Quyển tiểu thuyết của con tiến nhanh, tới chương thứ tư, đã đến giờ thứ ba, sau khi các con thỏ bạch chết. Các tên " nô lệ kỹ thuật" tàn phá tất cả trên đường đi của chúng. Các ánh sáng lần lượt tắt hết. Con người đang phiêu lạc trong cõi u minh mông muội, cận tử thần.
      " Hôn Ba Má.
      Hai con : Traian và Nora
       
      ------------------------------92--------------------------------------

      Thơ của Traian gởi cho cha:
      "Raguse, Dalmatie, ngày 20.8.1944
      " Thưa Ba, con viết thơ nầy gởi bằng lối thông điệp ngoại giao. Xin Ba trả lời liền, đừng để trễ. Con sợ có chuyện xảy ra cho Ba. Ba có thể cười về sự lo sợ vô lý của con, hoặc cho con loạn thần kinh cũng được, nhưng con yêu cầu Ba hồi âm liền. Con muốn gấp biết Ba còn sống.
      " Quyển tiểu thuyết của con tiến nhanh, tới chương thứ tư, đã đến giờ thứ ba, sau khi các con thỏ bạch chết. Các tên " nô lệ kỹ thuật" tàn phá tất cả trên đường đi của chúng. Các ánh sáng lần lượt tắt hết. Con người đang phiêu lạc trong cõi u minh mông muội, cận tử thần.
      " Hôn Ba Má.
      Hai con : Traian và Nora
      ------------------------------------93-------------------------------

      Mục sư Koruga trả lời thơ Traian liền, cho hay ông và bà mạnh giỏi, tại làng Fantana tất cả đều như trước. Chỉ riêng Moritz vẫn chưa về, và không ai biết nó trở nên thế nào.
      Ông biện lý Damian vô sân lúc mục sư đọc lại bức thư vừa viết xong. Ông về đồng nghỉ hai ngày với mục sư. Thường thường, mỗi tuần ông đều về chơi với mục sư. Hai người đi ra nhà bưu điện bỏ thơ.
      Dọc đường, mục sư đưa thơ của Traian cho ông biện lý xem và nói:
      ---Traian rất lo sợ cho chúng tôi.
      Ông biện lý đọc bức thơ và mỉm cười đáp:
      ---Anh Traian là thi sĩ. Anh cứ thêm thắt cho to chuyện. Chắc anh sẽ bịnh vì làm việc quá sức nhiều!
      Trong tòa thị sảnh có nhiều người tụ họp. Xe của trạm phu chưa đi. Mục sư muốn đưa thơ gởi, nhưng người phụ trạm từ chối nói:
      ---Chúng tôi không nhận thơ gởi ra nước ngoài. Sáu giờ chiều nay, nước Roumanie đầu hàng. Xứ sở ta bị binh lính Nga chiếm. Vua có loan tin trên đài phát thanh rồi!
      Mục sư cất thơ vô túi.
      --------------------------94---------------------------

      Chiều hôm ấy, thôn dân tựu trong sân nhà mục sư để hỏi ý kiến. Binh Nga đã vô thành kế cận, thiên hạ chạy về đồng trốn. Họ thuật lại nhiều chuyện ghê gớm. Đàn bà bị hãm hiếp, bị thắt cổ. Đàn ông bị bắn ngoài đường phố.
      Mục sư bước ra bao lơn. Thôn dân buồn rầu lo sợ. Mục sư nói:
      ---Rồi người khác sẽ đến cai trị nước ta. Họ còn tàn ác hơn mấy người trước, vì họ là kẻ ngoại bang. Nhưng người sùng đạo phải biết rằng tất cả nền thống trị dưới trần đều tàn khốc, ta phải đau đớn chịu đựng. Chân lạc quốc chỉ là Thiên Đàng ở trên Trời.
      Một dân làng hỏi:
      ---Ta có nên trốn trong rừng để chiến đấu chống kẻ xâm lăng không? Cha dạy thế nào?
      ---Thiên chúa giáo không xúi tín đồ đánh giặc để giành lại quyền hành ở thế gian.
      ---Vậy Thiên Chúa giáo khuyên ta đưa tay cho họ xiềng xích sao? Thiên Chúa Giáo có muốn ta phải khoanh tay điềm nhiên nhìn kẻ khác hãm hiếp vợ con, đốt thiêu nhà cửa ta không? Đạo Thiên Chúa không đòi hỏi như thế được. Nếu mà bắt buộc, thì chúng tôi không về với Thiên Chúa giáo nữa!.

      Các thanh niên trong làng đều tán thành. Mục sư điềm tĩnh nói:
      ---Chúa Jesus dạy tín đồ phải phục tùng quyền thống trị trên thế gian. Các con nói sự thống trị hiện nay ở xứ Roumanie là kẻ ngoại bang, tàn bạo và tà gióa. Tôi cũng biết, nhưng khi xưa những người cai trị tại xứ Chúa Jesus giáng sinh cũng là kẻ ngoại bang, tàn bạo và tà giáo vậy. Các con hãy nghĩ đến muôn ngàn trẻ nít bị cắt cổ ở Judée, theo lịnh của vua Herode sau ngày giáng sinh của Chúa Jesus. Cách thống trị thật tàn ác. Có lẽ cũng tàn ác như cách thống trị của Cộng Sản. Nhưng Chúa Jesus không phản kháng và không xúi giục ai phản kháng. Ngài nói:" Trả cho Cesar cái gì của Cesar, trả cho Trời cái gì của Trời"
      Một thanh niên hỏi:
      ---Vậy Cha đọc kinh cầu nguyện cho Staline sao? Nếu Cha đọc kinh cầu nguyện cho Staline tức là Cha đọc kinh cầu nguyện cho Quỷ Vương, kẻ phản đối đạo Thiên Chúa sao? Và như thế, chúng tôi không để chân tới Nhà Thờ nữa!
      ---Nếu nhà cầm quyền ra lịnh tôi đọc kinh cầu nguyện cho Staline, như ngày nay tôi đọc cho vua, thì tôi tuân lịnh . Tôi biết Staline vô thần và ngoại đạo. Nhưng kẻ ngoại đạo cũng là người. Nếu linh hồn họ đầy tội lỗi là vì họ đi lạc hướng, xa đường lối của Chúa. Một mục sư phải đọc kinh cầu nguyện cho tất cả mọi người, và nhứt là cầu nguyện cho những linh hồn dầy tội lỗi.
      Một thanh niên nói:
      ---Cha tha hồ đọc kinh cho Staline, những phần chúng tôi, chúng tôi không đi nhà thờ nữa.
      Với giọng phản đối, anh hỏi gằn thêm:
      ---Còn nếu chúng tôi rút vô rừng chống lại Cộng Sản để giành tự do, ngày chúa nhựt tại nhà thờ, cha cũng đọc kinh cầu nguyện cho chúng tôi nữa sao?
      ---Mục sư cũng đọc kinh cầu nguyện cho những ai chiến đấu trong rừng, trên núi, chẳng những ngày chúa nhựt mà mỗi ngày hai lần, vì cuộc đời tranh đấu của họ luôn luôn bị nguy ngập, nên họ cần phải có lời cầu nguyện của mục sư và lòng nhân ái của Đức mẹ.

      Tất cả thôn dân đều im lặng. Apostol Vasile nói:
      ---Nếu Cha đọc một câu kinh cầu nguyện cho chúng tôi, Cha sẽ bị bắn!
      ---Đó không phải là lý do để tôi ngưng cầu nguyện cho các anh. Sự chết không làm nao lòng người có đạo.
      ---Chúng tôi rút vô rừng khánh chiến. Trước khi đi, xin Cha ban phước lành và làm lễ cho chúng . rồi không biết rồi đây sẽ ra sao và chúng con có trở về được chăng? Chúng con đi tranh đấu cho Thập Tự giá và cho Giáo hội.
      ---Nếu các con tranh đấu cho Thập tự giá và cho giáo hội với gương giáo thì các con đi đường tội lỗi: vậy thì tốt hơn các con nên ở nhà. Giáo hội và lòng tín ngưỡng Chúa không phải bảo vệ bằng khí giới cầm tay.
      ---Chúng con sẽ tranh đấu cho xứ Roumanie là một nước có đạo Thiên Chúa.

      Apostol Vasile chia dân làng thành từng nhóm. Phần đông quyết định rút vô rừng. Đó là những phần tủ ưu tú trong làng, có cả phụ nữ và thiếu niên còn đi học
      Họ quỳ gối xuống sân cỏ.
      Mục sư Koruga đọc kinh cầu nguyện và ban phép lành cho từng người.
      Ông biện lý Damian cũng quỳ xuống trước mặt mục sư nói:
      ---Xin Cha ban phép lành cho con nữa. Con cũng rút vô rừng với họ, để tranh đấu cho tự do loài người và cho nhân loại!
      Mục sư đáp:
      ---Giáo đường ban phép lành cho tất cả ai đến xin .
      Ông biện lý hỏi:
      ---Giáo đường cũng ban phép lành cho kẻ muốn làm chuyện quấy sao? Hoặc giả cha nhìn nhận chính nghĩa của chúng con là hợp lý chớ!
      ---Hãy thương xót và hành động theo ý anh muốn. Nếu chuyện làm của anh chân thành phát tự cõi lòng, thì đừng sợ tội lỗi. Anh đã đi trúng đường!
      Ông biện lý hôn tay mục sư như các dân làng, theo nhóm người ra khỏi sân, và rút vô rừng!
      Trong nhà, bà mục sư khóc.
      #18
        Whatever 08.01.2011 06:06:17 (permalink)
        ---------------------------------95----------------------------------

        Các dân làng đi được hai giờ. mục sư đọc sách để trấn tĩnh lo ngại. Nhưng hai thôn dân, không phải người trong làng, bước vô phòng sách, không cần gõ cửa. Họ mang dây băng ba màu và súng lục. Mục sư làm như không thấy khí giới, vui cười tiếp họ và nói to lên, cố ý để cho cho bà ở phòng bên cạnh nghe, và không muốn làm cho bà sợ hãi.
        ---Phải ở tào thi sảnh kêu tôi không?
        Một người nói:
        ---Chúng tôi có lịnh bắt ông đẫn đến Tòa án Nhân dân.
        Mục sư ngó qua phòng vợ, và nghĩ thầm:" Chắc bà không nghe gì cả". Ông để cuốn sách trên ghế và ra đi.
        Trước khi ra khỏi sân, ông còn ngó ngoái lại, như để vĩnh biệt.
        Hai thôn dân đi kèm hai bên mục sư.
        Ông bước qua ngưỡng cửa, đầu ngẩng lên. Ông đi không giống như một người có tội. Ông có vẻ như trán ông đụng trời.
        Và ông đi như thế trên đường làng, từ nhà ra tòa thị sảnh....
        ---------------------------96------------------------------

        Tòa án Nhân Dân do Marcou Goldenberg chủ tọa. Anh ngồi ghế ông Đô trưởng, trong gian phòng rộng lớn của thị sảnh.
        Đầu anh cạo trọt như một tên tù. Quân Nga vừa thả anh vài ngày trước, từ trong trại giam, vì anh can tội giết ông già Lengyel. Ngồi bên mặt anh là bà Aristitza, mẹ Moritz. Marcou lựa bà làm thẩm phán vì bà là người ngeof hơn hết trong làng Fantana. Bên trái là Ion Calugaru, đã can án giết một viên hiến binh bằng búa, cách mấy năm nay. Vì thế nên Marcou mới chọn y.

        Mục sư chào họ. Marcou ngó ông chăm chăm, không chào đáp lại.
        Aristitza và Calagaru ngó xuống, như không thấy mục sư. Họ đã xử nhiều người khác, trước khi mục sư đến. Lúc ấy trong phòng chỉ còn có mấy vị thẩm phán và hai thôn dân mang dây băng ba màu.
        Marcou hỏi tên, tuổi và nghề nghiệp của mục sư, rồi nói:
        ---Làm mục sư không phải là có một nghề! Thợ giày đóng giày, thợ may , may áo. Mỗi thợ sản xuất một món đồ. Ông có thể nói với tôi, mục sư sản xuất cái gì không?
        Aristitza và Calugaru vẫn cúi mặt xuống. Hai thôn dân cười sau lưng mục sư.
        Marcou nói:
        ---Ông không có một nghề gì hết! Thật là một trọng tội mà chẳng học lấy một nghề gì cả. Ông sống ăn nhờ các thợ!
        Mặt Marcou vàng như vỏ chanh. Môi mỏng dánh và tím ngắt. Mục sư nhớ đến lão già Goldenberg, cha Marcou, cũng có đôi môi như vậy, cũng mỏng dánh, nhưng môi lão thì cười, môi của Marcou lại mím chặt.
        Marcou hỏi:
        ---Ông biết tại sao ông bị đòi ra Tòa án Nhân Dân không?
        ---Không
        ---Thật câu trả lời khuôn mẫu của kẻ phản động! Không bao giờ họ biết lý do nào đem xử họ. Ông có nhìn nhận đã tổ chức đoàn phát xít đi vô rừng không?
        ---Tôi không có tổ chức. Tôi nhìn nhận có đọc kinh tại sân nhà tôi cho những thanh niên trong lành đến xin cầu nguyện cho họ.
        ---Không phải bọn phát xít? Tại sao ông đọc kinh cầu nguyện cho họ, nếu ông chẳng phải người rửa tội cho bọn phiếm loạn ấy?
        ---Tôi biết mấy thanh niên đến xin tôi cầu nguyện đang ở trong tình thế khó khăn. Tôi cầu nguyện Đức Mẹ Đồng Trinh giúp họ, chỉ dẫn họ con đường chân lý và công bằng!
        ---Tòa án Nhân Dân xử treo cổ ông. Ông có tội tổ chức cuộc vỏ trang phản nghịch phá rối trật tự công cộng.
        Aristitza và Calugaru ngước mặt lên, sợ hải, ngó Marcou, nhưng hắn mắc viết, không ngó họ.
        Marcou nói:
        ---Cuộc hành quyết sẽ thi hành ngày mai, sáng sớm, trước dân chúng.
        Phiên xử của Tòa án Nhân Dân bế mạc.
        -----------------------97------------------------------

        Mục sư bị hai thôn dân mang dây băng ba màu nắm dẫn đem nhốt trong chuồng ngựa tòa thị sảnh. Trong ấy đã có Damian, bị bắt trước khi vô rừng, biên quản đồn hiến binh, Apostol Vasile với tám thôn dân giàu có nhứt trong lành Fantana. Tất cả đều bị Tòa án Nhân Dân xử treo cổ và sẽ bị hành quyết sáng mai. Nhưng trong đêm, các tù nhân lại bị đem từng người ra bắn gần hầm phân. Marcou được lịnh chẳng nên cho hành hình công khai, để tránh cuộc nổi loạn của quần chúng chống Hồng Quân. Chính tay Marcou bắn mỗi tội nhơn một viên đạn sau ót.
         

        --------------------------------98-------------------------------
        Quá nữa đêm, Aristitza nghe gõ cửa. Vợ của Moritz là Suzanna đến kêu.
        Nghe tiếng nàng khóc, bà tưởng quân Nga đã vô làng và hãm hiếp nàng. Bà ngồi dậy, giận dữ. Bà biết sẽ có một tốp lính tuần hành Nga đến và họ hãm hiếp đàn bà, nhưng bà không tha thứ được khi chính dâu bà bị trước tiên, dâu của một" công dân" thẩm phán quan tại Tòa án Nhân Dân.
        Mở của ra, bà hỏi:
        ---Có chuyện gì đó?
        ---Mục sư Koruga bị bắn rồi!
        ---Không đứng. Marcou muốn treo cổ ông sáng mai, trong sân nhà thờ. Nhưng nó không thể làm được. Tao cững là thẩm phán trong làng, không phải có một mình nó thôi. Sáng mai, chúng tao sẽ họp phiên xử án lại và sẽ thả mục sư. Tao có nói chuyện với Calugaru rồi. Mầy đi qua nhà bà mục sư biểu bà cứ ngủ yên đi!
        ---Mục sư đã chết rồi! Có nhiều người thấy ông bị bắn và cho con hay.

        Aristittza không tin. Bà không trở vô phòng. Bà đi liền với Suzanna tới thị sảnh. Bà chỉ mặc áo ngủ. Trời sáng mờ. Hai người lặng lẽ đi giữa đường vắng. Suzanna khóc thút thít, thỉng thoảng lấy vạt áo chặm mắt. Bà Aristitza giận dữ, thở mệt nhọc. Nhiều lần, bà day qua mắng dâu:
        ---Bộ mầy ngủ sao? Máu chảy trong quyết quản mầy chớ có phải sữa loãng đâu?
        Suzanna đi mau, nhưng biết đã muộn rồi. Mục sư đã chết, không ai làm sao được nữa.
        Tới thị sảnh, đèn còn sáng, nhưng không một bóng người. Aristitza nói:
        ---Đi lại chuồng ngựa coi! Tao làm thẩm phán, tao có quyền hỏi và biết sự gì xảy ra!
        Chuồng ngựa tối đen. Cửa đóng nhưng không khóa
        Aristitza vừa bước vô, liền sợ hải, hỏi Suzanna:
        ---Mầy có hộp quẹt đó không?
        ---Không má à!
        Bà nổi giận, cằn nhằn:
        ---Mầy không bao giờ có món gì hết. Lúc cưới, mầy cũng tay không. Mầy được thằng con tao khù khờ lắm mới lấy mầy như vậy!
        Suzanna không buồn, vì biết bà không phải giận nàng. Bà sợ mục sư chết thiệt nên rầy la nàng vậy thôi.
        Vô giữa chuồng ngựa, bà la lớn lên:
        ---Có ai trong nầy không?
        Suzanna nói:
        ---Không có ai cả, má à! Marcou bắt tất cả tù nhân trong chuồng ngựa đem ra gần hầm phân bắn hết rồi.
        ---Bộ mầy mơ sao chớ? Làm sao nó bắn họ mà chẳng cho tao hay, tao làthaamr phán đây?
        Suzanna làm thinh. Hai người trở ra sân, tìm kiếm thây mấy người bị bắn trong đêm tối.
        ---Không có ai trong sân hết. Tao đã nói mầy mơ rồi! Hay là họ bị đem giam chỗ khác, và mấy tên phản động trong làng chỉ chờ cơ hội nầy để phao đồn rằng Marcou đã bắn họ.

        Suzanna đi tách xa bà Aristitza, và tìm kiếm kỹ lưỡng trong sân, chung quang hầm phâm. Nàng chắc chắn mục sư đã bị bắn. Dân làng đã chứng kiến thảm kịch, thuật lại rằng Marcou cho dẫn từng người, tay bị trói, ra khỏi chuồng ngựa, và chính y bắn tất cả, vào phía sau lưng.
        Aristitza nói:
        ---Thôi, đi kiếm Marcou coi.
        Bỗng Suzanna kêu rú lên một tiếng to lớn và té quỵ xuống cỏ. Aristitza chạy lại nổi giận, hét to:
        ---Cái gì nữa đó, đồ hư. Mới thấy bóng mầy là mầy té xỉu rồi!
        Nhưng cổ họng bà nghẹn ngào. Gần Suzanna, dựa hầm phân, nhiều thây nằm trên cỏ. Một xác mặc áo sơ mi trắng nằm gần chân Suzanna. Một xác khác, mặc toàn đen, nằm cách vài bước, rồi vài thây khác, và thây khác nữa.
        Aristitza liền làm dấu thánh giá để lấy can đảm. Bà bảo Suzanna:
        ---" Ngồi dậy đi, tao cần dùng mầy" Bà không sợ xác chết, nhưng lúc nầy, bà không muốn đứng một mình.
        Suzanna đứng lên, run lập cập. Bà nắm tay nàng dắt đi, cúi xuống từng xác chết để nhìn mặt. Có chín thây trên bờ và ba trong hầm phân.
        Aristitza nhìn kỹ một thây và nói:
        ---Đây là ông cựu xã trưởng Ciubotaru
        Bà khom xuống, đặt lỗ tai kề ngực coi trái tim còn đập không. Bà đứng dậy, nói:
        ---Chết rồi!
        Bà bước xa một chút, cúi xuống một thây khác, kê lỗ tai vào ngực, và nói:
        ---Thân còn nóng, nhưng tim hết đập. Đây là anh Salomon. Cầu nguyện Chúa cứu linh hồn anh. Hồi tôi còn nhỏ anh có xin cưới tôi.
        Và sợ nỗi đau thương xâm chiếm, bà quát Suzanna:
        ---Còn mầy cũng đi kiếm coi có ai còn sống không? Ngồi đó khóc hoài hay sao? Đồ ngu!
        ---Con không dám, má à! Con sợ quá!
        ---Sợ cái gì? Cứ kề lỗ tai trên ngực mỗi người, nín thở một lát, nghe coi tim còn nhảy không. Nếu hết nhảy, thì cầu nguyện Chúa rước linh hồn người đo, và làm dấu thánh giá. Nếu tim còn đập, thì ta lo chuyện khác, hơn là làm dấu thánh giá. Mầy hiểu chưa?
        ---Con hiểu, nhưng con sợ quá!
        ---Đồ hư! Không hiểu sao mà con tao lại cưới mầy được chớ!
        Bà Aristitza lại cúi xuống một thây khác. Bà nói:
        ---Đây là ông biện lý thường đến nhà mục sư mỗi tuần, và là bạn của Traian. Một thanh niên đứng đắn.
        Bà mở nút áo, nghe một hồi, rồi đứng dậy, nói:
        ---Chúa rước linh hồn ông! Ông cũng vậy, đã chết rồi. Không biết chừng ông có vợ con đang chờ ở nhà.
        Aristitza quên lững Suzanna. Bà đã tìm được thây mục sư Koruga. Bà kính cẩn cúi xuống lật áo choàng và nghe, rồi nói nho nhỏ:
        ---Mục sư chưa chết con à!
        Suzanna lại khóc to khi nghe ông chưa chết. Bà Aristitza nói:
        ---Mầy điên sao? Chuyện phải mừng mà mầy lại khóc. Lại nghe coi tim ông đập nhịp nhàng đây nè!
         
        Suzanna quỳ gối trước muc sư nhưng không cúi xuống nghe tim ông.
        Aristitza ấp tay mục sư trong hai tay bà và nói:
        ---Ông còn nóng, con à. Xem coi, ong ấm hỉm nè.
        Bà muốn tìm chắc chắn coi sinh lục của mục sư còn ở đâu nữa. Nhưng ngoài sự ấm áp của bàn tay, gò má, và tiếng đập của trái tim, giác quan bà không ghi thêm được điều gì khác nữa. Bà nói:
        ---Sự sống chỉ có thế! Vài nhịp tim, một hơi nóng của da thịt toát ra.
        Bà cho là ít quá. Bà nói tiếp:
        ---Nếu sinh mạng con người chỉ có thế, thật là ít ỏi quá!
        Chung quang bà hoàn toàn vắng lạnh. Bà lẩm bẩm:" Mục sư thật thơm mùi quế và trầm hương. Thể xác ông thơm tho làm sao, như mùi Nhà thờ!"

        Trừ mục sư ra, tất cả đều chết. Có vài thây còn nóng, chắc hẳn chưa chết liền, còn phải chịu đau đớn kéo dài nhiều. Chỉ nhìn thấy họ oằn oại trên cỏ, trước khi trút linh hồn thì đoán biết. Mấy thây khác lạnh ngắt, chắc viên đạn trúng là chết ngay.
        Bà Aristitza lau tay vô váy. Bà làm cử chỉ nầy đến lần thứ năm thứ sáu gì rồi, và cũng không hiểu tại sao bà lau như vậy. Đầu gối bà ướt mem. Bà nói:
        ---Chắc là máu. Trời tối quá, phải đạp trên máu và đặt tay lên máu. Giẵm chân lên máu người ta như thế nầy rất tội lỗi. Nhưng xin Chúa tha thứ cho, vì trời tối quá.
        Trong lúc bà Aristitza xuống hầm để xem xét các thây khác, thì Suzanna lo lau trán mục sư.
        Bà Aristitza lên khỏi hầm, vừa lau tay vô váy lần nữa, vừa nói:
        ---Vết thương ở chỗ nào?
        ---Con không biết, má à!
        ---Mầy thì luôn luôn không biết gì hết. Phải buộc vết thương liền, nếu không, để máu ra nhiều thì nguy mất!
        Bà rờ gặp chỗ máu ướt nhiều nhứt, và thấy mục sư bị thương ở lưng, phía trên vai phải. Bà kêu Suzanna bảo:
        ---Đưa tao miếng vải để buộc vết thương lại coi.
        Suzanna không biết phải tìm vải ở đâu bây giờ. Bà nổi giận, kéo vạt váy lên định xé áo sơ mi lót mình, nhưng tay mằn hoài giữa áo mặc ngoài với da bà, thì ra không có áo lót. Bà lật tuốt váy lên tới ngực và hỏi:
        ---Áo lót của tao đâu mất rồi?
        Đoạn nhớ lại, hồi sáng nầy, mắc lật đật đi họp phiên Tòa án Nhân Dân, bà quên mặc áo sơ mi lót . Bà nói:
        ---Tao chỉ có áo ngoài, không có áo sơ mi.
        Bà bồng mục sư lên tay, mở nút áo choàng, bày trần vết thương trên vai. Bà biểu Suzanna:
        ---Mầy đưa áo sơ mi của mầy coi!
        Bà lấy tay chùi máu trên vai mục sư và nói:
        ---Thịt ông thơm mùi quế và trầm hương làm sao.Thân ông thơm tho như mùi Nhà Thờ.
        Bà xây qua Suzanna, thấy nàng đã cổi áo ngoài, đang tuột áo trong ra. Nàng trần truồng như nhộng. Bà rầy to:
        ---Mầy điên hả? Sao không thẹn, đứng trần truồng trước mục sư và người chết vậy?
        Suzanna đáp:
        ---Chớ làm sao con trao áo sơ mi của con cho má được, nếu không cổi tuột áo ngoài ?
        Bà không thèm nghe, khạc dưới đất, cằn nhằn:
        ---Đồ nhơ bẩn. Dám đứng trần truồng trước mục sư và người chết như vậy!  
        ------------------------------99-------------------------------------

        Aristitza và Suzanna ngừng lại dựa vườn bắp, để mục sư nằm xuống cỏ. Họ kiêng ông từ chuồng ngựa tới đây, bó trong áo choàng của ông như tấm vải trải giường. Ban đầu, mỗi người nắm một đầu áo choàng và khiêng ông như ông nằm trên cáng. Nhưng mục sư nặng quá. Mặt họ dượm mồ hôi. Mỗi lần ngừng nghỉ thì bà Aristitza đều cúi xuống nghe chừng tim ông còn đập không, rồi mới tiếp tục đi. Bây giờ họ hết khiêng mục sư như khiêng cánh, mà bỏ ông trong áo choàng , kéo lết trên đất. Bà Aristitza nói:
        ---Cầu chúc cho ông đừng chết dọc đường! Mau mau đi con. Ngày mai, ngày mốt, mấy ngày khác, ta tha hồ nghỉ mệt.
        Aristitza sợ đem mục sư về nhà, bọn cộng sản sẽ tìm thấy. Bà nói thầm:" Và nếu mục sư được cứu lần nầy, lần sau cũng không thoát khỏi. Tốt hơn đem ông gởi cho mấy thanh niên trong rừng. Họ sẽ săn sóc và trị ông lành mạnh. Bọn cộng sản không thể nào tìm ông trong rừng được"
        Suzanna nói:
        ---Nhân viên y tế cũng đi với họ, nếu mình tìm được hắn. Hắn có lấy theo cả thùng thuốc men và cuồng băng.
        Aristitza nói:
        ---Ta sẽ tìm hắn cho ra!
        Nhưng càng đi gần tới rừng, lòng hăng hái của họ tan dần. Rừng quá rộng. Tìm nhân viên y tế trong ấy như mò kim dáy biển.
        Aristitza nói:
        ---Nếu không tìm gặp mấy thanh niên, ta phải giấu mục sư xa bọn cộng sản. Cần nhứt phải làm như thế, rồi sẽ hay. Bây giờ mầy ở lại coi chừng mục sư, tao về làng. Tao sẽ trở lại trước trời hừng đông, đem đồ ăn, nước uống, và không chừng dẫn thêm một bà già biết săn sóc vết thương.
        Suzanna khóc lên. Nàng sợ ở ban đêm một mình trong rừng. Nàng lầm thầm cầu nguyện Chúa xui khiến cho gặp mấy thanh niên.
        ---------------------------100------------------------

        Dọc theo rừng có một con đường đi. Trước khi băng ngang, bà Aristitza nghe ngóng coi có ai đi lại không. Một đoàn xe hơi, đèn tắt hết, tiến chậm chậm. Tiếng máy rồ rồ như tiếng một đoàn ong bay. Đoàn xe tới gần, lên dốc. Hai người đàn bà để mục sư xuống cỏ, và chạy trốn trong đám bắp, dựa lề đường
        Aristitza nói:
        ---Đoàn xe của quân Nga. Nhưng không sao, để cho nó qua. Họ không thấy mình đâu.
        Đoàn xe đến, lên khỏi dốc thì ngừng lại. Tiếng máy tắt hẳn. Dế kêu cũng nghe. Vài binh lính nhảy xuống xe, nói chuyện nho nhỏ.
        Suzanna nói:
        ---Lính Đức!
        Aristitza ngóng tai nghe. Đoạn hai người bò sát đất, dọc theo đám bắp, đến gần đoàn xe. Họ chăm chú lóng tai nghe.
        Aristitza nói:
        ---Lính Đức! Nếu ta đến xin cứu mục sư, chắc họ có y tá hoặc bác sĩ trong đoàn.
        Hai người ra khỏi vườn bắp. Aristitza hỏi:
        ---Mầy biết một tiếng Đức nào không? Một tiếng cũng được. Nếu ta không nói với họ, họ tưởng kẻ thù và sẽ bắn ta.
        ---Con không biết một tiếng Đức nào hết.
        Hai người đi ít bước nữa, rồi đứng lại. Họ đứng sát vào nhau, giữa đường, im lặng. Tay Aristitza bấu chặt cườm tay Suzanna. Bà nói:
        ---Mầy còn trẻ. Rán nhớ một tiếng Đức đi. Chắc hồi nhỏ mầy có nghe người Đức nói chuyện. Cha mầy nói tiếng Đức, thì mầy còn trẻ tuổi sẽ nhớ được.
        ---Con không nhớ gì hết. Ta thử nói với họ bằng tiếng Roumanie coi!
        Bà nổi giận nói:
        ---Làm sao nói tiếng Roumanie với họ được. Họ không hiểu, tưởng mình là cộng sản da.
        ---Hay là chúng ta la lớn " Chúa Ki Tô" má ! Dân Đức đều có đạo. Nếu họ nghe mình nói " Chúa Ki TÔ" thì không nghi là cọng sản đâu. Vả lại tiếng " Chúa Ki Tô" có nghĩa tỏ ra mình lương thiện và có ý tốt.
        ---Mầy làm thử coi! Nếu lính Đức hiểu mầy, thì mầy đâu có ngu dại gì!
        ---Con không dám đi một mình . Hay là má với con đồng kêu lớn lên một lượt
        Hai người đàn bà lại ôm sát nhau, và kêu lên, ban đầu nhỏ, sau to:
        ---Chúa Ki Tô! Chúa Ki Tô!
        Một giọng oai vệ hỏi:
        ---Ai đó?
        Họ không hiểu người Đức nói gì, cứ việc rập nhau hô to:
        ---Chúa Ki Tô!
        Hai người lính đến gần họ. Aristitza run sợ. Bà lại run sợ hơn Suzanna nữa. Mấy lính không hiểu họ muốn gì. Họ liền đi vô đám bắp khiêng mục sư Koruga đem ra giữa lộ, trước đoàn xe.
        Lính Đức bật đèn lên và ngó mặt mục sư. Một sĩ quan hỏi:
        ---Phải một mục sư không.
        Aristitza đáp:
        ---Chúa Ki Tô!
        Sĩ quan hỏi thêm:
        ---Phải quân Nga bắn ông không?
        Aristitza tưởng sĩ quan nói người bịnh là cộng sản, nên lặp lại, quả quyết:
        ---Chúa Ki Tô.

        Đoàn quân Đức đang thoái binh. Sĩ quan nói chuyện với hai người đàn bà, bèn cho lịnh khởi hành, và ra dấu biểu Aristitza khiêng người bịnh dang ra, để xe chạy
        Aristitza bèn nắm tay sĩ quan cầu xin một bác sĩ hay y tá cứu mục sư. Khi xe rồ máy, bà đâm hoảng, không muốn để đoàn binh Đức đi luôn không băng bó cho mục sư. Bà vội quỳ trước sĩ quan, hôn tay ông. Bà biết không còn kiếm bác sĩ đâu được nữa.
        Viên Thiếu tá chỉ huy đoàn quân hỏi:
        ---Bà già nầy nói gì?
        Viên sĩ quan đáp:
        ---Bà muốn chở người bị thương đến tỉnh. Ông nầy là mục sư Chính Thống Giáo.
        Thiếu tá nói:
        ---Sao lại không chở ? Chúng ta là một dân tộc văn minh, dầu bị bại trận! Đỡ người bị thương lên xe hồng thập tự cho mau, rồi lên đường.
        Aristitza và Suzanna thấy lính khiêng mục sư để nằm trên cáng và đắp mền lại. Đoàn xe chạy. Aristitza muốn leo lên xe theo mục sư, nhưng lính gạt ra, đóng cửa xe lại.

        Đoàn xe khỏi hành. Suzanna ngó theo xe, khóc thảm thiết, như muốn van xin cầu cứu. Bà Aristitza lắc mạnh vai nàng, hỏi:
        ---Mầy làm cái gì nữa đó?. Mầy muốn binh Nga nghe tiếng mầy la hay sao ?
        Suzanna đáp:
        ---Chúa sẽ phạt ta về tội lỗi vừa phạm. Ta không nên giao mục sư cho lính Đức. Ai biết rồi họ sẽ làm gì ông đây?
        ---Thì họ đem ông vô nhà thương. Cầu cho ông được nằm nhà thương hơn là ở trong rừng.
        Nhưng vài phút sau, bà cũng khóc òa. Bà hối hận đã hành động như thế.
        Bà la lớn lên:
        ---Ta không nên giao mục sư cho lính Đức! Ta đã phạm một trọng tội. Rồi đây Chúa sẽ phạt ta! Ta sẽ bị thiêu đốt ở Địa Ngục. Và cũng tại mầy, ta mới đưa mục sư cho quân Đức.
        Hai người đàn bà muốn chạy theo xe đòi mục sư lại, nhưng đường vắng teo.
        Họ trở về làng
        -----------------------101-------------------------

        Sáng bữa sau, Aristitza bị bắt. Tại thị sảnh, bà bị đánh đập bằng dây luột nhúng nước. Bà nhìn nhận có đem mục sư ra khỏi hầm phân và giao cho lính Đức.
        Hồi chín giờ, họ bắn bà cạnh hầm phân. Suzanna dắt hai đứa con trốn khỏi làng.
        Lúc nhân viên của Marcou tới bắt nàng, thì nhà Moritz trống trơn...  
        -----------------------------------102-------------------------------

        Joseph lên giường nằm và nói:
        ---Ngày nay là ngày sung sướng nhứt của đời tôi!
        Nhờ Moritz, đoàn tù Pháp vượt trại giam, vừa qua tới phòng tuyến Mỹ vài giờ trước đây.
        Moritz và Joseph ở trong một phòng đẹp đẽ của khách sạn viện trợ Mỹ (U.N.R.A). Họ ăn nhiều món ngon, uống rượu chát và hút thuốc lá đắt tiền. Người ta cho họ nhiều thùng thực phẩm, quần áo và các món khác nữa. Moritz ngắm mấy gói đồ, sắp kề nhau, trên tấm thảm, gần tường. Anh thấy được trọng vọng như không bao giờ có. Quân lính Mỹ cho anh nào sơ mi, nào y phục mới tinh, dao cạo, giày , xà bông, thuốc hút. Họ tặng riêng anh tất cả mấy món đó. Lần thứ nhứt, anh tin tưởng đã lập đại chiến công trong cuộc thắng trận của Đồng Minh. " Nếu mình không lập một đại chiến công, người Mỹ đâu có cho mình nhiều tặng phẩm như vầy"

        Anh nhớ người Mỹ cũng không hỏi tên anh, và anh tưởng chừng họ được báo tin về chuyện vượt ngục nầy, trước khi bọn anh tới.

        Người Mỹ nào cũng cười với anh, như tỏ với anh rằng họ biết rõ anh đã từng đau khổ và can đảm.

        Moritz mệt mỏi, nhưng không muốn ngủ. Anh dòm chung quanh anh và không thể tin được một can phòng rộng lớn đẹp dẽ như vầy lại để dành riêng cho anh. Tất cả những gói đồ sắp để trên ghế, trên bàn, trên thảm là của anh hết. Người Mỹ tặng anh vì anh đã can đảm cứu năm tù binh Pháp vượt khỏi trại giam. Joseph nói:
        ---Ta hoàn toàn thành công trong cuộc vượt ngugj nầy!

        Moritz nhớ lại làm thế nào anh ra khỏi sân trại giam với năm tù binh bữa sáng hôm ấy. Bọn anh đi qua các đường phố trong châu thành. Hilda vẫn ở cửa sổ với thằng Franz và nói với con:" Coi kìa, người mang sứng và đội nón sắt là ba con đó!" Và Moritz cười như đã cười mỗi ngày. Nhưng bọn anh không ngừng lại nơi cầu mà đi luôn đến ven rừng. Moritz đi sau họ, súng mang vai, ai ai cũng tưởng là một người lính dẫn năm tội nhân. Nhưng họ đã là tù vượt ngục rồi. Moritz thấy hình như có một người đàn bà ngó anh lâu, và anh nghe tim đập mạnh. Anh lo sợ. Nhiều người khác ngó anh hơi nghi ngờ, anh làm lơ như không thấy họ.

        Tới rừng, anh thay bộ đồ thường phục của tù binh PHáp đem theo. Joseph đập cây súng vô đá nát tan. Miểng súng văng trúng Moritz, anh tưởng như có cái gì bể trong tim anh. Nhưng anh không muốn để lộ ra. Bọn tù Pháp lại nổi lửa đốt bộ quân phục của anh, anh muốn khóc, song gượng lại, sợ họ hờn. Họ chửi rửa Hitler luôn miệng. Moritz không hiểu họ nói gì.

        Bọn anh đi trọn một tuần lễ trong rừng. Một buổi sáng, vừa ra đường lộ khỏi rừng, họ thấy một đoàn xe Mỹ. Mấy người Pháp ca hát vang lên. Họ đã mệt nhừ, nhưng vẫn ca hát như điên cuồng. Họ gắn dây băng tam tài vô khuy áo của họ và của Moritz, rồi đi lại đoàn xe Mỹ. Lính Mỹ liền cho họ thuốc hút và chở họ đến chỗ viện trợ U.N.R.A., một khách sạn có phòng rộng với bữa ăn dọn sẵn. Dường như bọn anh được chờ đợi ở đây vậy.

        Từ lúc đầu tới bây giờ, lính Mỹ luôn luôn cho bọn anh thực phẩm và nhiều gói đồ vật. Moritz có cảm tưởng như sống trong chuyện thần tiên. Khi thấy mấy gói đồ và Joseph, anh mới tin là sự thật. Anh được trọng đãi và nhận mấy tặng phẩm ấy là vì anh đã lập một đại chiến công vẻ vang trong cuộc thắng trận của Đồng Minh.

        Joseph đã ngủ. Moritz tự nói thầm từ đây anh sẽ sang Pháp. Anh nghĩ đến cái nhà anh sẽ cất, tới Hilda và thằng Franz. "Lúc hết giặc, mình sẽ rước cha mẹ mình qua Pháp ở nữa!". Nghĩ tới hạnh phúc tương lai, anh ngủ một giấc tới sáng, còn mặc nguyên bộ đồ, nằm ngay trên giường, không cục cựa.  
        ------------------------------103------------------------------

        Đã hai tuần nay Moritz ở tại khách sạn viện trợ Mỹ. Anh thuật lại ch người Mỹ nghe chuyện anh với năm người Pháp vượt ngục như thế nào. Họ khen anh và bảo anh viết chuyện lại. Họ muốn đăng trên báo cuộc đời gian truân của Moritz. Rồi ai ai cũng khe anh và nói đến anh.

        Ngày qua ngày, Moritz càng thấy có công giúp Đồng Minh thắng trận. Anh sung sướng và tự hòa đã làm chuyện hữu ích cho Đòng Minh và thấy các nước Đồng Minh đều bằng lòng anh.

        Một bữa, vị giám đốc cho gọi Moritz vô phòng giấy. Ông đã gọi anh nhiều lần để nghe anh thuật chuyện vượt ngục.

        Moritz hớn hở vô phòng giấy. Ông giám đốc mời anh ngồi, đưa hộp thuốc mời hút, và tươi cười với anh. Anh khoan khoái được trọng vọng, và lần nào cũng vậy, anh được tiếp đãi tử tế, nhưng anh vẫn chưa tập quen với lối nầy.
        Vị giám đốc vừa đốt thuốc cho Moritz vừa nói:
        ---Kể từ ngày mai, anh hết được quyền ăn và ở trong khách sạn U.N.R.A nữa. Anh phải rời khỏi căn phòng anh đang ở.

        Moritz xanh mặt. Anh tự hỏi đã làm gì lỗi với người Mỹ để họ giận anh như thế. " Chắc mình có lỗi gì lắm nên họ mới đuổi tống mình ra ngoài như vầy"

        Hồi nào tới giờ, anh được biết bao nhiêu là tặng phẩm của người Mỹ. Năm gói cho anh và cho Hilda. Họ còn tặng đồ chơi và quần áo cho thằng Franz khi nghe anh nói có một đứa con trai. Họ xin coi hình thằng Franz và xúm lại xem ảnh nó.. Anh nghĩ thầm:"Rồi bây giờ cũng mấy người nầy thình lình đuổi mình. Chắc mình đã phạm lỗi lớn lắm!" Vị giám đốc nói:
        ---Viện trợ Mỹ chỉ bảo bọc công dân các nước bạn. Còn anh, anh là kẻ nghịch của Đồng Minh.

        Moritz nhớ đến những gói đồ của mấy người nầy đã cho anh. Đó là bằng cớ anh có làm ơn trọng cho Đồng Minh, nay cũng mấy người nầy lại bảo anh là kẻ nghịch của Đồng Minh.

        Vị giám đốc lặp lại:
        ---Anh là kẻ nghịch của Đồng Minh.
        Moritz đáp:
        ---Tôi không có làm gì chống Đồng Minh cả! Tôi xin thề với ông giám đốc rằng tôi không có phạm lỗi gì đối với Đồng Minh!

        Viên giám đốc nghiêm nghị hỏi:
        ---Anh không phải là dân Roumain sao! Xứ Ruomain nghịch với Đồng Minh, tức nhiên anh cũng là kẻ nghịch. Viện trợ Mỹ không thể chứa trọ và nuôi dưỡng kiều dân các nước nghịch. Anh phải đi ra khỏi phòng anh.

        Moritz cúi đầu, bước ra. Anh muốn trở về hàng ngũ của anh. Nhưng anh nhớ lại cây súng đã bị bẻ gãy trong rừng, quân phục đã bị đốt cháy. Làm sao trở về hàng ngũ được. Anh tự hỏi:" Rồi mình sẽ đi về đâu bây giờ?"
        -----------------------------104------------------------------------

        Liền sau khi Moritz trốn, Hilda bị bắt. Tại sở Hiến binh, nàng khai chẳng biết gì cả. Mẹ Hilda cũng bị bắt hai ngày sau. Hai mẹ con bị cật vấn, đánh đập, nhưng mấy viên thanh tra không thâu nhập được lời khai nào thêm. Lúc xét nhà HIlda, họ gặp những bức thơ của Đại tá Muller. Hilda nói:
        ---Ông nầy là bạn của Moritz. Ông đã gởi cho chúng tôi mỗi tháng hai trăm "mark". Tới lễ Paques, lễ Noel và ngày sinh nhựt của chúng tôi, ông đều gởi thực phẩm và thuốc hút.

        Sở hiến binh báo cho Đại tá Muller biết, mong sẽ được thêm chi tiết.

        Hai ngày sau, họ tiếp được, từ tổng Hành Dinh, một điện văn, dài cả tranh giấy, do Muller gởi :
        " Từ bốn thế kỷ nay, không tháy có ghi một trường hợp đào ngũ nào xảy ra, trong gia tốc"Dòng Anh Hùng" mà Moritz thuộc dòng ấy. Stop. Phải tuyệt đối loại bỏ thuyết đào ngũ. Stop. Tôi quả quyết sự mất tích của Moritz là do một vụ bắc cóc hoặc ám sát. Stop. Moritz mất tích là một sự thiệt hại không cứu vãn được cho lịch sử gia tộc"Dòng Anh Hùng" Stop. Phải tìm cho được nó, dầu với giá nào. Stop. Đừng làm nhơ danh bằng cách nghi ngờ đào ngũ, một trong các gia tộc can đảm và danh giá của dân Germain. Stop. Không được dùng từ ngữ " đào ngũ" trong cuộc điều tra của các ông. Stop. Vợ và con Moritz phải chánh thức được " Viện Nghiên Cứu và Sưu tầm chủng tộc Đức" bảo vệ và nuôi dưỡng. Stop Vợ và con Moritz sẽ lãnh lương thực của "Viện" cấp tới khi tìm ra Moritz. Cảnh sát sở tại phải săn sóc đến họ. Stop. Thông báo cho tôi biết tất cả các việc tìm kiếm. Được nghe tin tức nào mới về Moritz, phải đánh điện tín về Tổng Hành Dinh cho tôi. Stop
        Ký tên Đại tá Muller .O.K.W  
        Đại úy Cảnh sát quân vụ trưởng nói:
        ---Nếu Đại tá Muller biết chúng ta đã bắt và đánh khảo vợ Moritz thì chứng ta sẽ bị nghiêm trị, bị gởi ra mặt trận liền, trong hai mươi bốn giờ. Tốt hơn ta nói với vợ Moritz đừng cho Đại tá biết nàng bị chúng ta bắt.
        Trung úy giữ việc Tư Pháp hỏi:
        ---Còn hồ sơ thì chúng ta làm sao?
        ---Xếp lại hết và bỏ qua vụ nầy, đừng chọc tới sở O.K.W
        Trung úy nói:
        ---Dầu sao, nếu không tin rằng ta dương đầu với một tên đào ngũ thì thật là dại đột. Lắm khi thượng cấp còn lầm lẫn hơn thường dân nhiều. Đại tá Muller là một nhà bác học. Tôi có đọc nhiều bài khảo cứu của ông trong báo chí. Ông có xuất bản nhiều tác phẩm, nhưng ông quá độc đoán. Tại sao ông tưởng rằng Moritz không đào ngũ?.

        hilda được đưa về nhà bằng xe riêng của Đại úy. ông nầy còn nói với nàng:
        ---Khi nào bà cần dùng xe, cứ kêu điện thoại cho tôi. Chiếc Mercedes nầy luôn luôn dành sẵn cho bà, ngày và đêm. Bà có muốn cần dùng cái gì, cứ cho tôi biết. Tôi rất cám ơn bà. Bà đừng viết thơ cho Đại tá hay rằng bà bị bắt; chúng tôi chỉ làm cho có lệ, để làm gương thôi.
        Hilda hỏi:
        ---Chồng tôi không đào ngũ? Vậy anh được gởi đi công cán đặc biệt gì?
        ---Tôi không thể trả lời. Nên biết là chồng bà không có đào ngũ. Chuyện khác là cơ mật.

        Hilda đỏ mặt vui mừng. Kể từ ngày ấy, nàng sống trong mộng đẹp. Nàng tin chắc Moritz được sở O.K.W gởi đi công cán đặc biệt. " Nếu không, thì làm sao họ lại dành riêng chiếc xe để cho mình sử dụng?"

        Nàng ngồi hàng giờ trước cửa sổ, tưởng tượng Moritz đang ở trong nhiều tình cảnh đầy vẻ bí mật như trong phim ảnh truyện phiêu lưu.

        Nàng nghĩ:" Chàng không nói cho mình biết gì hết, vì chàng coi mình như kẻ thấp kém. Mình sẽ rán hết sức để làm sao cho xứng đáng với chàng" Nàng hôn con và nói:
        ---Trọn đời ta không bao giờ hân hoan như bây giờ. Chỉ có vợ của Iohann Moritz mới được hưởng điễm phúc, cái diễm phúc làm vợ một vị anh hùng.
        --------------------------------105-----------------------------

        Hilda nói:
        ---Tôi không tin ta thất trận. Dân thành đều chạy trốn trong rừng hoặc về đồng. Họ nói binh Nga còn cách đây mười cây số ngàn. Lối xóm nầy ai cũng đi hết tồi. Nhưng tôi không tin. Chắc quân địch tuyên truyền để gioe khủng khiếp thôi. Tôi ở lại đây, không đi đâu hết. Nước Đức làm sao thất trận được ?

        Vị sĩ quan mà nàng nói chuyện bảo:
        ---Đem cho tôi thau nước rửa mặt!
        Ông cởi áo khoác bằng da mắc trên giá áo, để va li trên ghế, cởi áo ngoài vắt trên lưng ghế, và chỉ còn mặc một áo lạnh.
        Hilda theo dõi từng cử chỉ của ông. Nàng có thể đứng hàng giờ như vậy để xem ông cởi áo khoác, máng trên giá áo và mở nút áo.
        Vị sĩ quan xây lưng mở va li và bảo tiếp:
        ---Đem nước nóng cho tôi cạo râu.
        Hilda đi ra, không khép của phòng. Dòm qua cửa sổ nhà bếp, nàng thấy một quân xa đậu trước cửa. Viên sĩ quan đến nhà nàng bằng chiếc xe ấy. Nàng xem đồng hồ nhà bếp. Ông mới đến đây chừng mươi lăm phút, nhưng nàng nghĩ thầm:
        ---Ta lại có cảm tưởng đã quen biết ông từ lâu!

        Sĩ quan nầy đến gõ cửa. Nàng ra mở và nghe ông nói muốn rửa mặt và thay đổi y phục. Giọng nói oai nghiêm như một lịnh truyền cho quân lính. Rồi không đợi trả lời , ông đi thẳng vô nhà. Hilda đứng tại ngưỡng cửa.
        Ông đi lướt qua và đụng phớt nàng. Nàng nghe mùi áo khoác bằng da xen lẫn với mùi gió, bụi, mùi khói thuốc chiến tranh. Nàng đi theo ông như mê say.

        Vị sĩ quan to lớn, như một vị hộ pháp. Ông mở cửa phòng ăn, một cách quen thuộc, như ở trong nhà ông. Ông vô phòng và lo thay đồ. Cửa phòng mở, Hilda đứng ngoài cửa chờ lịnh. Ông cởi y phục mà không ngó đến nàng.

        Khi ông dỡ nón, nàng thấy tóc ông bạc hoa râm. Lúc áo khoác vừa cổi, Hilda thấy ngôi sao trung úy. Nàng nói thầm:" Ông nầy là sĩ quan trừ bị"

        Đã nhiều lần ông ngó nàng, nhưng chỉ lướt qua mà không thấy rõ. Hilda bèn khỏi đầu nói chuyện, những chuyện bại trận, tản cư, xuyên qua đầu nàng, nhưng sĩ quan không trả lời, cũng không ngó nàng.

        Cổi áo ngoài xong, ông bảo nàng đem nước với một cái thau. Hilda muốn mời ông vô phòng tắm. Nhà nàng có một phòng tắm dẹp. Nhưng vì ông bảo đem một cái thau, nên nàng không dám cãi.

        Đứng chờ nước chảy đầy bầu, nàng ngó chiếc xe dậu trước cửa. Bụi phủ đầy xe như trên áo khoác bằng da của ông.
        Nàng bưng thau nước vô, thấy ông đã mặc áo sơ mi, ông nói:
        ---" Đưa cho cái kiếng soi!" ÔNG có vẻ lo lắng, suy nghĩ và mệt nhọc. Hilda nghĩ chắc ông muốn đi ngủ. Nàng sẽ làm giường trong buồng cho ông.

        Mấy ngày rày, nhiều đoàn quân đi ngang qua thành phố. Binh lính và sĩ quan có dến kêu cửa nhà nàng, xin ngủ nhờ một dêm, xin nước để rửa mặt hoặc để dun đồ hộp. Nàng sốt sắng giúp họ, vì nàng nghĩ đến chồng . Nàng biết Moritz đang đi công cán đặc biệt. Nàng muốn tỏ ra xứng đáng là vợ của chàng. Nàng muốn chính mình cũng dự phần phụng sự Tổ quốc.  
        Mấy binh sĩ và sĩ quan ấy, nàng cho họ ngủ trong phòng ăn. Nhưng với ông hộ pháp nầy, nàng định sẽ mời ông ngủ trong buồng. Và chính nàng sẽ ngủ trên ghế trường kỹ trong phòng ăn.

        Nàng nghĩ thầm, chắc ông khổng lồ không lựa giường của Moritz mà sẽ lựa giường của nàng để ngủ. Ý nghĩ ấy làm nàng rùng mình. Nàng vội vàng đi lấy kiếng soi mà Moritz thường dùng để cạo râu, đem đến cho ông hộ pháp. Ông đi đi lại lại trong phòng, nút cổ áo sơ mi mở ra. Ông nhận kiếng soi trên tay nàng, tìm chỗ để máng, mà không có chỗ nào. Ông cao, mà để kiếng xuống bàn thì thấp, phải khòm xuống mới cạo râu được. Không nói gì hết, ông để kiếng trên tay Hilda, rồi lo thoa xà bông trên mặt. Ông bảo:
        ---Giơ cao lên!
        Mặt ông đen sạm vì nắng, gió. Bộ râu đỏ hoe phủ kín má ông. Hilda đang cầm kiếng ngang miệng, liền giơ lên ngang trán. Khi ông hộ pháp bước tới gần kiếng, nàng nghe hơi thở của ông. Tay nàng run lên. Nàng cố bấu ngón tay cầm chặt cái kiếng soi để giữ nó được ngay thẳng. Một tiếng dõng đạc bảo:
        ---Cao lên chút nữa!

        Hilda giơ kiếng lên khỏi trán. Hai tay nàng như bị kiến bò. Nàng muốn nói chuyện, nhưng tiếng dao cạo sột sột đều đều bộ râu hoe đầy bột xà bong, khiến nàng làm thinh. Hilda nhắm mắt, lắng nghe tiếng dao cạo. Mũi nàng phồng lên hít mùi xà bong. Không phải chỉ riêng mùi xà bong, mà còn hơi đàn ông, mùi giặc giã, mùi người đi đường xa, mùi áo khoác da thuộc... Nàng đứng không vững, nhưng vị hộ pháp không nhận thấy vì mãi lo cạo râu kỹ lưỡng, sợ bị phạm da mặt.

        Cạo râu xong, ông thoa xà bong rửa tay trong thau. Ông nói:
        --- Vén tay áo sơ mi lên!
        Hilda guộn tay áo, nàng sợ đụng da ông. Tay ông chạm tay nàng, nàng rùng mình. Một mùi rừng bụi mà ông hộ pháp mang theo trong mình xông ra nồng nặc cả căn phòng. Nàng ngửi nó cùng khắp, mùi ấy thấm cả vào tủ bàn, vào thảm, vào tường, không khi nào phai. Mùi ông díng vào áo, vào tóc nàng, dầu nàng có tắm gội giặt rửa cả đời cũng không hết.
        Ông hộ pháp nói:
        ---Bây giờ tôi muốn ở yên một mình!

        Khi Hilda quay lại khóa cửa, thì thấy ông ở trần. Ông đang cởi áo sơ mi , lật ngược phủ đầu, chỉ còn thấy ngực. Nàng là y tá, đã từng thấy cả ngàn ngực đàn ông, nhưng chưa bao giờ thấy một cái ngực như thế.
        Hilda xuống bết, đứng tựa cửa sổ, ngó xe hơi.

        Thằng nhỏ con nàng ngủ. Nàng tự hỏi không biết ông đi liền hay ở nghỉ. Nàng muốn lo bữa ăn cho ông. Nhưng nàng lại lắng tai nghe, chờ ông có gọi mà ứng tiếng.

        Một bà lân cận đi ngang hỏi nàng:
        ---Quân Nga đã tới, cách đây còn ba ngàn thước. Bà còn ở đây sao?
        ---Tôi ở đây.
        Đoạn Hilda tự hỏi tại sao ông hộ pháp không gọi mình. Nàng nóng lòng, không chờ đợi nữa, vội lên phòng gõ cửa và bước vô. Ông hộ pháp mặc lễ phục sĩ quan, ngực đầy huy chương.
        Hilda đứng lại tỏ vẻ thán phục
        Hộ pháp mỉm cười. Ông mới cười lần đầu tiên. Trong phòng, thay thế cho mùi gió bụi, mùi chiến tranh và mùi da thuộc, một mùi hoa thơm sực nức tỏa khắp nơi.
        Ông nói:
        ---Tôi muốn biết coi bà có phải thật là một phụ nữ Đức hay không? Tôi muốn nhờ bà một việc mà chỉ có phụ nữ Đức mới giúp nổi.
        ---Tôi sẵn lòng. Chẳng những tôi là phụ nữ Đức, mà chồng tôi còn được thượng cấp....

        Hilda muốn thuật chuyện cơ mật của chồng nàng, nhưng liền ngừng bặt. Trên bàn, có khuôn hình hai người đàn bà đẹp. Ngó thấy hình, nàng hết còn can đảm muốn thuật chuyện cơ mật của chồng nữa, chuyện nầy chưa bao giờ nàng nói với ai, nhưng sẵn sàng muốn thuật lại với ông hộ pháp . Song bây giờ, thấy tấm ảnh, nàng lại hối hận đã có ý định trên đây.

        Ông hộ pháp nói:
        ---Đây là ảnh vợ và con tôi. Cả hai đều chết. Tôi yêu quý chúng lắm. Nhưng chúng nó lừa dối tôi. Cả vợ và con tôi đều dối gạt tôi. Vợ tôi chết rồi, còn con tôi xiêu lạc nơi nào không biết. Nó lấy một thằng không ra gì, từ đó tôi cầm như nó chết rồi.

        Hilda nhìn ảnh hai người đàn bà và tự nói thầm:" Còn tôi, thì không bao giờ phản bội, nếu tôi được yêu!"
        Cạnh ảnh hai người đàn bà, là ảnh của Quốc trưởng Hitler. Ông sĩ quan nói:
        Và bây giờ Quốc trưởng cũng chết. Nước Đức không còn nữa. Tôi chỉ sống vì họ. Lúc nhỏ, tôi cũng yêu quí ngựa, nhưng đó là mối tình tuổi trẻ. Nay, những ai mà tôi sống đây đều chết cả: vợ tôi, con tôi, Quốc trưởng và Tổ quốc tôi. Bây giờ, đến phiên tôi. Quân Nga sắp tơi đây trong nữa giờ nữa. Trước khi họ đến, tôi muốn làm xong phận sự cuối cùng của đời tôi.

        Hilda ứa lụy. Nàng tưởng ông sẽ ngủ trong phòng của nàng. Nàng tưởng ông đói và định lo dọn ăn. Bây giờ nàng lại thấy ông mặc nhung phục tốt đẹp, nàng hỏi:
        ---Tôi sẽ làm những gì ông dặn. Ông muốn đi đâu?
        ---Tôi không đi đâu nữa hết. Đây là lần đi cuối cùng của tôi trên cõi trần nầy. Bà tưởng tôi sửa soạn ra đi nên mới cạo râu, rửa mặt, thay đổi nhung phục sao?

        Ông cười và vỗ vai nàng. Nàng hổ thẹn. Cạnh bên ông, Hilda thấy nàng nhỏ bé, thật nhỏ bé, như lúc nàng biết được Moritz đi công cán đặc biệt vậy. Ông nói:
        ---Bà nhớ kỹ lời tôi dặn nghe! Vả lại, thật giản dị. Nhưng chỉ có phụ nữ Đức mới làm được! Vợ tôi thì không đời nào. Nhưng bà, thì bà làm được. Vợ tôi nhu nhược lắm; nếu nó còn sống, tôi cũng không mượn đến. Với bà thì khác.  
        Hilda hãnh diện được ông hộ pháp giao phó một chuyện mà ông không nhờ vợ ông làm.
        Ông nói:
        ---Chừng tôi chết rồi, bà kéo thây tôi lôi ra sân đốt đi. Bà sẽ thấy tôi chết tại đây, trên tấm vải lều nầy.
        Ông hộ pháp trải tấm vải lều nhà binh trên nền nhà. Vải còn mới, phủ cả nền gạch.
        ---Bà cứ nắm hai chéo vải, kéo tôi ra sân.
        Lấy hai bình xăng để dưới bàn, đưa cho Hilda, ông nói:
        ---Đây là dầu xăng. Xăng máy bay. Kéo tôi ra sân rồi đắp vải lại, chế xăng lên. Và quẹt quẹt máy.
        Ông hộ pháp vẫn cười, móc túi lấy một quẹt máy bằng vàng đưa cho Hilda, và nói:
        ---Đây là quẹt máy để đốt. Nếu bình xăng thứ nhứt cháy hết, bà chế thêm bình xăng thứ nhì, và đốt nữa. Tôi chắc sẽ không còn gì hết. Quân Nga chỉ tìm thấy tro tàn của tôi mà thôi. Một quân nhân xứng đáng với tên tuổi không để thây mình lọt vào tay kẻ nghịch. Trong lịch sử, quân sĩ Đức đều hành động như thế. Lúc cùng đường, họ phải tự tử, thiêu hủy mình. Quân nghịch chỉ thấy tro đen sì mà thôi!

        Ông hộ pháp xoa tay. Hilda im lặng , ngó bức ảnh.
        ---Nếu bà muốn đốt bức ảnh thì cứ quăng vô lửa. Nó sẽ cháy một lượt với thây tôi. Còn bà muốn giữ thì cứ giữ. Nhưng tôi không thấy bà cất để làm gì. Tôi không phải người ở đây. Tôi ở xứ Roumanie.
        Hilda đứng sững! Nàng đang tưởng tượng thân hình ông hộ pháp nằm dài trên vải lều. Nàng không làm sao tin chuyện ấy có thể xảy ra được. Nàng có cảm tưởng ông là người trường cửu, sinh ra không phải để chết.
        ---Bà sợ sao? Một phụ nữ Đức không bao giờ sợ, nhứt là hành động cho Tổ Quốc. Tôi tin chắc bà cũng nhìn nhận rằng phụng sự Tổ Quốc là khi làm theo lời trối của một quân nhân.
        ---Tôi hiểu và tôi không sợ. Nhưng tôi không thể tin những chuyện ấy là sự thật. Tôi không tin quân Nga tới đây. Tôi không tin nước Đức bại trận!
        ---" Hỏng hết rồi! Thua cả rồi, vô phương cứu chữa!. Đừng quên để súng lục vào bao cho tôi, và thiêu hủy nó một lượt với xác tôi. Một quân nhân phải được chôn hoặc hỏa táng với vỏ khí của họ. Một phút im lặng. Ông hộ pháp ngó mong, tư tưởng chìm trong hư không như chỗ nước sâu không đáy. Ông nói:
        ---Bây giờ, thế là hết!

        Hilda ngó lên, tưởng ông tự tử trước mặt nàng, và nàng không thể chịu nổi cảnh tượng ấy. Nhưng ông chưa có dáng điệu muốn tự tử.
        Ông quay nhìn hình Quốc Trưởng, đứng nghiêm trang chào, tay giơ thẳng lên.

        Hilda đứng sau ông. Nàng thấy đôi vai và thân mình ông bó gọn trong bộ nhung phục, tay giơ thẳng lên. Ông đứng yên, như pho tượng.
        Đoạn ông quay lại, ông đưa tay lên, chào nàng, và nói:
        ---Xin vĩnh biẹt và cám ơn bà bạn! Tôi là Trung úy Iorgu Iordan...Bà khỏi phải lặp lại tên tôi. Hãy hãnh diện về công việc bà sắp làm, thật là danh dự cho một người phụ nữ Đức khi hoàn thành được ý muốn cuối cùng của một quân nhân!

        Ông siết tay Hilda, siết chặt tay nàng như vĩnh biệt, ròi o bảo:
        ---Bây giờ tôi muốn ở yên một mình! Khi nghe tiếng súng nổ, hãy trở vô. Vĩnh quyết chào bà!
        #19
          Whatever 08.01.2011 06:12:55 (permalink)
          -----------------------------------106----------------------

          Đoàn xe cam nhông đầu tiên của quân Nga lố dạng ở góc đường.
          Hilda nghe tiếng máy chạy, nơi cửa sổ nhà bếp nàng thấy đằng xa đoàn xe tiến tới. Nàng vội chạy lên phòng ông hộ pháp. Ông đã dặn đừng vô, trước khi nghe súng nổ. Nàng chưa nghe tiếng gì, không dám trái lịnh ông.

          Xe cam nhông Nga chạy ngioaf đường phố, làm rung rinh mấy vách tường nhà. Hilda không thể chờ đợi được nữa, nàng đâm sợ, lật đật gõ cửa và bước vô phòng.
          Thây hộ pháp nằm ngửa trên tấm vải lều, sóng sượt giữa căn phòng. Hilda nói thầm:" Sao mình không nghe tiếng súng nổ kia?"

          Xác nằm ngay ngắn, hình như lúc ông chết mà còn nghiêm chỉnh chào hình Quốc trưởng. Mũ còn đội trên đầu, mặt đã tím ngắt và đường như dính tro bụi.
          Gò má bên mặt, miệng và mũi có dấu máu nhưng không nhiều, chỉ vài tia máu nhỏ mà thôi.

          Hilda lượm khẩu súng lục rơi cạnh miệng người chết và để vô bao da, khóa lại. Nàng nghĩ thầm sao ông tự sát mà nàng không nghe tiếng súng nổ.

          Nàng nắm mấy góc vải phủ lên xác. Trước khi đắp mặt, nàng nhìn lại một lần nữa và nói thầm:" Ta không có cảm tưởng đang ở gần bên người chết. Cảnh chết không làm ta sợ. Ta cũng không thấy thây ma mặc dầu ở kế cận xác chết. Hay là bởi ta đã thấy nhiều người chết quá..." lúc làm việc tại nhà thương!"

          Nàng đắp mặt lại, mà không đụng người chết.
          Bây giờ ông hộ pháp cũng như mọi người mà nàng đã gặp. Lúc sống, ông không giống mấy người khác. Nàng nhớ thoáng qua mới đây, ông còn sống, cạo râu, mặc nhung phục. Lúc ấy toàn thân nàng run lên khi đến gần ông.

          Nhưng chuyện ấy như xa xăm lắm rồi, như đã xảy ra từ mấy chục năm về trước. Nàng như quên tất cả.

          Bên ngoài, tiếng cam nhông và xe tăng chạy tới. Hilda vụt hoảng hốt, muốn bồng con chạy ngỏ cửa sau vườn, vô trốn trong rừng. Nhưng nhớ lại lời hứa với ông hộ pháp, nàng tự hỏi:" Ta hối hận đã hứa thiêu ông.

          Nàng không thể lôi xác ông ra vườn, sợ lính Nga trên xe cam nhông và xe tăng chạy ngay trước cửa dòm thấy.

          ---" Thôi ta phải chờ tới chiều tối! Ta sẽ đem ông ra vườn đốt, rồi bồng con đi trốn!"

          Hilda ngồi gần xác, không nghĩ ngợi gì nữa. Nhưng nàng lại sợ bị bắt, nếu họ gặp thây trong nhà. Nàng chạy qua phòng bên cạnh, bồng con, trở lại ngồi trên ghế, gần người chết. Nàng tự nghĩ:" Ta không thể thất hứa với lời trối của một quân nhân!"

          Nàng đóng cửa và khóa lại, định chờ đến trời thật tối. Còn vài giờ nữa thì đêm đến. Nàng muốn coi giờ, nhưng không có đồng hồ. Trực nhớ ông hộ pháp có đeo nơi tay, nàng gở tấm vải lều ra xem để biết coi còn đợi mấy giờ nữa. Lúc ấy, có tiếng gõ cửa.

          Hilda ôm con vào lòng, không trả lời.

          Nàng nghe nói tiếng Nga ngoài cửa. Và tiếng gõ cửa dồn dập. Nàng mở cửa sổ trổ ra vườn. " Ta không thể bỏ chạy trốn mà chẳng giữ tròn lời hứa. Moritz " chồng ta" là một anh hùng, ta, ta không có quyền hèn nhát"

          Hilda mở nút một bình xăng chế lên tấm vải lều. Tiếng bá súng dộng cửa vang đội, cánh cửa gần bong ra. Nàng mở bình xăng thứ nhì, tưới thêm phân nữa. Nàng sợ quân Nga phá bể cửa, nân làm gắp. Rồi lật đật bồng con, chạy lại pjias cửa sổ. Nàng nghĩ thầm:
          " Ta nhảy ra cửa sổ, liệng quẹt máy cháy trở vô phòng và ông ta sẽ cháy thiêu. Như thế, ta vẫn giữ lời hứa!

          Trong phòng ngạt mùi xăng. Thằng nhỏ ho. Hilda lật đật quàng chân lên thanh sắt cửa sổ để nhảy ra sân. Lúc ấy quân Nga đã dùng vai tống bật cửa cái. Từ khuông cửa sổ xuống tới mặt đất trong vườn không cao lắm, nàng nhảy thì dễ, nhưng đã thấy lố dạng ba mũ quân Nga nơi cửa sổ rồi.

          Trong vườn, còn nhiều lính khác. Nàng không thể nhảy được, liền ngó lại cửa cái. Thằng nhỏ ngộp hơi xăng, khóc ré lên. Nàng định nhảy đại, rồi chạy giữa lính Nga, nhưng một bàn tay lòn qua cửa sổ định nắm nàng lại, đã đụng chân nàng.

          Hilda kêu lên một tiếng, nàng muốn tự vệ. Nàng chỉ có cái quẹt máy cầm tay. Không suy nghĩ, nàng bấm chỗ quẹt như bấm cò súng lục, khi bị chận đánh. Trong khoảng khắc, một làn ánh sáng phựt lên. Thế là hết, nàng không biết gì nữa, thấy tối tăm ảm đạm hơn cảnh u minh hắc ám của đêm trường. Ánh sáng hi vọng không bao giờ trở lại!

          Ngọn lửa thiêu xác hộ pháp Iordan cũng là ngọn lửa bao trùm luôn cả vợ con Moritz. Và cũng ngọn lửa ấy thiêu hủy tất cả, kho đụn nhà cửa, cùng với tấm ảnh mà ông hộ pháp đem đặt trên bàn lúc nảy, ảnh mẹ Suzanna và ảnh của Suzanna, người vợ trước của Moritz

          Dầu xăng của ông hộ pháp đem đến vẫn còn cháy, ngọn lửa lên cao ngất trời.
           

          -----------------------------------107------------------------------------

          Traian và Eleonora West ngồi trước mặt ông Tham mưu trưởng Brown. Thống đốc quân sự Mỹ tại thành Weimar.
          Traian nói:
          ---"Thư ông Thống đốc, chỉ có bấy nhiêu thôi. Ngày 23.08 khi xứ Roumanie xin đình chiến, tôi và vợ tôi bị quân lính Croates đem giam với mấy nhân viên sứ quán Roumanie.
          " Chúng tôi bị giam theo luật ngoại giao quốc tế trong một khách sạn với mấy người đại diện các nước nghịch.
          " Rồi xứ Croatie bị đảng viên TiTo chiếm cứ, chúng tôi lại bị dời sang nước Áo, rồi nước Đức, chót hết là nước Tiệp Khắc.
          " Khi nước Đức đầu hàng, không còn bị ai giam giữ chúng tôi đi qua miền tây. chúng tôi bỏ tất cả để đi qua miền tây"

          Eleonora thấy lại cả hai trăm cấy số đi bộ, cẳng sưng, bàn chân phồng, nổi mắt cá. Nàng nói:
          ---Chúng tôi bỏ tất cả, để băng rừng vượt đồng, trốn qua những vùng chiếm cứ của người Mỹ, người Anh hoặc người pháp. Chúng tôi không muốn bị sa vào tay quân Nga hoặc các đảng viên cộng sản. chúng tôi thà tự tử hơn là để bị chúng bắt.

          Ông thống đốc hỏi:
          ---Tại sao các người lại sợ quân Nga với đang viên cộng sản. Chỉ có bọn phát xít mới sợ chớ! Quân Nga và đảng viên là đồng minh của chúng tôi. Họ chiến đấu cho cuộc thắng lợi của đồng minh mà!

          Traian nói:
          ---Thưa ông Thống đốc, ông không phải là phát xít, nhưng tôi không tin rằng ông bằng lòng để vợ con ông ở trong vùng của quân Cộng sản chiếm đóng, dầu chỉ nội 24 giờ thôi! Không phải gì lý do chánh trị mà chỉ vì sự tàn bạo với sự khủng khiếp của họ gieo rắc. Và tôi tin rằng, cho đến ông nữa, ông cũng không can đảm đi một mình vào vùng đất Nga sô, mà không mặc sắc phục và được hộ tống đàng hoàng. Vậy có công bình chăng, khi ông hỏi chúng tôi, hai kẻ tay không, chẳng có khí giới tự vệ, sao lại đi trốn một đám dã man tàn bạo, võ trang bằng sứng máy tối tân của Mỹ?
          ---Bây giờ, hai ông bà muốn gì? Chắc chắn là không ra khỏi nước Đức được. Ở đây, ông bà được đối đãi như công dân nước nghịch, và cũng chịu theo chế độ đối với dân chúng Đức, có quyền hạn như họ, và không được gì hơn.
          Traian nói:
          ---Thế nghĩa là không có quyền hạn nào cả! Đàn bà Đức ở Weimar phải rửa cầu tiêu trong trại Buchenwald, giặt quần áo mấy tù binh được thả, ít nhứt một lần một tuần. Ông muốn bắt vợ tôi cũng làm công việc đó sao?

          Eléonora nói tiếp:
          ---Chúng tôi không phải kẻ nghịch với nước Mỹ và các nước Đồng minh. Chúng tôi bị những nước nghịch với Đồng minh giam cầm cả năm. Và bây giờ chúng tôi đến xin ông cho phép ở một căn phòng nào, trong vùng nầy, hoặc cấp cho giấy tờ để có phương tiện đi nơi khác, nếu chúng tôi không được cư trú tại đây. Chúng tôi đang ở ngoài đường, không biết ăn đâu, ngủ đâu, không thể tắm gọi gì được. Người ta cấm chúng tôi ở đây và cũng cấm chúng tôi đi nơi khác.

          Viên thống đốc nói:
          ---Ông bà là công dân nước nghịch. Sự hiện diện của ông bà không cần ích cho gì cho tôi. Có phải giấy thông hành của ông bà do xứ Roumanie cấp không? Vậy quả ông bà là kẻ nghịch.

          Eléonora nói:
          ---nhưng xứ Roumanie chiến đấu mười tháng nay, bên cạnh Đồng Minh, chống với Đức. Và ông biết rõ việc ấy, cũng như tôi. Tám chục ngàn binh sĩ xứ roumanie chết vì quyền lợi Đồng minh. Những người chiến đấu bên cạnh các ông lại là kẻ nghịch các ông sao?

          Tham mưu trưởng Brown nói:
          ---" Xứ Roumanie là nước nghịch" Ông kéo hộc tủ lấy tờ giấy ra đọc to " những nước nghịch: Roumanie, Hongrie, Finlande, Đức, Nhật Ý. Như vậy là rành rẽ lắm rồi, phải không? Ông bà là kẻ nghịch của Mỹ quốc!"

          Traian đứng dậy, Eléonora van lơn, ngó ông Thống đốc nói:
          ---Ông không có đọc báo thấy xứ Roumanie chiến đấu bên cạnh Đồng minh từ một năm nay sao? Giấy tờ của chúng tôi biên rõ bị quân Đức cầm tù, không đủ chúng minh với ông sao? Chúng tôi không phải là kẻ nghịch.
          ---Nếu thật như vậy nữa, tôi cũng không quan tâm. Những điều khoản tôi nhận để thi hành định rõ dân Roumain là kẻ nghịch của Mỹ quốc. Tôi đã mất nhiều thì giờ bàn cãi với bà rồi. Bà là người nghịch của tôi, người nghịch của tôi, bà nghe chớ! Nếu tôi bị sa vào tay bà, tất bà ra lịnh bắn tôi, chớ không ngồi mà cãi như tôi đâu. Chuyện tôi vừa làm đây là bất hợp pháp. Và tôi không lặp lại nữa. Không ai đi cãi với kẻ nghịch bao giờ!

          Tham mưu trưởng Brown, Thống đốc quân sự thành Weimar giận xanh mặt. Ông không thèm đáp lại lời chào của Traian và Eléonora.

          Xuống nấc thang lầu, Traian nói:
          ---Tây phương là vậy đó em à! Họ không quan tâm đến sự trạng và con người. Họ bao gồm và nhứt luật tất cả, hị chỉ tuân theo luật lệ mà thôi.
          Nora nói:---Em không đi được nữa!
          Traian cầm tay nàng dùi đi. Nàng dựa vào vai chàng, khóc ròng và nói:
          ---Chúng ta đi hai trăm cây số ngàn để cầu cứu họ. Nhưng bây giờ chỉ là công cóc
          ---Đừng hối tiếc em à! Ta tránh xa được cảnh kinh khủng của Nga sô. Ta chạy khỏi là may lắm rồi. con người không còn ở đâu được nữa bây giờ. Quả địa cầu hết còn là sở hữu của con người.
           -------------------------------108---------------------------

          Bốn ngày sau, hai vợ chồng Traian trở lại tìm vị Thống Đốc. họ cẫuin một giấy phép cư ngụ tại Weimar thêm một tuần nữa.
          Hai chân Nora sưng vù và không thể đi xa được.

          Nàng mặc cái áo đẹp nhứt, đội nón và mang giày cao gót. Khi hỏi người lính gác để yết kiến ông Thống Đốc, Traian day qua Eléonora, nói:
          ---Bữa nay em ăn mặc như đi hội.
          Nàng mỉm cười. Áo nầy, nàng mặc lần đầu tiên, ba năm về trước , lúc đến viếng ông Tổng trưởng xứ Finlande.
          Lính gác lễ phép nói:
          ---ÔNg Thống đốc xin ông bà chờ một chút.
          Vài phút sau. Một lính khác đến hỏi:
          ---" ÔNg bà là nhân viên ngoại giao Roumain muốn viếng ông Thống đốc phải không? Xin chờ một chút nữa" Nói rồi y đi khuất.

          Eleonora rất hài lòng. Nàng cho ông Tham mưu trưởng Brown là người biết điều, biết phép lịch sự, chờ có năm phút mà cho người ra xin lỗi tới hai lần.

          Dinh hành chánh là một tòa nhà to lớn. Dãy hành lang rộng thêng thang. Nỏa ngó vô kiếng thấy mình ốm, nếp áo rủ xuống nhiều hơn kỳ đến sứ quán Finlande.
          Một người lính đến bảo :
          ---Xin theo tôi.
          Eleonora mỉm cười, dang khỏi tấm kiếng. Traian vịn tay nàng. Họ theo sau người lính, không phải leo lên nấc thang như kỳ trước, mà đi thẳng nơi lối ra. Tên lính mời họ lên chiếc xe ! Jeep! đậu trước cửa.
          Traian hỏi :
          ---Đi đâu đây?
          Tên lính rùn vai. Trời có gió. Xe chạy như bay trên đường phố. Traian kề tai tên lính thứ nhì, hỏi nữa:
          ---Đi đâu vậy?
          Tên lính thứ nhì cũng rùn vai, như bạn đồng nghiệp nó. Traian day qua Nora. Nàng đang đưa hai tay giữ nón . Nàng cười, vì thích xe chạy mau.

          Tới cuối thành phố, xe ngừng trước một bức tường đá. Người gác cửa đội nón kết, ra mở cửa. Nhưng xe không vô sân.

          Một trong hai người lính đưa thơ cho người gác cửa, rồi ra dấu cho vợ chồng Traian xuống xe. Nora hỏi:
          ---Ở đây là ở đâu ?
          Hai lính Mỹ chờ nàng xuống xe, không trả lời.
          Nora hỏi người gác của bằng tiếng Đức:
          ---Ở đây là đâu?
          ---" Khám đường của đô thành" Tên gác vừa trả lời, vừa nắm tay Nora.

          Nàng muốn nói vài tiếng với hai lính mỹ, nhưng đã muộn. Chiếc xe Jeep chạy khuất dạng, rất mau, như lúc đến.
          Nàng ngó lại thấy Traian xanh mặt. Cánh cửa sắt đóng lại.
          Họ đang ở trong sân khám đường.
          -------------------------------109---------------------------------

          Traian bị nhốt trong phòng số 5, ở từng dưới đất. Nora ở trên từng lầu ba, phòng số 2.
          Traian nghĩ thầm:
          ---Chắc họ lầm rồi!

          Chàng muốn tìm hiểu chuyện gì xảy ra, nhưng nhớ lại Nora cũng đang bị giam trong một căn riêng giống như căn của chàng, nên chàng mất bình tỉnh.

          Khi nãy, lúc chia tay, chàng muốn hôn tay Nora và nói một lời âu yếm, nhưng tên gác khám nắm vai chàng xô mạnh cho dang ra.

          Nora xây qua tên gác khám, cầu khẩn. Hắn cũng đẩy mạnh nàng về phía cuối dãy hàng lang khám đường bằng cách đó.

          Traian nghĩ thầm:
          " Ta định chắc họ lầm mình với một tên tội nhân nào cũng trùng tên với mình, hoặc giống mình. Nhưng tại sao họ cũng bắt luôn Nora ?"

          Traian tức giận, đập cửa rầm rầm, để kêu tên gác khám. Chàng lẩm bẩm nói" Ta tưởng quân Nga bắt ta. Với quân Nga , có hai bàn tay thật sạch cũng đủ bị bắt. Và dầu họ bắt ta mà chẳng cần nhìn đến tay, hay là họ bắt ta mà chẳng có duyên cớ gì, ta cũng không lấy làm lạ. Với quân Nga, sự gì cũng có thể xảy ra.
          " Ta đã đi bộ hai trăm cây số để trốn tránh một xã hội mà sự " thiếu tự do" cũng là một cớ để bị bắt, bị giết hay bị đày"

          Tay đấm cửa, đau nhừ, nhưng Traian vẫn tiếp tục đập cửa phòng giam.
          Anh đấm cửa không phải để gọi tên gác khám nữa, mà để tự phạt lấy mình, sao chạy gần hai trăm cây số , chạy đã vô ích mà còn lại kéo lê Nora cho nàng phải bị đôi chân rướm máu và sưng vù như thế.

          Traian tự nghĩ:
          ---Dân Đức có thể bắt Nora, vì họ là độc tài quốc xã và bài Do thái"
          Một tên gác nghe tiếng đấm cửa đến hỏi:
          ---Anh muốn gì?
          ---Tôi muốn gặp liền ông Giám đốc khám đường. Vợ chồng tôi bị bắt lầm.

          Tên gác nói giọng chua ngoa:" Tôi đoán không sai. AI vô đây cũng đều nói bị bắt lầm hết!"
          ---Tôi cấm anh mỉa mai tôi! Tôi muốn nói chuyện với ông Giám ngục liền bây giờ.
          ---Ở đây không có ông Giám ngục nào hết. Vợ chồng ông bị quân Mỹ bắt. Chúng tôi chỉ giữ phần cai quản thôi. Chúng tôi cũng chỉ là tù nhân chớ không khác.
          ---Vậy tôi muốn nói chuyện với người Mỹ!
          ---Viên đội MỸ chỉ đến một lần mỗi tuần, vào ngày thứ hai.
          Traian nhớ lại bữa nay là thứ hai, chàng nói:
          ---Anh muốn biểu tôi chờ đến thứ hai tuần tới, trước khi gặp người nầy hay sao? Anh tưởng vợ tôi ở được suốt tuần trong tù à?
          ---Tôi không làm thế nào được. Ông muốn nói gì cứ nói đi. Cứ đập cửa hàng giờ đi, nhưng vô ích. Tôi không thể làm gì được. Thứ hai tuần sau viên đội mới trở lại.

          Viên gác khám đóng cửa.
          Traian bèn nói:
          ---Anh nói với họ, hay không nói cũng được, rằng từ nay cho tới khi nào tôi có thể gặp ông Giám đốc để biết lý do bắt tôi, thì tôi không dụng đến thực ăn, thức uống gì cả. Đó là phương tiện duy nhứt của tôi để phản đối. Và tôi sẽ dùng nó.
          ---Ông định tuyệt thực sao?
          ---Và cũng nhịn khát nữa!

          Tên gác khám đứng lại một lát trên ngưỡng cửa, chìa khóa cầm tay. Y thương hại ngó Traian , và nói:
          ---Tội nghiệp ! ông còn trẻ quá!
          Y đóng cửa lại, khóa hai vòng. -----------------------------------110----------------------------------

          Nora đập cửa gần nữa giờ đồng hồ. Một người gác đi lại đứng ngoài nghe mà không mở cửa. Y dòm vào lỗ tò vò và nói:
          ---Còn đập như vậy nữa thì bị trừng phạt cho coi! Tù nhân không được phép đấm cửa khám.
          Nói rồi, y bỏ đi.

          Nora nằm dài xuống giường. Được một lát, nàng ngồi nhổm vậy, sợ hải nói:" Chắc có rệp" Nàng định đấm cửa để xin đổi cái mền khác, hoặc hỏi xem coi có rệp hay không, nhưng nhớ lại nàng không có quyền đập cửa khám, nàng đành thôi, đi đi lại lại trong phòng giam.

          Trong thâm tân, nàng biết mình có tội. Nàng biết bị bắt giam như vầy, xét cho chí lý, là công bình, Sau khi giả mạo trao đổi giấy tờ chứng nhận lý lịch nhan chủng của nàng, sau khi mua chuộc để làm mất giấy tờ hộ tịch trong hồ sơ trữ tại văn khố quốc gia, ngày đêm nàng cứ bị ý tưởng ngồi tù ám ảnh. Mỗi ngà, nàng chờ đợi có cảnh sát đến bắt. Suốt cuộc hành trình bên nước Đức, nàng run lên mỗi lần thấy cảnh binh đến, vì nàng dùng giấy tờ giả mạo.

          Mấy năm sau nầy chỉ là một cuộc chờ đợi lâu dài: chờ giờ bị bắt. Nàng tự nói thầm:" Và giờ ấy đã đến. Họ đã khám phá ra ta là DO thái, và ta không thể trốn thoát được"

          Nàng run rẩy cả thân mình. Nàng lo sợ nói:
          " Cho rằng quân đội Mỹ bắt mình, vì mình đã giấu giếm căn cội nhan chủng, giả mạo giấy tờ tại Roumanie, thật là vô lý. Tuy nhiên, đó là cái cớ chánh, cớ duy nhất để bắt bớ mình. Mình biết là không hợp lý, song chuyện đã như thế. Mình phạm tội. Và bây giờ mình sẽ bị trừng phạt. Một hình phát gương mẫu, nghiêm khắc, nhưng dích đáng"

          Nora nghe lạnh. Y phục mỏng và nhẹ như lưới không đủ ấm để che thân nàng khỏi hơi ướt lạnh của vách đa.

          Cái lạnh thấm vào da thịt, luồn tới xương tủy. Nàng cảm thấy hơi lạnh ấy thấu tận cõi lòng. Từ trước tới giờ, chẳng bao giờ nàng bị lạnh thận. Nàng cũng chẳng biết dích xác hai quả thận ở chỗ nào, hình dáng ra sao. Mà hiện giờ nàng lạnh thận. Thận lạnh buốt. Và chẳng riêng gì thận, ruột gan gì cũng lạnh buốt.

          Nora cố túm vạt áo phủ đầu gối, nhưng vô ích. Nàng sợ ngồi trên giường. Nàng run lập cập, răng đánh bò cạp.

          Ngoài sâu, trời nóng, nhưng không ích lợi gì cho nàng, trong khi nàng run en phát rét như ở giữa mùa đông. Muốn được ấm áp một chút, nàng ngồi chồm hổm co rút giữa sà lim. Lúc ấy, nàng thấy muốn tiểu tiện. Và muốn đi liền. Như cả trăm mũi kim đâm vào bọng đái, nàng không thể nín được, không điều khiển cho cân lực tuân theo ý muốn được.

          Nàng nhớ có đọc trong tiểu thuyết: mỗi phòng giam đều có một chậu nhỏ để tiểu tiện. Nhưng trong phòng giam nầy chỉ có một cái giường, một cái bàn nhỏ và cửa sổ bao lưới sắt. Nàng đi lại cửa, giơ tay định đấm. Nàng tự nói thầm:" Chắc ho cho phép mình đi tiểu chớ !"

          Nhưng lúc ấy, nàng nhớ lại những lời nghiêm khắc của viên gác khám Đức: " Nếu đập cửa sẽ bị trừng phạt"
          Nàng tự nghĩ: " Ta phạm tội đấm cửa, trong khi ta không được phép!" Rồi nàng đi tới đi lui trong phòng.
          Nàng đứng trước của, giơ tay một lần nữa. Nhưng nàng không có can đảm đập cửa khi nhớ đến câu nghiêm khắc;" Nếu đập cửa, sẽ bị trừng phạt!"

          Trong khi câu ấy như còn văng vẳng trong tai, thình lình nàng cảm thấy cả thân mình như bị một luồng điện xẹt qua: đây là dấu hiệu báo nguy. Nàng thấy không thể làm chủ cơ thể được nữa. Nàng cảm thấy quần lồng bằng hàng mịn đâng ướt, rồi đến cái nịt vớ và vớ cũng ướt.

          Một cái gì ướt và ấm chảy dọc theo bắp vế, theo vớ tơi tận trong đôi giày.
          Eleonora cố rán sức để nín. Nhưng các thớ thịt, làn da, và tất cả thân thể không thuộc về nàng nữa, nàng không tự chủ được. Nàng ngồi xuống. Quần càng lúc càng ướt và càng ấm, thì nàng có cảm giác được thơ thới lạ thường, được giải thoát hoàn toàn, một cảm giác chưa bao giờ nàng có được, đã tràn ngập, cả cơ thể nàng. Mỗi cân nhục, mỗi lỗ chân lông, mỗi thớ thịt đều nới giãn ra . Cảm giác ấy còn mạnh hơn sự sướng thích, nó như sự khoái lạc. Mà còn hơn sự khoái lạc, nó như trạng thái " xuất thần". Nàng có cảm giác như mê ly tận đâu đâu, xuất thần khỏi trần tục. Tâm hồn nàng lâng lâng, bay liệng. Nàng như vượt ngoài thời gian: toàn thân nàng được giải thoát.

          Nàng thấy như đã tiểu tiện hằng giờ, không bao giờ dứt. Nhung khi nhìn thấy nền xi năng ướt đẫm chung quanh, nàng hoảng hốt. Nàng đứng dậy chạy trốn trong gốc xó. Đây là giờ phút thảm kịch nhứt trong đời nàng. nền xi năng ướt cả. Nhiều dòng nước tiểu tủa chảy cùng khắp, dưới giường, dưới bàn tới chân nàng.

          Eleonora biết mình vừa mới phạm một việc cấm. Nàng biết sẽ bị bắt gặp và bị trừng phạt nghiêm khắc. Giọng hăm dọa của viên gác khám còn văng vẳng bên tai nàng: Rồi sẽ bị trừng phạt!"

          Nàng muốn xé áo lau chùi chỗ ướt, nhưng vô ích. Nước nhiều quá mà áo hàng quá mỏng, nàng mặc quá ít, làm sao thấm cho ráo hết. Và giọng văng vẳng " Rồi sẽ bị trừng phạt ! Rồi sẽ bị trừng phạt!" lặp lại không ngừng bên tai nàng.

          Biết không làm sao giấu diếm, không làm sao tránh khỏi sự trừng phạt, cố tìm cách che dậy cũng vô ích, nàng lấy hai tay che mắt, hai bàn tay còn đeo bàn tay trắng mỏng như lưới nhện. Nàng tuyệt vọng, khóc òa....  
          -------------------------------------111-------------------------------

          Viên đội Goldsmith, giám đốc khám đường nói:
          ---Những chuyện xảy ra cho ông bà thật đáng tiếc. Tôi xin tạ lỗi và rất ân hận không được biết sớm trường hợp của ông bà.

          Một tuần lễ sau, từ ngày Train và Eleonora bị bắt, Traian nằm dài trên giường, không cử động được, vì trọn bảy ngày , không ăn không uống,

          Viên đội có chở theo xe, đồ đạc của hai vợ chồng Train . Y phục với Nora soạn đồ ra, mời hai người hút thuốc. Y ái ngại và nói:
          ---Sáng mai nầy ông bà sẽ được trả tự do. Tôi sẽ đích thân khiếm chỗ ở và lái xe đưa ông bà đến đó. Tôi thành thật hối tiếc chuyện xảy ra.

          Eleonora và Traian không nói lời nào.
          Viên đội bảo tên gác khám:
          ---Ông bà Traian đây không phải bị bắt. ÔNg bà bị giam lầm, và còn đây đến ngày mai, vì chưa có chỗ ở . Hai ông bà sẽ nghỉ tạm trong căn phòng nầy. Anh phải thay vải trải giường và mền cho sạch sẽ. Họ là khách của chúng ta, chỉ là khách mà thôi.

          Viên đội ra đi, nữa giờ sau trở lại, ôm một gói đầy đồ ăn và cam, bưởi cho Traian. Khi từ giã, y còn xin lỗi một lần nữa, bắt tay Traian, rồi mới ra về.

          Tên gác khám chứng kiến việc nầy, mở mắt to như đứng trước một chuyện kỳ lạ.

          Nora nói:
          ---Em biết rồi thế nào người Mỹ cũng đến xin loiix chúng ta. Mỹ quốc là nước của người văn minh mà!
          Traian bị nóng lạnh. Chàng ngủ liền. Ban đêm chàng chiêm bao thấy đang ở dưới tàu ngầm, và mấy con thỏ bạch đã chết ngộp đến con chót rồi. Chàng toát mồ hôi, thức dậy, áo ngủ ướt dầm, và nói:" Thỏ chết thì hết hy vọng"

          Trong giấc chiêm bao, chàng đã hết sức la hét, nhưng thủy thủ dưới tàu không chịu tin chàng....
          --------------------------------112---------------------------------

          Ngày sau viên đội Goldsmith không đến, Nora chờ suốt ngày, rồi nói:
          ---Bộ có chuyện gì cản trở, nên ông ta không tới được. Chắc thế nào ngày mai ông cũng dến!

          Tên gác khám cũng đồng ýnhuw vậy. Nhưng ngày mai, ngày mốt, cũng không thấy viên đội Goldsmith. Tuần lễ sau, có viên đội khác đến, nói:
          ---Tôi không biết chuyện của ông bà ra sao? Viên đội Goldsmith đã về Mỹ. Y không để lời dặn bảo gì về trường hợp của ông bà. Toi sẽ hỏi lại, và cho biết kết quả thứ hai tuần sau.
          Y ra về.

          Y là một gã thanh niên tóc đỏ, da mặt đầy dấu chấm hông hồng. Y không muốn nói tên y, dầu với người gác khám. Chữ ký của y không đọc được và xem y nóng tính lắm.

          Tuần sau y có đến khám đường, nhưng chỉ ở giây lát nơi phòng giấy.

          Khi vợ chồng Traian đến yết kiến, thì y đã đi rồi. Phải đợi thêm một tuần nữa. Lần nầy, viên đội quạu quọ nói với Traian.:
          ---Tôi có hỏi lịnh trên rồi. Ông với bà bị bắt cũng như mọi người. khong có điều khoản nào cho hưởng đặc ân.

          Xây qua người gác khám, y ra lịnh:
          ---Nhốt mỗi người trong sà lim riêng. Họ cũng theo chế độ chung như các tù khác. Tôi không bằng lòng có ngoại lệ trong khám đường.

          Người gác trố mắt to, như để xác nhận đã hiểu. Ông nói giọng run run:
          ---Tôi hiểu. Nhốt khám riêng. Chế độ chung. Không ngoại lệ.
          ------------------------------113-------------------------------------

          Nghe tiếng viên cai ngục đi ngoài hành lang, Nora ôm cổ Traian thổn thức nói:
          ---Người ta đến chia rẽ hai ta. Em thà chịu chết hơn là chịu bị nhốt trở lại một mình trong sà lim.

          Viên cai ngục đứng trước cửa, lắc xâu chìa khóa. Nora không ngó y. Nàng đã biết tại sao y đến. Và Train cũng vậy, nên chàng ngó y chăm bẳm. Chàng muốn van nài y nán thêm năm phút nữa. Nhưng nghĩ cũng vô ích, nên làm thinh

          Viên cai ngục nói:
          ---Mùa hè nầy, tôi sẽ bị sa thải. Tôi đã già quá rồi. Từng tuổi tôi, tôi không thể học được trò cút bắt, và tôi cũng không muốn nữa.

          Y ngừng một chút, rồi thu hết tàn lực, như lúc muốn cử một vật nặng, y nói:
          ---Ông với abf cứ ở chung như trước. Ở chung với nhau, và cửa mở rộng.
          Nora hỏi:
          ---Bộ viên đội Mỹ đã bãi bỏ lịnh rồi hả?
          ---" Không, viên đội không bãi bỏ lịnh đã đưa ra!" y trả lời, vừa đi, vừa lắc xâu chìa khóa. Cửa sà lim vẫn để mở rộng.  
          ---------------------------------------114-------------------------------

          Nora thất vọng hỏi:
          ---Quân đội Mỹ đâu có gì chống chúng ta. Tại sao họ giam chúng ta đã 6 tuần nay rồi?
          Traian đáp:
          ---Quân Mỹ không thù hằn gì chứng ta. Họ cũng không quan tâm đến đời sống chúng ta.
          ---Vậy phải bao lâu nữa họ mới biết được đã bắt và giam ta trong tù? Em không chịu đựng nổi nữa rồi !
          ---Họ không nhận chân được rằng chứng ta hiện hữu. Văn minh Tây phương trong giai đoạn tiến bộ chót nầy, không quan tâm đến cá nhân. Ta không hy vọng nào thấy họ sẽ lo nghĩ đến bao giờ. Cái xã hội ấy chỉ biết vài phần khuôn khổ giá trị con người thôi. Con người thật sự, xét từng cá nhân, không còn tồn tại với xã hội ấy. Em Nora, em bị ngồi tù dẫu rằng vô tội, và anh với mấy người khác nữa cũng vậy, chúng ta đều không hữu hiện đối với họ. Chỉ có thế thôi! Chúng ta chỉ là con số không. Chúng ta không có. Chứng ta hữu hiện chi vì ta là thành phần của một loại hạng. Thí dụ họ chỉ biết em đây là một nữ công dân nước nghịch, bị bắt tại địa phận Đức quốc. Đó là chỗ tối đa của các đặc điểm mà Xã hội kỹ thuật Tây phương có thể nhận xét về em. Dưới mắt họ, em chỉ có mấy đặc điểm đó mà thôi. Và cũng nhờ mấy đặc điểm ấy nên xã hội đó mới nhận ra được em, rồi nhân thế, đối xử với em như những người cùng nhóm em, theo phép nhơn, chia hoặc trừ của toán pháp. Em chỉ là một thành phần của xứ Roumanie. Thành phần ấy bị bắt. Lý do cuộc bắt bớ là phạm lỗi, hay trọng tội, thì thuộc chung cho cả loại hạng

          ---Tuy nhiên, người Mỹ cũng có một cớ để bắt ta chớ. Hoặc họ thù ta, hoặc họ nghi ngờ ta. Nếu không , thì họ thả ta rồi. Em khổ vì không rõ nguyên cớ nào bị bắt. Bởi phải có duyên cớ mới được!

          ---Có chớ sao không. Nhưng duyên cớ ấy trở nên vô lý khi xét theo phương diện nhân đạo, mà hoàn toàn hữu lý, theo phương diện máy móc. Tây phương nhìn con người bằng đôi mắt kỹ thuật. Con người bằng xương, bằng thịt, biết vui sướng, biết đau khổ đều không có nghĩa gì đối với họ. Vì thế, cái việc họ giam cầm ta, hoặc mai kia đem hành quyết ta, không thể xem là trọng tội, là sát nhân. Đối với người bằng xương bằng thịt, chuyện đó mới là trọng tội.
          Còn Xã hội Tây phương không thể biết được có đời sống con người, thì khi giam cầm hay giết chết một người, cái xã hội ấy không phải đã giam cầm hay giết một sinh vật mà chỉ giam giết một quan niệm thôi. Theo lý lẽ thì trọng tội không thể gán cho cái xã hội kỹ thuật ấy, vì chẳng có may móc nào bị buộc tội sát nhân cả. Và không ai có thể bắt buộc máy móc đối xử với con người như người được.

          ---Vậy thì duyên cớ chánh đáng và hoàn toàn theo phương điện kỹ thuật khiến cho người Mỹ giam cầm chúng ta là duyên cớ nào?

          ---" Anh không rõ. Anh chỉ biết rằng bất buộc con người tuân theo luật tắc và tiêu chuẩn kỹ thuật, là như cố ý sát nhân, vì các tiêu chuẩn kỹ thuật chỉ hoàn hảo đối với máy móc mà thôi. Bắt buộc con người sống theo điều kiện và hoàn cảnh của con cá, và làm ngược lại, thì người và cá sẽ chết trong vài giờ. Tây phương tạo một xã hội giống như cái máy. Họ bắt buộc con người sống trong cái xã hội ấy phải thích ứng theo luật lệ của máy móc. Một vài khi họ tưởng thành công. Nhưng sự thật, họ giết lần con người khi bắt buộc con người tuân theo những luật lệ đã chi phối xe hơi và chiếc đồng hồ.

          "Chỉ có máy móc, mới thật sự giống y với nhau. Chỉ có máy móc mới có thể thay đổi nhau từng bộ phận được, mới có thể tháo gỡ hoặc lược bỏ hết, để còn trơ mấy cơ quan trọng yếu, hay là vài cử động quan trọng mà thôi. Khi nào con người thật giống hệt máy móc đến trở thành máy móc, thì chừng đó con người không phải là con người nữa, chừng đó không có loài người trên quả địa cầu.

          Nora thở dài, Traian nói tiếp:
          ---" Em không hiện hữu, kể về nhân vị con người, còn nếu em muốn hiện hữu, thì đã bị biến thể và được nhìn với con mắt của máy móc.

          " Nhưng trong cái xã hội kỹ thuật nầy, cũng như ở các xã hội man rợ, con người không có một giá trị nào. Hoặc nếu có, thì giá trị ấy cũng không đáng kể. Vậy nói đúng ra, em không bị bắt"
          ---Chúng ta không bị bắt à?
          ---Kể như em và anh không bị bắt, chúng ta không bị bắt, dẫu rằng chúng ta đã ở sáu tuần trong khám. Vì đối với xã hội Tây phương, cá nhân ta không có. Vì thế, cá nhân ta không thể bị bắt và cũng không có bị bắt.
          ---Chuyện ấy không an ủi ta được. Chúng ta không bị bắt, song chúng ta đang ở tù.
          ---Cũng an ủi được lắm chớ! Đó là cái" có thể được" duy nhứt trong giờ phút quá muộn của lịch sử nầy.  
          #20
            Whatever 08.01.2011 06:16:08 (permalink)
            -------------------------------115----------------------------------------

            Viên gác khám bước vô sà lim của Traian, nói:
            ---Hôm nay, thế là hết! Ông hãy đọc tờ bố cáo nầy:
            " Tỉnh Thuringe và thành phố Weimar đã nhượng cho Nga Sô. Đội tiền phong Nga đã vô thành phố. Cả đoàn xe cam nhông chở đầy lính đã tới trong đêm rồi. Lính Mỹ đều rút ra khỏi thành. Họ còn giữ dinh hành chánh, khám đường và vài căn nhà, không ai được phép đi đâu. Thành phố bị hiến binh vây giữ"

            Nora đọc lời bố cáo đăng trong báo. Nàng ngó Traian và viên gác khám đang đứng dựa cửa, rồi nói:
            ---Chừng giao khám đường, chắc chúng ta cũng sẽ bị giao luôn cho quân nga.

            Viên gác khám đáp:
            ---Tôi cũng sợ như vậy. Quân Nga sẽ đến đây nhận lãnh khám đường sang nay, hoặc trưa, hay trễ lắm là chiều, chưa biết đích xavs giờ nào!

            Traian ôm đầu suy nghĩ, rồi lẩm bẩm ôn lại:" Chạy trốn. Hai trăm cây số ngàn, Nga sô. Kinh khủng. Hãm hiếp. Xứ Sibérie. Hai chân của Nora sưng vù và đầy vết tích. Các ủy viên chính trị. Bị giao nộp một lượt với sà lim và khám đường, như kẻ vô tội bị xiềng xích" Chàng nói:
            ---Bây giờ chỉ nên lo việc chính thôi, vì ngày giờ cấp bách đến rồi! Đừng giấu giếm gì nữa. Ông gác khám có thể nge tôi nói chuyện. Tôi biết quân Mỹ sắp giao cho quân Nga tất cả chúng ta bị giam nhốt trong sà lim. Thật là sát nhân! Nhưng đứng về phương diện của họ, thì họ vô tội, Họ cũng ngây ngô như đầu xe lửa, cán người trên đường rầy, mà vẫn thản nhiên, lại dường như mỉm cười. Người Tây phương đã thu hẹp tội ác còn có một chiều. Họ giảm bớt tối thiểu đến cực độ. Tôi có thể nói với họ gần như không biết đến tội ác nữa. Vì thế, họ không có tội. Nền văn minh của họ mới là thủ phạm thôi. Nhưng điều ấy không quan hệ trong giờ phút nầy. Tôi nhắc lại để đừng ai còn ảo vọng. Trong vài giờ nữa, chúng ta sắp bị giao cho quân Nga, nghĩa là những quân tàn bạo hơn hết, chúng đã hành động trên khắp mặt đất nầy, nhờ có một cơ cấu quốc gia. Và nếu tôi còn chịu đựng nổi, tôi sẽ là " người máy móc" bị thu hẹp trong công việc của người máy, thì tôi cũng không bao giờ đương đầu nổi . Vậy trước khi bị giao cho quân Nga, tôi sẽ tìm hết cách để vượt ngục, và nếu tôi không thành công, tôi sẽ tự tử.

            Traian day qua viên gác khám hỏi:
            ---Ông giúp chúng tôi vượt ngục không ?
            ---Tôi sẽ làm hết sức tôi. Tôi cũng muốn đi khỏi nơi đây. Tôi là dân xứ Autriche. Tôi sẽ trở về nhà tôi tại thành Vienne. Song tôi sẽ đi sau.
            Nora hỏi:
            ---Còn em, em sẽ trở nên thế nào? Em không thể vượt ngục được, em sợ lắm! Tốt hơn, anh bắn chết em trước!
            Traian đáp:
            ---Ta sẽ cùng chết với nhau!
            Viên gác khám khuyên:
            ---Tốt hơn nên trốn thử xem sao. Đâu có khó khăn gì. tường đã sụp đổ vì bom đạn. Chỉ cần ra được tới sân, còn bao nhiêu khác là chuyện trẻ con.
             

            --------------------------116------------------

            Nora nói:
            ---Em không có can đảm xuống dây từ lầu thứ ba. Anh là đàn ông, anh làm được. Còn em, em sợ lắm !
            Traian đang nối vải trải giường với mền để làm một sợi dây. Chàng nói:
            ---Đừng sợ chi hết. Em khỏi cần almf việc gì. Anh cột em, rồi thòng dây xuống, theo của sổ. Tới sân, em cứ đi nép theo vách tường, và chờ anh, gần cái cây mà anh đã chỉ đó.

            Nora nắm đầu dây, trong lúc Traian lo nối thêm. Nàng buông sợi dây, nói:
            ---Em không thể trốn. Khi anh thòng dây thả em xuống, em cứ tưởng tượng người ta bắn em. Và chỉ nghĩ đến việc ấy, là em ngất lịm đi. Anh không tưởng tượng họ sẽ bắn em trong lúc em xuống dây sao?
            ---Có thể lắm, nhưng cứ liều thử coi. Biết đâu họ không bắn. Dầu sao, hành động như thế, ta còn có hy vọng được cứu thoát hơn là ta tự bắn ngay liền

            Nora hỏi:
            ---Và nếu ta ở với quân Nga ? Không chừng họ không quá tàn bạo như người ta nói. Dưới chế độ cộng sản cũng có người vậy. Họ sống được, có lẽ mình cũng sống được chớ ?
            ---" Em nói có lý. Trong vùng cộng sản cũng có người. Và có lẽ đời sống của họ không khắc khổ gì hơn đời sống của người Tây phương.
            " Không có quan điểm nào khách quan để vịn vào đó mà phán đoán đúng được. Không có sự thật nào khách quan cả. Chuyện nào cũng chủ quan.
            " Phần anh, anh chẳng khi nào chịu sống trong thiên đàng cộng sản. Sự ngoan cố của anh có lẽ hơi vô lý, nhưng theo quan niệm riêng của anh, thì nó lại đúng lý.

            " Và đối với từng cá nhân, chỉ có những chuyện nào hạp với ý riêng mình, mình mới cho là phải.
            " Nên riêng phần anh, anh không muốn lọt vào tay những tên " hung bạo cơ giới hóa" Nga sô.
            " Có lẽ anh điên rồ.
            " Anh không thiết sống. Anh có thể từ bỏ nó bất cứ lúc nào.

            " Nhưng nếu anh không chết, thì anh phải sống theo điều kiện nào thích hợp cho anh. Người ta sẽ thất công vô ích để giải thích rằng lối quan niệm về cuộc sống của anh không hay. Anh chấp nhận tất cả lý thuyết. Nhưng anh không bằng lòng ai chỉ dạy cách sống cho anh, cách sống họ tưởng là hay nhứt và bắt buộc anh phải theo. Đời anh là của anh. Đời anh không phải của mấy nông nghiệp sản xuất hợp tác xã, mấy đoàn thể cộng đồng, mấy ủy viên chánh trị. Vậy anh có quyền sống theo sở thích anh. Nếu anh muốn, anh có thể bắt chước sống theo đời sống của một ủy viên chánh trị. Nhưng anh lại không muốn. Và nếu anh có hành động như thế nào, không ai có quyền chỉ trích hoặc phê bình anh hành động phải hay quấy.

            " Anh trọn quyền sử dụng đời sống của anh, và anh cự tuyệt cách sống theo lối cộng sản.
            " VÌ thế anh mới định tự sát"

            Nora khóc òa. Traian tiếp tục nối dây. Nàng cầm chặt mối kia. Chàng bảo Nora:
            ---Em ra xem coi lính Mỹ rời khỏi tháp canh trong sân chưa?
            Nora xuống hành lang, chạy đến cửa khám dòm mấy tháp canh coi quân Nga đã tới chưa. Traian dặn:
            ---Phải dòm chừng mỗi năm phút. Cơ hội thuận tiện nhứt là lúc lính Nga đến thay lính Mỹ. Qua cơ hội đó thì trễ mất rồi.

            Hia vợ chồng lo nối dây trọn buổi sớm mai. Họ nhóng thử coi dây dài và chắc hay không. Cách năm phút, thì một người đi dòm chừng tháp canh, và trở vô, vẫn nói:
            ---Còn lính Mỹ hoài!
            Cả hai đều vui mừng vì lầm tưởng hễ còn lính Mỹ tại tháp canh trong khám, thì chưa hẳn tuyệt vọng.
            --------------------------------------117----------------------------

            Sáu giờ chiều, Traian và Nora bị lùa ra khỏi sà lim, dẫn lên xe cam nhông Mỹ với các tù binh khác.
            Traian xanh mặt, còn Nora thì khóc. Train nói:
            ---Họ đem ta đến một chỗ khác để giao cho quân Nga. Xe chạy về hướng đông.

            Đường lộ thành phố Weimar đầy binh lính và quân xa Nga.
            Traian hỏi Nora:
            ---Em muốn chúng ta nhảy xuống xe không? Chắc chắn họ chở chúng ta đến một khám đường Nga.

            Xe chạy ra khỏi châu thành. Nora ngó mấy cánh đồng xanh, rồi ngó mặt trời. Nàng thấy chắc chắn là xe chạy về hướng đông
            Traian nói:
            ---Xe gần tới một đám rừng. Em cứ nhảy trước, trốn trong bụi rậm chờ anh. Anh nhảy theo sau em liền.
            Nora khóc
            Chàng hối:
            ---Sửa soạn đi!
            Nora nói:
            ---Để lát nữa! Bây giờ em sợ quá!
            ---Không còn cơ hội nào tốt như vầy nữa đâu. Kìa mấy bụi rậm bên lề đường, dễ trốn lắm! Em không muốn nhảy sao? Xe chạy chậm rồi đó !
            Chàng nắm tay Nora, nhưng nàng níu chặt băng ngồi, co quắp mấy ngón tay, và nói:
            ---Không. Anh muốn thì cứ nhảy đi! Em thề không oán giận anh đây, nếu anh có bỏ em lại đây để trốn thoát một mình.

            Traian ngồi xuống gần bên nàng, nhắm mắt lại để đừng trông thấy đám rừng có bụi rậm dễ trốn, và đừng tiếc rẻ cơ hội bỏ lở nầy.
            Lúc chàng mở mắt ra, mặt trời đã ở ngay trước mặt, làm chóa mắt chàng.
            Xe chạy về hướng Tây. Traian hớn hở nắm tay Nora nói:
            ---Người Mỹ kể cũng tử tế đấy! Họ không giao chúng ta cho quân Nga !
            ---Vậy họ chở ta đi đâu?
            TRaian sầm nét mặt, hổ thẹn nói:
            ---" Tới một khám đường Mỹ. Em đừng giận anh sao lại hân hoan quá thế. Phải điên rồ lắm mới vui mừng khi bị giam ở khám đường nầy hơn là ở khám đường khác.

            " Nhưng, đây là đến giai đoạn chót của con người ở Âu châu. Họ chỉ có thể lựa chọn giữa hai ngục thất."
             
            -------------------------------118-----------------------------

            Viên sĩ quan cười thân mật hỏi:
            ---Phải anh là Iohann Moritz không? Thiếu tá Đô trưởng muốn nghe chính anh thuật chuyện vượt ngục. Có phải anh đã cứu năm lính pháp trốn khỏi trại giam không?

            Moritz hớn hở đỏ mặt.
            Anh không ngờ các sĩ quan Mỹ đem xe đến chở anh đi thuật lại chiến công của anh. " Cho đến Thiếu tá Đô trưởng cũng nghe đến tên mình nữa !" anh nghĩ thầm như thế, và thấy hân hoan thích thú hơn lúc nào hết.
            ---Phải, tôi là Moritz đây !
            Sĩ quan nói:
            ---Tôi có xe, anh đi với tôi.
            Moritz muốn mặc áo ngoài, mang vớ, vì anh chỉ mặc áo sơ mi, quần dài, mang giày mà không có vớ. Nhưng viên sĩ quan hối thúc:
            ---Đi như vậy cũng được mà, Thiếu tá đang chờ. Chừng nữa giờ, anh trở về, tôi sẽ chở xe cho.

            Hai người lên xe Jeep. Moritz định sẽ thuật hết câu chuyện cho Thiếu tá nghe, chẳng thêm bớt gì. Anh bắt đầu lựa chọn trước câu nói. Anh vui sướng nghĩ tới nết mặt Thiếu tá và thấy như đang ngồi trước mặt ông, tường thuật vụ vượt ngục.
            Xe ngừng trước một nhà đá. Viên sĩ quan day qua Moritz, nói:
            --- Anh ở lại đây !

            Moritz leo xuống xe, và tiếc sao viên sĩ quan không theo mình, để mình thuật chuyện mạnh bạo hơn. Nhưng xe đã chạy. Tên lính gác của đưa Moritz vô sân. Hai lính Đức tới dẫn anh đi. Moritz ngó chung quanh, không hiểu sao Thiếu tá Đô trưởng lại ở cái nhà xấu tệ như vậy. Nhưng anh không dám hỏi.

            Vô trong, thấy cửa sổ nào cũng có song sắt như nhà tù, anh hỏi:
            ---Phải Thiếu tá Đô trưởng ở đây không?
            Hai cảnh binh phá cười rộ lên. Họ không thể nín nữa được. Họ nhốt anh dưới hầm, trong sà lim tối thui, khóa hai vòng, mà còn cười về câu hỏi của tên tù.
            ------------------------------119----------------------------

            Bà mục sư Corina Koruga bị đòi đến thị sảnh. Đã nữa đêm, khi hai thôn dân mang dây băng ba màu đến gõ cửa và ra lịnh biểu bà đi. Ngoài trời, trăng sáng làu làu. Bà mục sư khóa cửa cẩn thận, và cầm chìa khóa trong tay.

            Tại thị sảnh đã có hơn mười lính Nga đang ăn uống giễu cợt với dân làng. Bà mục sư ngó xuống, thầm đọc kinh cầu Thánh Nicolas.

            Bọn lính ép bà uống rượu. Nhưng bà vẫn đọc kinh, không ngó ai và cũng không đụng môi vô ly rượu. Một tên lính đổ rượu vô áo bà. Đứa khác lật váy bà lên, và tạt rượu vô mình bà. Nhưng bà không nghe, không thấy gì cả, cứ nhắm mắt đọc kinh cầu Thánh Nicolas, vị Thánh giống phưởng phất như mục sư Koruga, chồng bà. Bọn lính Nga và dân làng lại đổ rượu lên đầu, vô áo sơ mi, vô váy, trong mình bà. Bà ướt mèm. Chúng lại vật bà nằm dài trên ván rầm. Bà thấy toàn thân bà bị ướt đầm như khi bà té xuóng nước. Rồi bà cảm thấy như bị chìm đắm và chết đuối. Thánh Nicolas thì đứng trên bờ cầu nguyện cho bà.

            Sáng lại, sau vụ xảy ra ở thị sảnh, bà Corina, vợ mục sư Koruga, treo cổ tự tử trong chuồng gà.
            --------------------------------120-----------------------------

            Đêm đầu tiên của Nora ở trại giam Ohrdruf. Nàng nghĩ thầm:" Không lý nào họ giam ta vô cớ?". Nàng nằm dài, không mền, không nệm, trên ván lót giường. Xương hông, cùi chỏ nàng đau điếng.
            Khi tới trại thì trời tối hẳn. Xe cam nhông chở hai vợ chồng Nora từ khám đường Weimar. Đến đây, Nora bị nhốt vào trại giam, còn Traian thì bị chở đi nơi khác.

            Trại giam đàn bà bằng nhà cây. Phòng Nora có gần ba mươi người; trời tối, nàng không thấy rõ gương mặt họ, hình như họ còn trẻ lắm.
            Nora nằm trên giường cây, khóc thầm, rồi ngủ quên.

            Một tiếng cười khút khít trong góc phòng làm nàng giựt mình thức giấc. Nàng nghĩ:" Chắc đã nữa đêm rồi! Đàn bà nào bị nhốt ở đây nhiều vậy kìa?" Nàng nghe như giọng cười của đàn ông. Nhưng trại giam đàn bà không thể nào có đàn ông được. Nàng lắng tai nghe, và rõ ràng là tiếng của một người đàn ông thật. Y không cười nữa, nhưng Nora nghe rõ họ dang tình tự với nhau.

            Có tiếng đàn ông cười nữa, nhưng ở một góc khác. Nora hoảng sợ. Nàng nghĩ thầm:" Họ tình tự với nhau, sao mình lại sợ mấy người đàn ông ấy?" Nhưng nàng không trấn tĩnh được, vọi bịt lỗ tai, không nghe gì hết. Và tuy nhắm mắt, nàng vẫn cũng thấy. Tấm ván giường rung rinh. Nàng mở mắt thấy cửa sổ mở bét. Nhiều người đàn ông vô phòng, đứng giữa nhà, nói chuyện với nhau. Một người đàn bà mặc áo sơ mi, đứng kề bên.

            Nora không kềm chế được, nhắm mắt lại, la hoảng hốt lên. Lúc đầu nàng cũng không biết tại sao nàng vụt la lên. Bây giờ nàng vẫn tiếp tục la vì nàng sợ đàn ông và đàn bà trong phòng. Họ sẽ không đánh đập nàng tại sao la và làm cản trở cuộc tình tự của họ.

            Nàng suy nghĩ:" Thật ngu dại làm sao? Phải mình đừng la. Bây giờ , họ có ráp lại đánh chết mình, cũng phải chịu. Họ có lý để giết mình, vì mình đã la !"

            Mấy gã đàn ông vội vàng chạy trốn khỏi phòng. Họ đông lắm. Nhiều người nằm dài dưới đất mà Nora không nghe biết. Có gã nằm chung giường với người đàn bà, kế bên giường nàng, mà nàng cũng không nghe biết nữa. Họ đi ra khỏi phòng như mấy bóng ma, to lớn, đen ngòm, đen hơn trời tối.
            Vài người đàn bà đi với họ, nhưng rồi lại trở vô, đi nhón gót về chỗ ngủ.

            Phòng im lặng. Ai nấy đều về chỗ nằm, chỉ còn lại hai ngườI đứng giữa nhà, trong tối. Họ mặc áo sơ mi ngắn. Bóng dáng họ xem đẫy đà to lớn. Họ cũng không nói chuyện, chỉ đứng khít vào nhau. Nora nghe họ nhai chocolat.

            Nora chờ họ đi ngủ. Nàng sợ họ đánh hoặc giết nàng trong lúc nàng ngủ. Nhưng họ đứng yên, tiếp tục nhai chocolat, không nói chuyện gì hết.
            Một người hỏi nho nhỏ:
            ---Ai la hồi nãy đó? Phải con mẹ ngoại quốc, tóc hung hung, mới vô hối tối không ?
            Có tiếng trả lời:
            ---Không biết. Nhưng tôi cũng không tiếc, vì nàng đã la. Tôi mới vừa xong với gã của tôi, và không muốn tái lại...

            Họ ăn chocolat, và không nói chuyện với nhau nữa. Nora dòm từng cử chỉ của họ. Sau rốt, họ chia tay nhau, mỗi người đi lại một góc, lên giường nằm. Ván giường kêu cót két. Rồi hoàn toàn im lặng.

            Nhưng Nora ngộp thở. Nàng không thể ngủ được. Chẳng còn gã đàn ông nào trong phòng. Đàn bà đều ngủ hết nhưng không khí hôi ngấy mùi rượu, mùi mồ hôi, mùi đàn ông tình tự. Cửa sổ mở rộng, song không đuổi hết các mùi ấy ra được.

            Nora bực tức nói thầm:" Phải có duyên cớ gì mới bắt mình chứ, nếu không , họ đâu có nhốt mình ở đây!"
            Nàng muốn ho, song lấy tay bụm miệng, nín lại, nàng sợ mấy người đàn bà kia đánh nàng.....
            #21
              Whatever 08.01.2011 06:17:48 (permalink)
              ---------------------------121----------------------------

              Buổi sáng đầu tiên của Traian trong trại giam Ohrdruf. Vừa mở mắt , chàng thấy Moritz. Bắt tay Moritz, chàng hỏi:
              ---Ta ngủ gần nhau suốt đêm mà không biết chớ. Sao anh lại ở đây?
              Moritz bèn thuật chuyện của anh, khởi đầu từ đoạn cuối. Anh nói chuyện viên sĩ quan Mỹ đến chở anh đi, để tường thuật việc vượt ngục cho Thiếu tá nghe, và nói:
              ---Thay vì dẫn tôi đến chỗ Thiếu tá Đô trưởng, họ bỏ tù tôi! Tôi bị nhốt tám tuần trong xà lim không cửa sổ, không ánh sáng. Tôi mãi trông chờ Thiếu tá cho gọi, nhưng ông không gọi tôi. Và bây giờ, họ đem tôi đến đây. Thế thôi !.
              Thuất dứt câu chuyện, anh day lại hỏi Traian:
              ---Còn ông, Sao ông lại ở đây?
              Traian rùn vai.

              Bọn tù nằm ngủ la liệt dưới đất, lần lượt thức dậy từng người. Trại giam Ohrdruf chỉ là một cánh đồng bằng, rào dây kẽm gai. Mười lăm ngàn tù nhân bị nhốt nơi đây. Một cánh đồng trơ trọi, chỉ có trời, đất và người. Bốn gốc rào có quân binh, súng máy cầm tay, đứng gần xe tăng canh gác trại giam.
              Moritz hỏi:
              ---Ông có tin tức gì của làng Fantana không ? Tôi không tưởng tượng được sao ông lại ở đây. Làm sao chúng ta lại gặp nhau ở chốn nầy? Và trọn đêm nay ta ngủ gần kề nhau? Thật tôi không thể nào hiểu nổi...
              ----------------------------122---------------------------------

              Viên sĩ quan cai quản trại giam là một người Do Thái. Eleonora mừng thầm nói:
              ---"Một người Do thái ắt hiểu rõ nỗi thống khổ của ta hơn. Người chắc sẽ giúp ta như một thân quyến. Người sẽ đem ta ra khỏi chốn nầy" Nàng quyết định sẽ thuật lại cặn kẽ đời nàng, van xin, khẩn cầu viên sĩ quan cứu vớt nàng như nói với một người anh ruột.

              Trên vách phòng làm việc của viên cai trại treo đầy hình ảnh chụp trong các trại giam Đức. Nora đứng xem. Bức ảnh nào cũng to lớn bằng cỡ vách tường, chụp cảnh người chết chóc, kẻ treo cổ, kẻ đói khát; cảnh đoàn tội nhân mặc bộ đồ sọc rằn của nhà tù; cảnh thây chất thành đống, những cột xử giảo sắp dài, cả dọc xe cam nhông đầy nhóc thây đàn bà.

              Nora quên phứt mình đang ở đâu. Nàng tưởng như ở trong trại diệt trừ Do thái của Đức quốc xã.

              Nàng ngó Trung úy có bộ tóc hoe đỏ, ngồi ở bàn viết. Nàng đưa mắt van lơn như cầu khẩn để được cứu khỏi bị diệt trừ, bị chết đói, bị bỏ vào phòng hơi ngạt, hoặc bị tra tấn. " Tôi đây là Do thái cũng như ông! Xin cứu tôi với!" Không bao giờ nàng cảm thấy nàng là Do thái hơn lúc nầy. Nàng kêu:
              ---Trung úy!
              Tiếng nàng run rẩy. Cổ nghẹn ngào. Nước mắt chặn ngang cổ họng, nàng không nói ra lời.
              Viên sĩ quan xẳng xớm quát to.:
              ---Mầy không được nói, trước khi tao hỏi.
              Nora cắn môi hối hận, làm thinh chờ.
              Viên sĩ quan đọc, mà không ngó nàng, rồi nghiêm nghị hỏi:
              ---Mầy tên Eleonora West Koruga hả ? Có phải mầy không? chồng mầy cũng bị bắt phải không?
              Y xưng hô mầy tao với nàng. Giọng nói không chút gì thương hại, thân mật như giọng của một người anh. Y hỏi tiếp:
              ---Chồng mầy là nhân viên của nhà độc tài Antonesco?
              Nora đáp:
              ---Chồng tôi là viên chức của vương quốc Roumanie.
              Sĩ quan đỏ mặt, giận dữ. Da mặt mét chằng và đầy tàn nhang của y đỏ phừng lên. Môi run run, y hỏi:
              ---Ở Roumanie, có nhiều cuộc hanhd sát Do thái rùng rợn phải không?
              Nora chưa kịp trả lời. Y hỏi tiếp:
              ---Ở Roumanie có nhiều trại giam Do thái phải không? Có nhiều trại mà dân Do thái bị diệt trừ tàn nhẫn bằng hơi độc, bị xử giảo, chặt đầu, bắn chết....
              Trung úy đứng dậy.
              Nora muốn nói nàng cũng là Do thái. Nàng bắt buộc phải tráo giấy tờ, trốn tránh, phập phòng lo sợ mỗi đêm. Nhưng viên sĩ quan đến gần nàng, giơ tay lên, hỏi to:
              ---Trả lời cho tao nghe coi !
              Nora thấy chắc sẽ bị đánh vào mặt. Nàng nhắm mắt run rẩy chờ đợi và không dám nói một tiếng nào,
              Viên sĩ quan càng hét to:
              ---Trả lời mau coi, quân giết người ! Mầy đã giết bao nhiêu đàn bà Do thái rồi? Nói mau. Mầy cứ làm thinh, tao xé xác mầy ra! Tự tay mầy đã giết mấy người Do thái rồi.
              Nàng vẫn im lặng
              ---Mầy không muốn nói à! Bây giờ mầy sợ. Hiện giờ mầy run sợ, mầy són đái trong quần. Nhưng lúc giết người, mầy đâu có sợ!
              Nora ấp úng:
              ---Tôi đây, tôi cũng...
              ---Ra khỏi chốn nầy, đồ khốn, Đi ra !
              Y quát to, hằm hằm cung tay lên trước mắt Nora. Nàng lật đật bước mau ra khỏi phòng.
               
              --------------------------------123----------------------------

              Traian đang viết. Moritz ngồi kề bên, nhìn cách ông cầm viết chì, mấy ngón tay khít khao, và cách ông gò gẫm viết chữ, như khi ông xỏ hột ngọc trai .
              Moritz không kiên nhẫn ngồi viết, và cũng không ưa viết. Nhưng anh có thể ngồi hàng giờ xem Traian viết, mà không chán.
              Moritz nghĩ thầm: " Lúc ông Traian ngồi viết giống như lúc ông đọc kinh trước tượng Thánh. Nhìn ông người ta có thể quên ông là tù nhơn, không còn thấy ông đi chân không, đầu cạo trọc, quần lủng nhiều lỗ. Lúc ngồi viết, ông Traian là một " Thánh nhân" Người ta kính cẩn muốn dỡ nón và hạ thấp giọng"

              Traian ngừng viết, hỏi:
              ---Anh có nghe nói đến người dụ rắn không?
              ---Có !
              ---" Thánh Saint Daniel ở trong hang sư tử mà sư tử không ăn thịt thánh. Thánh chế ngự được chúng nó. Con người có thể dụ rắn và chế ngự sư tử. Mussolini có nuôi hai con cọp trong phòng làm việc. Ông tập nó hiền như thú nhà. Con người có thể thuần phục được thú dữ. "Nhưng, gần đây mới xuất hiện trên quả địa cầu một loại thú mới. Loại thú ấy mang danh là " Công Dân". Nó không sinh sống trong rừng rậm, như các giống khác, mà ở tại văn phòng, song chúng nó lại hung tợn hơn thú dữ. Chúng nó là kết quả của giống người pha với máy móc, một giống thú khác thường. Ngày nay chúng có thế lực mạnh nhứt trên khắp hoàn cầu. Diện mạo chúng nó giống người, và thường khi người ta lầm lẫn nó với người. Nhưng liền khi ấy , người ta nhận ra tính tình cư xử của nó không giống như người ta mà giống như máy móc. Thay vì một tấm lòng, nó là cái máy do thì giờ chính xác. Đầu óc chúng nó là máy móc. Nó thì không phải máy móc mà cũng không phải con người. Ý muốn của chúng là ý muốn của thú dữ. Đó là những " Công Dân"..., một tạp chủng của kỳ dị. Chúng nó tràn chiếm khắp thế giới"

              Moritz cố tưởng tượng thế nào là " Công Dân", mà cũng không tìm hiểu được. Anh có nghĩ đến Marcou Goldenberg trong giây lát, nhưng Traian nói tiếp, làm anh quên mất hình ảnh Marcou.
              ---" Tôi là văn sĩ. Theo tôi, nhà văn là một thuyết phục gia. Nhà văn chỉ rõ cho loài người cái đẹp, tức là " Sự Thật" thì họ sẽ thuần hóa. Còn tôi, tôi lại muốn thuần phục các " Công Dân". Tôi khởi viết một quyển sách, đã được tới chương năm. kế bị " Công Dân" đến bắt đem giam, nên tôi khong thể viết tiếp. Chương thứ năm chưa khởi sự.

              " Bây giờ, hết còn lý lẽ để viết tiếp, vì tôi không xuất bản nữa được. Vậy để thế cho chương năm, tôi muốn viết về những gì để chế ngự " Công Dân".

              Nếu thành công, tôi sẽ chết được yên lành. Để tôi đọc cho anh nghe những gì tôi viết. Không phải một cuốn tiểu thuyết, cũng không phải một vở kịch. " Công Dân" không ưa thích văn chương. Muốn thuần dưỡng được chúng, chỉ viết loại văn chúng ưa thích. Tôi sẽ viết loại " đơn Thỉnh Nguyện". " Công Dân không có giờ dư để đọc tiểu thuyết, kịch hoạc bi kịch. Chúng nó chỉ đọc" Đơn Thỉnh Nguyện".
               

              ---------------------------124---------------------------

              Đơn thỉnh nguyện số 1._ Vấn đề kinh tế ( chất mỡ ),
              Tôi sẽ gởi nhiều đơn thỉnh nguyện cho các người. Đơn khởi đầu nầy bàn về vấn đề kinh tế. Tôi biết nền văn minh kỹ thuật lập trên nền tảng vật chất. Kinh tế là thánh kinh của các người.
              Tôi là văn sĩ, và mỗi văn sĩ là một người chứng. Đức tính của một nhân chứng là phải vô tư.
              Vì thế, những đơn thỉnh nguyện của tôi đều là những chứng cứ của " Sự thật"

              Vấn đề tôi giải thích nơi đây, theo tôi, thật quan trọng: Chất mỡ.
              Các người tất hiểu rõ tình trạng thiếu thốn chất mỡ trên Thế giới hiện nay. Khi tôi đến trại giam nầy, bọn tù đang nằm ngủ dưới đất, nằm khít nhau. Tôi khó khăn lắm mới kiếm được chỗ nằm. Tôi vừa ra khỏi khám và mệt mỏi. Cánh đồng bao quanh trại giam rộng minh mông. Tôi không hiểu tại sao các người thâu hẹp trại giam đến đường nầy !

              Mười lăm ngàn người trong trại , thường chật khít đeo. Lúc họ đứng, thì còn có chỗ , nhưng lúc nằm, thì chỗ quá hẹp, họ gần như chồng chất lẫn nhau. Phần tôi trọn đêm, tôi không ngay chân được. Mấy người nằm chung quanh tôi , gác cẳng lên đầu tôi. Chân họ nóng và họ gác lên mình tôi suốt đêm, nên tôi không thấy lạnh.

              Bây giờ tôi mới hiểu được tại sao các người thâu hẹp trại giam: vì bọn tù đạp chết cỏ, mà các người muốn tiết kiệm cỏ mọc trên cánh đồng. Cỏ cũng đắt tiền, đứng giẵm lên cỏ như thế thật tổn hại, uổng phí vô ích. Tốt hơn nên để cho bò cái ăn, vì bò cái cho sữa, còn bọn tù thì có cho được gì đâu ?.

              Mặt khác nếu nới rộng trại giam, các người phải dùng nhiều dây kẽm gai. Dây kẽm gai thì đắt, mà tổn phí thêm, cốt để cho bọn tù có rộng chỗ để nằm ngay thẳng, nhắm không cần ích gì.

              Thêm nữa, gặp cảnh đông thiên lạnh lẽo và mùa mưa sắp đến, phần đông bọn tù sẽ chết. Cũng có bọn chịu không nổi chết lần hồi, tụi còn sống tha hồ có chỗ rộng rãi mà nằm duỗi chân. Tôi tin rằng khi dựng trại giam nầy, các người đã dự liệu khoản ấy. Tôi không còn biết cách nào hơn là nghiêng mình bái phục trước sự dự tính xác đáng rất khoa học của các người.

              Trước khi đi ngủ, tôi có nghe đọc một bài thuyết trình. Diển giả, tự cho cho là giáo sư Đại học đường Berlin, nói về vấn đề: Chất mỡ. Và chính do đề tài của bài thuyết trình ấy mà tôi đem ra thảo luận với các người trong bản thỉnh nguyện nầy.

              Mỗi ngày, giáo sư đếm mấy hột đậu trong cháo phát cho chúng tôi ăn trong trại giam. ÔNg đếm trọn 30 ngày liên tiếp, trưa và chiều, những hột đậu trong cháo của khẩu phần ông. Ông cộng lại và lấy số trung bình. Rồi ông quả quyết : một tù nhân được mỗi ngày mười hột đậu, trong hai buổi cháo. Mấy viên công sự viên của ông cũng đếm hột đậu trong gà mên cháo của họ và nhìn nhận bài toán trúng.

              Kế đó, giáo sư đếm vỏ khoai lang tây và ước phỏng số lượng chất bột đựng trong cháo. Bài tính nầy cố nhiên là tính phỏng chừng vì giáo sư không được phép vô nhà bếp.

              Các người đều biết như tôi, rằng dân Đức rất sành về sự cân lường lắm. Nên ta được phép giả thiết rằng các hột đậu được đếm rất đúng. Dân Đức nhẫn nại và thân trọng. Sau 3 ngày làm việc tỉ mỉ cẩn thận, giáo sư hoàn thành công trình khảo cứu, rồi mới đem ra thuyết trình và được tất cả cử tọa thẩm định về chân giá trị xác đáng của nó. Dân Đức thích nghe diễn thuyết về đề tài khác nhau. Thói quen cổ truyền ấy có từ đời Trung Cổ. Thuật xong việc lượt cháo trong rây để đếm hột đậu mõi ngày, giáo sư cho biết số nhiệt lượng chứa trong một hột đậu. Tôi không nhớ rõ con số. Rồi ông tính số nhiệt lượng trong 10 hột đậu, cộng với số nhiệt lượng trong khoai lang và bột mà bọn tù chẳng bao giờ tháy, nhưng giáo sư đã nhìn nhận là có. Rồi ông kết luận, mỗi ngày một tù nhân được trung bình 500 nhiệt lượng. Một hai khi, họ được ít hơn. Có bữa, chính giáo sư không thấy hột đậu nào trong cháo,- và mấy ngày ấy, ông không có gì để đếm. Nhưng cũng có mấy ngày khác, ông đếm được dến 15 hột, và có khi đến 18 hột đậu. Như thế, số trung bình 10 hột đậu là đúng!

              Bọn tù không ngủ trọn ngày; tuy nhiên, giáo sư cũng làm toán kể như tù nhân, trong lúc thức, cũng cần dùng một số nhiệt lượng tương đương với số tiêu thụ, nếu họ ngủ trọn ngày. Tối thiểu: một ngàn nhiệt lượng.

              Bọn tù chỉ nhận được có 500 nhiệt lượng khi ăn hột đậu. Cái số 500 nhiệt lượng cần có thêm, họ phải trích trong mỡ dự trữ cho da thịt họ, nghĩa là trong số nhiệt lượng tích tụ trong thân thể họ. Và bởi mỗi ngày, họ phải trích ra 500 nhiệt lượng dự trữ khi họ mới đến trại giam, nên mỗi tháng, bọn tù ốm mất 6 cân mỗi người.

              Cố nhiên, đây là tính lấy trung bình. Giáo sư cũng có cân mấy tù nhân với bàn cân và trái cân tạm đỡ. Song đường như mấy khí cụ cân lường tạm ấy cũng khá đúng. Mỗi tháng tù binh mất đi sáu cân, nghĩa là ba kí lô mỡ để tạo thành nhiệt lượng. Như thế , chỉ nội một trại giam Ohrdruf, dưới thẩm quyền cai quản của các người , tổng cộng mỗi tháng có 45 000 kí lô chất mỡ mất đi. Mỗi tháng, 5 toa xe đầy chất mỡ đi ra khỏi trại giam. Chất mỡ tiêu tan trong không khí. 15 000 tù binh bỏ mất trong không khí một số quan trọng chất mỡ như thế, thì các người thử tính xem kết quả số tổn thất là ngần nào. Riêng phần tôi, tôi không phải nhà kinh tế học. Tôi không biết giải pháp nào để chỉ giúp các người. Tuy nhiên, tôi tin chắc rằng, với phương tiện kỹ thuật sẵn có, các người có thể dùng tổng số mỡ sống ấy vào nhiều việc lợi ích.

              Tại sao lại bỏ mất đi?
              Đấy là mục đích của bản thỉnh nguyện của tôi.
              Tôi tin chắc vài sự hiểu biết của các người. Các người thuộc về một dân tộc tiến bộ nhứt của nền văn minh kỹ thuật. Mong rằng các người sẽ gởi một tờ phúc trình về vấn đề nầy cho Viện Hàn Lâm Khoa học của xứ sở các người. Còn gì dã man hơn, là để tiêu mất 45 000 kí lô chất mỡ mỗi tháng như thế ?. Vả lại, các người còn những trại giam khác nữa. Hình như ở Đức có vài trăm trại giam. Vậy các người có thể được cả núi chất mỡ " sống" mỗi ngày.

              Từ khi nghe bài thuyết trình của giáo sư Đại học đường Berlin, tôi hít mạnh không khí và ngửi thấy mùi mỡ người.

              Trại giam của các người là một máy ép khổng lồ rút mỡ tù nhân. Tôi đánh hơi nó trong không khí. Các người có khi nào nghe mùi ấy chăng, lúc làm việc tại văn phòng, cửa sổ mở rộng. Dầu sao, áo quần các người ắt cũng có thấm mùi mỡ ấy. Hỏi thử vợ hoặc người yêu của các người coi, tối ngủ, nằm bên cạnh, họ ngửi thấy da, tóc các người phưởng phất mùi mỡ đó hay không ? Đàn bà thính hơi hơn chúng ta. Họ sẽ nói đúng hơn. Còn tôi, khi nghĩ đến điều đó, tôi thấy quả tin rộn lên, tôi muốn nôn mửa.

              Hãy nhận nơi đây lời chào và niềm kính phục của tôi. tôi rất hâm mộ nền văn minh mà các người đại diện. Tôi tin chắc rằng, với tài lực và phương tiện kỹ thuật sẵn có, các người có thể sử dụng tất cả chất mỡ nói trên ( xin đừng quên tôi đây cũng góp mỗi tháng ba kí lô mỡ của thân xác tôi.
               
              #22
                Whatever 08.01.2011 06:19:42 (permalink)
                -------------------------------125------------------------------

                Đơn Thỉnh nguyện thứ nhì.____ Vấn đề thảm mỹ. ( Quan niệm về vẻ đẹp con người trong xã hội kỹ thuật Tây Phương)

                Buổi chiều nọ, tôi có tranh luận về thẩm mỹ với một giáo sư Đức. Và chứng tôi đã cãi cọ gây gổ nhau. Dân Đức, như tất cả người Âu châu khác, đều giữ theo phái cổ điển. Vì thế, nên xã hội họ sụp đổ. Một xã hội lành mạnh và tiến hóa như xã hội của các người, có một kỹ thuật kim thời hơn.

                Giáo sư Đức chỉ cho tôi xem mấy tù nhân đi dạo trong sân trại giam. Họ chỉ còn da bọc xương, như các người đã biết. Giáo sư cho họ xấu xí quá, ông quan niệm theo lý tưởng mỹ thuật Hi Lạp.
                Theo tôi, con người mà chỉ còn xương với da mới thật đẹp, đó mới thật là những công trình linh hoạt về mỹ thuật.

                Tôi cố thuyết phục giáo sư Đức rằng xã hội Văn minh của các người đã thẩm định cái đẹp tới mức độ mà đến ngày nay chưa có xã hội nào đạt tới. Và các người đã thực hành việc " rút " mỡ con người chỉ vì mục đích thuần túy thẩm mỹ, để tô điểm vũ trụ. Nhưng giáo sư không hiểu. Nhười Đức chậm hiểu lắm. Nên người ta nói họ có đầu vuông. Ngày mai tôi sẽ thuyết trình bài lý tưởng về vẻ đẹp con người trong xã hội Tây phương hiện nay.

                Có môyk nhà diêu khắc Thụy sĩ tên Alberto Giacometti đã thực hiện trong nhàng diêu khắp đứng nguyên tắc và lý tưởng về vẻ đẹp con người, nam giới và nữ giới, mà các người đã thi hành, bằng cách làm tan mất chất mỡ trong xác thịt người ta ! Khi nặn tượng, nhà diêu khắp cố gắng loại hết chất mỡ trong thân thể con người và trong không gian. Thành thử, thân thể người ta chỉ thu lại còn khuôn khổ một chiều, hình dáng dài nhẵng và khô khan, cỡ bằng sợi dây thép.

                Cac người cũng đã làm như thế trong trại giam nầy. Tôi biết từ lâu rồi, Văn minh toàn diện của các người đều căn cứ trên nguyên tắc thẩm mỹ ấy.

                Và một ngày kia, trên khắp địa cầu mà chỉ còn toàn những người có thân hình điều hòa theo thuyết thẩm mỹ của nhà diêu khắc Giacometti, -và của các người--thì vũ trụ sẽ tưng bừng đẹp đẽ làm sao. Người chứng.
                 

                --------------------------126-----------------------

                Traian nói:
                ---Anh Moritz ơi, tôi viết đã ngót bốn chục đơn thỉnh nguyện, trong ấy tôi muốn trình bày cho họ rõ tất cả sự thật và thuyết phục họ đừng hành hạ con người nữa. Tôi tin chắc lý lẽ của tôi. Mỗi đơn, tôi trình bày khéo lắm. Nhưng vô hiệu. Tôi dùng đủ lối văn: văn tòa án, văn ngoại giao, văn điện tín, văn nhà bếp mua đồ, văn quảng cáo rao hàng ; khi thì dùng tình cảm gợi lòng trắc ẩn, khi thì sỗ sàng thô tục, khi thì cầu khẩn van lơn, tôi nài xin xét xử bằng đủ mọi cách trong cảnh tuyệt vọng của tôi, nhưng tôi không được phúc đáp.

                Tôi nói nhiều sự thật trắng trợn, nhưng họ không giận tôi. Tôi quỳ gối viết đơn gởi họ; nhưng họ không động lòng thương hại. Tôi chửi rủa họ thậm tệ, song họ không thấy bị tổn thương. Tôi muốn chọc họ cười, kích tính tính tọc mạch của họ, nhưng đều vô ích. Tôi không khêu gợi được tấm lòng cao cả của họ hoặc sự khao khát tầm thường của họ nữa. tôi không thể chọc cho họ phản ứng được. Thà tôi nói với đá cục còn hơn. Họ không tình cảm, không biết oán hận, cũng không biết trả thù. Họ không thể biết thế nào là động lòng trắc ẩn. Họ làm việc máy móc và chẳng đếm xỉa đến những khoản gì không có ghi trong chương trình. Tôi có thể lột một miếng da tôi để viết đơn với máu còn nóng hổi của tôi, họ cũng không đọc đến. Họ sẽ liệng nó vào sọt giấy như mấy đơn khác. Họ cũng không thấy đó là miếng da thịt còn nóng hổi của con người. Họ đối với con người một cách dửng dưng. Đó là tính lãnh đạm của một Công Dân đối với con người, tính lãnh đạm ấy còn hơn tính lãnh đạm của máy móc.

                Moritz chạnh lòng thương cảm nói:
                ---Tội nghiệp ông Traian ! ông định làm gì khi viết mấy đơn ấy. Theo tôi tưởng đừng thèm viết nữa là hơn.
                ---Tôi vẫn tiếp tục viết. chỉ khi nào chết mới thôi. Con người chế ngự được tất cả thú rừng. Tại sao ta lại không chế phục được " Công Dân"
                ---Hay là ta tìm cách khác để cảm hóa họ. Cứ viết hoài, sợ không đi đến đâu.
                ---"ao nhiêu thành công của con người từ cổ chí kim đều do trí óc. Thì ta sẽ nhờ trí óc mà chế ngự được các công nhân trong văn phòng chúng nó.

                Nếu ta không chế ngự được chúng nó, thì chúng nó sẽ xé xác ta từng mảnh, hết thảy tất cả chúng ta. Ta phải dạy cho chúng nó biết, hễ gặp con người, đừng làm khổ họ. Bằng không, ta không thể cùng sống trên mặt đất, chung một thành phố, chung một nhà với chúng nó được. Còn khó hơn dụ rắn, khó hơn thuần phục cọp dữ. Nhưng tôi lạc quan lắm. Chắc là sự lạc quan của con người sắp chết. Phút hấp hối của tôi là chương "Đơn thỉnh nguyện" của giờ thứ hai mươi lăm. Nhưng tôi sẽ viết chương ấy!"
                #23
                  Whatever 08.01.2011 06:21:55 (permalink)
                  -----------------------------127-----------------------------

                  Đơn thỉnh nguyện số ba.--Đề tài: tiết kiệm( tù nhân chỉ còn phân nữa hoặc một phần ba thân mình)

                  Trong bốn ngày liên tiếp, tôi và một người bạn đã đếm nơi trại giam nầy những tù nhân chỉ còn phân nữa, một phần ba hoặc một phần năm thân mình. Bạn tôi chưa kiểm xong các bảng thống kê, anh giỏi toán lắm. Nhưng tôi lật đật viết đơn nầy vì, theo tôi, vấn đề có tính cách khẩn cấp về phương diện kinh tế. Các người có thể tiết kiệm mỗi ngày ít lắm vài triệu đồng" marks"

                  Thì đây: Trong số mười lăm ngàn tù nhân nhốt chung với tôi, lối ba ngàn không đủ thân mình trọn vẹn. Trong số ấy có hai trăm người không có chân, chỉ lết đi như loài rắn bò trong trại. Một ngàn hai trăm chỉ có một giò. Một vài trăm còn một tay. Một mớ khác cụt cả hai tay. Đó là nhận xét bên ngoài.

                  Một số lớn đã thiếu mất vài bộ phận bên trong: một lá phổi, một trái cật, vài lóng xương v.v... Bốn mươi tù nhân không có mắt. Tất cả đều bị bắt bớ một cách tự động, cùng một lượt vơi tôi. Lúc đầu, tôi thương hại họ. Bạn Moritz tôi nhắm mắt lại mỗi khi thấy mấy người cụt tay cụt chân tàn phế tật nguyền trong trại. Nhưng anh Moritz là người chất phác cổ lỗ. Anh không hiểu lối bắt bớ tự động nầy, và cũng không biết hễ là phần tử của hạng nào bị giam cầm, thì không ai được thoát khỏi, dầu chỉ có một chân, không mắt, không mũi hoặc một lá phổi đi nữa. Sự bắt bớ tự động nầy không miễn cho người tàn tật nào cả. Đó là công bình. Muốn công bình phải thi hành gồm tất cả, không có ngoại lệ.

                  Trong trại nầy có một giáo sư cụt mất hai cánh tay, vì bị thương ở mặt trận; khi các người ra lịnh bắt mấy giáo sư, không lý nào lại miễn trừ bạn tôi, vì anh không có tay. Có gì liên quan giữa sự bắt bớ và hai tay đâu?. Không, anh là giáo sư thì anh bị bắt cùng một lượt vào hạng giáo sư đó . Các người đã thi hành đúng như vậy. Và các người không bao giờ lầm! Vì thế, tôi phục các người làm sao! Tôi có thể hi sinh đời tôi, bất cứ giờ nào, cho nền Văn minh vĩ đại và tốt đẹp của các người. Các người là hiện thân của Công bình và Tính xác.

                  Trở lại vấn đề chánh: các tù nhân tàn phế ấy chỉ còn là những mảnh thịt, mà cũng được một khẩu phần lương thực như người toàn vẹn, thì thật là một đại bất công.
                  Tôi đề nghị cho họ một khẩu phần tương đương với thân xác còn lại của họ. Chánh phủ các người đã hi sinh lớn lao để lo cung cấp khẩu phần luơng thực cho tù nhân. Nói tù nhân, là kể một người toàn vẹn. Nếu gom ba ngàn tù nhân tàn tật ấy và đến số tay, chân, mắt, phổi của họ mất đi, thì thật sự chỉ còn đôh hai ngàn người là nhiều.

                  Như thế, các người có thể tiết kiệm ít lắm một ngàn khẩu phần mỗi ngày. Tại sao các người lại chi tiêu để nuôi những bộ phận mà tù nhân khong còn nữa? Phải là nhân đạo sái đường không?

                  Tôi chắc thượng cấp sẽ hài lòng khi các người báo cáo trường hợp nầy. Có thể các người sẽ được ân tứ huy chương nữa là khác. Làm thế, các người sẽ thực hiện cho quốc gia một số tiết kiệm to tát. Và ai cũng biết chỉ có tiền bạc là điều đáng kể mà thôi. Vì tin chắc về lẽ ấy, nên tôi mới có bài luận nầy. Người chứng.

                  Đơn thỉnh nguyện số bốn.--Đề tài: Quân sự ( biến cải đàn ông thành đàn bà)

                  Vì đói kém, thiếu ăn, bọn tù trong trại giam bị biến tính, những biến tính ấy là một quyền lợi quân sự lớn lao cho các người. Câu chuyện được tóm lược như vầy:

                  Bọn tù bị bắt giam lâu năm mà chỉ có nhận 500 nhiệt lượng mỗi ngày để sống, nên họ không cần cạo râu nữa. Bình thường, mỗi ngày cạo một hoặc hai lần. Khi vô trại giam, thì bắt đầu cạo một lần mỗi ngày, rồi một lần mỗi tuần, kế đến hai lần trong một tháng. Sau rót, không cạo nữa. Râu họ mọc thưa lần, và giống như lông măng, những lông măng rồi cũng tiêu mất nốt. Mặt họ trở nên hiền hậu và trơn tru như mặt đàn bà. Nhưng chưa hết đâu. Giọng nói của họ cũng thanh tao như giọng đàn bà. Có vài tù nhân, vú họ nở nang to dẫy như vú thiếu nữ mười ba. Da họ mịn màng, êm mượt như da phái đẹp. Tôi khong biết rõ cơ quan sinh dục họ có bị biến thể không, nhưng tôi tin chắc, với cách ăn uống như thế nầy( và nhứt là các người còn định giảm bớt phần ăn xuống) thì các cơ quan ấy sẽ teo mất, và chừng đó, họ sẽ biến hẳn thành đàn bà.

                  Bác sĩ cho rằng vì đói kém và thiếu ăn, nên sự phân tiết chất kích thích tố sẽ giảm lần đến ngưng hẵn.

                  Vả lại, gan quá yếu không làm phận sự điều tiết như bình thường: nó còn đủ sức diệt trừ kích thích tố nam tính thặng dư, nhưng lại để kích thích tố nữ tính vượt qua được. Thành ra, sự quân bình điều tiết đã mất, cơ thể đàn ông, vì đó, biến thành hình trạng cơ thể đàn bà.

                  Sự nhận xét nầy có ảnh hưởng quan trọng về quân sự của nền Văn minh các người. Thử nghĩ đến cảnh yên tỉnh bao trùm vũ trụ, khi các người bắt giam kẻ địch dã man trong trại giam,--như các người đang làm đây.--mà chỉ cho họ có vài trăm nhiệt lượng mỗi ngày để sống, thì họ sẽ biến thành đàn bà hết. Các quốc gia thù địch các người sẽ không có đàn ông. Còn ai đâu để gây chiến tranh với các người. Tôi tin rằng Bộ Tham Mưu tối cao cảu các người sẽ thực dụng phát kiến nầy. Vịn vào tinh thần thực tiễn và óc sáng chế của nền Văn minh các người, tôi còn tin các người sẽ áp dụng ngược lại phát kiến ấy, là nuôi thúc những phụ nữ nào của các người tình nguyện muốn biến đổi thành đàn ông. Nhân công nhờ đó sẽ gia tăng gấp đôi.

                  Tôi đề nghị bớt xuống tỷ số 500 nhiệt lượng cấp cho tù binh. Có lẽ họ sẽ càng trở thành đàn bà mau lẹ. Người chứng.
                   

                  ----------------------------------129-----------------------------------

                  Sửa soạn ra đi. Mười lăm ngàn tù nhân phải dời đến trại giam khác. Mới hai giờ khuya. Xe tăng, xe cam nhông đậu bao quanh trại. Đèn pha chiếu sáng như ban ngày. Súng canon và các súng máy tự động chong xỉa vào đoàn tù đang tủa đi ra cửa, như nước sông chảy. Traian và Moritz đi gần nhau. Moritz lạnh run, răng đánh bò cạp.

                  Ngoài cửa, có hai toán quân lính cầm baton, đếm tù nhân đi ra, rồi chia từng nhóm.
                  Traian nói:
                  ---Xe cam nhông thường thường chỉ chở được mười hoặc mười hai người, mà họ muốn chất lến bảy chục. Làm sao bây giờ? Anh có nghe nói đến định luật" bất khả thấu nhập thân thể con người chưa?

                  Moritz không trả lời. Anh đang run. Traian chăm chỉ xem bọn lính xếp tù nhân lên chiếc cam nhông đầu tiên. Trước hết, họ cho bốn chục người lên. Thấy thì không còn chỗ cho người nào nữa hết. Bọn lính bèn lấy cây đập mấy tù nhân trên xe, họ đứng khít lại nhau. Bọn lính cho leo lên mười người nữa. Và cây lại nện bổ vào bọn tù, tốp mới lên dồn ép vào mấy người trước: như thế, lại có chỗ. Bọn lính lại cho lên thêm mười người nữa. Bây giờ, người ta dám thề rằng chẳng còn chỗ nào hết, dầu cho một đứa con nít! Thì bọn lính liền trở bá súng đập tưới vào đám tù. Và thêm mười người nữa leo được lên xe.

                  Trọn nhóm bảy chục người, không còn ai ở dưới đất. Tất cả đều lên trọn đủ trên xe. Lính ngừng đánh. Xe chờ lịnh chạy.
                  Traian nắm tay Moritz leo lên một xe cam nhông khác. Hai người không muốn bị lạc nhau.
                  Traian nói:
                  ---Anh Moritz à! Không có luật nào tuyệt đối cả. Cho đến vật lý học cũng chẳng có định luật bất di dịch. Khoa nầy quả quyết rằng" hai vật không thể cùng một lúc chiếm cùng một chỗ trống không gian" Mà ở đây, bảy người chiếm có một chỗ của một người. Như vậy làm sao còn tin vật lý học nữa được ? Anh có nghe nói đến họa sư Picasso chăng ?

                  Moritz trả lời, tiếng hơi ngộp:
                  ---Không !
                  Traian to lớn, thở được. Moritz nhỏ quá, đầu anh bị kẹp giữa các ngực. Buồng phổi bị ép sát đến không còn chứa đựng được một hớp hơi. Anh nói:
                  ---Tôi ngộp quá!
                  Anh hoảng sợ, muốn khóc. Anh không cựa quậy gì được. Hai lỗ mũi anh tìm hơi thở,-- một chút thôi.--và tìm cũng không ra. Anh cầu cứu:
                  ---Ông Traian ôi! Tôi ngộp quá, chắc chết!
                  Traian hỏi:
                  ---Sao anh không trả lời? Anh có nghe nói đến Picasso không ?
                  ---Tôi chưa nghe lần nào. Tôi không biết gì hết. Nhưng tôi ngộp quá! Chắc chết mất!

                  Traian muốn nâng đầu Moritz lên, nhưng tay mắc kẹt cứng. Ông không thể cử động, thân mình bị dồn ép tột bực, và đầu vượt cao hơn các đầu khác. Traian nói:
                  ---Picasso là đại họa sư cảu xã hội Tây Phương ngày nay !
                  Moritz rên rỉ:
                  ---Tôi không nghe gì hết. Tôi muốn đưa cái mũi ra ngoài, chỉ một lỗ mũi cũng được. ông Train ơi, tôi van xin ông, cứu tôi với. Tôi chết!
                  Traian rán kiếm một chút chỗ trống cho Moritz, nên áp đầu anh vào ngực ông.
                  ---Picasso có vẽ chân dung anh, anh Moritz à, giống như hình anh bây giờ, đang kẹt trong xe cam nhông !
                  ---Chân dung tôi ? Tôi nghe không rõ. Lỗ tai tôi bị bịt rồi !
                  ---Phải! Chân dung anh. Giống hệt, và đúng y, như chụp bức ảnh. Có cả hình chiếc xe cam nhông của chúng ta nữa. Bảy người cùng chiếm một chỗ, trong một lúc. Người nầy có năm cẳng, kẻ kia ba đầu, nhưng không có phổi. Anh thì có tiếng nói mà không có miệng. Còn tôi chỉ có cái đầu, thiếu thân mình. Cái đầu vọt trong không trung, trên chiếc xe cam nhông... Khi tôi nhìn bức họa lần đầu tiên, hồi còn ở Ba Lê, tôi thấy thích, nhưng không hiểu ý nghĩa gì. Và bây giờ, tôi mới hơi hiểu được rõ: ấy là bức tranh của chiếc xe cam nhông chúng ta đây. Vẽ rất giống, không bỏ sót một chí tiết nào. Họa sư vẽ trại giam của chúng ta nữa. Ông vẽ như ông chụp ảnh. Toàn chuyện có thật. Thật là một họa sĩ thiên tài.

                  Xe rồ máy chạy. Traian nhìn các người chung quanh. Họ hết phải là người. Không còn một sinh vật nào trên xe cam nhông đang chạy qua các đường nhỏ trong làng lúc đêm tối. Tuy nhiên, mấy người trên xe chưa chết, họ đang dở sống , dở chết. Một lúc họ còn sống, phút sau họ chết rồi. Có lúc, họ vừa sống vừa chết một lượt. Khu vực họ đang chiếm không còn khoảng trống. Khoảng trống bị thu hẹp cơ hồ như bị tiêu trừ. Khoảng trống đã mất.

                  Trong khu vực cảu họ, chỉ còn những người bị chứng phong giật, đang ngất ngư; mắt, thịt, không khí, thời gian, tư tưởng, tất cả đều bị chúng phong giật. Con người mất hết hình thức, trí óc. Họ bị động kinh toàn thể.

                  Traian hỏi Moritz:
                  ---Anh còn thở được không?
                  ---Tôi hết biết gì. Tôi có cảm giác thở nhưng chỉ thỉnh thoảng, với mọt lỗ mũi thôi. Đây, chỗ nầy, nơi ngực ông, chỗ ba sườn ông...
                  ---Thở một lỗ mũi là đủ rồi. Nghe nè, tôi nói với anh một chuyện quan trọng đây....
                  ---Tôi không thể nghe được gì hết. Xin ông thứ lỗi cho.
                  ---Rán một chút, rán nghe đây, quan trọng lắm !
                  < Mọi khủng khiếp đều tự giải thích,
                  < Mọi thảm sầu rồi cũng đến nguôi ngoai !
                  < Trong đời ta, không rảnh đâu lo mãi mối sầu dài.
                  < Song chuyện nầy, ngoài cuộc đời, ngoài thời khắc,
                  < Là nỗi khổ ác triều miên, nỗi bất công vĩnh cửu.`
                  < Chúng ta bị lấm bẩn vết nhơ khôn rửa được.
                  < Vết nhớp nhơ kết hợp với giống giòi mọt siêu nhiên.
                  < Chẳng riêng ta, chẳng riêng gì nhà cửa, Đô thị dính bẩn nhơ,
                  < Mà tất cả thế gian đều bị ô danh xủ uế.

                  Moritz nói:
                  ---Ông nói lớn lên, tôi chẳng nghe được gì hết.
                  Traian tiếp tục hết sức la to:
                  < Hãy thanh khiết không khí! quang tạnh trời xanh ! tẩy uế gió độc!
                  < Hãy dọn lớp sỏi trên đá; lột da cánh tay; rứt thịt dính xương, và rửa sạch hết !
                  < Hãy rửa đá, rửa xương, rửa não, rữa sạch linh hồn. rửa sạch hết ! rửa sạch hết!

                  Moritz lại nói:
                  ---Tôi không hiểu gì cả. Ông có phước được thở. Ông không bị ngộp nghẹt !
                  Trong trại giam, người nhỏ thó ít khổ sở vì đói hơn người lớn vóc. Nhưng ở trên xe cam nhông chật ních bảy chục người nầy, xe chạy vùn vụt như bóng ma trên đường làng Ohrdruf nầy, bọn tù nhỏ thó lại gần chết ngộp vì thiếu không khí.

                  Moritz nói:
                  ---Ông Traian ôi, ông đừng nói nữa, tôi cũng không nghe hiểu được nào.
                  ---Nếu anh không nghe, anh sẽ chết...
                  ---Nghe gì?
                  ---Ông giáo sư Đức tính trật. Ông đã phạm lỗi, nặng và sẽ đền tôi.
                  ---Người Đức nào đã phạm lỗi nặng?
                  ---Giáo sư đã cân mỡ và thịt sống của thân thể chúng ta đó. Ông cân ta lúc còn đang sống, nóng hổi, để lường sự đau khổ. Nhưng sự đau khổ con người nào có thể cân lường bằng kí lô hay bằng "tấn" được đâu !...Cuộc sống không thể cân lường ! Và kẻ nào thử làm công việc ấy sẽ phạm lỗi nặng, đáng chết.
                  Moritz nói:
                  ---Tôi không nghe gì!
                  ---Chuyện ấy không quan trọng. Người ta cũng ngã gục dẫu không nghe. Tài xế cam nhông, lính canh gác, quân sĩ cầm cây và súng máy chực sẳn để giết chúng ta, họ cũng không nghe gì hết. không một ai đã nghe. Thế mà họ cũng bị ngã gục cùng một lượt với chúng ta, cũng y như chúng ta. Anh có thấy họ ngã quỵ chưa ?
                  ---Mắt tôi bị che khuất, tôi không thấy.
                  ---Anh cũng không cảm thấy gì sao ?
                  ---Không ! Tôi chỉ biết bị ngộp thở mà thôi !
                  Traian buồn rầu nói:
                  ---thì anh đã cảm thấy điều cần yếu rồi. Tại sao anh nói không ? Ai cũng cảm thấy như anh, nhưng không muốn thú nhận mà thôi...
                  #24
                    Whatever 08.01.2011 06:23:08 (permalink)
                    ---------------------------------130-------------------------------------

                    Đoàn tù nhân bị lùa vô toa xe súc vật.
                    Mỗi toa xe chở hai mươi bốn con ngựa. được chứa một trăm bốn chục người.
                    Cửa toa xe đều đóng hết. Các toa xe chót nhốt 3 ngàn người đàn bà.
                    Xe lửa dài lắm. Traian ước muốn được thấy nó chạy đằng xa. Ông nói:
                    ---Xe lửa nầy giống đoàn người hộ tống đi lên gò Golgotha. Song xe chúng ta là đoàn hộ tống cơ giới hóa. Ta leo lên Golgotha bằng phương tiện kỹ thuật. Chúa Jesus thì đi bộ giữa hai kẻ cướp chính hiệu. Anh biết tại sao Chúa Jesus bị đóng đinh giữa hai tướng cướp không?
                    ---Tôi không biết.
                    ---" Để trừng phạt một người vô tội, thẩm phán quan có lệ kèm hai tội nhân. Mưu mẹo cổ điển! Bọn Do Thái chẳng dám xử thập tự giá Jesus một mình, nên mới cho kèm theo hai tướng cướp lẫy lừng, với tôn chỉ làm xao lãng quần chúng trong lúc hành hình.
                    " Anh, tôi, vợ tôi, và nhiều người khác, chúng ta đều có mỗi bên một tội nhân kèm theo. Cũng một mưu mẹo như ở Golgotha, song tỷ lệ lại thay đổi. Hồi đó một người vô tội kèm hai phạm nhân, bây giờ mười ngàn người vô tội mà chỉ kèm hai phạm nhân. Song đây chỉ là một tiểu dị. Phương pháp vẫn là một. Vả lại chúng ta bước lên thập tự giá một cách tự động, bằng phương pháp kỹ thuật. Nhưng mưu mẹo trẻ con quá. Khi hành hình xong, quần chúng không nói đến hai kẻ tội phạm chính hiệu cũng bị đóng đinh một lượt với Chúa Jesus, mà chỉ nhớ đến Chúa Jesus thôi, và nhớ có một mình Chúa Jesus. Lúc nào, chuyện cũng đã xảy ra như vậy. Và cho đến ngày nay, chuyện cũng sẽ xảy ra như thế, dầu hình phạt thập tự giá có thi hành một cách tự động, dầu chúng ta có đi lên Golgotha bằng xe lửa đi nữa."

                    Traian bước lại gần cửa sổ bao lưới sắt cảu toa xe. Xe ngừng chạy. Moritz thấp, đứng không tới cửa sổ, hỏi :
                    ---Ông có thấy gì không?
                    Traian đáp:
                    ---Xe ngừng tại ga. Có xe khác đậu dọc theo xe mình.
                    Moritz tọc mạch hỏi :
                    ---Cũng có chở tù nhân nữa hay sao?
                    ---" Cựu tội nhân vừa được thả . Họ là người các nước ngoài, làm nô lệ cho Đức quốc xã" Traian ngó đoàn người đàn ông lẫn đàn bà đi đi lại lại xôn xao trên xe bên cạnh, rồi nói:
                    ---Họ đều hút thuốc.
                    Moritz nuốt nước miếng!
                    Traian nói:
                    ---Một người đàn bà xuống xe, đang ăn khúc dồi với bánh mì trắng.
                    Và Traian cũng nuốt miếng
                    Moritz nói:
                    ---Tôi muốn nhìn họ, biết đâu trong đám ấy tôi chẳng nhận được một người quen. Họ là người nước nào,?
                    Traian nhìn những cờ vẽ trên toa xe, và những cờ nhỏ đeo trên áo họ, rồi trả lời :
                    ---Đủ các nước. Người đàn bà đang ăn bánh mì thoa beurre với khúc dồi mà cặp đôi cũng trắng nỏn như bánh mì nàng ăn, là người xứ Danemark. Đứng sao lưng nàng là một người đàn bà pháp. Cô nầy đẹp có cặp mắt đen.
                     

                    ---Có còn người pháp nào nữa không ?
                    ---Có cả một nhóm, họ đứng gần toa xe chúng ta. Cũng có dân Bỉ, dân Ý nữa.
                    Mối cảm tình thích mến người Pháp sống dậy trong lòng Moritz. Anh nóng nảy nói:
                    ---Tôi muốn xem mấy người Pháp đó!
                    Traian bèn đỡ anh lên, cho anh coi rõ.
                    Moritz hân hoan nói:
                    ---Đây là người pháp. Cái anh đứng gần người Ý đó, giống Joseph làm sao! Ông thấy không?
                    ---Joseph nào?
                    ---Joseph bạn của tôi. Tôi chưa nói cho ông nghe. Người mà tôi giúp vượt ngục đó. Nếu tôi không biết chắc hiện giờ anh đang ở bên Pháp, thì tôi nói chính anh đây rồi. Ông nói y một câu nào đi!
                    ---Anh muốn nói chuyện gì?
                    ---Chuyện gì cũng được. Y giống Joseph quá. Tôi không biết nói tiếng pháp, nhưng tôi muốn nói chuyện với y. Ông nói chào họ và chúc họ về Pháp bình yên giùm đi!
                    Moritz không thể gặp một người Pháp mà chẳng nói một lời nào, hoặc thân mật cười với họ.
                    ---Kìa y đến gần chúng ta. Ông làm ơn nói với y một câu đi!
                    Traian làm thinh. Moritz không dằn được, kêu to lên bằng tiếng Đức.
                    ---Về Pháp bình yên.
                    Anh nói, giọng dịu ngọt, vẻ mặt hân hoan, như nói với một người bạn pháp thân mến.
                    Cả bọn thình lình nín lặng, đứng yên và nhìn lên cữa sổ xe, chỗ Moritz đứng.
                    Traian nghe người giống Joseph hỏi bằng tiếng Pháp:
                    ---Thằng con heo Đức Quốc xã đó muốn gì?
                    Tất cả đàn bà đàn ông đứng nơi bến xe đều ngó Moritz đang cười với họ, sau song sắt.
                    ---Thằng con heo quốc xã đó chắc muốn xin thuốc hút!

                    Người Pháp, giống Joseph, đưa tay vô túi định lấy thuốc, nhưng ngừng lại tức khắc. Một người đứng gần anh ta, cúi lượm một cục đá, tống ngay vào cửa sổ, chỗ Moritz vẫn còn đứng cười, và nói:
                    ---Điếu thuốc cho mầy đó! Ba năm nay, tao bị kẹt ở Đức cũng vì mầy!
                    Viên đá lọt qua song sắt, rơi giữa toa xe, trúng một tù nhân.
                    Viên đá khác chọi tới trúng hông toa xe. Viên thứ ba bòi thêm. Rồi một đám mưa đá tới tấp chọi vào trong toa. Bọn tù phải nằm dài, tránh xa cửa sổ. Đá cứ liên tiếp chọi tới như mưa dào, lời chửi rửa, tiếng la hét vang dội, như toa xe sắp bị tấn công.

                    Tiếng la hét của đàn bà, đàn ông, con nít, kẻ phẫn nộ. Giọng gào thét bằng đủ thứ ngôn ngữ trên hoàn cầu, bằng tiếng pháp, tiếng Ý, tiếng Nga, Đan mạch, Flamand, Na Uy... Tất cả lời chửi rửa đều tỏ lòng công phẫn cực độ, lời chửi rửa tuôn theo với đá gạch tống chọi Moritz bằng đủ thứ ngôn ngữ, đều đồng một ý nghĩa:" Đồ con heo Đức quốc xã, tên sát nhân khát máu, tên độc tài giết người, quốc xã, quốc xã..."

                    Tất cả bọn " được thả" trên xe kìa đều xuống nhập bọn để chọi đá vào xe tù.

                    Lính gác và hiến binh cố giữ trật tự nhưng cuộc tấn công quá dữ dội không trấn tĩnh nổi; nó càng lúc càng tăng và trở nên nghiêm trọng. Lính phải bắn chỉ thiên. Tiếng la hét nổi lên, đồng thanh phản đối sao lính lại che chở bọn độc tài quốc xã, không để cho họ hành hình chúng.

                    Moritz vẫn còn đứng tại cửa sổ khi mấy viên đá đầu trên bay tới bên tai anh. Anh không nhúc nhích và vẫn còn cười, lúc cuộc tấn công sôi nổi hơn hết. Anh không hiểu chuyện gì xảy ra. Và, nếu anh có hiểu, anh cũng không làm sao tin được người Pháp giống Joseph lại muốn liệng đá cho bể mặt anh.

                    Trong khi Moritz lấy làm lạ, mắt mở rộng, đứng nhìn đám quần chúng tới tấp liệng đá vào anh, bọn tù trong toa nắm cẳng anh lôi khỏi cửa sổ, vật anh té nằm dài trên sàn toa xe. Ai cũng muốn đánh anh. Mọi người đều giơ tay đánh, đấm, vấu, nắm chặt anh, để xé thịt anh ra.

                    Moritz bị cả trăm bàn chân hằn học đạp anh. Họ giậm đạp nhầu anh như thú dữ, trong lúc trên đầu họ, gạch đá liên tiếp liệng tới không ngớt.

                    Bọn tù trong xe không dung tha anh đã chọc cho người ta căm thù và tấn công chửi mắng. Họ muốn phân thây anh muôn mảnh.

                    Moritz không phải bị bọn người bao vây hành hạ mà bị con quái vật Apocalypse có ngàn chân, chà đạp thân xác anh.

                    Bên ngoài, đám quần chúng, cũng như con quái vật Apocalypse ấy có ngàn tay, đang liệng đá tới tấp vào anh.

                    Máu anh chảy ra mũi, ra miệng. Anh thấy sắp chết. Nghĩ tới đó, anh không còn biết gót giày đạp đá anh, quả đấm loi thụi anh nữa. Anh hết còn biết đau đớn. Nổi thống khổ của anh sấp chấm dứt. Anh nhớ đến mục sư Koruga, nhớ nhà thờ làng Fantana, tượng Thánh Mẫu Đồng Trinh. Sự yên tĩnh trở lại trong thể xác và linh hồn anh. Anh nghe rõ tiếng đập phá toa xe, và biết sự đập phá ấy chỉ để đánh anh, đánh một mình anh thôi.

                    Thiên hạ muốn chà đạp anh, muốn giết anh. Đến bây giờ anh mới biết. Anh mới cảm thấy hễ bao giờ anh còn sống thì thế giới sẽ không tồn tại và không còn có tiến bộ nữa. Anh chịu trách nhiệm tất cả tội lỗi trên mặt đất nầy. Chỉ có một mình anh là thủ phạm. Vì thế; cả bọn người ấy đều muốn giết anh. Vì thế, anh mới bị tù vừa được thả liệng đá. Vì thế, anh mới bị cảnh binh bắt.

                    Quần chúng không chịu yên khi nào anh còn sống. Cảnh binh không trấn tĩnh được bọn cựu tù nhân khi Moritz chưa bị giết. Bọn tù trong toa chỉ hết phẫn uất khi nào thấy anh nằm chết trước mắt. Xe tăng và lính võ tranh súng máy không trở về hàng ngũ được, khi Moritz chưa bị phân thây từng mảnh.

                    Anh phải chết, vì anh là Người! Anh không được dung tha.
                    Moritz tự nghĩ:" Trời ơi! Tôi có tội tình gì. Tôi mến thương người Pháp. Tôi muốn nói với họ một lời thân ái. Chỉ vì thế, mà họ muốn giết tôi. Chúa Jesus khi xưa cũng bị giết, bởi vì Ngài đã thương nhân loại"

                    Moritz nhớ lại câu nói của Traian :" Chúng ta trèo đồi Golgotha bằng xe lửa. Chúng ta trèo một đồi Golgotha cơ giới hóa"

                    Moritz cảm thấy như bị đóng đinh trên thập tự giá, và trời tối hẳn, tối đen, tối đen ngòm....
                    #25
                      Whatever 08.01.2011 06:26:55 (permalink)
                      ---------------------------------131-----------------------------

                      Moritz thức dậy trễ, đầu và ngực đều băng bó. Đầu anh nằm trên vai Traian. Moritz nghe gò má anh chạm vào da vai trần của Traian, vì ông không còn áo sơ mi.
                      Anh muốn hỏi tại sao Traian không có áo, nhưng anh kiệt sức. Anh chỉ nói:
                      ---Tôi khát nước!
                      Traian làm như không nghe. Moritz lặp lại:
                      ---Tôi khát nước!
                      Anh đã nằm hằng giờ như thế, ngất xỉu trên tay Traian. Trong lúc ấy, Traian xét áo sơ mi băng bó cho anh và kiếm một chỗ để anh nằm.

                      Moritz không nói một tiếng nào. Traian đặt tay lên ngực anh để nghe tim anh đập rất yếu. Lúc lúc, Traian rút tay ra và kề lỗ tai chỗ băng để nghe. Thỉnh thoảng, tim Moritz nhảy chậm đến đỗi tay ông không nhận được;kề sát tai, ông chỉ nghe được chút ít thôi.
                      Và bây giờ, Moritz nói được.
                      Traian vui mừng như là mình ở từ xa về.

                      Nhưng Moritz muốn uống nước. Như Jesus, trên thập tự giá, cũng khát nước. Mà trong toa xe không có nước.

                      Trọn hai mươi giờ, bọn tù bị nhốt trong toa xe, không ăn uống, và cũng không được phép ra ngoài để đi tiêu đi tiểu.

                      Trong xe đầy mùi phẩn. Không khí nặng nề, khó thở. Ván rầm xe đầy lền nước tiểu. Moritz đã nằm trên nước tiểu. Chính anh cũng tiểu trên đó, mà không hay. Anh chẳng biết gì hết. Mãi đến lúc ấy, anh cũng không mở mắt ra mà chỉ hé môi để nói:
                      ---Tôi khát nước!
                      Traian đáp:
                      ---Tôi rất tiếc, không có nước, không có gì để uống được!

                      Ông tự hỏi cói có cái gì có thể thấm môi Moritz được, nhưng chẳng có gì uống được cả.

                      Ông nhớ có đọc trong sách nói về quân lính của Thành Cát Tư Hãn, lúc băng qua đồng cỏ hoang bao la, không tìm được thức gì để uống và ăn, bèn xuống yên, lấy dao rọc gân gần móng cẳng ngựa rồi hút vài giọt máu. Họ băng bó chỗ ấy lại, và cho ngựa tiếp tục đi. Suốt mấy tuần lễ, quân sĩ cảu Thành Cát Tư Hãn không ăn uống gì khác hơn là vài giọt máu nóng.

                      Traian bị ý tưởng ấy ám ảnh. Ông muốn lấy máu mình cho Moritz đỡ khát. Máu ấy có thể giúp Moritz đỡ khổ nhiều.
                      Anh van lơn:
                      ---Tôi khát nước!
                      Traian an ủi:
                      ---Bạn ơi! Không có gì uống được, giọt nước mà tôi kiếm được và vui lòng hiến cho anh đỡ khát là giọt máu của tôi. Nhưng anh đừng uống máu . Con người uống máu là con ma cà Rồng. Nó có mặt người, nhưng không phải là người. Nó là cái máy, con quỷ, quần chúng. Nó là con người, nhưng thiếu linh hồn.

                      Moritz thều thào:
                      ---Tôi khát nước!
                      ---Tôi hiểu! Nhưng dầu sao, anh đừng uống máu. Tôi không có gì khácddeer cho anh. Anh là con Người duy nhứt trong đám người vây quanh tôi, mà không uống máu người. Anh hiểu không? Các kẻ khác đã uống máu nên đã thành tinh kết rồi. Họ không còn phải là người nữa. Bọn tù kia, các lính canh gác, lũ tù vừa được thả đã ném đá vào anh, không ai còn là con người. Chỉ có một mình anh còn là người vì anh còn thương người.
                      ---Tôi khát nước!
                      ---Tôi hiểu! Tôi biết rằng anh khát và anh sẽ chết nếu không uống nước. Nhưng thà chết còn hơn sống như họ. Anh đừng uống máu người. Anh hiểu rõ lời tôi nói đó không?
                      Moritz thì thào một lần nước:
                      ---Tôi khát nước!.

                      ---------------------------------132--------------------------------

                      Đơn Thỉnh nguyện của Iohann Moritz.
                      Tôi ký tên dưới đây, Iohann Moritz, ở làng Fantana, xứ roumanie, gởi đơn nầy cho nhà cầm quyền nơi tôi bị giam, để xin hỏi tại sao các ông giam cầm tôi và hành hạ khổ sở tôi như chỉ có một mình Chúa Jesus bị khổ hình trên thập tự giá vậy.

                      Nếu tôi không hỏi câu nầy từ lâu,--như tôi có thể làm,--, là vì tôi bẩm tính kiên nhẫn. Tôi là một nông dân. Các nông dân đều biết chờ đợi.

                      Tôi chờ cả một mùa xuân. Tôi chờ cả một mùa hạ. Và trọn cả một mùa đông dài dặc. Giờ đây, mùa xuân trở lại. Tôi chỉ còn xương với da. Linh hồn tôi đen tối, vì buồn rầu, vì đau khổ. Đen tối như than hầm, như mực đậm.

                      Hiện giờ , tôi không thể chờ đợi được nữa, nên xin hỏi: tại sao các ông giam cầm tôi6

                      Tôi không trộm cướp, tôi chẳng giết người, tôi không lường gạt ai, và tôi không phạm tội lỗi nào mà Pháp luật và Giáo hội ngăn cấm cả.

                      Nếu tôi không can án giết người, trộm cướp, bất lương, tại sao các ông cứ giam mãi tôi trong tù.

                      Các ông đã nhốt giam và tra tấn hành hạ tôi đến nỗi tôi chỉ còn là một cái bóng trên mặt đất.

                      Tôi đã bị lưu đày trong mười bốn trại giam. Tôi thiết tưởng đã đến lúc nên hỏi các ông đã khiển trách tôi về tội gì?

                      Phần tôi, tôi rất khó khăn để quyết định. Nhưng bây giờ, tôi đã nhứt định hỏi các ông.

                      Tôi gởi đơn nầy theo lối bưu chính cho nhà cầm quyền xứ nầy. Tôi cũng gởi cho lính gác cửa khám để chuyển đạt đến. Đơn tôi sẽ tới tay nhân viên chánh phủ, dầu có phải đi vòng quanh thế giới. Nhà cầm quyền phải nghe đơn khiếu nại của tôi, dầu có bịt lỗ tai đi nữa.

                      Tôi dán đơn tôi trên các cửa khám; tôi gói đá liệng nó ra đường.
                      Tôi bắt mấy con chim bay ngang trại giam, cột đơn vô cẳng để được gởi đi cùng khắc thế giới.

                      Từ nay, tôi không ngừng kêu van, tôi gào thét mãi cho tới khi được minh oan. Có thể các ông sẽ nhốt tôi trong hầm tối để không ai nghe được tôi. Nhưng dầu ở đâu, tôi cũng không ngớt kêu van. Nếu tôi không có viết chì và giấy, tôi sẽ viết bằng móng tay tôi trên vách khám. Móng tay tôi có mòn đến da thịt, tôi sẽ chờ nó mọc ra, và viết nữa.

                      Nếu các ông bắn tôi, linh hồn tôi không xuống Địa Phủ, cũng không lên Thiên Đàng, hay vào Luyện Ngục. Oan hồn tôi sẽ vẩn vơ trên mặt đất và đeo đuổi mãi các ông.
                      Nó sẽ ám ảnh các ông như một bóng ma. Ban đêm tôi sẽ phá phách mãi giấc ngủ các ông và của mấy người yêu các ông, để kêu la rằng tôi có lý.

                      Và các ông không thể chợp mắt ngủ yên được. Mãi cho đến chết, các ông sẽ không nghe được diệu nhạc thâm trầm và lời nói yêu thương,--các ông không thể nghe được gì nữa hết--, lỗ tai các ông vẫn bị rên vang lời kêu oan của tôi, Iohann Moritz nầy.

                      Tôi là con người. Nếu tôi không làm gì sái quấy, thì không ai được quyền đánh khảo, giam cầm tôi. Đời sống và hình bóng tôi là của tôi. Và các ông là ai đi nữa, dầu có xe tăng, súng máy, phi cơ, trại giam hay tài sản cự phú đến đâu, các ông cũng không có quyền chạm đến đời sống và hình bóng của tôi.

                      suốt đời , tôi chỉ cầu mong một chuyện rất tầm thường: được yên thân làm việc, có chỗ đùm đậu với vợ con và kiếm đủ ăn cho gia đình.

                      Chính vì vậy mà tôi bị bắt sao?

                      Nhà cầm quyền Roumanie sai hiến binh bắt tôi sung công,-- như sung công món đồ, con vật. Tôi để cho sung công. Tay trơn, tôi làm sao chống lại với nhà vua, với hiến binh có súng lục và súng trường. Họ nói tôi tên Iacob chớ không phải tên Ion như mẹ đặt. Họ nhốt tôi chung với dân Do thái trong trại giam rào dây kẽm gai, như nhốt súc vật,--và bắt tôi làm những việc khôt sai. Nơi trại, chúng tôi ngủ cả bầy như thú vật, chúng tôi ăn, uống cả bầy, và chỉ chờ dẫn đem đi lò thịt như bầy thú. Các người khác chắc đã bị dẫn đi lò thịt, còn tôi, tôi trốn thoát được.

                      Có phải vì đó mà các ông bắt tôi không? Vì tôi vượt ngục, không chịu chờ dẫn đi lò sát sinh chăng?

                      Dân Hongrois nói tôi không phải tên Iacob, mà tên là Ion. Họ bắt tôi vì tôi là dân Roumain. Họ tra khảo, đánh đập tôi, làm tôi đau đớn khổ sở, rồi bán tôi cho Đức quốc xã.

                      Người Đức nói tôi không phải tên Ion, hoặc Iacob, mà tên là Ianos và đánh khảo tôi thêm, vì tôi là dân Hongrois. Kế đó, có một Đại tá Đức tới nói tôi không phải tên Iacob, hoặc Iankel,--mà tên là Iohann, và cho tôi được làm lính binh nhì. Đại tá đo đầu cổ tôi, đếm răng tôi, và đựng máu tôi trong ống chai nhỏ. Ông làm tất cả công việc ấy cốt để chứng minh rằng tôi có một danh tính khác hơn tên của mẹ tôi đặt. Có phải vì vậy mà các ông bắt tôi không?

                      Lúc làm lính, tôi giúp tù Pháp vượt ngục, có phải vì vậy mà các ông bắt tôi không?
                      Lúc chiến tranh dứt, tôi tưởng tôi cũng như ai, có quyền được hưởng hòa bình. Quân lính Mỹ đến và rặng biếu tôi chocolat và đồ ăn thức uống ê hề, như tặng cho một ông hoàng. rồi, không nói không rằng, họ bắt tôi bỏ tù. Họ đày tôi trong mươi bốn trại giam, như những tướng cướp ghê gớm nhứt trần gian.

                      Và bao giờ, tôi cần muốn biết: tại sao?

                      Có phải tại các ông không ưa tên tôi Ianos, hoặc Ion, Iohann, Iacob, hay Iankel chăng? Các ông muốn thay đổi tên tôi nữa sao? Thì cứ tha hồ? Ngày nay tôi biết rằng con người không có quyền mang tên của mẹ đặt cho nữa. Song tôi xin cho các ông hay rằng, từ giờ trở đi, tôi không thể chờ đợi. Tôi muốn biết lý do nào tôi bị bắt và bị tra khảo?

                      Tôi mong đợi các ông trả lời và kính cẩn chào các ông.
                      Ký tên: Moritz Ion, Iohann- Iacob- Iankel- Ianos, nông dân và cha một gia đình.

                      Traian đọc xong lá đơn, rồi hỏi Moritz:
                      ---Tại sao anh khóc?
                      ---Tôi không khóc!
                      ---Tôi thấy mắt anh rướm lệ. Tại sao anh khóc?
                      ---Tôi không biết.
                      ---Anh có sợ gởi lá đơn nầy hay không? Chuyện tôi viết có đúng sự thật không?
                      ---Tôi không sợ. Những gì ông viết đều đúng cả.
                      ---Vậy tại sao anh khóc?
                      ---Chính vì đó mà tôi khóc. Rõ là đúng y sự thật.
                       
                      Ba ngày sau khi gởi đơn, Moritz được kêu lên thẩm vấn.Traian cho anh mượn áo sơ-mi với quần dài và nói:
                      - Ta đã thắng, lá đơn có kết quả.
                      Mắt Moritz sáng lên, anh tưởng như sắp được trả tự do, anh nói:
                      - Ta đã thắng, cũng nhờ ông tất cả, những gì ông viết trong đơn đúng sự thật làm sao!
                      Đừng sợ nghe anh, có bọn chúng mới sợ vì chính chúng là thủ phạm!
                      Moritz vui vẻ đi ra.
                      Trưa anh trở về, Traian chờ anh ngoài cửa, vội vã hỏi:
                      - Chuyện ra sao? họ có hứa thả anh chưa?
                      Moritz cúi xuống, vẫn giữ vẻ mệt mỏi, anh đáp:
                      - Để sau rồi tôi nói, bây giờ chưa được!
                      - Trời ơi! bộ anh điên rồi sao hả, tôi trông mong anh cả buổi, rồi bây giờ anh bảo tôi chờ một lúc nữa!
                      Moritz lượm tàn thuốc ở phòng, thủng thẳng xé giấy bỏ, gom thuốc thành hai phần, một cho anh, một cho Traian, rồi lấy giấy nhật trình gói một điếu thuốc. Anh chậm rãi nói:
                      -Tốn hơn để sau tôi nói, ông Traian à!
                      - Họ có hứa thả anh không?
                      - Không, họ không hứa với tôi chuyện ấy!
                      - Họ có chửi mắng anh không?
                      Moritz vẫn tiếp tục vấn thuốc, và đáp:
                      - Họ không chửi mắng tôi!
                      - Họ có đánh anh không?
                      - Không!
                      - Vậy tại sao anh không nói, họ có làm gì khổ anh đâu?
                      Moritz đốt thuốc rồi đáp:
                      - Họ không làm gì hêt!
                      - Hay chưa tới phiên anh, không hại gì hết, mai họ kêu anh nữa!
                      - Có, phiền tới tôi rồi!
                      - Họ có hỏi anh chuyện gì không?
                      - Có.
                      Lưỡi Moritz như líu lại, anh phải gạn từng tiếng, Traian nóng nảy nói:
                      - Anh thuật hết tôi nghe coi, khởi đầu làm sao?
                      - Tôi được kêu vô trước hết, vô phòng, tôi được mời ngồi ghế, để trước bàn.
                      - Vô đầu như vậy tốt lắm, nếu chúng nó mời anh ngồi là điều lành rồi, chắc chúng nó có đọc hồ sơ và thấy anh vô tội. Không phải ai cũng được mời ghế đâu, nói tiếp đi.
                      - Một viên đội hỏi tôi.
                      - Nó có lễ phép không?
                      - Lễ pháp lắm!
                      - Nó hỏi câu gì trước!
                      - Trước hết y xem giấy tờ, rồi y hỏi tôi: "Anh là Iohann Moritz phải không?"
                      - Tôi đáp: "phải". Rồi y xem giấy tờ một lần nữa. Đoạn y hỏi tôi: "Tên Moritz viết như thế nào? "t" hay "tz" sau chót?" Tôi đáp với y tôi viết hai cách, ở Roumanie tôi viết "t", còn ở Đức, viết "tz".
                      Moritz ngừng nói, nhìn Traian, vẻ thất vọng, Traian nói:
                      - Rồi sao nữa, tại sao anh bị bắt?
                      - Viên đội nói với tôi: "Cảm ơn anh, đươc rồi, anh về chỗ."
                      - Có vậy thôi sao?
                      - Có bấy nhiêu thôi.
                      - Anh không rán nói thử vói nó chút gì khác nữa sao? Tại sao không thuật gì hết những gì tôi dạy anh đó?
                      - Tôi có nói, nhưng viên đội không muốn nghe, y gọi: "người kế."
                      - Rồi anh nói gì?
                      - Không nói gì hết.
                      - Vô lý quá, hoàn toàn vô lý, rồi sao anh đi ra.
                      - Phải, tôi đi ra.
                      - Một cuộc thẩm vấn mà chúng ta mong đợi suốt năm trong tù là như thế sao? Không có gì khác nữa sao? Hoặc giả anh có quên cái gì chưa?
                      - Không, chẳng hỏi gì thêm nữa. Tôi đi ra, khi tôi đóng cửa, tay tôi còn run. Họ kêu người kế, là Thomas Mann.
                      - Y hỏi người đó chuyện gì?
                      - Hỏi xem tên Mann viết 1 hay 2 chữ "n" ở cuối.
                      - Có bấy nhiêu à, không hỏi chuyện gì khác sao?
                      Hai dòng nước mắt chảy dài theo má Moritz, giọt lớn bằng hột trân châu.
                      Traian vỗ vai an ủi.
                      - Thôi, ta phải kiên nhẫn, anh Moritz à! Khi mấy con thỏ bạch chết dưới tàu ngầm, thì không còn giải pháp nào hơn là ráng- chịu...

                      134


                      Đơn thỉnh nguyện số 5: - Đề tài: Công Lý(Cơ giới hóa các cuộc thẩm vấn.)
                      Tôi biết các người được chỉ thị để hỏi cung tội nhân trại giam này một cách đặc biệt riêng rẽ. Cố nhiên, lịnh vô lý quá, trong lúc các người này bị bắt giam từng đoàn, một cách tự động thì thẩm vấn từng người thật vô lý!
                      Tuy vậy tôi hiểu tại sao lịnh đó được đưa ra. Văn minh các người phải tỏ vài cử chỉ lễ độ đối với dân bản xứ. Đó chỉ là chút nhân nhượng cho có lệ, theo pháp lịch sự vậy thôi.
                      Một sĩ quan phải thẩm vấn năm trăm tù binh mỗi sáng và năm trăm mỗi chiều. Tôi nhận thấy với ai, các người cũng chỉ hỏi một câu giống nhau mà không cần nghe trải lời. Thật vậy, có khờ dại lắm mới nghe tù nhân kể chuyện này chuyện nọ, có hay ho gì đâu, chẳng có gì hết.
                      Nhưng tôi nghĩ đến hơi sức các người đã phung phí để hỏi các câu hỏi ấy. Cả ngàn lần một ngày cũng chỉ câu hỏi đó mà thôi. Tổn lực biết là chừng nào, tôi nghĩ mấy sĩ quan được cử làm ở phòng thẩm vấn, chắc phải đau quai hàm và mỏi miệng lắm, lúc mãn giờ chiều.
                      Vì thế tôi đề nghị thâu vào máy mấy câu hỏi ấy, cách thực hiện thế này. Vị sĩ quan giữ phận sựu thẩm vấn cừ ngồi tại phòng làm việc vì thủ tục thẩm vấn từng người bắt buộc phải như thế, rồi cho máy phóng thanh chạy. Khi từ nhân vào phòng, trong tiếng dĩa nói: "Ngồi xuống đây", người tù ngồi, đĩa tiếp tục quay. Nghe câu hỏi thứ nhứt, thứ nhì, thứ ba. Đĩa kết thúc: "cảm ơn, đủ rồi." Khi người từ đến trước cửa, thì đĩa quay cũng quay tới câu cuối cùng: "Người kế".
                      Cuộc thấm vấn cứ như vậy là xong! Người từ khác bước vô phòng, đĩa lại quay và hỏi những câu như lần trước. Với một đĩa thâu nhanh, các người có thể thẩm vấn bốn năm trăm tội nhân.
                      Trong khi đó sĩ quan thẩm vấn cứ ngồi tại bàn và đọc tiểu thuyết trinh thám, tới trưa khi đi ăn, y có thể ăn uống như thường mà khỏi bị đau hàm. Nên nhớ là cách sắp đạt các cuộc thẩm vấn ấy chỉ cần nêu ra câu hỏi mà không cần nghe câu trả lời. Máy móc có thể làm việc đó, chuyện này hoàn toàn hợp lý. Đã tuân theo thủ tục mà không làm mệt sức nhân viên thẩm vấn. Công lý được áp dụng khi áp dụng phương thức ấy. Xã hội văn minh phải được xử đoán tự động. Đâu phải dùng lối xưa như hồi chưa tìm ra điện lực. Bao nhiêu kĩ thuật có khí mà làm gì khi công lý chưa dùng tới máy phóng thanh.
                      NGƯỜI CHỨNG.


                      135


                      Darmstadt: trại giam thứ mười lăm. Cũng giống như các trại giam trước, nhưng có thêm một nhà thờ chính thống giáo. Một nhà thờ nhỏ lâm thời dựng lên. Traian và Moritz đội mũ. Nhà thờ ở dưới lều vải, cũng có bàn thờ chúa. Tượng thánh làm bằng giấy cứng, vẽ bằng phấn màu và than.
                      Trong nhà thờ không có ván rầm; nền bằng đất.
                      Đêm qua trời mưa, nước chảy vô lều, đất trở thành bùn.
                      Giữa nhà thờ, có một tượng thánh giá cỡ người lớn, Traian quỳ dưới bàn thờ chúa. Đức Jesus làm bằng giấy cứng, vòng gai trên đầu làm bằng thiếc đồ hộp cắt mỏng.
                      Traian ngó lên vết thương ở tay và lương long chúa Ki-tô. Họa sĩ không có màu đỏ để tô màu máu, nên chỗ nào là vết thương thì lấy giấy đỏ ở bao thuốc Lucky Strike dán lên. Chữ đen không thể bôi nên còn đọc được. Traian nói:
                      - Không bao giờ con thấy Chúa bị đóng đinh đau thương nhường này! Con đến để cầu nguyện cho vêt thương của con, nhưng con không còn cảm thấy còn can đảm nữa, xin Chúa tha tội cho con. Con xin cầu nguyện các vết thương, bằng Lucky Strike, đẫm máu ở đùi, ở chân bàn tay Chúa. Các vết thương ấy còn đau đớn hơn các vết thương bằng máu thịt của con. Con xin cầu nguyện vòng gai bằng chiếc đồ hộp trên đầu chúa nữa.
                      Traian nhìn lên mình Chúa, thấy ở trên ngục đấng Cứu-thế một chữ "M" bằng chữ in. Chữ M đó trong hộp "Menu Unit"; giấy hộp này dùng để cắt thành thân thể Chúa.
                      Traian đứng dậy, hôn bàn chân Chúa và nói:
                      - Bây giờ con mới thấy đồng điệu với thân thể của Chúa. "Thực đơn" đời đời của chúng con là hi vọng. Chúa là "Menu Unit" của con, không lúc nào bằng lúc này, con mới hiểu rõ thân thể Chúa là món ăn bồi dưỡng của chúng con. Làm sao người tù họa sĩ lại có sáng kiến làm thân thể Chúa bằng hộp "Menu Unit". Hiện giờ Chúa tượng trưng tất cả lòng khát khao thành kính các thánh, lòng khát khao bánh mỳ và tự do của con.
                      Traian đang trầm mặc thoát tục, chẳng còn thấy ai xung quanh.
                      Moritz ngắm nhìn mấy thiên thần bằng giấy láng bao điếu thuốc, tượng thánh đồng trinh theo dây chuyền bằng nắp hộp mạ vàng của hộp thịt dồi.
                      Moritz làm dấu thánh giá trước tượng thánh Nicolas, ông thánh giống mục sư Koruga.
                      Đoạn anh đến quỳ gần Traian và nhìn mấy vết thương của Chúa Ki-tô. Traian cầu nguyện:
                      - Lạy Chúa, con không xin Chúa cất ly trên môi con. Con biết rằng việc ấy không được. Con khẩn cầu Chúa giúp con uống cạn ly ấy. Từ một năm nay con ở cạnh lề cuộc sống và cái chết. Từ một năm nay con ở lằn ranh giữa thực tế và cõi mộng.
                      #26
                        Whatever 08.01.2011 06:28:17 (permalink)
                        Con đã vượt khỏi thời gian nhưng vẫn tiếp tục sống. Sinh lực thoát lìa thể xác con, nhưng con còn sống, vẫn thở, vẫn lê lết thân tàn, vẫn ăn uống dẫu rằng con không muốn nữa. Bao nhiêu đau khổ ấy là do nơi con không còn hiểu biết là con bị tù hay còn tự do.
                        Con thấy bị giam cầm nhưng con tin rằng chưa bị giam cầm.
                        Con thấy con được tự do nhưng linh hồn con nhủ rằng không lý nào con chẳng tự do. Cái khổ hình không hiểu biết này còn nặng nhọc gấp mầy lần cảnh làm thân nô lệ. Những kẻ giam nhốt con không thù ghét con, không muốn phạt vạ con và không muốn con chết.
                        Họ chỉ muốn cứu thế giới.
                        Nhưng họ hành hạ, giết dần giết mòn con... Họ hành hạ và giết dần giết mòn tất cả nhân loại. Nhưng dưới cái bay thờ hồ của họ, chẳng phải bịnh viện, mà là những ngục thất được dựng lên.
                        Chuyện xảy ra như một định mạng, con không hiểu được nữa!
                        Sức con không đủ để chịu khổ não nữa. Giờ mà con đang sống đây không thuộc về cuộc sống nữa, con không đủ năng lực để trải qua giờ này, với thân xác máu thịt con. Đó là giờ thứ hai mươi lăm, cái giờ rất trễ để được cứu vãn, rất trễ để chết và để sống. Tất cả đều trễ rồi!
                        Lạy Chúa biến con thành đá nhưng đừng bỏ con lại cõi đời này.
                        Nếu Chúa bỏ con con sẽ không chết được. Xin Chúa nhìn thể xác và linh hồn con, chúng tha thiết muốn chết nhưng con, con vẫn còn sống. Thế gian đã chết và còn sống mãi, con không phải một bóng ma, mà cũng không phải một con người, con đang dở chết dở sống.
                        Traian ôm đầu buồn tham bi thương, Moritz rờ nhẹ vai chàng như vỗ về, nhưng Traian không hay biết.
                        Một mục sư vô nhà thờ, ông mặc áo nhà binh Mỹ có chữ P.W như tù nhân.
                        Moritz lại ôm hun tay ông
                        Traian vẫn quỳ gối.
                        Mục sư hỏi Moritz, hai người từ đâu lại và dân ở xứ nào. Khi nghe vợ Traian cũng bị bắt, ông khoanh tay trước ngực và cầu nguyện cho nàng. Ông ban pháp lành cho Traian còn quỳ gối trước thánh giá, không hay có ông.
                        Mục sư nói:
                        - Mỗi ngày, lối sáu giờ sáng, cha làm lễ mi-xa tại đây. Cha là đại chủ giáo Varsovie. Tất cả đoàn mục sư của cha đều bị bắt giam tại trại nầy. Nghi thức làm lễ trọng thể lắm, các con nên tới dự. Có một mục sư xứ Roumanie nữa, hiện ông ấy đang nằm nhà thương.
                        Moritz ngó sững vị đại chủ giáo. Ông nói:
                        - Cha sẽ viết ít chữ vô nhà thương mời mục sư. Chắc ông sẽ đến khi biết có người dân xứ Roumanie nằm trại nầy. Ông sẽ đến để ban pháp lành cho các con.
                        Lối sáu giờ, đại hội giáo sĩ khởi sự làm lễ mi-xa. Các mục sư đều choàng khăn làm lễ trên bộ quân phục tù binh.
                        Traian và Moritz đứng kề nhau, vị đại giáo chủ mặc áo tế lễ trắng, đội mũ giám mục, cố nhiên không có gắn kim cương.
                        Tiếng ông hiền lành và êm dịu như ngọn đờn.
                        Traian bước vào nhà thờ nhưng vừa bước đến thánh giá thì ngã quỵ. Moritz tương Traian té, chạy lại đỡ dậy, nhưng thân hình Traian mềm nhũng dường như xương cốt đều tiêu tan, mặt mày nhợt nhạt như sáp ong.
                        Trong lều nhà thờ chẳng có ai ngoài mấy mục sư. Moritz ngó lên nhờ các vị đỡ phụ nhưng anh chợt hiểu vì sao Traian té xỉu. Anh kêu: "Cha Koruga!", chỉ được bấy nhiêu rồi quỳ xuống trước mục sư, như muốn ôm đầu gối ông. Nhưng mục sư đâu còn hai chân, chỉ đi bằng cặp nạn ông tiến lại gần hai người.
                        Traian và Moritz đứng im. Tóc mục sư Koruga bạc thêm nhiều. Ông mỉm cười, vẻ thật hiền lành và đầy hạnh phúc. Xuyên qua cái cười, cái ngó của mục sư, người ta tưởng thấy thiên đàng...
                        Mục sư nói:
                        - Traian! con!
                        Vừa nghiêng mình, một cây nạn rời. Ông không té, ông còn đứng được, chống trên một cây nạn.
                        Rồi ông bỏ luôn cây nạn ấy, ông đứng gần Traian, ngay như mũi tên, trên cái gì còn lại của hai chân ông. Ông bỏ luôn cặp nạn để hai tay thong thả, ôm chầm lấy con ông.
                        Moritz lượm cặp nạn cầm tay, đứng gần hai cha con mục sư Koruga.


                        137

                        Cả ba: mục sư Koruga, Traian, Moritz đều ở chung lều trong trại giam Darmstadt.
                        Sau một năm chờ đợi, tội nhân được phép tiếp thơ từ.
                        Moritz đầu tiên nhận được thư của mẹ Hilda.
                        "Hans con
                        "Ngày 9 tháng 5 năm 1945 nhà con bị cháy, chắc con chưa hay. Buổi chiều lúc quân đội Nga vào thành phố, Hilda và thằng Frantz đều ở trong nhà. Mấy bữa đầu má chưa biết mẹ con nó bị chết thiêu. Nhưng bữa kia má bới đống tro tàn xem còn sót gì lại không thì thấy thây chúng nó thành than. Hilda chết còn ẵm thằng Frantz trên tay. Má không hiểu tại sao Hilda không chạy ra lúc nhà cháy. Chắc nó còn ngủ, nhưng má không tin Hilda có thể ngủ vào giờ đó, nhứt là ngày đó quân đội Nga kéo vô thành. Tất cả đều chạy trốn hết nhứt là đàn bà. Con biết Hilda có bao giời ngủ buổi chiều đâu. Hồi còn ở bịnh viện, trưa về là nó làm việc nhà liền.
                        "Má gom góp hài cốt hai mẹ con Hilda để trong một cái quách, chôn ở nghĩa địa gia đình, má không thể làm được hai cái quách vì đắt quá. Thiên hạ ở đây chôn người chết không hòm, ván kiếm không ra mà đinh thì đắt quá! Má phải nhỏ đinh ở vách tường và mấy khung hình đưa cho bọn thợ đóng hòm Hilda. Nhưng thợ mộc không muốn làm, viện cớ đinh nhỏ và ngắn không đóng được. Má phải cho một cái nón của con, thợ mới bằng lòng. Con đừng giận sao má không xin con trước, nhưng nếu không có chiếc nón ấy thì thợ không chịu đóng hòm và đống xương lấy gì mà chôn. Má để nó trong nhà một tuần nay rồi, má có để một thánh giá làm bằng cây. Chừng con về con sẽ làm bằng đá. Gia đình ta, tại nghĩa địa, mà nào cũng có thánh giá bằng đá.
                        “Má còn thấy trong đống tro xác một sĩ quan cháy thiêu nữa. Chắc ông này xin nghỉ nhờ hoặc thay quân phục mặc thường phục. Sĩ quan nào cũng làm như thế lúc quân đội Nga tới. Nhưng cặp da ông không cháy trọn. Má đọc giấy tờ, thấy tên ông là Iorgu Iordan, ở xứ Roumanie như con. Má viết chuyện này cho con hay vì má cho đây là một người bạn hoặc thân quyến đến thăm con.
                        138.

                        Mục sư Koruga nói:
                        - Có thể như vậy là tốt hơn.
                        Ông để tay lên vai Moritz và an ủi:
                        - Con thử tưởng tượng Hilda còn sống, và một ngày kia con được thả ra con sẽ về với vợ nào? Làm sao lựa chọn.
                        Moritz hỏi:
                        - Vậy thì Suzanna không có ly dị con sao? Và nàng vẫn chờ con ở nhà sao?
                        Nhờ thế anh mới biết Suzanna vẫn chung thủy với anh.
                        Mục sư nói:
                        - Suzanna chờ con và sẽ chờ con tới ngày cuối cùng. Lúc nào nàng cungxlaf vợ con. Nàng kí giấy ly dị là để giữ lại cái nhà và khỏi bị đuổi ra đường với mấy đứa nhỏ thôi. Nàng hành động như vậy vì không còn cách nào khác nữa, chớ nàng chẳng hề nghĩ đến việc xa lìa con.
                        - Vậy ra cuộc ly dị láo, ma con ngu dại cứ tưởng nàng lấy chồng khác rồi. Cho nên mới cưới Hilda, con tưởng Suzanna bỏ con. Làm sao chẳng tin được khi trước mắt con đọc tờ ly dị. Tội lỗi con nặng lắm, Chúa không tha con.
                        - Chúa sẽ tha tội, chuyện đã xảy ra thật nghiêm trọng con à, nhưng không phải con hoặc Suzanna có lỗi, chỉ một mình quốc gia với các luật lệ chịu trách nhiệm. Quốc gia không thể tha thứ được, quốc gia sẽ bị trừng trị như thành Sodome và Gomorrbe. Lưỡi sét thần nộ sẽ chẳng những trên quốc gia mà trên tất cả xã hội hiện đại đã phạm những trọng tội cho Chúa thấy cũng đau lòng.
                        139
                        Traian bị kêu đi thẩm vấn lần đầu tiên, viên sĩ quan hỏi:
                        - Anh cho rằng không biết tại sao mình bị bắt và bị giam hơn 1 năm nay? Trong 25 000 tù binh không một ai thú nhận mình bị bắt. Tất cả đều nói chúng tôi xâm chiếm Âu châu và bắt người một cách vô cớ, may rủi. Anh lầm rồi, mỗi lần bắt ai đều đúng sắc lệnh ban hành.
                        Traian mỉm cười, viên sĩ quan nhìn thấy, nói tiếp:
                        - Anh muốn nói luật lệ chúng tôi không phù hợp với nguyên lý pháp luật. Không ngày nào tôi khỏi nghe câu trách móc này. Tất cả các anh đều viện cớ chỗ thiếu giá trị căn bản pháp lý về sự bắt giữ các anh, các anh thật buồn cười. Thứ nhứt mỗi nước đều có quyền lập luật lệ riêng, thích ứng cho nước đó tuân theo, thứ nhì, pháp luật không có nguyên tắc vĩnh cửu bất di bất dịch. Công lý do người bày ra và không có gì của người mà được vĩnh viễn. Đại để, một đạo luật cũng có giá trị tương đương với một đạo luật khác và tất cả các đạo luật đều có thể vừa tạm thời vừa vĩnh cửu. Kẻ nào có chủ trương nghịch lại chỉ làm cho mình lầm lạc mà thôi.
                        - Theo luật hiện hành tại vùng Mỹ chiếm đóng thì anh bị bắt vì anh là một công chức của một nước nghịch. Luật ấn định như vậy.
                        - Vợ anh bị bắt cũng chiếu theo luật ấy, do điều khoản định rằng vợ công chức cao cấp đương nhiên bị bắt. Cha anh cũng vậy, ông đương nhiên bị bắt vì ông là công chức nước nghịch.
                        - Tôi nhìn nhận như thế là nghiêm khác với anh nhưng đó là luật định. Suốt thời gian lịch sử, luật pháp nào cũng nghiêm khắc cả, không lẽ anh biểu tôi phải hỏi anh mỗi khi thiết lập luật lệ nước tôi sao?”
                        Traian đứng dậy, muốn đi ra, lúc khởi sự viết quyển tiểu thuyết chàng đã chắc chắn, giai đoạn mà con người bị luật lệ cấm không cho đi theo đời sống của mình đã gần đến. Khi bị bắt anh biết các luật đó đã được thi hành, nhưng còn nuôi ảo vọng đoán sai.
                        Bây giờ chính thức được biết các luật lệ ấy phải được kính trọng và triệt để thi hành, chàng không còn nghi ngờ gì nữa!
                        “Theo luật cũng có những người không phạm tội có thể bị bắt, bị tra tấn, bị bỏ đói, bị tước đoạt và bị thả tiêu!”
                        Viên sĩ quan nói tiếp:
                        - Tôi cũng chắc anh không phạm tội, lầm thứ tư rồi, tôi có xin thả cho anh, vợ anh và cha anh mặc dầu tôi bị cấm ngặt không được phép xin tha riêng từng người, những tội nhân đương nhiên phải bị bắt. Tôi chưa nhận lời phúc đáp. Lịnh trả tự do chco riêng từng người không được chấp nhận, mà chỉ được chấp nhận cho toàn thể hạng người thôi.
                        - Vậy từng cá nhân vô hay phạm tội không cần xét đến trong vấn đề này sao? Ông có chú ý đến chắc chỉ vì tọc mạch mà thôi.
                        - Chuyện ấy tôi không quan tâm. Dẫu có chạm lòng tự ái của anh là người đã sống theo quan niệm cá nhân, với tất cả tư tưởng thần học, thẫm mĩ hoặc nhân đạo đi nữa, cũng không phải tự tôi có thể thay đổi được. Vả lại, cần gì thay đổi, hệ thống tổ chức xứ tôi có vẻ khô khan máy móc, tinh xác như toán học nhưng nó đúng lắm! Vũ trục vận hành dường như đã theo con đương lý số và không ai nghĩ đến việc đổi dòng hay xoay hướng nó!
                        - Cuộc thẩm vấn này không ích gì cho ông sao ông không bỏ phứt nó đi vì không có nó cũng được. Chẳng phải những gì thuộc về cá nhân đều không ích gì cho ông sao?
                        - Không, những gì chúng tôi muốn biết về một cá nhân là những gì thực sự thuộc về mỗi người: tên, họ, chỗ ở, ngày sinh, nghề nghiệp, các bằng chứng ấy để ghi trong phiếu dùng của bản thống kê.
                         

                        - “Vả lại cuộc thẩm vấn là để kiểm chứng lại vài sự thực, hoặc để phân tù nhân ra từng loại hạng. Bắt hoặc thả đều chỉ phụ thuộc vào từng loại hạng, phận sự của chúng tôi là sắp xếp từng loại người vào loại hạng của họ. Một công việc nghiêm khắc, rất công minh, rành mạch.
                        - Vậy ông không thấy vô nhân đạo khi xóa bỏ con người và đối xử với con người như một loại hạng hay sao
                        - Không, tôi không thấy gì là vô nhân đạo cả, phương pháp này thực tế, mau lẹ và công bình hơn hết. Sự công bình chỉ có thể thực hiện dưới phương pháp này. Sự công bình theo phương pháp của toán học và vậy lý học, nghĩa là theo phương pháp tinh xác hơn hết.
                        - “Chỉ có thi sĩ và các nhà thần bí mới phản đối phương pháp ấy.
                        - “Nhưng xã hội ngày nay đã loại bỏ thần bí và thi văn rồi. Chúng ta đang trong thời kì toán học và khoa học chính xác, chúng ta không thể thoái lùi vì lí do tình cảm. Vả lại tình cảm chỉ là sáng tác của thi nhân và nhà huyền học.
                        Viên sĩ quan ra dấu rằng cuộc thẩm vấn đã kết thúc và nói:
                        - Thôi anh đừng buồn.
                        Traian mở của đi ra, viên sĩ quan lạnh lùng gọi: “Người kế”
                        140

                        Moritz có ý định trốn đi, từ lúc biết Suzanna không xinly dị và hiện đang nuôi con, trung thành chờ anh, anh đứng ngồi không yên.
                        Traian nói:
                        - Anh đừng trốn vô ích, anh chưa tới hàng rào kẽm là có lính Ba Lan bắn anh rồi.
                        Moritz ngắm mấy tên lính canh Ba Lan mặc quân phục Mỹ màu xanh, chúng im lặng ngắm anh như đoán được ý nghĩ của anh, và cầm sùng ghìm nơi tay, sẵn sàng bắn, Traian nói:
                        - Và nếu lính canh Ba Lan có bắn trật anh thì anh cũng bị lính tuần tra Mỹ hoặc Đức bắn. Trước khi về đến Roumanie, anh còn gặp bao nhiêu là lính tuần thành đủ các nước: Áo, Tiệp, Hung-gia-lợi, Pháp… và rốt lại chẳng bao giờ anh về đến nhà hết. Họ sẽ bắn anh trên dọc đường về, nếu anh tránh được đạn của dân nước này thì đạn của dân nước khác sẽ bắn ngã anh. Giữa anh và nhà anh, giữa anh và gia đình anh, anh Moritz à, còn có tất cả các nước trên thế giới, các nước võ trang hoàn bị muốn giết anh…
                        - Giữa mỗi người và mỗi cá nhân chí thiết của họ còn có đạo binh quốc tế ấy. Con người không được phép sống đời sống của họ, nếu toan làm thử thì bị bắn ngay. Xe tăng, súng máy, rào kẽm gai, đèn rọi để làm gì?
                        Moritz nói:
                        - Dù sao tôi cũng trốn!
                        Tên lính Ba Lan càng ngó anh lườm lườm.
                        Cùng lúc ấy có hai sĩ quan Mỹ đi vào sân, Moritz ngó theo.
                        Thình lình anh không nói gì, bỏ Traian, chạy ra đứng trước mặt hai sĩ quan. Họ đứng lại, ngó Moritz và Moritz cũng ngó họ. Viên sĩ quan mập và có tuổi, hai tay ôm lây đầu Moritz như người anh ôm em. Bọn tù bao quanh chung quanh, lấy làm lạ. Chưa bao giờ họ thấy sĩ quan Mỹ ôm người tù.
                        Moritz đi với sĩ quan tới nhà thương, ông này vẫn choàng vai Moritz. Hai người vô nhà thương.
                        Traian đến gần và đứng ngoài cửa chờ, chàng tò mò muốn biết chuyện gì, thế nào Moritz cũng thuật lại nhưng anh ta lâu ra quá!
                        Một lát, Traian nghe tiếng Moritz, anh thò đầu ra cửa mắt sáng ngời, nói với Traian:
                        - Sĩ quan Mỹ đó là ông bạn Abramivici của tôi. Tôi nhing biết ông liền, hồi trước tôi vượt ngục xứ Roumanie với ông, bây giờ thì tôi chắc được thả rồi!
                        Moritz đóng cửa lại, bạn anh kêu anh để nói chuyện.
                        141

                        Hồi ở trại giam Roumanie và Hongrie , Moritz chỉ nói bằng tiếng Do Thái với bác sĩ Abramivici nên bây giờ hai người dùng thứ tiếng ấy. Trung úy bác sĩ vui mừng được gặp Moritz và lắng nghe từng tiếng nói của anh.
                        Moritz thuật lại những gì đã xảy ra từ ngày chia tay tới nay, bác sĩ tỏ ra thương hại nhất, là khi nghe anh kể vể nỗi thống khổ của anh trải qua 15 trại giam và bị nhốt trong trại giam chót này.
                        Bác sĩ coi đồng hồ tay và nói:
                        - Tôi phải đi, anh cần được giúp đỡ, tôi biết lắm anh Iankel à. Ấy là lẽ thường, anh cho tôi biết anh cần dùng món gì tôi se giúp cho. Tôi không quên anh đã trải qua nhiều lúc khó khăn.
                        Ông vỗ vai Moritz nói tiếp:
                        - Bây giờ tôi có thế lực lắm, còn anh lại cơ cực như vầy, anh cần gì: thuốc hút, đồ ăn hay quần áo, anh muốn món gì?
                        - Tôi muốn được ra khỏi chốn này, tôi muốn được về nhà, gặp lại vợ con tôi.
                        Bác sĩ phật ý, nói:
                        - Đừng nên đòi chuyện gì không thể được, thứ nào thuộc quyền tôi tôi mới giúp được, thả anh ra là khi nào có lệnh chung. Đừng nghĩ tới chuyện này nữa, phải kiên nhẫn chờ đợi Moritz à!
                        - Tôi vô tội, tại sao giam cầm tôi?
                        Bác sĩ hơi giận, nói:
                        - Việc phạm tội và sự thả ra không cần xét đến, ai dám quả quyết rằng anh có tội, anh Iankel? Chuyện được thả ra anh phải ráng chờ!
                        - Tôi đã chờ lâu rồi.
                        - “Đó là theo ý anh thôi, anh còn quê mùa, mộc mạc quá. Anh tưởng sĩ quan nào cũng có quyền thả tù nhân vì họ vô tội hay sao? Nếu thế thì trại giam sẽ trống lốc trong nay mai. Mỗi tù nhân quốc xã đều có thể trưng bằng chứng vô tội. Được thả ra là khi nào có lịnh của Bộ Tư lịnh Frantcfort. Tại đó giấy tờ gỏi đi Washington và lịnh quyết định sẽ chuyển tới Wiesbaden, một ủy ban chuyên môn ở Esslingen sẽ cứu xét quyết định ấy và gửi tời Berlin. Lịnh thả ra được ban từ Berlin và gởi tới Heidelberg, nơi đây phiếu cá nhân của anh được rút ra khỏi thùng phiếu của cả trăm phòng và chừng đó anh mới được thả về, nhưng mấy việc này lằng nhằng lắm vì có một máy điện làm việc tự động. Mỗi tội nhân có một phiếu cá nhân. Bên Mỹ có lập những cơ sở chứa phiếu, to lớn bằng thành lính trước mặt ta đây. Khi lịnh được gởi tới Heideiberg thì người ta cho rút phiếu đương sự ra khỏi thùng phiếu của những nơi nầy: Washington, Stuttgart, Ludswigsburg, Munich, Kornwestheim, Paris, Berlin, Francfort
                        - “Tên an có ghi cùng khắp thế giới, ở Phòng liên bang Thông tin Mỹ, ở bộ tư lệnh tối cao của Đồng Minh ở Ba-lê, ở ủy ban kiểm soát Berlin, trong các trại giam, các khám đường, các văn phong C.I.C, C.I.D, M.P, S.P, S.Q.S…ở khắp nơi.
                        - “Những cử động của anh, dầu nhỏ nhặt, tỉ dụ anh bị chuyển từ trại giam này sang trai giam khác đều bắt buộc đổi phiếu của anh trong thùng phiếu những nơi nói trên, chuyện ấy anh biết chăng?
                        Moritz tưởng tượng tên anh trong các thành phố lớn nhất thế giới, tên anh được lặp đi lặp lại trong các thùng phiếu to, lúc cháy sáng, lúc tắt như mấy cây đèn rọi trên dây kẽm gai ở các trại giam. Từ đây anh đã biết mỗi cử động của anh đều bị chụp hình, bị ghi sổ và bị soi sáng, anh nói:
                        - Tôi không biết chuyện ấy!
                        - Phải, nếu anh biết thì anh đâu nhơ tui xin cho anh, tui không phiền anh đâu, anh tưởng một mình tui mà kéo được guồng máy khổng lồ ấy à!
                        Bác sĩ Abramocivi cười vang lên và nói:
                        - Đến tổng thống Huê kì cũng không làm được chuyện đó, anh phải bình tĩnh chờ tới phiên anh.
                        - Nhưng trong khi tôi vô tội, tại sao phải ở mãi trong tù? Tại sao cái máy ấy thù oán tôi trong khi tôi chẳng làm gì hại nó. Cái máy ông nói đó chắc để dùng cho những kẻ trộm cướp, giết người, và kẻ bất lương thôi chớ!
                        - Anh ráng tập đừng xét đoán như một thôn dân lạc hậu nữa anh Iankel à! Các vấn đề anh đều xét trong quyền lợi cá nhân, xã hội văn minh chẳng chuyên chú đến quyền lợi cá nhân. Chuyện anh phạm hay vô tôi là chuyện của anh, chỉ quan hệ tới vợ anh, láng giềng anh và các nông dân khác trong làng anh. Chỉ mấy người ấy mới chú trọng đến việc cá nhân, mấy xứ văn minh họ xét ngươi với tầm bao quát trọng đại hơn, họ khôn xét đến trường hợp từng người.
                        - Nhưng tại sao lại bắt tôi?
                        - Chúng tôi đã theo thủ tục bắt bớ dự phòng và từng loại hạng, nếu chúng tôi cần dùng một phạm nhân, một tội phạm chiến tranh chẳng hạn, thì sẽ có liền không cần phải tìm kiếm, đuổi bắt khắp làng mạc, mất biết bao thì giờ? Với lối bắt bớ dự phing này, chỉ nấn nút hiện những chữ tương ứng với chữ khởi đầu của tên người tội nhân, thì chưa đêm đến số ba đã có trước mặt chúng tôi tấm phiếu có dán hình với những chỉ dẫn về bề cao, màu tóc, ngày và nơi sinh đẻ, cân nặng, mấy cái răng, và những gì cần ích cho chúng tôi. Kế đó chúng tôi chỉ cần cầm máy gọi bằng vô tuyến truyền thanh nói khám đường hoặc trại giam có tội nhân bị nhốt thì vài giờ sau, tên ấy có mặt, bằng xương bằng thịt trước tòa án quốc tế Nuremberg. Anh coi có phi thường không, kết quả của kĩ thuật đó. Thảy thảy đều tự động, đều chạy bằng điện cả. Như vậy làm sao anh muốn nó thả anh được, có họa chăng là anh điên, anh cũng như một sợi chỉ chạy trong máy dệt. Hễ mắc vô khung cửi rồi thì không sao gỡ ra được nữa. Anh phải chờ tới khi nó ra khuôn- dệt chung với mấy sợi khác- phải chờ đến giờ của nó. Không thể làm khác, máy móc tinh vi lắm, phải nhẫn nại!
                        - “Và anh hiện anh đang ở giữa guồng máy, anh có thể vùng vẫy, khoa tay múa chân cũng vô ích, anh không thể nào vượt tung ra khỏi dàn máy được. Cơ khí điếc mù, không nghe, không thấy, chỉ làm việc. Nó làm việc hoàn hảo và đạt tới chỗ hoàn thiện mà con người không đạt được. Phải chờ vì chắc chắn phiên mình phải tới, máy móc không quên như con người đâu, nó đúng giờ đúng khắc lắm, anh biết chưa?
                        Moritz rùn vai nói:
                        - Vậy ông không thể dùng cách nào thả tôi ra sao?
                        - Tôi đang cắt nghĩa cho anh, anh đang trong guống máy và không còn cách nào khác là chờ đợi.
                        - Nhưng nếu ông muốn can thiệp dùm tôi thì chắc chắn có hi vọng, vì chuyện cây có thể điều đình được. Cấp chỉ huy ắt phải những người như ông và tôi, và họ sẽ hiểu. Nếu ông giải thích cho họ nghe, rằng tôi đã có vợ con, và đã chịu đau khổ hàng mấy năm trường trong các trại giam, mà không làm gì quấy, chắc mấy ông đó sẽ thả tôi ra.
                        Bác sĩ nổi giận nói:
                        - Thật như nói chuyện với con lừa không khác. Anh cứ đem chuyện cá nhân và riêng tư ra nói mãi, anh không thể quên được anh, đặc tính của người cổ lỗ thật. Anh cần món gì nói đi: thức uống, đồ ăn hay quần áo?
                        - Tôi muốn được xử công bằng, nhưng công lý nhân loại đã mất hết trên quả đất rồi, tôi không muốn gì hết.
                        - Anh cũng nên hút một điếu thuốc.
                        Bác sĩ đưa một gói Lucky Strike cho Moritz, cười và nói:
                        - Chúng ta là bạn đau khổ của nhau mà!
                        Moritz thò tay lấy điếu thuốc nhưng chỉ còn gói không, bác sĩ kiếm gói khác nhưng không có, ông nói:
                        - Tôi sẽ biếu anh điếu thuốc, lần tới, khi tôi tới lại đây.
                        Bác sĩ đi ra
                        142.
                        Mục sư Koruga ngồi ghế, cặp nạn để trên đầu gối, viên sĩ quan hỏi ông:
                        - Nếu ông khong phải thuốc phái độc tài quốc xã, hoặc cộng tác viên thì ông tới nước Đức làm gì? Chuyện của ông thuật lại rằng lúc tỉnh dậy thấy trong quân y viện của Đức mà không hiểu tại sao chỉ dùng để nói với trẻ con. Những chuyện quái dị như vậy chỉ có thể xảy ra trong các truyện ở miền Balkan của các ông chớ chẳng khi nào có trong thực tế. Với một sĩ quan Mỹ đó là một chuyện thêu dệt vụng về, giấu đầu lòi đuôi, nó giống chuyện hoang tàn, chuyện thần thoại. Quân Đức giữ ông làm gì trong nhà thương, nếu ông không phải là bạn, là cộng sự viên của họ? Tại sao họ lại săn sóc ông trong sáu tháng trường và cưa hai chân ông? Vì ông là kẻ nghịch à? Hay là vì lòng nhân đạo của họ? họ nhân đạo hồi nào vậy, họ bắt người và giết bằng hơi độc tất cả. Ông cộng tác với họ nên được họ săn sóc. Chắc ông buồn lắm khi thấy Hitler không thắng trận à?
                        Mục sư Koruga giữ làm thinh. Mặt ông tái xanh, mồ hôi đọng từng giọt trên lông mày. Ông ngồi ghế không vững tù khi bị cưa chân, ông chỉ nằm. Ông trông cho cuộc thẩm vấn được sớm chấm dứt, để ông được phép rời khỏi cái ghế ấy.
                        Viên sĩ quan nói tiếp:
                        - Chắc ông sẽ vui mừng khi Hitler thắng trận phải không? Chừng đó Hitler sẽ cử ông làm đại chủ giáo xứ Roumanie, và ông sẽ toại nguyện.
                        - Không, tui không vui mừng.
                        - Càng không nữa.
                        Viên sĩ quan cau mày, mục sư nói:
                        - Không cuộc thắng trận nào bằng võ khí làm tui vui mừng được cả.
                        Mục sư vừa nói vừa nhìn lên hình ảnh các trại giam Đức quốc xã treo tren tường và ông nhớ đên xác ông biện lý George Damian, của chàng thanh niên Vasile Apostol và của mấy thôn dân khác trong làng Fantana bị Marcou giết hại cùng một đợt với ông, và quăng bỏ trong hầm phân, sau chuồng ngựa của tòa thị sảnh. Ông nghĩ đến thây các trẻ nít thành Dresde, Francfort, Berlin. Ông nghĩ đến các xác chết còn ngổn ngang ở Dunkerque, Stalingrad. Và ông không tài nào vui sướng khi nghĩ đến các thây ấy đã giúp cho cuộc đắc thắng được:
                        Nhất tướng công thành vạn cốt khô.
                        Muốn đạt đến chiến thắng, mặt đất bằng lấp đầy thây của bao kẻ vô tội... ông đọc một đoạn văn:
                        “Dầu chiến thắng, đâu có tốt đẹp
                        “Mà là cho tốt đẹp
                        “cho những kẻ thích giết người
                        “Phàm kẻ vui thích giết người
                        “Ắt không thỏa mãn ý muốn thống trị ở việc phục lòng thiên hạ
                        “Giết người nhiều lấy cảm thương khóc đấy
                        “Chiến thắng được lấy tang lễ mà xử lấy”
                        (Lão Tử)
                        Viên sĩ quan nói:
                        - Bài thơ hay quá, ông sáng tác phải không?
                        - Bài thơ này do một hiền triết Trung Hoa sáng tác hơn 2000 năm nay
                        - Ông chép lại cho tôi đi, tôi muốn gởi về gia đình tôi, ở Mỹ.
                        Viên sĩ quan tươi cười, hình như đang nghĩ tới gia đình. Nhưng rồi cau mày ngó mục sư, nghi ngờ hỏi:
                        - Ông chắc mấy câu thơ đó do 1 người Trung Hoa nghĩ ra không?
                        - Chắc chắn vậy. Mấy câu thơ làm cho ông thích thì cần gì của người đó hay người khác. Cốt nhất là thơ hay, chuyện khác không quan trọng.
                        - Sao lại không quan trọng, tui vui mừng được biết tác giả là người Trung Hoa, Trung Hoa là một đồng minh của Mỹ. Gia đình tui sẽ hoan hỉ tiếp được bài thơ nầy. Nếu tác giả là một thi sĩ nước nghịch tui không thể gởi về nhà được. Ngày mai ông viết lại cho tui nghe! Tui đưa viết chì và giấy cho ông, ngoài thần học ông còn biết gì khác nữa không?
                        - Tôi học những gì tôi thích vào lúc tôi có thì giờ.
                        - Ông biết viết chữ Trung Hoa không?
                        - Không.
                        - Uổng quá! Tui định nhờ ông viết bài thơ ấy bằng chữ Trung Hoa, để gia đình tui ngạc nhiên chơi vì nhận được chữ Trung Hoa tui gởi về, nhưng không sao, nếu không viết được bằng chữ Trung Hoa ông cứ viết bằng chữ Anh. Tác giả bài thơ ấy có giọng trào phúng quá, vì là dân đồng minh của liên hiệp quốc.
                        khi trở về trại giam mục sư mệt đừ.
                        Moritz đặt ông lên giường, đắp khăn ướt lên trán ông và nói:
                        - Họ có nói chuyện thả Cha ra không?
                        - Không
                        - Vậy họ hỏi cha chuyện gì?
                        - Họ bảo cha viết dùm một bài thơ của Lão Tử, họ muốn cha viết bằng chữ Trung Hoa và tiếc hùi hụi khi cha không viết được.
                        - Cuộc thẩm vấn có bi nhiêu thôi sao
                        Mục sư gật đầu.
                         
                        143
                        Traian được thơ cua Nora, chàng cầm bao thư có đề hai chữ “Tù Binh” trên góc, và nói:
                        - Tôi biết Nora cũng bị bắt nhưng tôi hi vọng vài ngày sau được thả ra. Bây giờ không còn nghi ngờ gì nữa,nàng cũng bị nhốt trong trại giam như chúng ta, nàng cũng bị lưu đày từ trại này sang trại khác, có lính Ba Lan gác ngoài kẽm gai như chúng ta chẳng khác tí nào, tôi không thể chịu đựng được nữa.
                        Nora không biết địa chỉ cua Traian nên đề trên phong bì tên chàng và tất cả các trại giam vùng Mỹ chiếm đóng. Bức thư đã đi cùng khắp trại giam trước khi về tay chàng.
                        Chàng nói:
                        - Chúng nó không cho nàng biết tôi ở đâu và cũng không cho tôi biết nàng ở trại giam nào.
                        Mục sư cố an ủi chàng, ông nằm trên giường, đầu đắp khăn ướt. Traian không nghe những lời khuyên can, chàng đứng dậy nói:
                        - Mọi đau khổ đều có giới hạn, tôi thấy đến chỗ tột cùng rồi, không ai đến đó mà còn sống được.
                        Traian bước ra khỏi lều, Moritz kinh hoàng nói:
                        - Ông Traian đi tự tử
                        Mục sư nằm nắm mắt, ông không nghe Moritz, ông cầu nguyện. Chằng những cầu nguyện cho Traian và Nora, ông cầu nguyện cho tất cả những người bị xã hội kĩ thuật phương Tây dồn hãm vào đường cùng, không ai vượt qua mà còn sống được.
                        Moritz nói:
                        - Ông Traian sẽ tự sát nếu tôi để ông một mình.
                        Mục sư mở mắt, rờ tay Moritz và để cho anh ra đi.
                        144
                        Mục sư nói với Traian:
                        - Con đưa tay cho ba
                        Ông nằm dài, mắt mở hí, trán ông xám ngắt, máu mặt không còn. Ông già nắm tai Traian, không nói lời nào, hơi ấm trong hai bàn tay như san sớt với nhau, máu cũng như truyền qua truyền lại. Chỉ có tình ruột thịt mới cho hai cha con gần gũi nhau như lúc này. Hai quả tim cùng một nhịp, nhưng tim mục sư nhảy càng phút càng yếu
                        Moritz muốn thay khăn đắp nhưng mục sư ra dấu không cần. Anh bèn ngồi bên mép giường, mục sư nói:
                        - Hiện giờ Cha thấy tay Cha ấm không do hơi ấm của người mà do nơi lửa sống của đời người. Tay con nóng đúng như nhiệt độ của đời sống cần có.
                        Traian siết chặt tay cha.
                        Bàn tay đã lạnh nhưng mục sư vẫn tươi cười, ông nói:
                        - Cha mơ ước hai chuyện ở thế gian: làm mục sư ở Mỹ quốc và lúc chết được chôn trong đất thánh láng Fantana. Con nhớ không Traian, cái đất thánh không có tường, không bờ rào, đầy hoa và cỏ dại đó.
                        - “Đất thánh đó giống như đồng ruộng, cha tha thiết được nghĩ giấc ngàn thu ở đó, để chiêm thưởng cuộc du ngoạn trong cảnh vĩnh cửu của cha. Nhưng hai chuyện mơ ước lại thành tựu một cách buồn cười. Cha chưa từng đi Mỹ quốc thì Mỹ quốc tìm đến cha, cha sẽ chết trong trai giam nơi phấp phới ngọn cờ ngôi sao Mỹ quốc. Cha cũng không được chôn trong đất thánh làng Fantana, nhưng đất thánh này đã trở nên to rộng hơn làng Fantana và xâm chiếm cả đất Âu châu.
                        - Lang Fantana xứ Roumanie và tất cả xứ Âu châu hiện giờ chỉ là một vết đen trên bản đồ thế giới, chỉ là một vết mực. Toàn đại lục Âu châu đều im lặng và hết sức vui tươi, nét vui tươi đã rời khỏi Âu châu như rời khỏi đất thánh Fantana. Rồi chẳng bao lâu, hoa dại cỏ hoang sẽ bao phủ khắp địa cầu như đã bao phủ làng chúng ta. Chỗ nào chôn cha cũng được, ở noi nào cha cũng tưởng như trong đất thánh không bờ rào của làng ta.
                        Traian nói:
                        - Tại sao ba nói chi chuyện ấy, ba nên nằm nghỉ cho khỏe là hơn.
                        - Con nói có lý nhưng cha cần tỏ ít lời với con, Traian con à, con nên biết rằng: “Cuộc đời chẳng bao giờ có tôn chỉ khách quan, trù phi sự chết mới có mục đích khách quan, tôn chỉ thiết thực và chân chính nào cũng vẫn chủ quan.”
                        - “Xã hội kĩ thuật phương Tây lại muốn hiến cho đời người một tôn chỉ khách quan nhưng đó là phương tiện hay nhứt để tiêu diệt đời người. Họ đã thâu hẹp đời người thành một bảng thống kê, nhưng mỗi thống kê lại bỏ sót lại một trường hợp đặc biệt duy nhứt. Và nhân loại càng tiến hóa thì chính cái đặc tính duy nhứt của mỗi cá nhân và mỗi trường hợp đặc biệt lại càng đáng kể hơn.
                        - Cái xã hội tiến triển đúng theo một chiều hướng ngược chiều: nó bao gồm và nhứt luật tất cả, nó ban hóa tất cả. Vàn càng muốn nhứt ban hóa, càng tìm kiếm, càn sắp xếp các giá trị vào cái chỗ toàn nhứt thể mà nhân tính phương Tây đã mất hết ý thức về các giá trị của bản vị, tức đời sống cá nhân. Do đó, cái họa lập nảy sản ra, dầu hiểu theo lối Nga, hay lỗi Mỹ cũng thế!
                        - “Và cũng chính tại đó mà chúng ta tin chắc cái xã hội kĩ thuật phương Tây sẽ sụp đổ, vả lại chính con, con cũng nói tới nó trong một buổi tối tại lang Fantana, cái xã hội kĩ thuật Tây phương không còn hạp với đời sống cá nhân, nó bóp ngẹt con người đến chết như đã chết ngộp mấy con thỏ bạch trong cuốn tiểu thuyết của con. Chúng ta sẽ chết ngộp trong bầu không khí đầy chất độc của xã hội ấy, một xã hội chỉ có những tên nô lệ kĩ thuật, những máy móc và những công dân sống được mà thôi, đúng như con viết trong sách con. Loài người, như thế sẽ phạm tội nặng và sẽ đăc tội với Chúa trời
                        - “Chúng ta đem hết sức lực để chống lại chính chúng ta và chống lại Chúa trời. Thật là một mức trụy lạc chưa từng đạt tới trong xã hội loài người. Và cái xã hội ấy rồi sẽ bị diệt vong như bao xã hội khác bị diệt vong trong suốt thời gian lịch sử, và trước thời kì có nhân loại nữa.
                        - “Người ta muốn dùng một trật tự luân lý để cứu vớt của Xã Hội ấy, nhưng chính cái trật tự đó lại giết chết nó.
                        - “Tội trạng của xã hội kĩ thuật phương Tây là ở chỗ đó. Cái xã hội đó giết người đang sống, hy sinh họ cho lý thuyết, cho trừu tượng, cho kế hoạch, đó là hình thức tân thời của lễ hi sinh cúng người, giàn lửa và hỏa hình ngày xưa được thay thế bằng văn phòng và bảng thống kê. Hai thần tượng của xã hội hiện đại đang đốt tiêu mòn con người làm vật hi sinh.
                        - “Thí dụ như nền dân chủ là một chế độ lương hảo hơn nền độc tài, nhưng nó chỉ tiêu khiển cho khuôn khổ xã hội của đời người mà thôi. Nhầm lẫn dân chủ với đời sống là giết chết con người và làm thâu giảm đời sống xuống còn một mặt, một khuôn khổ. Đó là lỗi lầm to tát, một lỗi chung cho phe độc tài quốc xã và phe cộng sản.
                        - “Đời sống con người thật có ý nghĩa khi nào nhận xét và đã sống trong toàn thể, vật chất lẫn tâm hồn. Và muốn thấu đáo ý nghĩa sâu xa của lẽ sống phai dùng một thứ dụng cụ mà ta dùng để hiểu mỹ thuật và tôn giáo: đó là dụng cụ sáng tạo mỹ thuật, những dụng cụ của mọi sáng tạo. Trong cuộc tìm hiểu ý nghĩa sâu xa của lẽ sống, lý trí giữ vai trò phụ thuộc. Toán số, thống kê, luận lý cũng vậy, cũng có giá trị phụ thuộc trong sự thấu hiểu và tổ chức đời sống con người. Hoặc trong sự thấu hiểu cuộc hòa nhạc của Beethoven hay Mozart, cần có tình cảm và tâm hồn cao cả.
                        - “Nhưng xã hội phương tây cứ muốn tìm hiểu nhạc sư Beethoven và họa sư Raphael bằng những con số toán học . Cái xã hội ấy muốn tìm hiểu và nâng cao đời sống con người bàng những bảng thống kê.
                        - “Thử đem áp dụng những phương pháp ấy thật phi lý và bi đát
                        - “Với phương pháp đó trong vài trường hợp tốt nhứt, con người có thể đạt tới chỗ tuyệt mỹ về phương diện xã hội. Nhưng chuyện ấy không cứu vớt được con người chút nào. Chính đời sống con người sẽ hết tồn tại, khi bị tiết giảm theo khuôn khổ xã hội, theo từng động tác cơ giới tự động, theo luật lệ của máy móc. Các luật này chẳng bao giờ tạo được ý nghĩa cho đời người và khi đã truất bỏ ý nghĩa của lẽ sống- cái ý nghĩa duy nhất, hoàn toàn vô cớ và hơn hẳn mọi luận lý mà đời sống có được- thì lúc ấy chính đời sống con người cũng sẽ mất tiêu luôn. Cái lẽ sống của mỗi người phải hoàn toàn thuộc về cá nhân, thuộc về cái tâm của mỗi người.
                        - “Xã hội kĩ thuật ngày nay đã vứt bỏ từ lâu cái chân lý ấy và đã đi sâu vào con đường khác với một tốc lực cao độ và tuyệt vọng. Bởi thế nên các dòng sông Rhin, sông Danube, và sông Volga mới cuồn cuộn nước mắt của quần chúng nô lệ. Dòng nước mắt ấy cũng sẽ chảy đầy các dòng sông châu Âu và thế giới này, cho đến khi biển cả trung dương đều tràn ngập nỗi đắng cay thảm khổ của con người, con người trở thành nô lệ cho kĩ thuật, cho quốc gia, cho chế độ văn phòng, chế độ quan liêu, chế độ tư bản.
                        - Sau rốt, Chúa sẽ phải xót thương con người như Chúa từng thương hại nhiều lần. Và giống chiếc thuyền của Noe tren lượn sóng của đại hồng thủy vài người thật là người, còn giữ được chân tính sẽ trôi nổi trên vòng xoáy nhieexuloanj của đại tai ương tập thể này. Và chính nhờ mấy người đó mà loài người được bảo tồn cứu vãn, như đã bao nhiêu lần xảy ra trong lịch sử
                        - “Tại nạn chỉ qua khỏi cho những người thật là người chân chính, nghĩa là cho cá nhân. Và lần này, chẳng phải cả loại hạng được cứu thoát.
                        - “Không một quốc gia, một giáo hội, một đất nước nào có thể cứu tế được chúng dân của mình, cả đoàn lũ hoặc từng loại hạng. Chỉ là những người, riêng từng, cá nhân không kể đến tôn giáo, chủng tộc, loại hạng chính trị hay giai cấp xã hội của họ, chỉ mấy người ấy được cứu tế mà thôi. Và vì thế chẳng nên xét đoán con nguwoi theo loại hạng của họ.
                        - “Loại hạng là một sai lầm dã man và quái đản hơn hết, do trí não con người tạo ra. Đừng quên rằng kẻ nghịch ta cũng là người chứ không phải một loại hạng.
                        Thừa lúc mục sư ngừng nói, Traian hỏi giọng lo âu:
                        - Bây giờ ba đem cắt nghĩa với con mấy chuyện ấy làm chi, tốt nhất ba nằm nghĩ cho khỏe.
                        - Cha sắp làm đây, cha sẽ nghĩ yên giấc, nhưng trước khi đi nghĩ, cha muốn tỏ hết mấy chuyện ấy, mà con đã biết và cảm thông như cha. Mà ai cũng đều cảm thông như thế, cả Moritz nữa. Song cha thấy khoan khoái và nhẹ nhàng được lập lại, bằng không nói ra trước khi nghỉ, cha sẽ không yên giấc.
                        - Tay ba lạnh.
                        - Cha biết rồi con ạ, chắc tại một sự lo sợ lạ lùng mà cha không kiềm chế nổi, một nỗi lo âu mãnh liệt hơn thân xác.
                        - Con không hiểu ba muốn nói gì, ba thấy trong mình không yên sao?
                        - Không.
                        Mục sư đau đớn mím môi lại, dường như thân hình ông có luồng điện chạy ngang qua. Traian cúi đầu nhìn cha, mặt mục sư vàng lên, với nụ cười nồng nàn, đầy yêu đương. Sau vừng trán ông, dường như có ngọn “đèn rọi” vụt lên!
                        Traian đã biết là phút cuối cùng, chàng quỳ gối xuống, thổn thức.
                        Moritz đứng dậy hỏi:
                        - Tôi nên đi kêu bác sĩ không?
                        Traian không đáp, cứ xiết chặt tay cha và khóc thảm thiết, một cách tuyệt vọng chưa từng có.
                        Moritz đã hiểu nên quỳ xuống bên Traian và làm dấu thánh giá.
                        Vài phút sau Moritz đứng dậy, tù nhân từ các lều khác đều vây quanh mục sư. Moritz lách người qua đám tù đầu trần đang đứng lặng yên. Một lát anh trở về, tay cầm đèn cầy làm bằng sáp, mó máy trên các hộp chocolate. Anh đốt đèn, cắm trong hộp thiếc không, và để gần đầu mục sư Koruga.
                        #27
                          Whatever 08.01.2011 06:29:49 (permalink)
                          Bác sĩ trại giam bước vô lều với hai y tá khiêng chiếc cán. Traian hỏi:
                          - Các người muốn gì?
                          - Khiêng xác đi, bác sĩ trả lời.
                          - Đem đi đâu?
                          - Đem ra khỏi trại nhưng không biết chỗ nào, chúng tôi phải cho thượng cấp hay để xe Mỹ đến chở đi.
                          - Dầu sao tôi cũng có quyền biết các người chôn cha tôi ở đâu.
                          Bác sĩ gắt giọng:
                          - Còn nhiều việc chúng tôi cũng muốn biết lắm nhưng vô phương.
                          Hai y tá đến gần giường, định khiêng xác mục sư để lên cán nhưng bác sĩ ngăn lại, nói:
                          - Để tôi khám nghiệm đã, biết đâu chừng ông còn sống.
                          Bác sĩ nắm tay mục sư hồi lâu, đoạn áp lỗ tai vào ngực xác chết hồi lâu rồi nói:
                          - Hai người có thể khiêng đi
                          Traian la lớn:
                          - Không được!
                          - Anh chống lại lam gì, chúng tôi cũng là tù nhân như anh và không thể làm gì khác hơn là vâng lịnh.
                          - Tôi muốn biết trước hết các ông đem xác cha tôi đi đâu? Ít nhứt tôi phải có quyền hỏi vì tôi không được phép dự lễ tang cha tôi kia mà. Tôi muốn biết chắc coi người được chôn theo đạo không? Dầu là tù nhân tôi vẫn có quyền được biết; khi thác rồi cha tôi đâu còn là tù nhân nữa; các người phải kính nể như mọi người chết mới được.
                          - Ai nói với nanh rằng người chết không được kính nể?
                          - Không phải tôi nói như thế, nhưng cha tôi là mục sư chính thống giáo nên tôi muốn được chôn cất theo nghi lễ của nhà thờ thuộc về đạo của người.
                          - Anh viết đơn xin phép bộ chỉ huy Mỹ đi.
                          - Ông có đảm bảo rằng ngày mai không quá trễ hay không?
                          - Tôi không đảm bảo gì hết vì tôi cũng là tù như anh.
                          - Vậy thì xác cha tôi phải ở đây. Tôi muốn trước khi lìa người, được biết chắc chắn người được mai táng theo nghi lễ chính thống giáo.
                          - Anh chống lại cũng vô ích
                          - Có thể ông có lý, nhưng tôi vẫn chống!
                          - Chúng tôi phải đem xác đi vì lịnh cấm để trong trại giam
                          - Ông có thể dựt lấy xác nhưng ông sẽ hối hận.
                          Hai y tá giựt mạnh tay Traian rồi lôi ra khỏi giường, xác mục sự được để lên cán. Traian vùng ra khỏi tay những người nắm cứng anh. Khi trán khiêng gần anh anh chỉ thấy trán cha, vừng trán cao, tinh khiết và sáng như vầng trăng.
                          - Đây là mọt trọng tội mà các người sẽ phải trả giá đắt. Có nhiều hành động không thể tha thứ được, bác sĩ, đừng quên rằng chính ông cấm tôi đem xác cha tôi ra khỏi của trại giam nhé!
                          - Chẳng phải tôi cấm, tôi chỉ tuân kỉ luật.
                          Viên trưởng trại đứng gần Traian, khuyên:
                          - Anh nên bình tĩnh, nếu chúng nghe được, chúng sẽ nhốt anh trong hầm tối
                          - Từ rày về sau không có gì làm tôi bình tĩnh được nữa. Không có xà lim, khám đường nào trấn áp được tiếng kêu la của tôi. Kể từ bữa nay tôi sẽ nhìn đói cho đến chết. Tôi sẽ tuyệt thực giữa hai mươi ngàn người giữa trại giam này, cái chết của tôi sẽ là một tiếng hét căm hờn, phản kháng. Nó sẽ đi sâu vào tai, vào mắt, vào mũi của những người xung quanh tôi, của những người bị nhốt một lượt với tôi, của những kẻ đã giam cầm tôi. Tiếng phản kháng ấy sẽ vang dội khắp bốn phương trời, không ai tránh khỏi nghe nó. Không một ai, không ai tránh khỏi, dù sau khi chết..
                          146
                          Moritz hỏi Traian:
                          - Ông thực tình muốn chết sao, ông không an, không uống gì hết
                          Bốn ngày qua từ bữa Traian quyết định tuyệt thực. Trời nóng, Traian nằm giữa bóng lều, đi cũng mệt, ngó trời cũng mệt và chính sự hiện diện của thân xác chàng cũng làm chàng mệt nốt.
                          Còi báo hiệu buổi ăn trưa, Moritz cầm cà-mên của Traian, ráng thuyết phục chàng lần nữa, nói:
                          - Ông muốn tôi đem phần ăn ông về không? Ông có chết cũng chính bọn chúng vui mừng, nhưng ý muốn chết là tội lỗi lắm!
                          Traian nói:
                          - Nếu anh muốn cứ lấy phần tôi chớ tôi không cần chi nữa!
                          Moritz lấy đầy một cà-mên xúp đem về. Anh đặt xuống đất gần Traian, lấy muỗng trong túi ra lau. Đoạn anh để cà-mên trên đầu gối, xúp còn nóng, anh phồng mũi hít hơi xúp bay lên. Traian hỏi:
                          - Sao anh không lấy luôn phần của tôi, phần của anh ăn không đủ no, vả lại khẩu phần nào cũng không đủ cho ai hết!
                          - Tôi không ăn phần ông được, Chúa sẽ phạt tôi, lúc ông đang đau tôi lại ăn phần ông thì tội tình lắm, tôi không thể làm được.
                          Kèm cà-mên giữa hai đầu gối, Moritz ngước nhìn mặt trời đang nhuốm màu nặng nề, nhìn mấy một lát sau, môi mấp máy, rồi làm dấu thánh giá.
                          T theo dõi từng cử chỉ của anh. Moritz chậm rãi để cái muỗng trong xúp, trịnh trọng như một người đang hành lễ.
                          Anh múc nữa muỗng xúp và nghiêm trang đưa lên môi, như rước lễ thánh. Nuốt xong anh nghĩ một chặp. Anh cầm muỗng ngay thẳng trên tay, không cục cựa như muỗng còn đầy.
                          Mắt anh to và đen chăm chú trong cõi xa xăm một vật mà chỉ riêng anh thấy, ở ngoài kia nơi ngoài biên giới chân trời của mặt đất.
                          Moritz múc muỗng nữa, không bao giờ anh múc đầy muỗng. Mỗi lần không bao giờ anh ăn hơn một muỗng, anh đưa muỗng lên môi cũng bằng cách chậm rãi và trang trọng như trước.
                          Moritz ăn cũng như người ta hành lễ mi-xa, đều đặn và tiết độ. Ăn, đối với anh cũng là một cử chỉ thiêng liêng- lễ thụ hưởng- phải giữ đúng nghi lễ thiêng liêng, không được hấp tấp, phải thận trọng nghiêm trang. Một giọt xúp không dính môi, đổ, hoặc bỏ sót.
                          Các cử chỉ của Moritz khi ăn làm tê liệt mọi thuyết hoài nghi và bắt buộc phải im lặng
                          Không vẻ gì đóng kịch, không có gì vô cớ, không có gì vô ích. Tới giờ ăn, Moritz đặt mình vào tiết niệu thiên nhiên, anh tu dưỡng cũng như loài thỏa mộc sinh dưỡng, rút nhựa sống trong lòng đất. Toàn thân anh hòa điệu với cử chỉ ấy, không biết gì xung quan, anh hoàn toàn thuôc về bản ngã anh, anh hòa mình mật thiết với tạo vậ thiên nhiên.
                          Khi ăn xong, không một giọt xúp nào dính trên cà-mên, anh ngồi lặng yên một hồi, nhìn quang cảnh trước mắt, quang cảnh chỉ mình anh thấy. Rồi, với ba ngón tay nhập lại, anh làm dấu thánh giá một lần nữa.
                          Day qua Traian, anh nói:
                          - Ăn của người khác là một tội lớn.
                          117
                          Traian nói:
                          - Tôi khướt từ mọi sự săn sóc, thuốc men.
                          Chiều ngày tuyệt thực thứ tư của Traian, trung úy Jacobson, chỉ huy trưởng trại giam được cho hay phái đoàn phóng viên Mỹ đến thăm viếng các tù binh và trại giam ở Đức, vừa mới tới Struttgart. Ông ra lịnh cho bác sĩ Schmidt điều đình với bác sĩ giám đốc đem Traian ra khỏi trại giam một thời gian, đừng cho báo giới biết trường hợp của chàng, trường hợp thật đáng chú ý. Thực vậy, Traian không phải đảng viên Đức quốc xã, cha chàng vừa chết, lại là mục sư cụt hai chân, cợ chàng là Do Thái, bao nhiêu yếu tố để báo chí làm rùm lên. Trung úy không muốn bị tai tiếng vì hễ có loạt bài công kích về vụ này, chắc ông sẽ bị kêu về Mỹ ngay lập tức, lúc mà ông đang sưu tập bộ đồ đồng bằng sứ rất quý giá. Ông mua tất cả những thứ đó với vài bịch thuốc hút và đã gởi vô thùng cất ở hầm vùng chiếm đóng của quân đội Anh, chỉ còn chở về Mỹ là xong. Nếu ông tìm mua đủ trọn bộ vốn bị tản mác ở nhiều nơi: ở tỉnh, làng và hầm chứa bên Đức thì ông sẽ sống sung sướng trọn đời không cần làm gì hết.
                          Nhưng muốn được như vậy ông phải ở lại đây tới chừng mua được đủ cả
                          Nếu mấy kí giả không đến Struttgart thì ắt trung úy không lo sợ vỡ lở, chuyện của Traian rồi sẽ ém nhẹm đi, ông không nhắc đến trong bảng phúc trình. Trong trại giam bọn tù chết đói hàng bữa, và cái việc phần đông tù nhân chết vì thiếu ăn, có gì hệ trọng đâu? Nhưng trong hoàn cảnh hiện tại, chuyện xảy ra ngoài chương trình trù tính của ông, ông muốn làm sao tránh cho kì được; vì cả triệu bạc bị thiệt trong đó.
                          Xã trưởng Schmidt, cựu đại tá S.S, và chỉ huy trưởng sở cảnh sát thành Weimar, hứa với trung úy Jacobson lo xong vụ này gấp gấp và rất kín nhẹm.
                          Đã mười giờ đêm, ông Schmidt tới nói với Traian:
                          - Bác sĩ phải săn sóc bệnh nhân dù người bện không bằng lòng. Anh bị sốt rét phải chở đi nhà thương của trại.
                          Moritz nằm gần giườngTraian, anh giật mình mỗi khi nghe giọng nói của xã trưởng Smchidt, anh tưởng như nghe tiếng Iorgu Iordan, cũng y một giọng đó.
                          Traian nói:
                          - Tôi không rời khỏi chỗ này, có phải vì tôi đau đâu, mà vì các người sợ tôi ở đây thì sẽ gây mối ác binh của báo chí, nên mới dời tôi khỏi trại đó thôi. Nhưng cá người không ém nhẹm được, các người cho là tôi chết mau quá hay sao? Cả hai chục ngàn thây ở trại này không làm bận lòng mấy người. Mấy tù khác chết êm thấm hơn và khi chết êm thấm như vậy thì không gây chuyện lôi thôi. Họ không gây rắc rối vì chết lần mòn và chắc chắn. Tại sao mấy người không chở họ vô nhà thương như tôi.
                          Hai y tá khiêng bổng Traian lên cáng như một món đồ. Moritz nắm chặt tay, nghiến răng, anh muốn bênh Traian nhưng thấy thua trước nên đành chịu. Traian nói:
                          - Nhân danh cho thuyết bất chính để làm một việc phải là một trọng tội.
                          - Thôi ta đi, bác sĩ bảo y tá.
                          Hai y tá khiêng cáng ra khỏi lều, bọn tù đứng dang hai bên để tránh đường. Không ai ngủ hết và cả thảy đều im lặng. Giống cảnh im lặng báo hiệu cái chết, tất cả đều hiểu có chuyện xảy ra, nhưng không ai biết gọi là gì?
                          Trời sáng trăng, Moritz đi theo sau cáng, đầu cúi xuống như đi đưa tang. Anh ôm quần áo, giày, mắt kiếng và ống điếu của Traian. Nước mắt anh tuôn trào nhưng anh chợt nhớ người nằm trên cáng, bạn anh, vẫn còn sống:
                          Tới của nhà thương Moritz bị cấm không được bước vô, xã trưởng Schmidt nói:
                          - Anh không được phép theo chúng tôi vào trong, lính nghiêm ngặt lắm, không ai được phép nói chuyện với Traian và y cũng không được phép gặp người nào. Anh đưa quần áo, đồ vật của y tôi đem vô cho.
                          Đêm đó Moritz đi một mình chung quanh nhà thương, anh không đành lòng rời bỏ Traian.
                          148

                          Traian bị nhốt trong phòng có sáu giường nhưng không ai nằm. Họ đã dời mấy bịnh nhân đi, để chàng một mình.
                          Hai y tá được cắt phiên canh gác.
                          Traian nằm dài, mặt day vô vách, môi chàng khô khan như tro bếp. Nhiều cảnh mơ mộng, huy hoàng thoáng qua đầu chàng như một phim hình màu.
                          Tuy nhắm mắt nhưng vẫn bị chói lòa bởi một ánh sáng chói gắt như đèn neon. Ánh sáng ấy từ tâm não chiếu ra, một thứ ánh sáng làm nóng chảy cả mí mắt, tư tưởng chàng cũng rực rỡ, đầy màu sắc. Và toàn thân chàng cũng sáng rạng, nhẹ nhàng và nồng cháy như giấc mê sảng của chàng.
                          Chàng thấy như lơ lửng trên không trung.
                          - Bây giờ ta mới hiểu tại sao các nhà khổ hạnh, các đạo sĩ nhịn đói, khi ta đói ta cách lìa mặt đất dễ dàng hơn, ta thấy thượng đế gần ta hơn và dường như trán ta đụng trời.
                          Traian ở trong trạng thái thoát trần này một lúc lâu, thình lình nhận thấy có ai mang đồ ăn tới.
                          Một y tá để trên ghế, gần giường Traian một mâm đầy. Traian xoay lưng ra, không thấy nhưng đã biết trong mâm có thức gì:
                          Trước hết chàng đoán có mùi khoai lang tây chiên bơ, kế đó mùi café, chàng nhận thất các món ăn trên mâm như đã nếm rồi. Mũi chàng trở nên thính hơi hơn lúc nào hết, chàng phân biết chắc chắn mùi nầy của món nào, mùi kia của món khác.
                          Trên mâm có một chén sữa nóng lên hơi, mùi sữa cũng nồng nặc như mùi café, lại mùi thịt cũng dai dẳng lâu tan. Traian nghe nó nồng gắt như trong bức tranh nhiều màu, một màu đậm nổi rõ bật. Mùi thịt ram bơ còn bắt thèm hơn các món khác, nó thấm vào mềm, vào áo sơ mi, vào vách, vào tóc chàng.
                          Traian nghe mùi thịt gà ram già lửa, mùi bơ, sữa, café dính sát vào mình như chất thuốc dán, nó theo hơi thở vào tận buồng phổi và dạ dày. Chàng có cảm giác như đang ăn, hết còn tuyệt thực được nữa. Chàng cố gắng loại đồ ăn ra khỏi không khí chàng thở nhưng không được, và mùi thơm thức ăn càng lúc cành thấm sâu hơn.
                          Traian liền phân tích mùi vị ấy một cách sáng suốt, như người ta phân tích bảy màu cảu ánh sáng với tam lăng kính. Chàng nói thầm:
                          - Đây là một lối kiểm soát năng khiếu khứu giác của mình.
                          Rồi trí óc chàng bị lôi cuốn theo công việc ấy, tưởng như mình đã kiềm chế được và đang dùng các vật thực làm đối tượng khảo cứu.
                          Khám phá được nhứt của chàng là thịt nầy không phải thịt heo hay thịt bò, dẫu là thịt đồ hộp, nghĩa là đã trộn nhiều gia vị rồi, chàng nhậ ra đây là thịt gia cầm, có lẽ là thịt gà tây. Chàng có ý muốn dòm xem có đúng không nhưng kiềm chế lại, cứ quay mặt vô vách. Chàng đoán tiếp và nhận ra mùi sữa, hơi khê, chacwslaf do sữa bột khuấy đặc và nấu sôi mau, mùi mứt nhẹ phớt như một màu thật lợt. Nhận ra được mùi mứt, Traian thấy tự hào, sảng khoái tinh thần như mình đã phá được kỉ lục tối cao, hoặc đã phát minh ra chuyện gì trọng đại trong phòng thí nghiệm. Nhưng một chuyện chàng không biết rõ là có bánh mỳ hay không, nếu có chắc là bánh mỳ trắng làm bằng bột ở Mỹ, rây nhuyễn còn chất bột lọc, và bánh đã nguội, hết xốp.
                          Viên y tá đến gần nói:
                          - Anh nên ăn liền đi, để ngụi thì còn mùi vị gì?
                          Traian không đáp, chàng muốn tiếp tục đoán trong mâm còn lại những gì nhưng không thể thêm được nữa. Chàng đã mất trớn, không còn tập trung trí não, và không thể tìm lại bình tĩnh cần thiết nữa.
                          Bây giờ thì các mùi pha trộn và nhập lại làm một như bảy màu của ánh sáng hợp thành một màu trắng. Lời nói của y tá xáo trộn các mùi như hòn đá ném vô hồ nước, đánh tan gợn sóng lăn tăn trên mặt nước.
                          Traian buồn bã thấy không được phân tích mùi đồ ăn nữa để tận hưởng trọn vẹn nó. Chàng liền ngủ thiếp.
                          Ngày sau, mâm đồ ăn vẫn y nguyên tại chỗ, Traian không ngó ngàn đến. Mùi vị đã lạc mất, các món ăn đều đã lạnh như chết rồi.
                          Traian mệt, không xoay sở trên giường cũng không mở mắt. Chàng liếm môi nhiều lần và buồn rầu nhận thấy môi đắng chằng và khô khan.
                          Viên y tá đem mâm khác để lại gần giường và bưng mâm trước đi. Lần này có trứng, mùi nó nặc nồng như màu sặc sỡ in trong quảng cáo. Thấy có mứt cam, sữa, café và bơ nữa, tất cả mùi vị ấy làm thương tổn Traian như những mũi tên ghim vô da thịt chàng.
                          T nhắm híp mắt lại, chứng tỏ chàng đau đớn đến dường nào. Chàng lầm thầm cầu nguyện: “lạy Chúa giúp con được chết gấp, thật rất khổ sở cho linh hồn khi còn ở trong thân xác mà mãi mãi chống lại sự cám dỗ của lòng ham muốn.”
                          Chàng tự an ủi, cho răng hai, ba ngày nữa thân xác chàng sẽ chịu thua
                          “Trong ba ngày nữa ta sẽ chết”, nghĩ đến đó chàng ngủ tiếp.
                          149

                          Traian ngồi dậy ngó ra cửa sổ. Trời đúng ngọ, ngoài sân, toàn thể tù nhân sắp thàn hàng ba, mình trần truồng. Trọn sân của trại giam chật ních những người trần truồng như nhộng.
                          Dưới cửa sổ nhà thương, một xe Jeep có lính cầm ma-trắc đứng bao quanh, bọn lính nhai sing-gum. Tù nhân lần lượt đứng trước mặt bọn chúng. Họ đi khúm núm vì người trần truồng đi có vẻ sợ sệt lắm. Traian biết cảm giác này, chàng từng trong hoàn cảnh như thế. Chàng nghĩ thầm, “lại khám xét nữa, chúng định tìm cái gì nữa đây?”
                          Mỗi tháng đều có khám xét nhiều lần.
                          Một ông gì đứng trước mặt bọn lính. Traian nhìn ra đức đại chủ giáo thành Varsovie. Ông cao lớn, lưng hơi khòm, ống tong teo. Từ xa có thể đếm được xương sườn ông, một bộ hài cốt bọc da. Râu ông bạc phếu, trọn sân trại chỉ có một vật trắng phau này. Mắt dòm đến thấy có ánh ngời, một ánh sáng chỏi rạng dịu dàng. Bọn lính cười rộ khi thấy ông đến.
                          Nhưng đại chủ giáo làm như không thấy chúng. Ông dòm trời, nhóm lướt trên cái nón pi-kê của chúng, và hôm ấy vòm trời xanh biếc như nóc vòm nhà thơ chính thống giáo xứ Byzance
                          Quân lính khám xét đại chủ giáo, viên thông ngôn bảo:
                          - Xòe mấy ngón tay ra.
                          Ông già vảnh bàn tay, bọn lính xem kĩ từng ngón nhưng không có cà-rá
                          - Đưa tay lên!
                          - Ông già đưa tay ra, lúc đâu ngang ngược như ban lễ thánh, rồi sau đưa thẳng khỏi đầu, ông không ngó viên thông ngôn cũng không ngó bọn lính nhưng bọn
                          chúng lại nhìn ông kĩ lưỡng, để xem có dấu trang sức vàng bạc dưới nách hay không?
                          Bọn chúng xét cả mái tóc sau ót ông, tóc dài và bạc trắng có thể dấu đồ được, chúng vạch từng lọn, ban đầu dùng cây baton, sau lấy cây vạch tìm, chúng xem xét từ đỉnh đầu xuống tới ót, rồi chúng sờ thêm hàm râu để xem ông có dấu cà-rá chăng?
                          Viên thông ngôn bảo:
                          - Xây lại coi!
                          Ông già xây lại đưa lưng cho lính, viên thông ngôn nói:
                          - Cúi xuống.
                          Ông cúi xuống và khom lưng như quỳ trước tượng thánh, viên thông ngôn nói:
                          - Dang hai chân ra.
                          Đại giáo chủ dang hai chân và ốm khẳng khiu, viên thông ngôn và tên lính cúi xuống dòm trọn cả hai cẳng coi ông già có dấu nhét hoặc cà-rá hoặc đồ vàng gì chăng, một tên lính nói nhỏ chuyện gì với bạn nó.
                          Ông già vẫn đứng khom, dang hai chân và xây lưng.
                          Viên thông ngôn bảo: thôi được rồi, ông đi đi.
                          Và bọn lính khám xét người kế
                          Đại chủ giáo đi dang ra, bước ngập ngừng. Gió thổi tung tóe râu tóc bạc của ông như ngọn cờ trắng mượt bay phấp phới.Traian có cảm tưởng ông đại chủ giáo không trần truồng như mấy người khác, chàng ngó theo cho đến khi ông về đến chỗ trong hàng người trần truồng. Bây giờ ông như mấy tù khác song vẫn không lẫn lộn với đám đông. Hình như có vật gì phấp phới xung quanh đầu ông, vật gì bắt ta phải dòm ngó, có thể là râu tóc bạc phơ của ông, có thể là phong độ, cốt cách của cái đầu ông, một vật gì bắt ta phải nhìn như cung chiêm tượng thánh.
                          Thình lìnhTraian giựt mình nói: thôi tôi biết rồi.
                          Hai y tá quay lại ngó chàng nhưngTraian không biết đến họ, mãi nhìn ra cửa sổ, chàng nói thầm: “Đầu của đại chủ giáo có một vòng hào quang sàng rỡ. Sau vầng trán ấy có một ánh hào quang mãnh liệt tỏa sáng xung quanh đầu ông, ánh sáng còn mãnh liệt hơn ánh đèn neon hoặc ánh điện quang, một hào quang sáng chói”
                          Khi đứng vào hàng, viên đại chủ giáo ngước mắt nhìn đăm đăm cửa sổ nhà thương, hào quang trên đầu ông lại càng chói rạng hơn nữa.T. nghĩ: “vòng hào quang không phải tưởng tượng của các họa sĩ và các thánh”. Chàng xem xét đến mấy tù nhân khác, cũng có những đầu khác chiếu hào quang mà chàng không biết hết, như viện trưởng viện đại học thành Vienna, một kí giả ở Berlin, một tổn trưởng Hy Lạp, vị đại sứ Roumanie tại Berlin, mỗi vị đều có vòng hào quang trên đầu, và nhiều người khác nữa. Trán mấy vị ấy phát những tia sáng rạng ngời như lửa đỏ hoặc nguồn điện phản chiếu. Nhưng mấy tia hào quang lại đẹp đẽ hơn tất cả thứ ánh sáng do điện hoặc lửa phát ra. Ánh sáng phát ra từ trán các vị như tỏa khắp vũ trụ, chẳng còn màu đen tối nào đè nặng trên địa cầu.
                          150

                          Trung úy Jacobson vô phòng Traian bảo bác sĩ và xã trưởng ra ngoài, để ông một mình với Traian , ông nói:
                          - Tại sao anh không muốn ăn? Anh muốn gì? Đừng nên lấy trại giam này làm một cái hội chợ nhé!
                          Traian nói:
                          - Tôi không ăn vì tôi hết biết đói, hết muốn thèm ăn. Tôi buồn mửa, nôn mửa dữ dội đến lộn ruột lên, mửa tới mật xanh, còn trung úy có nôn mửa không?
                          Jacobson làm thinh, ông hối tiếc đã ở một mình với Traian. Chắc tên này điên, mắt nó đổ hào quang, ông tự nghĩ thầm: “nó có thể bóp cổ mình chết”. Ông liếc nhìn ra cửa, rồi mỉm cười, nói:
                          - Anh nên bình tĩnh lại, anh bị kích thích quá nhiều. Phải, từ sáu ngày rày, anh không ăn uống chút gì hết
                          Traian nói:
                          - Ông khoan đi, tôi không điên đâu. Ông đừng sợ, câu nói của tôi tuy ngu xuẩn thực, làm sao ông buồn nôn được. Đúng ra ông không thể nào bị nôn mửa, nếu như ban đầu cứ nhắm mắt và bịt mũi thì không có sao. Con người tập quen dần với mọi thứ luôn có sự nôn mửa.Đây chỉ là vấn đề ý chí thôi. Tôi không có nghị lực nên mới bị nôn đây, có nhiều người thợ mỗi ngày ngồi ăn sớm, ăn trưa và ăn chiều gần miệng cống và cầu xí, họ quen miệng rồi, không thấy gì khó chịu. chính mắt tôi nhìn thấy họ ăn khúc dồi với bánh mì thoa bơ gần lỗ cầu tiêu mà còn liếm môi. Họ rất vui cẻ, vừa ăn vừa nói đùa với nhau. Mũi có thính mấy đi rồi cũng quen dần. Quân sĩ Đức thiêu xác từ nhân mấy trại giam, và khi đóng cửa lò thiều họ thơ thớ đi ăn, không chút nôn dạ. Có nhiều người dồn nệm bằng tóc đàn bà trong trại giam rồi chính họ nằm trên nệm ấy với tình nhân họ. Chính trên nệm ấy, nệm dồn tóc đàn bà bị giết và bị thiêu ấy, mà vợ họ mang thai mà họ cũng không chút gf ghớm ghiếc, không nôn mửa. họ coi như thường mà còn vui vẻ nữa. tôi có ở chung khám với một người đàn bà, phòng ngủ của cô ta có cái chup đèn bằng da người, ánh sáng xuyên qua thành một màu vàng . lẳng lơ, dưới ánh sáng của chụp đèn da người ấy, nàng ăn uống, khiêu vũ, tình tự, ngã người qua vòng tay người đàn ông choàng tay qua ôm nàng, và nàng sung sướng cười như thường. Con người quen lần với sự nôn mửa. chỉ là vấn đề thói quen và nghị lực. Quân lính Nga sô cưỡng bức vô số đàn bà, bà già tám mươi, luân phiên nhau, cả chục tên mỗi người thế mà chúng nó đâu ghê tởm, chúng không nôn mửa, vẫn uống vodka. Ông thì chẳng khi nào làm chuyện ấy, tôi biết, các ông không hãm hiếp đàn bà, mà còn cho chocolate, còn lo phòng ngừa mỗi khi ăn nằm với họ. Các ông cũng không làm như dân Đức. Mỗi xứ có một phong tục riêng. Nhưng ông cũng vậy ông không sợ nôn mửa, dầu ông có làm chuyện gì ông cũng không bị hại, tôi tin chắc như vậy. ông nên tin tôi, nôn mửa là một thứ đau đớn vô ngần, ông xem tôi đây, khổ sở nhường nào. Ruột gan tôi lộn tùng phèo, tôi thấy nó lên tới miệng. Mật tôi chảy ngược đường, bao tử bi đảo lộ vì nôn mửa. và tôi thương hại cho con người quá, hết sức thương hại. Với mấy điều kiện như vậy làm sao ông muốn tôi ăn cho được. Làm sao tôi ăn ngon miệng trong hoàn cảnh này. Từ nay về sau tôi hết biết đến thức ăn nữa, ông biết tại sao rồi chớ?
                          Trung úy Jacobson xích lại gần cửa, ông rất hối hận vì đã đến đây. Viên xã trưởng và bác sĩ không cho ông hay trước rằng Traian điên, họ nói bệnh nhân vẫn sáng suốt nhưng những lời ông vừa nghe chứng tỏ ngược lại, họ đã nói láo. Người bịnh điên thật, ông nói với Traian:
                          - Anh nói có lý. Trong hoàn cảnh này làm sao bắt anh them ăn được
                          Traian tiếp lời:
                          - Ông khoan đi, tôi ngồi dậy khó nhọc lắm. Ông dòm qua cửa sổ coi dùm sự tra xét đã xong chưa
                          - Chưa.
                          Traian lạnh lùng nghĩ thầm:” làm sao một người vừa nhìn những gì ngoài sân lại có thể ngồi vào bàn ăn được như trung úy Jacobson được”
                          Trời đã trưa.
                          Traian nói:
                          - Cuộc khám xét chưa xong. Nó chưa chấm dứt liền. Nó chỉ mới khởi sự. Trước hết các ông tìm xét vàng trong vali, trong nhà lều, trong quần áo, trong túi giày trong vải lót, trong quần đùi, bây giờ các ông tim trong mồn miệng, trong nách, trong háng, nơi khu **** người ta, tìm kiếm cùng khắp cả. Ai ai cũng trần truồng hết, rồi ngày mai các ông sẽ lột da xem có vàng bạc cất dấu dưới đó hay không. Kế đó các ông sẽ rứt từng xớ thịt để tìm vàng, các ông sẽ đập nát từng lóng xương xem có dấu vàng trong đó hay không. Các ông sẽ nặn óc con người ra xem có dấu vàng trong đó hay không, các ông sẽ moi móc ruột già ruột non, cắn xé con người ra cốt để tìm vàng. Tiền vàng, cà rá vàng, nhẫn vàng. Các ông sẽ còn đập nát quả tim ra từng mảnh đẻ tìm vàng. Vàng! Vàng! Vàng! Chưa hết đâu, bây giờ mới chỉ khởi đầu: các ông mới chỉ lột ngoài da, rồi lớp da sẽ bị lột, cuộc tra tấn lại tiếp tục
                          Trung úy Jacobson không còn trong phòng, Traian quay mặt vô vách.
                          151

                          Đơn thỉnh nguyện số 6: đề tài: Kinh Tế: - Đồ vật có giá trị có thể tìm được trong cơ thể tù binh.
                          Trong cuộc khám xét tù nhân người ta thu hết cà-rá , nhẫn cưới, vàng ròng, đồng hồ, viết máy, tiền bạc và tất cả những đồ vật có giá trị khác
                          Dù cuộc khám xét ấy có tời tận da non vẫn chưa hoàn toàn trọn đủ
                          Tôi nhận thấy hiện giờ vài tù nhân có xung quanh đầu môt vòng sáng, giống vòng hào quang vẽ trên đầu các tượng thánh. Tôi biết các thánh có vòng miện bằng vàng. Vòng trên đầu tù nhân thì không phải bằng vàng, hay kim loại quý giá nào khác, và nếu phải như thế thì các vòng ấy đã bị tịch thu rồi. Nhưng dẫu không có kim thuộc quý, giá trị của nó không phải là đồ bỏ
                          Tôi không phải nhà khoa học nhưng theo tôi nghĩ các hao quang ấy chắc có giá trị to tát lắm, vì nó được kết thành từ những phát quan của tinh thần tù nhân.
                          Viêc đáng quan tâm là trong khi xã hội kĩ thuật Tây phương hiện nay, những hiện tượng đó không phải là không phát sinh. Dường như các vật ấy chỉ là đặc hữu của xã hội không văn minh mà thôi. Nhưng chuyện ấy không quan trọng. Một khi các hào quang ấy có giá trị thì không nên để tù nhân chiếm giữ. Luật nghiêm cấm các tù nhân có đồ vật quý giá.
                          Tôi nhớ lại trong lịch sử loại vòng miện hào quang này có lần bị tịch thâu, bọn xâm lược hung tàn cỡ Thành Cát Tư Hãn xưa kia đã biết giá trị hào quang trên một số đầu tù nhân nên đã giựt lấy. hồi thời đó chưa có đủ phương tiện giao thông như bây giờ. Thành Cát Tư Hãn muốn có các vòng hào quang ấy trong triều đình của hắn mà đừng hư mất hình dạng và ánh sáng bèn ra lịnh lấy luôn thủ cấp tù nhân đem về một lượt với hào quang. Những đầu có hào quang của tù nhân Trung Quốc hoặc Ai cập đều được xâu vào yên ngựa và mang về Mông Cổ. Nhưng dọc đường chắc vì thời tiết và khí hậu đổi thay nên mấy hào quang đã mất dạng và các thủ cấp không còn vật trang sức bị vứt bỏ đi, vả lại nó cũng có mùi sình rồi.
                          Để tránh mất những vật báu như thế, tốt nhất các người đừng dùng lối chặt đầu như Thành Cát Tư Hãn đã làm. Nên để những tù nhân có hào quang vào một nồi hấp, có không khí điều hòa và nhiệt độ cố định rồi gửi về quê hương các người. xã hội chúng ta được diễm phúc vô song là nhờ khoa học , có những phương tiện cần ích cho giữ gìn bảo vật mà kẻ xâm lược hung bạo khi xưa không giữ được. Nghe đâu có nửa triệu hào quang bị mất đi hồi thời kì đó.
                          Xin nhận nơi đây lòng khâm phục của tôi như thường lệ, hoan hỉ.
                          152

                          Xã trưởng Smchidt chắp tay đi dạo quanh phòng Traian, ông nói:
                          - Trong năm phút nữa anh sẽ được gửi đi bịnh viện, tại đó anh sẽ bị bắt buộc ăn uống. Tôi rất tiếc phải làm việc ấy, tôi đã cố hết sức để anh ăn, trung úy Jacobson cũng vậy. Nhưng anh không muốn hiểu chúng tôi, chúng tôi làm vệc lợi cho anh, mà anh cứ xây lưng với chúng tôi
                          Traian vẫn nằm im trên giường, xây mặt vô vách.
                          Xã trưởng giận nói:
                          - Anh làm như thế là tỏ ra không thân thiện, bác sĩ và trung úy đã rất mất thì giờ với anh. Chúng tôi phải lo cho hai chục ngàn người chứ đâu phải mình anh đâu. Chuyện cá nhân phải bỏ sang một bên, mỗi người chúng ta đều có gia đình, chuyện lo buồn. Nếu ai cũng bắt chước như anh hết rồi sẽ ra sao. Anh ích kỉ quá, anh chẳng bao giờ nghĩ tới toàn thể. Tôi vì tuân lịnh trung úy Jacobson vốn là người có đầu óc lãng mạn và dân chủ như mấy người Mỹ nên trong mấy ngày rày, tôi phải mất ít nhất năm giờ đồng hồ để lo cho một mình anh, làm thiệt hại chung cho hai mươi ngàn người trong trại, thật là điên rồ.
                          Traian đáp:
                          - Ông chẳng lo cho một tù nhân nào trong trại nầy hết. Ông chỉ lo cho guồng máy hành chính, nghĩa là vật vô tri, tất cả những người trong trại giam nầy không thể lẫn lộn với guồng máy ấy, nghĩa là sổ sách, máy đánh chữ, con số tính toán. Ông chỉ lo mấy chuyện sau chớ có bao giờ ông lo cho hai chục ngàn người trong trại nầy đâu. Hai chục ngàn người bằng da thịt, máu tim, trí óc. Họ biết đau khổ, tin tưởng, tín ngưỡng, ham muốn, đói khát, thất vọng và mơ ước.
                          - “Ông chẳng lo cho máu thịt, là yếu tố cá nhân của họ, ông chẳng lo gì đến lòng mong mỏi và nỗi thất vọng, là những chuyện riêng tư của họ hơn nữa. Ông mảng lo đến con số, giấy tờ, ông chẳng lo đến một người tù. Làm sao ông có thể quả quyết ông lo cho hai chục ngàn người. Thật là buồn cười, ông với trung úy Jacobson, các ông chỉ quan tâm đến những điều cương yếu, trừu tượng, chớ không lo nghĩ đến con người. Đến tôi đây, cho đến giờ ông quan tâm đến không phải vì một con người. Đối với ông tôi chỉ là một phân số trong hai chục ngàn người đó thôi, và vì vậy mà ông mới nổi giận khi nghĩ là đã mất thì giờ vì tôi. Ông cũng chẳng xem tôi như một cá nhân nữa, cho đến vợ ông cũng vậy, ông không nhận định là một con người xét riêng ra. Ông chỉ coi vợ ông như một người đàn bà, như người mẹ củ mấy đứa con và như một người nội trợ mà ông không xét theo toàn thể cá nhân. Trong khi ấy vợ ông chỉ hiện hữu tring toàn thể mà thôi.
                          - “Và cho đến cả ông, ông càng không biết nữa
                          - Ông không biết một người nào hết trên địa cầu này, vì nếu ông chỉ biết một người thôi, ông không thấy phí mất thời giờ để lo cho người đó. Ông chỉ biết con người thâu hẹp còn có một mặt, một khuôn khổ. Những dạng ấy không phải con người nữa. Cũng giống như hình khối bao chiều, nếu thâu rút còn một chiều một mặt thì không còn là hình khối nữa.
                          Viên y tá cho xe chở bịnh nhân đã tới trong sân, Traian nói:
                          - Tôi muốn từ giã anh bạn Moritz của tôi
                          - Anh bị cấm nói chuyện với người tù nào khác.
                          Traian xoay lưng không thèm nói, viên y tá liền quấn anh trong mền và ôm như món đồ ra xe.
                          Cửa xe có che tấm màn, Traian biết chắc Moritz đang chờ ở cổng bệnh viện nên mỉm cười với Moritz trong tưởng tượng: “Vĩnh biệt!”
                          153

                          Viên y tá vào báo tin:
                          - Có hai người Mỹ đưa một tù nhân điên tơi.
                          Viên giám đốc bịnh viện khám đường thành Karisruhe bước xuống giương, bật đèn điện và xem đồng hồ. Đã một giờ khuya viên ý ta đến báo tin phụ với ông mặc đồ, bác sĩ ra phòng, mặt quạu quọ.
                          Tù nhân bị bịnh được chở từng đoàn đến bịnh viện. Ở trại giam tù nhân chờ đủ con số một trăm mới được chở đi. Dầu bịnh nặng cũng phải chờ, có khi ba, bốn tuần lễ tới khi nào đủ.
                          #28
                            Whatever 08.01.2011 06:31:01 (permalink)
                            số mới được đem đi, lần này là lần thứ ba.
                            Bác sĩ bước vo văn phòng, hỏi:
                            - Điên bịnh gì mà chở tới một mình đêm hôm khuya khoắt như vầy.
                            Viên y tá đáp:
                            - Chắc bịnh nặng lắm nhưng tôi chưa thấy, người bịnh còn ngủ trong xe. Nếu hai người Mỹ chịu khó đích thân chở đến thì chắc bịnh nguy kịch
                            Bên ngoài trời lạnh, bác sĩ vừa bước ra khỏi giường ngủ ấm áp, gặp lạnh khi ông kí giấy cho bịnh nhân vô nằm bịnh viện
                            Hai người Mỹ lên xe đi, bác sĩ ra lịnh cho bịnh nhân lên gường nằm, rồi đi ngủ liền không chịu xem bịnh nhân ngay lập tức,vì trời lạnh quá!
                            Traian không biết mình ở đâu cũng không biết xe bị banh dọc đường, phải đến trễ nửa đêm. Chàng không biết là mấy giờ. Người ta khiêng chàng nằm trên cáng băng ngang bịnh viện chàng mời giựt mình mở mắt ra. Lúc thấy trời đầy sao và trong xanh, chàng nói: “kìa dải ngân hà!”
                            Chàng mỉm cười với bầu trời rạng sáng trên bầu trời. Đoạn nhớ lời xã trưởng nói: “chúng tôi sẽ đưa anh tới bịnh viện; tại đó anh sẽ bị bắt buộc ăn uống” , chàng quyết định không chịu thuốc men. Chàng nói thầm: “ hễ còn tỉnh táo thì ta từ chối không ăn uống”
                            Hai y tá nghe Traian nói “dải ngân hà” liền cười. họ để cáng xuống vai , một người lại gần chàng nói mỉa mai: “chúng ta sắp đến dải ngân hà rồi đây”
                            Traian không thích lời giễu cợt, rồi chàng thấy người ta bồng chàng để lên giường
                            154

                            Traian nhìn xung quanh phòng mình nằm. Nơi trần nhà một bóng đèn có mang lưới sắt. Cửa sổ cũng bọc song sắt chắc chắn. Phòng có bốn giường, hai bịnh nhân nằm gần nhau đang trò chuyện, họ mặc quân phục Đức.
                            Khi Traian bước vào phòng họ không quay đầu lại, cứ nói chuyện. Hai người có vẻ còn trẻ, một người bịnh thứ ba nằm trùm mền, Traian thấy đôi giày to tướng ló ra ngoài. Chàng tự hỏi sao người bịnh có thể ngủ vào giờ này
                            Gần cửa một y tá mặc áo choàng trắng ngồi gác. Đầu hắn giống xã trưởng Smchidt. Đầu vuông và to lớn, đầu bằng cây. Thớ thịt trên mặt không cử động như chết đơ, hai căp mắt lờ đờ không tinh thần, cũng không phải đầu người chết, mà là cái đầu của kẻ chẳng linh hoạt, kẻ mất tinh thần.
                            Viên y tá đến gần Traian, véo vào má chàng như đưa trẻ và nói:
                            - Mầy muốn kể câu chuyện của mầy không?
                            Traian hất tay hắn ra, không trả lời
                            Viên y tá nói:
                            - Mầy không muốn nói gì à! Vậy mầy thuộc về hạng làm thinh.
                            Hắn tát nhẹ gò má Traian rồi nói tiếp:
                            - Thôi cứ nằm chơi một mình, nằm nhìn con nhện nơi trần nhà nến chuyện ấy làm mầy thích.
                            Đoạn, hắn đi lại ngồi gần ghế, gần cửa phòng.
                            155

                            Traian cắn môi hối hận, quên cả mệt nhọc. Lòng phẫn uất xâm chiếm chàng, chàng lẩm bẩm: “Chúng nó nhốt mình trong một nhà thương điên vì tôi tuyệt thực, trời ơi, tôi đang trong nhà thương điên! Kế của chúng chẳng phải dở, tôi không thể ngờ được và chưa gặp từ trước giờ. Cả trong những tiểu thuyết tả cảnh tra tấn trong khám đường Nga sô! Cả thảy tù nhân, từ bác sĩ đến giáo sư đại học, tù binh trong trại nầy đều kí giấy chứng nhận tôi điên. Họ muốn chứng tỏ rằng sự tuyệt thực của tôi là một hành động điên cuồng. nhưng ở đời không có chuyện kết thúc dễ dàng như thế và nhất là mau lẹ như vậy đâu. Tôi sẽ tiếp tục tranh đấu.
                            Traian nắm chặt bàn tay
                            Chàng nói: “ bây giờ ta phải cho chúng thấy ta còn tỉnh trí”
                            Traian đi lại gần viên y tá, lảo đảo, tay vịn vào vách tường
                            Hắn cười, nói:
                            - Mầy đến thuật chuyện của mấy với tao hả. Tao biết thế nào mầy cũng đến đặng thuật chuyện của mầy cho tao nghe. Ai vô đây cũng có chuyện riêng đển thuật lại hết. nhưng giờ tao không có thì giờ để nghe mày. Để mai mốt, bữa kia hoặc một tháng, một năm nữa không chừng, mầy còn thiếu gì thì giờ để thuật chuyện mà.
                            Viên y tá cầm tờ báo, muốn đọc, hắn bảo Traian:
                            - Giường mầy ở cuối phòng, vào đó nằm yên. Đừng nằm giường người khác nghe, mày hiểu không?
                            - Tôi muốn hỏi một chuyện- Traian nói.
                            Viên y tá cau mặt nói:
                            - Tao biết mầy muốn hỏi chuyện gì rồi nhưng giờ tao không rảnh,về giường nằm đi, mầy phải nghe lời như đứa trẻ ngoan, nếu không tao cho trận đòn với cái roi da này đây.
                            Hắn kéo hộc tủ lấy cái roi da đánh ngựa ra cho Traian thấy rồi hắn cất lại.
                            Traian biết có nói cũng vô ích, không ai nghe mà còn cho là lời của kẻ điên, chanf trở lại giường, nằm dài.
                            156

                            Traian nhắm mắt, suy nghĩ, : “ở tù chưa đủ, bây giờ nằm nhà thương điên”
                            Chàng còn muốn dự một chương trình hành động vào ngày mai, nhưng tự thấy không tính nổi, đành nắm chặt hai tay, ngủ vùi.
                            - Đứng dậy coi.
                            Chàng giựt mình, chàng vừa thiu thiu ngủ, chàng thấy viên y tá đã khiêng chàng hôm qua và nói câu “tới thiên hà rồi” đứng trước mặt, chàng nhận ra hắn, , hắn bảo:
                            - Đưa cho tao những gì mầy có trong túi coi.
                            Traian đứng dậy thọc vô túi lấy chiếc khăn tay đưa cho viên gác phòng. Rồi móc cái ống điếu trong túi khác, đưa luôn. Trong túi có cái tượng nhỏ hình thánh Antoine, chàng lấy ra xem rồi cũng đưa luôn…
                            Viên y tá nói:
                            - Không còn thứ gì trong túi nữa hả?
                            - Tôi chỉ có bấy nhiêu thôi
                            - Giơ tay lên.
                            Traian đưa tay lên ngực, mắt chàng bị mờ, chàng không thể đưa tay lên cao hơn nữa.
                            Viên gác phòng bảo:
                            - Cao hơn tí nữa.
                            - Tôi không làm được, tôi đau quá, tôi nghe choáng váng.
                            Viên y tá nắm hai tay Traian đưa lên khỏi đầu, chàng thấy hai tay nặng như đá để trên đầu mình, chàng không ngờ tay chàng nặng thế, dở không nổi nữa.
                            Viên y tá lục soát túi chàng, Traian không cảm thấy hai tay đó đang mò túi mà đang mò vào tận da thịt anh
                            - “Thôi để tay xuống”, viên y tá vừa nói vừa lấy hai tay Traian bỏ xuống, hắn bảo:
                            - Tháo dây giầy ra.
                            Viên gác phòng nói:
                            - Thôi để nó yên, xem đi, nó vàng như nghệ rồi đấy.
                            Traian bị đặt nằm dài trên giường. Hai y tá tháo dây giày rồi cởi quần, rút sợi dây quần đùi. Sau rốt chúng lột cặp mắt kiếng của chàng rồi cất luôn.
                            Traian van lơn:
                            - Xin đừng lấy cặp mắt kiếng tôi tội nghiệp.
                            Chàng bị cận thì nặng.
                            - Bộ mầy muốn dùng mắt kiếng để cắt gân mầy sao?
                            - Tôi không thấy đường nếu không có cặp mắt kiếng.
                            - ở trong nầy mầy không cần xem gì hết.
                            Viên y tá gói mắt kiếng, khăn tay, tượng thánh, ống điếu của Traian rồi cầm đi. Đó là tất cả gia tài của chàng trên thế gian này.
                            157

                            Buổi sáng đầu tiên ở nhà thương điên
                            - Ngồi dậy ăn đi
                            Traian ngó chén cháo đầy do viên y tá bưng đến rồi nói,
                            - Vô ích, tôi không ăn.
                            - Đừng cứng đầu mất thì giờ, bộ mầy nghĩ có thể làm theo ý mầy được à
                            viên gác phòng để chén cháo gần giường Traian rồi đi lại giường kế, Traian nói.
                            - Tôi bãi thực sáu ngày rồi.
                            - ở đây đứa nào cũng nói bãi thực hết có phải mình mầy đâu.
                             

                            Viên y tá lại gần giường bệnh của người đã trùm mền ló đôi giày đóng đing to lớn ra ngoài. Hắn tốc mền, đó là một ông già đầu tóc bạc phơ, ông sợ sệt ngó viên gác phòng rồi úp mặt vô gối, nói:
                            - Anh muốn gì? Nói rồi ông lại úp mặt dưới gối
                            Viên y tá nói:
                            - Ngồi dậy tía nhỏ, chúng tôi phải cho ăn mới được
                            Hai thanh niên điên cũng đến gần ông già, họ đứng sát nhau như sợ bị chia rẽ. Viên y tá gọi chúng là bouledougues- loại chó đầu to, mõm ngắn, rất dữ. Hắn bảo, như ra lịnh với chó:
                            - Hai bouledougues nhảy chụp ổng đi.
                            Hai gã nhảy ôm lưng, xóc nách ông già, gã kia đỡ đầu ông ngước lên và dựng ông ngồi dậy.
                            Viên y tá mỉm cười nói:
                            - Nhè nhẹ đa, đừng làm gẫy xương ổng đa.
                            Ông già khóc, cúi gằm xuống ngực và ngó ghì dưới đất. Viên y tá nói:
                            - Há miệng ra, tía nhỏ, viên y ta đêm bình bú lại đây.
                            Ông già càng áp chặt cằm vào ngực và cắn cứng hàm răng lại.
                            Viên y tá ra lịnh cho hai gã điên:
                            - Cạy miệng ổng ra, nhưng nhè nhẹ vậy
                            Hai gã quỳ gối lên giường, thọc hai ngón tay vô miệng ông già và vạch hàm ổng hả ra.
                            Viên y tá, một tay nắm bịt hai lỗ mũi, một tay đổ cháo vào miệng ông già.
                            Bịnh nhân khạc cháo vào mình hai gã thanh niên làm chúng cười ầm lên. Viên y tá đổ muỗng cháo thứ nhì vào miệng, lần này ông già không nhổ ra được. Cháo đến cổ họng bắt buộc ông phải nuốt kẻo bị ngộp. Ông không thở bằng mũi được vì bị viên y tá bóp nghẹt, ông phều phào.
                            - Ngộp tôi.
                            Cách cho ăn tiếp diễn. Ông già thỉnh thoảng la ngộp và vùng vẫy trong tay hai gã thanh niên kèm cứng ông.
                            Viên y tá nói:
                            - Rồi cũng xong, tía nhỏ thấy chưa?
                            Ông già vàng như nghệ. Traian bịt mắt lại để không phải thấy cảnh tượng ấy.
                            Viên y tá hỏi:
                            - Mầy sợ phải không, trong vài phút nữa là tới phiên mầy.
                            Hai gã bouledougues đều nói một lượt
                            - Chúng tôi cũng cho hắn ăn nữa sao?
                            - Nếu nó không ngoan ngoãn thì sẽ làm.
                            Hai bouledougues không ngó ông già nữa. Chúng ngó trừng trừng quai hàm và cần cổ Traian.
                            Traian liền cúi xuống húp cháo lia lịa, không cần nhai, ăn xong, chàng nói:
                            - Anh có lý, kẻ nào bị nhốt trong bịnh viện này mà không ăn là điên. Nếu điên thiệt thì đâu thể bãi thực vì đâu có hiểu biết gì. Còn tôi tôi không phải điên nên tôi ăn. Nhưng chưa phải tôi bỏ cuộc tranh đấu đâu.
                            Traian nghĩ thầm, “mình phải làm sao chứng tỏ mình tỉnh trí mới được”
                            Traian bị nhức đầu, đồ ăn vừa nuốt vô nặng như chì trong bao tử chàng. Nhưng chàng cũng ráng đứng dậy, đến gần viên y tá nói.
                            - Tôi muốn nói chuyện với bác sĩ cai quản xứ nầy.
                            - Hãy chờ ông đi thăm bịnh, chừng đó gặp bác sĩ sẽ nói chuyện
                            - Gặp ông ngoài giờ thăm bịnh không được sao?
                            - Bịnh nhân sở này không được phép gọi bác sĩ ngoài giờ thăm bịnh.
                            - Tôi hiểu, bác sĩ đâu có mất thì giờ với một bịnh nhân điên. Nhưng tôi thề với anh rằng tôi không điên
                            - Vậy sao người ta gởi mầy tới đây.
                            - Để tôi khỏi bãi thực nữa như tôi đã nói với anh. Bây giờ thì tôi đã ăn thì không còn lý do gì để nói tôi điên nữa. nếu tôi cự tuyệt không ăn thì anh có thể coi hành vi của tôi là điên cuồng chớ không phải vì phản đối, bây giờ chuyện đã rõ ràng.
                            Traian thấy viên y tá đang đọc báo và không để ý tới chàng, chàng hỏi, giọng run run:
                            - Dầu đã thấy tôi ăn rồi anh vẫn còn cho tôi điên sao?
                            - Đi ngủ đi để tao đọc báo
                            - Nhưng tôi đã nói rằng tôi không điên.
                            - Biết rồi, thôi đi ngủ và nằm im, ở đây phải ngoan mới được. Đứa nào biểu không nghe lời thì bị ăn roi da cho coi.
                            159

                            Suốt buổi sáng bác sĩ không đến thăm bịnh. Gần trưa viên y tá dẫn 1 trong hai thanh niên bouledogues đi. Độ nửa giờ sau đem hắn về, nằm dài trên cáng ở giữa phòng. Lỗ mũi hắn bị nhét bông gòn, còn run. Mặt hắn tái nhợt, giống bọt mép chó điên. Môi hắn run cầm cập, Traian hỏi:
                            - Họ làm gì hắn vậy?
                            Gã bouledogue kia cười nhạo khi thấy thân mình cứng đơ của bạn bị giựt từng chặp. Ngực nhô lên xẹp xuống như ống bễ lò rèn. Các cân nhục ở tay và ở chân run lên như tách khỏi thân mình. Nước da cũng đổi màu, hết còn là da người sống. Xương sống cứng đờ, ngay đơ như vật chết. Cho đến cơn giựt từng chặp cũng giống như cơn giựt từng chặp của búp bê bằng máy cử động. Chỉ có bọt mép xanh từng đợt trào ra miệng, tuôn xuống ngực và vải bố của càng khiêng là vật cho biết hắn còn sống thôi.
                            Traian hỏi lần nữa:
                            - Họ làm gì hắn vậy.
                            Viên y tá đáp
                            - Có gì đâu, họ chích thuốc
                            - Thuốc gì vậy, tại sao hắn giãy tê tê như vậy.
                            - Đừng tọc mạch, người ta cũng chích cho mầy nữa. Tới phiên mầy, trễ lắm là ngày mai.
                            - Ngày mai?
                            Traian ngó thân hình bịnh nhân đang giãy trên sàn, viên y tá nói:
                            - Mầy thấy lạ lắm hả, mầy không tin sao? ở đây ai cũng chích thuốc hết
                            Viên y tá thay bông gòn cho lỗ mũi tên bouledogue rồi véo vào má hắn. Hắn không phản ứng, viên y tá nói:
                            - Mầy có lấy dao chặt nó thành từng khúc nó cũng không biết. đương cơn hành như vầy mà biết gì được. Tụi bây cũng cần chích thuốc để khởi động gân cốt. Ngó coi gân cốt nó tập thể thao đẹp quá kìa.
                            Traian leo lên giường nằm, cửa mở, chàng giật mình. Không phải bác sĩ mà là một viên y tá tới nắm tay tên bouledogue thứ nhì dẫn ra khỏi phòng.
                            Một lát sau, gã bouledogue ấy cũng được khiêng về, cũng nằm trên cáng, để giữa phòng gần bạn hắn. Gã cũng có bông gòn nơi lỗ mũi, có bọt mép trắng và xanh dợt ở miệng, như bọt mép con chó điên. Thân hình gã cũng giãy giụa từng cơn.
                            Rồi ông gia cũng bị dẫn đi chích thuốc và khiêng trở về trên cán, một lát sau.
                            Traian nhìn ba thân người bị thuốc hành nằm giãy giụa một điệu như nhau, mặc dù họ rất xa lạ nhau
                            Chàng hỏi:
                            - Thuốc gì vậy?
                            - Thuốc “Cardiazol”, chích cho giựt gân, cho kích thích óc não, cho tan lớp màn tối che mờ trí óc. Viên y tá nói rồi cười xòa.
                            Traian ngó lần nữa ba người nằm dài gần chàng. Thân hình họ bị giựt như tự động, như hình máy cử động. Lỗ mũi họ phồng lên và di chuyên cùng lúc, một điệu và một cường độ như nhau. Ba bộ ngực cũng nhô lên, xẹp xuống đều đều như ống thụt trong dàn máy.
                            Sinh lực của con người chỉ còn thâu gọn trong mấy cử động của gân cốt. Ý chí, bản năng, trí óc đều chết. Có sống chăng chỉ là những phản ứng đã khuếch xung thành những chứng động kinh.
                            Traian có một ảo tưởng về đời sống con người trong xã hội kĩ thuật ngày nay. Căn phòng chàng đang ở, mở rộng vô biên tới bao trùm Âu châu, cả phương Tây, cả mặt đất. trong phòng không những chỉ có ba người bị thân giảm theo phản ứng cử động giống như người máy, mà tất cả loại người trên địa cầu.
                            ảo tưởng kinh ngạc, quá đáng nhưng nó vẫn ám ảnh Traian, hình như chàng thấy xã trưởng Smchidt nhảy múa một điệu quái đản ấy, cùng với trung úy Jacobson, thống đốc Brown, bác sĩ Abramovici, và tất cả đang nhảy múa theo điệu Jazz, điệu máy móc và điệu phong giựt do mấy viên thuốc Cardiazol kích thích tạo nên. Trọn một xã hội đều giãy giụa vùng vẫy, trong những cơn động kinh, phong giựt như nhau
                            Traian bịt mắt lại, la lớn lên:
                            - Tôi không muốn, tôi không muốn.
                            160
                            Bác sĩ nghi ngờ, ngó Traian nói:
                            - Trong phiếu cá nhân anh, không thấy khoảng nào nói bãi thực hết. Nếu anh có bãi thực thì chuyện ấy đã ghi vào phiếu. Thay vì bãi thực, tôi đọc thấy: “loạn óc, ý muốn tự tử, nổi cơn hung bạo, có ý tưởng bị ngược đãi”. Hết rồi, chẳng còn nói gì tới bãi thực cả. Tuyệt thực để phản kháng là hành vi sáng suốt và có ý thức nhưng lại không thấy ghi trong phiếu này. Hai giáo sư đại học chứng nhận cho anh đều kí tên chứng nhận phiếu này. Hai giáo sư Đức, vậy tôi phải tin ai, anh hay hai vị giáo sư?
                            Bác sĩ quả quyết là Traian đã bịa đặt ra chuyện của anh từ đầu chí cuối, ông nói:
                            - Anh có chắc vợ anh bị bắt không? Riêng tôi tôi còn không tin anh có vợ nữa, nhẫn cưới của anh đâu?
                            - Bị tịch thâu trong khi khám xét tại trại tạm giam rồi.
                            - Có thể lắm nhưng tôi không có một chứng cớ nào về chuyện nầy. Tôi phải căn cứ vào phiếu bịnh trạng của anh mà xét đoán. Anh chẳng nên giận, chừng nào có chứng cớ rõ rệt sẽ hay, hiện giờ tôi bắt buộc phải lập luận khởi đầu như vầy: hiện vợ anh không bị bắt, có thể anh chưa có vợ, cha anh không chết trong trại giam và anh không bị bắt vô cớ. Còn những chuyện anh thuật tôi buộc lòng phải loại ra không kể đến
                            Traian nghĩ thầm: “làm sao chứng tỏ được mình còn tỉnh trí? Mỗi hành động, mỗi lời nói mà ta đã cho là hợp vẻ thông thường, nếu đem phân tách lại trở thành những cử chỉ có vẻ điên rồ. Cũng những lời nói ấy, những câu ấy, những ý kiến ấy theo cuộc sống hàng ngày, thì dường như hợp lí và sáng suốt thông minh nữa là khác, mà ở trong nhà thương điên lại trở thành những triệu chứng điên cuồng. giới hạn trạng thái tỉnh trí và điên cuồng không thể định rõ. Nhưng phải ráng chứng minh không điên mới được. Chàng nói
                            - Tôi van lơn bác sĩ, xin bác sĩ cứu giúp tôi với.
                            - Bằng cách nào?
                            - Tin lời tôi.
                            - Chuyện ấy không tiến ích cho anh bao nhiêu.
                            - Tôi không yêu cầu ông nói với tôi là ông tin tôi, nhưng tôi yêu cầu ông tin tôi thực tình mà thôi. Và tôi xin ông khám lại sức khỏe và trí óc tôi một cách xác đáng.
                            - Lời yêu cầu thứ hai của anh vô ích, khám bịnh là chuyện tất nhiên rồi. Còn tin anh thì không thể được, tôi là nhà khoa học. Tôi chỉ tin những gì tôi nhận thấy, không bằng cớ tôi không thể tin được.
                            - Xin ông tin tôi theo tư cách tôi là con người
                            Bác sĩ gằn từng tiếng:
                            - Tôi là nhà khoa học, lương tâm nhà nghề cấm tôi không tin lời nói suông của ai mà không có chứng cớ làm bằng.
                            161
                            Traian được khám bịnh kĩ lưỡng, chàng bị chích lấy máu ở hai gân tay; lần thứ nhì ở đầu các ngón tay và lần thứ ba, nơi một cánh tay, mà nhiều hơn. Chàng nhẫn nại cho máu, con người phải hiến máu luôn, luôn luôn và cùng khắp! vậy mà còn chưa đủ, họ còn chích máu ở sau đầu chàng, chỗ xương ót, lấy vài giọt nước óc nữa. chàng kiên nhẫn chịu đau đớn, chích như vậy là đau lắm. Và phải chích như vậy nhiều lần, Traian cam chịu, chàng biết rằng não con người chẳng những phải hiến máu mà còn phải cho tủy não. Bằng không thì quyền sống của chàng không được thừa nhận.
                            Họ kích thích mấy bộ hạch trong người chàng. Họ lấy tinh dịch dể trên miếng kiếng và phân chất dưới ánh đèn. Nước tiểu, nước miếng, nước dịch trong các hạch ruột phèo, đều được xem xét dưới kính hiển vi, đươc vô ống chai, khám, lọc trong phòng thí nghiệm của khám đường
                            Mấy bác sĩ rọi phổi, rọi đầu; trọn bộ xương Traian được quang tuyến soi ra từng lóng, từng khớp. Họ timg kiếm khớp xương đã gây ra tiếng kêu tuyệt vọng của con người tìm kiếm công lý. Vết thương ở chỗ khác nhưng bác sĩ cứ mò tìm mãi trong khắp châu thân Traian, trong phôi, trong xương, trong óc, trong tủy của chàng, Traian cứ để cho họ tìm kiếm. họ lại xem xét từng cân nhục, từng gân thần kinh để coi cách phản ứng. Đầu gối, bàn tay, dạ dày đều được gõ, nắm bóp, xem qua. Trái tim cũng được nghe tiếng đập. họ thử bắt chợp từng cử động nhỏ nhặt, bất chợt của hai lá phổi. Bác sĩ lắng nghe từng bộ mạch nhảy phù trầm trong châu thân
                            Traian được cân, đo chiều cao, đo bề ngực, xương cốt, cánh tay, ống cẳng. Họ bảo chàng há miệng ra để xem răng, đếm từng cái, gõ coi có hư hỏng hay không, lưỡi cũng bị khám kĩ lưỡng. toàn thân Traian như có vật gì đáng nghi ngờ, chàng có thể hữu dụng được hay không?
                            Kế đến các bác sĩ chuyên bịnh thần kinh hạch hỏi, tra gạn chàng ngày đêm, mỗi câu trả lời đều được ghi chú kĩ lưỡng. Mấy bác sĩ tìm đạc tính của bịnh điên cuồng cũng như mấy nhà trinh thám theo dõi một vụ án mạng trong nhà phạm nhân. Họ gợi Traian kể chuyện hồi nhỏ, nói chuyện về cha mẹ, anh em và những người đàn bà mà chàng quen biết. Traian đã biết rõ nỗi thầm kín tận thâm tâm mình, cái tâm trạng u uất mà bác sĩ buộc lòng tìm hiểu, nên chàng giúp họ hết lòng.
                            Tâm hồn chàng bị mổ xẻ, phân tách khắp chỗ, bọ lột trần, mở ra như một cái tủ đựng đầy quần áo dơ cũ. Mấy bác sĩ cứ dí mũi vào, không sợ nôn mửa, để dò xét, đánh hơi từng lằn xếp của cuộc đời đầu thầm kín ấy.
                            Cuộc khám xét đã xong, bác sĩ kết luận.
                            - Anh rất lành mạnh, chỉ có bịnh thiếu sinh tố, ăn không đủ và cân dưới mức bình thường thôi. Ngoài các bịnh ấy, cả thảy đều tốt, điều hòa, lành mạnh. Vì thiếu ăn mà bị bịnh thiếu máu, các khớp sưng và răng nhức. Mạch chảy không đều do cơ thể suy nhược; vài đốm đen vô hại trên phổi; bịnh phong thấp nhẹ, nhưng tất cả đều không quan hệ, chỉ là các bịnh bình thường.
                            Traian đã mệt đừ như Chúa Ghê-su trên núi Oliviers, chàng hỏi:
                            - Ông có tin là tôi không điên chưa? Bây giờ ông làm ơn cho tôi ra khỏi nhà thương điên giùm đi
                            - Anh phải lưu trong phòng y dược vì anh đang yếu lắm!
                            - Tôi muốn trở về trại giam liền.
                            - Chuyện anh đòi không hợp lẽ chút nào.
                            - Tôi muốn được trở về Trại giam, gấp chừng nào hay chừng đó.
                            Tuần sau Traian được trở bề trại giam, có đủ giấy tờ chứng nhận chàng không điên và chẳng bao giờ bị điên. Mắt chàng sáng ngời vì hân hoan thắng cuộc nhưng thân xác chàng lảo đảo như bóng ma chán nản khổ đau.
                            162

                            Khi Traian về trại giam, trung úy Jabcobson gọi anh lên phòng văn, Traian nói:
                            - Bắt bớ tự động là một phương pháp nhưng không làm nên một duyên cớ bắt bớ được. Muốn bỏ tù một người phải coi họ như tội phạm và muốn giết họ lần mòn bằng mọi cách phải có một duyên cớ nào chớ. Họ phải được xác nhận như phạm tội mới được, vậy tôi phạm tội gì? vợ tôi có tội gì, cha tôi đã can án nào? Moritz đã làm gì? lúc mà tôi hỏi ông câu ấy một cách tuyệt vọng và rất thông thường, sau mười lăm tháng bị tù đày thì ông coi đó là lời kêu ca của một cơn điên. Từ khi mà sự khát khao công lý và tự do của con người bị cho là điên cuồng thì con người không còn tồn tại nữa. Dầu cho con người ấy có một nền văn minh tân tiến nhất trong lịch sử, nền văn minh đó cũng không giúp họ được phần nào.
                            Trung úy Jacobson châm điếu thuốc hút, bây giờ hối hận, ông nói:
                            - Người châu Âu các anh đều coi chuyện gì cũng bi đát hết. Tưởng như các anh chỉ biết bi nhiêu đó thôi
                            - Có thể ông có lý, không chừng đó là một tật xấu. Nhưng chứng kiến cảnh lố bịch, nhìn cảnh đau thương quằn quại của con người là một chuyện càng hết sức nghiêm trọng hơn mọi chuyện nghiêm trọng không bì được, còn hơn một thói xấu xoàng, hay một tội nhỏ nữa.
                            - Tôi có muốn giúp ích cho anh nhưng không được, tôi có xin họ thả anh ra…
                            - Tôi nhìn nhận rằng ông đã làm hết sức ông nhưng chuyện ấy không dùng vào được chuyện gì, ông không thể và cũng chẳng bao giờ thành công được. Từ rày về sau không người nào có thể thành công trong việc giải thoát người khác hoặc tự giải thoát. Từ nay về sau con người thuộc về thiểu số và tay chân bị trói buộc không thể nào giải cứu cho mình hoặc đồng loại. Con người mang xiềng xích của máy móc, ông cũng có nữa, xiền xích của văn phòng kĩ thuật trói buộc tay chân ông. Những gì văn minh phương Tây hiện đại có thể hiến cho nền văn minh của chúng ta là đôi còng.
                            - Thôi anh về trại đi, nằm nghỉ cho khỏe tùy thích, nhứt là đừng làm chuyện bậy bạ nữa
                            - Tôi chỉ còn làm những gì xã hội kĩ thuật cho phép con người làm thôi
                            - Đấy! anh lại trở lại nỗi buồn của anh rồi. Tôi không muốn thấy anh có giọng điệu đó, anh hút thuốc chớ.
                            - Xin vui lòng
                            Traian cầm điếu thuốc, rồi chàng hỏi:
                            - Ông trung úy có nghĩ rằng chúng ta là khán giả còn ở lì trong rạp trong khi vãn hát rồi không? Nhưng sự ương ngạnh ấy không ích gì, rồi khán giả cũng bị đuổi ra hết. Tất cả, cho tới người chót, rạp hát cần phải thoáng khí; ghế đặng xếp lại để chốc lát khai diễn lớp tuồng mới. Mặt đại cầu cần có thoáng khí, lịch sử tiếp tục diễn trò. Hôm qua yết bảng tuồng “Đơn Thỉnh nguyện”. “Đơn thỉnh nguyện” là những tiếng van lơn của con người vầu xin các công dân văn phòng để yên cho họ sống. Nhưng đơn của người bị tử hình xin ân xá bị bác bỏ. Vả lại đơn ấy cũng không được đọc tới. Lớp tuồng này không có kết quả tốt đẹp vì nó không có chung cuộc hạnh phúc. Ngày mai sẽ diễn tuồng tổng kết, nhan đề là “Vũ khúc cơ khí”, một tuồng không có người đóng kịch, toàn là người máy, cơ khí và công nhân không có mặt mày. Tôi không còn sống để xem tuồng diễn mới vì đã quá trễ song ông sẽ có ghế dành cho ông nhưng chỉ dành cho những buổi diễn đầu. Ông đi xem đi và chúc ông được vui thích! Ông nên nhớ ghế chỉ dành cho ông xem mấy buổi đầu thôi nhé!
                            Traian để điếu thuốc cháy trong dĩa tàn thuốc trên bàn trung úy Jacobson và rời khỏi phòng.
                            163

                            Traian gặp Moritz ở giữa trại giam, anh rất buồn và khi thấy Traian, anh òa khóc, hỏi:
                            - Phải ông Traian đó không? Tôi tưởng không còn thấy được ông nữa!
                            - Rồi anh có thương tiếc tôi chăng?
                            Moritz siết tay Traian nói:
                            - Thương tiếc cho tới chết, tôi không nói được lời giã từ nào lúc ông vị chở đi, không ai cho tôi vô nhà thương thăm ông, họ đem ông đi đâu?
                            - ở chung với mấy người điên.
                            - Trời ơi! Nhà thương điên, không lý nào?
                            - Vậy mà thiệt đó, tôi có đem thuốc hút về đây
                            Traian mở khăn tay lấy thuốc hút vụn ra. Hai bạn ngồi gần nhau trên nền đất nóng cạnh cửa trại, vấn thuốc hút. Moritz hỏi:
                            - Người ta nhốt ông với người điên à, thương hại ông quá!
                            Anh chưa hết lạ lùng về chuyện nầy.
                            Traian hỏi:
                            - Anh thích cái ống điếu của tôi lắm phải không?
                            - Có ống điếu thì chắc chắn sẽ luôn có gì để hút, có thể nhét thuốc nát, thuốc tàn, thuốc vụn không vấn được, bởi thế tôi rất tiếc không có ống điếu. Nhứt là ở trong trại giam, không có ống điếu thì bực lắm.
                            - Tôi cho anh cái ống điếu này đây.
                            Traian đưa ống điếu cho Moritz, cái ống điếu chàng ngậm luôn trong miệng hơn 1 năm nay, mặc dầu nhiều khi chẳng có thuốc, Moritz nói:
                            - Không thể được, ở đây ống điếu là một gia tài, rồi ông lấy gì ông hút.
                            - Tôi sẽ không hút nữa, điếu này là điếu chót của tôi.
                            - Bác sĩ cấm ông hút thuốc sao
                            - Không, chính tôi không còn muốn hút nữa.
                            Moritz cầm ống điếu, mồi thuốc vô, rồi nói:
                            - Cảm ơn ông, nếu ông hút trở lại thì tôi sẽ trả cho, ông tin tôi, toi chỉ nhận là khi ông bỏ hút.
                            - Chắc chắn là không hút nữa.
                            Moritz cười.
                            - Tôi cũng thường tự hứa bỏ hút nhưng không giữ được, không dễ gì bỏ hút đâu.
                            - Tôi biết lắm nhưng lần này thiệt chớ không phải chơi đâu.
                            Traian đốt điếu thuốc, Moritz châm ống điếu, rồi cả hai im lặng ngồi hút.
                            Traian lấy cặp mắt kiếng xuống, săm soi, trìu mến lắm. Kiếng gọng đồi mồi. chàng chú ý nhìn như sắp từ giã nó. Tất cả các vật dụng luôn có bên mình chàng chỉ giữ lại đôi kiếng này. Bốp đựng thuốc hút, chiếc ví tiền, nhẫn cưới, viết máy và viết chì đều lần lượt bị tịch thâu hết, chàng chỉ còn cặp mắt kiếng mà thôi.
                            Cây thánh giá chàng đeo trên cổ, chàng đã đặt lên ngực cha lúc ông chết để chôn luôn với xác mục sư. Theo đạo chính thống, mục sư phải được chôn với áo lễ và một tượng thánh trên ngực. Cha chàng không được mặc áo lễ trước khi chôn, hồi chết ông còn mặc áo tù binh Mỹ có hai chữ P.W. ở lưng và tay.
                            Ông cũng không có áo sơ mi vì áo mới giặt, chưa khô. Moritz vừa đem đi giặt hồi sáng và lúc chết thì bị khiêng đi liền, Traian không kịp lấy mặc cho ông. Nhưng chàng kịp để dưới áo, nơi ngực ông, cây thánh giá chàng đeo nơi cổ. Và cha chàng được chôn cùng cây thánh giá. Chắc mục sư được thiêu cùng cây thánh giá trong lò thiêu.
                            Hiện giờ Traian chỉ còn cặp kiếng. Vật sở hữu duy nhất ngoài thân xác chàng, chàng chỉ có thân mình với cặp mắt kiếng mà thôi.. đó là vật hữu hình lưu dấu dĩ vãng duy nhất chàng còn giữ được. Chàng ngắm xem nó với chút mến tiếc, buồn rầu. Rồi chàng đưa cho Moritz và hỏi:
                            - Anh muốn giữ cặp kiếng này không?
                            - Bộ giờ ông thấy rõ, không cần mang kiếng sao?
                            Moritz cứ cho rằng ai đeo kiếng suốt đời là bị một tôi hành phạt nặng nề, nên anh thật vui mừng thấy Traian không cần mắt kiếng nữa.
                            Traian đáp:
                            - Không phải, tôi bỏ kiếng thì không tháy đường song thất khỏe khoắn hơn. Tôi sẽ không bao giờ đeo kiếng nữa
                            - Tôi luôn lấy làm lạ thấy ông mang kiếng trọn ngày. Ông chỉ lấy xuống ban đêm, chẳng lúc nào tôi thấy ông không mang kiếng.
                            - Nếu may ra anh được thả trươc tôi, nhờ anh đem cặp kiếng này cho vợ tôi. Chắc anh không gặp nàng nữa nhưng anh cứ cất trong mình. Không biết chừng nào và chỗ nào anh gặp nàng, có thể về tới Roumanie mới gặp được. Vậy anh ráng giữ gìn cẩn thận, đừng để gẫy.
                            Moritz cầm cặp kiếng săm soi, anh chắc Traian dấu anh chuyện gì. Việc chàng cho anh ống điếu và gửi cặp kiếng này có ý nghĩa lắm.
                            Traian nói:
                            - Anh đừng sợ, tôi chỉ muốn anh cật giùm cặp kiếng vì tôi không mang nữa và tôi cũng không muốn nó lạc vào tay kẻ lạ khác. Nhờ nó mà tôi thấy bao nhiêu chuyện trong đời tôi. Anh hiểu vì sao tôi yêu quý nó không?
                            - “Với đôi kiếng ấy tôi thấy vợ tôi lần đầu tiên, tôi trông nhìn muôn ngàn gái đẹp, tôi ngắm nhìn bao nhiêu tranh ảnh, hội họa, điêu khắc, các viện bảo tàng, thành phố, đô thị… Với đôi kiếng ấy tôi ngắm nhìn khắp trời, biến, núi non. Với nó, đã bao đêm ròng tôi thức đọc hàng trăm quyển sách. Với nó, tôi thấy cha tôi chết, với nó, tôi thấy cơ đồ châu Á nghiên đổ, con người chết đói, bị tù rạc giam cầm, bị đánh đập, tra khảo tàn bạo và chết rũ trong các trại giam.
                            - “Với cặp kiếng này, tôi thấy các thánh, người hiền, kẻ điên. Với nó tôi thấy một lục địa tắt thở dưới sức nặng của loài người , của luật lệ, của tín ngưỡng và hi vọng- tắt thở mà nó không biết nó đang chết- vì lục địa ấy bị giam hãm trong các trại giam và luật lệ kĩ thuật của một xã hôi đã trở nên nghiêm khác dã man.
                            - “Anh Moritz à, đôi kiếng này là cặp mắt của tôi đó, nhiều lúc tôi nhầm lẫn cả hai, cặp mắt với cặp kiếng bất khả phân ly. Với cặp kiếng này tôi đã nhìn thấy tất cả những gì phải thấy cho tới giờ này
                            - “Kể từ nay tôi không muốn thấy nữa, tôi đã chán rồi, màn biểu diễn đã kéo dài quá mức.
                            #29
                              Whatever 08.01.2011 06:32:31 (permalink)
                              - “Nếu tôi giữ cặp kiếng này thêm tôi sẽ chỉ thấy toàn cảnh đổ nát, thành phố, loài người, xứ sở, nhà thờ, hi vọng đều sụp đổ cả
                              - “Chính với cặp kính này mà tôi thấy sự sụp đổ của đời tôi, cảnh đổ vỡ trong các cuộc đổ vỡ. Tôi không phải thích làm người khác đau khổ, nên tôi không thể thấy những cảnh đau khổ điêu tàn. Chỉ thấy toàn cảnh sụp đổ rộng khắp, tôi không thể chịu nổi nữa.
                              - “Trên cảnh hoang tàn ấy có những người tiên phong tiến bước. đó là các công dân của xã hội đột khởi trong lịch sử này. Họ xây dựng theo một nhịp điệu điên cuồng, để xây đắp văn minh họ khởi sự từ nhà tù! Dầu thế nào cũng mặc họ, riêng tôi, tôi không thể nào xây dựng chung xã hội với họ. Tôi phải đóng vai khán giả trọn đời. Nhưng sống như một khán giả, nghĩa là như một người chứng, thì không phải sống. Cái xã hội kĩ thuật Tây phương chỉ chỉ để dành chỗ khán giả cho con người mà thôi.
                              - “Sự mỉa mai chua cay làm sao, vật dụng duy nhất mà tôi không bị tịch thu trong mấy kì khám xét là đôi mắt kiếng này. Như vậy chứng tỏ tôi còn được phép giữ lấy cử chỉ khán giả duy nhứt. Lắm khi tôi thấy bọn quân lính cũng có lòng nhân, còn để cho tôi cặp mắt kiếng nhưng đó không phải sự rộng lượng. Đó là tánh thích làm người khác khổ. Vì không những chúng hạn định tôi trong vai trò khán giả mà còn chỉ cho tôi những gì phải nhìn thấy, đó là những trại giam. Tôi không được nhìn thấy cảnh gì khác ngoài cảnh các trại giam, nhà thương điên, khám đường, quân lính, và cả ngàn cây số kẽm gai, vì thế mà tôi bỏ cặp kiếng
                              - “Tôi từ bỏ vật duy nhứt mà tôi còn quyền giữ trên thế gian này. Cặp kiếng như đôi mắt, là một bảo vật kì diệu, khôn bì trên mặt đất. Nhưng với điều kiện phải sống thật mới được. Khi con người không còn sự sống nữa, hay chỉ sống với vài giọt sinh lực, hay tạm thời tham dự vào một kiếp sống tạm thời thì đôi mắt kiếng trở thành một vật giễu cợt hiểm ác. Anh có thấy người chết đeo kiếng không?
                              - Mà ông đâu có chết, ông Traian?
                              - Đấy là hi vọng duy nhứt chúng ta còn giữ được, hi vọng chưa chết. Nhưng hi vọng không thể thay thế cuộc sống, hi vọng chỉ là ngọn cỏ giữa các nấm mồ.
                              - Nhưng chúng ta còn sống đây, ông Traian!
                              - Chúng ta vẫn tin tưởng và hi vọng còn sống thôi!
                              Moritz ngó Traian hồi lâu. Anh nhớ lại chính Traian vừa ra khỏi nhà thương điên, chính Traian đang nói chuyện với anh.
                              Traian nói:
                              - Bạn Moritz đừng sợ, Traian không điên đâu. Nếu anh mà cũng cho tôi điên nữa thì kể như hết rồi. Anh cho rằng tôi còn sống là bởi anh chưa thấy tôi tắt thở, nhắm mắt, tim ngừng đập, thanh thể lạnh ngắt, thây xác cứng đờ. Nhưng anh nên biết có nhiều cái chết mà không có xác. Lục địa chết đâu có xác, nhiều nền văn minh, tôn giáo, quốc gia chết mà đâu thấy xác. Con người cũng vậy, thỉnh thoảng có người chết trước khi họ trở thành thây ma. Anh hiểu tôi không?
                              Moritz vùng khóc òa
                              Traian hỏi:
                              - Tại sao anh khóc?
                              - Ông đau rồi, ông Traian à!
                              - Anh muốn nói tôi nhảm nhí và điên cuồng hay sao?
                              - Không, tôi không muốn nói như vậy ông Traian à! Làm sao tôi có thể nói như vậy được.
                              - Anh tưởng tôi điên anh mới òa khóc. Nhưng anh khóc vô ích Moritz à, tôi không điên đâu, tôi tỉnh táo hơn lúc nào hết.
                              - Thật vậy sao ông Traian?
                              - Đúng vậy, tôi sáng suốt lắm!
                              - Tôi không tin ông bị điên nhưng tôi nghĩ chắc ông bị nhức đầu vì không ăn uống nhiều ngày… và biết đâu lúc ông ở đằng ấy, người ta đánh khảo ông, ông xanh quá, tôi không bao giờ tưởng ông
                              Moritz muốn tránh chữ “điên”
                              Traian vấn thuốc và nói một mình: “Những người đau khổ vì nền văn minh Tây phương sụp đổ sẽ sụp đổ va bị tiêu diệt cùng với nó. Những người chứng kiến sự sụp đổ ấy sẽ đứng ngoài vòng thảm kịch. Họ thuộc về, hoặc nhóm văn minh kĩ thuật như trung úy Jacobson chăng hạn, đã cho mình là một người điên, hoặc những người cổ lỗ như Moritz, còn tin dị đoan và sống theo bản năng, và cũng cho mình là điên nữa. họ không cần lo nghĩ tới châu Âu. Moritz, cũng như Jacobson, đã cho là điên, một kẻ đau khổ đến tột mức về tinh thần.
                              Con người duy nhứt không cho là điên mà đã đau khổ đến tột cùng đó là Nora, vợ chàng. Chỉ một mình nàng sẽ vượt khỏi thảm trạng này, vì nàng đã đào luyện với truyền thống mấy ngàn năm nô lệ và khuất phục. Chủng tộc của nàng đã quen chịu cảnh đau khổ và nô lệ ở Ai cập lúc xây dựng kim tự tháp, cũng đã chịu hành hạ về tôn giáo ở Bồ Đào Nha, bị cuộc tàn sát ở Nga, và trải qua các trạm diệt chủng bên Đức. Nòi giống của Nora sẽ chịu đựng được nền văn minh kĩ thuật mới này. Chàng mỉm cười, nói với Moritz:
                              - Anh đốt ống điếu hút thuốc đi, rồi đem cặp kiếng này vô lều cất. Nên nhớ, lúc đưa cặp kiếng này cho vợ tôi anh đừng làm gãy nhé
                              - Tôi đi liền đây, ông Traian
                              Moritz chậm chạp bước đi, hai vai còm, miệng ngậm ống điếu hút từng hơi dài.
                               

                              Traian có cảm tưởng không phải thấy Moritz đi qua sân trại, mà đi suốt mấy thế kỉ trong lịch sử, cũng với mấy bước lơ đãng ấy, xa lạ với mọi vật xung quanh, bàn chân cắm sâu xuống đất, mắt đăm đăm nhìn cảnh vật luôn luôn biến chuyển trên nền trời xanh biếc nhưng không bao giờ tự hỏi tại sao trời xanh dường ấy.
                              Traian nói thầm thầm: “Moritz và Nora sẽ sống sót sau khi Âu châu bị mất, và cũng sẽ sống được trong xã hội kĩ thuật Tây phương này, nhưng không thể sống lâu trong xã hội ấy. Không người nào có thể sống lâu trong xã hội ấy. Có thể hai người sẽ dự kiến được mấy buổi biểu diễn đầu tiên. Rồi sau khi các đàn ông mạnh khỏe chết hết, thì con người máy của phương Đông, phương Tây, phương bắc và phương nam sẽ tràn lan trên mặt đất…”
                              164

                              Moritz vừa khuất sau dãy lều thì Traian đứng dậy, quăng điếu thuốc, bước ra cửa chánh của trại giam. Tù nhân không được phép vô sân để đưa ra cửa chánh. Traian đã biết nhưng vẫn đi tới xa, bước mạnh dạn, không hấp tấp, không chậm chạp. Giống như bước đi của người đi về nhà, buổi chiều sau một ngày làm lụng, chắc ý, không nên vội vàng và cũng không muốn dần dà.
                              Bọn tù ở trong sân, lối ba bốn ngàn, thấy có người bước vô đường cấm. Họ liền lại gần hàng kẽm gai để xem cho rõ. Họ tương một viên thư kí hay một vị bác sĩ vì chỉ có mấy người này mới được phép vượt qua lối cản ấy.
                              Bọn tù muốn xem chuyện gì sắp xảy đến, trong trại giam không có chuyện gì xảy ra mà không được hàng ngàn cặp mắt chăm chú ngó theo, dò xét.
                              Mỗi ngày, bị bắt buộc nhìn thấy bấy nhiêu cảnh vật, nên họ thích thú tìm chuyện mới lạ, dù nhỏ nhặt, miễn là khác chuyện thường ngày. Nhu cầu thiết yếu của tâm lý con người là muốn thoát khỏi lề lối máy móc thông thường để tìm cái mới lạ, cái khác thường của cuộc đời.
                              Một tù nhân đi vào đường cấm là một biến cố đáng chú ý. Tên tù với tư cách là nhân viên, hoặc bác sĩ của trại dù có được quyền cũng bị bọn tù nhân khác theo dõi như một vai kép trong tuồng, vì anh ta dám làm một chuyện bị nghiêm cấm.
                              Traian biết cả trăm ngàn cặp mắt đang theo dõi, chàng cũng biết mấy tên lính Ba Lan đứng trên chòi cao vượt trên hàng dây kẽm gai, phải ngo theo chàng và lấy làm lạ tự hỏi, chàng định đi đâu.
                              Chàng đã biết nhưng cứ thẳng bước tới, không ngó bọn tù đang chú mục nhìn chàng, và cũng không dòm mấy lính canh trước mặt, trên chòi cao. Bước đi của chàng chẳng những như bước chân mạnh dạn, xăng xái của người giận giữ muốn đạp mọi trở ngại mà còn như bước lanh lẹ, dẻo dai của người thích thú ra đi.
                              Traian không thấy thích thú bước đi, nhưng biết rõ bước đi của chàng làm thỏa mãn tâm hồn chàng. Vì thế bước đi của chàng không nặng nhọc mà cũng không buồn chán như một điệu cử động đều đều của máy móc hoặc những người can đảm chạy theo sở thích. Bước đi của Traian không phải bước đi của một kẻ cuồng tín.
                              Chàng bước đi, hai mắt mở to, chàng không trông rõ vì không có cặp kính. Nhưng mắt của tâm trí, của tinh thần chàng mở rộng và chàng thấy rõ đường đi của chàng, thấy rõ ý nghĩa, nỗi sung sướng và thảm kịch của con đường này.
                              Ai hiểu được sẽ nhận thấy bước đi của Traian, trong bước đi trên cát và thẳng đến hàng kẽm gai và lính canh, nỗi buồn sâu thẳm, cố nén và thầm kín. Nỗi buồn của kẻ xa nhà, xa xứ sởm, nỗi buồn của thủy thủ khi tàu tách bến.
                              Ai biết được sẽ đọc được chuyện ấy trong bước đi của Traian. Những chuyện ấy có ghi trong dấu chân của chàng in trên cát. Nhưng người hiểu được không có ở đây.
                              Mắt của tù nhân cà và lính canh chỉ đơn giản thấy bước chân của Traian càng lúc càng lại gần hàng kẽm gai. Đó là điều cấm nhặt, không ai được phép lại gần hàng rào kẽm cách một thước rưỡi. Nhưng Traian lại đang làm.
                              Bọn tù che tay lên mắt để xem cho rõ từng cử chỉ của chàng. Có người đưa nắm tay lên miệng hồi hộp chờ xem kết cuộc, như cử chỉ lúc xem một trận banh quyết liệt, một phim chớp bóng cảm kích, hoặc đọc một tiểu thuyết trinh thám.
                              Lính Ba Lan chòi canh không ngờ, tưởng anh nhìn lầm, có lẽ cũng định giơ bàn tay lên miệng nhưng tay đã cầm súng. Lúc anh giơ tay lên thì bá súng cũng giơ lên. Lính canh nhớ ra bổn phận là phải bắn bất kì tên tù nào lại gần hàng rào kẽm gai và anh liêng bấm cò.
                              Tiếng súng nổ, tên lính Ba Lan chợt nhớ ra mình đã phạm lỗi: bắn không nhắm. Khi bắn súng phải nhắm trước, luật lệ quy định như vậy anh đã biết. Nên một cánh tự động, anh mau lẹ sửa lỗi, và trước phát súng thứ nhì, anh đưa súng lên má, bóp cò.
                              Traian nghe tiếng súng thứ nhất và tiếp liền tiếng thứ hai, chàng thấy một lắn sáng xẹt ngang trước mắt, rồi nghe toàn thân nóng ran, một thứ mệt mỏi cảm thấy khi nằm trong phòng sưởi ấm, uống cốc nước sôi pha rượu với chanh.
                              Chàng nghe trên tay có nước gì nóng đang chảy, rồi chàng lảo đảo, té xuống nền đất nóng, cạnh hàng kẽm gai. Chàng té không có tiếng động, như chiếc áo khoát móc trên giá áo, rơi một đống xuống đất.
                              Traian thấy động lòng thương hại cho thân thể chàng nằm lịm như vậy, thân này là bạn chí thiết của chàng, bây giờ chàng nhận ra và yêu mến nó nhường nào! Chàng nghĩ tới Nora và cha chàng mà chàng cũng yêu mến như thân này. Hình ảnh của Nora, của mẹ chàng, của Moritz, của ông biện lý Damian và vài người bạn nữa thoáng qua tâm trí chàng một chút, rồi rơi xuống như mấy bức tranh nhỏ xíu treo trên tường bị nhổ đinh rơi xuống đất.
                              Mấy tâm tranh có hình ảnh những người thân yêu nhứt của Traian đều rơi xuống đất cùng một lúc với thân xác chàng và chồng chất lẫn nhau.
                              Tâm trí chàng không kiềm giữ nổi nó trước mắt, chàng đã kiệt lực. Vật chót còn đứng vững, một lát, không chịu ngã ngay, là đầu chàng.
                              Trán chàng còn đưa lên khỏi mặt đất.
                               Nhưng giây lát sau, trán chàng rồi cũng nặng dần.
                              Chàng đặt má xuống nền đất nóng như muốn bấu víu một vật gì
                              Trí nhớ chàng, như một lá cờ, bao phủ các tranh ảnh thuở xưa và một thân xác, giờ đây mềm nhũn, mà dòng máu vừa chảy hết
                              Traian biết phải nói một lời nhưng không thốt ra, đó là lời cầu nguyện. Lời cầu nguyện mà chàng ưa thích, song lời cầu nguyện ấy, cũng như bao sự vật trong đời, đều không được thổ lộ. Nếu còn sống thêm vài giây thôi, chàng có thể đọc lời cầu nguyện ấy.
                              “Hỡi đất thân yêu!
                              “Tôi nguyện hiến mình mãi mãi
                              “Tôi, một kẻ lạ vô danh, từ phương xa tới đây
                              Má và môi chàng dính trên đất nóng trong một cử chỉ âu yếm, thân tình, một cử chỉ hoàn toàn quên mình, nồng nàn yêu thương.
                              Việc xảy ra rất giản dị, trang nghiêm, toàn vẹn với cách chậm rãi oai nghi của ngọn đèn đang tắt.
                              Trong sân trại giam, Moritz muốn la lớn lên nhưng bụm miệng lại kịp. Anh cúi đầu ngó xuống và làm dấu thánh giá.
                              #30
                                Thay đổi trang: < 123 > | Trang 2 của 3 trang, bài viết từ 16 đến 30 trên tổng số 32 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 4 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9