Giờ thứ 25

Thay đổi trang: < 12 | Trang 2 của 2 trang, bài viết từ 31 đến 32 trên tổng số 32 bài trong đề mục
Tác giả Bài
Whatever
  • Số bài : 59
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 03.06.2004
RE: Giờ thứ 25 - 08.01.2011 06:33:44
165

Bốn ngày sau khi Traian chết, Moritz nhận được thơ của Suzanna, thơ như vầy.
“Anh Iani yêu dấu!
“Chắc anh tưởng em đã chết, chín năm rồi chúng ta không có tin tức gì của nhau. Nhiều lúc em tự hỏi, hay anh đã chết và em muốn xin nhà thờ cầu nguyện cho anh, như lễ cầu nguyện cho những người chết. Nhưng luôn luôn, tới giờ chót em đều tránh không làm, vì lòng em nói cho em biết rằng anh chưa chết. Bây giờ em thấy vui mừng không có làm lễ cầu hồn cho anh, vì làm lễ cầu hồn cho những người chưa chết thì xui lắm!
“Ông Perusset, trong ban thập tự Thụy Sĩ cho em địa chỉ của anh và nói anh bị giam ở đây từ ba năm nay.
“Em liền cảm ơn đấng thiêng liêng che chở cho anh còn sống và cầu nguyện ngài ban phước mở mắt giùm những kẻ đang giam cầm anh vô cớ. Em biết anh không có làm gì bậy, không trộm cắp và cũng không giết người.
“Em có nhiều chuyện muốn nói với anh, trong chín năm qua, biết bao chuyện đã xảy ra, trong bức thơ này không thuật lại hết được.
“Anh sẽ giận em khi biết bây giờ em đang ở nước Đức, bỏ nhà cửa đất đai và những gì chúng ta có ở quê nhà, để đem con sống với người xa lạ, thế nên em thuật chuyện xay ra như thế nào để anh rõ.
“Anh ra đi vào ngày thứ nhì sau lễ Pentecote. Người trong làng cho em hay anh bị lính bồng súng dẫn đi. Em không tin, vì anh không có tội chi thì không có lí gì họ bắt giam và dẫn anh đi, như một tội phạm với lưỡi lê bên hông.
“Bồn tuần lễ sau, em nướng một ổ bánh mì và chờ anh, em biết anh trở về đói khát, khi ổ bành mốc meo, em cho con ăn rồi nướng một ổ bánh khác để anh về có bánh sốt. Em không hiểu tại sao nhưng lòng em tin chắc anh sẽ về nên em lo từng ngày một. Em lo anh về lúc tối, nên em không khóa cửa, để anh khỏi kêu và khỏi chờ em ra mở cửa. Em biết anh trở về mệt mỏi, đau chân, vì thế em không muốn anh đứng đợi ngoài cửa, nhưng anh Iani yêu dấu của em không có trở và em cũng không làm bánh mì cho anh nữa, vì em hết bột, song em vẫn chờ anh hằng bữa.
“Một ngày kia, vào khoảng lễ Pectecote, viên quản đòn đến cho em hay anh là Do thái và y có phận sự tịch thâu nhà cửa mình. Vậy để có nhà cửa để nuôi con, y chi em kí tên một tờ giấy: tờ ly dị. Em kí, mà không ly dị với anh và vẫn chờ anh như trước
“Khi quân Nga tới chiếm đóng, chúng bắn mục sư Koruga và mấy người lương hảo trong làng. Em với mẹ trong đêm đó, đã cứu mục sư bị bắn mà chưa chết ra khỏi tòa thị sảnh, định đem dấu trong rừng. Dọc đường, gặp một xe lính Đức, liền đưa cho họ đem mục sư vô nhà thương. Em không biết làm vậy phải lẽ hay không nhưng mẹ và em không đành lòng để ông chết được. Ngày sau, mẹ bị Marcou xử bắn vì đã cứu mục sư. Hắn cũng muốn giết em nữa nhưng em đã dẫn con trốn khỏi làng. Em đã cực khổ làm lụng nhiều nơi, em sợ quân Nga bắt được sẽ bắn em như chúng đã bắn mẹ, nên chạy xa được chừng nào hay chừng ấy. Nhưng rồi quân Nga cũng bắt được em ở nước Đức sau khi hết giặc. Chúng không bắn em mà lại xử tốt với em, chúng cho con bánh mì, kẹo và quần áo vì mấy đứa nhỏ không phải dân Đức. Chúng cũng cho em vật thực và quần áo. Bây giờ em hối hận, tại sao bỏ làng Fantana, trốn quân Nga làm chi.
“Như thế được bốn ngày, em đang bịnh nên chờ mạnh để trở về nhà.
“Một tối có ai đó gõ cửa sổ, đó là quân lính Nga, chúng tông cửa, vô nhà, lục soát coi có đàn bà con gái nào khác không, rồi bắt em với con gái chủ nhà mới mười bốn tuổi, kéo đi. Bọn chúng cho chúng em uống rượu, chúng móc súng ra, dọa bắn nếu tụi em không chịu uống. Rồi chúng ra lịnh bảo tụi em lột trần. Em thà chết chứ không trần truồng trước mặt trẻ nít. Bọn lính bèn giựt và xé nát áo ngoài và áo sơ mi của em rồi cưỡng hiếp chúng em tới sáng. Tất cả bọn chúng đều lần lượt thay phiên thi hành những thủ đoạn dã man. Đoạn chúng đổ rượu vào miệng và lỗ tai em vì đã không chịu uống, rồi hãm hiếp em nữa
“Anh Iani, anh thứ lỗi cho em, sao thuật cho anh nghe những chuyện ấy, vì em không muốn giấu giếm anh chuyện gì. Khi em tỉnh dậy, quân Nga mất dạng; các con thì xúm quanh em khóc, như em đã chết rồi.
“Đêm sau, cũng bọn lính cũ trở lại. Chúng bắt cô con gái chủ nhà và cưỡng hiếp chúng em nữa
“Em mói dẫn con trốn dưới hầm để quân lính Nga không còn gặp được em, nhưng đêm thứ ba, chúng lại bắt gặp em dưới hầm và tái diễn chuyện tồi tệ mấy đêm trước, song em không biết gì cả, vì em đã ngất xỉu lúc chúng nắm lấy em
“Thảm cảnh kéo dài hai tuần lễ không sót đêm nào. Em trốn trong vườn, trong nhà người lân cận, trong vựa lúa nhưng chúng đều tìm được, không bữa nào em thoát khỏi. Em nhứt định tự tử, song nhìn lại đàn con thơ em không nỡ bỏ chúng không mẹ, cha chúng nó không có đã là nhiều rồi. Chúng nó sẽ ra sao khi bơ vơ giữa đất lạ này? Vì con em không tự tử nhưng em đã chết từ lúc ấy. Để lánh xa quân Nga, em chạy về hướng tây, tới cùng chiếm đóng của quân Anh, rồi ảu quân Mỹ àm em ở hiện giờ, nhưng dọc đường quân Nga bắt được em nhiều lần và chúng cưỡng hiếp em ngay trước mặt trẻ con như với tất cả đàn bà chúng bắt được. Trước khi qua vùng quân Anh, em còn bị quân Nga giữ lại ba ngày ở biên giới. Chúng đã hãm hiếp em ngày và đêm, lần chót em mang thai. Đã năm tháng nay, em mang con chúng trong bụng.
“Em hỏi anh em phải làm sao, anh trả lời cho em rõ?sự việc xảy ra như thế anh còn nhìn nhận em là vợ anh không, và chừng nào anh về với em
Em khóc, em viết thơ nầy cho anh, nóng lòng chờ tin tức anh để biết em làm thế nào?
SUZANNA
166

Đọc xong thơ, Moritz nắm chặt tờ giấy, im lặng hồi lâu. Anh nghe tiếng văng vẳng báo hiệu tới giờ ăn nhưng anh nằm ngửa, không nhúc nhích. Cái nhìn của anh, thân thể anh cho tới cách anh nằm đều thay đổi. Chẳng phải anh Moritz hồi nãy, anh Moritz thường ngày. Một người khác hẳn, tâm hồn và thể xác anh như bị nguồn điện chạy qua, anh không chịu đựng nổi, chỉ còn là đống tro nóng. Anh không còn là Moritz nữa, có ai lấy kim chích anh, anh cũng không hay biết. Anh tuy sống mà không đói, không khát, cũng không vui, không buồn.
Anh có thể khóc và cười một lượt vì anh không biết gì và cũng không còn thấy mình còn sống nữa
Anh ngồi dậy, ra khỏi lều và bước đi nhưng anh không biết là đi đâu
Anh đến gần hàng kẽm gai như thường lệ mà cũng không hay. Nếu anh có đi quá lằn mức cấm và bị bắn như Traian, anh cũng dửng dưng. Song anh không muốn đi lố mức, anh cũng không muốn vượt qua. Anh không muốn và anh cũng không mong muốn gì cả.
Một lát sau có hai người lính Mỹ cầm máy anh tới gần và muốn chụp ảnh anh.
Moritz không cử động và cũng không ngó họ, nhưng chừng thấy người thứ ba, anh giựt mình, kêu nho nhỏ.
- Strul! Sao anh lại tới đây?
Người lính Mỹ dừng lại, cầm máy ảnh ngó anh. Chính là Strul, tên Do Thái coi việc lương phạn ở Trại gam Roumanie, đã trốn qua Budapest với bác sĩ Abramovici và Moritz . Hai người ngó nhau và nhìn biết nhau.
 
Khi Moritz kêu Strul lần thứ hai thì gã vội lấy máy ảnh lên che mắt, như để chụp hình Moritz, rồi đi liền, không trả lời
Moritz đứng đằng sau hàng kẽm gai ngó theo hai tên lính Mỹ vơi Strul bước lên xe Jeep chạy đi
Lúc xe khởi chạy, Strul ngó lại Moritz nhưng ngượng ngịu, liền đưa mắt ngó chỗ khác
Moritz không giận, nếu ngày khác chắc anh tức sôi lên vì một người bạn trong gian khổ lại làm mặt lạ với anh
Nhưng bây giờ Mooritz kệ tất cả.
Anh đứng một minh, cạnh hàng rào hồi lâu.
Có người vỗ vai anh, anh không quay lại
- Anh Moritz vô sửa soạn đi.
Moritz xây lại, tưởng được thả ra, mắt sáng lên, mừng rỡ hỏi viên trưởng trại đã vỗ vai anh.
- Họ thả tôi ra phải không?
- Không đâu, anh bạn à!
- Vậy đi tới một trại giam khác sao?
- Đi Nuremberg
Moritz lắc đầu, tỏ vẻ không cần. Đã từ lâu anh biết anh đương nhiên bị coi như một chiến phạm, như tất cả các quân sĩ S.S, đi tới Nuremberg để ở chung với các chiến phạm khác, như thống soái Georing , Rudolf Hess, Rosenberg, Von Papen… là sự thường tình. Có thể anh bị xử tử hình, bị xử giảo, cũng mặc.
Và anh vẫn đứng ngó ngoài kia hàng rào, tận chân trời xa xăm.
Viên trại trưởng đập mạnh vai anh và nói:
- Anh sẽ đi trong nửa giờ nữa
Moritz không nhúc nhích
Viên trại trưởng bảo:
- Đi gói đồ của anh đi, chỉ còn đủ thì giờ thôi, tới mười ba giờ phải sẵn sàng để tập hợp.
- Tôi không có đồ đạc
- Anh không lấy gì theo hết sao?
- Không
- Cũng không cần lấy mền anh nữa à?
- Không cần.
Viên trại trưởng có ý nghĩ, nếu Moritz không lấy mền thì hắn sẽ có hai cái, ngủ ấm hơn, song hắn gạt bỏ ngay ý nghĩ ấy, hắn nói:
- Anh nên lấy theo mền, tại khám đường tòa án Nuremberg lạnh và ẩm ướt lắm, anh phải có mền mới được.
- Tôi không cần gì hết.
- Thôi, anh đừng trễ nải. Giờ khởi hành nhứt định là một giờ trưa.
Moritz đứng yên, mũi giày để trên lằn trắng, chỗ mà tù nhân chỉ được pháp bước tới đó thôi. Mũi giày cẳng mặt của anh bước tới giữa lằn trắng, Moritz nhìn tên lính Balan đang nhìn anh trên tháp canh. Tên lính đã đưa súng lên má và sắp sửa bắn. Nhưng Moritz không vượt qua lằn mức đó, anh cứ đứng, mũi giày dí qua dí lại một hồi.
Nửa giờ sau, anh đi Nuremberg với các chiến phạm khác
Bức thư của Suzanna để lại trong lều, cùng với tất cả các vật dụng của Moritz, các bạn anh muốn đọc nhưng đành chịu vì thư viết bằng tiếng Roumanie, họ không hiểu gì.
Giấy của bức thư thật mỏng, họ bèn xé ra, chia nhau làm giấy hút thuốc.
Rồi họ ráp lại hút thuốc.
167

Đơn thỉnh nguyện số bảy, đề tài: Sự Công bình, hình phạt chiến phạm Iohann Moritz. (Đơn văn phòng nhận được sau khi người chứng đã chết)
Tòa án quốc tế Nuremberg đã quyết định, nhân danh 52 quốc gia, cho bạn tôi, Iohann Moritz là một chiến phạm.
Thật là một việc hay, từ khi ấn hành bản phán quyết, tôi không đi dạo chơi cùng anh trong sân nữa. Thật không đẹp mà lại còn bị khinh rẻ nếu làm bạn, hay đi chơi với kẻ chiến phạm.
Song Moritz coi thường bản án của tòa án quốc tế và coi thường tội ác của anh
Vì thế nên tôi có đơn trạng này
Moritz quả quyết trong đời anh không giết ai, dẫu là một con ruồi, thì không thể phạm tội được. Vậy là anh lầm to, trong lúc 52 nước đã chứng nhận tại tòa án quốc tế rằng anh phạm tội kia mà! Mortiz lại cho là anh không biết 52 nước nầy thì làm sao anh can gián được với 52 nước ấy. Luận điệu của anh ngớ ngẩn thật, tôi có đọc đến danh sách 52 quốc gia kết án anh. Có nhiều nước anh mới nghe lần thứ nhất trong đời anh và cũng không biết các nước ấy có mặt trên mặt đất nầy. Nhưng chuyện ấy đâu phải một cớ để chữa lỗi.
Moritz nổi giận lên khi thấy trong 52 nước kết án anh, có nước Pháp và Hy Lạp. Anh giận tái xanh và không tin những tội người ta gán cho anh, anh nói lúc trước anh có biết sáu người Pháp và đã cứu họ vượt ngục, anh biết một người Hy Lạp bị giam cùng trại với anh và anh đã chia bánh mỳ với hắn. Ngoài chuyện ấy ra anh không giao thiệp gì với nước Hy lạp, nhưng đây là mấy chuyện riêng tư, của cá nhân anh.
Hai nước ấy kết án anh là chiến phạm, lời phán quyết đã rõ rệt và xác thực.
Muốn cho Moritz nhận tội lỗi của mình, tôi đề nghị cho anh ở tù một năm trong mỗi nước, như thế anh sẽ biết tội phạm chiến tranh của anh và không còn thờ ơ nữa.
Nhưng chưa chắc anh đã sống thêm được 52 năm vì như các chiến phạm khác, anh đã yếu lắm rồi. Nếu anh chết trước thời hạn thì những nước chưa giam tù anh sẽ bị thiệt thòi, tôi đề nghị giảm xuống sáu tháng khổ sai của anh trong mỗi nước. Như vậy anh phải ở 26 năm tù cả thảy.
Nếu sau 26 năm ấy anh vẫn còn sống và thật đáng tiếc nếu anh chết không trả được nợ tù cho 52 nước đồng minh, tôi đề nghị còng anh dẫn đi mỗi nước một tháng trước khi đi vòng trở lại.
Như thế nước đóng minh nào cũng có phần mình, không ai bị thiệt thòi.
Và sự công bình được giải quyết, sự công bình là nền tảng trên đó thiết lập nền văn minh kĩ thuật Tây phương.
Tuy nhiên có vài xứ như Nga, Balan và Yougoslavie, không săn sóc tù nhân cho chu đáo, có khi còn bỏ quên họ trong khám nữa, tôi đề nghị trước khi dẫn đi, nên cân Moritz và kê khai rành mạch các bộ phận trong châu thân anh còn nguyên vẹn
Mỗi xứ lãnh Moritz nơi tòa án Nuremberg và khi trả anh cũng phải trao cho tòa án nầy y như trong bản nhận lãnh, cân đúng số và các bộ phận y như trong bản kê khai.
Được như thế, Moritz sẽ còn nguyên vẹn cho mỗi nước trong 52 nước đồng minh dùng.
Xã hội kĩ thuật phương Tây có nguyên tắc không để vật gì hư hỏng.
Bổn phận của chúng ta phải đòi hỏi những nước kém văn minh hơn chúng ta, đừng sử dụng vật gì chúng ta giao phó như những kẻ dã man
Sứ mạng của chúng ta là văn minh hóa toàn thế giới! đó là trách nhiệm của chúng ta và chúng ta rất hãnh diện như thế.
PHẦN PHỤ
Rốt cuộc rồi Moritz cũng được ra khỏi trại giam
Anh đã vắng mặt trong mười ba năm trường, trong thời gian ấy anh bị giam trong hàng trăm trại giamc ủa nhiều quốc gia
Hiện anh đã tìm được vợ con
Lúc bấy giờ đã mười giờ tối. Đem sum họp đầu tiên, Mooritz ăn xong, chống tay lên bàn, ngó con cái.
Petre, thằng đầu lòng đã mười lăm tuổi rồi, Moritz ngắm nó một hồi lâu. Anh giụi mắt để chắc ý rằng anh không chiêm bao và anh cũng không làm sao tưởng được nó là con trai anh.
Thằng Petre mặc bộ đồ Mỹ, vải xanh, nó hút thuốc và cũng có cặp mắt giống cha
Thằng Petre cũng vậy, nó không làm sao ngờ được người đàn ông ốm yếu, tóc hoa râm, ngồi trước mặt nó, mà từ trước tới giờ nó chưa hề thấy, lại là cha đẻ nó.
Nhưng đã ở chung một nhà, nó kiếm cách làm thân, nói:
- Tôi sẽ nói chuyện với ông chủ tôi và không chừng ông sẽ kiếm được việc làm cho ba trong hãng.
Moritz mỉm cười, Petre nói tiếp:
- Nếu tôi giới thiệu thì chắc chắn ông chủ bằng lòng, ông chẳng khi nào nhận người không thạo việc mà ba thì không rành nghề nào. Song nếu tôi nói là ba tôi, chắc ông sẽ cho một đặc ân.
Moritz ngó qua Nicolae, đứa con thứ của anh. Nó giống Suzanna, cũng trắng hồng và có cặp mắt dịu dàng như nhung.
Anh ngó tới đứa thứ ba, được bốn tuổi, nó không phải con anh, Suzanna có thai với lính Nga. Song, Moritz đã tha thứ cho nàng vì không phải lỗi ở nàng.
Moritz châm điếu thuốc khác, điếu thuốc Petre cho anh nguyên gói, để mừng anh trở về
Anh đã mệt nhưng chưa buồn ngủ, trong phòng có hai cái giường, Suzanna ngủ với thằng bé trong cái giường nhỏ, Moritz ngủ một mình trong cái giường kia, hai đứa lớn trải mền ngủ dưới đất.
Thằng Petre nói:
- Hiện giờ tam được, chúng ta sẽ kiếm thêm buồng hoặc mua thêm giường nữa.
Mấy đứa nhỏ trải mền và sửa soạn thay đồ ngủ.
Moritz ngồi tại bàn ăn, hai tay ôm đầu, ngó Petre và Nicolae đang thay đồ ngủ, chúng nó chúc anh ngủ ngon bằng tiếng Đức, anh muốn chúng nó nói tiếng Roumain hơn, nhưng chúng không rành.
Suzanna đặt đứa nhỏ trong giường, Moritz nghĩ thầm, “nó là con quân Nga”. Thằng nhỏ dễ thương đáo để, tóc có lọng, hung hung vàng.
Moritz không muốn ngó nó tuy hồi còn ở trại giam anh có viết thư nói sẽ coi nó như con.
Suzanna cũng không muốn anh ngó thằng bé, nàng thay đồ cho nó rồi đẩy nó vô giường, như muốn giấu dếm.
Nàng đứng giữa phòng một hồi, không biết làm gì?
Đoạn nàng lại ngồi tại bàn ăn, đối diện với chồng. Nàng biết Moritz mệt nhưng không dám bảo anh đi ngủ, nàng thấy có lỗi nhiều trong nhứng gì đã xảy ra, chồng nàng bị bắt, bị giam trong trại bao nhiêu năm cũng tại nàng. Tuy suy nghĩ vô lý, nhưng ý nghĩ quá mạnh, nàng không thể bỏ qua được…
Và còn chuyện quân Nga cưỡng hiếp nàng, lỗi cũng tại nơi nàng, vì thế nàng không dám nhìn cặp mắt Moritz và không dám mời anh đi ngủ.
Nàng đã biết Moritz về nên lo bữa ăn, giường ngủ. Anh về đến nhàm đói quá, ăn hết sạch đồ ăn trên bàn, hút hết nửa gói thuốc Petre vừa biếu. Bây giờ các con ngủ rồi, Suzanna đưa mắt ngắm chồng, gặp lúc Moritz đang ngó nàng, bốn mắt gặp nhau một hồi lâu không thể rời được.
- Phải cái áo em mặc đêm đó hay không?
Moritz ngó chiếc áo dài xanh, cổ hở, mà Suzanna đã mặc đêm cha nàng đánh chết mẹ nàng, chiếc ao nàng đã mặc lúc anh dẫn nàng về nhà nhưng cha mẹ không nhận, anh phải dẫn tới nhà mục sư Koruga xin ở đậu trong nhà bếp. Lúc đầu Suzanna chỉ có chiếc ao độc nhứt nầy. Chẳng có chiếc nào khác, cũng chẳng có áo sơ mi. Suốt mấy tuần lễ, nàng phải mặc chiếc áo nầy, ban đêm phải cởi ra để dành, ngủ trần. Về sau nàng may được mấy cái khác nhưng chỉ có cái nầy nàng cho là đẹp hơn hết và chồng nàng cũng thích nó nhứt. Chính lúc nàng mặc nó, hai vợ chồng mấy tuần lễ yêu đương sung sướng trong đời, Suzanna nói:
- Em không hề mặc nó từ khi anh bị bắt đi khỏi Fantana. Lúc anh bị chúng bắt, em thề khi nào anh về tới cửa, em mới mặc nó. Từ mười ba năm nay, đo đâu em cũng luôn mặc nó bên mình và trong mười ba năm nay em chờ anh mãi mãi, nhưng chưa bao giờ em mặc nó trước bữa nay.
Suzanna hổ thẹn cúi xuống, lúc sau nàng nhìn lên, bắt gặp Moritz đang ngó nàng. Anh định đặt nàng lên bắp vế và thủ thỉ bên tai nàng: ”anh mòn mỏi vì em”
Nhưng anh không nói gì với nàng hết.
Anh đốt thêm điếu thuốc, ngó mấy đứa con lần nữa, rồi ngó Suzanna lần nữa.
Nàng không thay đổi nhiều, mặt hơi nhăn, da mất vẻ tươi thắm, tóc đã phai giống màu chỉ gai, vú xệ, nhưng nàng vẫn như ngày xưa, nàng Suzanna ở làng Fantana của anh. Mười ba năm, ví như một khoảng thời gian cho thuê. Moritz nói:
- Tôi muốn đi chơi một chút.
Nhưng anh không đứng dậy, muốn đợi Suzanna đứng trước, nàng hỏi:
- Em đi với anh được không?
Moritz không trả lời, song đợi Suzanna thay đồ, rồi hai người nhón gót ra ngoài, sợ tụi nhỏ thấy.
Họ hẹn thầm.
Xuống thang lầu, họ chạm nhau vài lần, không ai nói lời nào.
Trời xẩm tối, Moritz muốn đi xem đường cái, thị tứ hơn. Nàng dẫn anh đi.
Trước một của hiệu, Suzanna nắm tay Moritz chỉ cho anh đôi giày nàng muốn mua cho anh, rồi họ đi xa hơn, hai tay còn nắm nhau. Họ nhìn nhiều tủ kiếng khác, không nói đến chuyện chiến tranh, chuyện trại giam, chuyện nhà của ở Fantana hay các chuyện đã qua. Họ muốn hưởng một đêm đầy đủ cho riêng họ, không nhắc lại những kỉ niệm đau buồn.
Moritz nói:
- Anh chỉ nghỉ khỏe trong hai ngày rồi đi kiếm việc làm, thằng Petre chắc xin giúp anh vô hãng được
- Anh cứ nghĩ vài tuần lễ rồi hẵng hay, anh còn yếu lắm. Em và thằng Petre kiếm sống đủ rồi, em giặt đồ và cũng có mối nhiều.
Nàng vừa nói vừa siết chặt tay Moritz, anh thích lối nàng khéo lựa lời nói để anh yên lòng nghỉ ngơi.
Hai người đến cửa ra khỏi thành phố, hai bên là đồng cỏ rộng rãi. Trời tối đen, Moritz nói:
- Giống ở làng Fantana quá!
- Thật vậy!
Họ tiếp tục đi dạo, cả hai đều nghĩ tới làng Fantana, đến tiếng chim mèo, Moritz nói:
- Đau chân quá, ta ngồi nghỉ một lát.
Hai người vô trong một vuông vườn và ngồi xuống. Moritz nằm dài, hai tay gối đầu, khoan khoái nói:
- Thật giống làng Fantana, lúc anh lăn qua, úp mặt xuống cỏ, và nói:
- Em hửi mùi cỏ coi, Suzanna! Giống mùi cỏ sau vườn sau nhà ba em. Em còn nhớ chớ? Miếng vườn mà chúng ta gặp nhau trong đêm.
Suzanna cúi xuống hít cỏ. Tim nàng đập mạnh, nàng không trả lời được, tiếng nàng quá run.
Moritz đặt tay lên vai nàng. Suzanna vẫn cúi xuống.
Họ yên lặng một lúc lâu, không cử động, hình như họ cách xa nhau, họ không xích lại gần
Chỉ có Moritz còn để tay trên vai Suzanna. Moritz nói:
- Em biết không? ở trại giam anh đã tưởng nhớ tới em nhiều.
Vài ngôi sao lấp lánh trên trời. Suzanna dòm theo, rồi cúi xuống gần Moritz mà anh không hay, nàng e thẹn, Moritz tiếp:
- Em thứ lỗi cho anh, anh ở trại giam mơ màng tới em luôn. Anh thú thật với em, vì ai có bị giam cầm mới thấy sự đó là thường. Anh mơ thấy em y như hồi hai ta trong vườn, sau nhà ba em… mùa hè ấy là đoạn đời tươi đẹp nhất của chúng ta.
Suzanna cúi thêm lần nữa và đặt vai lên đầu Moritz, anh vuốt ve nàng, rồi nói:
- Em không sợ nhàu nát cái áo đẹp mà em đã giữ mười năm nay sao?
Nàng định nói cái áo không nhàu, nhưng Moritz nói tiếp:
- Tốt hơn em cới nó ra, để trên cỏ như em đã làm ở Fantana.
Suzanna cởi áo, mau lẹ như không muốn để Moritz không nhìn thấy rõ nàng. Nàng nằm trần trên cỏ xanh, vóc mình nổi bật như tượng đá cẩm thạch. Nàng nằm cách xa Moritz, anh ôm ngang lưng nàng và lấy làm lạ, nói:
- Em cũng như lúc nào? Không thay đổi gì hết, vẫn còn là Suzanna của anh, như trong vườn làng Fantana. Làm cách nào em giữ được nguyên như vậy!
- Anh nói không đúng! Em già rồi, chỉ anh không thay đổi mà thôi.
Suzanna dang ra, Moritz ôm sát nàng lại
- Em cũng dang ra như lúc xưa. Dường như không có mười ba năm xa cách lúc nào.
Nàng cũng có cảm tưởng như thế về Moritz.
Như thuở nọ, anh cũng vòng tay ôm ngang lưng nàng, anh cũng ôm nàng vào lòng, hôn hít lấp miệng nàng như ngộp thở. Nàng cũng cảm thấy ngực anh đè nặng nàng như cái áo giáp. Tất cả đều giống như thuở nào.
Suzanna nói:
- “Anh thơm mùi cỏ làng Fantana quá, anh còn giữ mùi cỏ rơm ấy luôn
- “Em cũng vậy, em chỉ nhớ tới anh mà thôi. Em xin thề, ngày đêm em nhớ tới anh luôn, với tất cả tâm hồn, em xin thề với anh. Anh là vừng đông, là mặt trời, là chồng yêu quý của em. Chỉ một mình anh mà thôi.
Moritz biết nàng không nói dối, nàng chỉ riêng cho anh, một mình anh mà thôi, anh đoán điều này trong nguồn hơi nóng khắp châu thân nàng, trong nhịp tim thổn thức của nàng và lời nói đầy yêu thương nồng cháy của nàng bên tai anh.
Moritz cảm biết anh là mặt trời, là vừng đông của nàng và nàng chỉ biết tưởng nhớ và trông chờ anh. Moritz cảm thấy những gì xảy ra trong mười ba năm qua vụt tan đâu mất. Và vợ chồng sum họp, giống như trước, chỉ hai vợ chồng với nhau. Và một tương lại rực rỡ hiện ra trước mắt họ là cuộc đời.
Mortiz không còn lo sợ cho kiếp sống mình nữa.
Trời chưa ngừng sáng hai người đã dậy, họ thấy bẽn lẽn, Suzanna nói:
- Ta không còn trẻ như mười hai năm trước, ta nên về nhà sớm hơn.
Moritz cười, hai người đồng ý đêm sau sẽ trở lại chỗ nầy, Moritz nói:
- Và các đêm kế tiếp nữa, chúng ta nên trở lại chỗ nầy. Chỉ nơi đây mà thôi, nơi đây thật giống làng Fantana. Anh có cảm tưởng như chúng ta ở tại quê nhà và trong khoảng thời gian đã qua không có chuyện gì xảy ra.
Vợ chồng tười cười về nhà, họ hết xa lạ với nhau và họ cũng hết hổ thẹn, nhiều lúc anh vòng tay ôm ngang lưng nàng và nàng vẫn để yên. Moritz nói:
- Em biết không, anh không thấy mệt mỏi chút nào. Sáng mai, anh sẽ theo thằng Petre đi kiếm việc làm. Chờ đợi làm chi? Ta có thể mướn được hai căn phòng. Anh đi làm có tiền, chúng ta sẽ được sung sướng.
Suzanna muốn Moritz nghỉ ngơi cho khỏe đã, nhưng Moritz đã nhứt định, anh nói:
- Ngày mai anh đi với thằng Petre, mười ba năm nay anh có nghỉ ngơi gì đâu, mà toàn làm công việc nặng nhọc, anh quen rồi.
Trước một cửa hàng, hai người dừng lại, cửa kiếng còn sáng trưng.
Moritz nói:
- Tiền anh làm được kì đầu, anh sẽ mua cho em xâu chuỗi hột trai này, xâu đỏ đó, em đồng ý không?
Nàng ngó xuống giá tiền, rồi nhìn Mortiz, không biết trả lời làm sao. Giấc mộng Moritz được trở về, mua cho nàng một xâu chuỗi để thành sự thật. Nàng nói:
- Nếu mai anh làm liền được, thì thứ bảy này anh mua xâu chuỗi cho em.
Khi hai người về đến con đường vô nhà thì trời sáng, Moritz ôm ngang Suzanna vào lòng rồi nói:
- Anh không hôn em ở nhà được vì có mấy đứa nhỏ, chúng nó sẽ cười mình. Chúng nó tưởng mình già rồi, nhưng chúng mình chưa già. Có phải mình chưa già không em.
Trước nhà có xe cam nhông, đèn pha sáng chói.
Tim Moritz đập mạnh, anh sờ giấy tờ trong túi, tuy anh có giấy tờ hợp lệ nhưng anh hơi lo. Chiếc xe cam nhông giống xe trại giam và đè pha cũng sáng như vậy.
Moritz biết tất cả giấy tờ anh đều đủ phép, anh cất đủ trong lòng mình, và tất cả đèn pha đều chói sáng như nhau, nhưng anh sợ.
Suzanna hơi:
- Tại sao anh run vậy nè?
Moritz không đáp, kéo nàng bươn bả vào nhà, khi lên nấc thang, gặp hai viên hiến binh vừa trong phòng anh đi xuống. Họ đã đánh thức mầy đứa nhỏ và dặn thằng Petre lo sẵn đồ đạc, chừng 50 kí mỗi người, đúng bảy giờ sáng , đứng chờ ở trước nhà.
Nhưng lúc gặp Moritz ở ngoài , sẵn dịp đó,họ nói:
- Đúng bảy giờ sáng ngoài của nghen.
- Các ông định đưa chúng tôi đi đâu- Suzanna hỏi
- Vì biện pháp chính trị, các ngoại kiều ở miền đông châu Âu đều bị giam giữ, bởi mấy nước này đang gây chiến tranh với đồng minh Tây phương. Nhưng không sao đâu, các ngươi sẽ được sống sung sướng trong trại, ăn uống như dân Mỹ. Chỉ một sự đề phòng thôi, đừng sợ gì hết, không ai bắt bớ các người đâu
Trong đêm đó, Mortiz muốn trốn.
Anh đã được mời một lần để thuật lại vụ anh cứu mấy tù binh Pháp cho thiếu ta đô trưởng nghe. Lúc đó anh tin thiệt. Và vì thế anh bị bắt giam trong mười mấy năm vừa rồi. Bây giờ anh không tin ai nữa hết, anh đeo túi dếch anh vừa mang từ trại giam về mười tám giờ trước, và đánh thức mấy con dậy để từ giã.
Thằng Petre cười khi thấy cha nó muốn trốn, nó nói tiếng Anh thông thạo và là một kẻ thân Mỹ nhiệt liệt.
- Ba muốn đi đâu? Ba thiệt thà quá, tôi biết rõ người Mỹ, tôi có một số đông bạn Mỹ; mỗi buổi chiều chúng tôi đi chơi với nhau. Khi người Mỹ nói không phải là bắt bớ, ta nên tin họ. Và nếu chỉ là một biện pháp chính trị, chúng ta sẽ có lương thực Mỹ để ăn, có cafe ngon, thuốc lá điếu, bánh kẹo. Chúng ta sẽ không bị bắt làm việc, ai dại gì đi trốn, ba chưa hiểu người Mỹ mà.
Moritz nghĩ tới những điều anh đã biết, đã đau đớn chán chường và đã thấu khổ sở, anh ngó thằng Petre. Anh không muốn phá tan ảo mộng của nó và không muốn nói thiệt với nó những gì mình đã biết.
Anh cởi túi dếch, để trên bàn, anh tự nghĩ không biết trốn đi đâu? Trốn quân Mỹ thì gặp quân Nga, mà ở với quân Nga còn khổ sở hơn, không phải anh tin lời thằng Petre, anh hiểu thế nào rồi, nhưng anh đã mòn sức, không còn đủ lực để đi trốn. Anh không còn cách nào khác hơn là ở lại, ở lại để bị bắt một lần nữa. Anh nói:
- Mầy có lý, ai dại gì đi trốn.
Petre vỗ vai anh, thân mật nói:
- Cha con ta sẽ tình nguyện xin nhập ngũ trong quân đội Mỹ. Chừng đánh quân Nga xong ta sẽ trở về Roumanie. Trận giặc văn minh chống dã man mà, ta phải tình nguyện mới được
Moritz không nghe thêm, trí anh đang nghĩ tới những hàng dây kẽm gai ở Dachau, Zicgelheine, Koruwestem, Darinstadt, Ohrdruf, Ziegelheim, những hàng kẽm gai của ba mươi tám trại giam mà anh bị giam cầm trong mấy năm chót nầy, những nơi mà mục sư Koruga, Tranan đã chết và anh suýt bị chết đói.
Anh cảm thấy như mấy dây kẽm gai đảm thấu tim anh. Anh nghĩ thầm: “Mới tự do chỉ được có mười tám giờ, bây giờ phải vô trại giam trở lại. Lần này không phải bị bắt bởi là dân Do Thái, Roumanie, Đức, Hong grois, hoặc lính S.S., mà vì là kiều dân một nước Đông bán cầu”. Nước mắt Moritz tuôn trào.
Thằng Petre hỏi:
- Sao ba không sửa soạn hành lý đi?
Nó vui thích được ra đi lắm. Moritz đáp:
- Ba sẵn sàng. Từ mười ba năm nay, ba dời chỗ nầy đến trại giam khác biết bao lần rồi, nên lúc nào ba cũng sẵn sàng. Rồi con cũng sẽ tập quen với mấy trại giam. Ba thương hại cho con, song làm đàn ông, ai ai cũng phải chịu như vậy, vì từ rày về sau, họ chỉ thấy toàn trại giam, hàng rào dây kẽm gai, và có xe nhà binh hộ tống, ba đã trải qua một trăm lẻ năm trại giam, sắp tới đây là trại giam thứ một trăm lẻ sáu. Khổ than ba làm sao! Vừa mới được thả có mười tám giờ! Biết đâu ba không có lấy một giờ tự do trước khi chết.
Moritz ngó Suzanna và nói:
- Nếu như thế thật tốt đẹp, bây giờ anh có thể chết được, không luyến tiếc. Anh không ngờ anh được sống những giờ tươi đẹp, hạnh phúc như thế, thật như hồi ở làng Fantana, phải không Suzanna?

Whatever
  • Số bài : 59
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 03.06.2004
RE: Giờ thứ 25 - 08.01.2011 06:35:55
ĐOẠN KẾT

- Bà West, tôi muốn nói chuyện riêng với bà!
Eleonora để tập hồ sơ trên bàn, ngó trung úy Lewis. Ông đang ngồi tại bàn giấy, chân tréo mảy, ưỡn ngực dựa lưng ghế, hút thuốc.
Trung úy Lewis là trưởng phòng Phòng tuyển mộ ngoại kiều đến tình nguyện xin vô quân đội Mỹ, Eleonora là nhân viên và là thong dịch viên tại phòng nầy. Nàng làm việc từ sáu tháng nay, dưới quyền trung úy Lewis.
Nora ngó đôi vớ cuốn kèn quanh ống quyển trung úy, rồi nghĩ thầm:”tại sao hắn không mang giày kẹp vớ? và tại sao hắn ngồi ghế như ngồi ngựa vậy? giống bọn thủ thủ ở bến tàu. Vậy mà hắn cũng là con nhà có giáo dục, cũng xuất than từ đại học, dầu hắn có tự do quá mức đi nữa hắn cũng không được phép ở phòng văn, đưa cặp giò trước một người đàn bà như thế này!”
Nàng thấy như bị tát tai khi trung úy bắt tay nàng mà miệng còn ngậm điếu thuốc, hoặc mỗi lần quăng một hồ sơ lên bàn cho nàng, như ném miếng xương cho một con chó.
Trung úy Lewis không bao giờ nghĩ Nora nghĩ gì tới mình, trái lại còn tưởng nàng phục mình lắm. Nhưng đôi mắt nhìn của ông vẫn còn ngượng ngịu.
Nora đáp:
- Tôi xin nghe ông!
- Bà West có bằng lòng làm vợ tôi không?
Trung úy ngồi bật ngửa, xích đong đưa trên ghế, chiếc ghế chỉ còn lại hai chân. Nora trả lời:
- Tôi không ưng làm vợ ông!
- Vậy bà có dự tính nào khác sao?
- Không có, nhưng câu trả lời của tôi là: không bằng lòng.
Nora dở tập hồ sơ ra song không làm việc được, mắt ngó giấy tờ mà trí ở đâu đâu.
Nàng ở tù trong hai năm, rồi vô cớ được thả ra, cũng vô căn có, như lúc bị bắt
Khi ra tù nàng hết tiền bạc, chẳng còn áo dài, nữ trang nào, đến nhẫn cưới cũng không, tất cả đều bị khám xét lấy hết. Tiền gửi các ngân hang nước ngoài cũng bị tịch thu. Nàng nghèo xơ xác, nàng được cho hay, Traian chết, tự tử, chỉ có thế. Nàng tuyệt nhiên không biết gì khác hơn, nàng không thể trở về Nga, cũng không đi đâu xa hơn được, vẫn còn ở Đức. Nàng làm việc cho một tờ báo, giữ phần biên dịch bào vở. Rồi có lịnh bắt giam tất cả kiều dân ở Đông bán cầu, chiến tranh tuyên cáo, nàng đương nhiên bị bắt giam lại. Nhưng không phải như trước, hiện giờ nàng làm tại văn phòng tuyển mộ dân ngoại quốc tình nguyện nhập ngũ. Nàng ở trong trại giam, có tiền lương và được nuôi ăn. Ngoài ra lúc rảnh nàng tiếp tục viết tiểu thuyết Giờ thứ hai mươi lăm của Traian chưa hoàn thành. Nàng có tìm giữ được trong vali bốn chương đầu, mà nàng cho là phần chính của quyển sách. Nàng không nghĩ gì tới tương lai, chỉ cốt viết cho xong truyện. Đúng ra đây không phải một kế hoạch tương lai. Nàng để hết tâm trí vào việc mà nàng ưa thích. Nàng rang viết theo giọng văn của chồng và rang hoàn thành cuốn tiểu thuyết như chính Traian làm công việc này.
Như thế, tại mỗi trang nàng viết, nàng có cảm giác lúc nào cũng gần Traian, cũng ở kế bên chàng, và nàng có cảm tưởng như hai người cùng viết chung. Lúc trước Traian có phác họa kĩ càng đại ý cuốn tiểu thuyết, nàng cố gắng theo đúng y hệt ý tưởng của chàng.
Trung úy Lewis suy nghĩ một chặp rồi nói:
- Được, nhưng tôi có thể biết tại sao bà không bằng lòng không?
- Nếu ông tha thiết lắm thì tôi xin trả lời, tại chênh lệch tuổi tác.
Trung úy thật tình cười lớn và nói:
- Thật vô nghĩa, tôi lớn hơn bà có một năm, tôi đã xem giấy tờ của bà. Có chênh lệch gì đâu nào, trái lại là khác, bà khéo vẽ chuyện!
- Ông lầm rồi!
- Bà nói chơi sao? Bà mấy tuổi?
- Nói chuyện khác đi ông!
- Không, bà phải nói tuổi thật của bà trước đi.
- Không ai lại hỏi tuổi người đàn bà bao giờ, nhất là gặn đi gặn lại như vậy! Song tôi có thể nói cho ông nghe. Tôi được chin trăm sáu mươi chin tuổi. Và ông nên nhớ về tuổi tác, đàn bà thường nói ít hơn số tuổi thực sự của họ. Đúng ra, tui còn già hơn nữa.
Trung úy cười ngất rồi nói:
- Phải đấy, thưa bà Bành tổ.
Nhưng Nora không cười, trung úy tưởng nàng sắp ưng thuận, song nàng quả quyết lặp lại tiếng không, nàng nói:
- Ông Lewis đừng giận, tôi không thể nào ở chung với một người như ông trong hai bốn giờ.
- Tôi đã nói vì chênh lệch tuổi tác. Ông là một thanh niên hiền hậu, dễ thương và ích kỉ, nói tóm lại, như tất cả thanh niên Mỹ. Còn tôi là người đàn bà của một thế giới khác.
- Tôi không hiểu.
- Tôi biết ông không hiểu nên mới không giải thích. Tôi có với tôi cả ngàn năm kinh nghiệm của giống nòi, đã hi sinh, đau khổ, một ngàn năm đã đạo luyện cho tôi trở thành như ngày nay, còn ông ông chỉ có cái hiện tại và tương lai, và có lẽ tương lai. Tôi thêm tiếng có lẽ không phải vì tôi nghi ngờ, nhưng vì chưa ai chắc chắn nơi tương lai được.
- Thật là ngụy biện
- Thì ông nghe tôi đây, ông Lewis. Sau khi nghe được lời tỏ tình văn hoa của Petrarque, Goethe, Lorord Byron, Pouchkine, sau khi nghe tiếng nói yêu thương của Traian, sau khi nghe lời ca ngợi tình ái của những chàng thi sĩ thời xưa của nước Pháp, và thấy họ quỳ gối dưới chân tôi, như với một bà hoàng, sau khi thấy vua chúa, chàng hiệp sĩ chết vì tôi, sau khi nói chuyện tình ái với Valery, Rilke, D’Annunzio, Eliot, làm sao tôi có thể coi nghiêm trang được chuyện ông xin cưới tôi, mà ông thốt ra như tạt vào mặt tôi, cùng một lúc với làn khói thuốc nơi miệng ông?
- Vậy một người muốn cưới bà thì phải là Goethe, lord Byron hoặc Petrarque sao?
- Không phải vậy, cũng không phải đợi là Rilke hoặc Pouchkine mới hỏi cưới một người đàn bà. Song muốn kết hôn với một người nào, điều nhất thiết là phải yêu họ.
- Mà chúng ta đã hoàn toàn đồng ý về điều này rồi, ai nói là tôi không yêu bà?
Nora mỉm cười nói:
- Yêu thương là một tình say mê, ông có nghe tôi nói đến, hay ít nhất đọc ở đâu rồi chăng?
- Phải, tôi hoàn toàn đồng ý, yêu đương là một tình say mê.
- Nhưng ông tuyệt nhiên chẳng thấy say mê, và không phải một mình ông, không một người nào của xã hội văn minh có được một mối tình say mê cả. Ái tình là mối tình cao quý nhất, chỉ có đươc trong xã hội mà mỗi người đều được kính trọng, mỗi cá nhân được xem là độc nhất và không thể thay thế. Xã hội của ông lại cho con người có thể thay thế dễ dàng. Ông không cho mỗi cá nhân, mỗi người đàn bà mà ông yêu là một con người duy nhất do tạo hóa tạo ra đâu. Ở xã hội các ông, mỗi người chỉ được phân ra từng loại hạng. Dưới mắt ông, người đàn bà nay hay người đàn bà khác đều như nhau cả.
- “Với quan niệm đó, ông không thật tình yêu thương được. Những tình nhân của xã hội chúng tôi biết rằng nếu họ không chiếm được trái tim người đàn bà họ yêu quý, thì họ không thể yêu người khác được. Vì thế, lắm khi họ tự tử vì người yêu. Tình yêu của họ bị từ chối thì không thể thay thế được bằng tình yêu của người khác. Ngươi đàn ông nào yêu tôi thật tình phải cho tôi cảm giác tôi là người duy nhất đem được hạnh phúc cho họ. Chỉ một mình tôi thôi, họ phải chứng tỏ tôi là người độc nhứt, không còn người thứ hai trên mặt đất này và tôi phải được xác nhận chuyện ấy. Người đàn ông nào không làm cho tôi có cảm tưởng tôi là duy nhứt, không thể thay thế được là chưa thật yêu tôi. Và người đàn bà nào chưa được sự xác nhận của người mình yêu thì chưa phải là yêu thực sự. Và nếu tôi không được người đàn ông thực sự yêu tôi thì tôi không kết hôn với người đó. Ông có chứng tỏ được như thế không, ông Lewis? Ông có tin chắc đối với ông tôi là người đàn bà duy nhứt mà không người đàn bà nào thay thế được chăng? Không, ông tin chắc nếu tôi từ chối ông sẽ kiếm người khác làm vợ ông, mà nếu người ấy từ chối nữa thì ông sẽ tìm người thứ ba, phải vậy không?
- Phải, nhưng tôi sẽ tiếc bà đã từ chối tôi, bà nên tin lời nói danh dự của tôi. Tôi vẫn tiếc mãi.
- Thôi! Tốt hơn là ta nên làm việc đi ông.
Nàng mở hồ sơ ra và nói:
- Trong trại giam ai cũng xin đăng tên, luôn cả con nít, đàn bà và ông già nữa, họ đều xin tình nguyện, họ muốn chiến đấu bên cạnh ta.
Nàng mỉm cười, nàng nhơ đến hàng ngàn công nhân ngoại quốc ở Tây âu. Tất cả đều xa lánh sự tàn bạo của quân Nga, chạy trốn bên phía Mỹ, Anh hoặc Pháp. Họ cũng không nghĩ chạy theo hướng nào họ chỉ biết chạy trốn quân Nga, trốn sự tàn bạo dã ma, tránh khủng bố hoặc giết chóc. Họ nhắm hướng nào không có quân Nga nữa và họ nhắm mắt chạy theo hướng ấy. Họ chỉ biết không được quay gót trở lại, bởi sau lưng là đêm tối, là đẫm máu. Sau lưng họ, là khủng bố, chém giết. Họ ôm chằm lấy vùng đất này, nơi không còn quân Nga nữa. Họ quỳ gối ôm chằm vùng đất đã bao dung họ và gọi đó là lãnh thổ của hứa hẹn, của hi vọng, họ ôm chằm lấy nó, không cần biết là nơi nào, cũng không cần biết nó sẽ ra sao?
Hễ là đất không có quân Nga là được, không kể dân nước nào ở hoặc chiếm đóng.
Họ không còn muốn thấy người Nga nữa.
Người Mỹ bắt giam họ nhưng họ không oán hận, vẫn yên lòng ở vùng đầy hứa hẹn bởi họ chẳng đòi hỏi gì hơn là tránh khỏi móng vuốt của quân Nga. Và khi đã thoát được, kiếp sống họ có ra sao nữa họ cũng không cần. Vì thế họ không giận khi quân Mỹ bắt họ, dầu quân Mỹ có giết họ, họ cũng không phản kháng. Và bây giờ trận giặc thứ ba vừa mới khai hấn. Dân tị nạn đã mệt mỏi, đói khát và bị giam cầm.
Họ muốn lương thực, được nghỉ ngơi, có công ăn việc làm và được tự do. Họ không phản đối chẳng được mấy nhu cầu kể trên, vì họ được xa lánh quân Nga là điều cần thiết nhất cho họ rồi.
Người Mỹ hứa trả tự do cho những ai tự nguyện nhập ngũ vào đạo binh Tây phương, nên tất cả đàn ông đều tình nguyện, chẳng phải để đánh giặc, mà để khỏi bị nhốt, khỏ bị chết đói.
Trung úy Lewis nói:
- Họ hoan hôn nhiệt liệt! chính nghĩa của trận giặc Tây âu chống dã man Đông âu được cả thế giới này chấp nhận. Ai ai cũng nhận định giờ quyết liệt đã đến với họ, hoặc chết hoặc thắng trận. Chiến tranh này sẽ đánh dấu cho kỉ nguyên mới trận giặc duy nhứt của lịch sử! Tây âu văn minh chống Đông âu dã man. Thật là thế giới chiến tranh, trận thế giới chiến tranh đầu tiên trong lịch sử nhân loại.
Trung úy xoa tay nói:
- Thật là hạnh phúc và danh dự được tham gia trận giặc nầy. Phần thắng chắc về ta rồi, cả thế giới được văn minh hóa. Chẳng còn chiến tranh nữa; từ rày về sau, chỉ còn thịnh vượng, tiến bộ và tiện nghi an lạc thôi.
Nora mỉm cười, trun úy hỏi:
- Hình như bà không hoan nghinh? tôi thấy bà không hăng hái tán thành chính nghĩa của Tây phương. Bà có cảm tình với cộng sản sao? Bà là người duy nhứt còn dè dặt, người duy nhứt không hoan nghinh.
- Không ai hoan nghinh cả, chỉ có ông thấy họ hoan nghinh thôi!
- Mấy người tình nguyện kia không phải là hoàn toàn chống cộng sao?
- Phải, chống cộng, nhưng chỉ có bấy nhiêu thôi, nghĩa là họ muốn có tự do, muốn không còn cảm thấy không khí khủng bố, không còn muốn bị tra khảo, tù đày, đói rét, tàn sát nữa. Nhưng họ không phải vì chính trị, học chỉ lẫn trốn cảnh giết chóc, khủng bố và nô lệ thôi.
- Bà còn muốn gì nữa, như thế họ hoàn toàn hoan nghinh chính nghĩa của Tây phương rồi; nên họ mới tình nguyện đăng tên, cùng chúng ta chiến đấu để đem lại tự do, yên ổn, sự che chở và nền dân chủ.
- Ông đừng say sưa với những danh từ, ông Lewis à! Chiến tranh mà ông cho là trận giặc thế giới thứ ba này không phải là trận giặc Tây âu chống với Đông âu. Và thật ra không phải là trận giặc, dẫu rằng trận tuyến trải ra khắp thế giới, từ Tây sang Đông. Trận giặc này chỉ là một cuộc cách mạng trong nội bộ xã hội kĩ thuật Tây phương mà thôi; một cuộc cách mạng riêng cho Tây phương.
- Nhưng chúng ta chống Đông âu, chống cả cùng châu Âu miền Đông.
- Ông nói sai rồi! Tây phương các ông chỉ xung đột với một ngành trong nền văn minh các ông thôi.
- Chúng tôi chiến tranh với nước Nga.
- Nước Nga, sau cuộc cách mạng cộng sản đã trở thành một ngành tiên tiến nhứt của nền văn minh kĩ thuật Tây phương. Nước Nga mượn tất cả lí thuyết của Tây phương và chỉ đem thực hành mà thôi. Nước Nga đã tiết giàm con người xuống con số không, như đã học của Tây phương. Nó đã biến xã hội thành một bộ máy khổng lồ như đã học của Tây phương. Chỉ có nước Nga mới bắt chước Tây phương được, như một giống dân dã man mọi rợ có thể làm. Trong xã hội cộng sản những chuyện hoàn toàn do quân Nga đem tới là sự cuồng tín và dã man, và chỉ có thế thôi. Ở Nga sô trừ đặc tính khát máu và cuồng tín ra tất cả đều do Tây phương hết. Và các ông chỉ chống lại phương diện ấy của nền văn minh Tây phương, chống ngành cộng sản của xã hội kĩ thuật mà thôi. Và vì thế trận chiến tranh thế giới thứ ba này chỉ có thể là một cuộc cách mạng nội bộ, nó dã bùng nổ và tiếp tục diễn tiến trong xã hội kĩ thuật Tây phương. Nhóm Đại tây dương và Âu châu trong xã hội kĩ thuật Tây phương chống với nhóm cộng sản Tây phương. Đây là một cuộc chiến nội bộ phe phái, hai giai cấp trong một xã hội, hoặc nếu ông muốn một cuộc cách mạng giai cấp, y như cuộc cách mạng giai cấp trung sản năm 1848. Đông phương không dự vào cuộc cách mạng nội bộ Tây phương. Trừ xã hội Tây phương, không ai dự vào cuộc cách mạng nội bộ này cả. Ông Lewis à, một khi cuộc cách mạng ấy hoàn toan Tây phương thì nó không phục vụ con người. Vì xã hội Tây phương không có con người.
- Tôi không hiểu.
- “Dễ hiểu lắm, quyền lợi của xã hội Tây phương không phải là của con người , mà là ngược lại. Trong xã hội kĩ thuật Tây phương, con người sống như mấy giáo đồ đầu tiên thuở xưa trong hầm mộ, trong khám đường, ngục tối, ngoài lề xã hội. Họ trốn tránh lẫn lút, không được phép ra giữa công chúng. Họ không được phép giữ chức vụ hành chánh ở bất kì đâu, nhứt là trong văn phòng vì xã hội văn minh các ông đã thay thế bàn thờ bằng văn phòng.
- “Người mà còn thật là người thì phải trốn tránh, kẻo không sẽ bị bắt buộc phải hành động theo luật lệ kĩ thuật, theo luật lệ của máy móc.
- “Con người bị giảm còn một khuôn khổ xã hội và bị biến thành công dân, nghĩa là không còn là con người nữa
- “Xã hội kĩ thuật không biết đến con người, mà chỉ biết đến họ trong hình thức công dân mà thôi.
- “Và một khi không biết tới họ thì làm sao có cuộc cách mạng vị họ được.
- “Vì tính cách đặc biệt Tây phương, nên cuộc cách mạng hiện tại xa hẳn với quền lợi con người về phương diện cá nhân
- “Con người từ lâu đã trở thành một thiểu số vô sản trong xã hội văn minh các ông, cho nên dầu phe nào thắng trận đi nữa, thì con người vẫn là phần tử vô sản trong khung cảnh xã hội.
- “Trận giặc hiện tại là cuộc xung đột giữa hai hạng người máy, kéo theo sau chúng những nô lệ sinh hoạt, những người nô lệ sống bằng xương bằng thịt.
- “Con người ngày nay không thể kể như có tham gia vào chiến tranh đang xảy ra, cũng giống như người nô lệ chèo các chiến thuền La Mã thời xưa, ta không thể kể họ đã tham gia vào chiến tranh đế quốc La Mã được. Họ chỉ làm công việc mang xiềng xích của trận giặc, mà mắc bị xiềng thì làm sao đánh được.
- Tù nhân ở trại này đến đăng tình nguyện không phải tự ý họ sao? Bà quả quyết liều lĩnh quá, tôi không phải hăm dọa bà nhưng tôi kịch liệt phả đối bà. Mỗi người tình nguyện tới đây đều do họ muốn cả. Bà có dám chắc chúng tôi ép buộc một ai làm chuyện đó không. Bà đã chứng kiến cảnh thất vọng của những kẻ chúng tôi buôc phải từ chối, họ hăm dọa sẽ tự tử nếu không được đăng tên. Vây không phải tự ý họ sao? Không phải họ hoan nghinh à. Họ còn cuồng tín hơn chúng tôi nữa. Họ coi như bị hình phạt nặng nề, khi chúng tôi từ chối thâu đơn họ. Có phải vậy không bà West.
- Họ không còn lối thoát nạn nào nữa, họ bị nhốt trong xà lim khám đường, tứ bề lửa cháy và chỉ còn một cửa ra được. Cửa ấy là những đơn trạng mà ta tiếp hàng ngày tại phòng này. Mỗi lá đơn là một tiếng kê vang tuyệt vọng để được ra ngõ còn lại của họ. Tất cả đều gởi đơn, không phải chỉ dân Đông âu tị nạn, mà cả châu Âu.
- Không đúng, đơn ấy đâu phải lối duy nhứt thoát ra khỏi biển lửa, họ có thể qua bên Nga, tại sao họ không chịu đi mà lại đến ở với chúng tôi?
- Không, chỉ đường cho họ qua Nga nghĩa là biểu họ nhào vô vách tường cháy đỏ, họ chỉ có thể nhảy vào ngọn lửa và vào cõi chết mà thôi, và không một người nào muốn nhảy vào đống lửa, khi còn thấy cửa ra. Cửa đó, là chúng ta, họ xin chạy thoát nhưng không tìm xem cửa ấy dẫn tới đâu, họ không quan tâm tới, họ phải chạy vì ngộp thở. Thà chạy ra cửa còn hơn ở trên vách lửa cháy. Mà dầu biết qua khỏi ngưỡng cửa gặp lửa nữa, họ vẫn chạy ra, ít nhất cũng tránh bị cháy được một chút. Họ cố giữ hi vọng, một ảo vọng, như thế hơn không. Một ảo vọng, tuy vô lý cũng quan trọng lắm chớ.
- Bà xem tất cả ở khía cach bi đát, các người tình nguyện có nghĩ như bà đâu? Đơn được chấp nhận là họ mừng, họ liều thân chiến đấu cho chính nghĩa của chúng ta mà cũng là của họ nữa. Họ sẽ là những quân nhân ưu tú nhất của chúng ta đó. Bà mở cửa ra và xem họ tranh nhau trước văn phòng thì biết.
Có cả trăm, cả ngàn người xin tình nguyện. Tất cả đều hăng hái chiến đấu vì đại nghĩa của nền văn minh. Tất cả đều muốn xả thân cho cuộc đại thắng ngày mai.
- Không, họ tin tưởng nơi trận giặc này. Có thể họ không nghĩ như tôi, họ đau khổ quá nhiều. Họ không muốn nghĩ ngợi thêm, song họ cũng cảm thông, cũng đau đớn, cũng thất vọng như tôi.
- Thoi để cho thực tế trả lời bà West ạ. Tôi sẽ cho bà thấy cách họ hân hoan đăng đơn xin tình nguyện. Tôi sẽ lấy ví dụ, lựa đại trong đám đông nầy.
Trung úy đứng dậy, mở cửa, chỉ đám đông đang chờ chực phía trước, nói với Nora.
- Bà xem, hôm nay có 500 người chờ đợi, thử kêu người đứng đầu xem.
Trung úy cho người đứng đầu vô phòng văn. Người đàn ông không đi một mình mà có cả vợ và ba con, y đứng tuổi, tóc đen, hơi hoa râm hai bên màng tang, má hỏn, cặp mắt to và đen, nhưng buồn và đẹp.
Nora ngó cặp mắt người nầy, rồi nói thầm: “Nỗi buồn nơi tâm hồn cao cả của y”
Người đàn ông đứng trước mặt nàng là một người thợ nhưng đôi mắt lộ vẻ thông minh, có tinh thần.
Thứ tinh thần của một tâm hồn cao cả, nỗi buồn không phải riêng về thân xác, mà nhứt là về tinh thần.
Thiếu phụ đứng bên, mặc áo dài xanh, hơi rộng, tóc hung hung vàng đã điểm sương. Nàng còn đẹp lắm, đẹp chẳng những ở vóc điều mà còn vẻ anh hoa rực rỡ khắp làng da.
Nora muốn cười với nàng, như một người chị em song nàng cúi mặt xuống. Xem nàng buồn và sợ sệt
Đứa con trai lớn có đôi mắt đen, giống mắt cha nó, nhưng không buồn mà láo liên, táo bạo nhìn Nora
Đứa kia ngó xuống, lơ đãng như suy nghĩ chuyện gì, nó trắng hồng.
Đứa nhỏ hết, độ bốn tuổi, tóc quăn mắt xanh, Nora không biết nó là con trai hay gái nhưng nó đẹp như một thiên thần
Trung úy nói với Nora.
- Đây là một gia đình muốn tình nguyện. Bà hỏi họ coi có nghĩ như bà hay không? Bà sẽ thấy không phải vì tuyệt vọng mà họ tới đâu, họ đến vì khao khát tự do và công bình, họ xin nhập ngũ vì muốn chiến đấu cho hòa bình và văn minh, họ ý thức lắm. Cứ hỏi họ những gì bà muốn biết, rôi bà xem.
- Không cần thiết, tôi không tìm thấy họ cảm nghĩ gì trong tâm khảm. Nỗi khổ tâm cả tôi cũng đủ rồi, xin đừng bắt tôi phải gợi chuyện đau lòng của kẻ khác. Ông cứ hỏi han họ như thường lệ, tôi không chú tâm đến
- Tôi yêu cầu bà hỏi những gì bà muốn hỏi, chắc chắn bà sẽ đổi ý kiến
- Cũng được
Câu chót của trung úy như một lình truyền, Nora ngó người đàn ông cầm nón đứng trước cửa. Cặp mắt anh ngó lên, nàng hỏi:
- Anh tên gì?
- Iohann Moritz. Tôi xin tình nguyện với tất cả gia đình tôi. Xin bà chấp nhận cho. Tôi cầu xin chuẩn miễn vì tuổi tôi đã quá hạn như trong bảng quy định. Nhưng tôi thấy tôi còn khỏe mạnh, mấy đứa con tôi còn khỏe quá chưa đủ tuổi nhập ngũ nhưng chúng ngay thật và siêng năng. Chúng tôi chống cộng như quy định trogn bảng yết thị. Chúng tôi tin tưởng vào sự chiến thắng của nền văn minh như yết thị đã rao, song chúng tôi không đủ tuổi như quy định trong yết thị. Vì vậy chúng tôi xin bà cho chúng toi được chuẩn miễn. Vì bà không thâu nhận chúng tôi, chúng tôi sẽ chết mất. Chúng tôi không thể chịu đựng được nữa
Thằng con trai lớn, có cặp mắt đen, nắm cùi chõ ba nó ra hiệu, nó muốn nhắc ba nó nói nhiều quá.
Moritz làm thinh, đỏ mặt, anh tự hối, phải chi đừng nói câu sau cùng.
Anh đã vụng về, có thể vì lẽ đó mà người ta không thâu nhận anh, anh tiếp:
- Chúng tôi thiết tha cầu khẩn bà cho chúng tôi được ghi tên. Chúng tôi làm lụng siêng năng và tính tình ngay thẳng lắm!
Thằng Petre dặn anh nói nhiều chuyện khác nữa nhưng anh không muốn. Anh không có lòng nào nói được là anh tin tưởng nơi Tây phương, nói văn minh và chi chi nữa. Anh không thể nói mấy chuyện ấy, miệng anh không thốt nên lời. Lúc ra về thế nào anh cũng bị thằng Petre giận hờn, nặng nhẹ với anh. Anh đưa cặp mắt van lơn ngó thiếu phụ, tóc hung hung đỏ, ngồi ở bàn viết, và thấy nàng cũng ngó anh
Cả phòng im lặng
Thiếu phụ có đô mắt long lang, cái nhìn ấm áp, hiền hậu
Vợ và con Moritz cũng đưa mắt ngó nàng, chờ đợi, nhưng nàng vẫn ngồi im, nhìn họ
Trung úy Lewis ra khỏi phòng. Thiếu phụ lặng im một hồi, ngó người đàn ông trước mặt, rồi nói:
- Anh biết Traian Koruga không?
Moritz giật mình, đáp:
- Chúng tôi ở chung với nhau
Anh không muốn nói ở chung một trại giam, thằng Petre nói dặn kĩ ở nhà rồi.
- Chúng tôi ở chung nhau cho tới ngày chót. Với ông Traian và mục sư Koruga. Tôi ở kề bên ông ấy lúc tai nạn…
Ngừng một lát, Moritz nói thêm:
- Thật là một người hoàn toàn tốt mà tôi được biết. Như một ông thánh sống vậy, bà cũng biết ông Traian nữa sao?
- Tôi là vợ Traian
Moritz tái mặt, đứng dựa vào cửa. Anh muốn lấy khăn tay trong túi nhưng không có khăn, lại đụng một vật bằng thủy tinh, cặp mắt kiếng của Traian
Hồi sớm mai nầy, anh lấy nó ra để làm cái bao da, sợ để trong rương cấn bể.
Anh cầm mắt kiếng trong tay giây lát rồi suy nghĩ, thấy không cần bao da làm chi vì anh không cất trong vali nữa
Anh để cặp kiếng trên bàn, trước mặt Nora, nói:
- Đây là cặp kiếng của ông Traian
Moritz nghẹn ngào, giọng khàn khàn, anh tằng hắng lấy giọng, rồi nói tiếp.
- Ông ấy đưa tôi, trước lúc chết, dặn tôi kiếm bà trao lại. Ông đưa cho tôi đúng trước khi ông…
Tiếng Moritz run run, không nói thêm được lời nào. Anh vội móc khăn tay, nhưng chỉ có miếng da để làm bao kiếng. Anh cầm lên, không biết để làm gì, nhưng cũng phải làm một cử động gì, anh liền để miếng da lên bàn, gần cặp kiếng, rồi nói:
- Tôi muốn làm cái bao kiếng, cho khỏi bẻ gẫy, trong trại tôi sẽ có thì giờ làm. Bà sẽ cất kiếng trong bao da, sẽ kĩ lưỡng hơn, nó không thể nào bể gẫy được
Trung úy Lewis vô lại phòng, nói:
- Thế nào, bây giờ có nhận ra họ thiệt lòng và sốt sắng nhập ngũ hay chưa?
Giọng Nora nghẹn ngào, nàng tằng hắng rồi trả lời quả quyết:
- Đúng vậy, bây giờ tôi hoàn toàn công nhận ông có lý. Mấy người này đều khẩn khoản xin cho họ được chuẩn miễn về tuổi tác. Họ muốn xin nhập ngũ cả gia đình.
Trung úy thích chí, cười đáp:
- Bà cứ cho họ được miễn tuổi và làm giấy tờ cho họ đi. Tôi l chụp ảnh tất cả gia đình nầy để đăng báo.
Trung úy bước lại gần đứa nhỏ hơn hết, vuốt tóc nó, rồi hỏi Suzanna:
- Đứa nhỏ nầy cũng chống Nga nữa phải không?
Suzanna cúi đầu, nhưng nghĩ phải trả lời một câu, nên đáp:
- Thưa phải, nó cũng chống quân Nga
Nàng sợ Moritz nghe, nhưng anh đã nghe, nàng hối hận.
Nora điền vào mẫu đơn nhập ngũ rồi nói với Moritz:
- Chiều nay anh lại chỗ tôi ở, tôi cũng ở trong trại, chúng ta thong thả uống trà, nói chuyện yên tĩnh hơn. Anh sẽ thuật tôi nghe những gì anh biết về Traian
Mắt Nora mờ lệ.
- Bây giờ anh trả lời câu hỏi của tôi để tôi ghi đủ trong sổ. Từ năm 1938 tới nay, anh ở đâu? Anh cứ nói thật hết đi, đơn anh sẽ được chấp nhận.
Thằng lớn hơn hết mỉm cười, sung sướng, thấy việc đã thành.
Đứa bé cũng vui vẻ ăn kẹo của trung úy cho, cười đưa hai hàm răng trắng nõn.
Suzanna thì cúi gằm mặt xuống.
Trung úy Lewis sửa soạn máy anh để chụp gia đình Moritz, trong lúc anh đứng biên thể thức nhập ngũ. Ông muốn tất cả phải có bằng chứng xác thật
Moritz nói:
- Từ năm 1938 tôi ở trong trại giam Do Thái xứ Roumanie. Từ năm 1940, ở trong trại giam dân Rouman xứ Honggie. Năm 1941, ở Đức trong trại giam Hongrois. Năm 1945, ở trong trại giam của Mỹ. Tôi vừa được thả khỏi trại giam Dachau hôm kia. Mười ba năm trong trại giam, tôi được tự do mười tám giờ, rồi bị dẫn tới đây…
Trung úy Lewis xây máy ảnh về phía gia đình Moritz, kêu to lên:
- Cười đi!
Moritz ngó Nora, nghĩ đến trăm ngàn thước dây kẽm gai mà anh đã thấy. Anh tưởng như bao nhiêu cuồng kẽm đó quấn xung quanh mình anh.
Anh không ngó lên khi trung úy nói với anh, anh không hiểu tiếng Anh.
Anh nói tiếp:
- Đó là tất cả những gì xảy ra cho tôi, từ năm 1938 tới nay, toàn là trại giam, trại giam. Mười ba năm ròng rã tôi toàn ở trong trại giam.
Trung úy Lewis kêu lên:
- Cười đi!
Moritz biết những lời ấy nói với anh, anh hỏi Nora:
- Người Mỹ đó nói gì?
- Nó ra lịnh bảo anh cười!
Moritz ngó cặp kiếng Traian trên bàn. Anh có cảm giác thấy Traian té chết gần hàng kẽm gai. Anh nhớ đến cây số ngàn dây kẽm gai bao quanh các trại giam. Anh nhớ đến đôi chân bị cưa của mục sư Koruga. Anh nhớ tới những gì đã xảy ra mười ba năm trong các trại
Anh ngó Suzanna, ngó thằng con nhỏ rồi mặt anh sạm lại. Hai hàng nước mắt tuôn trào. Bây giờ người ta ra lịnh cho anh cười làm sao anh cười được. Anh thấy sắp khóc to lên như đàn bà. Khóc vì tuyệt vọng. Thế là hết, anh không thể đi xa được nữa. Không người nào có thể đi xa hơn nữa
Viên sĩ quan ngó Moritz, ra lịnh:
- Cười đi! Cười, cười đi!
HẾT
 
Typist: Hoang Hon &  Maihungthinh
 
************************
 
Nhà văn, thi sĩ Constantin Virgil Gheorghui sanh ngày 09.15.1916 Razboeni- Neamtz, Roumanie; con của vị linh mục ở Moldavie.
Học triết lý và thần học tại Université Bucarest và Heidelberg ( Đức)

Ông sáng tác nhiều quyển sách mà thi phẩm Calligraphie sur la neige được giải thưởng Royal de la Poesie 1940 ở Roumanie.

Ông cưới vợ là nữ sĩ, năm ngày trước trận Đệ Nhị Thế Chiến. Với lòng nhiệt huyết của tuổi trẻ, thi sĩ công phẫn và xúc động khi bọn "thân phát-xít/pro-fasciste" ám sát thủ tướng dân chủ Armand Calinesco, nên viết quyển thi binh vực tự do, chống phát-xít, lấy tên là Armand Calinesco( 1939).
Hậu quả của thi phẩm nầy là ông suýt bị bọn cơ quan sắt thủ tiêu.

Và cũng với lòng công phẫn mà ông viết quyển "Bờ sông Dniestr bừng lửa", xuất bản tại Bucarest, chống bọn"chống phát-xít/ anti- fasciste" đã tàn sát 1/3 dân số miền Bessarable, quê hương ông.
Tác phẩm nầy về sau, đã làm dư luận Pháp chống lại ông.
Nhưng theo ông, "đứng trước những tàn phá giết chóc dã man, bất cứ từ đâu đến, thi sĩ không thể không công phẫn"

Năm 1943, hai vợ chồng phụ trách về liên lạc văn hóa tại bộ ngoại giao Roumanie ở Zagherb( Yougoslavie/ Croatie). Được 1 năm, nước Roumanie theo phe Nga. Quân Đức bắt vợ chồng ông giam trong trại giam các nhà ngoại giao tại Đức.
Kế Đức Quốc Xã thua, vợ chông ông bị quân đội Đồng Minh Mỹ giam mỗi người một nơi, mãi 2 năm sau 1947, mới được thả ra và gặp nhau tại Heidelberg (Đức).
Trong thời gian giam cầm ông viết quyển "Giờ thứ 25/La vingt-cinquième heure". Nhằm lúc đồng mark( tiền đức) mất giá, không thể sống ở Đức, vợ chồng ông đi bộ sang Pháp, đem quyển nầy dịch ra Pháp văn và cho xuất bản ở Paris 1949.

Đây là 1 trong những tác phẩm bi đát nhứt của thời đại. Gabriel Marcel, trong bài tựa, đã viết: Tôi tưởng không còn tìm ra 1 tác phẩm nào ý nghĩa hơn, phát họa rõ ràng hơn tình trạng hãi hùng mà nhân loại đang bị chìm đắm"

Tác giả quyển sách bán chạy nhất, 600 000 quyển trong vài tuần lể, riêng tại Pháp đến 300 000 quyển, lại bị dư luận chống đối 1950, khi biết ông là tác giả quyển "Bờ sông Dniestr bừng lửa", nghĩa là ông binh vực phát-xít.

Trong bài tự thuật, Virgil Gheorghiu viết "...Dấu ô nhục chống phát-xít đốt cháy da thịt ta ở Bucarest, và dấu ô nhục phát-xít bị đóng ở Paris chỉ là duyên cớ để quần chúng bóp chết ta..."
"Phải chăng người ta chỉ được lên án những độc ác dã man của một bên...
"Không, nhà thơ chỉ lấy vĩnh cửu làm khuôn vàng thước ngọc..."

Thi sĩ đã đi tu.
Lể Thăng Thiên, ngày 05.23.1963, ông được đức giám mục từ New York đến làm lễ thụ phong linh mục giáo hội Chính Thống tại nhà thờ Roumanie ở Paris.

Thay đổi trang: < 12 | Trang 2 của 2 trang, bài viết từ 31 đến 32 trên tổng số 32 bài trong đề mục