Ngày Valentine
Ngày Valentine (Valentine's Day, Saint Valentine's Day, còn gọi là ngày lễ tình yêu hay ngày lễ tình nhân)[1][2][3] Nó được đặt tên theo thánh Valentine,[1][3] và cũng là ngày mà cả thế giới tôn vinh tình yêu đôi lứa, tình cảm giữa các đôi tình nhân, và bạn bè khác phái, họ bày tỏ tình yêu của mình bằng cách gửi cho nhau thiệp Valentine, hoa hồng, sô-cô-la và một số loại quà tặng đặc biệt khác có nhiều ý nghĩa. Ngày này được đặt tên theo một trong số những vị thánh tử vì đạo Kitô đầu tiên có tên là thánh Valentine, và được chính thức hóa bởi Đức Giáo Hoàng Gelasius I vào năm 496 CN, sau đó đã bị xóa khỏi Lịch các thánh Công giáo Rôma vào năm 1969 bởi Đức Giáo Hoàng Phaolô VI.
Trước đây ngày Valentine (hiện nay là ngày 14 tháng 2 hàng năm) là ngày lễ chỉ ở Bắc Mỹ và Châu Âu, nhưng ngày nay nó được phổ biến ở hầu hết các quốc gia.
Theo văn hóa phương Đông (Trung Quốc, Nhật Bản và các nước lân cận) là ngày lễ tình yêu được tổ chức vào ngày Thất tịch (7 tháng 7 Âm lịch).
Giả thiết về nguồn gốc
Đã có nhiều vị thánh tử vì đạo của Kitô giáo tên là Valentine.[4] Valentines có vinh dự vào ngày 14 Tháng hai là Valentine thành Roma (Valentinus presb. M. Romae) và Valentine của Terni (Valentinus ep. Interamnensis m. Romae).[5] Valentine của Rome[6] là một linh mục ở Rome, người đã chịu tử đạo khoảng năm 269 và được chôn cất trên con đường Via Flaminia. Di hài của ông hiện nay đặt tại nhà thờ của thánh Praxed tại Rome,[7] và nhà thờ Whitefriar dòng Cát Minh, ở Dublin, Ireland.
Valentine thành Terni [8] đã trở thành giám mục của Interamna (hiện nay là Terni) khoảng năm 197 và được cho là đã tử vì đạo trong cuộc đàn áp dưới thời hoàng đế Aurelianus. Ông cũng được chôn cất trên đường Via Flaminia, nhưng ở một vị trí khác so với Valentine của Rome. Di hài của ông hiện nay đặt tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Valentine ở Terni (Basilica di San Valentino)[9]
Bách khoa toàn thư Công giáo cũng nói về một vị thánh thứ ba có tên là Valentine đã được đề cập trong danh sách những người tử vì đạo trong ngày 14 tháng hai. Ông đã chịu tử đạo ở châu Phi với một số đồng đạo, nhưng không có gì hơn là được biết về ông.[10]
Không có yếu tố lãng mạn nào có mặt trong tiểu sử của các vị thánh tử đạo này vào đầu thời trung cổ. Vào thời điểm một vị thánh Valentine liên quan đến chuyện tình lãng mạn vào thế kỷ 14, thì sự phân biệt giữa Valentine thành Rome và Valentine thành Terni đã hoàn toàn bị mất.[11]
Vào năm 1969, trong việc sửa đổi Lịch các thánh, ngày lễ Thánh Valentine vào ngày 14 tháng 2 đã được đưa ra khỏi Lịch chung và được đưa vào hạng đặc biệt (lịch địa phương hoặc thậm chí quốc gia).
Truyền thuyết
Thánh Valentine thành Terni và các tông đồ, bức tranh do Richard de Montbaston của Pháp vào thế kỷ 14
Có rất nhiều thông tin về nguồn gốc của ngày lễ này, giả thuyết mà nhiều người chấp nhận nhất là:
Valentine là một linh mục dưới thời Hoàng đế La Mã Claudius II. Lúc bấy giờ là thế kỷ thứ 3, Đế quốc La Mã phải tham gia nhiều cuộc chiến tranh đẫm máu và không được dân ủng hộ.[cần dẫn nguồn] Do gặp phải khó khăn khi kêu gọi các chàng trai trẻ gia nhập vào quân đội, Claudius II cho rằng nguyên nhân chính là đàn ông La Mã không muốn rời xa gia đình hay người yêu của họ và hôn nhân chỉ làm người đàn ông yếu mềm; do đó, Claudius II ra lệnh cấm tổ chức các đám cưới hoặc lễ đính hôn để tập trung cho các cuộc chiến.
Linh mục Valentine ở thành La Mã, cùng Thánh Marius đã chống lại sắc lệnh của vị hoàng đế hùng mạnh và tiếp tục cử hành lễ cưới cho các đôi vợ chồng trẻ trong bí mật. Khi bị phát hiện, linh mục Valentine đã bị bắt và kết án tử hình bằng hình thức kéo lê và bị ném đá cho đến chết. Buổi chiều trước khi ra pháp trường, ông gửi tấm "thiệp Valentine" đầu tiên cho cô con gái của viên cai tù Asterius, người thiếu nữ mù lòa bẩm sinh đã được ông chữa lành bằng phép lạ trước đó, và ký tên "dal vostro Valentino" - from your Valentine ("Từ Valentine của cô"). Cho đến nay, các cặp tình nhân vẫn có truyền thống ký tên bằng cụm từ "From your Valentine" của ngày xưa thay vì tên mình trong các tấm thiệp Valentine. Dần dần, ngày 14 tháng 2 hàng năm đã trở thành ngày trao đổi các bức thông điệp của tình yêu và Thánh Valentine đã trở thành vị Thánh bổn mạng của những lứa đôi. Người ta kỷ niệm ngày này bằng cách gửi cho nhau những bài thơ và tặng cho nhau những món quà truyền thống là hoa hồng và sô cô la.
Trong thần thoại Hy Lạp, Eros (thường được mô tả như một cậu bé có cánh hoặc một người đàn ông trưởng thành đẹp trai cưỡi một con cá heo hoặc một con sư tử) đã đâm ra yêu Psyche trên núi Helion, nơi một ngôi đền sau đó được xây dựng để tôn vinh họ.
Các truyền thống được chứng nhận
Lễ Lupercalia
Bài chi tiết: Lễ Lupercalia
Tuy các nguồn tài liệu thời hiện đại nói không rõ về ngày lễ về và tình yêu của Greco-Roman nằm vào tháng hai, giáo sư Jack Oruch của viện khoa học của Kansas tranh cãi là, không có sự liên kết nào của vị thánh tên Valentinus và tình yêu lãng mạn.[12] Những nguồn liên kết trước đó nhắm vào sự hy sinh thay vì tình yêu lãng mạn. Trong lịch Attic, thời kỷ giữa tháng giêng đến giữa tháng hai trong lịch của lịch Hy Lạp, là thời gian tưởng nhiệm về đám cưới linh thiêng của Zeus và Hera.
Trong thời kỷ Rome cổ đại, ngày lễ Lupercalia được tổ chức vào ngày 13-15 tháng hai, là một nghi thức cổ xưa về fertility. Lupercalia là ngày lễ của riêng về thành phố của Rome. Ngày lễ được tổ chức với quy mô quốc gia là lễ Juno Februa, nghĩa là "Juno, đáng trong sạch "or "Juno, đáng đồng trinh" được tổ chức vào ngày 13–14 tháng hai. Đức giáo hoàng Gelasius I (492–496) đã xóa bỏ ngày lễ lupercalia. Một số nhà sử học đoán rằng ngày lễ Candlemas (nhằm vào ngày 14 tháng hai, nhưng sau này chuyển thành ngày 2 tháng hai) được đưa ra thay thế cho lễ Lupercalia, nhưng lễ Candlemas đã được bắt đầu từ thành phố Jerusalem vào năm 381 trước công nguyên. Vào năm 500 sau công nguyên, đức Giáo hoàng chuyển ngày lễ Valentine vào ngày 15 tháng hai.
Thiệp năm 1901
Thời hiện đại
Vào năm 1797, một nhà báo Anh ra một tờ báo The Young Man’s Valentine Writer, bao gồm các từ ngữ tình cảm dành cho những người trẻ tuổi không tự bộc lộ tình cảm của mình. Các thợ in bắt đầu sản xuất một số các thiệp với lời và hình ảnh tình cảm, còn gọi là “máy valentines,” và sự xuống giá của các mặt hàng thơ từ đã làm phong trào gửi thư, thiệp trong ngày lễ tình nhân tăng cao. Đó cũng là thời điểm bắt đầu phong trào gửi thiệp vô danh, sự phát triển mạnh mẽ của thiệp valentine là do sự xuất hiện đột ngột của các câu thơ tình ái đặc sắc trong thời đại hoàng kim của nữ hoàng Victoria.[13]
Thiệp Valentines trở thành rất phổ biến ở Anh từ đầu thế kỷ 19, tới mức đã có một số xưởng được ra đời để phục vụ nhu cầu thiệp. Các thiệp Valentines sang trọng được làm từ dây và dải thật, với sự ra đời đầu tiên của giấy dây vào giữa thế kỷ 19.[14] Sự sống lại ngày lễ của thánh Valatine từ năm 1840 được phát động bởi Leigh Eric Schmidt.[15] Là một nhà báo trong Graham's American Monthly viết trong năm 1849, "Ngày Thánh Valentine"... đã dần dần trở thành, ngày lễ quốc gia."[16] Ở Hoa Kỳ, đợt bán thiệp Valentine với số lượng lớn vào năm 1847 sau khi được phát động bởi cô Esther Howland (1828–1904) người xứ Worcester, Massachusetts.[17][18]
Một em bé mặc đồ theo không khí ngày Valentine.
Cha của cô là chủ của một tiện sách lớn, nhưng cô lấy nguồn cảm hứng từ một người bạn thương gia buôn bán thiệp valentine bên nước Anh của ba cô.[19][20] Cô lên kế hoạch để tổ chức ngày lễ Valentine giống như vậy, Howland bắt đầu cơ nghiệp của mình với việc mua các mặt hàng làm thiệp valentine từ Anh.[20][21] Thói quen gửi thiệp Valentine bên nước Anh trở thành quen thuộc tới nỗi nó là nội dung cho tác phẩm của nhà viết văn tiểu thuyết Elizabeth Gaskell, cuốn tiểu thuyết Mr. Harrison's Confessions (1851).[22] Từ năm 2001, Hội Thiệp Chào Đón bắt đầu trao tặng giải "Esther Howland Award" mỗi năm cho người có chí sáng tạo hay.[18]
Từ thế kỷ 19, thiệp viết bằng tay được phổ biến với sự xản xuất hàng loại của các loại thiệp.[23] Vào giữa thế kỷ 19 ngày lễ Valentine được nhiều nhà kinh doanh dùng để kiếm lợi nhuận, và làm cầu nối cho nhiều thị trường thương mại của các lễ hội khác ở Hoa Kỳ.[24]
Trong nửa thập kỷ sau của thế kỷ 20, thói quen gửi thiệp đã trở thành quà lịch sự trong Hoa Kỳ. Những món quà như vậy bao gồm hoa hồng và sô cô la được gói bằng giấy satin đỏ, hộp trái tim. Vào những năm của thập niên 1980s, những tập đoàn bán kim cương đã dùng ngày lễ Valentine để đẩy mạnh thương mại kim cương, bằng cách khuyến khích tặng đồ nữ trang thay vì thiệp.
Trong Hoa Kỳ, Hội Thiệp Chào Đón ước tính khoảng 190 triệu thiệp valentine được gửi tặng mỗi năm trong Hoa Kỳ. Một nửa trong số ấy được tặng cho những người thân ngoài vợ với chồng, thường thì cho các đứa con. Nếu tính luôn những thiệp làm trong trường thì có thể lên tới 1 tỉ thiệp, và các thầy cô là người nhận được thiệp nhiều nhất.[17] Trong một số nước trên thế giới, các học sinh tiểu học làm thiệp và gửi cho nhau và thầy cô. Trong thiệp của các em cũng bày tỏ cảm xúc mến đến các bạn khác giới.
Vào thiên niên kỷ mới, mới sự ra đời và lớn mạnh của Internet đã dần dần tạo thành những truyền thống tặng thiệp mới. Hàng triệu người trên thế giới bắt đầu sử dụng thiệp in ra được trên mạng hoặc gửi thiệp bằng mạng như e-thiệp. Ước tính khoảng 15 triệu e-thiệp được gửi vào năm 2010.[17]
Valentine trong chiến tranh
Valentine là ngày lễ của tình yêu trong sáng và thật thà của tuổi trẻ thơ mộng mới biết yêu. Nó còn có ý nghĩa quan trọng đối với những người thân trong gia đình. Những người đã trải qua ngày này khi còn trẻ này đã thành vợ chồng. Nhưng tiếc thay chiến tranh đã làm tan tác những ý niệm đẹp trong ngày valentine.[25]
Ngày tình nhân tại các quốc gia
Cây trang trí những trái tim cho ngày Valentine
Theo hiệp hội U.S. Greeting Card Association Mỹ, mỗi năm có hơn 1 tỷ thiệp Valentine được trao tay trong ngày lễ này trên thế giới, chỉ xếp hạng sau ngày Lễ Giáng Sinh. Tổ chức này ước lượng khoảng 85% khách hàng mua thiệp Valentine là phụ nữ.
Tại các trường tiểu học tại Bắc Mỹ, các giáo viên thường cho các em học sinh tự làm thủ công thiệp Valentine cho bạn bè trong lớp, các tấm thiệp đơn sơ do các em tự cắt vẽ và tô màu này phản ảnh những điều mà các em cảm kích về mỗi người bạn khác phái của mình trong lớp học.
Người Anh và Pháp đã tổ chức lễ này từ thời Trung cổ, nhưng đến thế kỷ 17, tập tục tặng thiệp làm bằng tay cho người yêu mới phổ biến. Hình ảnh thường thấy là hình trái tim, hoa hồng, mũi tên và vị thần tình yêu Cupid.
Tại Nhật Bản, nhiều nữ nhân viên có bổn phận phải tặng chocolate, bánh kẹo, hoa quả cho các nam đồng nghiệp. Tục lệ này mang tên giri-choko (義理チョコ); giri có nghĩa là "bổn phận", choko là chocolate. Đúng một tháng sau đó, trong ngày 14 tháng 3, tức ngày White Day, phía nam có bổn phận phải tặng quà lại cho các nữ đồng nghiệp đã chiếu cố đến mình trong ngày Valentine, những món quà này thông thường phải mang màu trắng.
Tại Iran, Ả Rập Saudi, Malaysia và vài quốc gia theo Hồi giáo, cấm tổ chức các hoạt động kỷ niệm, mừng và bán những món quà ngày lễ tình nhân, kể cả hoa hồng đỏ vì họ cho rằng ngày Valentine là khuyến khích các quan hệ ngoài hôn nhân, nên bị cấm "nhằm ngăn chặn sự lây lan của văn hóa phương Tây".[26][27]
Tại Việt Nam, lễ tình nhân mới du nhập vào thời gian gần đây và các đôi yêu nhau chủ yếu là giới trẻ, họ tặng hoa, sô-cô-la, gửi thiếp, mời nhau đi ăn, hẹn hò, xem phim và nhiều hoạt động khác trong ngày Valentine. Ngày 14 tháng 2 của năm 2008, nhiều cặp tình nhân đã tổ chức cưới tập thể dưới nước tại Hòn Mun, Nha Trang.[28] Một hội thi hôn tập thể tại Đà Lạt cũng được tổ chức vào ngày này.[29]
Tại Brasil, ngày Dia dos Namorados (Ngày của các tình nhân) được tổ chức vào ngày 12 tháng 6.
Trong khi đó, tại Trung Quốc và vài quốc gia châu Á, ngày truyền thống tình yêu là ngày 7 tháng 7 âm lịch, còn gọi là "Thất tịch".
<bài viết được chỉnh sửa lúc 15.02.2013 03:42:35 bởi Ct.Ly >