RE: Phép thuật Sư phù ái (tập 2)
-
20.09.2011 17:11:27
Ba trăm cộng với ba bằng mấy?
Bà Phù Ái thỉnh thoảng có dạy Hồng Phát làm toán. Bà hỏi:
- Ba trăm con cộng thêm ba bằng mấy?
Hồng Phát đếm đi đếm lại, rồi nói:
- Khó quá bà ạ!
- Không thông minh- Bà Phù Ái thở dài- ta dạy ngươi bao nhiêu lần mà ngươi không trả lời được. Bây giờ ta kể cho ngươi câu chuyện về lịch sử, ắt về sau ta nói ba trăm cộng với ba ngươi sẽ không bao giờ quên nữa.
Rồi bà Phù Ái kể, theo bà ai lớn mà không nắm được nguồn cội tổ tiên sẽ chẳng nên người. Bà còn tâm niệm, ai cũng một lần trong đời ghé mắt vào lịch sử dân tộc. Nên bà kể chuyện lịch sử hết sức sáng tạo, bà pha vào những tình tiết hết sức ấn tượng, miễn sao trẻ nhỏ như Hồng Phát gặp lại các vật thể mà bà bùa phép, ắt là nhớ ngay đến câu chuyện ấy.
Hồng Phát thấy có một cái chợ nhỏ ven rừng, lấy tám trăm của bà sư Phù Ái ra mua, mất hết ba trăm. Người ta thối lại mấy đồng xu rất cũ.
Đưa tiền ra, trời đất như quay cuồng nên Hồng Phát không dám phí phạm nữa. Hỏi mấy người ban nãy, bây giờ là năm mấy rồi:
- Bà Triệu mất tới nay là ba trăm năm rồi…
- Cái gì! Mới mấy ngày thôi chứ…
- Mấy người ơi, đến đây mà xem có người nói bà Triệu mất mấy ngày nè.
Người ta bu quanh lại xem Hồng Phát:
- Cái gã này bị khùng rồi! Bà Triệu thua trận ba trăm năm nay. Ai cũng muốn quên, giặc nghe nhắc đến tên bà là chém đầu đó…không ai dám nói nữa đâu. -Giặc bây giờ không còn là Ngô nữa, mà là nhà Lương đó.
Mọi người lêu lêu Hồng Phát, nhiều người muốn ký đầu cho tỉnh dậy. Một người tên là Lý Bí bước tới, ông trước làm quan cho giặc nhưng vì giặc bạo tàn cáo về quê tập hợp binh sĩ. Ông bước tới đỡ lời:
- Tổ tiên ta tuy không phải là người Nam Việt, nhưng đã ở đất nước này bảy đời. Nghĩa là ta cũng đã là người Nam Việt từ lâu rồi, nên ta rất yêu người Nam Việt. Ta cần chiêu mộ anh này…để làm hề.
Tự dưng Hồng Phát có chỗ ăn chỗ ở, lại thêm cạnh kề với một anh hùng hào kiệt. Hồng Phát hỏi:
- Năm nay là năm mấy rồi vậy?
- Đúng là bà Triệu đã mất ba trăm năm nay, ngươi không tin mọi người sao?
- Nghĩa là năm mấy?
- Năm 542…
- Vậy là ta xài mất gần ba trăm đồng…vậy là…
- Là sao?
- À…không có gì.
- Đúng là ngươi có vấn đề rồi, ngươi trước có té giếng không vậy?
- Làm gì có…
Hồng Phát bị hỏi vặn vẹo chối leo lẻo, đi theo sau lưng Lý Bí như một vệ sĩ. Một người tên là Tinh Thiều, chấp tay bái Lý Bí:
- Xin tướng công cho tôi cùng theo…
- Sao ngươi biết ta, mà ngươi là thế nào lại muốn theo ta?
- Tôi là Tinh Thiều rất giỏi văn chương. Tôi từng đến Kiến Khang kinh đô nhà Lương xin được làm quan. Sái Tôn chỉ bổ người Nam làm chức Quảng Dương Môn Lang là cao nhất, vị Thượng Thư Bộ Lại ấy sợ tôi hiển đạt ắt sau không có lợi cho nhà Lương. Nay tôi thấy thế là nhục, trở về đây muốn theo tướng công dấy binh.
- Ta trước cũng làm chức Giám Quân ở Hà Tĩnh cho nhà Lương. Nay liên kết hào kiệt mấy châu đều hưởng ứng. Nếu có ngươi theo thì càng tốt.
Hai người nói chuyện đến đó, thì thấy một toán quân kéo đến. Hồng Phát cầm hai thanh sắt múa máy, mặt mày bầm trợm. Lý Bí khẽ cười:
- Đó là quân của Triệu Túc ở Châu Diên, muốn đầu quân ta ngươi đừng sợ.
Hồng Phát thả hai cây sắt xuống quê độ, hôm nay quá nhiều người theo Lý Bí. Hồng Phát làm bộ ca bài ca cũ:
- Tôi có viên ngọc Việt đó nghe…Ai là người anh hùng tôi trao.
- Ta nghe nói có viên ngọc việt ba trăm năm trước, nay ngươi lại nói có chắc ngươi biết nó ở đâu.
- Ờ…Thì biết chứ…Nhưng từ từ…
Ba người kia cùng với ba quân cười ồ lên, vô tình Hồng Phát trở thành chú hề góp vui cho quân sĩ.
Năm đó, Lý Bí thế lực càng lúc càng hùng mạnh. Tên giặc là Thứ Sử Tiêu Tư đem của đến hối lộ để thoát thân về Quảng Châu. Lý Bí kéo ra thành Long Biên chiếm giữ, cười nói:
- Vũ Lâm Hà Tiêu Tư trước hà khắc tàn bạo quá mức, bạc đãi nhân tài ta giờ chạy dài. Nhưng chưa chắc nhà Lương dễ dàng cho ta độc lập, chúng ta chuẩn bị những trận đánh lớn đó nghe.
Tinh Thiều phụ hoạ:
- Đúng là cá lớn bao giờ cũng muốn nuốt cá bé. Nếu ta không khéo, dã tâm của nhà Lương vẫn còn đó. Chắc chắn có những trận chiến lớn. Chúng muốn đánh chiếm nước ta, thì ta nên đánh chúng trước.
Tháng 12 năm 542, Tôn Quýnh bị vua Lương bắt buộc đem quân sang, nên Tôn Quýnh sợ nói:
- Xin đợi tới mùa thu, bây giờ chướng khí rất lạnh e quân sĩ chịu không nổi.
- Không được- Tân Dụ hầu hoán bước ra tâu trình, ông ta còn là Thứ Sử Quảng Châu- Nếu không đánh bây giờ, thì càng lúc thế lực của Lý Bí càng lớn. Càng về sau, càng khó đối phó.
Tiêu Tư cũng mong trở lại đất Nam Việt, bấy lâu nay ông ta ăn ngủ kè kè ở đất Quảng Châu cũng thấy kỳ.
- Ta chờ viện binh. Vả lại vua ban chỉ sao ngươi dám trái lệnh còn so đo chi nữa.
Lư Tử Hùng gật gật, tay mân mê mấy cọng râu:
- Tôi mong cùng đi xuống phía Nam với Tôn ca.
- Đó thấy chưa!- Tiêu Tư mừng rỡ, có người xung phong còn ngươi dùng dằn.
Quân của Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng kéo đến Hợp Phố, mới dựng doanh trại thì nghe tiếng hò reo inh ỏi.
Lý Bí chủ động đem quân đón đánh. Giặc đường xa mệt mỏi lại thêm tinh thần không mấy hăng hái. Hồng Phát tuy chỉ là chú hề, nhưng cũng được cấp phát cho một con ngựa. Con ngựa không đẹp, tướng đi lúc lắc, cái mông như một đứa con gái.:
- Để ta sửa tướng cho ngươi.
Hồng Phát cầm cương, vừa giục ngựa đi, vừa ngoái nhìn lại. Cứ lắc mông là chú bị thúc hai chân vào sườn. Con ngựa đau quá chạy thẳng vào đồn giặc:
- A! A!- Hồng Phát la ai ải. Con ngựa phi thẳng ngang doanh trại bọn giặc Tàu.
Vài người chạy theo phụ giúp Hồng Phát, cũng xông thẳng vào doanh trại giặc. Bên phía giặc nghe la “ Ai ái”, cứ nghĩ là bị tấn công bất thình lình, luýnh huýnh không biết làm gì.
Lý Bí cho quân đánh ngang nơi đồn trú, chúng rối ren đội hình. Sau tiến công hai bên hông:
- Tôi đi trước cho- Hồng Phát thấy quân giặc tan rã nhanh chóng, làm phách.
Ba quân ai cũng cười đùa, xung phong vào quân giặc:
- Ai cho ngươi đi trước, giặc tan tác ngươi là người lập công sao?
Ba quân tướng sĩ ai cũng giành đánh giặc. Quân giặc nằm ngổn ngang, khóc la thảm thiết. Số ít còn lại, tan rã rút về nước.
Thua trận, Vua Lương buộc Tôn Quýnh và Tử Hùng tự tử. Vài tháng sau, khoảng tháng 4 năm 543. Lâm Ấp kéo quân cướp quận Nhật Nam. Lý Bí chỉ sai có Phạm Tu đi đánh cũng tan tành tại trận Cửu Đức.
Mấy trận đều thắng, Lý Bí thấy mình có thể làm vua, nên chuẩn bị đến đầu năm 544 tự xưng là Nam Việt Đế, niên hiệu là Thiên Đức. Vua mong nước Nam được trường tồn mãi mãi nên đổi tên nước là Vạn Xuân.
Vua Lý Nam Đế đặt cách rất nhiều chức danh: Triệu Túc làm Thái Phó, Tinh Thiều làm tướng văn, Phạm Tu làm tướng võ. Còn Hồng Phát thì làm chú hề, vào ra điện Vạn Xuân chầu hội như các quan thần trong triều.
Vua Lý Nam Đế có công làm ra triều thần, chầu họp đầu tiên ở nước ta. Vua nhà Lương rất cay đắng quyết đánh dẹp, cố không cho độc lập.
Một năm sau, tháng 6 năm 545. Vua Lương Vũ Đế phong Dương Phiếu làm thứ sử Giao Châu. Dương Phiếu cử Trần Bá Tiên làm tiên phong. Quân Lương đến Giao Châu đông đảo, nên Lý Nam Đế đánh không lại chạy sang thành Gia Ninh. Quân Lương đuổi theo vây thành. Lý Nam Đế cầm cự được hơn nữa năm, đến tháng 1 năm 546 thành vỡ. Phạm Tu và Triệu Túc đều tử trận.
Hồng Phát gợi ý vua phải chạy thôi, rồi cùng vua chạy đến vùng Tân Xương của người Lạo, chiêu mộ thêm rất nhiều binh sĩ.
Đến tháng 8, vua Lý Nam Đế đem quân ra đóng đồn ở Điển Triệt. Trần Bá Tiên có lo sợ, nên lợi dụng nước dâng theo hồ đánh vào. Quân Lương bất ngờ đánh trống reo hò.
Vua Lý Nam Đế bị đánh úp tan hoang, rồi rút đi đến động Khuất Lạo, trao binh quyền cho con của Triệu Túc là tả tướng Triệu Quang Phục.
Hai năm sau, vào tháng 3 năm 548. Vua Lý Nam Đế mất thọ 45 tuổi ( từ 503- 548). Ông là người Thái Bình, tỉnh Sơn Tây. Triệu Quang Phục tự xưng là Triệu Việt Vương.
Đồng thời lúc ấy, người anh của vua Lý Nam Đế là Lý Thiên Bảo cũng tự xưng là Đào Lang Vương. Vua cũng có người cháu tên là Lý Phật Tử, khởi binh ở Cửu Chân. Trần Bá Tiên đánh tơi bời, hai người phải chạy sang đất người Lào.
Triệu Quang Phục lui về giữ ở đầm Dạ Trạch, nơi Chử Đồng Tử gặp Tiên Dung mấy ngàn năm trước, thời vua Hùng Vương thứ 6. Bây giờ nơi đây, cây cỏ mọc um tùm kín mít. Người ngựa khó vào, muốn đi vào phải chống xuồng và rất dễ bị lạc lối. Cá sấu và rắn rít rất nhiều, Trần Bá Tiên bao phen khốn đốn.
Triệu Quang Phục là người nghĩ ra cách đánh du kích, đêm xuống cho quân tiến vào doanh trại của giặc, giết và bắt sống rất nhiều. Trần Bá Tiên đuổi theo thì quân ta mất hút trong đầm.
Hồng Phát cũng rút theo quân ta, thực ra là chạy nên vấp chân vào mạn thuyền. Móng chân bị sút, đau đớn nhưng cố nói:
- Thần nhân đầm này là Chử Đồng Tử, cưỡi rồng vàng từ trên trời xuống, rút móng rồng đưa ta đây.
Nghe vậy, binh sĩ hăng hái lạ thường, nói là có thần tiên phù hộ không sợ giặc nữa. Triệu Quang Phục nhân lúc nhà Lương gặp biến cố gọi Trần Bá Tiên về nước, chỉ để Dương Sàn cầm quân. Năm 550, nhân lúc không còn tướng giỏi. Triệu quang Phục tung quân đánh lấy lại nước Vạn Xuân, đóng đô ở thành Long Biên.
Nước lúc này có hai vua. Năm 555, Lý Thiên Bảo mất. Cháu là Lý Phật Tử lên kế vị, rồi đem quân đánh Triệu Việt Vương đòi nước Vạn Xuân lại. Đánh nhau năm trận, Lý Phật Tử biết mình khó thắng Triệu Việt Vương nên dùng kế của Triệu Đà, đem con trai là Nhã Lang đi gả cho Cảo Nương. Triệu quang Phục đồng ý và cắt một phần phía tây Hạ Cát ở Huyện Từ Liêm, giao cho Lý Phật Tử đến thành Ô Diên đóng đô ở đó (Nay là xã Hạ Mỗ, huyện Từ Liêm). Con gái của Triệu Quang Phục, đã để lộ bí mật quân sự cho Nhã Lang quá nhiều.
- Thì ra…Triệu Quang Phục kháo với quân mình có móng Rồng của Chử Đồng Tử. Bây giờ, ta chỉ về nói với cha là mình lấy được, thì quân lính sẽ dao động thôi.
Giống như Trọng Thuỷ giả vờ về thăm cha, Nhã Lang giúp Lý Phật Tử đánh úp Triệu Quang Phục. Triệu Việt Vương chở con gái sau lưng ngựa, chạy đến cùng đường rồi hai cha con nhảy xuống biển tự vẫn. Đó là năm 571.
Ông được lập đền thờ tại cửa biển Đại Nha, huyện Đại An.
Còn lại, Lý Phật Tử làm vua, cũng xưng là Lý Nam Đế. Nên được gọi là Hậu Lý Nam Đế, đóng đô ở Phong Châu.
Trong khi đó, ở Trung Quốc. Trần Bá Tiên về nước cướp ngôi nhà Lương. Nhà Tuỳ diệt lại Trần Bá Tiên và thống nhất đất nước Trung Hoa. Đến năm 602, nhà Tuỳ cho Lưu Phương mang 27 vạn quân sang xâm chiếm Vạn Xuân. Lý Phật Tử sợ hãi xin hàng, bị bắt sang đất Bắc và chết ở đấy. Dân làm đền thờ ở cửa biển Tiểu Nha.
Hồng Phát nhớ đến bà Phù Ái, bà hỏi ba trăm cộng ba bằng mấy. Chắc bà muốn mình nhớ: Sau khi bà Triệu mất, ba trăm năm sau, có ba vua là Lý Bí, Triệu Quang Phục và Lý Phật Tử đó mà. Đúng ra còn một vua nữa, Lý Thiên Bảo sao không thấy ai kể nhỉ?
Trái vải dày cơm.
Hồng Phát có dịp đuợc bà sư Phù Ái dẫn đi chợ. Cậu thèm ăn trái vải, nó đo đỏ thơm thơm. Người bán vải đen đúa, nên Hồng Phát nhìn người đó sợ, mặc dù rất thèm trái vải. Bà sư Phù Ái cố giải thích:
- Con không nên sợ . Chú ấy dầm mưa dãi nắng chăm sóc cây, chứ thực ra rất hiền.
- Con chỉ thích trái vải, không thích chú ấy…
Người bán vải mỉm cười, lột vỏ một trái thảy lên cao. Mở miệng, trái vải rơi tọt vào họng, rồi lột trái khác đưa Hồng Phát. Hồng Phát chụp đưa ngay vào miệng, nhưng cũng không thích cái tay đen đúa của chú.
Bà sư Phù Ái thấy vậy, phù phép vào trái vải:
- Đây ngươi ăn trái này! Còn chú này ra đây…
- Bà bắt người bán vải đứng cạnh Hồng Phát, lấy cây phất trần (đuổi ruồi):
- Hô biến…
Những người xung quanh bu lại xem, người bán vải bỗng chốc trở thành vua. Bà Phù Ái kính cẩn nghiêng mình:
- Đây là vua Mai Hắc Đế đấy!
- Ồ!- Hồng Phát ngạc nhiên- Vua giả bộ thường dân à!
- Không có…là vua thực sự đó…
Những người xung quanh tung hô vạn tuế, người bán vải mỉm cười. Cầm tay dẫn dắt Hồng Phát lùi vào đóng trái cây mất hút:
- Lạ chưa! Họ đâu rồi…
Hai đứa nhỏ: Một đen một trắng ngâm mình dưới bãi biển Nghệ An lên. Đứa đen sinh ở Nam Đàn, tên là Mai Thúc Loan. Còn đứa trắng tươi là Hồng Phát, chưa hề biết cưỡi trâu là gì. Mai Thúc Loan thông minh hơn, không biết cha mình là ai. Từ Hà Tĩnh mẹ mang thai rồi trốn về đây, sinh ra đen như cục than. Chăn trâu nhưng học lóm được mấy chữ Hán, gặp mấy người Tây lê dương phiên âm mấy chữ la tinh, cũng học luôn.
Mấy người Tây, đi trên thuyền lớn. Buôn bán từ đất nước Trung Hoa, thỉnh thoảng dừng bước tại bờ biển Nghệ An, rồi khoe:
- Không buôn bán không giàu đâu! Mày lớn lên kiếm quả vải, bán cho tụi tao. Tụi tao mua hết.
- Ơ? Sao chữ viết của mấy ông ngộ quá…
- Đó là chữ phiên âm…Mày muốn học không?
Mai Thúc Loan là người thích những tài vặt, còn Hồng Phát thấy chữ đó giống chữ quốc ngữ. Nên hỏi:
- Chữ phiên âm này ở đâu ông có…
- Thì buôn bán qua lại với người Tàu, không lẽ cứ diễn tả tay chân thôi sao.
- Lạ nhỉ?- Hồng Phát ngây thơ là vì người ta nói sau này mới có…
- Có chi mà lạ! - Người Tây phân trần- Chữ phiên âm này trong giới buôn bán ai không biết. Ai buôn bán cũng phải ghi lại sổ sách, để sau này có trở lại biết vùng nào có hàng hoá nào…Mà chữ Tàu khó đọc, cần phải phiên âm thêm. Việc này giới buôn bán đã làm từ thời Hán Cao Tổ.
- Thảo nào, ông nói chúng tôi hiểu hết…
- Thì ở đây cũng dùng chữ Hán, sao không lấy ra mà dùng…Không lẽ diễn tả bằng tay chân thôi à.
- Ờ nhỉ!
Trong khi đó, Mai Thúc Loan học hỏi những chữ viết của người Tây Phương dụng khi nào đó cần kíp. Nhờ thế, Mai Thúc Loan lớn lên buôn quả vải. Thu gom từ đất nước Malaysia, Chân Lạp, Champa…rồi bán cho mấy người Tây phương.
Mai Thúc Loan giàu rất nhanh, nhà có rất nhiều người phụ giúp trong việc sấy vải cho khô, cũng như đồng áng. Hồng Phát làm người quản gia, coi sổ sách nên sợ ông chủ đen mun đuổi việc.
- Tôi là phải trả tiền công đó.
- Đương nhiên rồi…Nhưng ngươi viết chữ xấu, tiền công ít.
- Cũng được, nhưng đừng đuổi việc à…
Nhiều người bắt chước theo nghề của Mai Thúc Loan, nên cũng khá giả ra phết. Nhờ trái vải, người An Nam giàu có nhanh. Nhà Đường tìm cách bắt mọi người phải cống nộp.
Tình huống đó, Mai Thúc Loan vừa thu gom vừa than phiền. Ông liên kết được với nhiều người bất bình và chuẩn bị lực lượng. Chính vì nhà Đường rất hùng mạnh, Mai Thúc Loan liên kết rất nhiều nước và nhiều Châu. Ông chuẩn bị rất nhiều năm, làm bộ cùng nhiều người gánh vải nộp cho nhà Đường, rồi nổi dậy làm quân Đường trở tay không kịp.
Quân của Mai Thúc Loan chiếm Phủ Tống Bình (tức Hà Nội), Thái thú Quách Sở Khách bỏ chạy về nước.
- Xưng vua đi! - Hồng Phát hối thúc- Mai mốt còn ghi tên vào lịch sử nữa. Còn tôi thì chắc được lên lương.
Mai Thúc Loan xưng Đế, xây thành Vạn An rất lớn, quân lính cả chục vạn người. Hồng Phát thấy ông đen đúa, gọi ông là Mai Hắc Đế. Nghĩa là ông vua đen sì lì.
Bà Võ Tắc Thiên truyền ngôi mấy đời. Đường Huyền Tông tiếp gót và là ông vua yêu thương Dương Quí Phi nhất, bị ép phải xử nàng thì An Lộc Sơn mới thôi không nổi loạn. Lúc ấy, nhà Đường cho Dương Thừa Húc và Quách Sở Khách đem mười vạn quân đánh chiếm lại đất Tống Bình (Hà Nội).
Đứng trên thành cao, Hồng Phát đếm không xuể. Quân địch lố nhố khắp nơi:
- Một, hai, ba…quá trời nhiều. Mình lấy trái vải liệng xuống, biết đâu chúng lo giành nhau…
Hồng Phát lấy trái vải liệng khắp nơi, trong đó có trái vải của bà Phù Ái đã phù phép. Quân nhà Đường ăn vào khoẻ mạnh ra thêm, chúng tấn công hăng hái hơn nữa:
- Chết rồi! Hồng Phát biết mình làm sai, không biết phải xử lý ra sao.
Năm 722, Mai Hắc Đế phải rút vào núi Rú Đụn (Nghệ An). Ông đánh trả lại vài trận rồi bệnh mà mất. Con ông là Mai Thiếu Đế tiếp tục chống trả thêm một thời gian nữa.
Người ta xây đền thờ vua Mai Hắc Đế cũng ở núi Rú Đụn, nay gọi là Hùng Sơn.
Chiếc vớ trắng.
Hồng Phát có một đôi vớ trắng, để trên đầu giường hy vọng ông già Noel bỏ quà vào đó. Sáng ra thức dậy không thấy gì hết ,nên buồn rười rượi. Bà Sư Phù Ái tìm chỗ đồ dơ để bỏ vào máy giặt, bà thấy đôi vớ trắng đầu giường còn mới tinh nên cân nhắc là sẽ để lại. Hồng Phát không cho bà đụng vào, còn nói là:
- Đôi vớ này không hên, bà bỏ đi. Con sẽ đòi ba mua đôi vớ khác cho con.
Thấy vớ còn mới bà Sư tiếc hùi hụi:
- Còn mới, ngươi đừng có hủy của...
- Còn đôi giày kia nữa, bà bỏ con không mang nữa đâu...
Hồng Phát rưng rưng nước mắt rồi kể lại chuyện hồi hôm, ông già Noel không ghé cho quà.
Gia đình thiếu sót việc đó, vì không có cái nhìn như người phương Tây. Bà Sư Phù ái lựa lời mà nói:
- Có khi ông già Noel vì bận lo cho những đứa trẻ nghèo, còn con thì có thể tối nay ông mới ghé nhà.
- Nếu vậy, thì nói ông già Noel đổi cho con vớ mới. Còn vớ này thì cho thằng Linh, mẹ nó "bỏ đi" cũng tội nghiệp. Bố nó vừa là bố còn là mẹ, nên nó gọi là Bố Cái Đại Dương.
Bà Sư Phù Ái gật đầu khen phải, ngầm sẽ báo lại với ba Hồng Phát rằng sẽ đem vớ và đôi giày cũ đem cho, rồi chờ Hồng Phát ngủ để lên đầu giường đôi vớ mới trong có đôi giày...Trong lúc chờ đợi Bố mẹ về, bà Sư kể ngọn nguồn người có tên là Bố Cái Đại Dương. Hồng Phát men lại ngồi sát người bà, hai bà cháu nhìn ra sân vườn mát kể. Bà Phù Ái hỏi Hồng Phát:
- Thỏi Sô-cô-la bùa phép ta cho ngươi còn không?
- Dạ! Con ăn hết rồi...
- Vậy thôi...Ngươi đưa ta chiếc vớ trắng, để ta che mắt ngươi lại.
Bà Sư lấy chiếc vớ cản ánh sáng chói chang mặt trời, Hồng Phát cảm giác như chơi trò trốn tìm. Chiếc vớ ấy không tối tăm như vải đen, nhờ nhờ sáng sáng nên Hồng Phát phát hiện ra ai như là mình hết sức lực lưỡng. Một lúc sau, người đó còn cho đồ đạc cho các nô tỳ có đến hàng nghìn người.
- Ngươi thấy gì không vậy?- Bà Sư Phù Ái hỏi Hồng Phát...
- Dạ thấy rồi ạ, cò đến hàng ngàn nô tỳ trong nhà xin con đôi vớ...
- Đúng rồi! Đó là nô tỳ ở Đường Lâm gia trang. Đó là nhà của Phùng Hạp Khanh cha của Phùng Hưng, ông có ba người con trai nhưng Phùng Hưng rất khỏe, đánh được cả cọp mang bình yên cho xóm làng.
Hồng Phát khoái chí bật dậy, không dựa dẫm và người bà Phù Ái nữa. Chiếc vớ rớt xuống liền lượm lại che tiếp, đứng lên như mới vừa quật được cọp.
- Nhà Đường gọi nước ta là An Nam đô hộ phủ sao được, tiến lên anh em ơi.
Hồng Phát tiến lên mấy bước là thấy đến được Phong Châu, rồi tự xưng:
- Ta xưng là Đô Quân; Còn Linh đâu là Phùng Hải xưng là Đô Bảo và Phùng Dĩnh xưng là Đô Tổng, chia quân đi trấn giữ những nơi hiểm yếu.
Bà Sư Phù Ái gợi lại chuyện xưa, để Hồng Phát nhớ thêm:
- Cao Chính Bình đem quân đi đàn áp nhưng chưa phân thắng bại. Tình hình diễn ra như vậy hơn 20 năm. Đỗ Anh Hàn là người cùng làng trợ giúp và có nhiều mưu lược. Phùng Hưng từ chỗ cầm cự đã cùng các tướng lĩnh đem quân vây đánh thành Tống Bình. Quân của Phùng Hưng chia làm 5 đạo do các tướng Phùng Hải, Phùng Dĩnh, Đỗ Anh Hàn, Bồ Phá Cần và chủ tướng Phùng Hưng tiến công vây thành.
Hồng Phát hỏi:
- Quân mình thắng không bà...
- Thắng sao không...
- Bà ơi! Hay là mình không cần ông già Noel cho quà nào. Bà cho con câu chuyện hay ghê...
- Đôi giày cũ rồi, thôi cho đi cũng được. Hồi xưa, Phùng Hưng thương người nên chăm sóc dân như con, nên khi mất đi nhiều người gọi ông là Bố Cái Đại Vương.
Hồng Phát nghe lời bà sư Phù Ái, lấy đôi giày và vớ gói lại đem cho bạn. Cậu ta ở nhà trọ, nhà nghèo không có giày mang đi học. Còn Bố Cái Đại Vương là của bố nó, Hồng Phát không dám nhận.
Bà sư Phù Ái kể lại chuyện cho bố của Hồng Phát nghe. Lúc này, bố mới à ra là ngày Noel nhưng quên mất mấy đứa nhỏ không có quà. Ông bố liền đi mua đôi vớ để "đựng" chiếc giày. Ông còn kể thêm:
- Tháng 5 năm 791 Phùng Hưng mất, để lại ngôi cho con là Phùng An. Nhưng chỉ hai năm thì bị mất ngôi và họ Phùng bị truy đuổi gắt gao phải trốn tránh ở các vùng Ba vì (Hà Tây), Vĩnh Phúc và Phú Thọ. Có vài người trốn vào Thanh Hóa.