Thanh Vân
-
Số bài
:
3866
-
Điểm thưởng
:
0
- Từ: 28.05.2007
|
RE: Chợ Lớn Lịch sử địa lý, kinh tế và văn hóa
-
19.03.2011 06:53:24
Chợ Lớn Lịch sử địa lý, kinh tế và văn hóa: Phần 2 So sánh các cơ sở hoạt động văn hóa người Hoa ở các thành phố người Hoa hay khu phố Tàu (Chinatown) trong khu vực Đông Nam Á như Singapore, Bankgkok, Kuala Lumpur, Hong Kong thì ta có thể nói thành phố Chợ Lớn hơn hẳn về số lượng, bề thế, giá trị mỹ thuật và lịch sử của sự hoạt động liên tục lâu đời khi người Hoa đến định cư. Sinh hoạt tôn giáo, giáo dục: các chùa, đình, nhà thờ ở Chợ Lớn So sánh các cơ sở hoạt động văn hóa người Hoa ở các thành phố người Hoa hay khu phố Tàu (Chinatown) trong khu vực Đông Nam Á như Singapore, Bankgkok, Kuala Lumpur, Hong Kong thì ta có thể nói thành phố Chợ Lớn hơn hẳn về số lượng, bề thế, giá trị mỹ thuật và lịch sử của sự hoạt động liên tục lâu đời khi người Hoa đến định cư. Các chùa của người Hoa ở Chợ Lớn chủ yếu là do các cộng đồng người Hoa ở các bang (tỉnh) vùng Hoa Nam như Phúc Kiến, Quảng Đông, Triều Châu, Hải Nam… thành lập qua các hội quán của mỗi bang. Các hội quán được lập ra để tương trợ những người cùng bang, ngoài ra còn lập ra các trường học kế bên hội quán hay chùa để giáo dục con cái cộng đồng của họ theo chương trình của họ. Do đó một trong những hoạt động chính của Hội quán là tín ngưỡng và giáo dục. Về phương diện giáo dục, sau này vào năm 1908, qua sự cần thiết đào tạo các kế toán, thư ký, thông dịch, hành chánh… phục vụ trong các cơ sở thương mại, ngân hàng, chuyên chở đường sông biển liên hệ đến chính quyền hay với các công ty Pháp; các đại diện người Hoa và người Pháp của các nhà băng, các công ty Pháp và cơ sở thương mại người Hoa, các phòng thương mại đã nhóm họp và đồng ý trợ giúp tài chánh xây dựng và lập ra một trường trung học Pháp-Hoa, gọi là Lycée Franco-Chinois. Toàn quyền Pháp Jean Paul Beau đã đồng ý thành lập trường, vì theo ông Beau nó còn tạo thêm ảnh hưởng văn hóa Pháp vào cộng đồng người Hoa, để cho họ khỏi phải gởi con cái họ đi học ở những nơi khác như Hong Kong, Thiên Tân hay Nhật Bản (lúc bấy giờ phong trào Đông Du trong cộng đồng người Việt và Hoa rất mạnh). Thời đó những người tốt nghiệp trường Lycée Franco-Chinois, vì biết hai hay ba thứ tiếng (Việt-Pháp-Hoa) là trung gian lý tưởng nên rất có giá và thế trong xã hội trong lãnh vực thương mại khắp Nam kỳ lục tỉnh. Họ được người Saigon-Chợ Lớn và Lục tỉnh gọi là “Mái Chín”. Một số truyện của Hồ Biểu Chánh và Bình Nguyên Lộc có nói về các ông Mái Chín. Lycée Franco-Chinois sau này là trường Bác Ái và sau năm 1975 trở thành Trường cao đẳng sư phạm. Các chùa đình của người Hoa ở Chợ Lớn là những công trình văn hóa tín ngưỡng đặc sắc có giá trị cao và hầu hết được nhà nước công nhận là các di tích lịch sử văn hóa nghệ thuật quốc gia. Các đình chùa được xây dựng từ các thế kỷ 18, 19 và đầu thế kỷ 20. Trong các đình chùa có những di sản văn hóa quí giá như chuông đồng, lư hương, tượng đá, gươm giáo, bàn ghế gỗ quí, hoành phi, trang phục,.. từ những thế kỷ 18, 19 và rất nhiều các di vật này là được mang từ Trung quốc sang. Ngay cả vật liệu xây cất, trang trí trên nóc như gạch, gốm men được mang sang Chợ Lớn từ Trung Quốc để xây chùa bà Thiên hậu của bang Quảng Đông. Các chùa của các hội quán xây kiểu kiến trúc đặc trưng cùa người Hoa là hình ấn, với 4 ngôi nhà liên kết nhau hình chữ nhật tạo thành mặt bằng giống chữ "khẩu" hoặc chữ "quốc". Ở giữa các dãy nhà này có một khoảng trống gọi là thiên tỉnh (giếng trời), làm chùa thoáng đãng, có đủ ánh sáng và có chỗ thoát khói hương. Bước vào cổng là tiền điện hai bên, rồi trung điện và chánh điện và dãy nhà sau cùng là hậu điện. Dọc hai bên các điện thờ sau cửa vào là văn phòng hội quán. Các hội quán đều có ban quản trị do bang lập nên để quản trị chùa và trường học hay bệnh viện cho bang. Trong Nhà truyền thống người Hoa ở góc đường Triệu Quang Phục và Nguyễn Trãi (xưa gọi là đường Cây Mai) thường có triển lãm và các hình ảnh xưa ở Chợ Lớn cùng các sản phẩm mỹ thuật. Nhà Truyền thống trước đây là nhà hát Tam Đa (hay Vàm Cỏ) của người Hoa Triều Châu trong vùng. Cạnh nhà truyền thống ở số 137 đường Triệu Quang Phục là trụ sở Hội Văn học Nghệ thuật các dân tộc, chủ yếu là của người Hoa. Trụ sở là Hội quán của chùa bà (Thiên Hậu) cho mượn. Hoạt động của Hội gồm hội họa, thư pháp, nhiếp ảnh, xuất bản văn học. Ngoài ra còn có ban bảo trợ văn hóa người Hoa, với chi hội ca múa nhạc có trụ sở là nhà văn hóa Quận 5, đường Trần Hưng Đạo. Chùa Thiên Hậu của bang Quảng Đông nằm ở góc đường Nguyễn Trãi và Triệu Quang Phục. rất nhiều du khách nước ngoài viếng thăm. Kiến trúc chùa rất đẹp với các tượng trên nóc, mái chùa bằng sành sứ rất công phu và các tranh khắc trên tường là những tuyệt tác rất trang nhã của nghệ thuật người Hoa. Chùa có tên chính thức là Huệ thành hội quán, của người Quảng Đông, hay còn gọi là bà Miễu hay Chùa Bà, được xây vào các năm 1825-1830 dưới thời vua Tao Kouan (Đạo Quang) nhà Thanh (9). Huệ thành là tên một địa danh gần Quảng Châu. Đền thờ Thiên hậu thánh mẫu. Chuông lớn trong đền có ghi năm thứ 10 đời vua Tao-Kouan (1831). Chùa được trùng tu năm 1859 với sự đóng góp của bang Quảng Đông. Ông Vương Thái, một thường gia giàu có vào cuối thế kỷ 19 ở Saigon-Chợ Lớn, là bang trưởng Quảng Đông và đã giúp đỡ tài chánh chùa và hội quán, cũng như bảo vệ quyền lợi và đặc ân cho hội quán qua sự can thiệp và những hoạt động của ông với chính quyền Pháp ở Phòng Thương Mại và Hội đồng Quản Hạt. Ngày lễ bà thiên hậu là ngày 23 tháng 3 năm âm lịch. Ngay cạnh chùa là trường học Quảng Đông do Huệ thành hội quán thành lập. Trường nằm trong khu đất của hội quán, ngày nay có tên là trường Mạch Kiếm Hùng. Hình 1 -Kiến trúc chùa bà Thiên hậu, Chợ Lớn Trong chùa còn giữ lệnh viết tay của đại úy hải quân (capitaine) D'Ariès nghiêm cấm binh sĩ liên quân Pháp - Tây Ban Nha phá chùa. Lúc này D'Ariès đang trấn giữ Saigon-Chợ Lớn sau khi chuẩn đề đốc Francois Page rời Saigon tham gia chiến dịch ở Trung Quốc với đề đốc Charner vào tháng 4 1860. Liên quân Pháp - Tây Ban Nha, với số quân ít ỏi dưới quyền D'Ariès đang phải đối diện với quân tiếp viện của triều đình do Nguyễn Tri Phương chỉ huy ở phía đồn Chí Hòa. Hình 2 - Lệnh viết tay của đại úy thuyền trưởng D'Ariès ngày 4 tháng 8 1860 nghiêm cấm binh sĩ Pháp và Tây Ban Nha phá chùa bà Thiên Hậu. Gần chùa Thiên hậu là đền Tam Sơn, trên đường Triệu Quang Phục, của người Phúc Kiến (Phúc Châu), nơi đây thờ bà chúa Thai Sanh, Ngọc Hoàng, Quan âm, Quan công.., không có chữ quốc ngữ chỉ có chữ Hán trong và ngoài đền. Tam Sơn (ba núi) là tên của một địa danh ở Phúc Châu (tỉnh Phúc Kiến). Chùa được thành lập năm 1839, chùa còn có tên nôm là “Chùa bà Chúa” (9). Chủ yếu thờ bà chúa bảo hộ cho tất cả phụ nữ mong được con, thai nhi, trẻ em. Theo ông Lê Văn Lưu, phụ tá thị trưởng thành phố Chợ Lớn vào đầu thế kỷ 20, thì chùa được quản lý bởi một hội đồng gồm các phụ nữ người Việt có chồng người Hoa (9). Ngày lễ lớn của chùa là ngày lễ bà chúa Thai Sanh vào ngày 18 tháng ba âm lịch. Lễ kéo dài đến 3 ngày. Kế bên đền Tam Sơn, ở góc đường Triệu Quang Phục và Nguyễn Trãi, xưa kia có Thất phủ cổ miếu, nhưng đã bị phá đi, hiện nay là xí nghiệp in, chỉ còn để lại lại một bức tường. Đây là một mất mát văn hóa to lớn vì miếu này là miếu cổ nhất của người Hoa ở Chợ Lớn. Thất phủ cổ miếu hay Thất phủ Võ đế miễu, còn được gọi nôm na là chùa Bảy Phủ Ông, được xây năm 1820 thờ Quan Võ (Quan Công) do 7 bang người Hoa góp công xây dựng. Ngoài ra còn có sự đóng góp của một số người Việt, trong đó có phu nhân của tổng trấn Lê Văn Duyệt (9). Hình dáng chùa bên ngoài giống như chùa Thiên Hậu và chùa Tam Sơn với cổng, sân trước và mái có 2 rồng bên trên. Hình 3 - Chùa Bảy Phủ - Hiện nay không còn Không xa chùa Bà Thiên Hậu của Huệ Thành hội quán, Quảng Đông, cũng trên đường Nguyễn Trãi là chùa Ông của Nghĩa An hội quán. Nghĩa An hội quán là do người Triều Châu thành lập. Chùa Ông, thờ Quan Công (vì thế gọi là chùa Ông), được xây dựng đã hơn 200 năm qua các lần trùng tu vào các năm 1866, 1901, 1966, 1984. Trong sân từ cổng vào đến cửa miếu có các cặp kỳ lân bằng đá đặt đối xứng nhau, trong đó có cặp "lân hàm châu" (lân ngậm ngọc) chầu hai bên cửa. Có 5 chùa ở Chợ Lớn thờ quan công, trong đó có 3 chùa người Việt và Minh hương: Nghĩa Nhuận hội quán (đường Gò Công), Phước An hội quán (đình của người Minh hương, gần bưu điện Chợ Lớn, đường Frederic Drouhet tức Hùng Vương ngày nay) và Bửu Sơn hội quán (đường Xóm Voi) (9). Ngày lễ Quan Công là ngày 13 tháng 1 âm lịch. Đến Đình Minh Hương Gia Thạnh ở trên đường Trần Hưng Đạo (trước 1975 là đường Đồng Khánh). Đình là tòa nhà cổ nhất Saigon, xây năm 1789, được công nhận là một di tích lịch sử. Năm 1698, ở vùng này đã hình thành nên làng Minh Hương ở Gia Thạnh, làng Minh hương còn để lại câu ca dao Gỏi chi ngon bằng gỏi tôm càng Đố ai lịch sự cho bằng làng Minh Hương. Lần trùng tu cuối cùng của đình là vào năm 1921. Trong đình, bên phải thờ Trần Thượng Xuyên (có 2 di ảnh tướng Trần Thượng Xuyên) và Nguyễn Hữu Cảnh, bên trái thờ Trịnh Hoài Đức và Ngô Gia Tịnh. Cạnh đó là 1 chuông đồng do vua Minh Mạng tặng, với sắc phong và chuyển tên từ làng thành đình. Chuông được gióng một năm một lần vào ngày 16/1. Sau chánh điện là sân rất rộng gọi là Thiên Quang Tỉnh (giếng trời). Đình Minh hương Gia Thạnh cũng là nơi tề tựu, gặp gỡ của nhóm Bình Dương thi xã, sáng lập bởi Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh, Lê Quang Định, với nhiều nhân sĩ đến đây để ngâm thơ, xướng họa vào cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19. Nghĩa Nhuận hội quán, chùa người Việt thờ thành hoàng bốn cảnh, trong đình còn thờ quan công, và thiên hậu thánh mẫu. Đình này là đình xưa của một làng quê, đất rộng người thưa ở vùng Chợ Lớn thờ thần sắc phong thời vua Tự Đức (1852) tục gọi là Thành hoàng bốn cảnh. Đình xây cất lại với tường gạch, lợp ngói sau khi Pháp chiếm Saigon vào năm 1872. Vị trí trên “Quai de la distillerie” (bến nhà máy rượu), nay là đường Phan Văn Khỏe gần góc với đường Gò Công. Chùa được xây và quản lý với sự trợ giúp tài chánh từ nhiều người Việt, trong đó có Tổng đốc Đỗ Hữu Phương, ông Đỗ Hữu Trí. Sau này trong thập niên 1930, ông Trương Văn Bền, nhà doanh nghiệp là chủ tịch hội đồng quản trị chùa. Đình xây theo kiến trúc Hoa và trải qua nhiều đợt trùng tu những năm 1940, 1952, 1962 và 1990. Hình 4 - Phòng tiếp khách của hội quán Nghĩa Nhuận, trên tường là các bản khắc chữ Hán tên ân nhân của hội quán từ nhiều đời trong các năm đã qua. Tác giả bài viết này được ông Nguyễn Thành Long và Trần Tấn Phát trong ban quản trị Nghĩa Nhuận hội quán cho biết trong hội quán vẫn còn có các sổ sách hình ảnh những ân nhân chùa từ những thế kỷ trước, trong đó có ông Trương Văn Bền, Đỗ Hữu Phương và được vào phòng chính của ban quản trí thăm viếng trong đó có 6 bia khắc chữ Hán tên các vị ân nhân từ hơn 100 năm qua. Phước An hội quán lúc đầu chỉ là một miếu của người thờ Quan công, nhưng sau này thiếu bảo quản nên đổ nát. Năm 1900 được giao cho người Minh hương xây và trùng tu lại thành một hội quán lớn hơn. Trong năm 1930, ông Nguyễn Chiêu Thông, một nhà doanh nghiệp là chủ tịch hội đồng quản trị. Bửu sơn hội quán, thờ quan công, xây đầu thế kỷ 20 (khoảng năm 1900) ở đường Xóm Voi. Giác Viên tự, hay còn gọi là chùa Hố đất, nằm trong một khu cây xanh yên tĩnh, cạnh một rạch nhỏ. Chùa được hòa thượng Hải Tịnh ở chùa Giác Lâm, Phú Thọ cách Giác Viên tự 1km, thành lập vào năm 1803. Mục đích của thượng tọa Hải Tịnh là xây lại chùa Phú Lâm nên lúc đầu thượng tọa Hải Tịnh xây chùa để làm chỗ chứa đựng tạm thời những tượng thờ của chùa Phú Lâm, vật liệu, gỗ quí như gõ... để xây chùa. Chùa Giác Viên sau đó có những vị sư tu khổ hạnh trụ trì được sự kính trọng của quần chúng, trong đó hòa thượng Hoằng Ngã trụ trì từ năm 1882 trong hơn 35 năm đào tạo nhiều vị sư có đức hạnh. Từ đó chùa là nơi nhiều người biết và kính trọng các bậc chân tu. Hòa thượng Hải Tịnh còn giúp xây lại chùa Giác Lâm đẹp hơn vào năm 1903. Trong khuôn viên chùa Giác Viên có mộ của Ngô Nhân Tịnh, nhà thơ vào thế kỷ 18 ở đất Gia Định xưa. Ông là người Minh Hương gốc Quảng Đông, cùng với các bạn học đương thời của thầy Võ Trường Toản là Trịnh Hoài Đức và Lê Quang Định lập ra Bình Dương thi xã, được gọi là Gia Định tam gia. Ông cũng là đồng môn của Ngô Tùng Châu và thiền sư Viên Quang (sư tổ chùa Giác lâm).
<bài viết được chỉnh sửa lúc 19.03.2011 07:01:02 bởi Thanh Vân >
Cuộc đời một giấc mộng Thời gian thoáng mây bay Nguồn tâm không xao động Khoan thai
|