Câu Lạc Bộ TRI ÂM

Thay đổi trang: << < 222324 > >> | Trang 23 của 36 trang, bài viết từ 661 đến 690 trên tổng số 1076 bài trong đề mục
Tác giả Bài
Đóa Hồng Tím
  • Số bài : 505
  • Điểm: 0
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 17.06.2009
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 29.09.2012 19:31:30
0

[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/71281/72663EBA0A164706A5A3C5BFE5DDF661.jpg[/image]

CHIẾC ĐÈN LỒNG

chiếc bánh trung thu nằm hờm trong mộng
chỉ những vội vàng , em gọi vầng trăng
đêm giữa thu , anh có về cho đúng
giờ em mong , khuya nửa giấc em ngoan

chiếc đèn lồng anh tặng em thuở nhỏ
xa anh rồi , em xếp cất vào rương
đêm tròn trăng , tháng tám về , em mở
thắp lại đèn , chuyện với bóng em thương

những tâm sự sụt sùi cùng lá rụng
anh chở thu vàng em tận bao xa
làm trăng cay đôi mắt từ vô tận
ánh lửa chùng . đủ sáng giọt buồn sa

chiếc bánh trung thu nằm yên vờ ngủ
chỉ tách trà trên tay dỗ dành nhau
đêm nay trăng long lanh đầy hạt vỡ
anh sẽ lưu đày thu em mau lâu ?

TY


<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.09.2012 19:57:31 bởi thương yêu >
Attached Image(s)
quê hương em là Huế
quê tim em là anh

dzuylynh
  • Số bài : 1290
  • Điểm: 26
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.05.2010
  • Nơi: Vịnh Nửa Vầng Trăng
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 30.09.2012 01:22:02
0
 



Cám ơn anh bạn Sen Đất đã cho CLB.TÂ một truyện ngắn về một thời Trung Thu tuổi nhỏ thật tuyệt vời !
Vào chơi với ACE thường nghen Sen !





https://www.box.com/shared/bik7y2nnr7mrvratlher

CHIẾC ĐÈN LỒNG

thơ đông hương | phổ nhạc & trình bày Dzuylynh
Sept.29.2012

chiếc bánh trung thu nằm hờm trong mộng 
chỉ những vội vàng, em gọi vầng trăng
đêm giữa thu anh có về cho đúng 
giờ em mong khuya nửa giấc em ngoan 

chiếc đèn lồng anh tặng em thuở nhỏ 
xa anh rồi...em xếp cất vào rương 
đêm tròn trăng tháng tám về em mở 
thắp lại đèn, chuyện với bóng em thương 

những tâm sự sụt sùi cùng lá rụng 
anh chở thu vàng em tận bao xa?
làm trăng cay đôi mắt từ vô tận 
ánh lửa chùng đủ sáng giọt buồn sa 

chiếc bánh trung thu nằm yên vờ ngủ 
chỉ tách trà trên tay dỗ dành nhau đêm nay
trăng long lanh đầy hạt vỡ 
anh sẽ lưu đày thu em đến bao giờ?

TY

<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.12.2012 03:20:54 bởi dzuylynh >

dzuylynh
  • Số bài : 1290
  • Điểm: 26
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.05.2010
  • Nơi: Vịnh Nửa Vầng Trăng
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 30.09.2012 02:29:16
0



https://www.box.com/shared/ar5i0pw5s0c9o4rxq46b

TÌNH NHƯ CHIẾC LÁ THU RƠI

thơ TrúcLan | diễn đọc thiênthanh

Lá rơi một chiếc bên hồ
Nằm trên phiến đá lõa lồ dưới trăng
Thềm hoang đêm lạnh giá băng
Lá vàng đọng giọt bỗng thăng hoa tình

Ngày mai nắng dậy bình minh
Từ trong giọt lệ thấy mình phôi pha
Xưa kia vóc ngọc lầu ngà
Tháng năm rồi cũng phải qua đoạn trường

Hạ đi nhạt sắc, phai hương
Thu sang vàng úa trời thương biển sầu
Hay là tại gió mưa Ngâu
Hạ xanh, thu đến, vàng nâu mảnh đời

Vô tình tờ lịch cũng rơi
Phận như chiếc lá góc trời cô liêu
Thu như con sóng thủy triều
Tình xanh giờ đã muối tiêu tháng ngày

Nằm trên phiến đá đêm nay
Ngó nghiêng chợt thấy chốn này quạnh hiu
Trăng đêm thấp thoáng phù kiều
Xoáy dòng định mệnh trăm chiều vỡ tan

Tìm đâu tháng bạc ngày vàng
Tìm đâu một cõi thiên đàng như xưa
Lưng trần dãi nắng dầm mưa
Mơ ngày hạ cũ sáng trưa với cành

Bao giờ mới được hồi sanh
Hay là thiên định, thôi đành... đành thôi
Thu về nghiệt ngã thu ơi
Nằm trên phiến đá vọng lời trối trăng

TrúcLan
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.09.2012 05:52:18 bởi dzuylynh >

Phù vân
  • Số bài : 360
  • Điểm: 6
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.01.2011
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 30.09.2012 05:38:17
0
 ĐỌC BÁO GIÙM BẠN
TƯỢNG PHẬT BÍ MẬT ĐẾN TỪ VŨ TRỤ _ MỘT KHÁM PHÁ THÚ VỊ

Thursday, 27 September 2012 12:37
Cali Today News - Giống như các biến chuyển hấp dẫn của một cuốn phim Indianna Jones, một bức tượng Phật được chạm trổ khá sắc sảo, lại được tạc từ một vẫn thạch có lẽ đã rơi xuống vùng biên địa Mông Cổ-Siberia cách đây 10,000 năm.
Các nhà khảo sát đặt tên bức tượng là “Người Sắt” (Iron Man) có niên đại chưa rõ ràng, chỉ biết người ta ước đoán nó đã được ai đó tạc ra từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 10.
Bức tượng mô tả một người đàn ông, có thể là một vị thần nào đó trong Phật giáo (thật ra trong Phật giáo không có “thần”, ND) ngồi với hai chân xếp lại và đang nắm vật gì đó trong bàn tay trái.


Tượng Phật bí mật đến từ vũ trụ. Photo: Live Science


Trên ngực của bức tượng có hình Chữ Vạn, một dấu hiệu của sự may mắn mà sau này Đảng Phát Xít của Đức lấy làm biểu tượng của mình trong thập niên 1930.
Trong số ra ngày 14 tháng 9 của nguyệt san chuyên đề Meteoritics & Planetery Science, các nhà nghiên cứu viết: “có thể ngẫm nghĩ liệu hình Chữ Vạn này là một động cơ thúc đẩy các đảng viên Phát Xít mang bức tượng này về Đức hay chăng?”
“Người Sắt” lần đầu đến Đức sau chuyến đi Tây Tạng của nhà khoa học Ernst Schafer sau những năm 1938-1939, vốn được Đảng Phát Xít Đức cử đi sang vùng này để “truy tìm nguồn gốc giống dân Aryan thượng đẳng”
Sau khi bức tượng vào tay một tư nhân, nhà khoa học Elmar Buchner và các đồng nghiệp của đại học Stuttgart lần đầu tìm cách phân tích bức tượng vào năm 2007. Họ khám phá bức tượng được tạc từ một loại đá trời rất hiếm có tên là ataxite meteorite, có hàm lượng nickel cao.
Loại vẫn thạch này đã rơi xuống vùng biên địa của Tây Tạng-Tây Bá Lợi Á khá nhiều. Bức tượng cao khoảng 24 cm và nặng khoảng 10.6 kí lô. Các nhà nghiên cứu nghi ngờ đây là tượng của Thần Chiến Tranh Vaisravana, còn được biết dưới tên Jambhala.
Theo truyền thống văn hóa cổ thì Thần Vaisravana tượng trưng cho chiến tranh hay sự giàu có, tay trái thường cầm trái chanh (tượng trưng cho giàu có) hay một túi tiền.
Butcher viết: “Bức tượng này là duy nhất, nếu sự phỏng đoán của chúng tôi về niên đại của nó mà đúng, tức nó có tuổi ngàn năm thì giá trị của nó là vô giá”

Trần Vũ theo LiveScience
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.10.2012 05:09:22 bởi Phù Vân >

dzuylynh
  • Số bài : 1290
  • Điểm: 26
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.05.2010
  • Nơi: Vịnh Nửa Vầng Trăng
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 30.09.2012 08:59:58
0



https://www.box.com/shared/4g3owfvhmsh333qbdzew

N H Ớ M Ộ T M Ù A T R Ă N G

sáng tác & trình bày Dzuylynh




cho em một giòng sông trăng
ngày xưa soi bóng bên thềm
mộng mơ một thời con gái
để bây giờ tiếc ngẩn ngơ...

cho em giòng sông tuổi nhỏ
mắt nai ngơ ngác sân trường
rong chơi tháng ngày hoa bướm
trang đài tóc xõa bờ vai

thu nay lại đến mùa trăng
giòng sông êm đềm ánh vàng
từ anh đi vào lửa đạn
em buồn vướng tình lụy mang

chia tay từ độ trăng tròn
bóng chàng dặm ngàn quan san
nhạn kêu cuối bãi lạc lòai
nhớ nhau trăng vở làm đôi

đêm nay cùng màu trăng ấy
thu về lá nhuộm vàng bay
giòng sông bóng đổ nghiêng gầy
nhớ người nhớ một vòng tay...

nhớmộtmùatrăng.Sept.29.2012.dzuylynh
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.12.2012 03:22:02 bởi dzuylynh >

sen dat
  • Số bài : 3043
  • Điểm: 34
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 29.03.2008
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 30.09.2012 11:56:31
0
Chào Dzuylynh,
Dzuylynh lo xa quá ha! Quán có bao giờ ế đâu dập dìu tài tử giai nhân thế kia mà!  SĐ khi nào rảnh cũng ghé qua thưởng thức văn nghệ là vui rối! Nếu quán ế SĐ vào cổ động ngay! Truyện ngắn này là một trong những truyện thiếu nhi đăng trong báo thiếu nhi trước 75 được học sinh khi đọc rất thích, đây là tờ báo rất hay được truyền tay nhau đọc vì báo khá đắt, nhiều khi phải nhịn tiền ăn sáng để mua nếu là báo tháng. SĐ cất công để đánh máy lại là vì thế, hàng hiếm đó Dzuylynh à! vì giờ ít tìm được truyện dí dỏm hay và xúc động như vậy! Khi đánh máy lại SĐ cứ cười thầm miết thôi! Chúc Dzuylynh và câu lạc bộ tri âm có nhiều tác phẩm hay phục vụ diễn đàn nha! SĐ có cái đèn lồng mới rước hôm qua mang vào cho vui lữ quán chút!


[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/49776/C7802F05AE5C4FDEA039AE6DD26C1A70.JPG[/image]

[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/49776/8A570F4805B14629B491BCCA132F4D52.JPG[/image]
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.09.2012 11:58:00 bởi sen dat >
Attached Image(s)

thiên thanh
  • Số bài : 467
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.06.2012
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 30.09.2012 21:42:54
0
tt xin chào thương mến cả nhà

tt dạo này chạy như chạy giặc, tt mới đi hè vià mà bà thư ký cứ tưởng tt là "xúp bẹt quố mần" (superwoman) nên bả mần thời khóa biểu cho tt cày từ 8giờ sáng tới 8giờ tối hong ngừng tt chạy nín thở luôn [sm=z_surrender.gif] nên tt ít có thời gian vào CLB.TA

@ chị Trúc Lan ơi! vườn rau chị trồng mát tay ghia ... chị cho em xin một bó mồng tơi và một trái bầu để nấu canh với tôm khô

@ O Sen: truyện sưu tầm O Sen mang vào đọc cảm động lắm, chắc là bố lynh lấy ý ở trong bài đó để mần bài hát "Nhớ Một Mùa Trăng" phải hông bố

@ bố lynh: ... [sm=rinh.gif]

sang thu, tt xin kính mời các cô chú anh chị và bạn bè thân yêu của CLB.TA và vnthưquán thưởng thức một bài hát cuối tầng, ủa lộn cuối tuần của tt, cùng chúc mọi người một cuối tuần an dui











dzuylynh
  • Số bài : 1290
  • Điểm: 26
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.05.2010
  • Nơi: Vịnh Nửa Vầng Trăng
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 01.10.2012 05:14:39
0



https://www.box.com/shared/byecd6r9wozn2otjxvbf

N G H Ì N G I Ọ T L Ệ R Ơ I *

ý thơ TrúcLan | nhạc & trình bày Dzuylynh
Sept 30.2012
( đến TrúcchiLan )

nghe trong gió heo may về sắt se
em ! nghìn giọt lệ máu tan theo, tan theo lá nâu vàng úa
lá thu lõa lồ phơi trên phiến đá thời gian
thời gian là niềm đau bào mòn ký ức
buồn...
như câu thơ em đề trên lá " tình như chiếc lá thu rơi "
có phải không ?
có phải không? sao anh lặng thinh không nói, dù một lời?
mùa thu ơi về mà làm gì khi mặt trời tắt nắng từ lâu
khi nhịp cầu ô thước còn đâu?
mùa ngâu nào lát lòng nhau kỉ niệm đầu vùi sâu mộ thất
mưa ...
mưa...
mưa hay nghìn giọt lệ vỡ tan như hạt ngọc trời đã khô trên sa mạc tối!
nụ hôn đầu tiên hãy còn hằn trên phím môi mềm
sao không là mãi mãi cho nhau
anh đâu? anh đâu rồi?
anh đã về cuối trời miên viễn
nơi không còn máu rơi nơi không còn hận thù và nơi không còn em !
bên nhau một đời...
sao nỡ để em ngồi một mình đếm nghìn giọt lệ rơi...
nghìn giọt lệ hay nghìn giọt máu rơi
hay nghìn giọt máu em
rồi sẽ khô nhanh khi chiếc lá xa cành không còn nhựa sống
như em ...
như em một mình trong đêm trăng thu đốt nhánh chiêm bao
để hong khô những tàn phai...

*( tựa Yung Krall Đặng mỹ Dung )
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.12.2012 03:22:51 bởi dzuylynh >

Trúc Lan
  • Số bài : 123
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 06.02.2008
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 01.10.2012 07:27:18
0
Như những cuộc tình đã ra đi theo số phận của chiếc lá mùa thu...
Kính mời anh chị em CLBTÂ thưởng thức Mùa Thu Lá Bay qua tiếng hát TrúcLan



Một ngày sống bên anh sẽ muôn đời
Dẫu cho mưa rơi đá mòn tháng năm


Mùa Thu Lá Bay

Một mối tình thôi đủ lụy rồi
Ngày thu tan tác mộng chia đôi
Sống sầu một kiếp đau thương hận
Bên cõi trời thơ cũng rã rời

Anh biết tình ta đã cạn rồi
Sẽ là mắt lệ mãi khôn nguôi
Muôn ngàn nỗi nhớ sầu ngây dại
Đời trắng màu tang đến rợn người

Dẫu gỡ tình yêu vẫn rối bời
Cho nghìn năm mộng cũng thế thôi
Mưa bay tóc rối đường ngôi lệch
Rơi mãi tàn thu hết tuổi đời

Đá vọng phu xanh rêu phủ rồi
Mòn dần da thịt buốt bờ môi
Tháng dài mưa gió tâm hiu quạnh
Năm sáu thu rồi mãi chia phôi

TrúcLan
01. Oct. 2012

Phù vân
  • Số bài : 360
  • Điểm: 6
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.01.2011
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 01.10.2012 12:30:43
0
 
ĐỌC BÁO GIÙM BẠN

TƯ BẢN ĐỎ XÔN XAO TÌM BÃI ĐÁP

Friday, 21 September 2012 19:03
Phạm Nhật Bình
Với những tiềm năng phát triển lớn lao, ngày nay Trung Quốc đã trở thành một đất nước có nền kinh tế đứng hàng thứ nhì trên thế giới. Nhưng càng đến gần thời điểm đại hội lần thứ 18 của đảng vào tháng 10 năm nay, những người sắp ra đi và những người chuẩn bị tiếp nhận quyền lực đều nhận thức rằng họ đang đối diện với một vấn nạn ngày càng lớn. Đó là tính chính danh, tính hợp pháp chính trị của cả chế độ và của giới lãnh đạo ở thượng đỉnh. Nói một cách cụ thể hơn, trong mắt dân chúng, những gì mà họ đã từng được nghe suốt mấy thập niên qua về một chính phủ dựa trên lý tưởng công bằng xã hội cộng sản thì nay chỉ thấy từng tập đoàn quyền hành cùng với hệ thống tham nhũng sâu rộng, và một số đại gia tư bản cực kỳ giàu có rút từ nguồn tài sản quốc gia.
Trong tình trạng tham nhũng lan tràn trên toàn xã hội Trung Quốc như hiện nay, ước lượng mỗi năm có khoảng 50 tỷ đô la theo chân cán bộ quan chức và gia đình họ rời khỏi đất nước. Đó là một trong nhiều chi tiết được đưa ra trong một bài báo của Jonathan Manthorpe của tờ Vancouver Sun, Canada ngày 13/7/2012. Những nhà giàu mới ở Trung Quốc mệnh danh “tư bản đỏ” từng ngày từng giờ đang ráo riết tìm chỗ trú thân an toàn ở các nước Tây Phương. Làn sóng này đã bắt đầu trong mấy năm qua nhưng gia tăng càng lúc càng nhanh trước các biến động xã hội lẫn chính trị tại đây.
Theo Jonathan Manthorpe, một nghiên cứu gần đây cho thấy rằng 90% trong số hơn 300 thành viên của Ủy ban Trung ương đảng Cộng Sản Trung Quốc đã đưa một phần gia đình ra sống ở nước ngoài hoặc đã xin làm công dân nước ngoài. Đây là các đầu cầu để chuyển tài sản hiện nay và để làm "nơi tỵ nạn" trong tương lai khi có biến động chính trị tại Trung Quốc.
Còn giới giàu có nói chung, khoảng 60% cho biết đang trong tiến trình xin di dân hoặc đã có ý định làm việc này trong thời gian trước mặt. Biến cố Bạc Hy Lai (Bo Xilai), nguyên bí thư thành ủy Trùng Khánh (Chong Qing), bị bắt chờ ngày ra tòa càng khiến giới tư bản đỏ không còn cảm thấy an toàn dù ở bất kỳ vị trí nào, và càng gấp rút tìm đường đi ra nước ngoài cùng với số tài sản hiện có.
Vào cuối năm 2011, một nghiên cứu khác, có vẻ "hiền lành" hơn, được chính Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc thực hiện, cũng cho thấy từ giữa thập niên 1990, ít là khoảng 125 tỷ USD đã lẻn ra khỏi đất nước theo chân của hơn 16.000 cán bộ, công chức và những người thân của họ.
Từ một nguồn khác nữa, ký giả John Sudworth của BBC News từ Thượng Hải ngày 22/8/12 tường thuật hiện tượng "Tư bản đỏ Trung Quốc" lũ lượt ra đi. Ông viết: "có một thứ hàng xuất khẩu từ Trung Quốc mà dường như hiện nay không ai ngăn cản nổi – đó là các triệu phú". Điển hình như Louie Huang, một trong những người giàu nhất Thượng Hải (Shanghai) nhờ kinh doanh bất động sản. Ông Huang thừa nhận với nhiều người bạn giàu có khác rằng tình hình không còn an toàn cho những người như ông tại Trung Quốc nữa. Con đường duy nhất là tìm cách ra nước ngoài sinh sống.
Ông nói: "Hầu hết họ nghĩ rằng tôi có quá nhiều tiền ở đây. Rồi sẽ tới ngày chính phủ thay đổi chính sách và lấy lại hết". Đó cũng là điều lo lắng của nhiều người thuộc giới siêu giàu Trung Quốc nay đang tìm cách thoát đi. Nó cũng cho thấy mặt thật của đời sống chính trị, kinh tế của Trung Quốc, tức không hề có một xã hội ổn định như hình ảnh mà đảng muốn trưng ra trước thế giới. Nói cách khác, những tư bản đỏ ngày nay không còn tin vào cái gọi là kinh tế thị trường theo đặc tính XHCN Trung Quốc, với quá nhiều đe dọa bất an tiềm ẩn. Họ tìm cách ra đi không phải với hai bàn tay trắng, nhưng với số của cải tích góp được một cách bất thường trên lưng hơn một tỷ người nghèo khắp lục địa này.
So với năm 2006, chỉ có 63 visa EB-5 — tức loại visa đầu tư để định cư tại Hoa Kỳ — được cấp cho các công dân Trung Quốc; thì năm 2011, con số này nhảy vọt lên 2.408 visa; và trong năm 2012, chỉ trong 6 tháng đầu năm, con số này đã vượt quá 3.700 visa.
Giới giàu Trung Quốc không chỉ chạy sang Mỹ mà thôi. Hiện nay họ còn là một trong các luồng di dân lớn nhất vào Australia. Số liệu công bố năm 2011 cho thấy lần đầu tiên di dân Trung Quốc vào Australia đã vượt qua số người từ Anh Quốc. Tại Canada, con số các “nhà đầu tư” Trung Quốc được cấp quy chế thường trú tại Canada đã tăng gấp đôi trong vòng hai năm.
Theo hãng tin AFP, hiện tượng tài phiệt Trung Quốc đầu tư ồ ạt vào rượu Pháp cũng đang gia tăng. Sau khi "xâm nhập" vào lãnh địa rượu Bordeaux, các tay tài phiệt Trung Quốc "tấn công" vào rượu Bourgogne bằng những số vốn khổng lồ. Bên cạnh lý do thuần túy thương mại, đây còn là lý cớ để xin nhập cư vào Pháp.
Những kẻ nằm ở thượng tầng xã hội Trung Quốc thấy rõ là tương lai của chính họ rất bấp bênh. Nền kinh tế Trung Quốc không thể tăng trưởng bất tận. Tình trạng hụt hơi đã hiện rõ trong những năm gần đây. Không chỉ những người nghèo tại Trung Quốc có thể nổ tung bất kỳ lúc nào mà cả các đồng nghiệp của họ cũng có thể lôi cổ họ ra làm "dê tế thần" để xoa dịu dân chúng bất kỳ lúc nào. Hôm qua còn ngất ngưỡng trên đỉnh cao quyền lực, hôm nay đột nhiên tán gia bại sản là chuyện thường ngày ở quốc gia này. Sự kiện vợ chồng ông Bạc Hy Lai thực sự khiến họ run sợ đến tận xương tủy, vì không mấy ai trong số này có nhiều quyền lực như ông Bạc đã từng nắm giữ.
Cùng lúc với các diễn văn lên án các giá trị Tây Phương, hầu hết giới lãnh đạo Trung Quốc đều gửi con cái đi học ở cái trường Tây Phương và tìm cơ hội sống ở nước ngoài để làm đầu cầu chuyển tiền. điều này thoạt nghe có vẻ mâu thuẫn nhưng lại là sự thật đối với đại đa số lãnh đạo cao cấp của nhà nước và đảng Cộng Sản Trung Quốc.
Trong một bài báo của Washington Post ngày 18/5/2012, hai ký giả Andrew Higgin và Maureen Fan đã đưa ra một cái nhìn thật sâu sắc về sự thật không còn che giấu được ấy. Con cái của giới quý tộc đỏ được gọi là "Thái tử đảng" (princelings) đã có mặt ở hầu hết các trường đại học tư danh tiếng ở Mỹ. Tập Cận Bình, Phó Chủ tịch Trung Quốc và sắp lên ngôi tổng bí thư đảng, có người con gái Tập Minh Trạch (Xi Mingze) đang theo học trường đại học Harvard từ năm 2010. Hai trong số các tổng bí thư đảng là Giang Trạch Dân và Triệu Tử Dương cũng có cháu nội và cháu ngoại học ở trường này. Bốn quan chức cấp cao khác của Đảng như Hoàng Hoa (Huang Hua), Lý Triệu Tinh (Li Zhaoxing), Bạc Hy Lai (Bo Xilai và Trần Vân (Chen Yun) đều có con và cháu theo học tại Hoa Kỳ. Thái tử đảng đình đám nhất gần đây là Bạc Qua Qua (Bo Guagua), theo học tại Trường Quản lý Hành Chính Kennedy, thuộc Đại học Harvard. Cha của anh ta là cựu Bí thư Thành ủy Trùng Khánh Bạc Hy Lai hiện đang bị thất sủng và mẹ là Cốc Khai Lai bị án tử hình treo về tội giết người.
Tư bản đỏ Trung Quốc đang ráo riết tìm bãi đáp, còn tư bản đỏ Việt Nam thì sao?
Các áp suất tương tự như tại Trung Quốc cũng đã ló dạng tại Việt Nam. Hội nghị Trung ương 5 khóa XI bế mạc ngày 15/5/12 đã quyết định thành lập lại Ban Nội chính Trung ương và đặt Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tổng Bí Thư. Điều này báo hiệu cho cùng loại lo âu của Louis Huang ở Thượng Hải, đó là: "Rồi sẽ tới ngày chính phủ thay đổi chính sách và lấy lại hết".
Kế đến, người ta đang chờ xem liệu ông Nguyễn Tấn Dũng có cũng sẽ là một Bạc Hy Lai của Việt Nam không, khi các hồ sơ kết tội ông đang được tích tụ theo từng vụ thất bại của các tập đoàn kinh tế và tổng công ty. Tuy nhiên, người ta tin phần lớn tài sản của ông thủ tướng nổi tiếng tinh ranh này đã nằm ở nước ngoài qua nhiều đường dây khác nhau. Do đó, dù có bị thất sủng thì ông Dũng cũng đã có bãi đáp êm ấm đang chờ.
Nhưng điều đó chẳng làm những nhà tư bản đỏ khác an tâm vì họ còn thua kém xa ông Dũng về quyền lực. Nghĩa là nếu quan lớn như ông Dũng còn có thể bị các "đồng nghiệp" kéo xuống thì còn ai dám tin chỗ của mình an toàn tuyệt đối. Chính vì thế mà đợt "phê và tự phê" lần này mang nét hăm dọa đặc biệt.
Trận dịch bắt bớ, kết án nhanh chóng, và tịch thu tài sản đã bắt đầu. Trước hết ụp xuống những quan chức trực tiếp liên hệ đến các vụ lỗ lã lớn dù hiện tượng này được làm ngơ suốt nhiều năm qua, như Phạm Thanh Bình, tổng giám đốc Vinashin, và Dương Chí Dũng, tổng giám đốc Vinalines, v.v...
Nay trận dịch đã lan sang vòng kế tiếp với những người cực giàu nhưng chưa rõ tội gì như các chủ ngân hàng Nguyễn Đức Kiên, Lý Xuân Hải, v.v... Vì một khi họ đã bị bắt và bịt miệng trong tù, thì những kẻ thù của họ có toàn quyền vẽ ra các tội trạng cần thiết để tịch thu toàn bộ tài sản và ngay cả lấy luôn sinh mạng của họ.
Nhiều người tin rằng sẽ còn phải mất thêm một vòng “dịch” nữa đối với những cựu quan chức lớn như ông Trần Xuân Giá, v.v... trước khi Ban Nội Chính và Ủy Ban Chỉ Đạo Phòng Chống Tham Nhũng dám đụng đến loại đại gia như Nguyễn Thanh Phượng, con gái thủ tưóng Nguyễn Tấn Dũng.
Nhưng trong khoảng thời gian chờ đợi đó, chẳng còn ai trong giới tư bản đỏ Việt Nam còn dám ngủ yên trong giấc mơ "Còn Đảng Còn Mình". Vì những kẻ đã và sắp tước đoạt tài sản của họ đều là "người của Đảng" cả. Rõ ràng trong tình hình hiện nay, tài sản càng cao kẻ thù càng nhiều.
- - -
Tham khảo:
http://www.vancouversun.com/
http://www.bbc.co.uk/
http://www.washingtonpost.com/
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.10.2012 12:49:49 bởi Phù Vân >

dzuylynh
  • Số bài : 1290
  • Điểm: 26
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.05.2010
  • Nơi: Vịnh Nửa Vầng Trăng
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 01.10.2012 22:28:48
0

Trích đoạn: thiên thanh


@ O Sen: truyện sưu tầm O Sen mang vào đọc cảm động lắm, chắc là bố lynh lấy ý ở trong bài đó để mần bài hát "Nhớ Một Mùa Trăng" phải hông bố

@ bố lynh: ... [sm=rinh.gif]

sang thu, tt xin kính mời các cô chú anh chị và bạn bè thân yêu của CLB.TA và vnthưquán thưởng thức một bài hát cuối tầng, ủa lộn cuối tuần của tt, cùng chúc mọi người một cuối tuần an dui











cám ơn tiếng hát dễ thương tự nhiên không trau chuốt thiênthanh, nghe đâu đây lá thu đã rơi ầm ầm rùi đó !
các bạn có đồng ý không nào...
tuần sau hát nữa nhé bébo ! cô Xướng Ngôn Viên , nữ họa sĩ khả ái tuổi chẻ chẻ tuổi tài năng của CLB.TÂ
tt thông minh lắm , giỏi ! chính CÁI LỒNG ĐÈN của nghệ sĩ cùa lòai hoa - Sen Đất- đã làm nên ca khúc Nhớ Một Mùa Trăng ! thanks Sen nghen !
 
dl xin THÂN CHÚC QÚY ACE văn nghệ sĩ CLB và bằng hữu Tri Âm Một Tuần Lễ mới an vui hạnh phúc !
<bài viết được chỉnh sửa lúc 01.10.2012 22:57:48 bởi dzuylynh >

dzuylynh
  • Số bài : 1290
  • Điểm: 26
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.05.2010
  • Nơi: Vịnh Nửa Vầng Trăng
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 01.10.2012 22:35:51
0

Trích đoạn: Trúc Lan

Như những cuộc tình đã ra đi theo số phận của chiếc lá mùa thu...
Kính mời anh chị em CLBTÂ thưởng thức Mùa Thu Lá Bay qua tiếng hát TrúcLan



Một ngày sống bên anh sẽ muôn đời
Dẫu cho mưa rơi đá mòn tháng năm


Mùa Thu Lá Bay

Một mối tình thôi đủ lụy rồi
Ngày thu tan tác mộng chia đôi
Sống sầu một kiếp đau thương hận
Bên cõi trời thơ cũng rã rời

Anh biết tình ta đã cạn rồi
Sẽ là mắt lệ mãi khôn nguôi
Muôn ngàn nỗi nhớ sầu ngây dại
Đời trắng màu tang đến rợn người

Dẫu gỡ tình yêu vẫn rối bời
Cho nghìn năm mộng cũng thế thôi
Mưa bay tóc rối đường ngôi lệch
Rơi mãi tàn thu hết tuổi đời

Đá vọng phu xanh rêu phủ rồi
Mòn dần da thịt buốt bờ môi
Tháng dài mưa gió tâm hiu quạnh
Năm sáu thu rồi mãi chia phôi

TrúcLan
01. Oct. 2012



Thanks TrúcLan, người điều hợp chương trình VĂN NGHỆ CUỐI TUẦN duyên dáng từ vần thơ đến tiếng hát thật quyến rũ đam mê.
Một ngày sống bên anh sẽ muôn đời
Dẫu cho mưa rơi đá mòn tháng năm

Mong chờ những ca khúc mới và tiếng hát TrúcLan đến với CLB.TÂ ngày càng nhiều hơn nữa ! 
dzuylynh

<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.10.2012 12:58:12 bởi dzuylynh >

Phù vân
  • Số bài : 360
  • Điểm: 6
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.01.2011
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 02.10.2012 12:47:21
0
 
ĐỌC BÁO GIÙM BẠN


 
Mời qúy vị và các bạn đọc bài dưới đây do chính những người Việt bên Đông Âu báo động về tình trạng Mafia-VN ( Hải Phòng, Thanh Nghệ Tĩnh ) rất tệ hại... 
 
Phát hiện 6 vườn cần sa và khởi tố 11 người Việt 

Séc - Cục phòng chống ma tuý quốc gia NPC cho biết, trong chiến dịch kéo dài 3 ngày diễn ra hồi tháng 6 năm nay, họ đã phát hiện và triệt phá 6 vườn cần sa lớn và bắt giữ 11 người Việt liên quan. Hiện những người này đang phải đối mặt với mức án từ 8 đến 12 năm tù giam. 
 

Chiến dịch với tên gọi Green được diễn ra từ ngày 18 đến 20 tháng 6/2012, tuy nhiên quá trình chuẩn bị đã được thực hiện từ năm 2011. Chiến dịch chủ yếu nhằm vào các công ty nhập khẩu công nghệ nuôi trồng cần sa trong nhà. Trong 5 năm trở lại đây, cảnh sát đã ghi nhận sự gia tăng nhanh chóng của các vườn cần sa dạng này. 
Theo tài liệu do các nhà điều tra thu thập được, các công ty nhập khẩu công nghệ nuôi trồng cần sa có mối liên kết chặt chẽ với các nhóm tội phạm nuôi trồng cần sa trong nhà tại Séc. Họ sản xuất marihuana với hàm lượng chất THC cao và sau đó phân phối tại Séc và các nước EU khác. Theo phát ngôn viên NPC Barbora Kudláčková, trang thiết bị nuôi trồng được họ nhập về từ Canada, Hà Lan và Trung Quốc. 
Các vườn cần sa được NPC phát hiện ra nằm ở làng Osov na Berounsku, Petrovice, Stadov na Ústecku, Voltice, Mnichovice na Benešovsku và Praha - Hostivař. Hầu hết những vườn đều đã cho thu hoạch, mặc dù vậy, cảnh sát cũng đã thu được khoảng 2000 cây cần sa, 40 kilogram cần sa sấy khô với hàm lượng THC chiếm 10% cùng các trang thiết bị nuôi trồng với trị giá 1,5 triệu korun. 


Sau khi khám xét tại nhà riêng, cảnh sát còn tìm thấy 2,75 triệu korun tiền mặt, một số ô tô, súng, máy tính xách tay và 50 điện thoại di động. Còn tại 2 nhà kho ở Praha, cảnh sát cũng tìm thấy 4 triệu korun tiền mặt và các trang thiết bị nuôi trồng cần sa với tổng trị giá 20 triệu korun. 
Theo thông tin trên trang Radiožurnál do giám đốc NPC Jakub Frydrych cung cấp, cảnh sát đã bắt được 11 người có liên quan đến các vườn cần sa trên và họ đều có nguồn gốc Việt Nam. Hiện các bị cáo này đang bị tạm giam, họ bị khởi tố về tội sản xuất và cất giữ bất hợp pháp các chất ma tuý, chất gây ảnh hưởng tới thần kinh và chất độc và tham gia vào nhóm tội phạm có tổ chức. Nếu bị kết tội, họ sẽ phải đối mặt với mức án từ 8 đến 12 năm tù giam.
"Vụ án này vẫn đang được tiếp tục điều tra và làm rõ,” Frydrych cho hay và các nhà điều tra không loại trừ khả năng sẽ bắt giữ thêm được các nghi phạm khác. 
Ngọc Minh - 02-10-2012
ceskenoviny.cz, iDnes.cz

(Báo Tiệp)
 

Pháp: Tịch thu lượng cần sa kỷ lục, ba người Việt bị câu lưu
 




 
Cảnh sát quốc tế đang đặt trong tầm ngắm các vườn cần sa của các băng đảng người Việt
Thụy My
Hai vườn trồng cần sa với trên 3.000 cây, số lượng thuộc loại kỷ lục từ trước đến nay ở Pháp, đã bị cảnh sát phát hiện hôm qua 25/09/2012 tại vùng Aube. Ba người Việt cư ngụ tại vùng ngoại ô Paris bị câu lưu.


Trước đây vào tháng 2/2011, cảnh sát Pháp đã từng phát hiện 700 cây cần sa tại một nhà kho cũng của người Việt ở La Courneuve, thuộc vùng Seine-Saint-Denis, ngoại ô Paris. Hai vườn cần sa được tìm ra lần này, một vườn tại một nhà kho ở Essoyes, vườn kia tại một tiệm bánh mì bị bỏ phế tại Virey-sous-Bar, hai địa phương chỉ cách nhau vài cây số.
Các điều tra viên vùng Hauts-de-Seine đã bắt giữ ba người Việt Nam tại một bãi đậu xe ở Ivry-sur-Seine, vùng Val-de-Marne ; một người tuổi khoảng sáu mươi còn hai người kia khoảng năm mươi. Một nghi can nhanh chóng được trả tự do sau đó, hai người bị câu lưu và chuyển giao cho vùng Aube. Trong xe hơi của một nghi can, cảnh sát tìm thấy 8 kg cần sa và 14.000 euro tiền mặt.
Đây là kết quả điều tra công phu của cảnh sát Hauts-de-Seine, một trong các nghi can trên đã bị theo dõi từ nhiều tháng qua. Tại Essoyes, một làng nhỏ có 700 dân, ngôi nhà nơi trồng cần sa đã bị niêm phong. Người dân tại đây cho biết chủ nhà là một người rất kín tiếng, một năm chỉ đến lấy thư hai, ba lần. Còn tại vườn cần sa ở Virey-sous-Bar, không ai biết gì về chủ nhân.
Trả lời AFP, chuyên gia Michel Gandihon thuộc cơ quan phụ trách vấn đề ma túy và người nghiện của chính phủ Pháp cho biết thêm, trong vụ ở Courneuve tháng 2/2011, chủ vườn cần sa cũng là người Việt Nam. Cây cần sa được trồng trong nhà, vườn này có thể sản xuất được trên 100 kg/năm, chủ nhân có thể đạt được doanh số trên 400.000 euro mỗi năm, thu lợi nhuận rất lớn nhờ giá lao động rẻ.
Những nhân công làm việc ở đây là những người Việt nhập cư lậu, phải trả chi phí cho chuyến đi sang châu Âu bằng nhiều tháng làm việc trong những điều kiện tệ hại như nô lệ thời hiện đại. Còn ở Anh, người Việt Nam cũng thống lĩnh việc buôn bán cần sa.
Trong những tháng gần đây, nhiều vườn cần sa đã liên tục bị khám phá tại Pháp. Cách đây 10 ngày, một « khu rừng cần sa » với trên 500 cây, trong đó có những cây cao hơn ba mét, đã được phát hiện tại Isère. Trước đó vài tháng, một mạng lưới các nhà sản xuất sở hữu ba địa điểm trồng cần sa tại Bouches-du-Rhône và Var đã bị cảnh sát câu lưu. Nhiều vụ bắt giữ liên quan đến việc trồng cần sa đã diễn ra tại Cộng hòa Sec vào tháng Sáu và Roma (Ý) vào tháng Tám.
 
Nguồn NET
<bài viết được chỉnh sửa lúc 03.10.2012 23:34:01 bởi Phù Vân >

dzuylynh
  • Số bài : 1290
  • Điểm: 26
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.05.2010
  • Nơi: Vịnh Nửa Vầng Trăng
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 03.10.2012 04:24:24
0
….

Chúng mình yêu biển và yêu quê hương VN, thế nhưng đành làm người đi tản buồn. Tôi trở lại đường biển xưa như một người khách lạ, lòng bùi ngùi, ước mơ là sẽ lại có một ngày về, nước mắt nhạt nhoà với niềm vui, như tôi đã tâm tình với một người bạn trẻ, khi viết về tấm lòng yêu thương quê hương.

Ngụy Xưa
May 22, 2012









<bài viết được chỉnh sửa lúc 03.10.2012 04:37:47 bởi dzuylynh >

dzuylynh
  • Số bài : 1290
  • Điểm: 26
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.05.2010
  • Nơi: Vịnh Nửa Vầng Trăng
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 05.10.2012 00:35:20
0
 
 

 
GẶP NHAU, CHÀO VỘI RỒI ĐI
( cho Vân )
 
gặp nhau chào vội rồi đi
như mây ngang núi tiếc gì trời xanh
thu sang lá lại lìa cành
thương chi nụ biếc tiếc anh lỡ làng
em qua một chuyến đò ngang
quay nhìn dĩ vãng bẽ bàng sông xưa
không duyên ướm mãi cũng thừa
phải duyên phải nợ hẳn vừa tình nhau
ngang cầu nhớ chạnh mùa ngâu
sao tua chín cái tìm đâu bây giờ
chi bằng nhặt lá đề thơ
treo nhành diênvỹ mơ hoa vô thường
gặp nhau chi để đọan trường
gặp nhau chào vội ai đường nấy đi
nhớ nhau ghi một vần thi
giấc trường lưu mộng thầm thì ánh sao
sao còn mãi tận non cao
em còn níu cánh nhạn chao lưng trời
chơi vơi hụt hẫng nửa đời
mai sau gặp... nhắn một lời, rồi đi!
 
lanchy.

<bài viết được chỉnh sửa lúc 05.10.2012 01:05:54 bởi dzuylynh >

dzuylynh
  • Số bài : 1290
  • Điểm: 26
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.05.2010
  • Nơi: Vịnh Nửa Vầng Trăng
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 05.10.2012 06:02:10
0


o0o




https://www.box.com/shared/jtdzreroj4sjmq7h6i3a


M Ắ T L Á

sáng tác & trình bày Dzuylynh
album Ở giữa là mùa thu | bccb
( đến Ja. )

ngoài trời chiếc lá bay mang mùa thu về
nào em có biết!
hay là em có quên!
tým thẫm hòang hôn tým nỗi buồn...
chiều ...
có đôi chiêc lá quấn quít bên nhau
cùng buông mình trong nuối tiếc ngày xanh
đôi mắt lá?
có phải không?
chớm thu tiển người như cành tiễn lá
mình xa nhau từ một dạo vỡ mối duyên đầu
lá rơi ...lá rơi...về đâu!
hỏi lá kia biết lá về đâu?
cho lời thơ em nức nở canh thâu
tình yêu đã ra đi chỉ còn đôi mắt lá bơ vơ
lá ngẩn ngơ
thẩn thờ...
khi tình đã ra đi
chỉ còn
đôi mắt em ở lại
tròn
như vòng khói thuốc trên tay
trong anh
nghe tiếng thu điệp từ dĩ vãng
tým mùa thu,
tým nỗi sầu hoang liêu...
ngã xuống chông chênh triền nhớ
giọt sương bềnh bồng rơi ướt đôi mắt lá
mắt em...
buồn ơi... mùa thu ơi ...

.dzuylynh.Nov 11.2012.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.10.2012 16:44:07 bởi dzuylynh >

dzuylynh
  • Số bài : 1290
  • Điểm: 26
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.05.2010
  • Nơi: Vịnh Nửa Vầng Trăng
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 05.10.2012 06:04:25
0
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.10.2012 01:54:46 bởi dzuylynh >

Phù vân
  • Số bài : 360
  • Điểm: 6
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.01.2011
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 05.10.2012 07:48:25
0
ĐỌC BÁO GIÙM BẠN

mời qúy bằng hữu dạo một vòng các quốc gia có truyền thống thưởng ngọan về lọai nước giải khát thuần khiết lâu đời nhất trên hòan vũ này với Phù Vân nhé ! 
Từ lâu , nghệ thuật uống trà đã được nâng lên thành ĐẠO  : TRÀ ĐẠO.
Đạo Trà khác hẳn với đạo thơ , đạo nhạc , đạo tranh , đạo văn... ! 


TẢN MẠN VỀ TRÀ ( còn gọi là CHÈ )   Phiếm Luận Về Nghệ Thuật Uống Trà - Trà Đạo 


Trà Sen và phong cách uống trà Việt Nam 


Muốn có trà ngon người ta phải ướp từ những loại trà khô như là trà mộc (black tea), trà xanh (green tea) hay trà Ô long có màu nâu sẫm. Ướp trà là một kỳ công phối hợp tinh tế giữa phong cách tao nhã, sành điệu và "ỷ thuật vi tế”. Ướp trà thường dùng các loại hoa sen, hoa cúc, hoa ngâu, hoa lài, hoa sói. Mỗi loại hoa làm cho trà có một hương vị khác nhau. Ðôi khi người ta ướp với cam thảo hay sâm để khi uống trà cảm thấy vị ngọt ở cổ họng và tinh thần phấn chấn. Trà ướp hoa là hội tụ đỉnh cao của cái tinh tế, phong cách tao nhã, thanh lịch và sành điệu của người Tràng An. Trong đó, hoa sen là thứ hoa thông dụng nhất mà cũng quý nhất, ướp trà ngon nhất. Ðiều này được nhiều nhà trà học lý giải "bởi quan niệm về hoa sen trong đạo Phật của người Á Ðông. Hoa sen vốn dĩ là thứ hoa rất thanh cao mọc lên từ bùn lầy, điều đó tương tự như chữ Danh mà người quân tử rất coi trọng vậy". Hương hoa sen là những gì tinh tuý của trời đất tụ lại. Vì vậy, trà ướp sen là vật phẩm quý giá, xưa kia chỉ dành cho những hàng vương tôn công tử và những gia đình quyền quý. Còn theo Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1720-1791) thì "Cây sen hoa mọc từ dưới bùn đen mà không ô nhiễm mùi bùn, được khí thơm trong của trời đất nên củ sen, hoa sen, tua, lá... đều là những vị thuốc hay". Sen để ướp trà phải dùng loại sen bách hoa, phía bên trong các cánh hoa lớn có hàng trăm cánh nhỏ ôm sát vào nhau, che úp nhụy hoa, gạo sen và gương sen. Mua sen bách hoa về,(hoa sen phải hái trước lúc bình minh, phải lựa những ngày nắng ráo, tránh sau ngày mưa ) bóc từng lớp cánh sen, kế đến tẽ những hạt trắng ở đầu nhụy hoa (gạo sen), trộn chung với trà, ủ trong vò kín từ một đến hai ngày cho gạo sen quắn lại rồi mới đưa trà lên sấy khô bằng than hay bằng nước nóng cách thuỷ. Phải giữ cho nhiệt độ vừa phải và điều hoà để không mất mùi hoa. Ứơp một kí-lô trà phải dùng tới hàng trăm bông sen, và phải làm nhiều lần như thế mới dùng được. Công phu là thế nên một ấm trà sen có thể uống hàng chục tuần trà. Nước trong rồi, hương sen còn ngan ngát. Uống một tách trà vào thấy tinh thần tỉnh táo, thoải mái làm sao! Nhiều nghệ nhân về trà còn tiết lộ: "Muốn có trà ngon, chỉ hái những búp trà loại "một tôm hai lá" và phải hái nhanh, nhẹ nhàng, không để búp bị nhàu nát. Loại trà ngon là sau khi sao phải còn lại một lượng nước nhất định từ 5-7%. Trà hái xong không ướp hương ngay mà phải để trong chum đất, trên ủ lá chuối, để từ 2-3 năm nhằm làm giảm độ chát và để cánh trà phồng lên hút được nhiều hương. Một cân trà ướp hương sen cần có 800-1000 bông sen, mà phải đúng loại sen ở đầm Ðồng Trị, Thuỷ Sứ, làng Quảng Bá, Hồ Tây hoặc là sen ở hồ Tịnh Tâm-Huế (sen ở đây to và thơm hơn sen những nơi khác)." Cụ Nguyễn Tuân ca ngợi kiểu ướp hương trà bằng cách bỏ trà mạn vào bông sen mới nở, buộc lại. Thực ra, cách chơi ngông đó của Cụ Nguyễn vừa rất cầu kỳ vừa không để trà được lâu (hay bị mốc) và hay bị mất hương, chỉ có thể dùng cho lượng trà rất ít và phải uống ngay. Trà Phong Việt Nam (Phong cách uống trà Việt Nam) Người Nhật có lối uống trà rất khác biệt với các dân tộc khác, khi uống trà họ phải tuân giữ một vài nghi thức nên gọi là Trà đạo. Ðối với Trung Hoa và Việt Nam, lối uống trà chỉ được coi như là nghệ thuật mà thôi, nghệ thuật thì không cần phải khuôn sáo hay công thức. Phong cách uống trà của Việt Nam không hề bị ảnh hưởng của Tàu hay Nhật như quan niệm cuả nhiều người. Nghệ thuật uống trà phản ảnh phong cách văn hoá ứng xử của người Việt Nam.Trong gia đình truyền thống, người nhỏ pha trà mời người lớn, phụ nữ pha trà mời các ông. Người ta có thể uống trà trong yên lặng suy gẫm như để giao hoà với thiên nhiên, như để tiếp cận giữa con người với môi trường, như để nhận xét, để thảo hoạch những dự án phúc lợi cho đại chúng. Khi đã trở thành thói quen rồi thì khó mà quên được.Trà đồng nghĩa với sự tỉnh thức, sáng suốt, mưu cầu điều thiện, xa điều ác. Theo truyền tụng, hình thức uống trà được khởi nguồn từ các chùa chiền gọi là Thiền Trà. Các nhà Sư thường uống trà trước các thời công phu sớm chiều. Cuộc đời trần tục nhiều hệ lụy, trà giúp cho con người tỉnh được mộng trần, rửa được lòng tục, xoá tan cảm giác tĩnh mịch chốn thiền môn. Ngày nay chỉ còn ngôi chuà Từ-Liêm ngoài Bắc là giữ được nghi thức Thiền Trà này. Sau đó, trà được ưa chuộng trong giới quý tộc, trong cung đình như là một bằng chứng của sự quyền quý, để phân biệt với giai cấp thứ dân trong xã hội phong kiến. Kế đến, trà chinh phục các tầng lớp trung lưu, nhất là các nhà Nho, các chú học trò "dài lưng tốn vải ăn no lại nằm", mượn bộ ấm trà để bàn luận văn chương thi phú, để tiêu khiển giải trí sau những giờ điên đầu vật vã với tứ thư ngũ kinh. Do đó, dần dà uống trà là một lối tiêu khiển thanh đạm được tất cả mọi giới ưa chuộng. Pha trà mời khách cũng phải tốn nhiều công phu hàm dưỡng và trở thành một nghi thức. Trà-phong Việt Nam thật là trân trọng ở cách dâng mời nhiều ngụ ý. Dù mưa nắng, sớm chiều, buồn vui khách không thể từ chối một chung trà trong khi gia chủ trang trọng hai tay dâng mời. Mời trà là một hành vi biểu hiện phong độ thanh nhã và hiếu khách của hầu hết các gia đình Việt Nam. Kỵ nhất là tiếp khách bằng những tách trà còn đóng ngấn hoen ố nước trà cũ. Cũng không bao giờ tiếp khách bằng một ấm nước trà nguội. Tách trà tiếp khách là thể hiện những tình cảm tối thiểu nhất, không thể tuỳ tiện coi thường, dù không nhất thiết phải là loại trà thượng hảo hạng. Uống trà cũng phải uống từ ngụm nhỏ, để cảm nhận hết cái dư vị thơm ngon cuả trà, cái hơi ấm cuả chén trà tỏa vào hai bàn tay ấp ủ nâng chén trong muà đông tháng giá, làm ấm lòng viễn khách. Uống trà là một cách biểu thị sự tâm đắc, trình độ văn hoá và cảm tình cùng người đối thoại. Trong ấm trà ngon, người cùng uống tâm đầu ý hợp, dưới ánh trăng thanh gió mát, ngắm khung cảnh tĩnh mịch của núi rừng mà luận bàn thế sự thì không còn gì thú vị hơn nữa. Chỉ có những tao nhân mặc khách mới thưởng thức được trọn vẹn cái phong vị cuả cách uống trà này, chứ không phải như kẻ phàm phu tục tử bưng ly trà to tổ bố lên uống ừng ực, người ta gọi là "ngưu ẩm" hay là uống như trâu uống nước. Ngoài các lối uống trà đơn giản đến cầu kỳ trong các gia đình Việt Nam, các cụ ngày xưa còn có những hình thức hội trà. Ðó là uống trà thưởng xuân, uống trà thưởng hoa, uống trà ngũ hương. Hội trà là tụ họp những người bạn sành điệu cùng chung vui trong các dịp đặc biệt hoặc có hộp trà ngon, hay có một chậu hoa quý hiếm trổ bông, hay trong nhà có giỗ chạp. Thưởng trà đầu xuân là thói quen cuả các cụ phong lưu, khá giả. Trước tết, các cụ tự đi chọn mua các cành mai, đào, thuỷ tiên hay các chậu hoa lan, hoa cúc ở tận các nhà vườn, và chuẩn bị đầy đủ các thứ cần thiết, nhất là một hộp trà hảo hạng. Sáng mồng một, cụ pha một bình trà và ngồi chỗ thích hợp nhất, thường là giữa nhà. Cụ ngồi tĩnh tâm, ngắm nhìn những đoá hoa nở rộ, thưởng trà. Khoảng 8 giờ sáng, cả đại gia đình sum họp quanh bàn trà chúc thọ cụ và nghe những lời dặn dò của Cụ. Trẻ con thì chờ lì xì. Uống trà thưởng hoa quý như hoa Quỳnh, hoa Trà, cũng là cái thú của nhiều người. Khi nhà cụ nào có một chậu hoa trổ, cụ chuẩn bị và mời các bạn già sành điệu tới ngắm hoa, luận bàn thế sự, hay dặn dò con cháu. Hội trà ngũ hương chỉ giới hạn có năm người thôi. Trên khay trà có năm lỗ trũng sâu, dưới các lỗ trũng đó để năm loại hoa đang độ ngát hương : Sen, Ngâu, Lài, Sói, Cúc. Úp chén trà che kín các hoa lại rồi mang khay để trên nồi nước sôi cho hương hoa bắt đầu xông lên bám vào lòng chén. Pha bình trà cho thật ngon rót đều vào từng chén, mỗi người tham dự sau khi uống trà phải đoán hương trà mình đã uống và nhận xét. Sau mỗi tuần trà lại hoán vị các chén trà để mọi người đều thưởng thức được hết tinh tuý của năm loại hoa. 



 BÀI 2 : Nghệ Thuật Gốm Trà Việt Nam 

Việt Nam đã biết đến trà thời Ðông Hán, nhưng trà đạo Việt thành hình vào đời nhà Ðường, theo các nhà sư Phật giáo và Giao Châu. Sách Trà Kinh của Lục Vũ nhập đề rằng "trà là loài cây lớn ở phương nam". Chứng tích trà đạo Việt còn lưu lại trên những bình bát trà gốm Việt Dao từ thời bắc thuộc, lên đến tột đỉnh thời Phật giáo Lý, Trần. Ðạo trà Việt cổ là đạo mà không đạo, đạo vô môn quan: không cửa vào, không lối ra. Tương truyền Bồ Ðề Ðạt Ma từ Tây Trúc sang Tàu chín năm ngồi ẩn trong hang thiền định. Mắt sụp xuống buồn ngủ, ông cả giận bứt mi mắt vất xuống đất, chỗ ấy mọc thành cây trà đầu tiên. Chuyện hoang đường này cốt đồng hóa trà cho sự thức tỉnh Ðịnh Huệ. Hoa ngữ Ch"a (Trà) và Ch"an (Thiền) nghe đồng âm và đồng nghĩa. Từ đó, trà là bạn người tu thiền như hình với bóng. Tổ thứ sáu thiền Tào Khê là Huệ Năng, tự nhận là người Man di miền Ngũ Lĩnh, xứ của trà. Lục Vũ là một cuồng sĩ đất Hồng Tiệm đời Ðường, thường lang thang ngâm thơ rồi khóc rống. Ông để lại cho đời sách Trà Kinh gồm ba quyển bàn về trà, gốm trà, cách pha và uống trà, được người đời sau gọi là ông tiên trà, thờ làm sơ tổ trà đạo Trung Quốc. Trà Kinh chép: Trà là loài cây quý ở phương Nam, cây như cây qua lô, lá như lá chi tử, hoa như hoa bạch tường vi, trái như trái banh lư, nhụy như nhụy hoa đinh hương, mùi vị rất hàn (lạnh). Sách Quảng Bác Vật Chí chép: cao lư là tên riêng của một thứ trà, lá to mà nhụy nhỏ, người nam dùng để uống. Trà Kinh lại chép: "Người phương Nam có cây qua lô giống như lá trà non mà nhụy đắng, giã nát ra pha trà mà uống thì suốt đêm không ngủ. Ở Giao Châu và Quảng Châu người ta rất quý thứ này, hễ có khách đến nhà thì trước hết bày ra đãi khách". Theo lời Ðào Hoàng Cảnh, một ẩn sĩ tài hoa đời Nam Bắc Triều thì bọn xử sĩ trong thiên hạ rất chuộng thứ trà này. Theo sách Nghiêm Bác Tạp Chí trích lời Lý Trọng Tân học sĩ nói: "Trà ở Giao Chỉ như rêu xanh, vị cay gắt gọi là trà đăng" (tức là mạt trà). Những núi ở huyện Ngọc Sơn, tỉnh Thanh Hóa có trồng thứ trà này. Cây trà mọc liên tiếp che khắp rừng. Người bổn thổ hái lá, giã cho nát, phơi khô trong bóng mát, nấu mà uống, tính nó hơi hàn, có thể làm mát tim phổi và ngủ ngon. Cửu Chân, tên gọi Thanh Hóa đất Việt cổ có: núi đặt tên chữ là Trà Sơn, người ta gọi nôm là núi Chè. Sách An Nam Chí lược chép: nhà Trần mỗi lần đi sứ nhà Nguyên đều cống trà thơm làm thổ sản quý. Cái đẹp của Bát Trà Ðời xưa, khi nhà Tống bên Tàu dựng nghiệp, chọn núi Thiên Mục ở Triết Giang làm chủ sơn, phúc địa mong cầu vững bền triều đại. Nhà Lý bên ta chọn núi Tiên Du; cũng như nhà Trần ngóng về núi Yên Tử, nơi vua dựng nhà Trần lui về ẩn tu sau việc nước. Từ thuở triều Hán, Ðường, Tùy sứ ta đã chế được thứ gốm tên gọi Việt Dao. Gọi tên như thế để chỉ thứ "men tro" trổ màu xanh biếc như ngọc cổ. Sách Tàu chép Việt Dao phát sinh từ Nam Việt miền Ngũ Lĩnh, chứ không nói rõ đất Giao Châu, Cửu Chân. Di chứng khảo cổ học, trên đất ta nay tỏ rõ thời ấy ta đã làm được gốm Việt Dao, mà lại làm một số lượng rất lớn, khởi từ những giọt men xanh nhiễu đọng trên thân gốm, mà nay xếp vào loại gốm "Hán bản địa". Từ màu xanh bích ngọc đời Bắc thuộc đến màu xác trà đời Lý, Trần, những bát trà Việt ra đời song song bát trà Ðường, Tống bên Tàu. Người Việt vẫn trung thành sở thích sắc màu Việt Dao của dân tộc đến mãi thế kỷ 15. Hóa ra Việt Dao là chữ gọi dân tộc ngày nay ta vẫn mang tên, là người chế ra men gốm tiền thân gốm men ngọc (proto-celadon) lừng lẫy Ðông phương. Ðời Lý, Trần đã làm ra rất nhiều các thứ liễn, bình đựng nước pha trà đi đôi với các loại bát trà mang thần thái đặc thù Ðại Việt. Bình trang hoàng tòa sen chạm nổi, âu bát vóc dáng chẳng khác nào bình bát các tăng sư. Làng nào cũng có đình chùa. Bát trà cũng là vật không thể thiếu được trong các đồ tế nhuyễn bày trên điện thờ, cũng như cúng vào chùa chiền để các sư uống trà. Nghệ phẩm từ các làng gốm như chở chuyên hồn đạo, tiếng chuông mõ sớm hôm, mùi trầm nhang quyện trong không gian lũy tre làng trên đất nước. Thiền gốm Lý, Trần đã mang cung cách rất Việt Nam. Văn bia đời Lý do sư Pháp Ký soạn cho thầy là sư Tịnh Thiền ghi rằng "Chỗ uống trà là chỗ thập phương thí chủ dồn về". Chỗ uống trà tức là cửa Phật. Nay ngắm những trà khí cổ, ta mới biết phép uống trà Việt lồng trong thiền vị từ thuở đầu dựng nước, đưa hình sắc của tâm linh đến cả đại chúng. Bát trà Việt trong trà đạo Nhật Tại nền chùa cổ Dazaifu Kanzeon-ji người ta đào được những mẫu gốm vỡ của bát trà Ðại Việt đời Trần, kề bên mảnh ván mục còn đọc được vết mực ghi niên đại tương đương năm 1330. Trước đó, đã có những trà khí Ðại Việt xưa hơn vào chốn tăng đường Nhật. Ðầu thế kỷ 13, thượng sư Eisa từ Trung Hoa mang về Nhật Bản lần đầu giống cây trà. Sau đó, đệ tử Ngài là sư Dogen sang du học tại chùa Thiên Mục Sơn, khi về nước có người hỏi sư học được gì, sư đáp: "Không có chi nhiều ngoài pháp an tâm". Pháp an tâm sư mang về cùng trà đạo và bát trà Thiên Mục (tiếng Nhật gọi là Temmoku). Dogen được coi là sư tổ của trà đạo Nhật Bản vậy. Cũng như Ðại Việt, bấy giờ Phật giáo Nhật bén rễ vào giới thế quyền. Tăng sư là khách quý của các sứ quân và bọn phú hào. Họ học Phật rồi tiêm nhiễm luôn đạo thưởng trà. Uống trà nhằm luyện con người khu trừ những chướng ngại phiền não, để đạt chỗ rốt ráo của an bần lạc đạo, hòa đồng với Tự Nhiên, tức là Chân Như. Uống trà, hành trà đạo phải có các trà khí mà ngành gốm Nhật bấy giờ rất phôi thai. Nên trà gốm từ Cao Ly, Trung Quốc, Ðại Việt đưa sang giá đắt, chỉ giới hạn trong hàng sứ quân và đại phú. Thay vì hấp thu nếp thanh bần, họ bèn mượn trà đạo làm trò trà dư tiêu khiển, đặt ra các quy tắc kiểu cách (Cha No Yu), muốn vào phải qua cổng Hữu Môn Quan. Trà đã đưa thiền vị đạm bạc vào trú ngụ chỗ đền các xa hoa. Trong khuôn viên cung đình nguy nga, các chúa công sai dựng nên trà thất bắt chước lều cỏ bần hàn của ẩn sĩ để hành trà đạo. Còn bên nước Việt, đạo đã từ cung cấm ra đi, bỏ phú quý phù vân để phiêu bồng nơi cảnh thật của "rừng trúc lắm chim" (Trúc lâm đa túc điểu) như thơ ngài Huyền Quang. Các vua Lý, Trần bỏ kinh về núi, thực hiện hạnh tầm đạo dẫm theo bước của thái tử Tất Ðạt Ða. Từ bát trà Thiên Mục, về sau trà gốm Trung Quốc xa lìa hồn đạo, ngày càng tinh kỳ sắc sảo để thỏa mãn thị hiếu vua quan, kẻ nhà giàu thích trưng bày đồ mỹ ngoạn, thành kỹ nghệ xuất đi các nước. Lấy cảm hứng từ mầu xanh xác trà Việt Dao (proto-celadon), gốm Trung Quốc tiến hóa thành mầu men ngọc xa hoa (celadon), của lò Diệu Châu Bắc Tống, lò Long Tuyền Nam Tống. Trong khi nước Việt vẫn chuộng giữ mầu xác trà "thuận tự nhiên" cốt cách đạm bạc của tổ tiên. Khi các trà sư Nhật ra tay đón nhận bát trà Việt ấy, con mắt trong tâm hồn họ như thoát nhiên thể ngộ được ấn chỉ tâm truyền ấy. Quan hệ Trung Quốc, Nhật Bản sinh thù nghịch từ thế kỷ 14, hồi quân Nguyên Mông sang đánh Nhật, bị ngọn Thần Phong diệt. Khi nhà Minh lên ngôi, từ năm 1371 ra lệnh cấm dân duyên hải xuất ngoại. Ðến năm 1567, mới bỏ luật này, nhưng vẫn cấm vượt biển sang Nhật Bản vì nạn "Nuỵ khấu" (cướp lùn), quẫy nhiễu bờ biển Trung Quốc. Suốt mấy thế kỷ đó, Nhật đã tìm thấy nơi Ðại Việt của nhà Lê nguồn cung cấp tơ sống và gốm sứ. Lúc này Ðại Việt đã làm sứ vẽ lam. Gốm sứ trà Việt nhập vào Nhật Bản nhiều hơn trước, đóng vai trò quan trọng trong nghệ thuật trà đạo Nhật Bản đang hồi cực thịnh. Không gò gẫm tỷ mỷ như bàn tày nghệ nhân đời Minh, mấy nét đơn sơ trên gốm Việt phóng bút cảnh chim trời, cá nước, sơn thủy, tùng thạch v.v... xuất cái thần vị Thiền Lão, chẳng khác nào tranh tốc họa Sumi-e, và thuật thư pháp, rất hợp với tâm hồn trà nhân Nhật, làm họ say mê. Vẽ gốm như vẽ tranh Thiền. Di sản tranh cổ họa Việt Nam ngày nay chừng như có thể thấy trên gốm cổ. Nhật Bản là một dân tộc hoài cổ và có khiếu thẩm mỹ từ những vật nho nhỏ. Ngày nay trong các viện bảo tàng khắp nước này trân quý giữ những món trà khí Việt từ đời Lý - Trần - Lê - Mạc đã liên tục đến Nhật Bản qua bao thế kỷ. Trong hậu sảnh những thiền viện xưa, còn cất giữ những đồ tế nhuyễn và trà khí làm bởi những nghệ nhân vốn là người mộ Phật ở xứ Việt xa. Và trong lâu đài cổ, truyền thừa các sứ quân và giới phú hào ngày nay còn gia truyền các bộ gốm sứ Việt Nam làm báu vật. Bộ sưu tập gốm Việt trứ danh nhất của dòng họ thương nhân Ozawa Shrouemon từ Hội An trở về Nhật Bản năm 1638, khi chúa Tokugawa cấm dân Nhật xuất dương. Chiếc bát vẽ mầu "Beni-Annam" ngày ngày chúa Tokugawa ưa dùng thưởng trà nay là báu vật trong lâu đài của chúa ở Nagoya. Dòng trà gốm đầu tiên Raku đã mang dáng bát trà Lý, Trần. Về sau truyền thừa dòng gốm này và các trường phái khác thường mô phỏng theo mỹ thuật gốm nước ta. Họ gọi là Annam Yaki để chỉ cho dòng gốm hoa lam của lò Chu Ðậu, Bát Tràng ở Ðàng Ngoài thời Lê, Mạc; và Kochi Yaki, tức gốm Cochin China xứ Quảng Nam Ðàng Trong của chúa Nguyễn về sau. Sử Nhật chép vị sơ tổ dòng gốm Raku tên là Zengoro, còn một hiệp sĩ theo phò lãnh chúa Ashikaga, ông làm gốm tế nhuyễn cho thiền viện Kasuga, và trà khí cho tăng sư hành trà đạo. Con cháu về sau lấy đó làm nghiệp nhà. Truyền thừa đời thứ 10, Zengoro Ryozen vẫn làm gốm lối gia truyền, và khởi đầu bát trà lừng danh Raku. Ông còn biệt tài mô phỏng trà gốm của An Nam (Annam Yaki) và Cochin China (Kochi Yaki). Ðến đời con nối dõi, Zengoro Hogen là một nghệ sĩ tài hoa nhất trong dòng họ. Ông nổi tiếng chuyên làm gốm ba mầu (tam thái) kiểu Kochi Yaki, gồm mầu lục, tím đỏ và vàng, mỗi mầu ngăn cách nhau bằng những nét chạm nổi. Hogen được lãnh chúa Tokugawa đất Kishu thu dụng và sủng ái, ban cho chiếc ấm bạc chạm tên Eiraku (Vĩnh Lạc) lưu danh trên tác phẩm, coi tài nghệ ông ngang hàng các tuyệt phẩm đời vua Minh bên Tàu cùng tên, đầu thế kỷ 15. Chúa còn ban cho ông một ấn vàng, chỉ được dùng đóng tên lên các món trà khí được chúa chuẩn nhận. Năm 1659, một nghệ sĩ gốm người Tàu mà người Nhật gọi tên là Chin Gempin mở lò chuyên sáng tác những trà gốm bằng loại gốm tiêu biểu dòng Seto: mầu trắng rạn mịn tựa ngà cổ, mô phỏng kiểu gốm Bát Tràng của An Nam xuất sang Nhật Bản hồi trước. Ông trang trí trên gốm cảnh sơn thủy, hoặc đề thư pháp thơ cổ bằng mầu lam xanh. Dòng gốm Kutani, chuyên làm gốm mầu sặc sỡ, trong đó có loại bắt chước làm gốm sứ cổ Tàu, Việt. Năm 1810, thương nhân giàu có tên Yoshidaya Denyemon tái dựng lại những lò gốm đã đóng cửa ở Kutani, để phục chế kiểu gốm Kochi Ðàng Trong Việt Nam đời trước. Mokubei (1767-1833), là bậc văn nhân theo mẫu truyền thống đông phương. Ông làu thông kinh sách có khiếu làm thơ, vẽ tranh, tạo gốm, môn nào cũng tài hoa. Ông bắt chước làm các món sứ cổ, khéo léo chẳng phân biệt mới cũ đâu vào đâu. Ông đặc biệt mô phỏng các tiêu bản trà gốm Cochin China không sai sẩy, tác phẩm này nay trưng bày trong Viện Bảo tàng Nghệ thuật Tokyo. Thế kỷ 20, những nghệ sĩ học giả Tây phương nào đến Nhật Bản bị cuốn hút trong đạo vị nền văn hóa nghệ thuật Nhật, dĩ nhiên đều mê say các cổ trà gốm Việt tại Nhật Bản. Các tên tuổi: William Willets, Stephen Addis, Hugo Munsterberg, Hazel H.Gorham, John Stevens... dày công nghiên cứu và giới thiệu cái đẹp trong văn hóa Nhật đến Tây phương. Qua họ, thế giới lần đầu tiên biết đến bát trà Việt trong trà đạo Nhật. Lừng lẫy nhất là nhà nghệ sĩ gốm kiêm đạo gia người Anh Bernard Leach, từng trải suốt đời học hỏi và sáng tạo tại Nhật Bản, được lão sư dòng gốm Kenzan thu nhận và ban ấn truyền thừa. Trong sự nghiệp tầm thầy học đạo, ông học qua thuật làm gốm nung Kochi Yaki, tức gốm Ðàng Trong Việt cổ tại Nhật Bản. Ông trân quý vô ngần một bát trà gốm trắng sứt mẻ đời Lý trong bộ sưu tập riêng mình. Về già, ông là bạn tâm đắc của Shoji Hamada, một đạo sư gốm Nhật Bản. Cả hai thuộc vào hàng bốn tên tuổi thượng thừa của ngành gốm hiện đại. Cả hai đều ưa thích sưu tầm bát trà cổ Việt, dùng đó làm tiêu bản học bí quyết làm gốm của cổ nhân. Hai nước đều thấu nhập tinh hoa văn hóa Trung Quốc, nhưng nghệ thuật gốm trà Việt - chứ không phải Tàu - đã gây ảnh hưởng lớn trong lịch sử trà đạo Nhật, cho thấy tâm hồn và lòng rung cảm cái đạo Ðẹp của hai dân tộc đời cũ rất gần nhau. Nghệ thuật dân gian Nhật (mingei) mang những hình thái không khác mấy với nghệ thuật làng quê truyền thống Việt Nam. (Theo Tạp chí Xưa và Nay) 



Nghệ Thuật Trà Đạo Tại Nhật Bản


 

Trà đạo là hoạt động uống trà đặc thù mang tính nghệ thuật, mang phong cách tình cảm riêng của người Nhật Bản, mà đặc điểm chính là pha trà và thưởng thức trà. Nghệ thuật này đã có hơn 500 năm lịch sử ở Nhật. Người sáng lập trà đạo là một hòa thượng tên gọi Muratashu Mitsu. Ông đã tìm thấy hương vị tuyệt vời trong khi uống trà. Sau này, các đệ tử của ông đã phát huy ảnh hưởng và hình thành nên một môn nghệ thuật lưu truyền đến ngày nay. Thời gian tổ chức trà đạo chia ra làm 4 loại: trà sáng (7h sáng), sau ăn cơm (8h sáng), giữa trưa (12h trưa) và câu chuyện buổi tối (6h tối). Khách mời đúng giờ đến phòng nghỉ, gõ vào chiếc chuông gỗ báo hiệu đã đến. Chủ nhà nghe tiếng chuông sẽ từ phòng trà ra đón khách. Trước cửa phòng trà có đặt một chiếc cối đá đựng đầy nước, khách phải rửa sạch tay trước khi vào phòng. Cửa ra vào có một ô cửa cao gần 3 thước để khách tháo giày đi vào. Khi bước vào phòng phải khom mình tỏ ý khiêm tốn. Nếu khách là võ sĩ thì phải tháo kiếm trước mới được bước
vào để biểu thị không khí hòa bình. Trong số khách, người tinh thông trà đạo được cử làm người chủ trì. Người chủ trì phải cạo trước đầu để biểu thị sạch sẽ, thanh khiết. 

 

Trong phòng trà, một góc chiếu có đặt bếp lò và nồi nước bằng gốm, trước bếp đặt bộ đồ trà. Bộ đồ trà phải thô, nặng có men màu cam hoặc đen đậm dáng vẻ cổ kính. Trong khi chủ nhân đun nước thì khách dùng điểm tâm. Món điểm tâm này hết sức tinh tế phải được làm căn cứ vào thời tiết. Ví dụ: tổ chức trà đạo vào mùa thu thì món điểm tâm phải làm giống như lá phong hoặc hoa cúc. Trà để pha là loại bột trà xanh được chế biến cẩn thận bằng cách giã nát trong cối đá - người Nhật gọi là nghiền trà. 

 

Có hai cách pha trà: pha đặc và pha loãng. Trà đặc thông thường: ba người thay nhau uống một bát, mỗi người ba hớp rưỡi hết 1/3 bát. Trà loãng mỗi người uống riêng một bát. Trà đặc có màu xanh đậm, hương thơm hơi chát. Chủ nhân múc hai muôi gỗ trà cho vào bát, đổ nước sôi, dùng que trúc khuấy đều để trà có nước đặc như bột đậu.


 

Bát đầu tiên mời người chủ trì, người chủ trì nâng bát trà ngang trán rồi mới uống. Khi uống phải chép miệng để tỏ ý thực sự được thưởng thức trà ngon của chủ nhân. Khi tất cả khách uống xong thì nghi thức trà đạo cũng kết thúc. Nhưng đôi khi còn một nghi lễ cao hơn là ăn cơm thường sau khi uống trà. Tuy gọi là cơm thường nhưng cũng thịnh soạn. Trà đạo đã hình thành nhiều trường phái khác nhau, chủ yếu có ba trường phái lớn là: Risenka, Hyosenka và Bushakoro Senka. Mỗi nhà đều theo chế độ gia truyền - tức là con thường kế nghiệp bố làm người chủ trì trà đạo của gia đình đó.

 

Trà đạo ngày nay càng phổ biến hơn ở Nhật Bản, rất nhiều cô gái trẻ dồn tâm sức học tập trà đạo, tu nhân dưỡng tính để cuộc sống gia đình cũng như cuộc sống tinh thần phong phú và đẹp đẽ hơn theo NHK . 



  Nghệ thuật uống trà của Trung Hoa


LỊCH SỬ HÌNH THÀNH NGHỆ THUẬT UỐNG TRÀ CUẢ TRUNG HOA


Sự phát triển của trà tại TQ chia làm 3 giai đoạn 

• Giai đoạn 1: từ thời nhà Ngô đến thời nhà Đường: Chính thức theo lịch sử thì trà chỉ mới được đề cập đến từ thời Tam Quốc, và đến tận đời Đường, người Tàu vẫn chỉ dùng các loại trà mọc hoang chứ chưa trồng và chế biến thức uống này. Trà cũng chỉ lưu hành trong giới thượng lưu miền Nam Trung Hoa chứ dân dã cũng chưa uống và tục uống trà chưa được coi như một thú thanh cao. Quả thực thời kỳ đó hai miền nam bắc Trung Hoa đời sống cách biệt như hai thế giới. Về cách uống cũng khác biệt,giữa hai bờ đai giang và nhất là dân du mục ngoài Trường Thành thì uống trà pha sữa trâu bò, dê, ngựa. Đến đời Tùy nước Tàu thống nhất thì những sinh hoạt mới lan truyền ra những vùng khác. Tuy việc uống trà đã phổ thông nhưng vẫn có một số đặc điểm khác ngày nay: 
- Thứ nhất trà vẫn còn coi như một vị thuốc, chưa có mấy nơi coi như một thức uống. 
- Thứ hai trà do dân chúng vào vùng hoang sơn dã lãnh hái về chứ chưa biết trồng thành đồi, thành vườn để sản xuất một cách qui mô. 
- Thứ ba trà uống theo kiểu giản dị là hái lá vào đem nấu chứ chưa kiểu cách như sau này. Tới đời Đường, khi Lục Vũ viết cuốn Trà Kinh thì trà mới trở nên phổ biến. Từ đó trở đi, nơi nơi đều uống trà, trở thành một phong trào và sản xuất trà cũng thành một lãnh vực kinh tế qui mô, đem lại một ngân khoản lớn cho triều đình. Lục Vũ sinh ra và trưởng thành trong một thời kỳ thịnh trị văn hóa nhất trong lịch sự Trung Quốc , tại vùng Cánh Lăng, thuộc huyện Thiên Môn, tỉnh Hà Bắc ngày nay. Ông mồ côi từ nhỏ, được Trí Tích Thiền sư nuôi dưỡng trong Thiền Lâm từ bé. Dù ông không xuất gia, nhưng ông vẫn sống một đời đạo vị. Ông thích du lịch khắp nơi, luôn ẩn cư ở những vùng xa vắng. Sau này ôngrất nổi tiếng được vua và các đại thần ngưỡng mộ, các đại văn gia thi hào cũng rất kính trọng ông. Tên Lục Hồng Tiệm, tên tự này lấy từ Kinh Dịch “Hồng Tiệm Ư Lục, Kỳ Vủ Khả Dụng Vi Nhi” 
Lục Vũ là tác giả của quyển trà thư nổi tiếng “Trà Kinh”, mà người đời sau xưng tụng ông là “Trà thần”. Vì ông không những là người phê bình lớn, một học giả lớn về trà mà còn là một trà thủ khó ai sánh bằng. Đề thấy rõ tài năng pha trà của ông, có một câu chuyện kể thế này. 
Khi Lục Vũ bỏ chùa ra đi lần thứ hai, vị trụ trì chùa Long Cái và cũng là cha nuôi của ông đã không uống trà nữa. Đó là do ông có ai pha trà giỏi như Lục Vũ , và vị trụ trì cũng là một nhân vật nổi tiếng trong giới trà sĩ. Nhà vua muốn thử tài của hai người, xem có đúng như lời đồn hay không? Thế là nhân một dịp Lục Vũ được mời đến gặp vua, ông không cho ai biết vì muốn thử tài hai người và để hai cha con có cơ hội gặp nhau, nhà vua cho mời nhà sư trụ trì đến. Khi mời trà, lẽ dĩ nhiên nhà sư buộc phải dùng. Khi đó vua hỏi “Trà này có pha ngon bằng trà của Lục Hồng Tiệm không?”. Nhà sư nhắm một ngụm rồi đặt tách xuống không nói gì. Đến tách thứ hai, do chính Lục Vũ pha cho khách mà không biết đó là cha mình. Nhà vua thì đợi “lột áo” nhà sư. Nhưng vừa uống xong một ngụm, nhà sư bỗng sáng mắt vui mừng, lên tiếng “Muôn tâu hoàng thượng, tuyệt, tuyệt hảo, Lục vũ chẳng thể nào tài hơn thế được…” Nhà vua cả cười đứng dậy, cho mời Lục Vu ra cho hai cha con gặp mặt. Trà Trung Hoa có nhiều loại và thay đổi theo thời gian. Vào đời nhà Đường, người Trung Hoa phơi nắng lá và nghiền nhuyễn lá trà để làm nổi bật hương vị của trà. Sau đó, trà được đãi lược, hấp và ép vào khuôn đúc và đặt trong những gian phòng có nhiệt độ cao để sấy khô. Theo Bressett (1998) trà ép khuôn được dùng làm tiền tệ cho một số vùng tại Á Châu như tại Tây Bá Lợi Á, Mông Cổ, Tây Tạng và một số vùng biên giới phía Tây của Trung Hoa. Người Nga sống trong vùng Tây Bá Lợi Á ưa chuộng trà ép khuôn hơn các đồng tiền kim loại vì lợi ích thực dụng của chúng trong việc chữa các bệnh về cảm cúm. Trà ép khuôn có nhiều kích thước và được đóng dấu cho biết giá trị của chúng. Cách dùng trà loại này khác hẳn với cách uống trà ngày nay. Khi pha trà, một phần của bánh trà được bẻ ra, nấu với chút muối tương tự như cách nấu súp. Ðây là cách pha trà của thời kỳ còn sơ khai. Trà khi nấu lên còn được bỏ thêm nhiều gia liệu, hương liệu như: cốm, gạo, vừng, vỏ cam, sữa, chà là và đôi khi cả hành. Trong tác phẩm “Trà Kinh” (Kinh thư của Trà Ðạo), Lục Vũ “một nhà thơ, đệ nhất sứ đồ của Trà Ðạo” sống ở khoảng giữa thế kỷ thứ 8 đã miêu tả cách pha trà bánh (Ðoàn trà) như sau: nước để pha trà tốt nhất là nước sơn tuyền, rồi đến nước sông và các nguồn khác. Người ta đem trà bánh hong trước bếp lửa cho đến khi thật mềm rồi đặt giữa 2 tờ giấy tốt nghiền vụn ra. Khi nước sôi ở độ thứ nhất tức là có những bọt nước nho nhỏ như mắt cá bơi trên mặt nước thì bỏ muối vào. Ðến khi nước sôi độ thứ nhì tức là khi bọt nước trông giống như những hạt châu bằng pha lê lăn đi trong suốt thì bỏ trà vào. Ðến độ sôi thứ ba tức là sóng nước sủi lên sùng sục trong ấm thì đổ một thìa nước lã vào ấm để “trấn” trà và làm cho “nước hồi phục lại nguyên khí” rồi mới rót trà ra thưởng thức. Đời Đường, khu vực sản xuất trà bao gồm Giang Hoài, Lưỡng Chiết, Lãnh Nam, Phúc Kiến, Kinh Tương và từ đó tới nay vẫn là những địa khu chủ yếu. Theo Chu Trọng Thánh, việc phong thịnh đời Đường bao gồm ba nguyên nhân chính: 
- Thứ nhất, thời Đường giao thông đã phát đạt, các phương tiện chuyên chở đã cải tiến nhiều. 
- Thứ hai, sau khi cuốn Trà Kinh của Lục Vũ viết ra, phong trào uống trà càng lên cao. 
- Thứ ba, thời kỳ đó Phật giáo và Lão giáo hưng thịnh và việc uống trà tại các chùa chiền, miếu mạo rất phổ biến. 

Giai đoạn 2: sau Đường đến thời Tống: Trong lịch sử Trung Hoa, hoàng đế Huy Tôn (1082-1135) của nhà Bắc Tống được xem như vị có công lớn trong việc cổ vũ và phát huy một số ngành nghệ thuật như hội họa, thơ văn và uống trà. Bản thân ông là một họa sĩ chuyên vẽ về đề tài hoa điểu, và là một thư pháp gia (calligrapher) nổi tiếng. Ông cũng viết một số bài ca ngợi thú uống trà bột. Ông say mê các ngành nghệ thuật này đến độ không ý thức được việc đế quốc Kim, từ phương Bắc, sắp sửa thôn tính trọn vẹn đất nước của ông. Mạt trà trở nên thịnh hành, thay thế Ðoàn trà. Người ta bỏ lá trà vào cối đá xay thành bột rồi đem khuấy trong nước sôi bằng một thứ dụng cụ bằng tre tốt có một đầu chẻ ra thành nhiều mảnh. Muối và các hương liệu, gia liệu bị bỏ dần. Cách uống trà này được truyền sang Nhật Bản và phát triển thành một phái Trà Ðạo riêng biệt ở xứ “Mặt trời mọc”. 

Giai đoạn 3: sau thời Tống đến thời Minh – Thanh: Khi quân Mông Cổ chiếm trọn Trung Hoa và lập ra nhà Nguyên năm 1280, vị trí của trà bị lu mờ, một phần vì thời cuộc và một phần vì những người cai trị mới có sở thích dùng các thức uống của dân du mục Mông Cổ, như rượu sữa kumiss. Đến thời nhà Minh (1368-1644), trà không những được phục hồi vị trí vẻ vang của các thời Đường, Tống, mà còn thăng hoa như một nghệ thuật cao quý. Trong hoàng cung nhà Thanh, trà không những dùng để uống, mà còn được pha tiếp khách nước ngoài. Châu Nguyên Chương (1328-1398), người sáng lập ra nhà Minh, quyết định bỏ hẳn lối sản xuất trà ép khuôn và trà bột vì quy trình sản xuất các loại trà này đòi hỏi rất nhiều thời gian và công sức. Quyết định này là động cơ thôi thúc các nghệ nhân lò Cảnh Đức Trấn, tỉnh Giang Tây và lò Yixing, tỉnh Giang Tô vẽ ra nhiều kiểu ấm và chén tinh xảo cho cách thức uống trà mới. Trà bột nhường chỗ cho trà có dạng lá tự nhiên và có cách chế biến như ngày nay. Trà là nét văn hóa đặc thù trong nền văn hóa Trung Hoa, có sức lan tỏa mạnh mẽ. Ngày nay, những quán trà đậm chất Trung Hoa có mặt ở khắp nơi trên đường phố, các khu thương mại,… Đến với nghệ thuật “ẩm trà”, chúng ta sẽ khám phá được những vùng đất nổi tiếng, phong tục, lễ hội, văn hóa và đời sống cư dân bản địa. Và đặc biệt, ta sẽ không quên những giây phút thư giãn bên tách trà xanh thơm mát, đậm đà. 

Theo Diễn Đàn Văn Hóa



Nghệ thuật uống trà Huế 

 

Một chén trà nâng mời bạn bè, một chén trà trò chuyện tâm giao, thú uống trà đã trở thành nếp sinh hoạt quen thuộc của người dân Việt Nam cũng như của nhiều dân tộc trên thế giới. Tuy nhiên, tuỳ theo nếp sống, văn hoá của từng dân tộc mà người ta thưởng thức trà với nhiều phong cách và phương thức khác nhau. Trong chén trà mở đầu câu chuyện chung ấy, với riêng Huế, uống trà là một nghệ thuật với bao sự sắp đặt công phu và cả những nghi thức của một vùng văn hoá .
Theo sách “ Trà kinh” của Thạc Sĩ Vũ Thế Ngọc , Việt Nam là một trong những nơi phát hiện cây chè đầu tiên trên thế giới . Từ cây chè xanh , qua nhiều công đoạn hái , tẩm , sao khô và chế biến mà người ta thu được một loại đặc sản khô gọi tên là trà . Có nhiều câu chuyện xung quanh cây chè xanh này ,  từ chuyện chiến tranh giành giật cây chè cho đến những chuyện nói về sự công phu của con người để chế biến ra những loại trà đặc biệt và cả những nghi thức uống trà đã được nâng lên thành ĐẠO như Nhật Bản . Và với Huế , uống trà cũng đã được nâng lên thành một nghệ thuật . 
Trước hết, uống trà theo kiểu cung đình Huế thì phải có một bộ đồ trà đúng kiểu . Không phải chỉ có một bộ đồ trà dùng cho suốt cả 4 mùa mà kiểu cách uống trà của Huế còn thể hiện ở chỗ có bốn loại chén trà dành cho bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Người Huế uống trà theo mùa còn gọi là thời trà. Trong bộ đồ trà ấy, những chén Tống, chén quân, dầm, bàn ... đều có những qui định riêng,chức năng riêng. Người Huế uống trà như là một hình thức lễ nghi, dẫu uống một người ( còn gọi độc ẩm ), hai người ( còn gọi đối ẩm ), ba người, bốn người hay nhiều người ( còn gọi quần ẩm) thì mọi thao tác vẫn được giữ nguyên, kể cả những cung cách pha trà, rót trà, nâng ly trà. 
Về nguyên liệu chỉ có hai loại đó là trà và nước. Nhưng chỉ riêng hai nguyên liệu này cũng đã có hàng ngàn trang viết. Sự cầu kỳ, công phu ở đây không bút mực nào tả xiết,  từ việc hái chè xanh ở hướng nào, giờ nào, cách ngắt ngọn ra sao, người thiếu nữ hái chè để móng tay dài bao nhiêu, cho đến việc ngâm tẩm, phơi, sao khô là cả những qui trình nghiêm ngặt. Cho nên mới có những câu chuyện về Trảm mã trà ( Trà ngựa ), Hầu trà ( Trà khỉ), Trùng điệp trà ( trà sâu), Tiên knhai trà ( Trà tiên) ... Nước để pha trà cũng có những câu chuyện dài, nước mưa hứng từ đâu , nước giếng thì giếng phải sâu như thế nào, nước suối thì lấy ở đoạn nào: đầu nguồn, giữa nguồn hay cuối nguồn .... Sự công phu ấy cho thấy trà không đơn thuần là một thức uống mà người ta đã lồng vào đó bao công sức và tâm huyết để nâng lên thành một nghệ thuật . 

Ở Huế còn lưu truyền câu chuyện hứng sương trên lá sen để lấy nước pha trà , còn trà thì được bọc trong hoa sen để có hương thơm tự nhiên. Đun nước để pha trà cũng là một nghệ thuật . Để có một bình trà ngon, nước đun sôi chỉ ở dạng sủi tăm, nước sôi già quá sẽ làm trà nhanh chín, hương thơm không còn. Tinh tế đến như thế thì người uống trà cũng phải có một tâm hồn nhẹ nhàng , luôn hướng đến những vẻ đẹp của đất trời, của con người thì mới thẩm thấu hết hương vị của chén trà. Cũng như nhiều quốc gia uống trà khác trên thế giới, thú uống trà của người Huế có xuất phát từ cung đình. Từ cung đình ra dân gian, tính chất nghi lễ và sang trọng giảm dần nhưng cái hồn của thú thưởng thức trà vẫn được giữ nguyên, bạn bè uống cùng nhau chén trà để tăng thêm tình thân thiết. Dẫu không uống tại lầu son, gác tía như các bậc vua chúa, quan quyền nhưng trong không gian đơn sơ, dân dã, chén trà vẫn được chủ nhân nâng hai tay mời bạn, khách và chủ đều tôn trọng nhau, chén trà vì thế vẫn nặng tình, nặng nghĩa. 

Trong thú uống trà của người Huế, có một điều đặc biệt là luôn đi kèm với một loại bánh đặc sản của Huế đó là các loại bánh in làm bằng hạt sen, đậu xanh, hoặc bằng bột nếp được gói bằng giấy màu ngũ sắc của Huế. Những ngày Tết, người Huế còn có thêm món mứt gừng. Đón chén trà nóng từ tay bạn hiền trao, nếm lát mứt gừng Kim Long nổi tiếng có vị ngọt ,hơi cay nồng ấm thế là như thấy cả một mùa mùa xuân đang về trong đất trời và trong cả lòng người. 

Thú vui uống trà bây giờ đã trở nên phổ biến trong đời sống của nhiều người dân Huế từ già đến trẻ. Người ta tìm thấy một sự tĩnh tâm, lắng đọng khi uống trà. Trong không gian xanh mướt của những ngôi nhà vườn xứ Huế, con người được giải toả khỏi những áp lực công việc, tìm thấy chính mình trong sự tĩnh lặng và sâu sắc mà hương vị chén trà đem lại. Đó chính là ý nghĩa cuối cùng của thú uống trà mà nhiều người đã chiêm nghiệm và thu nhận lại cho chính mình, làm giàu có đời sống tinh thần của bản thân và cũng là của vùng đất Huế. 

Việt Báo(Theo website Đài Phát Thanh Truyền Hình Thừa Thiên Huế) 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.10.2012 22:15:08 bởi Phù Vân >

dzuylynh
  • Số bài : 1290
  • Điểm: 26
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.05.2010
  • Nơi: Vịnh Nửa Vầng Trăng
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 05.10.2012 11:13:00
0


                                         

 
GẶP NHAU, CHÀO VỘI RỒI ĐI

gặp nhau chào vội rồi đi
như mây ngang núi tiếc gì trời xanh
thu sang lá lại lìa cành
thương chi nụ biếc tiếc anh lỡ làng
em qua một chuyến đò ngang
quay nhìn dĩ vãng bẽ bàng sông xưa
không duyên ướm mãi cũng thừa
phải duyên phải nợ hẳn vừa tình nhau
ngang cầu nhớ chạnh mùa ngâu
sao tua chín cái tìm đâu bây giờ
chi bằng nhặt lá đề thơ
treo nhành diênvỹ mơ hoa vô thường
gặp nhau chi để đọan trường
gặp nhau chào vội ai đường nấy đi
nhớ nhau ghi một vần thi
giấc trường lưu mộng thầm thì ánh sao
sao còn mãi tận non cao
em còn níu cánh nhạn chao lưng trời
chơi vơi hụt hẫng nửa đời
mai sau gặp... nhắn một lời, rồi đi!

lanchy.Sep.4.2012
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.10.2012 01:43:12 bởi dzuylynh >

Tóc nâu
  • Số bài : 4317
  • Điểm: 24
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 01.03.2007
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 06.10.2012 03:41:11
0

Trích đoạn: dzuylynh

@ Tóc Nâu đâu rùi ! hừa hừa ! anh hai chờ được mời đi nhẩm phé đó nghen mi . hắn chẩu đâu mau ghê, mà còn rớt lại chiếc dép đứt quai nè trời !



Chán ghê nơi, có mỗi đôi dép đứt quai mà cũng bị rớt mất một chiếc ,...
Đi cà nhắc hoài mất đẹp, nên Tóc quay trở lại năn nỉ Nlynh cho Tóc xin lại chiếc dép. Chử hổng lẽ NLynh đem liệng xọt rác sao trời ...

Mời nhẩm cà phê hử NLynh ? Để Tóc lục túi coi còn đủ xiền hông nha? Nhè tui con nhà quê mà biểu mời ông anh đi uống cà phê sang trọng thì ... chít khỏe hơn!
Thui chuồn, đứng nói dóc hoài, ổng bực quá không trả dép thì ...khổ thân!

@ Thiên Thanh hay tt : bài phóng sự rất hay, về bển được đi khắp cùng vui ghê há. Hôm nào tt thử buông bút viết thêm cho TN đọc ké với nha.

@ Chị Trúc Lan : Xin chào ra mắt chị nha, được đọc thơ và nghe chị hát mà .... TN mê mẫn luôn!

Thân chúc cả nhà CLBTÂ một cuối tuần thật du dương, vui vẻ
Có một bức hình không chuẩn nhưng thích nên TN dán vào góp vui vậy



[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/29839/E8B68F66FA664FF0B4063429D2DBA752.jpg[/image]
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.10.2012 03:44:05 bởi Tóc nâu >
Attached Image(s)

dzuylynh
  • Số bài : 1290
  • Điểm: 26
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.05.2010
  • Nơi: Vịnh Nửa Vầng Trăng
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 06.10.2012 05:31:11
0
Chán ghê nơi, có mỗi đôi dép đứt quai mà cũng bị rớt mất một chiếc ,...
Đi cà nhắc hoài mất đẹp, nên Tóc quay trở lại năn nỉ Nlynh cho Tóc xin lại chiếc dép. Chử hổng lẽ NLynh đem liệng xọt rác sao trời ...
Thân chúc cả nhà CLBTÂ một cuối tuần thật du dương, vui vẻ
Có một bức hình không chuẩn nhưng thích nên TN dán vào góp vui vậy


                             

Ui ! Xì...Xí bùm bum chiếc dép cũ xì đứt wai cho Tóc nà ! Lụm đi cưng... 
Nlynh merci em gái vô CLB thăm bạn bè và sẵn dịp... đòi dép nghen!
anh rất..vừa ý tấm hình Hoa Lá Nước này !
 
  Ngao Du


 

Lang thang cuối đất gầm trời

Ngao du sơn thủy một thời bể dâu

Thu về chạnh nhớ mùa ngâu

Tóc em Nâu thuở anh râu chưa dài

Chừ em vẫn nét trang đài

Nên anh sớm tối... nhuộm hòai cho xanh

Heo may sao cứ đành hanh

Thu sang vàng lá Tóc xanh đâu rồi?

 
lanchy
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.10.2012 05:54:25 bởi dzuylynh >

Trúc Lan
  • Số bài : 123
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 06.02.2008
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 06.10.2012 05:46:20
5

Hai ông quan Việt Nam ngày xưa ngồi uống trà

Các loại trà TrúcLan đã sưu tầm từ 10 năm về trước, đã đóng thành sách... xin đem vào trang CLBTÂ góp cùng nLynh

Trà Xanh: (green tea) Lá chè chưa qua sao tẩm gọi là chè xanh, tức là trà không ủ men, chiếm từ 80% tới 90% sản lượng ở Trung Quốc. Muốn được trà xanh, người ta rang lá trà trong chảo bằng gang. Rồi các lá được cuộn bằng tay hay bằng máy và lại được rang một lần nữa.

Trà đen: (black tea) còn gọi là trà mộc, tức là trà ủ men, chiếm 90% sản lượng Ấn Độ. Điều chế trà đen phức tạp hơn trà xanh: phơi lá trà tươi trong khoảng 24 tiếng đồng hồ, xong rồi cuộn chúng bằng tay hay bằng máy, ủ men ẩm trong 3 đến 5 giờ, cuối cùng phơi khô trong không khí nóng.

Trà Ô Long: (Oolong) được sao chế dung hòa giữa trà đen và trà xanh lá ủ lên men màu đen, nhưng nước trà có màu nâu thẫm. Chiếm 90% sản lượng ở Đài Loan.

Trà sen: Thời vua chúa mỗi buổi sáng các cung nữ thường lấy nước sương còn đọng lại trên lá sen về cung pha trà. Hoặc bơi xuồng trên các hồ sen (ở Huế nhiều hồ sen) lấy trà bỏ vào các búp sen sắp nở, một lượng trà hảo hạng, trà hấp thụ mùi thơm của sen dưới sương đêm. Sáng hôm sau trở lại vạch cánh hoa lấy trà bỏ vacào lọ đậy kín không mất mùi hương, và đó là loại trà sen tuyệt hảo nhất.vac
Trà Tước Thiệt: Theo Nguyễn Trãi ở Dư Địa Chí, đã kể đến trà Tước Thiệt (trà lưỡi chim sẻ) người ta gọi là trà móc câu thuộc giống Trà Mi ở vùng Sa Bôi nay là tỉnh Quảng Trị (ngày xưa thuộc Châu Ô, Châu Lý). Người Việt Nam có nghệ thuật ướp trà và uống trà.

Trà Mi: Có tên khoa học Camellia chrysantha trong thời gian gần đây người Pháp tìm ra Trà Mi giống Việt Nam và được nhắc đến Trà Mi hoa vàng tên Camellia vietnamensis ở Cúc Phương, đẹp hơn Trà Mi hoa vàng gốc Nhật, hoa ít hơn. Loại Camellia baviensis ở núi Ba Vì hương thơm nồng nàn. Trà Mi Camellia baviensis đem về trồng thí nghiệm ở đại học Lâm nghiệp Xuân Mai Hà Tây. Hoa lưỡng tính cánh trắng nhụy vàng to nở lâu tàn.

Trà Hoa nữ: Thời xưa người ta chọn các trinh nữ, trong những ngày sạch sẽ hái trà.. nên gọi các trà ấy là trà Hoa Nữ.

Trà Thanh Nữ: Loại trà nầy được ướp bằng mồ hôi cuả các cô gái còn trinh nguyên. Sáng sớm tinh sương, hàng đoàn các cô gái dưới 13 tuổi, mặc áo thun rộng, trôn áo cột sát vào người. Các cô lựa bẻ nhựng chồi trà non bỏ vào trong mình, cho đến chiều về, trà đầy trong áo, dưới ánh nắng mặt trời nung nấu và làm việc nặng nhọc, mồ hôi nhễ nhại toát ra ướt áo và thấm vào trà, các cô dùng luôn chiếc áo nầy cuốn lại để ủ trà nên gọi là trà thanh nữ.

Trà sao suốt: dùng trà xanh hay trà mộc nguyên chất, sao chế bằng phương pháp thủ công, sấy trà bằng nhiệt trên chảo gang với một ngọn đèn cháy liên tục. nên gọi là trà sao suốt.

Trà móc câu: dùng đọt trà non để pha chế, sau khi sao xong lá trà cuốn lại như hình móc câu. Song người sành điệu bảo phải gọi là trà "mốc cau" mới đúng vì lá trà tròn cánh, có mốc trắng giống như mốc ở cây cau. Phần đông người ta ưa thích loại trà pha ướp với các loại hoa Sen, Ngâu, Sói, Lài, Cúc, Lan. Mỗi loại hoa sẽ làm cho trà có một hương vị đặc biệt.

Trà mật vịt: là trà xanh pha thật đặc như mật con vịt.

Trà hạt: là nụ trà phơi khô.

Trà bồm: hay trà "bánh" dùng toàn lá trà già khi đốn trà để chờ mùa xuân tới trà ra chồi non. Hai loại trà nầy không ngon, không hương, không vị.

Chè Tà Xùa: Chè loại búp trắng cánh vàng, xuất xứ từ xã Tà Xùa (vùng cao Bắc Yên, Sơn La, Việt Nam). Nước chè có mầu nâu sẫm, mang vị đắng chát khi mới nhấp nhưng lại ngọt dần trong cổ họng, tạo hương vị lạ cho người thưởng trà.
Rót chè vào chiếc chén Bát Tràng thật đẹp, chè Tà Xùa có một mùi hương có phần giống chè Thái Nguyên, lại có vị khang khác lan tỏa. Nhấp một ngụm chè, cảm giác đầu tiên là vị đắng chát sau đó dần chuyển sang ngọt, vị ngọt thấm sâu vào trong cổ họng làm tan đi sự mỏi mệt...
Nước chè có mầu nâu sẫm không xanh như chè Thái Nguyên. Một ấm chè nhỏ nhưng sau bốn, năm lần thêm nước, màu nâu sẫm đó và hương vị chè vẫn còn giữ nguyên, những búp chè nở bung ra như những cánh hoa. Chè Tà Xùa kén nước lắm đấy, tốt nhất là nước suối của vùng này, nếu ở dưới xuôi thì phải là nước khoáng đun sôi mới ngon.
Thật lạ, cây chè Tà Xùa chỉ ngon ở mảnh đất trồng ra nó, nuôi sống nó, như một đứa con gắn chặt với đất mẹ. Chè được bà con dân tộc Mèo sao tẩm trực tiếp. Hiện nay cây chè già nhất có lẽ ở bản Trung Trinh.

Trà Thiết Quan Âm: Thiết Quan Âm là danh hiệu mà các đệ tử tôn xưng ngài Bồ Đề Đạt Ma. Vị sáng tổ thứ nhất của Phật-Giáo Bắc Tông. Vì ngài là người Ấn Độ, da đen và đắc đạo nên gọi Ngài là Thiết Quan Âm. Tương truyền khi ngài ngồi tham thiền tại núi Thiếu Thất, thường bị buồn ngủ, ngài cho là do tại mí mắt sụp xuống nên ngài lấy dao cắt bỏ mí mắt rồi liệng vào trong bụi rậm. Ít lâu sau nơi bụi rậm đó, đêm đêm có hào quang chiếu sáng,các đệ tử đến tìm thấy một bụi trà mới mộc lên cành lá tươi tốt, bẻ lá đem nấu nước uống thử thấy có mùi thơm ngát, vị ngọt tinh thần phấn khởi. Từ đó mọi người lấy lá trà ấy nấu nước cúng Phật gọi là Trà Thiết Quan Âm.

Trùng Điệp Trà: Trùng điệp trà là phân của các con sâu trà ở núi Ly Sơn, tỉnh Thiểm Tây sau khi ăn lá trà thải ra được thu về sao tẩm lại...

Trảm Mã Trà: Trảm Mã Trà là loại trà mọc hoang lưu niên trên núi cao Vu Sơn tỉnh Tứ Xuyên. Sơn dân ở đây dùng các con ngựa núi từ nhỏ đã được luyện uống nước trà thành nghiện để thu trà. Buổi sáng các con ngựa còn đói được lùa lên ăn lá trà và uống nước suối ở đỉnh núi. Chiều đã no căng bụng, chúng kéo nhau xuống và bị bắt mổ bụng để moi trà. Rồi trà được đem sấy khô, ủ kín.

Bạch Mao Hầu Trà: Bạch mao hầu trà là loại trà ở núi Vũ Di tỉnh Phúc Kiến, bên Trung Hoa. Những cây trà này mọc trên ngọn núi cao, hiểm trở, cheo leo, người không thể leo lên được. Do đó họ nuôi những con khỉ trắng. Huấn luyện những con khỉ mỗi sáng sớm, khi còn sương mai còn đọng trên các búp trà non, đàn khỉ trèo lên, hái ngọn trà non đem về cho chủ biến chế thành trà thơn ngon. Ở bên anh có những tiệm bán trà mang tên "Monkey Tea- trà khỉ". rất đắt tiền.

Về các loại hoa trà trân quí, nhà văn hào Kim Dung diễn tả như sau:
Trà Thập bát học sĩ: đây là Thiên Hạ Đệ Nhất trà, cả khóm trà có 18 bông, màu sắc khác biệt, hồng thì toàn hồng, tía thì toàn tía, không một mảy lẫn lộn. Nhưng cả 18 đóa hoa mỗi đóa hình trạng khác nhau, mỗi đóa một vẻ, nở thì cùng nở, tàn thì cùng tàn.

Trà Lạc đệ tú-tài: (thư sinh thi hỏng) là hạng sau thập bác học sĩ là. Loại nầy có 17 bông, các màu sắc lại tạp nhạp, không thuần nhất, to nhỏ không đều, nở sớm muộn không cùng lúc, giống như anh học trò thi rớt. Loại trà này phẩm chất kém cỏi, trồng chẳng cao sang, quý báu gì.

Trà Thập Tam Thái Bảo: là 13 đóa hoa khác nhau trên cùng một cây.

Trà Bát tiên quá hải: một cây sinh ra 8 bông hoa khác nhau.

Trà Thất tiên tử: một cây trà có 7 bông khác nhau.

Trà Phong trần tam hiệp: Một cây trà có 2 bông trắng và 1 bông tím. Hai bông trắng tượng trưng cho Lý-Tịnh, Cầu Nhiêm Khánh, bông màu tím tượng trưng cho Hồng Phất Nữ.

Trà mãn nguyệt: hoa trà màu trắng và lớn trên cánh hoa có vân đen, những vân đen tượng trưng cho các cành quế trên cung trăng.

Hồng trang tố lý: Loại hoa trà màu trắng nhưng cánh hoa có vân hồng gọi là Hồng Trang Tố Lý.

Trảo phá mỹ nhân kiểm: Hoa màu trắng mà có chỉ đỏ thì gọi là Trảo Phá Mỹ Nhân Kiểm, có nghĩa là má đào của người thiếu nữ bị cào (có thể bị đánh ghen chăng).

Văn hào Kim Dung cho biết các loại trà này là đặc sản của nước Đại Lý, Vân Nam bên Trung Hoa.

o0o

Độc sâm trà: Nhân sâm thái phiến hoặc nghiền vụn, uống thay trà. Công dụng bổ khí cường thân, hồi phục sinh lực sau lao động rất tốt, đặc biệt là lao động cơ bắp. Người bị huyết áp cao không nên dùng.

Nhân sâm đại táo trà: Nhân sâm thái phiến, đại táo. Công dụng bổ khí sinh huyết.

Nhân sâm liên tử trà: Nhân sâm, liên tử (hạt sen) đường phèn, hấp cách thủy. Công dụng bổ ích tỳ phế, cường tráng thân thể.

Tăng dịch ích âm trà: Huyền sâm, mạch môn, sa sâm, sinh địa, ngọc trúc. Công dụng dưỡng âm, sinh tân, nhuận táo, rất tốt cho những người lao động trong điều kiện nắng nóng, háo khát do ra mồ hôi nhiều. Người tỳ hư đi lỏng không nên dùng.

Thanh hao mai đông trà: Thanh hao, ô mai, mạch môn, lá sen tươi. Công dụng thanh nhiệt, sinh tân chỉ khát, rất tốt cho những người lao động trong mùa hè nắng nóng, môi khô, miệng khát, ra mồ hôi nhiều. Người tỳ vị hư yếu, tiết tả không nên dùng.

Hoàng kỳ táo khương trà: Hoàng kỳ, đại táo, gừng tươi. Công dụng ích khí phù chính, rất tốt cho người làm việc trong thời tiết gió rét, băng giá dễ bị cảm mạo.

Quế chi cam thảo trà: Quế chi, cam thảo. Công dụng ôn bổ tâm dương, hòa dinh ích khí, tốt cho những người lao động ngoài trời vào mùa đông hoặc công nhân nhà máy nước đá, đông lạnh. Những người có chứng nhiệt không nên dùng.

Ngũ vị táo nhân Kỷ Tử trà: Ngũ vị tử, Kỷ Tử, Toan Táo. Có công dụng định tâm an thần, kiện não ích trí, tốt cho những người lao động trí óc dễ căng thẳng thần kinh.

Thủ ô đan sâm trà: Hà thủ ô, đan sâm, mật ong. Công dụng ích thận bổ can, hoạt huyết hóa ứ, tốt cho những người bị thiểu năng mạch vành, cao huyết áp. Người có huyết áp thấp không nên dùng.
Ba kích đỗ trọng ngưu tất trà:
Ba Kích, Ngưu Tất, Đỗ Trọng, Ngũ Vị Tử. Công dụng ôn bổ thận can, làm mạnh gân cốt, dùng rất tốt cho những người lao động cơ bắp phải bê vác, vận động cột sống nhiều.

Kỷ Tử trà: Quả Kỷ Tử.
Tương truyền, vào đời Đường, tể tướng Phòng Huyền Linh vì dụng tâm quá độ giúp Đường Thái Tông cai quản triều chính nên tinh thần luôn bất an, cơ thể mỏi mệt. Nhờ được thái y cho dùng canh Kỷ Tử nấu với mộc nhĩ trắng thường xuyên mà sức khỏe và tinh thần của ông dần phục hồi.
Kỷ Tử là quả chín phơi hay sấy khô của cây khởi tử, tên khoa học là Lycium barbarum L. Thời cổ đại, nó còn được gọi bằng các tên như thiên tinh (tinh của trời), địa tiên (tiên của đất), khước lão (đẩy lui tuổi già).
Tại Trung Quốc, Kỷ Tử phân bố ở nhiều nơi nhưng loại được trồng ở Ninh Hạ có chất lượng cao hơn cả. Ở đây, người ta gọi vị thuốc này là "minh mục tử", có nghĩa là thứ quả làm sáng mắt. Truyền thuyết kể lại rằng, ngày xưa ở Ninh An thuộc tỉnh Ninh Hạ có một cô gái tên là Cẩu Hồng Quả. Cha cô không may mất sớm, mẹ cô vì quá thương nhớ chồng, đã khóc nhiều đến nỗi cả hai con mắt bị bệnh không nhìn thấy gì cả. Để chữa bệnh cho mẹ, Cẩu Hồng Quả đã không quản gian lao khó nhọc, ngày đêm trèo đèo lội suối lên tận Nam Sơn hái thuốc. Cảm động trước tấm lòng hiếu thảo của cô, tiên ông Bạch Hồ Tử đã hiện ra và chỉ dẫn Cẩu Hồng Quả thu hái Kỷ Tử về làm thuốc cho mẹ cô uống. Quả nhiên, sau một thời gian dùng thuốc, mắt mẹ cô ngày càng sáng ra và khỏi hẳn. Vì thế, dân trong vùng gọi thảo dược này là "minh mục tử" và coi đó là thứ "linh đan diệu dược" chuyên chữa bệnh về mắt.

Trà tâm sen: Lấy nhụy sen để nấu trà. Công dụng thanh tâm (giải nhiệt trong tạng tâm), giáng áp (hạ huyết áp), sáp tinh (giữ cho tinh khí được bền chặt) và chỉ huyết (cầm máu). Nó thường được dùng để chữa các chứng bệnh như đầu choáng mắt hoa, hay hồi hộp đánh trống ngực, nhịp tim nhanh, mất ngủ.

Trà diệp đơn hành: chỉ dùng lá trà để uống.

Trà dược tương phối: phối hợp trà với các vị thuốc.

Dĩ dược đại trà: dùng thuốc thay trà.

Nhân sâm cố bản trà: Nhân sâm, mạch môn, thiên môn, thục địa, sinh địa. Thích hợp cho những người thể chất gầy yếu, hô hấp mạn tính, hay bị khó thở, môi khô miệng khát, đại tiện táo bón...

Ngũ phúc ẩm trà: Thục địa, đương quy, nhân sâm, bạch truật, chính thảo, gừng tươi, đại táo. Dùng thích hợp cho những người trung lão niên có ngũ tạng, khí huyết suy nhược, sắc mặt nhợt nhạt, tinh thần mệt mỏi, chán ăn, mất ngủ, hay quên...

Diên niên ích thọ bất lão trà: Hà thủ ô, địa cốt bì, bạch linh, sinh địa, thục địa, mạch môn, thiên môn, nhân sâm. Thích hợp cho những người trung lão niên có thể chất suy nhược, mắc nhiều bệnh mạn tính, tinh thần mệt mỏi, dễ đổ mồ hôi, lưng đau gối mỏi, đầu choáng mắt hoa, liệt dương, di tinh, suy giảm khả năng tình dục...

Khứ bệnh diên niên trà: Trà, hoa sen, hoa quế, hoa đào, cúc hoa, nhân sâm, Kỷ Tử, đường phèn. Công dụng bổ nguyên khí, thanh điều ngũ tạng lục phủ, cường thận, điều lý âm dương, dùng lâu có thể khứ bệnh; thích hợp cho những người từ 40 tuổi trở lên.

Thủ ô giáng chi trà: Đan sâm, hà thủ ô, cát căn, tang ký sinh, hoàng tinh, cam thảo, trà. Công dụng giảm mỡ máu, thông mạch, hoạt huyết, khứ ứ, bổ âm ích khí; dùng thích hợp cho những người bị rối loạn lipid máu, béo phì, đầu choáng mắt hoa, ngực bụng đầy tức, ăn kém, chậm tiêu, mắc các bệnh tim mạch.

Ngũ tử diễn tông trà: Kỷ Tử, Thỏ Ty Tử, Phúc Bồn Tử, Xa Tiền Tử, Ngũ Vị Tử. Công dụng cho những người cơ thể suy nhược, nam giới liệt dương, di tinh, xuất tinh sớm, suy giảm chất lượng và số lượng tinh trùng; nữ giới hiếm muộn, suy giảm ham muốn tình dục, lưng đau gối mỏi, đầu choáng mắt hoa, rối loạn kinh nguyệt, tóc bạc sớm...

Trà lá tre: Dùng lá cây tre cộng thêm một vài vị khác như mạch môn, Hoàng Kỳ, Cam Thảo, Sa Sâm, Cát Căn, Sinh Địa, Hương Nhu, Bạch Chỉ. Công dụng giải nhiệt, phòng cảm nắng.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.10.2012 05:48:25 bởi Trúc Lan >

Trúc Lan
  • Số bài : 123
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 06.02.2008
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 06.10.2012 05:47:36
0






Trúc Lan
  • Số bài : 123
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 06.02.2008
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 06.10.2012 06:06:05
0


Cây Trà Trong Thiên Long Bát Bộ
Trích từ trong truyện kiếm hiệp của nhà văn Kim Dung

Mời các bạn nghe Đoàn Dự luận về các loại hoa trà cho Vương Phu nhân biết ở Mạn Đà Sơn Trang, những cây trà do chính tay Vương Phu Nhân trồng mà bà rất trân quý.

Trích một đoạn


.....................................
Vương phu nhân vẻ mặt đắc ý, nói:
- Đoàn công tử, nước Đại Lý của cậu hoa trà rất nhiều, nhưng nếu so sánh với của ta chắc không thể bì kịp.

Đoàn Dự gật đầu:
- Những hoa trà loại này dân Đại Lý chúng tôi chẳng ai trồng cả.

Vương phu nhân cười khanh khách:
- Thật ư?

Đoàn Dự nói:
- Những người dân quê mùa tầm thường ở Đại Lý cũng biết các loại hoa này phẩm chất kém cỏi, trồng chẳng cao sang, quý báu gì.

Vương phu nhân mặt biến sắc, giận dữ nói:
- Ngươi nói sao? Ngươi bảo hoa trà ta trồng là loại tục phẩm ư? Nói như thế chẳng hóa, chẳng hóa… khinh người quá lắm.

Đoàn Dự nói:
- Phu nhân tin hay không tin cũng tùy ở người.

Chàng vừa nói vừa chỉ một cây hoa trà ngũ sắc trước lầu:
- Giá thử như cây này, bà tưởng nó quí lắm ư. Hứ, đẹp thật, cái lan can này thật là đẹp, thật là đẹp.

Chàng tấm tắc khen cái lan can đẹp mà hoa trà thì chẳng nhắc đến một câu, khác nào người xem chữ viết, không nhắc đến chữ mà chỉ khen lấy khen để mực đen và giấy tốt.

Cây hoa trà đó vừa trắng vừa đỏ, vừa tía vừa vàng, sắc hoa thật là rực rỡ, từ trước tới nay Vương phu nhân vẫn coi là trân phẩm. Nay thấy Đoàn Dự có vẻ xem thường nên lông mày bà nhướng lên, mắt lộ sát ý. Đoàn Dự nói:
- Xin hỏi phu nhân, giống hoa này ở Giang Nam gọi tên là gì?

Vương phu nhân hậm hực đáp:
- Chúng tôi chẳng gọi tên gì đặc biệt, chỉ gọi là hoa trà Ngũ Sắc.

Đoàn Dự mỉm cười:
- Đại Lý chúng tôi có đặt cho nó một cái tên, gọi là Lạc Đệ Tú Tài (thư sinh thi hỏng).

Vương phu nhân hừ một tiếng:
- Cái tên sao khó nghe làm vậy, chắc ngươi tiện mồm đặt ra chứ gì. Cây hoa đẹp đẽ như thế, sao lại giống gã thư sinh thi hỏng?

- Phu nhân thử nhìn lại xem, cây hoa này cả thảy tất cả mấy màu.

Vương phu nhân nói:
- Ta đã đếm qua, cũng phải có đến 15, 16 màu khác nhau.

Đoàn Dự nói:
- Cả thảy đúng ra là 17 màu. Đại Lý có một loại hoa quí giá nổi tiếng tên gọi Thập Bát Học Sĩ. Đó là thiên hạ cực phẩm, trên cây có đủ 18 đóa hoa, mỗi đóa một màu khác nhau, hồng thì toàn hồng, tía thì toàn tía, không một mảy lẫn lộn. Nhưng cả 18 đóa hoa mỗi đóa hình trạng khác nhau, mỗi đóa một vẻ, nở thì cùng nở, tàn thì cùng tàn, phu nhân đã thấy bao giờ chưa?

Vương phu nhân nghe qua thẫn thờ, lắc đầu:
- Trên đời này lại có loại hoa như thế sao? Đến nghe nói tới ta cũng chưa nghe bao giờ.

Đoàn Dự nói:
- So với Thập Bát Học Sĩ kém một mức là Thập Tam Thái Bảo là 13 đóa hoa khác nhau trên cùng một cây. Rồi đến Bát Tiên Quá Hải là 8 đóa khác nhau một cây. Thất Tiên Tử là 7 đóa. Phong Trần Tam Hiệp là ba đóa. Nhị Kiều là một trắng một đỏ hai đóa. Nói đến hoa trà là phải thuần sắc, nếu như trong đỏ có lẫn trắng, trong trắng lẫn tía thì là hạ phẩm rồi.

Vương phu nhân bỗng nhiên đờ đẫn, nhìn về xa xăm, nói một mình:
- Sao y không nói cho ta biết nhỉ?

Đoàn Dự nói tiếp:
- Trong Bát Tiên Quá Hải có cả hoa màu tía sậm và màu hồng nhạt, đó là Lý Thiết Quài và Hà Tiên Cô, nếu thiếu hai màu đó, dù là tám màu khác nhau cũng không được gọi là Bát Tiên Quá Hải mà gọi là Bát Bảo Trang, tuy cũng là danh chủng nhưng so với Bát Tiên Quá Hải còn thua một bậc.

Vương phu nhân nói:
- Nguyên lai như thế.

Đoàn Dự lại tiếp:
- Trở lại Phong Trần Tam Hiệp cũng có chính phẩm và phó phẩm. Nếu là chính phẩm, trong ba đóa thì đóa màu tía phải to nhất, đó là Cầu Nhiêm Khách, đóa màu trắng nhỏ hơn, đó là Lý Tịnh, đóa màu hồng nhỏ nhất nhưng cũng kiều diễm nhất đó là Hồng Phất Nữ. Nếu như hoa màu hồng lại to hơn hoa màu tía, hoa màu trắng thì là phó phẩm, hai đằng một trời một vực.

Người ta đã bảo quen thuộc như đồ trong nhà mình. Trong nhà Đoàn Dự có tất cả những loại này nên chàng nói ra vanh vách đâu ra đấy. Vương phu nhân nghe thật thích thú thở dài:
- Đến phó phẩm ta cũng chưa được nhìn qua nói gì chính phẩm!

Đoàn Dự chỉ vào cây hoa trà ngũ sắc nói:
- Còn loại hoa trà này, nếu luận về sắc so với Thập Bát Học Sĩ còn kém một, lại không thuần, nở thì khi sớm khi muộn, hoa thì đóa nhỏ đóa to. Chẳng khác gì Đông Thi giả nhăn mặt, học đòi làm Thập Bát Học Sĩ thì không xong. Vì thế chúng tôi đặt cho cái tên Lạc Đệ Tú Tài.

(Trích trong Thiên Long Bát Bộ, tập 2, trang 495-7 của Kim Dung. Viễn Ảnh xuất bản, Đài Bắc 1981)


dzuylynh
  • Số bài : 1290
  • Điểm: 26
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.05.2010
  • Nơi: Vịnh Nửa Vầng Trăng
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 06.10.2012 06:12:22
0
 
Các loại trà TrúcLan đã sưu tầm từ 10 năm về trước, đã đóng thành sách... xin đem vào trang CLBTÂ góp cùng nLynh
thay mặt Tỷ Tỷ Phù Vân và các bạn, nlynh cám ơn bộ sưu tập các lọai danh trà hết sức công phu và qúy hiếm của Mợ Lan nhé !
là một con ma trà , đã thưởng thức qua nhiều lọai danh trà lúc còn làm quan hùi nẫm
( nlynh hình bến trái / bên phải là TrúcLan, có ghi tên hẳn hoi à nghen )..

 

hu hu...sau khi đi 75Readucation dìa, cho tới nay, hẻo wá nên chừ chỉ còn uống trà 913 của Taiwan thôi !
Tóc nhõng nhẽo nghen ! Ừ , mún du dương thì có du dương ngay nà nhỏ :




https://www.box.com/shared/6f6oe5izzu7z01dggl39

khi mùa thu vàng

sáng tác | trình bày | Dzuylynh
album Ở giữa là mùa thu.bccb
(đến bh.dv.Ja.tn)


khi mùa thu vàng
em là giọt nắng
khi trời trở gió
em ngọn thu phong
thinh không tĩnh lặng
em là vầng trăng
anh còn lận đận
một đời phiêu lãng
với bản tình ca
viết mãi không xong...

khi mùa trăng tàn
anh ngồi chờ sáng
em về cuối trời
mõi cánh thiên di
anh chờ mùa thi
lấy mảnh tình si
khi mùa thu vàng
hòang hôn mây xám
chiếc lá bay ngang
tình cũng sang ngang

khi mùa thu vàng
mình quên nhau nhé
quên lời ước thề
giữa bến sông mê
chén rượu tình say
vơi đầy chưa cạn
khi mùa thu vàng
chiếc lá bay ngang
khi mùa thu vàng
tình cũng đi hoang...

vịnhnửavầngtrăng.Nov.5.2012.dzuylynh


<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.10.2012 16:01:00 bởi dzuylynh >

Trúc Lan
  • Số bài : 123
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 06.02.2008
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 06.10.2012 06:21:34
0
Những bài Thơ Có Chữ "Trà"


Kiều Gặp Kim Trọng
255. Mành Tương phất phất gió đàn,
Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình.
Vì chăng duyên nợ ba sinh,
Thì chi đem thói khuynh thành trêu ngươi.

Kiều Gặp Mã Giám Sinh
845. Tiếc thay một đóa trà mi,
Con ong đã tỏ đường đi lối về.
Một cơn mưa gió nặng nề,
Thương gì đến ngọc tiếc gì đến hương.

Kiều Mắc Lừa Sở Khanh
1091. Chim hôm thoi thót về rừng,
Đóa trà mi đã ngậm trăng nửa vành.
Tường đông lay động bóng cành,
Rẽ song, đã thấy Sở Khanh lẻn vào.

Kiều Gặp Thúc Sinh
1295. Khi gió gác khi trăng sân,
Bầu tiên chuốc rượu câu thần nối thơ.
Khi hương sớm khi trà trưa,
Bàn vây điểm nước đường tơ họa đàn.

Kiều Gặp Hoạn Thư
1923. Sớm khuya sắm đủ dầu đèn,
Xuân, Thu, cắt sẵn hai tên hương trà .
Nàng từ lánh gót vườn hoa,
Dường gần rừng tía, dường xa bụi hồng.

1991. Thiền trà cạn chén hồng mai,
Thong dong nối gót thư trai cùng về.
Nàng càng e lệ ủ ê,
Rỉ tai, hỏi lại hoa tì trước sau.

o0o
Một trà , một rượu, một đàn bà.
Ba cái lăng nhăng nó khuấy ta.
Bỏ được thứ nào hay thứ ấy.
Nguyễn Công Trứ

Trà ơi! Còn nước là vinh hạnh
Cháy lưỡi khô môi thảm những ai!
Phan Bội Châu

Khi vườn sau khi sân trước
Khi điếu thuốc, khi miếng trầu
Khi trà chuyên năm ba chén
Khi Kiều lẫy một đôi câu
Nguyễn Khuyến

Tặng quân thiên lý viễn
Tiên bả nhất bình trà
dịch
Tiễn chân ai bước đường xa
Miệng cười đưa một bình trà tặng nhau
Viên Chiêu thiền sư đời Lý Nhân Tông.

Ca Dao, tục ngữ

Rượu ngâm nga, trà liền tay

Trà tam rượu tứ (uống trà tối đa là ba người thôi còn uống rượu thì tối thiểu phải bốn người)

Rượu trên be, chè dưới ấm.

Làm trai biết đánh tổ tôm
Uống trà Mạn Hảo (hay liên tử), ngâm nôm Thuý Kiều.

Mai sớm một tuần trà .
Canh khuya đôi chén rượu.
Ngày ngày đều như thế.
Thầy thuốc chẳng tới nhà.

Chồng em thường ngược sông Ngâu,
Mua trà Mạn Hảo tháng sau thì về.

Chim đa đa đậu nhánh đa đa
Chồng gần không lấy, lấy chồng xa
Mốt mai cha yếu mẹ già
Chén cơm đôi đũa tách trà ai dâng?

Con cá đối nằm trên cối đá
Chim đa đa đậu nhánh đa đa
Chồng gần không lấy, bậu lấy chồng xa
Mai sau cha yếu mẹ già
Chén cơm bát nước, bộ kỷ trà ai bưng?

Giàu đâu đến kẻ ngủ trưa
Sang đâu đến kẻ say sưa rượu chè

Thất Oản Trà ca của Lô Đồng (đời Đường)
Chén thứ nhất làm trơn cổ họng
Chén thứ hai làm tan nỗi buồn phiền
Chén thứ ba thấm vào ruột đang khô héo
Chỉ còn lại năm nghìn cuốn sách
Chén thứ tư làm mồ hôi rướm ra
Những chuyện bất bình trong đời
Cũng theo lỗ chân lông mà bay đi
Chén thứ năm làm cơ thể sạch sẽ
Chén thứ sáu đưa ta tới cõi tiên
Chén thứ bảy không uống được nữa
Chỉ thấy hai bên cánh tay gió phần phật thổi

Bợm Nhậu
Một ly nhâm nhi tình bạn
Hai ly uống cạn lòng sầu
Ba ly mũi chảy tới râu
Bốn ly ngồi đâu gục đó
Năm ly cho chó ăn chè
Sáu ly vợ đè cạo gió

Trước kính thăm cô bác, sau thăm nhạc mẫu ở nhà
Dù, trà, khăn, võng gởi mà cho em.

Trúc Lan
  • Số bài : 123
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 06.02.2008
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 06.10.2012 06:25:57
0


Trích đoạn: dzuylynh

 
Các loại trà TrúcLan đã sưu tầm từ 10 năm về trước, đã đóng thành sách... xin đem vào trang CLBTÂ góp cùng nLynh
thay mặt Tỷ Tỷ Phù Vân và các bạn, nlynh cám ơn bộ sưu tập các lọai danh trà hết sức công phu và qúy hiếm của Mợ Lan nhé !
là một con ma trà , đã thưởng thức qua nhiều lọai danh trà lúc còn làm quan hùi nẫm
( nlynh hình bến trái / bên phải là TrúcLan, có ghi tên hẳn hoi à nghen )..


Còn nhiều giai thoại về TRÀ nữa... nhưng nLynh khóc hu hu thế kia thì để tỷ tỷ Phù Vân dỗ nín đã, TrúcLan sẽ post tiếp

Phù vân
  • Số bài : 360
  • Điểm: 6
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.01.2011
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 06.10.2012 08:21:20
0
ĐỌC BÁO GIÙM BẠN

Bébo tê tê đâu dzồi nhỉ ? Con bé này cứ như là con lật đât ! Mới nom thấy đây tức thì mà đã chạy rong đâu
Cầm tiền nầy đưa cho chị Lan mà mua TRÀ nhé ! Giời ôi là giới ! Gớm ! Trà Lan muội xưa thế thì phải dùng lọai TIỀN CŨ này mới mua được bé ạ ! Tỷ PhùVân mới giật tạm của tỷ Huyền Băng kia đấy !
Ngoan cô thương Bo nhìu nhé !

Sưu tầm mẫu tiền cũ -
Tiền Đông Dương








'
'
'

'



'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

' '

'

'

'

'

'

' '

' '

' '

' '

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'
'

' '

'

'

' '

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'

'



<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.10.2012 08:26:04 bởi Phù Vân >

sen dat
  • Số bài : 3043
  • Điểm: 34
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 29.03.2008
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 06.10.2012 12:09:47
0
Bộ sưu tập tiền của Phù Vân tuyệt quá đi! SĐ cũng sưu tầm được một bài viết vui vui kèm theo một bức ảnh minh hoạ SĐ chụp lại trong một tạp chí. Đây là một cặp vợ chồng hoàng gia triều Nguyễn.
SỐ PHẬN CHIẾC ÁO DÀI - sưu tầm
Tác giả Vi Nhứt Tiếu
_Má con Hạnh đâu, má con Hạnh đâu?
_Thưa anh, em với con đây nè. Có việc gì mà anh rối rít vậy?
_Chào em, chào con. Thưa phu nhân tháng tới là sinh nhật của phu nhân thiểm chức lặn lội vào chợ Soài Kinh Lâm quận 5 và mua được một tấm vải đắc ý kính tặng phu nhân để "người" may môt chiếc áo dài.
_Trời ơi vải đẹp quá. Em xin cám ơn anh về món quà trên mức tình cảm này
_Thiểm chức không dám. Kính mong phu nhân nhận lễ cho.
Bé Hạnh chen vào:
_Ba điệu dễ sợ, để dành tiền mua cho má vải may áo dài.  Ba ơi đến sinh nhật con , ba cũng mua áo dài cho con nghen.
_Ý chưa được. Lớn hơn chút nữa, khi nào nhà trường quy định mặc áo dài đi học, ba sẽ may áo dài cho con
_Ba ơi, chiếc áo dài có từ hồi nào hở ba?
_Từ lâu lắm con à. Ngày xưa, các vua Việt Nam mặc chiếc áo dài màu vàng có thêu rồng khi thiết triều. Đó là áo dài của đàn ông. Ngày xưa các phụ nữ Việt Nam ở Đàng Ngoài mặc áo tứ thân khi tham dự những lễ hội, đình đám long trọng. Khi du nhập vào Đàng Trong, chiếc áo tứ thân không ngừng được cải tiến, hình thành ra chiếc áo dài hôm nay. Có thể coi Huế là phát tích của chiếc áo dài.
_Em nhớ ngày trước, má em mặc chiếc áo dài lạ lắm.
_Á à, đó là áo dài từ giai đoạn 1945 đến 1965 với hai tà thật dài phủ xuống tận chân, cổ cao 5 phân, có lót miếng col cứng, thân chít 4 pen 2 trước 2 sau, vạt phải úp vào. Năm 1960, bà Ngô Đình Nhu, vợ ông Ngô Đình Nhu làm cố vấn cho ông Diệm, cải tiến cổ áo tròn, gọi là cổ thuyền.
_Sau đó rồi sao nữa hở ba?
_Rồi cải tiến nữa chứ sao. Khoảng 10 năm từ năm 1988 đến 1975, một người thông minh nào đó chế ra cái tay raglan, cắt thẳng một đường từ phía ngoài cổ xuống nách, tạo cho ái dài có một nét cân đối lạ lùng. Từ đó phát sinh ra áo dài raglan với phong cách không chít eo, vạt ngắn lên gần đầu gối, cổ hạ thấp xuống còn một phân. Nhà may Thiết lập may áo dài raglan cho mấy bà mấy cô mệt nghỉ. Mà hồi đó phụ nữ mình lại rất chuộng loại tơ nội hóa Hồng Hoa với các màu xanh lá trúc, vàng mỡ gà, tím than, thân tơ có hình chìm chữ thọ, lồng đèn, lá trúc...Ai ra Quảng Nam, mua được một xấp lụa Mã Châu về may là sang lắm.
_Em nhớ sau năm 75 áo dài vắng bóng cả chục năm.
_Chính xác là khoảng 13 năm. Lúc bấy giờ xã hội hô hào nhanh gọn, khẩn trương, mà chiếc áo dài thì có vẻ "yểu điệu thục nữ" quá . Cho nên vắng chiếc áo dài; đi hội họp hay tiếp khách nước ngoài , các bà các cô vẫn cứ mặc áo ngắn. Có thơ làm chứng rằng:
_Áo dài, áo dãi, áo dai
Ta bỏ áo dài, ta mặc áo pull
Chemise tay ngắn tiện hơn
Cần gì phải nhớ, phải thương áo dài
Áo dài ai mặc, mặc ai!

_Sau đó sao lại mặc áo dài hở ba?
_Sau 1988, báo chí có lên tiếng về chiếc áo dài, cho rằng có nhiều trường hợp mặc áo ngắn là không phù hợp thiếu...văn minh thương nghiệp. Thế là ngành giáo dục thành phố chủ trương cho các em nữ sinh cấp 3 mặc lại áo dài. Hóa ra người ta nhận thấy rằng nữ sinh mặc áo dài thì trường đẹp ra và trật tự thêm lên. Thế là áo dài thắng lợi trong nhà trường và thừa thắng xông lên, phát triển ra mọi cơ quan, đoàn thể, xí nghiệp,, công ty khác...Bèn có thơ làm chứng rằng:
Áo dài, áo dãi, áo dai
Ta mặc áo dài, ta bớt chemise

Nhưng anh coi đó, hình như áo dài bây giờ lại gần với chiếc áo dài 1965.
_Phu nhân nói đúng. Áo dài bây giờ vẫn giữ tay raglan, nhưng vạt dài lại, cổ cao lên, chít 4 pen trở lại. Nhiều cô chơi bộ complet, áo quần tiệp một màu. Ở bên Mỹ bà con Việt Kiều cải tiến áo dài vạt xéo, vạt nhọn. Ở bên ta, ta ráp tay phồng, xẻ cổ trái tim, hết thêu rồi vẽ hoa, lá, chim,bướm,rồng,phượng. Cả nhung cũng vẽ được ráo.
_Chà áo dài cũng lắm chuyện má hả.
_Đúng như con nói. Ở Huế có một truyền thống mặc áo dài rất hay. Các bà các chị buôn gánh bán bưng, có thể đi chân đất nhưng vẫn mặc chiếc áo dài nâu.
_Còn áo dài đàn ông ra sao ba?
_Thì ngày lễ, ngày tết, đám cưới đám ma, ai muốn mặc cứ mặc.
_Sang thì may áo gấm xanh, đỏ. Vừa vừa thì may áo the đen. Đàn ông mặc áo dài thì phải chơi khăn đóng mới đúng model. Ngày trước có một ông đại sứ Mỹ qua đây cũng chơi áo dài khăn đóng. Đó là ông Henry Cabot Lodge. Đây rồi mươi mười lăm năm nữa, ba cũng phải chơi áo dài khăn đóng.
_Ủa, ủa ba mặc đi đâu vậy?
_Thì lúc đó đám cưới mầy chớ còn đi đâu? Mần sui chẳng lẽ không mặc áo dài. Con này hỏi ngộ.

[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/49776/0E0AB28B18FF4AD2A4D135ECB55F3C89.JPG[/image]
<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.10.2012 12:13:58 bởi sen dat >
Attached Image(s)

Trúc Lan
  • Số bài : 123
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 06.02.2008
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 06.10.2012 14:08:53
0
Tiền thời vua Gia Long - Minh Mạng - Thiệu Trị và Tự Đức




























































Thay đổi trang: << < 222324 > >> | Trang 23 của 36 trang, bài viết từ 661 đến 690 trên tổng số 1076 bài trong đề mục