GIẢI MÃ ĐƯỜNG THI 
   
  Cho người chơi thơ Thất Ngôn Bát Cú ĐƯỜNG LUẬT
            LỜI PHI LỘ      Nhà hiền triết Platon hỏi các bạn thực khách : trong một chậu nước đầy, bỏ cục gạch vào thì nước tràn ra. Còn bỏ con cá lớn bằng cục gạch vào thì nước chẳng tràn ra, là tại sao ? 
  Các thực khách trả lời : kẻ bảo tại con cá nó hít nước, người bảo tại con cá nó nguo ngoe lội tới lội lui. 
  Phaton cho gia nhân mang chậu nước ra làm thí nghiệm, lúc bỏ con cá vào, thì nước cũng ... tràn ra !    
  Với thí nghiệm đó, Platon cho chúng ta câu châm ngôn dùng dạy trẻ là « hãy quan sát trước khi suy luận » (observer avant de raisonner) 
  Nhưng còn có một câu châm ngôn sâu sắc hơn nằm trong quyển Tự điển Petit Larousse : « tôi rất yêu quí Platon nhưng tôi yêu quí sự thật nhiều hơn » (Platon m’est cher, mais la réalité me l’est davantage).    
  Các tiền nhân chúng ta có công lớn với văn học, trong những tác phẩm của họ, không thể tránh được đôi khi cũng có những sơ sót sai lầm. Khi nhận ra, hẳn các vị ấy cũng khuyên chúng ta một câu tương tự : « đừng vì ta mà phủ nhận sự thật ».    
  Quyển GIẢI MÃ ĐƯỜNG THI này rất mong đóng góp được sự giải tỏa một vài thắc mắc của thơ Đường Luật trong tinh thần đó của tiền nhân. 
  Trân trọng kính thưa.    
  Võ Nhựt Ngộ            
LỜI NÓI ĐẦU      Các thi sĩ đời Đường (từ 618 đến 907 sau Công nguyên) có bày ra chơi một loại thơ 8 câu 7 chữ gọi là “Thất Ngôn Luật”, tức thơ Thất Ngôn Bát Cú (TNBC) Đường Thi. Loại thơ “Thất Ngôn Luật” này cho ra nhiều tác phẩm bất hủ lưu truyền đến tận ngày nay, qua bao nhiêu năm tháng thăng trầm vẫn còn được nhiều người yêu thích.    
  Cách chơi theo thơ TNBC Đường Thi hiện nay có đôi chút khác nhau giữa chỗ này với chỗ kia. Có một lối chơi rất phổ thông, nhưng lại không tương ứng với tất cả những bài TNBC Đường Thi danh tiếng được lưu truyền. Có lẽ vì thi nhân đời Đường theo một cách chơi phóng khoáng hơn. Bài Giải Mã Đường Thi này xin đóng góp một sự nhận xét vô tư, căn cứ vào sự phân tách phần kỹ thuật được các thi nhân đời Đường áp dụng trên những kiệt tác của họ.    
  Các cách gọi : Đường Thi, thơ Đường hay thơ Đường Luật đều được người chơi tùy tiện dùng đến để chỉ định loại thơ thi nhân Việt Nam làm chơi theo thể “Thất Ngôn Luật” của những bài TNBC Đường Thi.    
  Để giảm bớt sự giải thích rườm rà, bài này xin trân trọng coi như độc giả không còn xa lạ với các danh từ Niêm, Luật, Trắc, Bằng, luật Trắc hay luật Bằng của câu thơ, của bài thơ, nhất-tam-ngũ bất luận, nhì-tứ-lục phân minh v.v.      
********
         PHẦN I. GIẢI MÃ VÀ CHỨNG MINH
      Cụm từ GIẢI MÃ ĐƯỜNG THI là cách nói gọn việc “Phần tách phần kỹ thuật của những bài TNBC Đường Thi lưu truyền, để nhận ra những cách chơi thực sự của thi nhân thời ấy”.    
  Như trên vừa nói, chủ yếu bài này nhắm vào sự nhận định cách làm loại thơ 
Thất Ngôn luật của Đường Thi.    
  Những bài Đường Thi lưu truyền cho thấy rằng thi nhân đời Đường dùng 2 bài Thất Ngôn Tứ Cú (TC) ráp lại, để tạo thành bài Thất Ngôn Bát Cú (TNBC) Đường Thi. 
  Nên trước tiên, xin nói sơ qua về thơ Tứ Cú. 
  Thơ Thất Ngôn Tứ Cú (cũng thường được gọi là thơ Tứ Tuyệt hoặc thơ Tuyệt Cú) có 2 phép Niêm thông dụng là :    
  1-4 2-3 (câu1 Niêm với câu4 và câu2 Niêm với câu3)  
  1-3 2-4 (câu1 Niêm với câu3 và câu2 Niêm với câu4)    
  Xin nêu dẫn 4 bài Tứ Cú làm mẫu :      
1.1 mẫu thơ Thất Ngôn Tứ Cú (TC)      thơ TC Niêm 1-4 2-3, (luật Bằng, 3 vần)   LƯƠNG CHÂU TỪ    
  Bồ 
đào mỹ 
tửu dạ 
quang bôi 
  Dục 
ẩm tì 
bà mã 
thượng thôi 
  Túy 
ngọa sa 
trường quân 
mạc tiếu 
  Cổ 
lai chinh 
chiến kỷ 
nhân hồi. 
  Vương Hàn    
  Dịch thơ : 
BÀI HÁT LƯƠNG CHÂU 
   
  Bồ đào, rượu rót chén lưu ly 
  Muốn uống, tỳ bà giục ngựa đi 
  Bãi cát say nằm, chê cũng mặc 
  Xưa nay chinh chiến mấy ai về. 
  Bùi Khánh Đản       thơ TC Niêm 1-4 2-3, (luật Trắc, 2 vần)   CỬU NGUYỆT CỬU NHẬT ỨC SƠN TRUNG HUYNH ÐỆ    
  Ðộc 
tại dị 
hương vi 
dị khách 
  Mỗi 
phùng giai 
tiết bội 
tư thân 
  Dao 
tri huynh 
đệ đăng 
cao xứ 
  Biến 
tháp thù 
du thiểu 
nhất nhân. 
  Vương Duy    
  Dịch thơ :
 NGÀY CHÍN THÁNG CHÍN NHỚ ANH EM CHƠI NÚI 
   
  Ðất khách một thân làm khách lạ 
  Mỗi khi giai tiết nhớ quê nhà 
  Anh em chắc hẳn đều lên núi 
  Hái đóa thù du thiếu một ta. 
  Bùi Khánh Ðản          thơ TC Niêm 1-3 2-4, (luật Bằng, 3 vần)   HOÀNH GIANG TỪ kỳ nhị    
  Hải 
thần lai 
quá ác 
phong hồi 
  Lãng 
đả Thiên 
Môn thạch 
bích khai 
  Chiết 
Giang bát 
nguyệt hà 
như thử  
  Ðào 
tự liên 
sơn phún 
tuyết lai. 
  Lý Bạch    
  Dịch thơ : 
BÀI HÁT Ở SÔNG HOÀNH GIANG (bài hai) 
   
  Thần bể đi qua gió ngụt trời 
  Thiên Môn đã mở nước triều sôi 
  Chiết Giang tháng tám mà như thế 
  Sóng cuộn cao như núi tuyết rơi. 
  Bùi Khánh Ðản       thơ TC Niêm 1-3 2-4, (luật Trắc, 3 vần)   TÍCH TRUNG TÁC     
  Tẩu 
mã tây 
lai dục 
đáo thiên 
  Từ 
gia kiến 
nguyệt lưỡng 
hồi viên 
  Kim 
dạ bất 
tri hà 
xứ túc 
  Bình 
sa vạn 
lý tuyệt 
nhân yên. 
  Sầm Tham    
  Dịch thơ : 
CẢM TÁC KHI Ở TRONG SA MẠC 
   
  Giục ngựa về tây đuổi mặt trời 
  Xa nhà hai độ nguyệt đầy vơi 
  Đêm nay biết trọ nơi nào nhỉ ? 
  Bãi cát mênh mông chẳng có người. 
  Đinh Vũ Ngọc          1.2 Lược dẫn sự Giải Mã      Sự phân tách và tổng hợp phần kỹ thuật sử dụng trên các bài Đường Thi lưu truyền, cho thấy cách chơi của các thi nhân tiền bối đời Đường rất là phóng khoáng như dưới đây.    
  * Dùng hai bài Tứ Cú (TC) một trên một dưới ráp lại để làm một bài TNBC Đường Thi. 
  * Nét riêng của bài TNBC Đường Thi đòi hỏi nơi 2 bài Tứ Cú : 
  a/ phải dùng cùng một vần 
  b/ hai câu 3-4 của bài TC trên và hai câu 1-2 của bài TC dưới phải là 1 cặp đối nhau. (gọi riêng số câu của từng bài TC để dễ nhận ra phép Niêm) 
  c/ Ngoài 2 quy định trên, hai bài TC hoàn toàn tự do dùng riêng những đặc điểm khác của thơ TC như : Niêm, Luật, dùng 2 vần hay 3 vần, dùng vần Trắc hay vần Bằng.         
1.3 Những bài thơ minh chứng sự Giải Mã      Ngoài ý nghĩa là phần cốt lõi, phần quan trọng kế tiếp của bài thơ là Niêm và Luật.     
  Với thành phần là 2 bài TC tự do theo Niêm riêng, Luật riêng thì bài TNBC Đường Thi sẽ lọt vào nhiều dạng Niêm Luật khác nhau. Dưới đây xin xem xét từng chi tiết :      
a/ Về Niêm      Hai bài Tứ Cú (TC), tạo ra bài Bát Cú, được tự do dùng 2 phép Niêm riêng của thơ TC (1-4 2-3 và 1-3 2-4), nên cho ra, trên nguyên tắc, 4 (2^2) kết hợp về Niêm cho bài TNBC Đường Thi là :    
  1/ TC trên 
1-4 2-3, TC dưới 
1-4 2-3   2/ TC trên 
1-4 2-3, TC dưới 
1-3 2-4   3/ TC trên 
1-3 2-4, TC dưới 
1-4 2-3   4/ TC trên 
1-3 2-4, TC dưới 
1-3 2-4      Thơ TNBC ĐƯỜNG THI tiêu biểu cho 4 cách Niêm vừa nêu trên   (với cách ghi gọn : 1-4 2-3 là bài Tứ Cú với Niêm 1-4 2-3 và 1-3 2-4 là bài Tứ Cú với Niêm 1-3 2-4.)    
  Sau đây là 4 bài Thất Ngôn Bát Cú (TNBC) tiêu biểu cho 4 cách Niêm khác nhau kể trên, lấy từ những bài TNBC ĐƯỜNG THI, hai bài Tứ Cú viết với 2 kiểu chữ khác nhau để phân biệt :      
Cách Niêm 1/ : trên 1-4 2-3, dưới 1-4 2-3   XUÂN TỊCH LỮ HOÀI       
Thủy lưu hoa tạ lưỡng vô tình (Niêm 1-4 2-3 
  Tống tận đông phong quá Sở thành 
  Hồ điệp mộng trung gia vạn lý 
  Đỗ quyên chi thượng nguyệt tam canh    Cố 
viên thư 
động kinh 
niên tuyệt (Niêm 1-4 2-3 
  Hoa 
phát xuân 
thôi lưỡng 
mấn sinh 
  Tự 
thị bất 
quy, qui 
tiện đắc 
  Ngũ 
hồ yên 
cảnh hữu 
thùy tranh. 
  Thôi Đồ    
  Dịch thơ :
 NỖI CẢM HOÀI ĐÊM XUÂN NƠI LỮ THỨ 
   
  Nước trôi hoa rụng thảy vô tình 
  Đưa gió đông bay quá Sở thành 
  Trong mộng bướm bay, nhà vạn dậm 
  Trên cành quyên gọi, nguyệt ba canh 
  Năm tàn một cánh thư trông mõi 
  Xuân giục hai màu tóc đổi nhanh 
  Tự ý không về, về hẵn được 
  Ngũ hồ phong cảnh có ai tranh ? 
  Đinh Vũ Ngọc          Cách Niêm 2/ : trên 1-4 2-3, dưới 1-3 2-4   HỌA GIẢ CHI XÁ NHÂN “TẢO TRIỀU ĐẠI MINH CUNG” CHI TÁC      
Giáng trách kê nhân báo hiểu trù (Niêm 1-4 2-3 
  Thượng y phương tiến thúy vân cừu 
  Cửu thiên xướng hạp khai cung điện 
  Vạn quốc y quan bái miện lưu    Nhật 
sắc tài 
lâm tiên 
chưởng động (Niêm 1-3 2-4 
  Hương 
yên dục 
bạng cổn 
long phù 
  Triệu 
bãi tu 
tài ngũ 
sắc chìếu 
  Bội 
thanh quy 
đáo Phụng 
Trì đầu. 
  Vương Duy    
  Dịch thơ :
 HỌA BÀI “CHẦU SỚM Ở CUNG ĐẠI MINH” CỦA XÁ NHÂN ĐẠI CHÍ 
   
  Vừa nghe báo sáng lệnh kê nhân 
  Quan thượng y dân áo thúy vân 
  Chín bệ mở toang cung ngọc điện 
  Trăm quan mừng lạy đấng anh quân 
  Tay tiên đón nắng cao cao vẫy 
  Áo ngự xông hương lớp lớp vần 
  Tan cuộc triều đình vâng chiếu chỉ 
  Phượng Trì trở lại ngọc vang ngân. 
  Lê Nguyễn Lưu       Cách Niêm 3/ : trên 1-3 2-4, dưới 1-4 2-3    THÀNH TÂY PHA PHIẾM CHU      
Thanh nga hạo xỉ tại lâu thuyền (Niêm 1-3 2-4 
  Hoành dịch đoản tiêu bi viễn thiên 
  Xuân phong tự tín nha tường động 
  Trì nhật từ khan cẩm lãm khiên    Ngư 
xuy tế 
lãng dao 
ca phiến (Niêm 1-4 2-3 
  Yến 
xúc phi 
hoa lạc 
vũ diên 
  Bất 
hữu tiểu 
chu năng 
đảng tưởng 
  Bách 
hồ ná 
tống tửu 
như tuyền. 
  Đỗ Phủ    
  Dịch thơ : 
CHƠI THUYỀN PHÍA TÂY THÀNH 
   
  Mày xanh răng trắng tựa thuyền lầu 
  Sáo ngắn tiêu ngang đưa giọng sầu 
  Gió xuân dám động cột ngà trắng 
  Bóng xế nhìn qua dải gấm màu 
  Cá phun sóng gợn quạt ca dậy 
  Yến giẫm hoa bay múa tiệc chầu 
  Không có thuyền con chèo quẩy nước 
  Thì trăm vò rượu chảy về đâu ?! 
  Nguyễn Hữu Huyên          Cách Niêm 4/ : trên 1-3 2-4, dưới 1-3 2-4    CHƯỚC TỬU DỮ BÙI ĐỊCH      
Chước tửu dữ quân quân tự khoan (Niêm 1-3 2-4 
  Nhân tình phiên phúc tự ba lan 
  Bạch thủ tương tri do án kiếm 
  Chu môn tiên đạt tiếu đàn quan    Thảo 
sắc toàn 
kinh tế 
vũ thấp (Niêm 1-3 2-4 
  Hoa 
chi dục 
động xuân 
phong hàn 
  Thế 
sự phù 
vân hà 
túc vấn 
  Bất 
như cao 
ngọa thả 
gia xan. 
  Vương Duy    
  Thơ dịch :
 RÓT RƯỢU MỜI BÙI ĐỊCH 
   
  Mời anh cạn chén để nguôi sầu 
  Tráo trở tình đời khác sóng đâu 
  Tóc trắng quen thân còn thủ kiếm 
  Cửa son hiển đạt lại cười nhau 
  Mưa dầm cỏ dại càng phơi phới 
  Gió lạnh hoa xuân chịu dãi dầu 
  Chuyện thế mây trôi thôi chớ hỏi 
  Chi bằng ăn ngủ khỏi lo âu. 
  Đinh Vũ Ngọc       b/ Vê Luật      Hai bài Tứ Cú (TC), tạo ra bài Bát Cú, mỗi bài tự do rơi vào Luật Bằng hay Luật Trắc. Nên cho ra trên nguyên tắc, 4 (2^2) kết hợp về Luật cho bài TNBC Đường Thi là :    
  a/ TC trên luật 
Bằng, TC dưới luật 
Bằng   b/ TC trên luật 
Bằng, TC dưới luật 
Trắc    c/ TC trên luật 
Trắc , TC dưới luật 
Bằng   d/ TC trên luật 
Trắc , TC dưới luật 
Trắc       Thơ TNBC ĐƯỜNG THI tiêu biểu cho 4 thể Luật   (với cách ghi gọn : Bằng là bài Tứ Cú dùng Luật Bằng, Trắc là bài Tứ Cú dùng Luật Trắc.)    
  Sau đây là 4 bài TNBC tiêu biểu cho 4 thể Luật khác nhau kể trên, lấy từ những bài TNBC Đường Thi:      
Thể Luật a/ : trên Bằng, dưới Bằng   ĐỒNG BÁCH QUÁN      
Đông Nam nhất cảnh thanh tâm mục (luật Bằng 
  Hữu thủ thiên phong sáp thúy vi 
  Nhân tại hạ phương xung nguyệt thướng 
  Hạc tòng cao xứ phá yên phi    Nham 
thâm thủy 
lạc hàn 
xâm cốt (luật Bằng 
  Môn 
tĩnh hoa 
khai sắc 
chiếu y 
  Dục 
thức Bồng 
Lai kim 
tiện thị 
  Cánh 
ư hà 
xứ học 
vong ky. 
  Chu Phác       
  Dịch thơ :
 ĐỒNG BÁCH QUÁN 
   
  Một cảnh Đông nam ngắm tuyệt vời 
  Núi xanh nghìn ngọn dựng chơi vơi 
  Vầng trăng soi khách đi bên dưới 
  Cánh hạc tung mây vút giữa trời 
  Động thẳm, thấu xương hơi nước lạnh 
  Cổng im, thấm áo sắc hoa ngời 
  Bồng Lai muốn biết là đây vậy 
  Học đạo cần chi phải chọn nơi. 
  Đinh Vũ Ngọc       Thể Luật b/ : trên Bằng, dưới Trắc   PHỎNG LÃ DẬT NHÂN BẤT NGỘ      
Đào nguyên diện diện tuyệt phong trần (Luật Bằng 
  Liễu thị nam đầu phỏng ẩn nhân 
  Đáo môn bất cảm đề phàm điểu 
  Khan trúc hà tu vấn chủ nhân    Thành 
ngoại thanh 
sơn như 
ốc lý (Luật Trắc 
  Đông 
gia lưu 
thủy nhập 
tây lân 
  Bế 
hộ trừ 
thư đa 
tuế nguyệt 
  Chủng 
tùng giai 
tác lão 
long lân. 
  Vương Duy    
  Dịch thơ :
 THĂM NGƯỜI ẨN HỌ LÃ, KHÔNG GẶP 
   
  Đào Nguyên gió bụi cách xa đây 
  Nam Liễu thăm ai ẩn chốn nầy 
  “Phàm điểu” dám đề lên cổng trước 
  Chủ nhân chẳng hỏi ngắm tre gầy 
  Non xanh ngoài quách như trong mái 
  Nước đổ nhà đông đến xóm tây 
  Đóng cửa bao năm ngồi viết sách 
  Hàng thông đã mọc vảy rồng đầy. 
  Lê Nguyễn Lưu       Thể Luật c/ : trên Trắc, dưới Bằng   TỰ CỦNG LẠC CHU HÀNH NHẬP HOÀNG HÀ TỨC SỰ, KÝ PHỦ HUYỆN LIÊU HỮU      
Lục thủy thương thiên lộ hướng đông (Luật Trắc 
  Đông Nam sơn khoát đại hà thông 
  Hàn thụ y vi viễn thiên ngoại (bỏ Luật chữ thứ 6 
  Tịch dương minh diệt loạn lưu trung    Cô 
thôn kỷ 
tuế lâm 
y ngạn (Luật Bằng 
  Nhất 
nhạn sơ 
tình há 
sóc phong 
  Vi 
báo Lạc 
Kiều du 
hoạn lữ 
  Thiên 
chu bất 
hệ dữ 
tâm đồng. 
  Vi Ứng Vật       
  Dịch thơ :
 KỂ VIỆC TỪ CỦNG LẠC ĐI THUYỀN VÀO SÔNG HOÀNG HÀ, GỬI CÁC BẠN CÙNG LÀM QUAN Ở PHỦ VÀ HUYỆN 
   
  Nước biếc trời xanh lối tới đông 
  Đông nam núi rộng một dòng thông 
  Cây lạnh mịt mù trời thẩm thẩm 
  Nắng chiều thấp thoáng nước bềnh bồng 
  Bờ kia mấy độ thôn nằm quạnh 
  Gió bấc trời trong nhạn liệng không 
  Nhắn giúp Lạc Kiều bè bạn cũ : 
  Lòng với thuyền con chẳng buộc đồng. 
  Lê Nguyễn Lưu       Thể Luật d/ : trên Trắc, dưới Trắc   KHÚC GIANG ĐỐI TỬU      
Uyển ngoại giang đầu tọa bất quy (Luật Trắc 
  Thủy tinh cung điện chuyển phi vi 
  Đào hoa tế trục dương hoa lạc 
  Hoàng điểu thời kiêm bạch điểu phi    Túng 
ẩm cửu 
biền nhân 
cộng khí (Luật Trắc 
  Lãn 
triều chân 
dữ thế 
tương vi 
  Lại 
tình cánh 
giác Thương 
Châu viễn 
  Lão 
đại đồ 
thương vị 
phất y. 
  Đỗ Phủ    
  Dịch thơ :
 UỐNG RƯỢU TRÊN SÔNG KHÚC GIANG 
   
  Ngồi mãi bên vườn bến Khúc Giang 
  Thủy tinh cung điện bóng mờ gương 
  Hoa tơi tả rụng đào chen liễu 
  Chim nhởn nhơ bay trắng lẩn vàng 
  Chén rượu thường say, người đã chán 
  Phiên chầu vẫn trễ, tiếng còn mang 
  Biết rằng hoạn lộ xa tiên cảnh 
  Tuổi tác chưa về, nghĩ tự thương. 
  Bùi Khánh Đản       1.4 Pha trộn hai phần Niêm Luật      Bài thơ theo cách Niêm nào thì cũng tự nhiên rơi vào một thể Luật, tùy cảm hứng của thi nhân và tùy ngôn từ dùng diễn đạt. 
  Do đó nên phần Niêm và phần Luật của bài TNBC ĐƯỜNG THI luôn xảy ra một cách vô chừng, hoàn toàn không do sự cố ý lựa chọn của tác giả.  
  Chỉ khi pha trộn đầy đủ (2^2 x 2^2 = 16) như cách trình bày dưới đây thì mới thấy hết tất cả 16 dạng Niêm Luật khả hữu cho thơ TNBC ĐƯỜNG THI.    
  Trước ghép phép Niêm 1/ với 4 thể Luật a, b, c, d để có :    
  1/a TC trên 1-4 2-3 luật 
Bằng, TC dưới 1-4 2-3 luật 
Bằng   1/b TC trên 1-4 2-3 luật 
Bằng, TC dưới 1-4 2-3 luật 
Trắc    1/c TC trên 1-4 2-3 luật 
Trắc , TC dưới 1-4 2-3 luật 
Bằng   1/d TC trên 1-4 2-3 luật 
Trắc , TC dưới 1-4 2-3 luật 
Trắc       Và cũng như thế với 2/, 3/ và 4/ thì có : 
  2/a, 2/b, 2/c, 2/d 
  3/a, 3/b, 3/c, 3/d 
  4/a, 4/b, 4/c, 4/d    
  Nên có tất cả 16 dạng (hoặc 16 bộ) Niêm Luật khả dụng cho thơ Thất Ngôn Bát Cú ĐƯỜNG THI.    
  Như trên đã nói phớt qua, làm thơ không phải là làm toán, mà là bày tỏ tình ý của mình. Hứng thơ cho những tứ thơ, tứ thơ dùng ngôn từ tương ứng để diễn đạt, thi nhân dùng tai thẩm âm để sắp xếp những ngôn từ đó thành câu thuận tai (Luật thích nghi) và cũng dùng tai thẩm âm đan xen các câu nối tiếp nhau sao cho có âm điệu hài hòa (Niêm thích nghi). Và bài TNBC ĐƯỜNG THI sẽ tự nhiên lọt vào dạng Niêm Luật này hay khác của 16 dạng Niêm Luật khả hữu nêu trên.     
  Thế nên có những dạng Niêm Luật có nhiều tác phẩm, có những dạng có ít tác phẩm hơn. Trong 3 quyển sách tham khảo : ĐƯỜNG THI TRÍCH DỊCH của Đỗ Bằng Đoàn và Bùi Khánh Đản, ĐƯỜNG THI CẢM DỊCH của Đinh Vũ Ngọc và ĐƯỜNG THI TUYỂN DỊCH của Lê Nguyễn Lưu, số bài TNBC ĐƯỜNG THI được tuyển chọn không có đủ mặt trong 16 dạng Niêm Luật. Nơi những dạng không có ĐƯỜNG THI làm mẫu thì dùng tạm những bài TNBC Đường Luật của người chơi hiện đại để cho thấy đầy đủ 16 dạng Niêm Luật có trên nguyên tắc. 
  Ở 2 dạng thơ phổ thông có nhiều bài nhất và tương ứng với Niêm Luật qui định bởi dải số 1-8 2-3 4-5 6-7 thì chỉ nêu 1 bài ĐƯỜNG THI làm mẫu để thấy dạng thơ ấy ra sao. Còn với 14 dạng còn lại thuộc loại (nằm ngoài dải số) cần nêu ra để chứng minh qui tắc cấu tạo đề xuất trong sự giải mã thì tìm gặp được bao nhiêu bài đều nêu cả. 
  Xin nhắc lại cách ghi gọn : 1-4 2-3 hay 1-3 2-4 là Niêm, Bằng hay Trắc là Luật, bài Tứ Cú ghi trước là ở trên, ghi sau là ở dưới.      
1.4.1 Bảng kê 16 dạng Niêm Luật với những bài TNBC ĐƯỜNG THI tiêu biểu :      dạng Niêm Luật 1/16 : 1-4 2-3 
Bằng + 1-4 2-3 
Bằng   Đây là dạng thứ nhất trong 2 dạng Niêm Luật có nhiều bài ĐƯỜNG THI nhất và tương ứng với cách chơi theo dải số 1-8 2-3 4-5 6-7 nên chỉ nêu 1 bài.    
  BẦN NỮ      
Bồng môn vị thức ỷ la hương (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng 
  Nghĩ thác lương môi diệc tự thương 
  Thùy ái phong lưu cao cách điệu 
  Cộng liên thời thế kiệm sơ trang    Cảm 
tương thập 
chỉ khoa 
châm xảo (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng 
  Bất 
bả song 
mi đấu 
họa trường 
  Mỗi 
hận niên 
niên áp 
kim tuyến (bỏ luật chữ thứ 6) 
  Vị 
tha nhân 
tác giá 
y thường. 
  Tần Thao Ngọc    
  Dịch thơ :
 NGƯỜI CON GÁI NGHÈO 
   
  Chốn cửa bồng đâu biết lụa là 
  Cậy người mai mối nghĩ thương ta 
  Thanh cao yểu điệu ai ưa chuộng ? 
  Trang điểm tầm thường dạ xót xa ! 
  Mười ngón dẫu khoe tài tuyệt xảo 
  Đôi mày khó vẽ nét kiêu sa 
  Vẫn buồn áo cưới may cho khách 
  Kim chỉ miệt mài năm tháng qua. 
  Đinh Vũ Ngọc          dạng Niêm Luật 2/16 : 1-4 2-3 
Bằng + 1-4 2-3 
Trắc   Dạng Niêm Luật này không có trong 3 quyển ĐƯỜNG THI tham khảo 
  nên xin dùng tạm một bài TNBC Đường Luật để thấy dạng thơ ra sao    
  HÀ TIỆN      
Giàu thì ba bữa khó thì hai (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng 
  Lần lữa cho qua tháng thiếu đầy 
  Nón đổi lá ngoài quần đổi ống 
  Dép thay da mặt túi thay quai    Dặn 
vợ có 
cà đừng 
gắp mắm (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc 
  Bảo 
con bớt 
gạo bỏ 
thêm khoai 
  Thế 
gian mặc 
kẻ cười 
hà tiện 
  Ta 
chẳng phiền 
ai chẳng 
lụy ai. 
  Nguyễn-Minh-Triết (thơ xưa nên chắc không phải là ông Triết hiện nay)      
dạng Niêm Luật 3/16 : 1-4 2-3 
Trắc + 1-4 2-3 
Bằng   Dạng Niêm Luật này có 6 bài ĐƯỜNG THI :    
  1/6 DẠ BIỆT VI TƯ SĨ      
Cao quán trương đăng tửu phục thanh (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc 
  Dạ chung tàn nguyệt nhạn quy thanh 
  Chỉ ngôn đề điểu kham cầu lữ 
  Vô ná xuân phong dục tống hành    Hoàng 
hà khúc 
lý sa 
vi ngạn (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng 
  Bạch 
mã tần 
biên liễu 
hướng thành 
  Mạc 
oán tha 
phương tạm 
ly biệt (bỏ luật chữ thứ 6) 
  Tri 
quân đáo 
xứ tẫn 
phùng nghinh. 
  Cao Thích    
  Dịch thơ :
 ĐÊM TỪ BIỆT QUAN TƯ SĨ HỌ VI 
   
  Cao quán giăng đèn bày tiệc rượu 
  Trăng khuya chuông vọng nhạn về mau 
  Tiếng chim đêm gọi như tìm bạn 
  Ngọn gió xuân vờn để tiễn nhau 
  Lấn cát Hoàng Hà dòng uốn khúc 
  Hướng thành Bạch mã liễu tươi màu 
  Chớ buồn đất khách cùng chia biệt 
  Anh đến nơi đâu chẳng đón chào ! 
  Đinh Vũ Ngọc       2/6 TÂY DỊCH TỈNH TỨC SỰ       
Tây Dịch trùng vân khai thự huy (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc 
  Bắc Sơn sơ vũ điểm triều y 
  Thiên môn liễu sắc liên Thanh tỏa 
  Tam điện hoa hương nhập Tử vi    Bình 
minh đoan 
hốt bồi 
uyên liệt (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng 
  Bạc 
mộ thùy 
tiên tín 
mã quy 
  Quan 
chuyết tự 
bi đầu 
bạch tận 
  Bất 
như nham 
hạ yểm 
kinh phi. 
  Sầm Tham       
  Dịch thơ : 
VIỆC Ở TỈNH TÂY DỊCH 
   
  Tây Dịch mây tan ngời nắng sớm 
  Bắc Sơn mưa nhẹ rắc triều y 
  Nghìn nhà sắc liễu liền Thanh Tỏa 
  Ba điện mùi hoa tới Tử Vi 
  Sáng mai cầm hốt hàng uyên xếp 
  Chiều tối buông roi mặc ngựa đi 
  Quan vụng thương mình đầu bạc hết 
  Cổng tre về núi ở qua thì. 
  Lê Nguyễn Lưu       3/6 TÚC ĐÀO LỆNH ẨN CƯ      
Văn thuyết hoa nguyên khả tị Tần (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc 
  Tầm u sổ nhật bất phùng nhân 
  Yên hà động lý vô kê khuyển 
  Phong vũ lâm gian hữu quỷ thần    Hoàng 
công thạch 
thượng tam 
chi tú (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng 
  Đào 
lệnh môn 
tiền ngũ 
liễu xuân  
  Túy 
ngọa bạch 
vân nhàn 
nhập mộng 
  Bất 
tri hà 
vật thị 
ngô thân. 
  Tô Quảng Văn    
  Dịch thơ : 
TRỌ TẠI NHÀ ẨN CỦA QUAN LỆNH ĐÀO TIỀM 
   
  Nghe nói nguồn hoa lánh nạn Tần 
  Bao ngày chẳng gặp dấu nhàn nhân 
  Khói mây động vắng không gà chó 
  Mưa gió rừng thiêng có quỷ thần 
  Trên hòn Hoàng Thạch ba cành thắm 
  Trước ngõ Đào Tiềm năm liễu xuân 
  Mây trắng say nằm êm giấc mộng 
  Đâu còn biết vật vốn là thân! 
  Lê Nguyễn Lưu       4/6 VĂN LÂN GIA LÝ TRANH      
Bắc đẩu hoành thiên dạ dục lan (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc 
  Sầu nhân ỷ nguyệt tứ vô đoan 
  Hốt văn họa các Tần tranh dật 
  Tri thị lân gia Triệu nữ đàn    Khúc 
thành hư 
ức song 
nga liễm (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng 
  Điệu 
cấp giao 
liên ngọc 
chỉ hàn 
  Ngân 
thược trùng 
quan thính 
vị tịch 
  Bất 
như miên 
khứ mộng 
trung khan. 
  Từ An Trinh       
  Dịch thơ :
 NGHE ĐÀN TRANH NHÀ HÀNG XÓM 
   
  Bắc đẩu ngang trời đêm sắp tan 
  Buồn trong trăng sáng ý mơ màng 
  Chợt nghe gác họa âm Tần vọng 
  Mới biết nhà bên gái Triệu đàn 
  Khúc trọn hẳn chau đôi mắt ngọc 
  Điệu mau e buốt ngón tay vàng 
  Lắng nghe then khóa còn chưa mở 
  Ngủ quách may ra mộng gặp nàng. 
  Đinh Vũ Ngọc       5/6 BÁN NHẬT THÔN      
Bán Nhật ngô thôn đới vãn hà (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc 
  Nhàn môn cao liễu loạn phi nha 
  Hoành vân lĩnh ngoại thiên trùng thụ 
  Lưu thủy thanh trung nhất lưỡng gia    Sầu 
nhân tạc 
dạ tương 
tư khổ (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng 
  Nhuận 
nguyệt kim 
niên xuân 
ý xa 
  Tự 
thán Mai 
Sinh đầu 
tự tuyết 
  Khước 
liên Phan 
Lệnh huyện 
như hoa. 
  Tiền Khởi    
  Dịch thơ :
 THÔN BÁN NHẬT 
   
  Ráng tỏa trời chiều Bán Nhật thôn 
  Chim bay liễu rủ trước nhàn môn 
  Ngàn trùng cây núi làn mây phủ 
  Vài nóc nhà bên suối nước tuôn 
  Ðêm trước người buồn vương nhớ mãi 
  Năm nay tháng nhuận ý xuân dồn 
  Ðã thương Phan Lệnh hoa đầy huyện 
  Ðầu bạc Mai Sinh lại xót hơn. 
  Bùi Khánh Ðản       6/6 KINH NAM ÐẠO HOÀI CỔ      
Nam quốc sơn xuyên cựu đế kỳ (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc 
  Tống đài Lương tạ thượng y hi 
  Mã tê cổ thụ hành nhân yết 
  Mạch tú hoang thành dã trĩ phi    Phong 
xuy lạc 
diệp điền 
cung tỉnh (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng 
  Hoả 
nhập hoang 
lăng hóa 
bảo y 
  Ðồ 
sử Từ 
thần Dữu 
Khai phủ (bỏ luật chữ thứ 6) 
  Hàm 
Dương chung 
nhật khổ 
tư quy. 
  Lưu Vũ Tích       
  Dịch thơ :
 ÐẠO KINH NAM HOÀI CỔ 
   
  Ðô cũ miền Nam ở chốn này 
  Ðình Lương đài Tống dấu còn đây 
  Cây cao ngựa hí hành nhân vắng 
  Lúa tốt thành hoang dã trĩ bay 
  Lăng cũ áo bào mồi lửa đốt 
  Cung xưa giếng ngự lá thu đầy 
  Lòng quê cám cảnh Từ thần Dữu 
  Ở đất Hàm Dương nhớ suốt ngày. 
  Bùi Khánh Ðản       dạng Niêm Luật 4/16 : 1-4 2-3 
Trắc + 1-4 2-3 
Trắc   Đây là dạng thứ hai trong 2 dạng Niêm Luật có nhiều bài ĐƯỜNG THI nhất và tương ứng với cách chơi theo dải số 1-8 2-3 4-5 6-7, nên chỉ nêu 1 bài.     
  LOẠN TRUNG ỨC CHƯ HUYNH ĐỆ      
Thời nạn niên hoang thế nghiệp không (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc 
  Đệ huynh cơ lữ các tây đông 
  Điền viên liêu lạc can qua hậu 
  Cốt nhục lưu ly đạo lộ trung    Điếu 
ảnh phân 
phi thiên 
lý nhạn (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc 
  Từ 
căn tán 
tác cửu 
thu bồng 
  Cộng 
khan minh 
nguyệt ưng 
thùy lệ 
  Nhất 
dạ hương 
tâm ngũ 
xứ đồng. 
  Bạch Cư Dị    
  Dịch thơ : 
THỜI LOẠN NHỚ ANH EM 
   
  Mùa mất, nhà tan, cảnh chiến trường 
  Anh em tản mác ở mười phương 
  Ruộng vườn hoang phế sau thời loạn 
  Cốt nhục phân ly khắp nẻo đường 
  Bóng nhạn dặm nghìn chia lối thẳm 
  Cỏ bồng tháng chín dứt tơ vương 
  Cùng trông trăng sáng, đều sa lệ 
  Chốn chốn canh dài nhớ cố hương. 
  Bùi Khánh Đản       dạng Niêm Luật 5/16 : 1-4 2-3 
Bằng + 
1-3 2-4 Bằng   dạng Niêm Luật này có một bài ĐƯỜNG THI. Bài này có cách dùng vần rất đặc biệt, sẽ nhắc lại để nói rõ thêm ở phần sau :    
  ÐẰNG VƯƠNG CÁC      
Ðằng Vương cao các lâm giang chử (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng 
  Bội ngọc minh loan bãi ca vũ 
  Họa đống triêu phi Nam phố vân 
  Châu liêm mộ quyển Tây sơn vũ    Nhàn 
vân đàm 
ảnh nhật 
du du (Niêm 1-3 2-4, Luật Bằng 
  Vật 
hoán tinh 
di kỷ 
độ thu 
  Các 
trung đế 
tử kim 
hà tại ? 
  Hạm 
ngoại trường 
giang không 
tự lưu. 
  Vương Bột    
  Dịch thơ :
 ÐẰNG VƯƠNG CÁC 
   
  Gác Đằng cao ngất bên sông sâu 
  Múa hát đàn ca vắng bấy lâu 
  Nam phố mây mai in cột chạm 
  Tây sơn mưa xế cuốn rèm châu 
  Mây trôi đầm lặng soi bao thuở 
  Vật đổi sao dời trải mấy thâu 
  Trong gác con vua đâu vắng bóng ? 
  Hiên ngoài sông nước vẫn trôi mau. 
  Đinh Vũ Ngọc       dạng Niêm Luật 6/16 : 1-4 2-3 
Bằng + 
1-3 2-4 Trắc   dạng Niêm Luật này không có trong 3 quyển ĐƯỜNG THI tham khảo 
  nên xin dùng tạm một bài TNBC Đường Luật để thấy dạng thơ.    
  BÀI THƠ AI TẶNG...       
Bài thơ ai tặng chẳng riêng chung (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng 
  Đậm nét từ ngoài đến nội dung 
  Ý đẹp với tiêu đề mở cuộc 
  Lời hay trong kết luận sau cùng    Đối 
chỉnh cung 
đàn reo 
thánh thót (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc 
  Vần 
trơn tâm 
sự trải 
mông lung 
  Cả 
một trời 
xuân theo 
nét bút 
  Gieo 
muôn hương 
ngát của 
nghìn trùng.  
  LCR      
dạng Niêm Luật 7/16 : 1-4 2-3 
Trắc + 1-3 2-4 Bằng   Dạng Niêm Luật này có 1 bài ĐƯỜNG THI :     
  ĐĂNG TÙNG GIANG DỊCH LÂU BẮC VỌNG CỐ VIÊN      
Lệ tận giang lâu vọng Bắc quy (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc 
  Điền viên dĩ hãm bách trùng vi 
  Bình vu vạn lý hà nhân khứ 
  Lạc nhật thiên sơn không điểu phi    Cô 
chu dạng 
dạng hàn 
triều tiểu (Niêm 1-3 2-4, Luật Bằng 
  Cực 
phố thương 
thương viễn 
thụ vi 
  Bạch 
âu ngư 
phủ đồ 
tương đãi 
  Vị 
tảo Sam 
Thương lãn 
tức ky. 
  Lưu Trường Khanh    
  Dịch thơ : 
LÊN LẦU TRẠM TÙNG GIANG - TRÔNG VỀ QUÊ PHƯƠNG BẮC 
   
  Lầu sông lệ cạn trông về Bắc 
  Vườn ruộng trăm vòng chịu bủa vây 
  Vạn dặm đồng không người chẳng đến 
  Nghìn non chiều xuống chim còn bay 
  Thuyền đơn thấp thoáng triều se lạnh 
  Bến cũ xanh xanh cây mọc dày 
  Âu trắng ngư ông xin hãy đợi 
  Chưa qua hoạn nạn khó về ngay. 
  Đinh Vũ Ngọc          dạng Niêm Luật 8/16 : 1-4 2-3 
Trắc + 1-3 2-4 Trắc   Dạng Niêm Luật này có 4 bài ĐƯỜNG THI :    
  1/4 TẢO TRIỀU ĐẠI MINH CUNG      
Ngân chúc triều thiên tử mạch trường (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc 
  Cẩm thành xuân sắc hiểu thương thương 
  Thiên điều nhược liễu thùy Thanh Tỏa 
  Bách chuyển lưu oanh nhiễu Kiến Chương    Kiếm 
bội thanh 
tùy ngọc 
trì bộ (N. 1-3 2-4, L. Trắc, bỏ Luật chữ thứ 6 
  Y 
quan thân 
nhả ngự 
lô hương 
  Cộng 
mộc ân 
ba Phụng 
Trì thượng (bỏ Luật chữ thứ 6 
  Triều 
triều nhiễm 
cán thị 
quân vương. 
  Giả Chí     
  Dịch thơ : 
CHẦU SỚM Ở CUNG ĐẠI MINH 
   
  Đuốc bạc chầu vua dặm tía dài 
  Màu xuân thành cấm thấm ban mai 
  Liễu Thanh Tỏa rũ tơ mềm mại 
  Oanh Kiến Chương kêu giọng bẻ bai 
  Bước nhẹ sân rồng khua kiếm bội 
  Hương thơm lò nhự ướp cân đai 
  Phụng Trì tắm gội ơn mưa móc 
  Văn bút hầu luôn cạnh ngọc giai. 
  Lê Nguyễn Lưu       2/4 HỌA GIẢ CHI XÁ NHÂN “TẢO TRIỀU ĐẠI MINH CUNG” CHI TÁC  
  (nêu rồi ở 2/4 Niêm, nêu lại để thấy luôn phần Luật)      
Giáng trách kê nhân báo hiểu trù (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc 
  Thượng y phương tiến thúy vân cừu 
  Cửu thiên xướng hạp khai cung điện 
  Vạn quốc y quan bái miện lưu    Nhật 
sắc tài 
lâm tiên 
chưởng động (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc 
  Hương 
yên dục 
bạng cổn 
long phù 
  Triệu 
bãi tu 
tài ngũ 
sắc chìếu 
  Bội 
thanh quy 
đáo Phụng 
Trì đầu. 
  Vương Duy    
  Dịch thơ : 
HỌA BÀI “CHẦU SỚM Ở CUNG ĐẠI MINH” CỦA XÁ NHÂN ĐẠI CHÍ 
   
  Vừa nghe báo sáng lệnh kê nhân 
  Quan thượng y dân áo thúy vân 
  Chín bệ mở toang cung ngọc điện 
  Trăm quan mừng lạy đấng anh quân 
  Tay tiên đón nắng cao cao vẫy 
  Áo ngự xông hương lớp lớp vần 
  Tan cuộc triều đình vâng chiếu chỉ 
  Phượng Trì trở lại ngọc vang ngân. 
  Lê Nguyễn Lưu          3/4 QUÁ THỪA NHƯ THIỀN SƯ, TÚC CƯ SĨ TUNG KHÂU LAN NHÃ      
Vô Trước Phiên Thân đệ dữ huynh (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc 
  Tung Khâu lan nhã nhất phong tình ... 
  Thực tùy minh khánh sào ô hạ 
  Hành đạp không lâm lạc diệp thanh    Bích 
thủy định 
xâm hương 
án thấp (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc 
  Vũ 
hoa ưng 
cộng thạch 
sàng bình 
  Thâm 
động trường 
tùng hà 
sở hữu? 
  Nghiễm 
nhiên Thiên 
Trúc cổ 
tiên sinh. 
  Vương Duy    
  Dịch thơ : 
QUA NHÀ TU CỦA THIỀN SƯ THỪA NHƯ VÀ CƯ SĨ TÚC Ở NÚI TUNG  
   
  Vô Trước Thiên Thân cũng một nhà 
  Tung Khâu núi tạnh mái lan xa 
  Ăn theo khánh gõ vầy chim quạ 
  Đi dẫm rừng hoang động lá sa 
  Gần suối, án hương nhuần thấm nước 
  Như mưa, giường đá trải bằng hoa 
  Động sâu thông lớn còn chi nữa? 
  Thiên Trúc thầy xưa ở đó mà! 
  Lê Nguyễn Lưu       4/4 KHỨ GIA CHÂU, QUÁ THÀNH CỐ HUYỆN, TẦM VĨNH AN SIÊU THIỀN SƯ PHÒNG      
Mãn thụ tỳ bà đông trước hoa (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc 
  Lão tăng tương kiến cụ cà sa 
  Hán Vương thành bắc tuyết sơ tễ 
  Hàn Tín đàn tây nhật dục tà    Môn 
ngoại bất 
tu thôi 
ngũ mã (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc 
  Lâm 
trung thả 
thính diễn 
tam xa 
  Khởi 
liệu Ba 
Xuyên đa 
thắng sự 
  Vị 
quân thư 
thử báo 
kinh hoa. 
  Sầm Tham    
  Dịch thơ :
 ĐI GIA CHÂU, QUA HUYỆN THÀNH CỐ, TÌM CHỖ Ở CỦA SIÊU THIỀN SƯ TẠI VĨNH AN 
   
  Cây rợp tỳ bà đông nở hoa 
  Sư già gặp gỡ đủ cà sa 
  Hán Vương thành bắc tan cơn tuyết 
  Hàn Tín đàn tây giục bóng tà 
  Năm ngựa cửa ngoài khoan ruổi vội 
  Ba xe rừng thẳm hãy nghe qua 
  Đâu tưởng Ba Xuyên nhiều chuyện lạ 
  Thư này vì bác báo kinh hoa. 
  Lê Nguyễn Lưu          dạng Niêm Luật 9/16 : 1-3 2-4 Bằng + 1-4 2-3 
Bằng   Dạng Niêm Luật này có 3 bài ĐƯỜNG THI :    
  1/3 KÝ THÔI THỊ NGỰ      
Uyển khê sương dạ thính viên sầu (Niêm 1-3 2-4, Luật Bằng 
  Khứ quốc trường như bất hệ châu 
  Độc liên nhất nhạn phi Nam độ 
  Khước tiện song khê giải Bắc lưu    Cao 
nhân lũ 
giải Trần 
Phồn tháp (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng 
  Quá 
khách nan 
đăng Tạ 
Diễu lâu 
  Thử 
xứ biệt 
ly đồng 
lạc diệp 
  Triêu 
triêu phân 
tán Kính 
Đình thu. 
  Lý Bạch    
  Dịch thơ : 
GỬI QUAN THỊ NGỰ HỌ THÔI 
   
  Vượn khóc đêm sương xứ uyển khê 
  Như thuyền không buộc mãi xa quê 
  Nhạn đành lẻ một phương Nam đến 
  Suối chẳng chung đôi đất Bắc về 
  Hạ chỏng Trần Phồn còn lắm kẻ 
  Leo lầu Tạ Diễu khó trăm bề 
  Nơi đây lá rụng cùng chia biệt 
  Núi Kính Đình thu vẫn cách ly. 
  Đinh Vũ Ngọc       2/3 ĐĂNG KIM LĂNG PHƯỢNG HOÀNG ĐÀI      
Phượng Hoàng Ðài thượng phượng hoàng du (Niêm 1-3 2-4, Luật Bằng 
  Phượng khứ đài không giang tự lưu 
  Ngô cung hoa thảo mai u kính 
  Tấn đại y quan thành cổ khâu    Tam 
sơn bán 
lạc thanh 
thiên ngoại (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng 
  Nhị 
thủy trung 
phân bạch 
lộ châu 
  Tổng 
vị phù 
vân năng 
tế nhật 
  Trường 
An bất 
kiến sử 
nhân sầu. 
  Lý Bạch    
  Dịch thơ : 
LÊN ĐÀI PHƯỢNG HOÀNG Ở KIM LĂNG 
   
  Chim Phượng hoàng chơi lầu Phượng hoàng 
  Phượng bay lầu trống với trường giang 
  Cung Ngô hoa cỏ con đường rậm 
  Thời Tấn xiêm y nấm mộ tàn 
  Ngọn núi Tam Sơn trời xẻ nửa 
  Dòng sông Nhị Thủy bãi chia ngang 
  Ô hay mây nổi che trời sáng 
  Chẳng thấy Trường An sầu chứa chan. 
  Đinh Vũ Ngọc          3/3 THÀNH TÂY PHA PHIẾM CHU (nêu rồi ở 3/4 Niêm, nêu lại để thấy luôn phần Luật)      
Thanh nga hạo xỉ tại lâu thuyền (Niêm 1-3 2-4, Luật Bằng 
  Hoành dịch đoản tiêu bi viễn thiên 
  Xuân phong tự tín nha tường động 
  Trì nhật từ khan cẩm lãm khiên    Ngư 
xuy tế 
lãng dao 
ca phiến (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng 
  Yến 
xúc phi 
hoa lạc 
vũ diên 
  Bất 
hữu tiểu 
chu năng 
đảng tưởng 
  Bách 
hồ ná 
tống tửu 
như tuyền. 
  Đỗ Phủ    
  Dịch thơ : 
CHƠI THUYỀN PHÍA TÂY THÀNH 
   
  Mày xanh răng trắng tựa thuyền lầu 
  Sáo ngắn tiêu ngang đưa giọng sầu 
  Gió xuân dám động cột ngà trắng 
  Bóng xế nhìn qua dải gấm màu 
  Cá phun sóng gợn quạt ca dậy 
  Yến giẫm hoa bay múa tiệc chầu 
  Không có thuyền con chèo quẩy nước 
  Thì trăm vò rượu chảy về đâu ?! 
  Nguyễn Hữu Huyên       dạng Niêm Luật 10/16 : 1-3 2-4 Bằng + 1-4 2-3 
Trắc   Dạng Niêm Luật này có 1 bài ĐƯỜNG THI :    
  HÀNH DƯƠNG DỮ MỘNG ĐẮC PHÂN LỘ, TẶNG BIỆT      
Thập niên tiều tụy đáo Tần kinh (Niêm 1-3 2-4, Luật Bằng 
  Thùy liệu phiên vi Lĩnh ngoại hành 
  Phục Ba cổ đạo phong yên tại 
  Ông Trọng di khu thảo thụ bình    Trực 
dĩ dung 
sơ chiêu 
vật nghị (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc 
  Hưu 
tương văn 
tự chiếm 
thì danh 
  Kim 
triều bất 
dụng lâm 
hà biệt 
  Thùy 
lệ thiên 
hàng tiện 
trạc anh. 
  Liễu Tông Nguyên    
  Dịch thơ : 
CÙNG MỘNG ĐẮC CHIA ĐƯỜNG Ở HÀNH DƯƠNG, TẶNG THƠ KHI LY BIỆT 
   
  Tần kinh xơ xác chục năm trời 
  Lĩnh ngoại ai ngờ lại đến nơi ! 
  Lối cũ Phục Ba mây gió thoảng 
  Gò xưa Ông Trọng cỏ cây tươi 
  Biếng lười chỉ tổ cho người mỉa 
  Chữ nghĩa làm chi để tiếng đời ! 
  Chẳng đến bên sông ly biệt sớm 
  Một mình giặt dải lệ tuôn rơi... 
  Lê Nguyễn Lưu          dạng Niêm Luật 11/16 : 1-3 2-4 Trắc + 1-4 2-3 
Bằng   Dạng Niêm Luật này có 5 bài ĐƯỜNG THI :    
  1/5 HOÀI CỔ TÍCH - KỲ NHỊ      
Dao lạc thâm tri Tống Ngọc bi (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc 
  Phong lưu nho nhả diệc ngô sư 
  Trướng vọng thiên thu nhất sái lệ 
  Tiêu điều dị đại bất đồng thì    Giang 
san cố 
trạch không 
văn tảo (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng 
  Vân 
vũ hoang 
đài khởi 
mộng tư 
  Tối 
thị Sở 
cung câu 
dẫn diệt 
  Châu 
nhân chỉ 
điểm đáo 
kim nghi. 
  Đỗ Phủ    
  Dịch thơ : 
NHỚ CHUYỆN XƯA – BÀI HAI 
   
  Tống Ngọc sầu thương cảnh rụng rơi 
  Phong lưu nho nhả bậc thầy tôi 
  Nghìn thu tưởng nhớ còn rơi lệ 
  Một cảnh tiêu sơ dẫu khác thời 
  Sông núi nhà xưa văn vẻ đó 
  Mây mưa đài cũ mộng mơ thôi 
  Thương thay cung Sở tiêu tan hết 
  Nơi lái thuyền xưa chỉ vẫn ngờ. 
  Đinh Vũ Ngọc       2/5 TẶNG KHUYẾT HẠ BÙI XÁ NHÂN      
Nhị nguyệt hoàng ly phi Thượng Lâm (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc 
  Xuân thành tử cấm vãn âm âm 
  Trường lạc chung thanh hoa ngoại tận 
  Long Trì liễu sắc vũ trung thâm    Dương 
hòa bất 
tán cùng 
đồ hận (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng 
  Tiêu 
hán thường 
huyền bổng 
nhật tâm 
  Hiến 
phú thập 
niên do 
vị ngộ 
  Tu 
tương bạch 
phát đối 
hoa trâm. 
  Tiền Khởi    
  Dịch thơ : 
TẶNG XÁ NHÂN HỌ BÙI TRONG CUNG 
   
  Vườn Thượng Lâm oanh bay tháng hai 
  Thành xuân cửa sấm sớm mờ phai 
  Hoa ngoài Trường Lạc chuông văng vẳng 
  Mưa giữa Long Trì liễu bẻ bai 
  Khí ấm không tan hờn khốn quẫn 
  Sông ngân còn đỡ nỗi quan hoài 
  Mười năm dâng phú thời chưa gặp 
  Tóc trắng trâm hoa luống thẹn cài! 
  Lê Nguyễn Lưu          3/5 TỰ CỦNG LẠC CHU HÀNH NHẬP HOÀNG HÀ TỨC SỰ, KÝ PHỦ HUYỆN LIÊU HỮU  
  (nêu rồi ở 3/4 Luật, nêu lại để thấy luôn phần Niêm)      
Lục thủy thương thiên lộ hướng đông (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc 
  Đông Nam sơn khoát đại hà thông 
  Hàn thụ y vi viễn thiên ngoại (bỏ Luật chữ thứ 6 
  Tịch dương minh diệt loạn lưu trung    Cô 
thôn kỷ 
tuế lâm 
y ngạn (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng 
  Nhất 
nhạn sơ 
tình há 
sóc phong 
  Vi 
báo Lạc 
Kiều du 
hoạn lữ 
  Thiên 
chu bất 
hệ dữ 
tâm đồng. 
  Vi Ứng Vật    
  Dịch thơ :
 KỂ VIỆC TỪ CỦNG LẠC ĐI THUYỀN VÀO SÔNG HOÀNG HÀ, GỬI CÁC BẠN CÙNG LÀM QUAN Ở PHỦ VÀ HUYỆN 
   
  Nước biếc trời xanh lối tới đông 
  Đông nam núi rộng một dòng thông 
  Cây lạnh mịt mù trời thẩm thẩm 
  Nắng chiều thấp thoáng nước bềnh bồng 
  Bờ kia mấy độ thôn nằm quạnh 
  Gió bấc trời trong nhạn liệng không 
  Nhắn giúp Lạc Kiều bè bạn cũ : 
  Lòng với thuyền con chẳng buộc đồng. 
  Lê Nguyễn Lưu       4/5 TỐNG TIỀN VỆ HUYỆN - LÝ THẨM THIẾU PHỦ      
Hoàng điểu phiêu phiêu dương liễu thùy (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc 
  Xuân phong tống khách sử nhân bi 
  Oán biệt tự kinh thiên lý ngoại 
  Luân giao khước ức thập niên thì    Vân 
khai Mấn 
Thủy cô 
phàm viễn (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng 
  Lộ 
nhiễu Lương 
Sơn thất 
mã trì 
  Thử 
địa tòng 
lai khả 
thừa hứng (bỏ luật chữ thứ 6) 
  Lưu 
quân bất 
trú ích 
thê kỳ. 
  Cao Thích    
  Dịch thơ : 
TIỄN ĐƯA QUAN THIẾU PHỦ - LÝ THẨM HUYỆN TIỀN VỆ 
   
  Vút giọng oanh vàng tơ liễu buông 
  Gió xuân tiễn khách dạ sầu thương 
  Chia ly ngàn dặm bao đau xót 
  Gắn bó mười năm mấy vấn vương 
  Mấn Thủy mây giăng buồm lẻ bóng 
  Lương Sơn ngựa chậm núi chen đường 
  Nơi đây ngày trước cùng vui thú 
  Chẳng giữ chân anh thật đáng buồn ! 
  Đinh Vũ Ngọc          5/5 TÍCH VŨ VÕNG XUYÊN TRANG TÁC      
Tích vũ không lâm yên hỏa trì (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc 
  Chưng lê xuy thử hướng đông chuy 
  Mạc mạc thủy điền phi bạch lộ 
  Âm âm hạ mộc chuyên hoàng ly    Sơn 
trung tập 
tĩnh quan 
triêu cẩn (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng 
  Tùng 
hạ thanh 
trai chiết 
lộ quỳ 
  Dã 
lão dữ 
nhân tranh 
tịch bải 
  Hải 
âu hà 
sự cánh 
tương nghi? 
  Vương Duy    
  Dịch thơ : 
LÀM Ở NHÀ VÕNG XUYÊN TRONG CƠN MƯA DẦM 
   
  Mưa dầm leo lét lửa rừng hoang  
  Quê kệch canh lê cháo nếp xoàng 
  Nước ruộng mênh mông đàn hạc trắng 
  Cây hè dìu dặt cái oanh vàng 
  Xem cẩn ngồi thiền trong núi quạnh  
  Bè quỳ ăn nhạt dưới thông quang 
  Giành ngồi chiếu rượu kìa bao bác! 
  Âu biển vì đâu cứ ngỡ ngàng? 
  Lê Nguyễn Lưu       dạng Niêm Luật 12/16 : 1-3 2-4 Trắc + 1-4 2-3 
Trắc   dạng Niêm Luật này không có trong 3 quyển ĐƯỜNG THI tham khảo 
  nên xin mượn tạm một bài TNBC Đường Luật của cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm 
  để thấy dạng thơ.    
  DĨ HÒA VI QUÝ      
Ở thế đừng tranh tiếng trượng phu (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc 
  Làm chi cho có sự đôi co 
  Đây cậy đây khôn đây chẳng nhịn 
  Ðấy rằng đấy phải đấy không thua    Duật 
nọ hãy 
còn đua 
đến bạng (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc 
  Lươn 
kia hầu 
dễ kém 
chi cò 
  Chữ 
rằng : Nhân 
dĩ hòa 
vi quý 
  Vô 
sự thì 
hơn khỏi 
phải lo. 
  Nguyễn-Bỉnh-Khiêm      
dạng Niêm Luật 13/16 : 1-3 2-4 Bằng + 
1-3 2-4 Bằng   Dạng Niêm Luật này có 1 bài ĐƯỜNG THI :    
  SỨ QUÂN TỊCH DẠ TỐNG NGHIÊM HÀ NAM PHÓ TRƯỜNG THỦY, ĐẮC “THÌ” TỰ      
Kiều ca cấp quản tạp thanh ti (Niêm 1-3 2-4, Luật Bằng 
  Ngân chúc kim bôi ánh thúy mi 
  Sứ quân địa chủ năng tương tống 
  Hà doãn thiên minh mạc tọa từ    Xuân 
thành nguyệt 
xuất nhân 
giai túy (Niêm 1-3 2-4, Luật Bằng 
  Dã 
thú hoa 
thâm mã 
khứ trì 
  Ký 
thanh báo 
nhĩ sơn 
ông đạo: 
  Kim 
nhật Hà 
Nam thắng 
tích thì. 
  Sầm Tham    
  Dịch thơ : 
SỨ QUÂN ĐẶT TIỆC ĐÊM TIỄN QUAN DOÃN HÀ NAM HỌ NGHIÊM ĐI TRƯỜNG THỦY (lấy vần “thì”) 
   
  Hát vang sáo rộn nhịp đường tơ 
  Đuốc bạc ly vàng rạng ánh mơ 
  Chủ hạt sứ quân mời tiễn biệt 
  Thâu đêm Hà doãn chẳng đành ngơ 
  Thành xuân trăng mọc người say khướt 
  Đồn lính hoa đầy ngựa thẩn thơ 
  Xin với sơn ông lời nhắn gởi: 
  Hà Nam xưa kém hẳn bây giờ. 
  Lê Nguyễn Lưu       dạng Niêm Luật 14/16 : 1-3 2-4 Bằng + 
1-3 2-4 Trắc   Dạng Niêm Luật này có 2 bài ĐƯỜNG THI :    
  1/2 PHỎNG LÃ DẬT NHÂN BẤT NGỘ (nêu rồi ở 2/4 Luật, nêu lại để thấy luôn phần Niêm)      
Đào nguyên diện diện tuyệt phong trần (Niêm 1-3 2-4, Luật Bằng 
  Liễu thị nam đầu phỏng ẩn nhân 
  Đáo môn bất cảm đề phàm điểu 
  Khan trúc hà tu vấn chủ nhân    Thành 
ngoại thanh 
sơn như 
ốc lý (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc 
  Đông 
gia lưu 
thủy nhập 
tây lân 
  Bế 
hộ trừ 
thư đa 
tuế nguyệt 
  Chủng 
tùng giai 
tác lão 
long lân. 
  Vương Duy    
  Dịch thơ : 
THĂM NGƯỜI ẨN HỌ LÃ, KHÔNG GẶP 
   
  Đào Nguyên gió bụi cách xa đây 
  Nam Liễu thăm ai ẩn chốn nầy 
  “Phàm điểu” dám đề lên cổng trước 
  Chủ nhân chẳng hỏi ngắm tre gầy 
  Non xanh ngoài quách như trong mái 
  Nước đổ nhà đông đến xóm tây 
  Đóng cửa bao năm ngồi viết sách 
  Hàng thông đã mọc vảy rồng đầy. 
  Lê Nguyễn Lưu       2/2 LONG TRÌ       
Long trì dược long, long dĩ phi, (N. 1-3 2-4, L. Bằng, câu 1 bỏ Luật 2 chữ 4 và 6 
  Long đức tiên thiên, thiên bất vi. 
  Trì khai thiên hán phân hoàng đạo, 
  Long hướng thiên môn nhập tử vi.    Để 
đệ lâu 
đài đa 
khí sắc, (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc 
  Quân 
vương phù 
nhạn hữu 
quang huy. 
  Vị 
báo hoàn 
trung bách 
xuyên thủy, (bỏ Luật chữ thứ 6 
  Lai 
triều thử 
địa mạc 
đông quy. 
  Thẩm Thuyên Kỳ       
  Dịch thơ :
 AO RỒNG 
   
  Ao Rồng rồng nhảy, rồng bay đi, 
  Trời với đức rồng chẳng trái nghi. 
  Ao khơi Thiên Hán chia Hoàng Đạo, 
  Rồng hướng Thiên Môn tới Tử Vi. 
  Dinh thự lầu đài tươi khí sắc, 
  Quân vương thần tử rỡ quang huy. 
  Hoàn vũ trăm sông xin nhắn bảo: 
  Chầu đây, còn phải chảy đông chi! 
  Lê Nguyễn Lưu       dạng Niêm Luật 15/16 : 1-3 2-4 Trắc + 1-3 2-4 Bằng   Dạng Niêm Luật này không có trong 3 quyển ĐƯỜNG THI tham khảo 
  nên xin dùng tạm một bài TNBC Đường Luật để thấy dạng thơ.    
  BÁC LÁ YÊU DẤU !      
Bác Lá vui đùa bạn hữu đông (Niêm 1-3 2-4, luật Trắc 
  Ông đi vắng lặng hỏi buồn không ? 
  Chỉ lối ngay đường thường đụng chạm 
  Lời ngay nẻo phải khó tương đồng    Tình 
ơi kính 
Lão đời 
thanh thản (Niêm 1-3 2-4, luật Bằng 
  Bạn 
hởi thương 
người nước 
đục trong 
  Chờ 
Rơi ở 
lại đừng 
xa nhé 
  Bé 
tịt hồn 
thơ muối 
xát lòng.  
  Vancali      
dạng Niêm Luật 16/16 : 1-3 2-4 Trắc + 1-3 2-4 Trắc   Dạng Niêm Luật này có 2 bài ĐƯỜNG THI :    
  1/2 ĐỀ ĐÔNG KHÊ CÔNG U CƯ      
Đỗ Lăng hiền nhân thanh thả liêm (N. 1-3 2-4, L. Trắc, bỏ Luật chữ ‘Lăng’ 
  Đông Khê bốc trúc tuế thời yêm  
  Trạch cận thanh sơn đồng Tạ Diễu 
  Môn thùy bích liễu tự Đào Tiềm    Hảo 
điểu nghinh 
xuân ca 
hậu viện (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc 
  Phi 
hoa tống 
tửu vũ 
tiền thiềm 
  Khách 
đáo đãn 
tri lưu 
nhất túy 
  Bàn 
trung chi 
hữu thủy 
tinh diêm. 
  Lý Bạch    
  Dịch thơ : 
ĐỀ CHỖ Ở ẨN CỦA ĐÔNG KHÊ CÔNG 
   
  Đỗ Lăng đã nổi tiếng người hiền 
  Về ẩn Đông Khê trải mấy niên 
  Nhà cận núi xanh như Tạ Diễu 
  Cửa buông liễu biếc tựa Đào Tiềm 
  Đón xuân chim quý ca sau viện 
  Mời rượu hoa bay múa trước hiên 
  Khách đến nài nhau say một bữa  
  Trong mâm chỉ có muối tinh nghiền. 
  Đinh Vũ Ngọc          2/2 CHƯỚC TỬU DỮ BÙI ĐỊCH (nêu rồi ở 4/4 Niêm, nêu lại để thấy luôn phần Luật)      
Chước tửu dữ quân quân tự khoan (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc 
  Nhân tình phiên phúc tự ba lan 
  Bạch thủ tương tri do án kiếm 
  Chu môn tiên đạt tiếu đàn quan    Thảo 
sắc toàn 
kinh tế 
vũ thấp (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc 
  Hoa 
chi dục 
động xuân 
phong hàn 
  Thế 
sự phù 
vân hà 
túc vấn 
  Bất 
như cao 
ngọa thả 
gia xan. 
  Vương Duy    
  Thơ dịch : 
RÓT RƯỢU MỜI BÙI ĐỊCH 
   
  Mời anh cạn chén để nguôi sầu 
  Tráo trở tình đời khác sóng đâu 
  Tóc trắng quen thân còn thủ kiếm 
  Cửa son hiển đạt lại cười nhau 
  Mưa dầm cỏ dại càng phơi phới 
  Gió lạnh hoa xuân chịu dãi dầu 
  Chuyện thế mây trôi thôi chớ hỏi 
  Chi bằng ăn ngủ khỏi lo âu. 
  Đinh Vũ Ngọc       Bài mẫu của 16 dạng Niêm Luật cho thấy rõ ràng thi nhân đời Đường làm bài Thất Ngôn Bát Cú với 2 bài Tứ Cú tự do theo Niêm riêng, Luật riêng. Dạng Niêm Luật nào cũng cho được âm điệu hài hòa cho bài Thất Ngôn Bát Cú Đường Thi.      
1.5 Các chi tiết khác của 2 bài Tứ Cú      Tuy ít thấy nhưng trên nguyên tắc, ngoài việc áp dụng sự tự do Niêm và Luật, 2 bài Tứ Cú cũng được tự do dùng số vần (2 hay 3 chữ Vần) và dùng thanh vần (vần Trắc hay vần Bằng).      
a/ Về số Vần      Trong những bài TNBC ĐƯỜNG THI:  
  - bài 
Tứ Cú trên thường dùng 3 vần, nhưng thỉnh thoảng cũng có bài dùng 2 vần như bài ĐỒNG BÁCH QUÁN đã nêu làm mẫu cho Thể Luật a/.    
  - còn bài 
Tứ Cú dưới thì ngược lại, trong 3 quyển sách tham khảo, chỉ gặp duy nhất bài ĐẰNG VƯƠNG CÁC của Vương Bột là dùng 3 vần cho bài 
Tứ Cú dưới. Những bài ĐƯỜNG THI khác đều dùng 2 vần có lẽ để tiện viết cặp đối nơi hai câu 1-2 của bài 
Tứ Cú dưới.      
b/ Về vần Trắc hay vần Bằng      Thơ TNBC ĐƯỜNG THI có thể dùng vần Trắc hay vần Bằng. Nhưng trong ba quyển ĐƯỜNG THI Trích Dịch, Cảm Dịch và Tuyển Dịch nêu trên, những bài được chọn dùng toàn vần Bằng. Nên xin dùng tạm một bài TNBC Đường Luật dưới đây làm mẫu thơ vần Trắc.       
  Bài này có dạng Niêm Luật giống bài ĐĂNG TÙNG GIANG DỊCH LÂU BẮC VỌNG CỐ VIÊN của Lưu Trường Khanh, nhưng dùng vần Trắc:    
  ĐÀN XƯA NHỊP MỚI      
Đâu biết ai yêu mà gọi hỡi (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc, vần Trắc 
  Tình xuân luôn nóng khi chờ đợi 
  Thư hồng một bức nhạn cưu mang 
  Lá thắm đôi dòng oanh nhắn gởi    Những 
ngày xuân 
sắc cứ 
đi qua (Niêm 1-3 2-4, Luật Bằng 
  Nửa 
trái tim 
vàng chưa 
kịp tới 
  Tìm 
đâu ra 
được khách 
tri âm 
  Đưa 
bản đàn 
xưa theo 
nhịp mới ! 
  LCR      
1.6 Một bài thơ “PHÁ CÁCH”      Trong 3 quyển ĐƯỜNG THI nêu tên ở phần trên, chỉ gặp duy nhất một bài thơ TNBC có thể gọi là thơ « phá cách » dưới đây :    
  VÕNG XUYÊN BIỆT NGHIỆP 
  trên 1-4 2-3 luật Trắc, dưới 
1-2 3-4 luật Trắc      
Bất đáo Đông sơn hướng nhất niên (Niêm 1-4 2-3 
  Qui lai tài cập chủng xuân điền 
  Vũ trung thảo sắc lục kham nhiễm 
  Thủy thượng đào hoa hồng dục nhiên    *Ưu 
lậu tỳ 
khưu kinh 
luận học (Niêm 1-2 3-4) 
  U 
lũ trượng 
nhân hương 
lý hiền 
  Phi 
y đảo 
tỷ thả 
tương kiến 
  Tương 
hoan ngữ 
tiếu hành 
môn tiền. 
  Vương Duy 
  * bài Tứ Cú dưới : Niêm câu1 với câu2 và câu3 với câu4, không trúng vào 2 cách Niêm thông dụng của thơ Tứ Cú.    
  Dịch thơ : 
BIỆT THỰ Ở VÕNG XUYÊN 
   
  Đông Sơn chẳng đến trọn năm nay 
  Về gặp mùa xuân kịp cấy cày 
  Cỏ dại trong mưa xanh biếc biếc 
  Hoa đào trên nước đỏ hây hây 
  Tỳ hưu học đạo bàn kinh kệ 
  Bô lão làm gương giữ tháng ngày 
  Khoát áo trở giày tìm gặp bạn 
  Nói cười trước cổng thật vui thay ! 
  Đinh Vũ Ngọc       1.7 Một bài thơ áp dụng sự phóng khoáng tột cùng      Tiêu biểu cho sự phóng khoáng tột cùng là bài Đằng Vương Các của Vương Bột, cho thấy 2 bài TC trên và TC dưới hoàn toàn tự do dùng mọi đặc điểm của thơ Tứ Cú :    
  Niêm : trên / dưới khác nhau, Luật : trên / dưới giống nhau. 
  số chữ vần : dùng 3 chữ vần cho cả bài Tứ Cú dưới (thông thường bài TC dưới chỉ dùng 2 chữ vần) 
  vần Bằng / Trắc : TC trên dùng vần Trắc, TC dưới dùng vần Bằng       
  Và bài thơ được lưu truyền như là một kiệt tác. Đã nêu rồi nhưng xin nêu lại để thấy rõ những đặc điểm vừa kể trên.    
  ÐẰNG VƯƠNG CÁC      
Ðằng Vương cao các lâm giang chử (Niêm 1-4 2-3, 3 vần “u” thanh Trắc 
  Bội ngọc minh loan bãi ca vũ 
  Họa đống triêu phi Nam phố vân 
  Châu liêm mộ quyển Tây sơn vũ    Nhàn 
vân đàm 
ảnh nhật 
du du (Niêm 1-3 2-4, 3 vần “u” thanh Bằng 
  Vật 
hoán tinh 
di kỷ 
độ thu 
  Các 
trung đế 
tử kim 
hà tại ? 
  Hạm 
ngoại trường 
giang không 
tự lưu. 
  Vương Bột    
  Dịch thơ : 
ÐẰNG VƯƠNG CÁC 
   
  Gác Đằng cao ngất bên sông sâu 
  Múa hát đàn ca vắng bấy lâu 
  Nam phố mây mai in cột chạm 
  Tây sơn mưa xế cuốn rèm châu 
  Mây trôi đầm lặng soi bao thuở 
  Vật đổi sao dời trải mấy thâu 
  Trong gác con vua đâu vắng bóng ? 
  Hiên ngoài sông nước vẫn trôi mau. 
  Đinh Vũ Ngọc          PHẦN II. DẢI SỐ Kiểm Soát 1-8 2-3 4-5 6-7
      Hầu hết các nhóm chơi thơ Đường Luật hiện nay đều dùng dải số trên đây (1-8 2-3 4-5 6-7) để Kiểm Soát những bài thơ làm ra. Bài thơ phải Niêm đúng với sự qui định của dải số thì mới được công nhận là thơ TNBC Đường Luật.     
  Phân tách cấu trúc của dải số Kiểm Soát 1-8 2-3 4-5 6-7 thì thấy những kết quả như sau :      
2.1 Dải số không chấp nhận phép Niêm 1-3 2-4 của thơ Tứ Cú   Do các nhóm số KS 2-3 và 6-7, dải số bắt buộc bài Bát Cú phải dùng 2 bài Tứ Cú cùng theo phép Niêm 1-4 2-3.   
Vì thế nên những bài TNBC ĐƯỜNG THI với 1 hay 2 bài Tứ Cú dùng phép Niêm 1-3 2-4 thì bị loại ra.       2.2 Dải số không chấp nhận 2 bài Tứ Cú trên/dưới có Luật khác nhau   Do các nhóm số KS 1-8 và 4-5, dải số bắt buộc bài Bát Cú phải dùng 2 bài Tứ Cú cùng có Luật giống nhau.   
Vì thế nên những bài TNBC ĐƯỜNG THI với 2 bài Tứ Cú có Luật khác nhau thì bị loại ra.      2.3 Dải số vô tình chấp nhận những bài thơ “dở tệ” của người mới học      Ngược lại, cấu trúc của dải số với phép Niêm theo từng cặp 1-8 2-3 4-5 6-7, 
thì lại cho phép chấp nhận những bài thơ Bát Cú vụng về sai bét về Niêm, của những người mới tập chơi thơ Đường Luật.    
  Xin nêu 3 bài gặp được trên một diễn đàn :    
  TÌNH NGHĨA 2       
Ăn gì rồi cũng phải ăn cơm  
  Dẫu có gặp toàn những món ngon  
  Dưới biển, rừng sâu bao thức quí  
  Vườn thì gà vịt múp tơ non    Ai 
ai cũng 
muốn xơi 
cho biết 
  Gọi 
là thay 
đổi cái 
kèo rơm  
  Rồi 
về bếp 
lục tìm 
cơm nguội 
  Chiên 
lên thì 
nguội cũng 
thành dòn!     
  GHÉ THĂM VÀ HỌC HỎI       
Bài thơ ai viết với vần ‘tui’ 
  Càng đọc càng nghe thấy thật vui 
  Quên mất thời gian không chút tiếc  
  Mãi xem mãi đọc miệng mãi cười    Thật 
tình khen 
bạn thơ 
hay quá  
  Càng 
xem càng 
thấy khoẻ 
thêm thôi  
  Xem 
thơ học 
hỏi vần 
thi mới..  
  Câu 
văn đúng 
luật, thẳng 
đường ngôi.    
  LẠI CÙNG BAY      
Trăm năm một kiếp mộng mơ này 
  Có đủ vui buồn lẩn ngọt cay  
  Những phút ái ân ai cũng nhớ 
  Những lần đau khổ xác thêm gầy    Kẻ 
mong thêu 
dệt câu 
trao gửi 
  Người 
chờ tô 
điểm chữ 
mê say 
  Cơn 
mưa khi 
tạnh trời 
thêm sáng 
  Như 
chim liền 
cánh lại
 cùng bay.    
  3 bài thơ vừa nêu có các câu đều đúng Luật : nhì-tứ-lục phân mình, và toàn bài lại Niêm đúng theo 1-8 2-3 4-5 6-7.    
  Đây là những bài thơ vụng về của người mới học nên dĩ nhiên không kể sự thiếu sót nhiều về phần đối ngẩu. Nhưng về Niêm, tuy 
sai bét so với các bảng Luật của thơ TNBC Đường Luật, nhưng lại hoàn toàn ăn khớp với sự quy định của dải số.      
2.4 Lý do thực sự khiến có những bài TNBC ĐƯỜNG THI nằm ngoài dải số      Sự phân tách trên đây cho thấy rõ ràng rằng vì dải số không chấp nhận phép Niêm 1-3 2-4 và cũng không chấp nhận hai bài Tứ Cú có Luật khác nhau, nên có một số lớn bài TNBC ĐƯỜNG THI danh tiếng nằm ngoài dải số.      Tại sao không chấp nhận phép Niêm 1-3 2-4 là 1 trong 2 phép Niêm chính thức của loại thơ Tuyệt Cú ? 
  Tại sao không chấp nhận hai bài Tứ Cú khác Luật nhau ?     
  Sự pha trộn hai Luật Trắc và Bằng cũng như hai phép Niêm 1-3 2-4 và 1-4 2-3 trên 2 bài Tứ Cú hoàn toàn không hề gây trở ngại nào cho phần âm thanh của bài Bát Cú Đường Thi, mà thường là ngược lại, giúp cho bài thơ sống động hơn. Bài mẫu của các dạng Niêm Luật đã cho thấy rõ ràng như thế.      
2.5 Hai cách giải thích hoàn toàn thiếu căn bản hợp lý      Vì cho rằng thơ Niêm đúng theo dải số mới là thơ TNBC Đường Luật chính thống, nên người chơi theo dải số 
phải tìm cách giải thích lý do tại sao có những bài ĐƯỜNG THI danh tiếng nằm ngoài dải số.  
  Có hai cách giải thích được dùng : hoặc gọi đó là thơ “phá cách” hoặc cho đó là thơ Cổ Phong.    
  Tuy nhiên hai giải thích này đều rất là gượng ép, không có căn bản thuyết phục như trình bày dưới đây:      
2.5.1 Giải thích với câu “Đại gia văn chương bất câu Niêm Luật”      Để giải thích sự nằm ngoài dải số KS của những bài ĐƯỜNG THI danh tiếng lưu truyền, có người dùng câu “đại gia văn chương bất câu Niêm Luật” để cho rằng các nhà thơ lớn, sau khi đã nổi danh, bèn phá cách chơi. 
  Nhưng khó chấp nhận lập luận này vì số tác phẩm bị coi là thất Niêm “phá cách” đó quá nhiều. Chỉ riêng trong 3 quyển Đường Thi tham khảo nêu trên đã có đến 26 bài nằm trong 14 dạng Niêm Luật nằm ngoài dải số. Nhà thơ Quách-Tấn, dù rất trung thành với dải số, cũng nói lên sự không đồng ý như sau :    
  ’’ Có người trông thấy những bài thơ Thất Niêm Thất Luật phần nhiều là của các danh gia, cho nên bảo « Ðại gia văn chương bất câu Niêm Luật ». Sự thật, niêm luật đối với người đã thạo nghề chẳng khác những đường mòn trong xóm đối với người địa phương, muốn đi cho đúng có khó khăn gì. Thiết tưởng sự 
Thất Niêm Thất Luật kia là cố tình chớ không phải sơ ý. Tất có lý do. Nhưng dù chi chi đi nữa, chúng ta - kẻ hậu học - vẫn không nên bắt chước.’’ (trích Thi Pháp Thơ Ðường của Quách-Tấn, trang 168)    
  Tuy chưa thấy cái lý do, nhưng Quách-Tấn vẫn quả quyết là 
« việc dùng Niêm/Luật theo những cách ấy tất có lý do ».    Và cái lý do đó, sự giải mã đã cho thấy như trên : 
« Hai bài Tứ Cú của bài Bát Cú được tự do dùng Niêm và Luật khác nhau. »      2.5.2 Giải thích rằng những bài thơ nằm ngoài dải số KS đó là thơ Cổ Phong      Vì thấy khó chấp nhận câu « Đại gia văn chương bất câu Niêm Luật » nên một số khác tìm cách gán ép gọi những bài đó là thơ Cổ Phong :    
  Và để có thể làm thế, một bài thơ Đường luật tương tự được đưa ra làm mẫu, là bài « Vịnh Dế Duỗi » của Tú Quỳ. 
  Bài VỊNH DẾ DUỖI giống bài HOÀI CỔ TÍCH - Kỳ Nhị của Đỗ Phủ, thuộc dạng Niêm Luật 11/16, là 1 trong số 14 dạng Niêm Luật nằm ngoài dải số. 
  Bài « Vịnh Dế Duỗi » của Tú Quỳ có câu đầu dùng lục ngôn thể là : « Kiến chẳng kiến, voi chẳng voi ». 
  Ý tác giả muốn nói rằng con dế duỗi chẳng nhỏ như con kiến, 
mà cũng chẳng to như con voi. 
  Nhưng một chữ ‘phải’ được thêm vào ở vị trí thứ 3 : « Kiến chẳng 
phải kiến voi chẳng voi » khiến cho ba chữ nhì-tứ-lục đều là Trắc, để rồi dựa vào đó mà đem bài Vịnh Dế Duỗi làm mẫu cho thơ Cổ Phong. 
  Trong khi đó nếu thêm đúng ý tác giả là : « Kiến chẳng kiến 
mà voi chẳng voi » thì câu thơ sẽ có ba chữ nhì-tứ-lục phân minh. 
  Nhận xét toàn bài thơ Vịnh Dế Duỗi thì thấy như sau :    
  VỊNH DẾ DUỖI      
Kiến chẳng kiến (mà) voi chẳng voi (lục ngôn thể nếu bỏ chữ “mà”) 
  Ðời sanh dế duổi cũng choi choi  
  Ngắn cánh lên trời không đủ sức 
  Co tay vạch đất cũng khoe tài    Mưa 
tuôn gió 
tạt lên 
cao ở  
  Lửa 
bỏng dầu 
sôi nhảy 
đến chơi 
  Quân 
tử có 
thương thời 
chớ phụ 
  Ðể 
cho bay 
nhảy thử 
mà coi.  
  Tú Quì       
  Đây đúng là một bài thơ Đường Luật, vì trong mỗi câu các chữ nhì-tứ-lục đều phân minh đúng luật, hai cặp 3-4 và 5-6 đối nhau chỉnh tề, toàn bài chỉ dùng có một vần, và chỉ dùng 8 câu.    
  Còn thơ thất ngôn Cổ Phong đúng theo định nghĩa thì phải là :    
  - toàn bài có thể dùng 6, 8, 10, 12 câu    
(vậy tại sao không chọn bài mẫu khác hơn 8 câu ?)   - toàn bài có thể dùng nhiều vần    
(vậy tại sao không chọn bài mẫu có hơn một vần ?)   - không cần phải đối    
(vậy tại sao không chọn bài mẫu không có đối ?)    - không cần theo Niêm Luật    
(vậy tại sao không chọn bài mẫu với nhì-tứ-lục chẳng phân minh ?      Và thắc mắc sau cùng là : 
tại sao không dùng một bài thơ Cổ Phong lưu truyền từ thời Tiền Đường, Sơ Đường làm mẫu mà lại dùng một bài thơ của thi nhân hiện đại Việt Nam ?    
  Như trên vừa cho thấy : bài Vịnh Dế Duỗi không mang một đặc điểm riêng nào của thơ Cổ Phong. Nhưng vẫn được đem dùng làm mẫu để có thể xếp vào loại thơ Cổ Phong những bài ĐƯỜNG THI theo dạng Niêm Luật tương tự, không tương ứng với dải số 1-8 2-3 4-5 6-7.      
2.6 Thử tìm nguyên nhân phát sinh ra dải số KS 1-8 2-3 4-5 6-7      Trong số 16 dạng Niêm Luật được thi nhân đời Đường dùng để làm loại thơ Thất ngôn Bát Cú ĐƯỜNG THI, thì dải số KS 1-8 2-3 4-5 6-7 chỉ tương ứng với 2 dạng Niêm Luật có nhiều bài nhất là :    
  Dạng Niêm Luật 1/16 : Tứ Cú trên Niêm 1-4 2-3, luật Bằng; Tứ Cú dưới Niêm 1-4 2-3, luật Bằng 
  và Dạng Niêm Luật 4/16 :Tứ Cú trên Niêm 1-4 2-3, luật Trắc; Tứ Cú dưới Niêm 1-4 2-3, luật Trắc    
  Ở thời khoa cử, người ta có lý do để qui định cho các sĩ tử chỉ dùng 2 dạng Niêm Luật có rất nhiều bài này thôi. 
  Vì nếu áp dụng tất cả kỹ thuật nêu trên của ĐƯỜNG THI, với 16 dạng Niêm Luật trên lý thuyết, thì việc chấm thi sẽ rất phiền toái, mất nhiều thì giờ, và có khi ngoài tầm tay của một vài vị giám khảo.       
Nếu giả thuyết trên đây là đúng thì dải số KS 1-8 2-3 4-5 6-7 được lập ra để dùng cho giới khoa trường: Các sĩ tử dùng nó để kiểm soát những bài thơ làm để dự thi. Các giám khảo dùng nó để chấm thi.         PHẦN III. CÁCH CHƠI PHÓNG KHOÁNG CỦA ĐƯỜNG THI 
  VỚI THI NHÂN VIỆT NAM
      3.1 thơ của thi nhân tiền bối      Thi nhân tiền bối của chúng ta vẫn có những bài thơ chơi theo cách phóng khoáng của thi nhân đời Đường. Một ít bài đã nêu ở phần trên không phải do sưu tầm mà chỉ tình cờ gặp được. Xin nêu lại nơi đây với vài nhận xét.    
  VỊNH DẾ DUỖI      
Kiến chẳng kiến, (mà) voi chẳng voi (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc 
  Ðời sanh dế duổi cũng choi choi 
  Ngắn cánh lên trời không đủ sức 
  Co tay vạch đất cũng khoe tài    Mưa 
tuôn gió 
tạt lên 
cao ở (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng 
  Lửa 
bỏng dầu 
sôi nhảy 
đến chơi 
  Quân 
tử có 
thương thời 
chớ phụ 
  Ðể 
cho bay 
nhảy thử 
mà coi. 
  Tú Quì   
bài VỊNH DẾ DUỖI thuộc dạng Niêm Luật 11/16, giống bài HOÀI CỔ TÍCH - Kỳ Nhị của Đỗ Phủ      HÀ TIỆN       
Giàu thì ba bữa khó thì hai (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng 
  Lần lữa cho qua tháng thiếu đầy 
  Nón đổi lá ngoài quần đổi ống 
  Dép thay da mặt túi thay quai    Dặn 
vợ có 
cà đừng 
gắp mắm* (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc 
  Bảo 
con bớt 
gạo bỏ 
thêm khoai 
  Thế 
gian mặc 
kẻ cười 
hà tiện 
  Ta 
chẳng phiền 
ai chẳng 
lụy ai. 
  Nguyễn-Minh-Triết   
bài HÀ TIỆN đưọc dùng làm mẫu cho dạng Niêm Luật 2/16   * nhờ đổi luật nơi câu 
“Dặn vợ có cà đừng gắp mắm” mà nhạc thơ đổi điệu nghe rất đậm đà.    
  DĨ HÒA VI QUÝ      
Ở thế đừng tranh tiếng trượng phu (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc 
  Làm chi cho có sự đôi co 
  Đây cậy đây khôn đây chẳng nhịn* 
  Ðấy rằng đấy phải đấy không thua    Duật 
nọ hãy 
còn đua 
đến bạng (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc 
  Lươn 
kia hầu 
dễ kém 
chi cò 
  Chữ 
rằng : Nhân 
dĩ hòa 
vi quý 
  Vô 
sự thì 
hơn khỏi 
phải lo. 
  Nguyễn-Bỉnh-Khiêm   
bài DĨ HÒA VI QUÝ đưọc dùng làm mẫu cho dạng Niêm Luật 12/16   * nhờ dùng phép Niêm 1-3 2-4 với câu 
“Đây cậy đây khôn đây chẳng nhịn” mà nhạc thơ nghe bốc mạnh lên.    
  CẢM CỰU TỐNG TÂN XUÂN CHI TÁC (bài I)      
Xuân này nào phải cái xuân xưa, (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng 
  Có sớm ư ? thời lại có trưa. 
  Cửa động hoa còn thưa thớt bóng, 
  Buồng thoa oanh khéo dập dìu tơ    Phong 
lưu trước 
mắt bình 
hương nguội, (Niêm 1-3 2-4, Luật Bằng 
  Quang 
cảnh trong 
đời chiếc 
gối mơ. 
  Cân 
vàng nửa 
khắc xuân 
lơ lửng, 
  Phố 
liễu trăm 
đường khách 
ngẩn ngơ. 
  Hồ Xuân Hương   
Bài CẢM CỰU TỐNG TÂN XUÂN CHI TÁC thuộc dạng Niêm Luật 5/16 
  giống bài ĐẰNG VƯƠNG CÁC của Vương Bột      ÐỘC TIỂU THANH KÝ      
Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng 
  Ðộc điếu song tiền nhất chỉ thư 
  Chi phấn hữu thần liên tử hậu 
  Văn chương vô mệnh lụy phần dư    Cổ 
kim hận 
sự thiên 
nan vấn (Niêm 1-3 2-4, Luật Bằng 
  Phong 
vận kỳ 
oan ngã 
tự cư 
  Bất 
tri tam 
bách dư 
niên hậu 
  Thiên 
hạ hà 
nhân khấp 
Tố Như. 
  Nguyễn-Du   
Bài ÐỘC TIỂU THANH KÝ cũng thuộc dạng Niêm Luật 5/16 
  giống bài ĐẰNG VƯƠNG CÁC của Vương Bột      Thơ dịch : 
ĐỌC BÀI KÝ CỦA TIỂU THANH 
   
  Hoang vắng Tây Hồ hoa liễu xưa 
  Viếng nàng bên cửa một trang thư 
  Chết đi để tiếc, ôi son phấn 
  Lụy đến tàn tro, hỡi phú thơ 
  Kim cổ hận kia trời khó hỏi 
  Tài tình oan kiếp, khác gì ta 
  Ba trăm năm nữa trong thiên hạ 
  Chẳng biết ai người khóc Tố Như ? 
  Thảo Nguyên       Về bài Độc Tiểu Thanh Ký của cụ Nguyễn Du, xin nêu thêm một đoạn ký sự của nữ ký giả Phạm Thanh Thủy như sau :    
  (đầu phần trích dẫn) 
  Đời nhà Thanh, có xây một 
Nghênh quán sứ, trên đồi mai có mộ Tiểu Thanh, cạnh hồ Tây, để làm chỗ nghỉ chân cho các sứ thần Việt Nam, Ai lao, Cao miên, Thái lan đi sứ, trên đường tới Bắc kinh. Sứ đoàn thời Gia long (1802-1820) khi qua Hàng châu được tiếp dẫn sứ nhà Thanh đưa vào ở đây. Chánh sứ là Nguyễn Du tiên sinh. Trên mộ Tiểu Thanh hiện (2001) có đến 6 bia, do 6 danh sĩ viết. Thời Tố Như qua đây chỉ có một bài bia. Trên bia ghi :   
« Tiểu Thanh, trường hận ký »   Mai Khánh Sơn, Tiến sĩ Vĩnh lạc đề. 
  Chắc chắn cụ Tố Như đọc bài ký này, rồi thương hoa tiếc ngọc sáng tác bài thơ Độc Tiểu Thanh ký, nghĩa là cảm hứng sau khi đọc bài ký của Mai Khánh Sơn. 
  (cuối phần trích dẫn)    
  Cụ Nguyễn Du là Chánh Sứ, đại diện cho quốc gia, có trọng trách bảo vệ vinh dự và làm rạng danh cho dân tộc, nhất cử nhất động đều luôn phải lưu tâm, nhất là trong thời gian đi sứ. 
  Vậy lẽ đâu cụ lại “phá cách” làm chơi một bài thơ chẳng theo Niêm Luật ? 
  Trái lại, bài Độc Tiểu Thanh Ký với hai phép Niêm khác nhau cho hai bài Tứ Cú, lại có thể dùng làm bằng chứng cho người Trung quốc thấy rằng người Việt chúng ta cũng am hiểu tận tường cách chơi phóng khoáng của thi nhân đời Đường.      
Cách chơi phóng khoáng này cho phép thi nhân buông thả cho hồn thơ tự nhiên chạy theo cảm xúc : ý thơ, tứ thơ cho những ngôn từ thuận tai với phép Niêm nào, thể Luật nào, thì viết theo Niêm Luật đó.       3.2 thơ của thi nhân hiện đại      Đa số người chơi thơ Đường Luật hiện nay đều tuân thủ chặt chẻ phép Niêm theo dải số KS 1-8 2-3 4-5 6-7. Nhưng lắm lúc thi hứng và thi tứ 
tự nhiên đưa họ lọt vào một cách chơi hoàn toàn đúng theo nguyên tắc chơi của thi nhân đời Đường. Có vài thi nhân khi tự thấy, hoặc được các bạn trung thành với dải số KS nhắc lỗi, thì họ lập tức sửa ngay, mặc dầu những câu thơ ấy 
không có khuyết điểm nào, mà thường khi lại ‘hay hơn’ những câu được sửa lại. Số khác thì vẫn để nguyên bài thơ làm ra theo cảm hứng.    
  Sau đây là thơ của thi nhân hiện đại trúng vào 16 dạng Niêm Luật, kẻ vô tình người cố ý, ở mỗi dạng chỉ nêu 1 bài làm mẫu :         
dạng Niêm Luật 1/16 : 1-4 2-3 
Bằng + 1-4 2-3 
Bằng   Đây là dạng thứ nhất trong 2 dạng thông dụng có nhiều bài nhất, và thuộc cách chơi của dải số.    
  MƠ TIÊN      
Mới lưng lưng cốc đã châm đầy (Niêm 1-4 2-3, Bằng  
  Lại trách người sao khéo giả say 
  Rượu nhũn chân trần đi khó bước 
  Men nồng bến tục đến chưa hay   Nhá 
nhem đèn 
tối mờ 
con mắt (Niêm 1-4 2-3, Bằng 
  Chập 
choạng ai 
gần níu 
một tay 
  Quả 
tiếng Ðào 
Nguyên tuôn 
róc rách 
  Ta 
làm Từ 
Thức một 
đêm nay. 
  VNN (Nouméa 17/12/00)      
dạng Niêm Luật 2/16 : 1-4 2-3 
Bằng + 1-4 2-3 
Trắc   CHAY ĐỔI MẶN      
Chay ăn không chán sức sung ra (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng 
  Mặn nếm vài lần sẽ thích mà  
  Chay đậu tương phùng mời đến dự  
  Mặn cơm hợp tác bắt làm ra    Chay 
chán ở 
chùa qua 
đớp "phở" (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc 
  Mặn 
mê ra 
phố muốn 
tìm "quà"  
  Mặn 
chê tôm 
cá nghe 
càng ớn  
  Chay 
liếm xương 
cầy chỉ 
có ta. 
  Đoạn Trường       
dạng Niêm Luật 3/16 : 1-4 2-3 
Trắc + 1-4 2-3 
Bằng   CHO TRỌN CUỘC TÌNH      
Đông lạnh phòng không buồn lẻ bạn (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc 
  Đêm dài trằn trọc đếm từng canh 
  Mưa rơi thổn thức rơi không dứt  
  Gió thổi lạnh căm thổi quẩn quanh    Thu 
về dỗ 
nhẹ cơn 
hư ảo (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng 
  Hạ 
đến ru 
êm giấc 
mộng lành 
  Duyên 
kiếp đời 
này duyên 
kiếp nữa 
  Tình 
em giữ 
trọn trong 
tim anh 
  Huyền Minh Sep.28/09       
dạng Niêm Luật 4/16 : 1-4 2-3 
Trắc + 1-4 2-3 
Trắc   Đây là dạng thứ hai trong 2 dạng thông dụng có nhiều bài nhất, và thuộc cách chơi của dải số.    
  NHẤT ĐỜI      
Ai đã đem ta ném giữa đời (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc 
  Giang-hồ mã thượng mặc rong chơi 
  Bến-Tre Bến-Nghé len từng ngách 
  Bờ Á Bờ Âu quậy khắp nơi    Mỗi 
ả mỗi 
nghề vui 
lại đến (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc 
  Một 
mình một 
chiếu ngự 
rồi lui 
  Trời 
cho ngày 
tháng Xuân 
cho tuổi 
  Tao 
ngộ nàng 
thơ nhất 
cõi người ! 
  Châu-Anh Ðỗ-Ðơn-Chiếu (VT 20/7/2000)      
dạng Niêm Luật 5/16 : 1-4 2-3 
Bằng + 
1-3 2-4 Bằng   GHẸO BẠN      
Bạn hiền cứ nói đến đây vui (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng 
  Thấy rượu sợ say lại trốn chui  
  Chỉ mấy ly quèn đưa đẩy tới  
  Vài ba xị nhạt thoái de lùi    Mời 
ăn lại 
chối không 
cầm đũa (Niêm 1-3 2-4, Luật Bằng 
  Đã 
nhậu mà 
sao hổng 
thấy mùi  
  *Cao 
đô bởi 
ngại bà 
nhà hứ  
  *Chỉ 
dám ngồi 
đong nước 
ngọt thôi.  
  Đồng Lão 
  được một ông bạn nhắc nên tác giả sửa 2 câu chót lại là : 
  *Chắc 
ngại về 
nhà nghe 
vợ hứ 
  *Đành 
xơi nước 
ngọt một 
mình thôi.   
- 2 câu sửa lại kém súc tích hơn 2 câu gốc      dạng Niêm Luật 6/16 : 1-4 2-3 
Bằng + 
1-3 2-4 Trắc   BÀI THƠ AI TẶNG...      
Bài thơ ai tặng chẳng riêng chung (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng 
  Đậm nét từ ngoài đến nội dung 
  Ý đẹp với tiêu đề mở cuộc 
  Lời hay trong kết luận sau cùng    Đối 
chỉnh cung 
đàn reo 
thánh thót (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc 
  Vần 
trơn tâm 
sự trải 
mông lung 
  Cả 
một trời 
xuân theo 
nét bút 
  Gieo 
muôn hương 
ngát của 
nghìn trùng.  
  LCR 29/01/08      
dạng Niêm Luật 7/16 : 1-4 2-3 
Trắc + 1-3 2-4 Bằng   DUYÊN NỢ      
Mắc nợ tình thơ với bạn hiền (Niêm 1-4 2-3 Trắc 
  Cũng vì tạo hóa khéo se duyên !  
  Từng câu từng chữ hồn vương đọng  
  Mỗi ý mỗi vần dạ khắc tên !    Non 
xanh suối 
biếc cùng 
vui dạo (Niêm 1-3 2-4 Bằng 
  Biển 
ngọc mây 
hồng thỏa 
chí riêng  
  Từ 
đây chung 
lối đường 
muôn dặm 
  Kết 
nối niềm 
say vạn 
bạn vàng ! 
  Sao Mai      
dạng Niêm Luật 8/16 : 1-4 2-3 
Trắc + 1-3 2-4 Trắc   SẼ ÊM RƠ       
Đâu đã còn đâu tuổi mộng mơ (Niêm 1-4 2-3 Luật Trắc 
  Giận nhau trong mộng thuở ngây khờ  
  Tranh ăn tranh nói lời gay gắt 
  Hay dỗi hay hờn chuyện phất phơ    Bữa 
trước vui 
mồm khen 
gái đẹp (Niêm 1-3 2-4 Luật Trắc 
  Chiều 
nay buồn 
bụng chẳng 
ai chờ  
  Mở 
miệng mắc 
quai đành 
vã miệng 
  Đừng 
khen ai 
đẹp sẽ 
êm rơ. 
  LCR 12/03/09      
dạng Niêm Luật 9/16 : 1-3 2-4 Bằng + 1-4 2-3 
Bằng   VU LAN BUỒN NHỚ      
Thu nào yên giấc mẹ xa chơi (Niêm 1-3 2-4, Luật Bằng 
  Ba chục năm buồn nhớ chẳng nguôi  
  Thương con mỏi mắt tìm quanh quất  
  Nhớ trẻ xa quê khóc sụt sùi    Ai 
theo non 
nước ngày 
binh lửa (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng 
  Ta 
chọn sông 
hồ chuyến 
ngược xuôi  
  Mỗi 
bận Vu 
Lan buồn 
héo hắt  
  Ngây 
nhìn ảnh 
mẹ nhớ 
từng hồi.  
  VNN 10/05/07      
dạng Niêm Luật 10/16 : 1-3 2-4 Bằng + 1-4 2-3 
Trắc   CHẤP NHẬN THÔI      
Câu thơ trào phúng chĩ mua vui. (Niêm 1-3 2-4 Luật Bằng 
  Xướng họa cùng nhau tặng nụ cười… 
  Hả! Ha! vài tiếng trêu ai giận 
  Hi! Hí vần thơ chọc bạn chơi.   Đừng 
giận, đừng 
buồn thơ 
tiếu ý. (Niêm 1-4 2-3 Luật Trắc 
  Chung 
mâm, chung 
tiệc nắm 
tay ngồi. 
  Tinh 
thần sảng 
khoái và 
thanh nhẹ... 
  Huynh 
nghĩ như 
vầy chấp 
nhận thôi. 
  Thảo My 22/02/08      
dạng Niêm Luật 11/16 : 1-3 2-4 Trắc + 1-4 2-3 
Bằng   HỒN THƠ      
*Gió thoảng trùng dương sóng gọi bờ (Niêm 1-3 2-4 Luật Trắc 
  *Trăng vàng chếch bóng dậy hồn thơ  
  Nước chảy trên sông làn nước đục  
  Mây che đỉnh núi áng mây mờ    Nhà 
tranh xiêu 
vẹo bên 
triền núi (Niêm 1-4 2-3 Luật Bằng 
  Vách 
đất cong 
queo cạnh 
suối mơ  
  Gác 
vắng đêm 
dài trông 
nguyệt lặng  
  Tình 
quên thệ 
ước để 
duyên chờ.  
  Vancali 6.2.09  
  Sau đó tác giả tự thấy và tự cho là sai nên nhắn yêu cầu các bạn sửa lại 2 câu đầu là :   
*Trùng dương gió thoảng sóng xô bờ  
  *Chếch bóng trăng vàng dậy túi thơ    - “dậy túi thơ” thì nghe chẳng hay bằng “dậy hồn thơ”      dạng Niêm Luật 12/16 : 1-3 2-4 Trắc + 1-4 2-3 
Trắc   KHỔ THÂN THẦY ĐỒ      
Này mực, này nghiên mệt thí mồ (Niêm 1-3 2-4 Luật Trắc 
  Lại thêm trét giấy với pha hồ  
  Tướng cứ gầy tong mồm cứ há  
  Áo thì ướt nhẹp túi thì khô    Dưới 
phố xăn 
quần đon 
đả khách (Niêm 1-4 2-3 Luật Trắc 
  Bên 
đường trải
 chiếu chực 
chờ sô*  
  Chợt 
nghe có 
tiếng còi 
pô-lic  
  Vội 
chạy lăng 
quăng dọn 
hết đồ. 
  Tú Lòng...thòng  
  * show      
dạng Niêm Luật 13/16 : 1-3 2-4 Bằng + 
1-3 2-4 Bằng   NGỌT NHƯ THƠ ĐƯỜNG      
Thơ Đường đối đáp trông hay hay (Niêm 1-3 2-4 Luật Bằng 
  Trong trẻo ngọt ngào chút đắng cay  
  Nhà thơ tơi đất cho hạt giống  
  Đợi đến xuân về được mía cây    Tám 
câu ngắn 
ngủi hồn 
sâu lắng (Niêm 1-3 2-4 Luật Bằng 
  Lộ 
tả chân 
dung độc 
đáo thay  
  Như 
mây yêu 
gió trên 
đầu núi  
  Chìm 
đắm thơ 
Đường tim 
ngất ngây  
  Bạch Vân Nam 2007       
dạng Niêm Luật 14/16 : 1-3 2-4 Bằng + 
1-3 2-4 Trắc   VUI XUÂN CON TRÂU      
Không chờ chẳng đợi cũng nhanh qua (Niêm 1-3 2-4, Luật Bằng 
  Tiễn chuột mừng trâu đến viếng nhà  
  Vui Xuân hý hoạ vài câu đối  
  Đón Tết nhâm nhi mấy chén trà    Xúc 
cảnh lời 
vàng bay 
bỗng mãi (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc 
  Tri 
tình bút 
ngọc toả 
lan xa  
  Nắn 
nót bài 
thơ xin 
chúc Bác  
  Thi 
ca đám 
trẻ chạy 
theo già.  
  Sương Anh      
dạng Niêm Luật 15/16 : 1-3 2-4 Trắc + 1-3 2-4 Bằng   BÁC LÁ YÊU DẤU !      
Bác Lá vui đùa bạn hữu đông (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc 
  Ông đi vắng lặng hỏi buồn không ? 
  Chỉ lối ngay đường thường đụng chạm 
  Lời ngay nẻo phải khó tương đồng    Tình 
ơi kính 
Lão đời 
thanh thản (Niêm 1-3 2-4, Luật Bằng 
  Bạn 
hởi thương 
người nước 
đục trong 
  Chờ 
Rơi ở 
lại đừng 
xa nhé 
  Bé 
tịt hồn 
thơ muối 
xát lòng.  
  Vancali 9.23.08         
dạng Niêm Luật 16/16 : 1-3 2-4 Trắc + 1-3 2-4 Trắc   CƠM PHỞ      
Cơm phở đều từ lúa gạo ra (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc 
  Phở cơm no bụng sống thôi mà 
  Phở mảnh mai xinh thèm bế ẳm 
  Cơm tròn ục ịch muốn xê ra    Cơm 
nuốt hằng 
ngày lâu 
cũng chán (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc 
  Phở 
ăn thỉnh 
thoảng giống 
như quà 
  Cơm 
phở suy 
cùng đều 
ở gạo 
  Đổi 
thay cũng 
đúng phải 
hong ??? ta ! 
  Nguyệt Ánh    
  Bài mẫu của 16 dạng Niêm Luật cho thấy dạng nào cũng cho được âm điệu hài hòa cho bài Thất Ngôn Bát Cú Đường Thi.      
3.3 Sự qui định ra ĐƯỜNG LUẬT      Về sự qui định ra Ðường Luật Quách-Tấn có nhận xét như sau :    
  “Ðường Luật không phải do một cá nhân hay một nhóm thi nhân cao hứng đặt ra theo sở kiến, sở thích của mình, 
mà chính là sự đúc kết những kinh nghiệm kỹ thuật lâu đời đã thành công, và điển chế những thành công ấy làm khuôn phép chung cho làng Thơ.” 
  (trích Thi Pháp Thơ Ðường của Quách-Tấn, trang 38)    
  Sự Giải Mã ĐƯỜNG THI trình bày trên đây đã cho thấy đầy đủ 
phần kỹ thuật lâu đời đã thành công của thi nhân đời Đường.   Và nay không còn là thời kỳ khoa cử. Nên mọi người có thể tự do lấy 
những thành công ấy làm khuôn phép để làm thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật. Đó là cách chơi phóng khoáng của các thi nhân danh tiếng đời Đường, làm thơ 
Thất Ngôn Luật với 16 dạng Niêm Luật khác nhau.  
  16 dạng Niêm Luật đã nêu không phải là do ai đặt ra mà chỉ là cái kết quả tự nhiên của toán học trên cách chơi đã chọn của thi nhân đời Đường là dùng 2 bài Tứ Cú tự do theo Niêm riêng và theo Luật riêng. 
  Với sự lựa chọn này, khi làm thơ thi nhân khỏi phải nhắm vào một dạng thơ nào, mà chỉ cần tìm ý tứ để viết 8 câu thơ đúng theo bố cục (Mở Phá, Trạng, Luận, Thúc Kết). Tức là viết thành 4 cặp 1-2 3-4 5-6 7-8. Hứng thơ tứ thơ đưa đến những ngôn từ nào thì chọn ba chữ nhì-tứ-lục thích nghi với những ngôn từ ấy để có 1 câu đúng theo Luật Trắc một câu đúng theo Luật Bằng cho mỗi cặp, bất cứ là Luật nào cho câu trên Luật nào cho câu dưới cũng đều tốt cả. Dĩ nhiên phần đối ngẩu và gieo vần phải đúng theo khuôn phép của loại thơ “
Thất Ngôn Luật”. Và khi viết xong 8 câu như thế thì bài thơ Thất Ngôn Bát Cú sẽ đương nhiên trúng vào 1 trong 16 dạng Niêm Luật khả hữu mà cách chơi cho phép, gồm luôn cả 2 dạng Niêm Luật tương ứng với dải số.    
  Chơi theo cách quy định bởi dải số, thì chỉ là dùng 2 dạng Niêm Luật thông dụng nhất trong số 16 cách chơi của Đường Thi. Sự giới hạn này đôi khi cũng gây khó khăn cho thi nhân và bài thơ có thể kém hay. 
  Xin nêu lại bài HÀ TIỆN làm ví dụ :    
  HÀ TIỆN       
Giàu thì ba bữa khó thì hai (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng 
  Lần lữa cho qua tháng thiếu đầy 
  Nón đổi lá ngoài quần đổi ống 
  Dép thay da mặt túi thay quai    Dặn 
vợ có 
cà đừng 
gắp mắm* (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc 
  Bảo 
con bớt 
gạo bỏ 
thêm khoai 
  Thế 
gian mặc 
kẻ cười 
hà tiện 
  Ta 
chẳng phiền 
ai chẳng 
lụy ai. 
  Nguyễn-Minh-Triết 
  Nếu muốn làm đúng theo dải số thì phải đổi ngược Luật của 4 câu thơ chót : Trắc thành Bằng, Bằng Trắc. Với những tứ thơ đã đến như thế thì hầu như thi nhân không có cách thực hiện, hoặc chỉ thực hiện được trong sự gượng ép khiến lời lẽ không còn hồn nhiên thoải mái như trên.     
  Nhưng nói chung cách chơi nào cũng đều có thể cho ra được những bài thơ hay cho làng thưởng thức vì như đã nói cách chơi theo dải số chỉ là 2 trong số 16 cách khả hữu của phép chơi chung.         
PHẦN IV. KẾT LUẬN
      Nay không còn là thời kỳ khoa cử.  
  Nhưng người làm thơ lắm khi thích tìm cái khó để trổ tài. Làm thơ theo dải số 1-8 2-3 4-5 6-7 cũng là thêm một chút khó. Với cái khó đó mà cống hiến được cho làng thơ những bài thơ hay là điều đáng ca ngợi, chẳng ai mong muốn gì hơn. 
  Nhưng việc gọi những bài TNBC Đường Thi danh tiếng của Lý Bạch, Đỗ Phủ … Nguyễn Du, Nguyễn Bỉnh Khiêm, là thơ phá cách, thơ thất Niêm hay thơ Cổ Phong, chỉ vì chúng nằm ngoài dải số, thì bài Giải Mã này đã trả lời. Xin mọi người lấy công tâm mà kết luận.       
-----o-----
      LỜI CUỐI SÁCH      Phần kỹ thuật của thi nhân đời Đường đã được mỗ xẻ, phân tách và đúc kết như trên, cho thấy cách chơi của họ rộng rãi phóng khoáng hơn cách chơi quy định bởi dải số của thời khoa cử. 
  Mọi người chúng ta hoàn toàn tự do để chọn lựa cách chơi : theo thi nhân đời Đường hay theo dải số của giới khoa cử cũng đều tốt cả. Vì cách nào cũng cho được những bài thơ hay cho làng thưởng thức. 
  Nhưng nên trả lại César những gì của César: 
  1/ Trả lại cho những bài ĐƯỜNG THI danh tiếng cái địa vị tôn quý của chúng trong ĐƯỜNG THI. Đó là những bài TNBC ĐƯỜNG THI chính thống, không phải là thơ thất Niêm vì “phá cách”, lại càng không phải là thơ Cổ Phong. 
  2/ Thơ TNBC Đường Luật là thơ làm rập khuôn theo loại thơ “Thất Ngôn Luật” của thi nhân tiền bối đời Đường. Mà loại thơ này có tổng hợp 16 dạng Niêm Luật như đã trình bày. Làm theo dải số thì chỉ là trúng vào 2 dạng Niêm Luật “có nhiều bài nhất”, chứ không phải là “duy nhất”.  
  Thơ nằm trong 14 dạng Niêm Luật còn lại kia vẫn là thơ TNBC Đường Luật, nên chúng có quyền có mặt trong mọi trang thơ Đường Luật, thay vì bị gạt ra ngoài như hiện tại.  
  Sự sửa lại hay vứt bỏ vào sọt rác những bài thơ ấy khiến cho kho thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật bị thiếu mất đi những cách chơi đa dạng của thi nhân đời Đường.    
  Xin mượn 4 câu thơ của Xuân Diệu để dứt lời :    
  Thôi thì đó, nói cùng nhau cho thỏa,  
  Ai có thương thì tôi cũng cảm ơn,  
  Ai có ghét, tôi cũng cười khuây khỏa,  
  Lỗi vì tôi, tôi đâu dám giận hờn. - Xuân Diệu    
  Võ Nhựt Ngộ 
  98/190 Tán Kế, Phường 3 tp Bến Tre, tỉnh Bến Tre 
  Email : 
vonhutngo@yahoo.fr   -----o-----      
TÀI LIỆU THAM KHẢO      ĐƯỜNG THI CẢM DỊCH của Đinh Vũ Ngọc, nhà xuất bản ĐÀ NẴNG 
  ĐƯỜNG THI TRÍCH DỊCH của Đỗ Bằng Đoàn và Bùi Khánh Đản, nhà xuất bản VĂN HỌC 
  ĐƯỜNG THI TUYỂN DỊCH của Lê Nguyễn Lưu, nhà xuất bản Thuận Hóa 
  THI PHÁP THƠ ĐƯỜNG của Quách Tấn, nhà xuất bản Trẻ TP HỒ CHÍ MINH 
  ĐỌC VÀ DỊCH THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU của Thảo Nguyên, nhà xuất bản Hội Nhà Văn 
  Website : 
http://www.vnthuquan.net      *******************    
  MỤC LỤC 
  1 Lời Phi Lộ 
  Lời nói đầu 
  2 PHẦN I. Giải Mã và chứng minh 
  1.1 mẫu thơ Thất Ngôn Tứ Cú 
  LƯƠNG CHÂU TỪ 
  CỬU NGUYỆT CỬU NHẬT ỨC SƠN TRUNG HUYNH ÐỆ 
  3 HOÀNH GIANG TỪ kỳ nhị 
  TÍCH TRUNG TÁC 
  1.2 Lược dẫn sự Giải Mã 
  4 1.3 Những bài thơ minh chứng sự Giải Mã 
  Tiêu biểu cho 4 cách Niêm  
  XUÂN TỊCH LỮ HOÀI  
  5 HỌA GIẢ CHI XÁ NHÂN “TẢO TRIỀU ĐẠI MINH CUNG” CHI TÁC 
  THÀNH TÂY PHA PHIẾM CHU 
  6 CHƯỚC TỬU DỮ BÙI ĐỊCH 
  Tiêu biểu cho 4 thể Luật  
  ĐỒNG BÁCH QUÁN 
  7 PHỎNG LÃ DẬT NHÂN BẤT NGỘ 
  TỰ CỦNG LẠC CHU HÀNH NHẬP HOÀNG HÀ TỨC SỰ, KÝ PHỦ HUYỆN LIÊU HỮU 
  8 KHÚC GIANG ĐỐI TỬU 
  1.4 Pha trộn hai phần Niêm Luật 
  9 1.4.1 Bảng kê 16 dạng Niêm Luật với những bài TNBC ĐƯỜNG THI tiêu biểu : 
  BẦN NỮ 
  10 HÀ TIỆN 
  DẠ BIỆT VI TƯ SĨ 
  TÂY DỊCH TỈNH TỨC SỰ 
  11 TÚC ĐÀO LỆNH ẨN CƯ 
  VĂN LÂN GIA LÝ TRANH 
  12 BÁN NHẬT THÔN 
  KINH NAM ÐẠO HOÀI CỔ 
  13 LOẠN TRUNG ỨC CHƯ HUYNH ĐỆ 
  ÐẰNG VƯƠNG CÁC 
  14 BÀI THƠ AI TẶNG...  
  ĐĂNG TÙNG GIANG DỊCH LÂU BẮC VỌNG CỐ VIÊN 
  15 TẢO TRIỀU ĐẠI MINH CUNG 
  HỌA GIẢ CHI XÁ NHÂN “TẢO TRIỀU ĐẠI MINH CUNG” CHI TÁC  
  16 QUÁ THỪA NHƯ THIỀN SƯ, TÚC CƯ SĨ TUNG KHÂU LAN NHÃ 
  KHỨ GIA CHÂU, QUÁ THÀNH CỐ HUYỆN, TẦM VĨNH AN SIÊU THIỀN SƯ PHÒNG 
  17 KÝ THÔI THỊ NGỰ 
  ĐĂNG KIM LĂNG PHƯỢNG HOÀNG ĐÀI  
  18 THÀNH TÂY PHA PHIẾM CHU 
  HÀNH DƯƠNG DỮ MỘNG ĐẮC PHÂN LỘ, TẶNG BIỆT 
  19 HOÀI CỔ TÍCH - KỲ NHỊ 
  TẶNG KHUYẾT HẠ BÙI XÁ NHÂN 
  20 TỰ CỦNG LẠC CHU HÀNH NHẬP HOÀNG HÀ TỨC SỰ, KÝ PHỦ HUYỆN LIÊU HỮU 
  TỐNG TIỀN VỆ HUYỆN - LÝ THẨM THIẾU PHỦ  
  21 TÍCH VŨ VÕNG XUYÊN TRANG TÁC 
  DĨ HÒA VI QUÝ 
  SỨ QUÂN TỊCH DẠ TỐNG NGHIÊM HÀ NAM PHÓ TRƯỜNG THỦY, ĐẮC “THÌ” TỰ 
  22 PHỎNG LÃ DẬT NHÂN BẤT NGỘ 
  LONG TRÌ  
  23 BÁC LÁ YÊU DẤU ! 
  ĐỀ ĐÔNG KHÊ CÔNG U CƯ 
  24 CHƯỚC TỬU DỮ BÙI ĐỊCH     
  1.5 Các chi tiết khác của bài Tứ Cú 
  a/ Về số Vần 
  b/ Về vần Trắc hay vần Bằng 
  25 ĐÀN XƯA NHỊP MỚI 
  1.6 Một bài thơ “PHÁ CÁCH” 
  VÕNG XUYÊN BIỆT NGHIỆP 
  1.7 Một bài thơ áp dụng sự phóng khoáng tột cùng 
  26 ÐẰNG VƯƠNG CÁC 
  PHẦN II. DẢI SỐ Kiểm Soát 1-8 2-3 4-5 6-7 
  2.1 Dải số không chấp nhận phép Niêm 1-3 2-4 của thơ Tứ Cú 
  2.2 Dải số không chấp nhận 2 bài Tứ Cú trên/dưới có Luật khác nhau 
  2.3 Dải số vô tình chấp nhận những bài thơ “dở tệ” của người mới học 
  27 TÌNH NGHĨA 2  
  GHÉ THĂM VÀ HỌC HỎI  
  LẠI CÙNG BAY 
  2.4 Lý do thực sự khiến có những bài TNBC ĐƯỜNG THI nằm ngoài dải số 
  28 2.5 Hai cách giải thích hoàn toàn thiếu căn bản hợp lý 
  2.5.1 Giải thích với câu “Đại gia văn chương bất câu Niêm Luật” 
  2.5.2 Giải thích rằng những bài thơ nằm ngoài dải số KS đó là thơ Cổ Phong 
  VỊNH DẾ DUỖI 
  29 2.6 Thử tìm nguyên nhân phát sinh ra dải số KS 1-8 2-3 4-5 6-7 
  PHẦN III. CÁCH CHƠI PHÓNG KHOÁNG CỦA ĐƯỜNG THI VỚI THI NHÂN VIỆT NAM 
  3.1 thơ của thi nhân tiền bối 
  VỊNH DẾ DUỖI 
  30 HÀ TIỆN  
  DĨ HÒA VI QUÝ 
  CẢM CỰU TỐNG TÂN XUÂN CHI TÁC (bài I) 
  ÐỘC TIỂU THANH KÝ 
  31 3.2 thơ của thi nhân hiện đại 
  32 MƠ TIÊN 
  CHAY ĐỔI MẶN 
  CHO TRỌN CUỘC TÌNH 
  NHẤT ĐỜI 
  33 GHẸO BẠN 
  BÀI THƠ AI TẶNG... 
  DUYÊN NỢ 
  SẼ ÊM RƠ 
  34 VU LAN BUỒN NHỚ 
  CHẤP NHẬN THÔI 
  HỒN THƠ 
  35 KHỔ THÂN THẦY ĐỒ 
  NGỌT NHƯ THƠ ĐƯỜNG 
  VUI XUÂN CON TRÂU 
  BÁC LÁ YÊU DẤU ! 
  36 CƠM PHỞ 
  3.3 Sự qui định ra ĐƯỜNG LUẬT 
  37 PHẦN IV. KẾT LUẬN 
  LỜI CUỐI SÁCH 
  TÀI LIỆU THAM KHẢO    
            
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.06.2011 23:26:33 bởi Huyền Băng >