GIẢI MÃ ĐƯỜNG THI
Cho người chơi thơ Thất Ngôn Bát Cú ĐƯỜNG LUẬT
LỜI PHI LỘ Nhà hiền triết Platon hỏi các bạn thực khách : trong một chậu nước đầy, bỏ cục gạch vào thì nước tràn ra. Còn bỏ con cá lớn bằng cục gạch vào thì nước chẳng tràn ra, là tại sao ?
Các thực khách trả lời : kẻ bảo tại con cá nó hít nước, người bảo tại con cá nó nguo ngoe lội tới lội lui.
Phaton cho gia nhân mang chậu nước ra làm thí nghiệm, lúc bỏ con cá vào, thì nước cũng ... tràn ra !
Với thí nghiệm đó, Platon cho chúng ta câu châm ngôn dùng dạy trẻ là « hãy quan sát trước khi suy luận » (observer avant de raisonner)
Nhưng còn có một câu châm ngôn sâu sắc hơn nằm trong quyển Tự điển Petit Larousse : « tôi rất yêu quí Platon nhưng tôi yêu quí sự thật nhiều hơn » (Platon m’est cher, mais la réalité me l’est davantage).
Các tiền nhân chúng ta có công lớn với văn học, trong những tác phẩm của họ, không thể tránh được đôi khi cũng có những sơ sót sai lầm. Khi nhận ra, hẳn các vị ấy cũng khuyên chúng ta một câu tương tự : « đừng vì ta mà phủ nhận sự thật ».
Quyển GIẢI MÃ ĐƯỜNG THI này rất mong đóng góp được sự giải tỏa một vài thắc mắc của thơ Đường Luật trong tinh thần đó của tiền nhân.
Trân trọng kính thưa.
Võ Nhựt Ngộ
LỜI NÓI ĐẦU Các thi sĩ đời Đường (từ 618 đến 907 sau Công nguyên) có bày ra chơi một loại thơ 8 câu 7 chữ gọi là “Thất Ngôn Luật”, tức thơ Thất Ngôn Bát Cú (TNBC) Đường Thi. Loại thơ “Thất Ngôn Luật” này cho ra nhiều tác phẩm bất hủ lưu truyền đến tận ngày nay, qua bao nhiêu năm tháng thăng trầm vẫn còn được nhiều người yêu thích.
Cách chơi theo thơ TNBC Đường Thi hiện nay có đôi chút khác nhau giữa chỗ này với chỗ kia. Có một lối chơi rất phổ thông, nhưng lại không tương ứng với tất cả những bài TNBC Đường Thi danh tiếng được lưu truyền. Có lẽ vì thi nhân đời Đường theo một cách chơi phóng khoáng hơn. Bài Giải Mã Đường Thi này xin đóng góp một sự nhận xét vô tư, căn cứ vào sự phân tách phần kỹ thuật được các thi nhân đời Đường áp dụng trên những kiệt tác của họ.
Các cách gọi : Đường Thi, thơ Đường hay thơ Đường Luật đều được người chơi tùy tiện dùng đến để chỉ định loại thơ thi nhân Việt Nam làm chơi theo thể “Thất Ngôn Luật” của những bài TNBC Đường Thi.
Để giảm bớt sự giải thích rườm rà, bài này xin trân trọng coi như độc giả không còn xa lạ với các danh từ Niêm, Luật, Trắc, Bằng, luật Trắc hay luật Bằng của câu thơ, của bài thơ, nhất-tam-ngũ bất luận, nhì-tứ-lục phân minh v.v.
********
PHẦN I. GIẢI MÃ VÀ CHỨNG MINH
Cụm từ GIẢI MÃ ĐƯỜNG THI là cách nói gọn việc “Phần tách phần kỹ thuật của những bài TNBC Đường Thi lưu truyền, để nhận ra những cách chơi thực sự của thi nhân thời ấy”.
Như trên vừa nói, chủ yếu bài này nhắm vào sự nhận định cách làm loại thơ
Thất Ngôn luật của Đường Thi.
Những bài Đường Thi lưu truyền cho thấy rằng thi nhân đời Đường dùng 2 bài Thất Ngôn Tứ Cú (TC) ráp lại, để tạo thành bài Thất Ngôn Bát Cú (TNBC) Đường Thi.
Nên trước tiên, xin nói sơ qua về thơ Tứ Cú.
Thơ Thất Ngôn Tứ Cú (cũng thường được gọi là thơ Tứ Tuyệt hoặc thơ Tuyệt Cú) có 2 phép Niêm thông dụng là :
1-4 2-3 (câu1 Niêm với câu4 và câu2 Niêm với câu3)
1-3 2-4 (câu1 Niêm với câu3 và câu2 Niêm với câu4)
Xin nêu dẫn 4 bài Tứ Cú làm mẫu :
1.1 mẫu thơ Thất Ngôn Tứ Cú (TC) thơ TC Niêm 1-4 2-3, (luật Bằng, 3 vần) LƯƠNG CHÂU TỪ
Bồ
đào mỹ
tửu dạ
quang bôi
Dục
ẩm tì
bà mã
thượng thôi
Túy
ngọa sa
trường quân
mạc tiếu
Cổ
lai chinh
chiến kỷ
nhân hồi.
Vương Hàn
Dịch thơ :
BÀI HÁT LƯƠNG CHÂU
Bồ đào, rượu rót chén lưu ly
Muốn uống, tỳ bà giục ngựa đi
Bãi cát say nằm, chê cũng mặc
Xưa nay chinh chiến mấy ai về.
Bùi Khánh Đản thơ TC Niêm 1-4 2-3, (luật Trắc, 2 vần) CỬU NGUYỆT CỬU NHẬT ỨC SƠN TRUNG HUYNH ÐỆ
Ðộc
tại dị
hương vi
dị khách
Mỗi
phùng giai
tiết bội
tư thân
Dao
tri huynh
đệ đăng
cao xứ
Biến
tháp thù
du thiểu
nhất nhân.
Vương Duy
Dịch thơ :
NGÀY CHÍN THÁNG CHÍN NHỚ ANH EM CHƠI NÚI
Ðất khách một thân làm khách lạ
Mỗi khi giai tiết nhớ quê nhà
Anh em chắc hẳn đều lên núi
Hái đóa thù du thiếu một ta.
Bùi Khánh Ðản thơ TC Niêm 1-3 2-4, (luật Bằng, 3 vần) HOÀNH GIANG TỪ kỳ nhị
Hải
thần lai
quá ác
phong hồi
Lãng
đả Thiên
Môn thạch
bích khai
Chiết
Giang bát
nguyệt hà
như thử
Ðào
tự liên
sơn phún
tuyết lai.
Lý Bạch
Dịch thơ :
BÀI HÁT Ở SÔNG HOÀNH GIANG (bài hai)
Thần bể đi qua gió ngụt trời
Thiên Môn đã mở nước triều sôi
Chiết Giang tháng tám mà như thế
Sóng cuộn cao như núi tuyết rơi.
Bùi Khánh Ðản thơ TC Niêm 1-3 2-4, (luật Trắc, 3 vần) TÍCH TRUNG TÁC
Tẩu
mã tây
lai dục
đáo thiên
Từ
gia kiến
nguyệt lưỡng
hồi viên
Kim
dạ bất
tri hà
xứ túc
Bình
sa vạn
lý tuyệt
nhân yên.
Sầm Tham
Dịch thơ :
CẢM TÁC KHI Ở TRONG SA MẠC
Giục ngựa về tây đuổi mặt trời
Xa nhà hai độ nguyệt đầy vơi
Đêm nay biết trọ nơi nào nhỉ ?
Bãi cát mênh mông chẳng có người.
Đinh Vũ Ngọc 1.2 Lược dẫn sự Giải Mã Sự phân tách và tổng hợp phần kỹ thuật sử dụng trên các bài Đường Thi lưu truyền, cho thấy cách chơi của các thi nhân tiền bối đời Đường rất là phóng khoáng như dưới đây.
* Dùng hai bài Tứ Cú (TC) một trên một dưới ráp lại để làm một bài TNBC Đường Thi.
* Nét riêng của bài TNBC Đường Thi đòi hỏi nơi 2 bài Tứ Cú :
a/ phải dùng cùng một vần
b/ hai câu 3-4 của bài TC trên và hai câu 1-2 của bài TC dưới phải là 1 cặp đối nhau. (gọi riêng số câu của từng bài TC để dễ nhận ra phép Niêm)
c/ Ngoài 2 quy định trên, hai bài TC hoàn toàn tự do dùng riêng những đặc điểm khác của thơ TC như : Niêm, Luật, dùng 2 vần hay 3 vần, dùng vần Trắc hay vần Bằng.
1.3 Những bài thơ minh chứng sự Giải Mã Ngoài ý nghĩa là phần cốt lõi, phần quan trọng kế tiếp của bài thơ là Niêm và Luật.
Với thành phần là 2 bài TC tự do theo Niêm riêng, Luật riêng thì bài TNBC Đường Thi sẽ lọt vào nhiều dạng Niêm Luật khác nhau. Dưới đây xin xem xét từng chi tiết :
a/ Về Niêm Hai bài Tứ Cú (TC), tạo ra bài Bát Cú, được tự do dùng 2 phép Niêm riêng của thơ TC (1-4 2-3 và 1-3 2-4), nên cho ra, trên nguyên tắc, 4 (2^2) kết hợp về Niêm cho bài TNBC Đường Thi là :
1/ TC trên
1-4 2-3, TC dưới
1-4 2-3 2/ TC trên
1-4 2-3, TC dưới
1-3 2-4 3/ TC trên
1-3 2-4, TC dưới
1-4 2-3 4/ TC trên
1-3 2-4, TC dưới
1-3 2-4 Thơ TNBC ĐƯỜNG THI tiêu biểu cho 4 cách Niêm vừa nêu trên (với cách ghi gọn : 1-4 2-3 là bài Tứ Cú với Niêm 1-4 2-3 và 1-3 2-4 là bài Tứ Cú với Niêm 1-3 2-4.)
Sau đây là 4 bài Thất Ngôn Bát Cú (TNBC) tiêu biểu cho 4 cách Niêm khác nhau kể trên, lấy từ những bài TNBC ĐƯỜNG THI, hai bài Tứ Cú viết với 2 kiểu chữ khác nhau để phân biệt :
Cách Niêm 1/ : trên 1-4 2-3, dưới 1-4 2-3 XUÂN TỊCH LỮ HOÀI
Thủy lưu hoa tạ lưỡng vô tình (Niêm 1-4 2-3
Tống tận đông phong quá Sở thành
Hồ điệp mộng trung gia vạn lý
Đỗ quyên chi thượng nguyệt tam canh Cố
viên thư
động kinh
niên tuyệt (Niêm 1-4 2-3
Hoa
phát xuân
thôi lưỡng
mấn sinh
Tự
thị bất
quy, qui
tiện đắc
Ngũ
hồ yên
cảnh hữu
thùy tranh.
Thôi Đồ
Dịch thơ :
NỖI CẢM HOÀI ĐÊM XUÂN NƠI LỮ THỨ
Nước trôi hoa rụng thảy vô tình
Đưa gió đông bay quá Sở thành
Trong mộng bướm bay, nhà vạn dậm
Trên cành quyên gọi, nguyệt ba canh
Năm tàn một cánh thư trông mõi
Xuân giục hai màu tóc đổi nhanh
Tự ý không về, về hẵn được
Ngũ hồ phong cảnh có ai tranh ?
Đinh Vũ Ngọc Cách Niêm 2/ : trên 1-4 2-3, dưới 1-3 2-4 HỌA GIẢ CHI XÁ NHÂN “TẢO TRIỀU ĐẠI MINH CUNG” CHI TÁC
Giáng trách kê nhân báo hiểu trù (Niêm 1-4 2-3
Thượng y phương tiến thúy vân cừu
Cửu thiên xướng hạp khai cung điện
Vạn quốc y quan bái miện lưu Nhật
sắc tài
lâm tiên
chưởng động (Niêm 1-3 2-4
Hương
yên dục
bạng cổn
long phù
Triệu
bãi tu
tài ngũ
sắc chìếu
Bội
thanh quy
đáo Phụng
Trì đầu.
Vương Duy
Dịch thơ :
HỌA BÀI “CHẦU SỚM Ở CUNG ĐẠI MINH” CỦA XÁ NHÂN ĐẠI CHÍ
Vừa nghe báo sáng lệnh kê nhân
Quan thượng y dân áo thúy vân
Chín bệ mở toang cung ngọc điện
Trăm quan mừng lạy đấng anh quân
Tay tiên đón nắng cao cao vẫy
Áo ngự xông hương lớp lớp vần
Tan cuộc triều đình vâng chiếu chỉ
Phượng Trì trở lại ngọc vang ngân.
Lê Nguyễn Lưu Cách Niêm 3/ : trên 1-3 2-4, dưới 1-4 2-3 THÀNH TÂY PHA PHIẾM CHU
Thanh nga hạo xỉ tại lâu thuyền (Niêm 1-3 2-4
Hoành dịch đoản tiêu bi viễn thiên
Xuân phong tự tín nha tường động
Trì nhật từ khan cẩm lãm khiên Ngư
xuy tế
lãng dao
ca phiến (Niêm 1-4 2-3
Yến
xúc phi
hoa lạc
vũ diên
Bất
hữu tiểu
chu năng
đảng tưởng
Bách
hồ ná
tống tửu
như tuyền.
Đỗ Phủ
Dịch thơ :
CHƠI THUYỀN PHÍA TÂY THÀNH
Mày xanh răng trắng tựa thuyền lầu
Sáo ngắn tiêu ngang đưa giọng sầu
Gió xuân dám động cột ngà trắng
Bóng xế nhìn qua dải gấm màu
Cá phun sóng gợn quạt ca dậy
Yến giẫm hoa bay múa tiệc chầu
Không có thuyền con chèo quẩy nước
Thì trăm vò rượu chảy về đâu ?!
Nguyễn Hữu Huyên Cách Niêm 4/ : trên 1-3 2-4, dưới 1-3 2-4 CHƯỚC TỬU DỮ BÙI ĐỊCH
Chước tửu dữ quân quân tự khoan (Niêm 1-3 2-4
Nhân tình phiên phúc tự ba lan
Bạch thủ tương tri do án kiếm
Chu môn tiên đạt tiếu đàn quan Thảo
sắc toàn
kinh tế
vũ thấp (Niêm 1-3 2-4
Hoa
chi dục
động xuân
phong hàn
Thế
sự phù
vân hà
túc vấn
Bất
như cao
ngọa thả
gia xan.
Vương Duy
Thơ dịch :
RÓT RƯỢU MỜI BÙI ĐỊCH
Mời anh cạn chén để nguôi sầu
Tráo trở tình đời khác sóng đâu
Tóc trắng quen thân còn thủ kiếm
Cửa son hiển đạt lại cười nhau
Mưa dầm cỏ dại càng phơi phới
Gió lạnh hoa xuân chịu dãi dầu
Chuyện thế mây trôi thôi chớ hỏi
Chi bằng ăn ngủ khỏi lo âu.
Đinh Vũ Ngọc b/ Vê Luật Hai bài Tứ Cú (TC), tạo ra bài Bát Cú, mỗi bài tự do rơi vào Luật Bằng hay Luật Trắc. Nên cho ra trên nguyên tắc, 4 (2^2) kết hợp về Luật cho bài TNBC Đường Thi là :
a/ TC trên luật
Bằng, TC dưới luật
Bằng b/ TC trên luật
Bằng, TC dưới luật
Trắc c/ TC trên luật
Trắc , TC dưới luật
Bằng d/ TC trên luật
Trắc , TC dưới luật
Trắc Thơ TNBC ĐƯỜNG THI tiêu biểu cho 4 thể Luật (với cách ghi gọn : Bằng là bài Tứ Cú dùng Luật Bằng, Trắc là bài Tứ Cú dùng Luật Trắc.)
Sau đây là 4 bài TNBC tiêu biểu cho 4 thể Luật khác nhau kể trên, lấy từ những bài TNBC Đường Thi:
Thể Luật a/ : trên Bằng, dưới Bằng ĐỒNG BÁCH QUÁN
Đông Nam nhất cảnh thanh tâm mục (luật Bằng
Hữu thủ thiên phong sáp thúy vi
Nhân tại hạ phương xung nguyệt thướng
Hạc tòng cao xứ phá yên phi Nham
thâm thủy
lạc hàn
xâm cốt (luật Bằng
Môn
tĩnh hoa
khai sắc
chiếu y
Dục
thức Bồng
Lai kim
tiện thị
Cánh
ư hà
xứ học
vong ky.
Chu Phác
Dịch thơ :
ĐỒNG BÁCH QUÁN
Một cảnh Đông nam ngắm tuyệt vời
Núi xanh nghìn ngọn dựng chơi vơi
Vầng trăng soi khách đi bên dưới
Cánh hạc tung mây vút giữa trời
Động thẳm, thấu xương hơi nước lạnh
Cổng im, thấm áo sắc hoa ngời
Bồng Lai muốn biết là đây vậy
Học đạo cần chi phải chọn nơi.
Đinh Vũ Ngọc Thể Luật b/ : trên Bằng, dưới Trắc PHỎNG LÃ DẬT NHÂN BẤT NGỘ
Đào nguyên diện diện tuyệt phong trần (Luật Bằng
Liễu thị nam đầu phỏng ẩn nhân
Đáo môn bất cảm đề phàm điểu
Khan trúc hà tu vấn chủ nhân Thành
ngoại thanh
sơn như
ốc lý (Luật Trắc
Đông
gia lưu
thủy nhập
tây lân
Bế
hộ trừ
thư đa
tuế nguyệt
Chủng
tùng giai
tác lão
long lân.
Vương Duy
Dịch thơ :
THĂM NGƯỜI ẨN HỌ LÃ, KHÔNG GẶP
Đào Nguyên gió bụi cách xa đây
Nam Liễu thăm ai ẩn chốn nầy
“Phàm điểu” dám đề lên cổng trước
Chủ nhân chẳng hỏi ngắm tre gầy
Non xanh ngoài quách như trong mái
Nước đổ nhà đông đến xóm tây
Đóng cửa bao năm ngồi viết sách
Hàng thông đã mọc vảy rồng đầy.
Lê Nguyễn Lưu Thể Luật c/ : trên Trắc, dưới Bằng TỰ CỦNG LẠC CHU HÀNH NHẬP HOÀNG HÀ TỨC SỰ, KÝ PHỦ HUYỆN LIÊU HỮU
Lục thủy thương thiên lộ hướng đông (Luật Trắc
Đông Nam sơn khoát đại hà thông
Hàn thụ y vi viễn thiên ngoại (bỏ Luật chữ thứ 6
Tịch dương minh diệt loạn lưu trung Cô
thôn kỷ
tuế lâm
y ngạn (Luật Bằng
Nhất
nhạn sơ
tình há
sóc phong
Vi
báo Lạc
Kiều du
hoạn lữ
Thiên
chu bất
hệ dữ
tâm đồng.
Vi Ứng Vật
Dịch thơ :
KỂ VIỆC TỪ CỦNG LẠC ĐI THUYỀN VÀO SÔNG HOÀNG HÀ, GỬI CÁC BẠN CÙNG LÀM QUAN Ở PHỦ VÀ HUYỆN
Nước biếc trời xanh lối tới đông
Đông nam núi rộng một dòng thông
Cây lạnh mịt mù trời thẩm thẩm
Nắng chiều thấp thoáng nước bềnh bồng
Bờ kia mấy độ thôn nằm quạnh
Gió bấc trời trong nhạn liệng không
Nhắn giúp Lạc Kiều bè bạn cũ :
Lòng với thuyền con chẳng buộc đồng.
Lê Nguyễn Lưu Thể Luật d/ : trên Trắc, dưới Trắc KHÚC GIANG ĐỐI TỬU
Uyển ngoại giang đầu tọa bất quy (Luật Trắc
Thủy tinh cung điện chuyển phi vi
Đào hoa tế trục dương hoa lạc
Hoàng điểu thời kiêm bạch điểu phi Túng
ẩm cửu
biền nhân
cộng khí (Luật Trắc
Lãn
triều chân
dữ thế
tương vi
Lại
tình cánh
giác Thương
Châu viễn
Lão
đại đồ
thương vị
phất y.
Đỗ Phủ
Dịch thơ :
UỐNG RƯỢU TRÊN SÔNG KHÚC GIANG
Ngồi mãi bên vườn bến Khúc Giang
Thủy tinh cung điện bóng mờ gương
Hoa tơi tả rụng đào chen liễu
Chim nhởn nhơ bay trắng lẩn vàng
Chén rượu thường say, người đã chán
Phiên chầu vẫn trễ, tiếng còn mang
Biết rằng hoạn lộ xa tiên cảnh
Tuổi tác chưa về, nghĩ tự thương.
Bùi Khánh Đản 1.4 Pha trộn hai phần Niêm Luật Bài thơ theo cách Niêm nào thì cũng tự nhiên rơi vào một thể Luật, tùy cảm hứng của thi nhân và tùy ngôn từ dùng diễn đạt.
Do đó nên phần Niêm và phần Luật của bài TNBC ĐƯỜNG THI luôn xảy ra một cách vô chừng, hoàn toàn không do sự cố ý lựa chọn của tác giả.
Chỉ khi pha trộn đầy đủ (2^2 x 2^2 = 16) như cách trình bày dưới đây thì mới thấy hết tất cả 16 dạng Niêm Luật khả hữu cho thơ TNBC ĐƯỜNG THI.
Trước ghép phép Niêm 1/ với 4 thể Luật a, b, c, d để có :
1/a TC trên 1-4 2-3 luật
Bằng, TC dưới 1-4 2-3 luật
Bằng 1/b TC trên 1-4 2-3 luật
Bằng, TC dưới 1-4 2-3 luật
Trắc 1/c TC trên 1-4 2-3 luật
Trắc , TC dưới 1-4 2-3 luật
Bằng 1/d TC trên 1-4 2-3 luật
Trắc , TC dưới 1-4 2-3 luật
Trắc Và cũng như thế với 2/, 3/ và 4/ thì có :
2/a, 2/b, 2/c, 2/d
3/a, 3/b, 3/c, 3/d
4/a, 4/b, 4/c, 4/d
Nên có tất cả 16 dạng (hoặc 16 bộ) Niêm Luật khả dụng cho thơ Thất Ngôn Bát Cú ĐƯỜNG THI.
Như trên đã nói phớt qua, làm thơ không phải là làm toán, mà là bày tỏ tình ý của mình. Hứng thơ cho những tứ thơ, tứ thơ dùng ngôn từ tương ứng để diễn đạt, thi nhân dùng tai thẩm âm để sắp xếp những ngôn từ đó thành câu thuận tai (Luật thích nghi) và cũng dùng tai thẩm âm đan xen các câu nối tiếp nhau sao cho có âm điệu hài hòa (Niêm thích nghi). Và bài TNBC ĐƯỜNG THI sẽ tự nhiên lọt vào dạng Niêm Luật này hay khác của 16 dạng Niêm Luật khả hữu nêu trên.
Thế nên có những dạng Niêm Luật có nhiều tác phẩm, có những dạng có ít tác phẩm hơn. Trong 3 quyển sách tham khảo : ĐƯỜNG THI TRÍCH DỊCH của Đỗ Bằng Đoàn và Bùi Khánh Đản, ĐƯỜNG THI CẢM DỊCH của Đinh Vũ Ngọc và ĐƯỜNG THI TUYỂN DỊCH của Lê Nguyễn Lưu, số bài TNBC ĐƯỜNG THI được tuyển chọn không có đủ mặt trong 16 dạng Niêm Luật. Nơi những dạng không có ĐƯỜNG THI làm mẫu thì dùng tạm những bài TNBC Đường Luật của người chơi hiện đại để cho thấy đầy đủ 16 dạng Niêm Luật có trên nguyên tắc.
Ở 2 dạng thơ phổ thông có nhiều bài nhất và tương ứng với Niêm Luật qui định bởi dải số 1-8 2-3 4-5 6-7 thì chỉ nêu 1 bài ĐƯỜNG THI làm mẫu để thấy dạng thơ ấy ra sao. Còn với 14 dạng còn lại thuộc loại (nằm ngoài dải số) cần nêu ra để chứng minh qui tắc cấu tạo đề xuất trong sự giải mã thì tìm gặp được bao nhiêu bài đều nêu cả.
Xin nhắc lại cách ghi gọn : 1-4 2-3 hay 1-3 2-4 là Niêm, Bằng hay Trắc là Luật, bài Tứ Cú ghi trước là ở trên, ghi sau là ở dưới.
1.4.1 Bảng kê 16 dạng Niêm Luật với những bài TNBC ĐƯỜNG THI tiêu biểu : dạng Niêm Luật 1/16 : 1-4 2-3
Bằng + 1-4 2-3
Bằng Đây là dạng thứ nhất trong 2 dạng Niêm Luật có nhiều bài ĐƯỜNG THI nhất và tương ứng với cách chơi theo dải số 1-8 2-3 4-5 6-7 nên chỉ nêu 1 bài.
BẦN NỮ
Bồng môn vị thức ỷ la hương (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
Nghĩ thác lương môi diệc tự thương
Thùy ái phong lưu cao cách điệu
Cộng liên thời thế kiệm sơ trang Cảm
tương thập
chỉ khoa
châm xảo (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
Bất
bả song
mi đấu
họa trường
Mỗi
hận niên
niên áp
kim tuyến (bỏ luật chữ thứ 6)
Vị
tha nhân
tác giá
y thường.
Tần Thao Ngọc
Dịch thơ :
NGƯỜI CON GÁI NGHÈO
Chốn cửa bồng đâu biết lụa là
Cậy người mai mối nghĩ thương ta
Thanh cao yểu điệu ai ưa chuộng ?
Trang điểm tầm thường dạ xót xa !
Mười ngón dẫu khoe tài tuyệt xảo
Đôi mày khó vẽ nét kiêu sa
Vẫn buồn áo cưới may cho khách
Kim chỉ miệt mài năm tháng qua.
Đinh Vũ Ngọc dạng Niêm Luật 2/16 : 1-4 2-3
Bằng + 1-4 2-3
Trắc Dạng Niêm Luật này không có trong 3 quyển ĐƯỜNG THI tham khảo
nên xin dùng tạm một bài TNBC Đường Luật để thấy dạng thơ ra sao
HÀ TIỆN
Giàu thì ba bữa khó thì hai (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
Lần lữa cho qua tháng thiếu đầy
Nón đổi lá ngoài quần đổi ống
Dép thay da mặt túi thay quai Dặn
vợ có
cà đừng
gắp mắm (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc
Bảo
con bớt
gạo bỏ
thêm khoai
Thế
gian mặc
kẻ cười
hà tiện
Ta
chẳng phiền
ai chẳng
lụy ai.
Nguyễn-Minh-Triết (thơ xưa nên chắc không phải là ông Triết hiện nay)
dạng Niêm Luật 3/16 : 1-4 2-3
Trắc + 1-4 2-3
Bằng Dạng Niêm Luật này có 6 bài ĐƯỜNG THI :
1/6 DẠ BIỆT VI TƯ SĨ
Cao quán trương đăng tửu phục thanh (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc
Dạ chung tàn nguyệt nhạn quy thanh
Chỉ ngôn đề điểu kham cầu lữ
Vô ná xuân phong dục tống hành Hoàng
hà khúc
lý sa
vi ngạn (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
Bạch
mã tần
biên liễu
hướng thành
Mạc
oán tha
phương tạm
ly biệt (bỏ luật chữ thứ 6)
Tri
quân đáo
xứ tẫn
phùng nghinh.
Cao Thích
Dịch thơ :
ĐÊM TỪ BIỆT QUAN TƯ SĨ HỌ VI
Cao quán giăng đèn bày tiệc rượu
Trăng khuya chuông vọng nhạn về mau
Tiếng chim đêm gọi như tìm bạn
Ngọn gió xuân vờn để tiễn nhau
Lấn cát Hoàng Hà dòng uốn khúc
Hướng thành Bạch mã liễu tươi màu
Chớ buồn đất khách cùng chia biệt
Anh đến nơi đâu chẳng đón chào !
Đinh Vũ Ngọc 2/6 TÂY DỊCH TỈNH TỨC SỰ
Tây Dịch trùng vân khai thự huy (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc
Bắc Sơn sơ vũ điểm triều y
Thiên môn liễu sắc liên Thanh tỏa
Tam điện hoa hương nhập Tử vi Bình
minh đoan
hốt bồi
uyên liệt (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
Bạc
mộ thùy
tiên tín
mã quy
Quan
chuyết tự
bi đầu
bạch tận
Bất
như nham
hạ yểm
kinh phi.
Sầm Tham
Dịch thơ :
VIỆC Ở TỈNH TÂY DỊCH
Tây Dịch mây tan ngời nắng sớm
Bắc Sơn mưa nhẹ rắc triều y
Nghìn nhà sắc liễu liền Thanh Tỏa
Ba điện mùi hoa tới Tử Vi
Sáng mai cầm hốt hàng uyên xếp
Chiều tối buông roi mặc ngựa đi
Quan vụng thương mình đầu bạc hết
Cổng tre về núi ở qua thì.
Lê Nguyễn Lưu 3/6 TÚC ĐÀO LỆNH ẨN CƯ
Văn thuyết hoa nguyên khả tị Tần (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc
Tầm u sổ nhật bất phùng nhân
Yên hà động lý vô kê khuyển
Phong vũ lâm gian hữu quỷ thần Hoàng
công thạch
thượng tam
chi tú (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
Đào
lệnh môn
tiền ngũ
liễu xuân
Túy
ngọa bạch
vân nhàn
nhập mộng
Bất
tri hà
vật thị
ngô thân.
Tô Quảng Văn
Dịch thơ :
TRỌ TẠI NHÀ ẨN CỦA QUAN LỆNH ĐÀO TIỀM
Nghe nói nguồn hoa lánh nạn Tần
Bao ngày chẳng gặp dấu nhàn nhân
Khói mây động vắng không gà chó
Mưa gió rừng thiêng có quỷ thần
Trên hòn Hoàng Thạch ba cành thắm
Trước ngõ Đào Tiềm năm liễu xuân
Mây trắng say nằm êm giấc mộng
Đâu còn biết vật vốn là thân!
Lê Nguyễn Lưu 4/6 VĂN LÂN GIA LÝ TRANH
Bắc đẩu hoành thiên dạ dục lan (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc
Sầu nhân ỷ nguyệt tứ vô đoan
Hốt văn họa các Tần tranh dật
Tri thị lân gia Triệu nữ đàn Khúc
thành hư
ức song
nga liễm (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
Điệu
cấp giao
liên ngọc
chỉ hàn
Ngân
thược trùng
quan thính
vị tịch
Bất
như miên
khứ mộng
trung khan.
Từ An Trinh
Dịch thơ :
NGHE ĐÀN TRANH NHÀ HÀNG XÓM
Bắc đẩu ngang trời đêm sắp tan
Buồn trong trăng sáng ý mơ màng
Chợt nghe gác họa âm Tần vọng
Mới biết nhà bên gái Triệu đàn
Khúc trọn hẳn chau đôi mắt ngọc
Điệu mau e buốt ngón tay vàng
Lắng nghe then khóa còn chưa mở
Ngủ quách may ra mộng gặp nàng.
Đinh Vũ Ngọc 5/6 BÁN NHẬT THÔN
Bán Nhật ngô thôn đới vãn hà (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc
Nhàn môn cao liễu loạn phi nha
Hoành vân lĩnh ngoại thiên trùng thụ
Lưu thủy thanh trung nhất lưỡng gia Sầu
nhân tạc
dạ tương
tư khổ (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
Nhuận
nguyệt kim
niên xuân
ý xa
Tự
thán Mai
Sinh đầu
tự tuyết
Khước
liên Phan
Lệnh huyện
như hoa.
Tiền Khởi
Dịch thơ :
THÔN BÁN NHẬT
Ráng tỏa trời chiều Bán Nhật thôn
Chim bay liễu rủ trước nhàn môn
Ngàn trùng cây núi làn mây phủ
Vài nóc nhà bên suối nước tuôn
Ðêm trước người buồn vương nhớ mãi
Năm nay tháng nhuận ý xuân dồn
Ðã thương Phan Lệnh hoa đầy huyện
Ðầu bạc Mai Sinh lại xót hơn.
Bùi Khánh Ðản 6/6 KINH NAM ÐẠO HOÀI CỔ
Nam quốc sơn xuyên cựu đế kỳ (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc
Tống đài Lương tạ thượng y hi
Mã tê cổ thụ hành nhân yết
Mạch tú hoang thành dã trĩ phi Phong
xuy lạc
diệp điền
cung tỉnh (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
Hoả
nhập hoang
lăng hóa
bảo y
Ðồ
sử Từ
thần Dữu
Khai phủ (bỏ luật chữ thứ 6)
Hàm
Dương chung
nhật khổ
tư quy.
Lưu Vũ Tích
Dịch thơ :
ÐẠO KINH NAM HOÀI CỔ
Ðô cũ miền Nam ở chốn này
Ðình Lương đài Tống dấu còn đây
Cây cao ngựa hí hành nhân vắng
Lúa tốt thành hoang dã trĩ bay
Lăng cũ áo bào mồi lửa đốt
Cung xưa giếng ngự lá thu đầy
Lòng quê cám cảnh Từ thần Dữu
Ở đất Hàm Dương nhớ suốt ngày.
Bùi Khánh Ðản dạng Niêm Luật 4/16 : 1-4 2-3
Trắc + 1-4 2-3
Trắc Đây là dạng thứ hai trong 2 dạng Niêm Luật có nhiều bài ĐƯỜNG THI nhất và tương ứng với cách chơi theo dải số 1-8 2-3 4-5 6-7, nên chỉ nêu 1 bài.
LOẠN TRUNG ỨC CHƯ HUYNH ĐỆ
Thời nạn niên hoang thế nghiệp không (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc
Đệ huynh cơ lữ các tây đông
Điền viên liêu lạc can qua hậu
Cốt nhục lưu ly đạo lộ trung Điếu
ảnh phân
phi thiên
lý nhạn (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc
Từ
căn tán
tác cửu
thu bồng
Cộng
khan minh
nguyệt ưng
thùy lệ
Nhất
dạ hương
tâm ngũ
xứ đồng.
Bạch Cư Dị
Dịch thơ :
THỜI LOẠN NHỚ ANH EM
Mùa mất, nhà tan, cảnh chiến trường
Anh em tản mác ở mười phương
Ruộng vườn hoang phế sau thời loạn
Cốt nhục phân ly khắp nẻo đường
Bóng nhạn dặm nghìn chia lối thẳm
Cỏ bồng tháng chín dứt tơ vương
Cùng trông trăng sáng, đều sa lệ
Chốn chốn canh dài nhớ cố hương.
Bùi Khánh Đản dạng Niêm Luật 5/16 : 1-4 2-3
Bằng +
1-3 2-4 Bằng dạng Niêm Luật này có một bài ĐƯỜNG THI. Bài này có cách dùng vần rất đặc biệt, sẽ nhắc lại để nói rõ thêm ở phần sau :
ÐẰNG VƯƠNG CÁC
Ðằng Vương cao các lâm giang chử (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
Bội ngọc minh loan bãi ca vũ
Họa đống triêu phi Nam phố vân
Châu liêm mộ quyển Tây sơn vũ Nhàn
vân đàm
ảnh nhật
du du (Niêm 1-3 2-4, Luật Bằng
Vật
hoán tinh
di kỷ
độ thu
Các
trung đế
tử kim
hà tại ?
Hạm
ngoại trường
giang không
tự lưu.
Vương Bột
Dịch thơ :
ÐẰNG VƯƠNG CÁC
Gác Đằng cao ngất bên sông sâu
Múa hát đàn ca vắng bấy lâu
Nam phố mây mai in cột chạm
Tây sơn mưa xế cuốn rèm châu
Mây trôi đầm lặng soi bao thuở
Vật đổi sao dời trải mấy thâu
Trong gác con vua đâu vắng bóng ?
Hiên ngoài sông nước vẫn trôi mau.
Đinh Vũ Ngọc dạng Niêm Luật 6/16 : 1-4 2-3
Bằng +
1-3 2-4 Trắc dạng Niêm Luật này không có trong 3 quyển ĐƯỜNG THI tham khảo
nên xin dùng tạm một bài TNBC Đường Luật để thấy dạng thơ.
BÀI THƠ AI TẶNG...
Bài thơ ai tặng chẳng riêng chung (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
Đậm nét từ ngoài đến nội dung
Ý đẹp với tiêu đề mở cuộc
Lời hay trong kết luận sau cùng Đối
chỉnh cung
đàn reo
thánh thót (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc
Vần
trơn tâm
sự trải
mông lung
Cả
một trời
xuân theo
nét bút
Gieo
muôn hương
ngát của
nghìn trùng.
LCR
dạng Niêm Luật 7/16 : 1-4 2-3
Trắc + 1-3 2-4 Bằng Dạng Niêm Luật này có 1 bài ĐƯỜNG THI :
ĐĂNG TÙNG GIANG DỊCH LÂU BẮC VỌNG CỐ VIÊN
Lệ tận giang lâu vọng Bắc quy (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc
Điền viên dĩ hãm bách trùng vi
Bình vu vạn lý hà nhân khứ
Lạc nhật thiên sơn không điểu phi Cô
chu dạng
dạng hàn
triều tiểu (Niêm 1-3 2-4, Luật Bằng
Cực
phố thương
thương viễn
thụ vi
Bạch
âu ngư
phủ đồ
tương đãi
Vị
tảo Sam
Thương lãn
tức ky.
Lưu Trường Khanh
Dịch thơ :
LÊN LẦU TRẠM TÙNG GIANG - TRÔNG VỀ QUÊ PHƯƠNG BẮC
Lầu sông lệ cạn trông về Bắc
Vườn ruộng trăm vòng chịu bủa vây
Vạn dặm đồng không người chẳng đến
Nghìn non chiều xuống chim còn bay
Thuyền đơn thấp thoáng triều se lạnh
Bến cũ xanh xanh cây mọc dày
Âu trắng ngư ông xin hãy đợi
Chưa qua hoạn nạn khó về ngay.
Đinh Vũ Ngọc dạng Niêm Luật 8/16 : 1-4 2-3
Trắc + 1-3 2-4 Trắc Dạng Niêm Luật này có 4 bài ĐƯỜNG THI :
1/4 TẢO TRIỀU ĐẠI MINH CUNG
Ngân chúc triều thiên tử mạch trường (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc
Cẩm thành xuân sắc hiểu thương thương
Thiên điều nhược liễu thùy Thanh Tỏa
Bách chuyển lưu oanh nhiễu Kiến Chương Kiếm
bội thanh
tùy ngọc
trì bộ (N. 1-3 2-4, L. Trắc, bỏ Luật chữ thứ 6
Y
quan thân
nhả ngự
lô hương
Cộng
mộc ân
ba Phụng
Trì thượng (bỏ Luật chữ thứ 6
Triều
triều nhiễm
cán thị
quân vương.
Giả Chí
Dịch thơ :
CHẦU SỚM Ở CUNG ĐẠI MINH
Đuốc bạc chầu vua dặm tía dài
Màu xuân thành cấm thấm ban mai
Liễu Thanh Tỏa rũ tơ mềm mại
Oanh Kiến Chương kêu giọng bẻ bai
Bước nhẹ sân rồng khua kiếm bội
Hương thơm lò nhự ướp cân đai
Phụng Trì tắm gội ơn mưa móc
Văn bút hầu luôn cạnh ngọc giai.
Lê Nguyễn Lưu 2/4 HỌA GIẢ CHI XÁ NHÂN “TẢO TRIỀU ĐẠI MINH CUNG” CHI TÁC
(nêu rồi ở 2/4 Niêm, nêu lại để thấy luôn phần Luật)
Giáng trách kê nhân báo hiểu trù (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc
Thượng y phương tiến thúy vân cừu
Cửu thiên xướng hạp khai cung điện
Vạn quốc y quan bái miện lưu Nhật
sắc tài
lâm tiên
chưởng động (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc
Hương
yên dục
bạng cổn
long phù
Triệu
bãi tu
tài ngũ
sắc chìếu
Bội
thanh quy
đáo Phụng
Trì đầu.
Vương Duy
Dịch thơ :
HỌA BÀI “CHẦU SỚM Ở CUNG ĐẠI MINH” CỦA XÁ NHÂN ĐẠI CHÍ
Vừa nghe báo sáng lệnh kê nhân
Quan thượng y dân áo thúy vân
Chín bệ mở toang cung ngọc điện
Trăm quan mừng lạy đấng anh quân
Tay tiên đón nắng cao cao vẫy
Áo ngự xông hương lớp lớp vần
Tan cuộc triều đình vâng chiếu chỉ
Phượng Trì trở lại ngọc vang ngân.
Lê Nguyễn Lưu 3/4 QUÁ THỪA NHƯ THIỀN SƯ, TÚC CƯ SĨ TUNG KHÂU LAN NHÃ
Vô Trước Phiên Thân đệ dữ huynh (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc
Tung Khâu lan nhã nhất phong tình ...
Thực tùy minh khánh sào ô hạ
Hành đạp không lâm lạc diệp thanh Bích
thủy định
xâm hương
án thấp (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc
Vũ
hoa ưng
cộng thạch
sàng bình
Thâm
động trường
tùng hà
sở hữu?
Nghiễm
nhiên Thiên
Trúc cổ
tiên sinh.
Vương Duy
Dịch thơ :
QUA NHÀ TU CỦA THIỀN SƯ THỪA NHƯ VÀ CƯ SĨ TÚC Ở NÚI TUNG
Vô Trước Thiên Thân cũng một nhà
Tung Khâu núi tạnh mái lan xa
Ăn theo khánh gõ vầy chim quạ
Đi dẫm rừng hoang động lá sa
Gần suối, án hương nhuần thấm nước
Như mưa, giường đá trải bằng hoa
Động sâu thông lớn còn chi nữa?
Thiên Trúc thầy xưa ở đó mà!
Lê Nguyễn Lưu 4/4 KHỨ GIA CHÂU, QUÁ THÀNH CỐ HUYỆN, TẦM VĨNH AN SIÊU THIỀN SƯ PHÒNG
Mãn thụ tỳ bà đông trước hoa (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc
Lão tăng tương kiến cụ cà sa
Hán Vương thành bắc tuyết sơ tễ
Hàn Tín đàn tây nhật dục tà Môn
ngoại bất
tu thôi
ngũ mã (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc
Lâm
trung thả
thính diễn
tam xa
Khởi
liệu Ba
Xuyên đa
thắng sự
Vị
quân thư
thử báo
kinh hoa.
Sầm Tham
Dịch thơ :
ĐI GIA CHÂU, QUA HUYỆN THÀNH CỐ, TÌM CHỖ Ở CỦA SIÊU THIỀN SƯ TẠI VĨNH AN
Cây rợp tỳ bà đông nở hoa
Sư già gặp gỡ đủ cà sa
Hán Vương thành bắc tan cơn tuyết
Hàn Tín đàn tây giục bóng tà
Năm ngựa cửa ngoài khoan ruổi vội
Ba xe rừng thẳm hãy nghe qua
Đâu tưởng Ba Xuyên nhiều chuyện lạ
Thư này vì bác báo kinh hoa.
Lê Nguyễn Lưu dạng Niêm Luật 9/16 : 1-3 2-4 Bằng + 1-4 2-3
Bằng Dạng Niêm Luật này có 3 bài ĐƯỜNG THI :
1/3 KÝ THÔI THỊ NGỰ
Uyển khê sương dạ thính viên sầu (Niêm 1-3 2-4, Luật Bằng
Khứ quốc trường như bất hệ châu
Độc liên nhất nhạn phi Nam độ
Khước tiện song khê giải Bắc lưu Cao
nhân lũ
giải Trần
Phồn tháp (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
Quá
khách nan
đăng Tạ
Diễu lâu
Thử
xứ biệt
ly đồng
lạc diệp
Triêu
triêu phân
tán Kính
Đình thu.
Lý Bạch
Dịch thơ :
GỬI QUAN THỊ NGỰ HỌ THÔI
Vượn khóc đêm sương xứ uyển khê
Như thuyền không buộc mãi xa quê
Nhạn đành lẻ một phương Nam đến
Suối chẳng chung đôi đất Bắc về
Hạ chỏng Trần Phồn còn lắm kẻ
Leo lầu Tạ Diễu khó trăm bề
Nơi đây lá rụng cùng chia biệt
Núi Kính Đình thu vẫn cách ly.
Đinh Vũ Ngọc 2/3 ĐĂNG KIM LĂNG PHƯỢNG HOÀNG ĐÀI
Phượng Hoàng Ðài thượng phượng hoàng du (Niêm 1-3 2-4, Luật Bằng
Phượng khứ đài không giang tự lưu
Ngô cung hoa thảo mai u kính
Tấn đại y quan thành cổ khâu Tam
sơn bán
lạc thanh
thiên ngoại (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
Nhị
thủy trung
phân bạch
lộ châu
Tổng
vị phù
vân năng
tế nhật
Trường
An bất
kiến sử
nhân sầu.
Lý Bạch
Dịch thơ :
LÊN ĐÀI PHƯỢNG HOÀNG Ở KIM LĂNG
Chim Phượng hoàng chơi lầu Phượng hoàng
Phượng bay lầu trống với trường giang
Cung Ngô hoa cỏ con đường rậm
Thời Tấn xiêm y nấm mộ tàn
Ngọn núi Tam Sơn trời xẻ nửa
Dòng sông Nhị Thủy bãi chia ngang
Ô hay mây nổi che trời sáng
Chẳng thấy Trường An sầu chứa chan.
Đinh Vũ Ngọc 3/3 THÀNH TÂY PHA PHIẾM CHU (nêu rồi ở 3/4 Niêm, nêu lại để thấy luôn phần Luật)
Thanh nga hạo xỉ tại lâu thuyền (Niêm 1-3 2-4, Luật Bằng
Hoành dịch đoản tiêu bi viễn thiên
Xuân phong tự tín nha tường động
Trì nhật từ khan cẩm lãm khiên Ngư
xuy tế
lãng dao
ca phiến (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
Yến
xúc phi
hoa lạc
vũ diên
Bất
hữu tiểu
chu năng
đảng tưởng
Bách
hồ ná
tống tửu
như tuyền.
Đỗ Phủ
Dịch thơ :
CHƠI THUYỀN PHÍA TÂY THÀNH
Mày xanh răng trắng tựa thuyền lầu
Sáo ngắn tiêu ngang đưa giọng sầu
Gió xuân dám động cột ngà trắng
Bóng xế nhìn qua dải gấm màu
Cá phun sóng gợn quạt ca dậy
Yến giẫm hoa bay múa tiệc chầu
Không có thuyền con chèo quẩy nước
Thì trăm vò rượu chảy về đâu ?!
Nguyễn Hữu Huyên dạng Niêm Luật 10/16 : 1-3 2-4 Bằng + 1-4 2-3
Trắc Dạng Niêm Luật này có 1 bài ĐƯỜNG THI :
HÀNH DƯƠNG DỮ MỘNG ĐẮC PHÂN LỘ, TẶNG BIỆT
Thập niên tiều tụy đáo Tần kinh (Niêm 1-3 2-4, Luật Bằng
Thùy liệu phiên vi Lĩnh ngoại hành
Phục Ba cổ đạo phong yên tại
Ông Trọng di khu thảo thụ bình Trực
dĩ dung
sơ chiêu
vật nghị (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc
Hưu
tương văn
tự chiếm
thì danh
Kim
triều bất
dụng lâm
hà biệt
Thùy
lệ thiên
hàng tiện
trạc anh.
Liễu Tông Nguyên
Dịch thơ :
CÙNG MỘNG ĐẮC CHIA ĐƯỜNG Ở HÀNH DƯƠNG, TẶNG THƠ KHI LY BIỆT
Tần kinh xơ xác chục năm trời
Lĩnh ngoại ai ngờ lại đến nơi !
Lối cũ Phục Ba mây gió thoảng
Gò xưa Ông Trọng cỏ cây tươi
Biếng lười chỉ tổ cho người mỉa
Chữ nghĩa làm chi để tiếng đời !
Chẳng đến bên sông ly biệt sớm
Một mình giặt dải lệ tuôn rơi...
Lê Nguyễn Lưu dạng Niêm Luật 11/16 : 1-3 2-4 Trắc + 1-4 2-3
Bằng Dạng Niêm Luật này có 5 bài ĐƯỜNG THI :
1/5 HOÀI CỔ TÍCH - KỲ NHỊ
Dao lạc thâm tri Tống Ngọc bi (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc
Phong lưu nho nhả diệc ngô sư
Trướng vọng thiên thu nhất sái lệ
Tiêu điều dị đại bất đồng thì Giang
san cố
trạch không
văn tảo (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
Vân
vũ hoang
đài khởi
mộng tư
Tối
thị Sở
cung câu
dẫn diệt
Châu
nhân chỉ
điểm đáo
kim nghi.
Đỗ Phủ
Dịch thơ :
NHỚ CHUYỆN XƯA – BÀI HAI
Tống Ngọc sầu thương cảnh rụng rơi
Phong lưu nho nhả bậc thầy tôi
Nghìn thu tưởng nhớ còn rơi lệ
Một cảnh tiêu sơ dẫu khác thời
Sông núi nhà xưa văn vẻ đó
Mây mưa đài cũ mộng mơ thôi
Thương thay cung Sở tiêu tan hết
Nơi lái thuyền xưa chỉ vẫn ngờ.
Đinh Vũ Ngọc 2/5 TẶNG KHUYẾT HẠ BÙI XÁ NHÂN
Nhị nguyệt hoàng ly phi Thượng Lâm (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc
Xuân thành tử cấm vãn âm âm
Trường lạc chung thanh hoa ngoại tận
Long Trì liễu sắc vũ trung thâm Dương
hòa bất
tán cùng
đồ hận (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
Tiêu
hán thường
huyền bổng
nhật tâm
Hiến
phú thập
niên do
vị ngộ
Tu
tương bạch
phát đối
hoa trâm.
Tiền Khởi
Dịch thơ :
TẶNG XÁ NHÂN HỌ BÙI TRONG CUNG
Vườn Thượng Lâm oanh bay tháng hai
Thành xuân cửa sấm sớm mờ phai
Hoa ngoài Trường Lạc chuông văng vẳng
Mưa giữa Long Trì liễu bẻ bai
Khí ấm không tan hờn khốn quẫn
Sông ngân còn đỡ nỗi quan hoài
Mười năm dâng phú thời chưa gặp
Tóc trắng trâm hoa luống thẹn cài!
Lê Nguyễn Lưu 3/5 TỰ CỦNG LẠC CHU HÀNH NHẬP HOÀNG HÀ TỨC SỰ, KÝ PHỦ HUYỆN LIÊU HỮU
(nêu rồi ở 3/4 Luật, nêu lại để thấy luôn phần Niêm)
Lục thủy thương thiên lộ hướng đông (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc
Đông Nam sơn khoát đại hà thông
Hàn thụ y vi viễn thiên ngoại (bỏ Luật chữ thứ 6
Tịch dương minh diệt loạn lưu trung Cô
thôn kỷ
tuế lâm
y ngạn (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
Nhất
nhạn sơ
tình há
sóc phong
Vi
báo Lạc
Kiều du
hoạn lữ
Thiên
chu bất
hệ dữ
tâm đồng.
Vi Ứng Vật
Dịch thơ :
KỂ VIỆC TỪ CỦNG LẠC ĐI THUYỀN VÀO SÔNG HOÀNG HÀ, GỬI CÁC BẠN CÙNG LÀM QUAN Ở PHỦ VÀ HUYỆN
Nước biếc trời xanh lối tới đông
Đông nam núi rộng một dòng thông
Cây lạnh mịt mù trời thẩm thẩm
Nắng chiều thấp thoáng nước bềnh bồng
Bờ kia mấy độ thôn nằm quạnh
Gió bấc trời trong nhạn liệng không
Nhắn giúp Lạc Kiều bè bạn cũ :
Lòng với thuyền con chẳng buộc đồng.
Lê Nguyễn Lưu 4/5 TỐNG TIỀN VỆ HUYỆN - LÝ THẨM THIẾU PHỦ
Hoàng điểu phiêu phiêu dương liễu thùy (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc
Xuân phong tống khách sử nhân bi
Oán biệt tự kinh thiên lý ngoại
Luân giao khước ức thập niên thì Vân
khai Mấn
Thủy cô
phàm viễn (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
Lộ
nhiễu Lương
Sơn thất
mã trì
Thử
địa tòng
lai khả
thừa hứng (bỏ luật chữ thứ 6)
Lưu
quân bất
trú ích
thê kỳ.
Cao Thích
Dịch thơ :
TIỄN ĐƯA QUAN THIẾU PHỦ - LÝ THẨM HUYỆN TIỀN VỆ
Vút giọng oanh vàng tơ liễu buông
Gió xuân tiễn khách dạ sầu thương
Chia ly ngàn dặm bao đau xót
Gắn bó mười năm mấy vấn vương
Mấn Thủy mây giăng buồm lẻ bóng
Lương Sơn ngựa chậm núi chen đường
Nơi đây ngày trước cùng vui thú
Chẳng giữ chân anh thật đáng buồn !
Đinh Vũ Ngọc 5/5 TÍCH VŨ VÕNG XUYÊN TRANG TÁC
Tích vũ không lâm yên hỏa trì (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc
Chưng lê xuy thử hướng đông chuy
Mạc mạc thủy điền phi bạch lộ
Âm âm hạ mộc chuyên hoàng ly Sơn
trung tập
tĩnh quan
triêu cẩn (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
Tùng
hạ thanh
trai chiết
lộ quỳ
Dã
lão dữ
nhân tranh
tịch bải
Hải
âu hà
sự cánh
tương nghi?
Vương Duy
Dịch thơ :
LÀM Ở NHÀ VÕNG XUYÊN TRONG CƠN MƯA DẦM
Mưa dầm leo lét lửa rừng hoang
Quê kệch canh lê cháo nếp xoàng
Nước ruộng mênh mông đàn hạc trắng
Cây hè dìu dặt cái oanh vàng
Xem cẩn ngồi thiền trong núi quạnh
Bè quỳ ăn nhạt dưới thông quang
Giành ngồi chiếu rượu kìa bao bác!
Âu biển vì đâu cứ ngỡ ngàng?
Lê Nguyễn Lưu dạng Niêm Luật 12/16 : 1-3 2-4 Trắc + 1-4 2-3
Trắc dạng Niêm Luật này không có trong 3 quyển ĐƯỜNG THI tham khảo
nên xin mượn tạm một bài TNBC Đường Luật của cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm
để thấy dạng thơ.
DĨ HÒA VI QUÝ
Ở thế đừng tranh tiếng trượng phu (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc
Làm chi cho có sự đôi co
Đây cậy đây khôn đây chẳng nhịn
Ðấy rằng đấy phải đấy không thua Duật
nọ hãy
còn đua
đến bạng (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc
Lươn
kia hầu
dễ kém
chi cò
Chữ
rằng : Nhân
dĩ hòa
vi quý
Vô
sự thì
hơn khỏi
phải lo.
Nguyễn-Bỉnh-Khiêm
dạng Niêm Luật 13/16 : 1-3 2-4 Bằng +
1-3 2-4 Bằng Dạng Niêm Luật này có 1 bài ĐƯỜNG THI :
SỨ QUÂN TỊCH DẠ TỐNG NGHIÊM HÀ NAM PHÓ TRƯỜNG THỦY, ĐẮC “THÌ” TỰ
Kiều ca cấp quản tạp thanh ti (Niêm 1-3 2-4, Luật Bằng
Ngân chúc kim bôi ánh thúy mi
Sứ quân địa chủ năng tương tống
Hà doãn thiên minh mạc tọa từ Xuân
thành nguyệt
xuất nhân
giai túy (Niêm 1-3 2-4, Luật Bằng
Dã
thú hoa
thâm mã
khứ trì
Ký
thanh báo
nhĩ sơn
ông đạo:
Kim
nhật Hà
Nam thắng
tích thì.
Sầm Tham
Dịch thơ :
SỨ QUÂN ĐẶT TIỆC ĐÊM TIỄN QUAN DOÃN HÀ NAM HỌ NGHIÊM ĐI TRƯỜNG THỦY (lấy vần “thì”)
Hát vang sáo rộn nhịp đường tơ
Đuốc bạc ly vàng rạng ánh mơ
Chủ hạt sứ quân mời tiễn biệt
Thâu đêm Hà doãn chẳng đành ngơ
Thành xuân trăng mọc người say khướt
Đồn lính hoa đầy ngựa thẩn thơ
Xin với sơn ông lời nhắn gởi:
Hà Nam xưa kém hẳn bây giờ.
Lê Nguyễn Lưu dạng Niêm Luật 14/16 : 1-3 2-4 Bằng +
1-3 2-4 Trắc Dạng Niêm Luật này có 2 bài ĐƯỜNG THI :
1/2 PHỎNG LÃ DẬT NHÂN BẤT NGỘ (nêu rồi ở 2/4 Luật, nêu lại để thấy luôn phần Niêm)
Đào nguyên diện diện tuyệt phong trần (Niêm 1-3 2-4, Luật Bằng
Liễu thị nam đầu phỏng ẩn nhân
Đáo môn bất cảm đề phàm điểu
Khan trúc hà tu vấn chủ nhân Thành
ngoại thanh
sơn như
ốc lý (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc
Đông
gia lưu
thủy nhập
tây lân
Bế
hộ trừ
thư đa
tuế nguyệt
Chủng
tùng giai
tác lão
long lân.
Vương Duy
Dịch thơ :
THĂM NGƯỜI ẨN HỌ LÃ, KHÔNG GẶP
Đào Nguyên gió bụi cách xa đây
Nam Liễu thăm ai ẩn chốn nầy
“Phàm điểu” dám đề lên cổng trước
Chủ nhân chẳng hỏi ngắm tre gầy
Non xanh ngoài quách như trong mái
Nước đổ nhà đông đến xóm tây
Đóng cửa bao năm ngồi viết sách
Hàng thông đã mọc vảy rồng đầy.
Lê Nguyễn Lưu 2/2 LONG TRÌ
Long trì dược long, long dĩ phi, (N. 1-3 2-4, L. Bằng, câu 1 bỏ Luật 2 chữ 4 và 6
Long đức tiên thiên, thiên bất vi.
Trì khai thiên hán phân hoàng đạo,
Long hướng thiên môn nhập tử vi. Để
đệ lâu
đài đa
khí sắc, (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc
Quân
vương phù
nhạn hữu
quang huy.
Vị
báo hoàn
trung bách
xuyên thủy, (bỏ Luật chữ thứ 6
Lai
triều thử
địa mạc
đông quy.
Thẩm Thuyên Kỳ
Dịch thơ :
AO RỒNG
Ao Rồng rồng nhảy, rồng bay đi,
Trời với đức rồng chẳng trái nghi.
Ao khơi Thiên Hán chia Hoàng Đạo,
Rồng hướng Thiên Môn tới Tử Vi.
Dinh thự lầu đài tươi khí sắc,
Quân vương thần tử rỡ quang huy.
Hoàn vũ trăm sông xin nhắn bảo:
Chầu đây, còn phải chảy đông chi!
Lê Nguyễn Lưu dạng Niêm Luật 15/16 : 1-3 2-4 Trắc + 1-3 2-4 Bằng Dạng Niêm Luật này không có trong 3 quyển ĐƯỜNG THI tham khảo
nên xin dùng tạm một bài TNBC Đường Luật để thấy dạng thơ.
BÁC LÁ YÊU DẤU !
Bác Lá vui đùa bạn hữu đông (Niêm 1-3 2-4, luật Trắc
Ông đi vắng lặng hỏi buồn không ?
Chỉ lối ngay đường thường đụng chạm
Lời ngay nẻo phải khó tương đồng Tình
ơi kính
Lão đời
thanh thản (Niêm 1-3 2-4, luật Bằng
Bạn
hởi thương
người nước
đục trong
Chờ
Rơi ở
lại đừng
xa nhé
Bé
tịt hồn
thơ muối
xát lòng.
Vancali
dạng Niêm Luật 16/16 : 1-3 2-4 Trắc + 1-3 2-4 Trắc Dạng Niêm Luật này có 2 bài ĐƯỜNG THI :
1/2 ĐỀ ĐÔNG KHÊ CÔNG U CƯ
Đỗ Lăng hiền nhân thanh thả liêm (N. 1-3 2-4, L. Trắc, bỏ Luật chữ ‘Lăng’
Đông Khê bốc trúc tuế thời yêm
Trạch cận thanh sơn đồng Tạ Diễu
Môn thùy bích liễu tự Đào Tiềm Hảo
điểu nghinh
xuân ca
hậu viện (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc
Phi
hoa tống
tửu vũ
tiền thiềm
Khách
đáo đãn
tri lưu
nhất túy
Bàn
trung chi
hữu thủy
tinh diêm.
Lý Bạch
Dịch thơ :
ĐỀ CHỖ Ở ẨN CỦA ĐÔNG KHÊ CÔNG
Đỗ Lăng đã nổi tiếng người hiền
Về ẩn Đông Khê trải mấy niên
Nhà cận núi xanh như Tạ Diễu
Cửa buông liễu biếc tựa Đào Tiềm
Đón xuân chim quý ca sau viện
Mời rượu hoa bay múa trước hiên
Khách đến nài nhau say một bữa
Trong mâm chỉ có muối tinh nghiền.
Đinh Vũ Ngọc 2/2 CHƯỚC TỬU DỮ BÙI ĐỊCH (nêu rồi ở 4/4 Niêm, nêu lại để thấy luôn phần Luật)
Chước tửu dữ quân quân tự khoan (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc
Nhân tình phiên phúc tự ba lan
Bạch thủ tương tri do án kiếm
Chu môn tiên đạt tiếu đàn quan Thảo
sắc toàn
kinh tế
vũ thấp (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc
Hoa
chi dục
động xuân
phong hàn
Thế
sự phù
vân hà
túc vấn
Bất
như cao
ngọa thả
gia xan.
Vương Duy
Thơ dịch :
RÓT RƯỢU MỜI BÙI ĐỊCH
Mời anh cạn chén để nguôi sầu
Tráo trở tình đời khác sóng đâu
Tóc trắng quen thân còn thủ kiếm
Cửa son hiển đạt lại cười nhau
Mưa dầm cỏ dại càng phơi phới
Gió lạnh hoa xuân chịu dãi dầu
Chuyện thế mây trôi thôi chớ hỏi
Chi bằng ăn ngủ khỏi lo âu.
Đinh Vũ Ngọc Bài mẫu của 16 dạng Niêm Luật cho thấy rõ ràng thi nhân đời Đường làm bài Thất Ngôn Bát Cú với 2 bài Tứ Cú tự do theo Niêm riêng, Luật riêng. Dạng Niêm Luật nào cũng cho được âm điệu hài hòa cho bài Thất Ngôn Bát Cú Đường Thi.
1.5 Các chi tiết khác của 2 bài Tứ Cú Tuy ít thấy nhưng trên nguyên tắc, ngoài việc áp dụng sự tự do Niêm và Luật, 2 bài Tứ Cú cũng được tự do dùng số vần (2 hay 3 chữ Vần) và dùng thanh vần (vần Trắc hay vần Bằng).
a/ Về số Vần Trong những bài TNBC ĐƯỜNG THI:
- bài
Tứ Cú trên thường dùng 3 vần, nhưng thỉnh thoảng cũng có bài dùng 2 vần như bài ĐỒNG BÁCH QUÁN đã nêu làm mẫu cho Thể Luật a/.
- còn bài
Tứ Cú dưới thì ngược lại, trong 3 quyển sách tham khảo, chỉ gặp duy nhất bài ĐẰNG VƯƠNG CÁC của Vương Bột là dùng 3 vần cho bài
Tứ Cú dưới. Những bài ĐƯỜNG THI khác đều dùng 2 vần có lẽ để tiện viết cặp đối nơi hai câu 1-2 của bài
Tứ Cú dưới.
b/ Về vần Trắc hay vần Bằng Thơ TNBC ĐƯỜNG THI có thể dùng vần Trắc hay vần Bằng. Nhưng trong ba quyển ĐƯỜNG THI Trích Dịch, Cảm Dịch và Tuyển Dịch nêu trên, những bài được chọn dùng toàn vần Bằng. Nên xin dùng tạm một bài TNBC Đường Luật dưới đây làm mẫu thơ vần Trắc.
Bài này có dạng Niêm Luật giống bài ĐĂNG TÙNG GIANG DỊCH LÂU BẮC VỌNG CỐ VIÊN của Lưu Trường Khanh, nhưng dùng vần Trắc:
ĐÀN XƯA NHỊP MỚI
Đâu biết ai yêu mà gọi hỡi (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc, vần Trắc
Tình xuân luôn nóng khi chờ đợi
Thư hồng một bức nhạn cưu mang
Lá thắm đôi dòng oanh nhắn gởi Những
ngày xuân
sắc cứ
đi qua (Niêm 1-3 2-4, Luật Bằng
Nửa
trái tim
vàng chưa
kịp tới
Tìm
đâu ra
được khách
tri âm
Đưa
bản đàn
xưa theo
nhịp mới !
LCR
1.6 Một bài thơ “PHÁ CÁCH” Trong 3 quyển ĐƯỜNG THI nêu tên ở phần trên, chỉ gặp duy nhất một bài thơ TNBC có thể gọi là thơ « phá cách » dưới đây :
VÕNG XUYÊN BIỆT NGHIỆP
trên 1-4 2-3 luật Trắc, dưới
1-2 3-4 luật Trắc
Bất đáo Đông sơn hướng nhất niên (Niêm 1-4 2-3
Qui lai tài cập chủng xuân điền
Vũ trung thảo sắc lục kham nhiễm
Thủy thượng đào hoa hồng dục nhiên *Ưu
lậu tỳ
khưu kinh
luận học (Niêm 1-2 3-4)
U
lũ trượng
nhân hương
lý hiền
Phi
y đảo
tỷ thả
tương kiến
Tương
hoan ngữ
tiếu hành
môn tiền.
Vương Duy
* bài Tứ Cú dưới : Niêm câu1 với câu2 và câu3 với câu4, không trúng vào 2 cách Niêm thông dụng của thơ Tứ Cú.
Dịch thơ :
BIỆT THỰ Ở VÕNG XUYÊN
Đông Sơn chẳng đến trọn năm nay
Về gặp mùa xuân kịp cấy cày
Cỏ dại trong mưa xanh biếc biếc
Hoa đào trên nước đỏ hây hây
Tỳ hưu học đạo bàn kinh kệ
Bô lão làm gương giữ tháng ngày
Khoát áo trở giày tìm gặp bạn
Nói cười trước cổng thật vui thay !
Đinh Vũ Ngọc 1.7 Một bài thơ áp dụng sự phóng khoáng tột cùng Tiêu biểu cho sự phóng khoáng tột cùng là bài Đằng Vương Các của Vương Bột, cho thấy 2 bài TC trên và TC dưới hoàn toàn tự do dùng mọi đặc điểm của thơ Tứ Cú :
Niêm : trên / dưới khác nhau, Luật : trên / dưới giống nhau.
số chữ vần : dùng 3 chữ vần cho cả bài Tứ Cú dưới (thông thường bài TC dưới chỉ dùng 2 chữ vần)
vần Bằng / Trắc : TC trên dùng vần Trắc, TC dưới dùng vần Bằng
Và bài thơ được lưu truyền như là một kiệt tác. Đã nêu rồi nhưng xin nêu lại để thấy rõ những đặc điểm vừa kể trên.
ÐẰNG VƯƠNG CÁC
Ðằng Vương cao các lâm giang chử (Niêm 1-4 2-3, 3 vần “u” thanh Trắc
Bội ngọc minh loan bãi ca vũ
Họa đống triêu phi Nam phố vân
Châu liêm mộ quyển Tây sơn vũ Nhàn
vân đàm
ảnh nhật
du du (Niêm 1-3 2-4, 3 vần “u” thanh Bằng
Vật
hoán tinh
di kỷ
độ thu
Các
trung đế
tử kim
hà tại ?
Hạm
ngoại trường
giang không
tự lưu.
Vương Bột
Dịch thơ :
ÐẰNG VƯƠNG CÁC
Gác Đằng cao ngất bên sông sâu
Múa hát đàn ca vắng bấy lâu
Nam phố mây mai in cột chạm
Tây sơn mưa xế cuốn rèm châu
Mây trôi đầm lặng soi bao thuở
Vật đổi sao dời trải mấy thâu
Trong gác con vua đâu vắng bóng ?
Hiên ngoài sông nước vẫn trôi mau.
Đinh Vũ Ngọc PHẦN II. DẢI SỐ Kiểm Soát 1-8 2-3 4-5 6-7
Hầu hết các nhóm chơi thơ Đường Luật hiện nay đều dùng dải số trên đây (1-8 2-3 4-5 6-7) để Kiểm Soát những bài thơ làm ra. Bài thơ phải Niêm đúng với sự qui định của dải số thì mới được công nhận là thơ TNBC Đường Luật.
Phân tách cấu trúc của dải số Kiểm Soát 1-8 2-3 4-5 6-7 thì thấy những kết quả như sau :
2.1 Dải số không chấp nhận phép Niêm 1-3 2-4 của thơ Tứ Cú Do các nhóm số KS 2-3 và 6-7, dải số bắt buộc bài Bát Cú phải dùng 2 bài Tứ Cú cùng theo phép Niêm 1-4 2-3.
Vì thế nên những bài TNBC ĐƯỜNG THI với 1 hay 2 bài Tứ Cú dùng phép Niêm 1-3 2-4 thì bị loại ra. 2.2 Dải số không chấp nhận 2 bài Tứ Cú trên/dưới có Luật khác nhau Do các nhóm số KS 1-8 và 4-5, dải số bắt buộc bài Bát Cú phải dùng 2 bài Tứ Cú cùng có Luật giống nhau.
Vì thế nên những bài TNBC ĐƯỜNG THI với 2 bài Tứ Cú có Luật khác nhau thì bị loại ra. 2.3 Dải số vô tình chấp nhận những bài thơ “dở tệ” của người mới học Ngược lại, cấu trúc của dải số với phép Niêm theo từng cặp 1-8 2-3 4-5 6-7,
thì lại cho phép chấp nhận những bài thơ Bát Cú vụng về sai bét về Niêm, của những người mới tập chơi thơ Đường Luật.
Xin nêu 3 bài gặp được trên một diễn đàn :
TÌNH NGHĨA 2
Ăn gì rồi cũng phải ăn cơm
Dẫu có gặp toàn những món ngon
Dưới biển, rừng sâu bao thức quí
Vườn thì gà vịt múp tơ non Ai
ai cũng
muốn xơi
cho biết
Gọi
là thay
đổi cái
kèo rơm
Rồi
về bếp
lục tìm
cơm nguội
Chiên
lên thì
nguội cũng
thành dòn!
GHÉ THĂM VÀ HỌC HỎI
Bài thơ ai viết với vần ‘tui’
Càng đọc càng nghe thấy thật vui
Quên mất thời gian không chút tiếc
Mãi xem mãi đọc miệng mãi cười Thật
tình khen
bạn thơ
hay quá
Càng
xem càng
thấy khoẻ
thêm thôi
Xem
thơ học
hỏi vần
thi mới..
Câu
văn đúng
luật, thẳng
đường ngôi.
LẠI CÙNG BAY
Trăm năm một kiếp mộng mơ này
Có đủ vui buồn lẩn ngọt cay
Những phút ái ân ai cũng nhớ
Những lần đau khổ xác thêm gầy Kẻ
mong thêu
dệt câu
trao gửi
Người
chờ tô
điểm chữ
mê say
Cơn
mưa khi
tạnh trời
thêm sáng
Như
chim liền
cánh lại
cùng bay.
3 bài thơ vừa nêu có các câu đều đúng Luật : nhì-tứ-lục phân mình, và toàn bài lại Niêm đúng theo 1-8 2-3 4-5 6-7.
Đây là những bài thơ vụng về của người mới học nên dĩ nhiên không kể sự thiếu sót nhiều về phần đối ngẩu. Nhưng về Niêm, tuy
sai bét so với các bảng Luật của thơ TNBC Đường Luật, nhưng lại hoàn toàn ăn khớp với sự quy định của dải số.
2.4 Lý do thực sự khiến có những bài TNBC ĐƯỜNG THI nằm ngoài dải số Sự phân tách trên đây cho thấy rõ ràng rằng vì dải số không chấp nhận phép Niêm 1-3 2-4 và cũng không chấp nhận hai bài Tứ Cú có Luật khác nhau, nên có một số lớn bài TNBC ĐƯỜNG THI danh tiếng nằm ngoài dải số. Tại sao không chấp nhận phép Niêm 1-3 2-4 là 1 trong 2 phép Niêm chính thức của loại thơ Tuyệt Cú ?
Tại sao không chấp nhận hai bài Tứ Cú khác Luật nhau ?
Sự pha trộn hai Luật Trắc và Bằng cũng như hai phép Niêm 1-3 2-4 và 1-4 2-3 trên 2 bài Tứ Cú hoàn toàn không hề gây trở ngại nào cho phần âm thanh của bài Bát Cú Đường Thi, mà thường là ngược lại, giúp cho bài thơ sống động hơn. Bài mẫu của các dạng Niêm Luật đã cho thấy rõ ràng như thế.
2.5 Hai cách giải thích hoàn toàn thiếu căn bản hợp lý Vì cho rằng thơ Niêm đúng theo dải số mới là thơ TNBC Đường Luật chính thống, nên người chơi theo dải số
phải tìm cách giải thích lý do tại sao có những bài ĐƯỜNG THI danh tiếng nằm ngoài dải số.
Có hai cách giải thích được dùng : hoặc gọi đó là thơ “phá cách” hoặc cho đó là thơ Cổ Phong.
Tuy nhiên hai giải thích này đều rất là gượng ép, không có căn bản thuyết phục như trình bày dưới đây:
2.5.1 Giải thích với câu “Đại gia văn chương bất câu Niêm Luật” Để giải thích sự nằm ngoài dải số KS của những bài ĐƯỜNG THI danh tiếng lưu truyền, có người dùng câu “đại gia văn chương bất câu Niêm Luật” để cho rằng các nhà thơ lớn, sau khi đã nổi danh, bèn phá cách chơi.
Nhưng khó chấp nhận lập luận này vì số tác phẩm bị coi là thất Niêm “phá cách” đó quá nhiều. Chỉ riêng trong 3 quyển Đường Thi tham khảo nêu trên đã có đến 26 bài nằm trong 14 dạng Niêm Luật nằm ngoài dải số. Nhà thơ Quách-Tấn, dù rất trung thành với dải số, cũng nói lên sự không đồng ý như sau :
’’ Có người trông thấy những bài thơ Thất Niêm Thất Luật phần nhiều là của các danh gia, cho nên bảo « Ðại gia văn chương bất câu Niêm Luật ». Sự thật, niêm luật đối với người đã thạo nghề chẳng khác những đường mòn trong xóm đối với người địa phương, muốn đi cho đúng có khó khăn gì. Thiết tưởng sự
Thất Niêm Thất Luật kia là cố tình chớ không phải sơ ý. Tất có lý do. Nhưng dù chi chi đi nữa, chúng ta - kẻ hậu học - vẫn không nên bắt chước.’’ (trích Thi Pháp Thơ Ðường của Quách-Tấn, trang 168)
Tuy chưa thấy cái lý do, nhưng Quách-Tấn vẫn quả quyết là
« việc dùng Niêm/Luật theo những cách ấy tất có lý do ». Và cái lý do đó, sự giải mã đã cho thấy như trên :
« Hai bài Tứ Cú của bài Bát Cú được tự do dùng Niêm và Luật khác nhau. » 2.5.2 Giải thích rằng những bài thơ nằm ngoài dải số KS đó là thơ Cổ Phong Vì thấy khó chấp nhận câu « Đại gia văn chương bất câu Niêm Luật » nên một số khác tìm cách gán ép gọi những bài đó là thơ Cổ Phong :
Và để có thể làm thế, một bài thơ Đường luật tương tự được đưa ra làm mẫu, là bài « Vịnh Dế Duỗi » của Tú Quỳ.
Bài VỊNH DẾ DUỖI giống bài HOÀI CỔ TÍCH - Kỳ Nhị của Đỗ Phủ, thuộc dạng Niêm Luật 11/16, là 1 trong số 14 dạng Niêm Luật nằm ngoài dải số.
Bài « Vịnh Dế Duỗi » của Tú Quỳ có câu đầu dùng lục ngôn thể là : « Kiến chẳng kiến, voi chẳng voi ».
Ý tác giả muốn nói rằng con dế duỗi chẳng nhỏ như con kiến,
mà cũng chẳng to như con voi.
Nhưng một chữ ‘phải’ được thêm vào ở vị trí thứ 3 : « Kiến chẳng
phải kiến voi chẳng voi » khiến cho ba chữ nhì-tứ-lục đều là Trắc, để rồi dựa vào đó mà đem bài Vịnh Dế Duỗi làm mẫu cho thơ Cổ Phong.
Trong khi đó nếu thêm đúng ý tác giả là : « Kiến chẳng kiến
mà voi chẳng voi » thì câu thơ sẽ có ba chữ nhì-tứ-lục phân minh.
Nhận xét toàn bài thơ Vịnh Dế Duỗi thì thấy như sau :
VỊNH DẾ DUỖI
Kiến chẳng kiến (mà) voi chẳng voi (lục ngôn thể nếu bỏ chữ “mà”)
Ðời sanh dế duổi cũng choi choi
Ngắn cánh lên trời không đủ sức
Co tay vạch đất cũng khoe tài Mưa
tuôn gió
tạt lên
cao ở
Lửa
bỏng dầu
sôi nhảy
đến chơi
Quân
tử có
thương thời
chớ phụ
Ðể
cho bay
nhảy thử
mà coi.
Tú Quì
Đây đúng là một bài thơ Đường Luật, vì trong mỗi câu các chữ nhì-tứ-lục đều phân minh đúng luật, hai cặp 3-4 và 5-6 đối nhau chỉnh tề, toàn bài chỉ dùng có một vần, và chỉ dùng 8 câu.
Còn thơ thất ngôn Cổ Phong đúng theo định nghĩa thì phải là :
- toàn bài có thể dùng 6, 8, 10, 12 câu
(vậy tại sao không chọn bài mẫu khác hơn 8 câu ?) - toàn bài có thể dùng nhiều vần
(vậy tại sao không chọn bài mẫu có hơn một vần ?) - không cần phải đối
(vậy tại sao không chọn bài mẫu không có đối ?) - không cần theo Niêm Luật
(vậy tại sao không chọn bài mẫu với nhì-tứ-lục chẳng phân minh ? Và thắc mắc sau cùng là :
tại sao không dùng một bài thơ Cổ Phong lưu truyền từ thời Tiền Đường, Sơ Đường làm mẫu mà lại dùng một bài thơ của thi nhân hiện đại Việt Nam ?
Như trên vừa cho thấy : bài Vịnh Dế Duỗi không mang một đặc điểm riêng nào của thơ Cổ Phong. Nhưng vẫn được đem dùng làm mẫu để có thể xếp vào loại thơ Cổ Phong những bài ĐƯỜNG THI theo dạng Niêm Luật tương tự, không tương ứng với dải số 1-8 2-3 4-5 6-7.
2.6 Thử tìm nguyên nhân phát sinh ra dải số KS 1-8 2-3 4-5 6-7 Trong số 16 dạng Niêm Luật được thi nhân đời Đường dùng để làm loại thơ Thất ngôn Bát Cú ĐƯỜNG THI, thì dải số KS 1-8 2-3 4-5 6-7 chỉ tương ứng với 2 dạng Niêm Luật có nhiều bài nhất là :
Dạng Niêm Luật 1/16 : Tứ Cú trên Niêm 1-4 2-3, luật Bằng; Tứ Cú dưới Niêm 1-4 2-3, luật Bằng
và Dạng Niêm Luật 4/16 :Tứ Cú trên Niêm 1-4 2-3, luật Trắc; Tứ Cú dưới Niêm 1-4 2-3, luật Trắc
Ở thời khoa cử, người ta có lý do để qui định cho các sĩ tử chỉ dùng 2 dạng Niêm Luật có rất nhiều bài này thôi.
Vì nếu áp dụng tất cả kỹ thuật nêu trên của ĐƯỜNG THI, với 16 dạng Niêm Luật trên lý thuyết, thì việc chấm thi sẽ rất phiền toái, mất nhiều thì giờ, và có khi ngoài tầm tay của một vài vị giám khảo.
Nếu giả thuyết trên đây là đúng thì dải số KS 1-8 2-3 4-5 6-7 được lập ra để dùng cho giới khoa trường: Các sĩ tử dùng nó để kiểm soát những bài thơ làm để dự thi. Các giám khảo dùng nó để chấm thi. PHẦN III. CÁCH CHƠI PHÓNG KHOÁNG CỦA ĐƯỜNG THI
VỚI THI NHÂN VIỆT NAM
3.1 thơ của thi nhân tiền bối Thi nhân tiền bối của chúng ta vẫn có những bài thơ chơi theo cách phóng khoáng của thi nhân đời Đường. Một ít bài đã nêu ở phần trên không phải do sưu tầm mà chỉ tình cờ gặp được. Xin nêu lại nơi đây với vài nhận xét.
VỊNH DẾ DUỖI
Kiến chẳng kiến, (mà) voi chẳng voi (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc
Ðời sanh dế duổi cũng choi choi
Ngắn cánh lên trời không đủ sức
Co tay vạch đất cũng khoe tài Mưa
tuôn gió
tạt lên
cao ở (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
Lửa
bỏng dầu
sôi nhảy
đến chơi
Quân
tử có
thương thời
chớ phụ
Ðể
cho bay
nhảy thử
mà coi.
Tú Quì
bài VỊNH DẾ DUỖI thuộc dạng Niêm Luật 11/16, giống bài HOÀI CỔ TÍCH - Kỳ Nhị của Đỗ Phủ HÀ TIỆN
Giàu thì ba bữa khó thì hai (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
Lần lữa cho qua tháng thiếu đầy
Nón đổi lá ngoài quần đổi ống
Dép thay da mặt túi thay quai Dặn
vợ có
cà đừng
gắp mắm* (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc
Bảo
con bớt
gạo bỏ
thêm khoai
Thế
gian mặc
kẻ cười
hà tiện
Ta
chẳng phiền
ai chẳng
lụy ai.
Nguyễn-Minh-Triết
bài HÀ TIỆN đưọc dùng làm mẫu cho dạng Niêm Luật 2/16 * nhờ đổi luật nơi câu
“Dặn vợ có cà đừng gắp mắm” mà nhạc thơ đổi điệu nghe rất đậm đà.
DĨ HÒA VI QUÝ
Ở thế đừng tranh tiếng trượng phu (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc
Làm chi cho có sự đôi co
Đây cậy đây khôn đây chẳng nhịn*
Ðấy rằng đấy phải đấy không thua Duật
nọ hãy
còn đua
đến bạng (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc
Lươn
kia hầu
dễ kém
chi cò
Chữ
rằng : Nhân
dĩ hòa
vi quý
Vô
sự thì
hơn khỏi
phải lo.
Nguyễn-Bỉnh-Khiêm
bài DĨ HÒA VI QUÝ đưọc dùng làm mẫu cho dạng Niêm Luật 12/16 * nhờ dùng phép Niêm 1-3 2-4 với câu
“Đây cậy đây khôn đây chẳng nhịn” mà nhạc thơ nghe bốc mạnh lên.
CẢM CỰU TỐNG TÂN XUÂN CHI TÁC (bài I)
Xuân này nào phải cái xuân xưa, (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
Có sớm ư ? thời lại có trưa.
Cửa động hoa còn thưa thớt bóng,
Buồng thoa oanh khéo dập dìu tơ Phong
lưu trước
mắt bình
hương nguội, (Niêm 1-3 2-4, Luật Bằng
Quang
cảnh trong
đời chiếc
gối mơ.
Cân
vàng nửa
khắc xuân
lơ lửng,
Phố
liễu trăm
đường khách
ngẩn ngơ.
Hồ Xuân Hương
Bài CẢM CỰU TỐNG TÂN XUÂN CHI TÁC thuộc dạng Niêm Luật 5/16
giống bài ĐẰNG VƯƠNG CÁC của Vương Bột ÐỘC TIỂU THANH KÝ
Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
Ðộc điếu song tiền nhất chỉ thư
Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư Cổ
kim hận
sự thiên
nan vấn (Niêm 1-3 2-4, Luật Bằng
Phong
vận kỳ
oan ngã
tự cư
Bất
tri tam
bách dư
niên hậu
Thiên
hạ hà
nhân khấp
Tố Như.
Nguyễn-Du
Bài ÐỘC TIỂU THANH KÝ cũng thuộc dạng Niêm Luật 5/16
giống bài ĐẰNG VƯƠNG CÁC của Vương Bột Thơ dịch :
ĐỌC BÀI KÝ CỦA TIỂU THANH
Hoang vắng Tây Hồ hoa liễu xưa
Viếng nàng bên cửa một trang thư
Chết đi để tiếc, ôi son phấn
Lụy đến tàn tro, hỡi phú thơ
Kim cổ hận kia trời khó hỏi
Tài tình oan kiếp, khác gì ta
Ba trăm năm nữa trong thiên hạ
Chẳng biết ai người khóc Tố Như ?
Thảo Nguyên Về bài Độc Tiểu Thanh Ký của cụ Nguyễn Du, xin nêu thêm một đoạn ký sự của nữ ký giả Phạm Thanh Thủy như sau :
(đầu phần trích dẫn)
Đời nhà Thanh, có xây một
Nghênh quán sứ, trên đồi mai có mộ Tiểu Thanh, cạnh hồ Tây, để làm chỗ nghỉ chân cho các sứ thần Việt Nam, Ai lao, Cao miên, Thái lan đi sứ, trên đường tới Bắc kinh. Sứ đoàn thời Gia long (1802-1820) khi qua Hàng châu được tiếp dẫn sứ nhà Thanh đưa vào ở đây. Chánh sứ là Nguyễn Du tiên sinh. Trên mộ Tiểu Thanh hiện (2001) có đến 6 bia, do 6 danh sĩ viết. Thời Tố Như qua đây chỉ có một bài bia. Trên bia ghi :
« Tiểu Thanh, trường hận ký » Mai Khánh Sơn, Tiến sĩ Vĩnh lạc đề.
Chắc chắn cụ Tố Như đọc bài ký này, rồi thương hoa tiếc ngọc sáng tác bài thơ Độc Tiểu Thanh ký, nghĩa là cảm hứng sau khi đọc bài ký của Mai Khánh Sơn.
(cuối phần trích dẫn)
Cụ Nguyễn Du là Chánh Sứ, đại diện cho quốc gia, có trọng trách bảo vệ vinh dự và làm rạng danh cho dân tộc, nhất cử nhất động đều luôn phải lưu tâm, nhất là trong thời gian đi sứ.
Vậy lẽ đâu cụ lại “phá cách” làm chơi một bài thơ chẳng theo Niêm Luật ?
Trái lại, bài Độc Tiểu Thanh Ký với hai phép Niêm khác nhau cho hai bài Tứ Cú, lại có thể dùng làm bằng chứng cho người Trung quốc thấy rằng người Việt chúng ta cũng am hiểu tận tường cách chơi phóng khoáng của thi nhân đời Đường.
Cách chơi phóng khoáng này cho phép thi nhân buông thả cho hồn thơ tự nhiên chạy theo cảm xúc : ý thơ, tứ thơ cho những ngôn từ thuận tai với phép Niêm nào, thể Luật nào, thì viết theo Niêm Luật đó. 3.2 thơ của thi nhân hiện đại Đa số người chơi thơ Đường Luật hiện nay đều tuân thủ chặt chẻ phép Niêm theo dải số KS 1-8 2-3 4-5 6-7. Nhưng lắm lúc thi hứng và thi tứ
tự nhiên đưa họ lọt vào một cách chơi hoàn toàn đúng theo nguyên tắc chơi của thi nhân đời Đường. Có vài thi nhân khi tự thấy, hoặc được các bạn trung thành với dải số KS nhắc lỗi, thì họ lập tức sửa ngay, mặc dầu những câu thơ ấy
không có khuyết điểm nào, mà thường khi lại ‘hay hơn’ những câu được sửa lại. Số khác thì vẫn để nguyên bài thơ làm ra theo cảm hứng.
Sau đây là thơ của thi nhân hiện đại trúng vào 16 dạng Niêm Luật, kẻ vô tình người cố ý, ở mỗi dạng chỉ nêu 1 bài làm mẫu :
dạng Niêm Luật 1/16 : 1-4 2-3
Bằng + 1-4 2-3
Bằng Đây là dạng thứ nhất trong 2 dạng thông dụng có nhiều bài nhất, và thuộc cách chơi của dải số.
MƠ TIÊN
Mới lưng lưng cốc đã châm đầy (Niêm 1-4 2-3, Bằng
Lại trách người sao khéo giả say
Rượu nhũn chân trần đi khó bước
Men nồng bến tục đến chưa hay Nhá
nhem đèn
tối mờ
con mắt (Niêm 1-4 2-3, Bằng
Chập
choạng ai
gần níu
một tay
Quả
tiếng Ðào
Nguyên tuôn
róc rách
Ta
làm Từ
Thức một
đêm nay.
VNN (Nouméa 17/12/00)
dạng Niêm Luật 2/16 : 1-4 2-3
Bằng + 1-4 2-3
Trắc CHAY ĐỔI MẶN
Chay ăn không chán sức sung ra (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
Mặn nếm vài lần sẽ thích mà
Chay đậu tương phùng mời đến dự
Mặn cơm hợp tác bắt làm ra Chay
chán ở
chùa qua
đớp "phở" (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc
Mặn
mê ra
phố muốn
tìm "quà"
Mặn
chê tôm
cá nghe
càng ớn
Chay
liếm xương
cầy chỉ
có ta.
Đoạn Trường
dạng Niêm Luật 3/16 : 1-4 2-3
Trắc + 1-4 2-3
Bằng CHO TRỌN CUỘC TÌNH
Đông lạnh phòng không buồn lẻ bạn (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc
Đêm dài trằn trọc đếm từng canh
Mưa rơi thổn thức rơi không dứt
Gió thổi lạnh căm thổi quẩn quanh Thu
về dỗ
nhẹ cơn
hư ảo (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
Hạ
đến ru
êm giấc
mộng lành
Duyên
kiếp đời
này duyên
kiếp nữa
Tình
em giữ
trọn trong
tim anh
Huyền Minh Sep.28/09
dạng Niêm Luật 4/16 : 1-4 2-3
Trắc + 1-4 2-3
Trắc Đây là dạng thứ hai trong 2 dạng thông dụng có nhiều bài nhất, và thuộc cách chơi của dải số.
NHẤT ĐỜI
Ai đã đem ta ném giữa đời (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc
Giang-hồ mã thượng mặc rong chơi
Bến-Tre Bến-Nghé len từng ngách
Bờ Á Bờ Âu quậy khắp nơi Mỗi
ả mỗi
nghề vui
lại đến (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc
Một
mình một
chiếu ngự
rồi lui
Trời
cho ngày
tháng Xuân
cho tuổi
Tao
ngộ nàng
thơ nhất
cõi người !
Châu-Anh Ðỗ-Ðơn-Chiếu (VT 20/7/2000)
dạng Niêm Luật 5/16 : 1-4 2-3
Bằng +
1-3 2-4 Bằng GHẸO BẠN
Bạn hiền cứ nói đến đây vui (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
Thấy rượu sợ say lại trốn chui
Chỉ mấy ly quèn đưa đẩy tới
Vài ba xị nhạt thoái de lùi Mời
ăn lại
chối không
cầm đũa (Niêm 1-3 2-4, Luật Bằng
Đã
nhậu mà
sao hổng
thấy mùi
*Cao
đô bởi
ngại bà
nhà hứ
*Chỉ
dám ngồi
đong nước
ngọt thôi.
Đồng Lão
được một ông bạn nhắc nên tác giả sửa 2 câu chót lại là :
*Chắc
ngại về
nhà nghe
vợ hứ
*Đành
xơi nước
ngọt một
mình thôi.
- 2 câu sửa lại kém súc tích hơn 2 câu gốc dạng Niêm Luật 6/16 : 1-4 2-3
Bằng +
1-3 2-4 Trắc BÀI THƠ AI TẶNG...
Bài thơ ai tặng chẳng riêng chung (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
Đậm nét từ ngoài đến nội dung
Ý đẹp với tiêu đề mở cuộc
Lời hay trong kết luận sau cùng Đối
chỉnh cung
đàn reo
thánh thót (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc
Vần
trơn tâm
sự trải
mông lung
Cả
một trời
xuân theo
nét bút
Gieo
muôn hương
ngát của
nghìn trùng.
LCR 29/01/08
dạng Niêm Luật 7/16 : 1-4 2-3
Trắc + 1-3 2-4 Bằng DUYÊN NỢ
Mắc nợ tình thơ với bạn hiền (Niêm 1-4 2-3 Trắc
Cũng vì tạo hóa khéo se duyên !
Từng câu từng chữ hồn vương đọng
Mỗi ý mỗi vần dạ khắc tên ! Non
xanh suối
biếc cùng
vui dạo (Niêm 1-3 2-4 Bằng
Biển
ngọc mây
hồng thỏa
chí riêng
Từ
đây chung
lối đường
muôn dặm
Kết
nối niềm
say vạn
bạn vàng !
Sao Mai
dạng Niêm Luật 8/16 : 1-4 2-3
Trắc + 1-3 2-4 Trắc SẼ ÊM RƠ
Đâu đã còn đâu tuổi mộng mơ (Niêm 1-4 2-3 Luật Trắc
Giận nhau trong mộng thuở ngây khờ
Tranh ăn tranh nói lời gay gắt
Hay dỗi hay hờn chuyện phất phơ Bữa
trước vui
mồm khen
gái đẹp (Niêm 1-3 2-4 Luật Trắc
Chiều
nay buồn
bụng chẳng
ai chờ
Mở
miệng mắc
quai đành
vã miệng
Đừng
khen ai
đẹp sẽ
êm rơ.
LCR 12/03/09
dạng Niêm Luật 9/16 : 1-3 2-4 Bằng + 1-4 2-3
Bằng VU LAN BUỒN NHỚ
Thu nào yên giấc mẹ xa chơi (Niêm 1-3 2-4, Luật Bằng
Ba chục năm buồn nhớ chẳng nguôi
Thương con mỏi mắt tìm quanh quất
Nhớ trẻ xa quê khóc sụt sùi Ai
theo non
nước ngày
binh lửa (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
Ta
chọn sông
hồ chuyến
ngược xuôi
Mỗi
bận Vu
Lan buồn
héo hắt
Ngây
nhìn ảnh
mẹ nhớ
từng hồi.
VNN 10/05/07
dạng Niêm Luật 10/16 : 1-3 2-4 Bằng + 1-4 2-3
Trắc CHẤP NHẬN THÔI
Câu thơ trào phúng chĩ mua vui. (Niêm 1-3 2-4 Luật Bằng
Xướng họa cùng nhau tặng nụ cười…
Hả! Ha! vài tiếng trêu ai giận
Hi! Hí vần thơ chọc bạn chơi. Đừng
giận, đừng
buồn thơ
tiếu ý. (Niêm 1-4 2-3 Luật Trắc
Chung
mâm, chung
tiệc nắm
tay ngồi.
Tinh
thần sảng
khoái và
thanh nhẹ...
Huynh
nghĩ như
vầy chấp
nhận thôi.
Thảo My 22/02/08
dạng Niêm Luật 11/16 : 1-3 2-4 Trắc + 1-4 2-3
Bằng HỒN THƠ
*Gió thoảng trùng dương sóng gọi bờ (Niêm 1-3 2-4 Luật Trắc
*Trăng vàng chếch bóng dậy hồn thơ
Nước chảy trên sông làn nước đục
Mây che đỉnh núi áng mây mờ Nhà
tranh xiêu
vẹo bên
triền núi (Niêm 1-4 2-3 Luật Bằng
Vách
đất cong
queo cạnh
suối mơ
Gác
vắng đêm
dài trông
nguyệt lặng
Tình
quên thệ
ước để
duyên chờ.
Vancali 6.2.09
Sau đó tác giả tự thấy và tự cho là sai nên nhắn yêu cầu các bạn sửa lại 2 câu đầu là :
*Trùng dương gió thoảng sóng xô bờ
*Chếch bóng trăng vàng dậy túi thơ - “dậy túi thơ” thì nghe chẳng hay bằng “dậy hồn thơ” dạng Niêm Luật 12/16 : 1-3 2-4 Trắc + 1-4 2-3
Trắc KHỔ THÂN THẦY ĐỒ
Này mực, này nghiên mệt thí mồ (Niêm 1-3 2-4 Luật Trắc
Lại thêm trét giấy với pha hồ
Tướng cứ gầy tong mồm cứ há
Áo thì ướt nhẹp túi thì khô Dưới
phố xăn
quần đon
đả khách (Niêm 1-4 2-3 Luật Trắc
Bên
đường trải
chiếu chực
chờ sô*
Chợt
nghe có
tiếng còi
pô-lic
Vội
chạy lăng
quăng dọn
hết đồ.
Tú Lòng...thòng
* show
dạng Niêm Luật 13/16 : 1-3 2-4 Bằng +
1-3 2-4 Bằng NGỌT NHƯ THƠ ĐƯỜNG
Thơ Đường đối đáp trông hay hay (Niêm 1-3 2-4 Luật Bằng
Trong trẻo ngọt ngào chút đắng cay
Nhà thơ tơi đất cho hạt giống
Đợi đến xuân về được mía cây Tám
câu ngắn
ngủi hồn
sâu lắng (Niêm 1-3 2-4 Luật Bằng
Lộ
tả chân
dung độc
đáo thay
Như
mây yêu
gió trên
đầu núi
Chìm
đắm thơ
Đường tim
ngất ngây
Bạch Vân Nam 2007
dạng Niêm Luật 14/16 : 1-3 2-4 Bằng +
1-3 2-4 Trắc VUI XUÂN CON TRÂU
Không chờ chẳng đợi cũng nhanh qua (Niêm 1-3 2-4, Luật Bằng
Tiễn chuột mừng trâu đến viếng nhà
Vui Xuân hý hoạ vài câu đối
Đón Tết nhâm nhi mấy chén trà Xúc
cảnh lời
vàng bay
bỗng mãi (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc
Tri
tình bút
ngọc toả
lan xa
Nắn
nót bài
thơ xin
chúc Bác
Thi
ca đám
trẻ chạy
theo già.
Sương Anh
dạng Niêm Luật 15/16 : 1-3 2-4 Trắc + 1-3 2-4 Bằng BÁC LÁ YÊU DẤU !
Bác Lá vui đùa bạn hữu đông (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc
Ông đi vắng lặng hỏi buồn không ?
Chỉ lối ngay đường thường đụng chạm
Lời ngay nẻo phải khó tương đồng Tình
ơi kính
Lão đời
thanh thản (Niêm 1-3 2-4, Luật Bằng
Bạn
hởi thương
người nước
đục trong
Chờ
Rơi ở
lại đừng
xa nhé
Bé
tịt hồn
thơ muối
xát lòng.
Vancali 9.23.08
dạng Niêm Luật 16/16 : 1-3 2-4 Trắc + 1-3 2-4 Trắc CƠM PHỞ
Cơm phở đều từ lúa gạo ra (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc
Phở cơm no bụng sống thôi mà
Phở mảnh mai xinh thèm bế ẳm
Cơm tròn ục ịch muốn xê ra Cơm
nuốt hằng
ngày lâu
cũng chán (Niêm 1-3 2-4, Luật Trắc
Phở
ăn thỉnh
thoảng giống
như quà
Cơm
phở suy
cùng đều
ở gạo
Đổi
thay cũng
đúng phải
hong ??? ta !
Nguyệt Ánh
Bài mẫu của 16 dạng Niêm Luật cho thấy dạng nào cũng cho được âm điệu hài hòa cho bài Thất Ngôn Bát Cú Đường Thi.
3.3 Sự qui định ra ĐƯỜNG LUẬT Về sự qui định ra Ðường Luật Quách-Tấn có nhận xét như sau :
“Ðường Luật không phải do một cá nhân hay một nhóm thi nhân cao hứng đặt ra theo sở kiến, sở thích của mình,
mà chính là sự đúc kết những kinh nghiệm kỹ thuật lâu đời đã thành công, và điển chế những thành công ấy làm khuôn phép chung cho làng Thơ.”
(trích Thi Pháp Thơ Ðường của Quách-Tấn, trang 38)
Sự Giải Mã ĐƯỜNG THI trình bày trên đây đã cho thấy đầy đủ
phần kỹ thuật lâu đời đã thành công của thi nhân đời Đường. Và nay không còn là thời kỳ khoa cử. Nên mọi người có thể tự do lấy
những thành công ấy làm khuôn phép để làm thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật. Đó là cách chơi phóng khoáng của các thi nhân danh tiếng đời Đường, làm thơ
Thất Ngôn Luật với 16 dạng Niêm Luật khác nhau.
16 dạng Niêm Luật đã nêu không phải là do ai đặt ra mà chỉ là cái kết quả tự nhiên của toán học trên cách chơi đã chọn của thi nhân đời Đường là dùng 2 bài Tứ Cú tự do theo Niêm riêng và theo Luật riêng.
Với sự lựa chọn này, khi làm thơ thi nhân khỏi phải nhắm vào một dạng thơ nào, mà chỉ cần tìm ý tứ để viết 8 câu thơ đúng theo bố cục (Mở Phá, Trạng, Luận, Thúc Kết). Tức là viết thành 4 cặp 1-2 3-4 5-6 7-8. Hứng thơ tứ thơ đưa đến những ngôn từ nào thì chọn ba chữ nhì-tứ-lục thích nghi với những ngôn từ ấy để có 1 câu đúng theo Luật Trắc một câu đúng theo Luật Bằng cho mỗi cặp, bất cứ là Luật nào cho câu trên Luật nào cho câu dưới cũng đều tốt cả. Dĩ nhiên phần đối ngẩu và gieo vần phải đúng theo khuôn phép của loại thơ “
Thất Ngôn Luật”. Và khi viết xong 8 câu như thế thì bài thơ Thất Ngôn Bát Cú sẽ đương nhiên trúng vào 1 trong 16 dạng Niêm Luật khả hữu mà cách chơi cho phép, gồm luôn cả 2 dạng Niêm Luật tương ứng với dải số.
Chơi theo cách quy định bởi dải số, thì chỉ là dùng 2 dạng Niêm Luật thông dụng nhất trong số 16 cách chơi của Đường Thi. Sự giới hạn này đôi khi cũng gây khó khăn cho thi nhân và bài thơ có thể kém hay.
Xin nêu lại bài HÀ TIỆN làm ví dụ :
HÀ TIỆN
Giàu thì ba bữa khó thì hai (Niêm 1-4 2-3, Luật Bằng
Lần lữa cho qua tháng thiếu đầy
Nón đổi lá ngoài quần đổi ống
Dép thay da mặt túi thay quai Dặn
vợ có
cà đừng
gắp mắm* (Niêm 1-4 2-3, Luật Trắc
Bảo
con bớt
gạo bỏ
thêm khoai
Thế
gian mặc
kẻ cười
hà tiện
Ta
chẳng phiền
ai chẳng
lụy ai.
Nguyễn-Minh-Triết
Nếu muốn làm đúng theo dải số thì phải đổi ngược Luật của 4 câu thơ chót : Trắc thành Bằng, Bằng Trắc. Với những tứ thơ đã đến như thế thì hầu như thi nhân không có cách thực hiện, hoặc chỉ thực hiện được trong sự gượng ép khiến lời lẽ không còn hồn nhiên thoải mái như trên.
Nhưng nói chung cách chơi nào cũng đều có thể cho ra được những bài thơ hay cho làng thưởng thức vì như đã nói cách chơi theo dải số chỉ là 2 trong số 16 cách khả hữu của phép chơi chung.
PHẦN IV. KẾT LUẬN
Nay không còn là thời kỳ khoa cử.
Nhưng người làm thơ lắm khi thích tìm cái khó để trổ tài. Làm thơ theo dải số 1-8 2-3 4-5 6-7 cũng là thêm một chút khó. Với cái khó đó mà cống hiến được cho làng thơ những bài thơ hay là điều đáng ca ngợi, chẳng ai mong muốn gì hơn.
Nhưng việc gọi những bài TNBC Đường Thi danh tiếng của Lý Bạch, Đỗ Phủ … Nguyễn Du, Nguyễn Bỉnh Khiêm, là thơ phá cách, thơ thất Niêm hay thơ Cổ Phong, chỉ vì chúng nằm ngoài dải số, thì bài Giải Mã này đã trả lời. Xin mọi người lấy công tâm mà kết luận.
-----o-----
LỜI CUỐI SÁCH Phần kỹ thuật của thi nhân đời Đường đã được mỗ xẻ, phân tách và đúc kết như trên, cho thấy cách chơi của họ rộng rãi phóng khoáng hơn cách chơi quy định bởi dải số của thời khoa cử.
Mọi người chúng ta hoàn toàn tự do để chọn lựa cách chơi : theo thi nhân đời Đường hay theo dải số của giới khoa cử cũng đều tốt cả. Vì cách nào cũng cho được những bài thơ hay cho làng thưởng thức.
Nhưng nên trả lại César những gì của César:
1/ Trả lại cho những bài ĐƯỜNG THI danh tiếng cái địa vị tôn quý của chúng trong ĐƯỜNG THI. Đó là những bài TNBC ĐƯỜNG THI chính thống, không phải là thơ thất Niêm vì “phá cách”, lại càng không phải là thơ Cổ Phong.
2/ Thơ TNBC Đường Luật là thơ làm rập khuôn theo loại thơ “Thất Ngôn Luật” của thi nhân tiền bối đời Đường. Mà loại thơ này có tổng hợp 16 dạng Niêm Luật như đã trình bày. Làm theo dải số thì chỉ là trúng vào 2 dạng Niêm Luật “có nhiều bài nhất”, chứ không phải là “duy nhất”.
Thơ nằm trong 14 dạng Niêm Luật còn lại kia vẫn là thơ TNBC Đường Luật, nên chúng có quyền có mặt trong mọi trang thơ Đường Luật, thay vì bị gạt ra ngoài như hiện tại.
Sự sửa lại hay vứt bỏ vào sọt rác những bài thơ ấy khiến cho kho thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật bị thiếu mất đi những cách chơi đa dạng của thi nhân đời Đường.
Xin mượn 4 câu thơ của Xuân Diệu để dứt lời :
Thôi thì đó, nói cùng nhau cho thỏa,
Ai có thương thì tôi cũng cảm ơn,
Ai có ghét, tôi cũng cười khuây khỏa,
Lỗi vì tôi, tôi đâu dám giận hờn. - Xuân Diệu
Võ Nhựt Ngộ
98/190 Tán Kế, Phường 3 tp Bến Tre, tỉnh Bến Tre
Email :
vonhutngo@yahoo.fr -----o-----
TÀI LIỆU THAM KHẢO ĐƯỜNG THI CẢM DỊCH của Đinh Vũ Ngọc, nhà xuất bản ĐÀ NẴNG
ĐƯỜNG THI TRÍCH DỊCH của Đỗ Bằng Đoàn và Bùi Khánh Đản, nhà xuất bản VĂN HỌC
ĐƯỜNG THI TUYỂN DỊCH của Lê Nguyễn Lưu, nhà xuất bản Thuận Hóa
THI PHÁP THƠ ĐƯỜNG của Quách Tấn, nhà xuất bản Trẻ TP HỒ CHÍ MINH
ĐỌC VÀ DỊCH THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU của Thảo Nguyên, nhà xuất bản Hội Nhà Văn
Website :
http://www.vnthuquan.net *******************
MỤC LỤC
1 Lời Phi Lộ
Lời nói đầu
2 PHẦN I. Giải Mã và chứng minh
1.1 mẫu thơ Thất Ngôn Tứ Cú
LƯƠNG CHÂU TỪ
CỬU NGUYỆT CỬU NHẬT ỨC SƠN TRUNG HUYNH ÐỆ
3 HOÀNH GIANG TỪ kỳ nhị
TÍCH TRUNG TÁC
1.2 Lược dẫn sự Giải Mã
4 1.3 Những bài thơ minh chứng sự Giải Mã
Tiêu biểu cho 4 cách Niêm
XUÂN TỊCH LỮ HOÀI
5 HỌA GIẢ CHI XÁ NHÂN “TẢO TRIỀU ĐẠI MINH CUNG” CHI TÁC
THÀNH TÂY PHA PHIẾM CHU
6 CHƯỚC TỬU DỮ BÙI ĐỊCH
Tiêu biểu cho 4 thể Luật
ĐỒNG BÁCH QUÁN
7 PHỎNG LÃ DẬT NHÂN BẤT NGỘ
TỰ CỦNG LẠC CHU HÀNH NHẬP HOÀNG HÀ TỨC SỰ, KÝ PHỦ HUYỆN LIÊU HỮU
8 KHÚC GIANG ĐỐI TỬU
1.4 Pha trộn hai phần Niêm Luật
9 1.4.1 Bảng kê 16 dạng Niêm Luật với những bài TNBC ĐƯỜNG THI tiêu biểu :
BẦN NỮ
10 HÀ TIỆN
DẠ BIỆT VI TƯ SĨ
TÂY DỊCH TỈNH TỨC SỰ
11 TÚC ĐÀO LỆNH ẨN CƯ
VĂN LÂN GIA LÝ TRANH
12 BÁN NHẬT THÔN
KINH NAM ÐẠO HOÀI CỔ
13 LOẠN TRUNG ỨC CHƯ HUYNH ĐỆ
ÐẰNG VƯƠNG CÁC
14 BÀI THƠ AI TẶNG...
ĐĂNG TÙNG GIANG DỊCH LÂU BẮC VỌNG CỐ VIÊN
15 TẢO TRIỀU ĐẠI MINH CUNG
HỌA GIẢ CHI XÁ NHÂN “TẢO TRIỀU ĐẠI MINH CUNG” CHI TÁC
16 QUÁ THỪA NHƯ THIỀN SƯ, TÚC CƯ SĨ TUNG KHÂU LAN NHÃ
KHỨ GIA CHÂU, QUÁ THÀNH CỐ HUYỆN, TẦM VĨNH AN SIÊU THIỀN SƯ PHÒNG
17 KÝ THÔI THỊ NGỰ
ĐĂNG KIM LĂNG PHƯỢNG HOÀNG ĐÀI
18 THÀNH TÂY PHA PHIẾM CHU
HÀNH DƯƠNG DỮ MỘNG ĐẮC PHÂN LỘ, TẶNG BIỆT
19 HOÀI CỔ TÍCH - KỲ NHỊ
TẶNG KHUYẾT HẠ BÙI XÁ NHÂN
20 TỰ CỦNG LẠC CHU HÀNH NHẬP HOÀNG HÀ TỨC SỰ, KÝ PHỦ HUYỆN LIÊU HỮU
TỐNG TIỀN VỆ HUYỆN - LÝ THẨM THIẾU PHỦ
21 TÍCH VŨ VÕNG XUYÊN TRANG TÁC
DĨ HÒA VI QUÝ
SỨ QUÂN TỊCH DẠ TỐNG NGHIÊM HÀ NAM PHÓ TRƯỜNG THỦY, ĐẮC “THÌ” TỰ
22 PHỎNG LÃ DẬT NHÂN BẤT NGỘ
LONG TRÌ
23 BÁC LÁ YÊU DẤU !
ĐỀ ĐÔNG KHÊ CÔNG U CƯ
24 CHƯỚC TỬU DỮ BÙI ĐỊCH
1.5 Các chi tiết khác của bài Tứ Cú
a/ Về số Vần
b/ Về vần Trắc hay vần Bằng
25 ĐÀN XƯA NHỊP MỚI
1.6 Một bài thơ “PHÁ CÁCH”
VÕNG XUYÊN BIỆT NGHIỆP
1.7 Một bài thơ áp dụng sự phóng khoáng tột cùng
26 ÐẰNG VƯƠNG CÁC
PHẦN II. DẢI SỐ Kiểm Soát 1-8 2-3 4-5 6-7
2.1 Dải số không chấp nhận phép Niêm 1-3 2-4 của thơ Tứ Cú
2.2 Dải số không chấp nhận 2 bài Tứ Cú trên/dưới có Luật khác nhau
2.3 Dải số vô tình chấp nhận những bài thơ “dở tệ” của người mới học
27 TÌNH NGHĨA 2
GHÉ THĂM VÀ HỌC HỎI
LẠI CÙNG BAY
2.4 Lý do thực sự khiến có những bài TNBC ĐƯỜNG THI nằm ngoài dải số
28 2.5 Hai cách giải thích hoàn toàn thiếu căn bản hợp lý
2.5.1 Giải thích với câu “Đại gia văn chương bất câu Niêm Luật”
2.5.2 Giải thích rằng những bài thơ nằm ngoài dải số KS đó là thơ Cổ Phong
VỊNH DẾ DUỖI
29 2.6 Thử tìm nguyên nhân phát sinh ra dải số KS 1-8 2-3 4-5 6-7
PHẦN III. CÁCH CHƠI PHÓNG KHOÁNG CỦA ĐƯỜNG THI VỚI THI NHÂN VIỆT NAM
3.1 thơ của thi nhân tiền bối
VỊNH DẾ DUỖI
30 HÀ TIỆN
DĨ HÒA VI QUÝ
CẢM CỰU TỐNG TÂN XUÂN CHI TÁC (bài I)
ÐỘC TIỂU THANH KÝ
31 3.2 thơ của thi nhân hiện đại
32 MƠ TIÊN
CHAY ĐỔI MẶN
CHO TRỌN CUỘC TÌNH
NHẤT ĐỜI
33 GHẸO BẠN
BÀI THƠ AI TẶNG...
DUYÊN NỢ
SẼ ÊM RƠ
34 VU LAN BUỒN NHỚ
CHẤP NHẬN THÔI
HỒN THƠ
35 KHỔ THÂN THẦY ĐỒ
NGỌT NHƯ THƠ ĐƯỜNG
VUI XUÂN CON TRÂU
BÁC LÁ YÊU DẤU !
36 CƠM PHỞ
3.3 Sự qui định ra ĐƯỜNG LUẬT
37 PHẦN IV. KẾT LUẬN
LỜI CUỐI SÁCH
TÀI LIỆU THAM KHẢO
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.06.2011 00:26:33 bởi Huyền Băng >