VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( II )

Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 2 của 4 trang, bài viết từ 31 đến 60 trên tổng số 104 bài trong đề mục
Tác giả Bài
tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Chiều Ghềnh Ráng - 09.05.2015 11:08:53
Nghĩ về Phương Đình Nguyễn Văn Siêu...
Cha tôi người kể chuyện, đã từng kể tôi nghe một đôi điều về Phương Đình Nguyễn Văn Siêu trong vô vàn những chuyện kể ban đêm của người. Rằng Phương Đình là người viết ba chữ Tả thanh thiên ( có nghĩa là viết lên trời xanh) ở Tháp bút, Hồ Gươm. Và ấn tượng hơn là câu chuyện về chí sĩ Cao Bá Quát ngạo thiên hạ mà tuyên bố rằng: “Cả thiên hạ có ba bồ chữ thì Quát này chiếm hai, một còn lại thì Nhạ và Siêu chia nhau mỗi người một nửa” (ở đây, Nhạ tức Cao Bá Nhạ, anh ruột Cao Bá Quát và Siêu là Phương Đình Nguyễn Văn Siêu). Là chuyện truyền miệng nên chính xác đến đâu thì không dám bàn, song nếu chỉ với từng ấy thôi thì Phương Đình Nguyễn Văn Siêu cũng là người hay chữ lắm rồi. Người Kinh kỳ xưa và Hà Nội nay, tự hào có Phương Đình Nguyễn Văn Siêu, một trong những cây bút ở thế kỷ XIX. Gần đây, đọc sách Phương Đình văn loại của Nguyễn Văn Siêu, thấy quả là ông hiểu biết sâu rộng, chữ nghĩa điêu luyện, súc tích lắm. 
Ông vốn quê ở làng Lủ, xã Đại Kim, huyện Thanh Trì. Ông có cả một loạt bài viết về địa lý, phong thổ, con người Trung Hoa dọc theo trục Nam – Bắc và từ Quảng Tây đến Bắc Kinh, Hoàng Hà. Cứ theo Bài tấu về chuyến hành trình đi Yên Kinh (tức Bắc Kinh) trong chính cuốn sách này, thì năm Tự Đức thứ hai (1850), ông được cử làm Phó sứ trong đoàn sứ bộ ta sang nhà Thanh. Đường đi từ Mục Nam Quan đến Bắc Kinh phải qua các tỉnh Quảng Tây, Hồ Nam, Hồ Bắc, Hà Nam, Trực Lệ (tức Hà Bắc) và trở về, hết bộ lại thủy, dẫu có lâu thì cũng chỉ là cưỡi ngựa xem hoa thôi, chứ để viết được như vậy, vốn hiểu biết của ông hẳn phải rất sâu rộng. 
Với riêng tôi, cuốn sách này như là một cẩm nang quý trong chuyến công tác sang Quảng Tây. Ngày làm việc và đi thăm quan, tối về nằm khoèo khách sạn, lại giở sách ra xem. Các bài Đại thể về địa thế tỉnh Quảng Tây, Sông đào ở núi Lâm Nguyên, Phong cảnh sông Tương, Núi sông ở Lâm Quế, Đá ngọn ở Dương Sóc, Ngô Châu – đất yết hầu v.v... đã thực sự giúp tôi mở rộng tầm mắt. Từ thành phố Quế Lâm theo tuyến tàu thủy du lịch chạy dọc Ly Giang đi thị trấn cổ Dương Sóc, ông viết: “ Sống đá cao vót, bó sông lại thành khe. Hoặc có chỗ đá trồi lên bất ngờ nhọn thẳng như măng tre, hoặc có chỗ từ sườn núi đá nhọn tòe ra như sừng hươu, hoặc có chỗ đá như vuốt như sừng chĩa vào nhau như loài thú đánh lộn. Có tảng thẳng đứng như cột buồm, có tảng dốc như tường vách, có tảng tròn như vựa thóc, có tảng hình tựa bày quân cờ, có tảng góc cạnh như hiên nhà, có tảng nứt đôi như múi dưa, có tảng hai đầu vênh lên như con thuyền...”. Rồi nữa, trong bài Núi sông ở Lâm Quế, ông viết: “Ngọn núi Độc Tú mọc thẳng vút hơn hai trăm trượng, đó là ngọn núi cao nhất vùng. Dưới núi này có động, đi ngầm dưới đất có thể thông đến phía bắc núi. Trong động, có ghế đá, giường đá, cửa đá la liệt, giống một phòng tường bao quanh. Trên núi có lầu gác, trông lẫn vào mây xanh, bốn mặt núi biếc, bao la bát ngát. Quế Giang (tên gọi khác của Ly Giang – Tg) vẫy vùng trong cảnh ấy, sông nước long lanh dập dình, như gò đảo Phương Hồ (theo truyền thuyết biển Bột Hải có đảo tiên ở là Phương Hồ) vì vậy mới có câu nói rằng: Sơn sáo Quế Lâm, kỳ bất khứ dã (Núi non đến như Quế Lâm, kỳ lạ không muốn rời vậy)...”. Bút đến như thế, quả thật tài tình, linh hoạt mà diễm lệ thay!... 
Buổi đến thăm Cục Phát thanh truyền hình Quế Lâm, anh Hoàng Sơn, giám đốc, khoe với chúng tôi rằng, Cục đang chuẩn bị lên sóng hẳn một kênh phát thanh Du lịch, bởi có thể nói, Quế Lâm phong cảnh thuộc loại bậc nhất Trung Quốc. Không nói chi đến du khách nước ngoài, mà ngay chính người dân Trung Quốc, cũng có biết bao người ở những vùng khác, ước ao được đặt chân đến Quế Lâm để chiêm ngưỡng cảnh sắc hữu tình nơi đây mà thiên nhiên ban tặng. Nói đến Quế Lâm là du khách nhớ đến ba núi (Tượng Tị, tức Vòi Voi, Điệp Thái và Phục Ba), hai hang (Thất Tinh, Lôi Địch Nham), một sông (Ly Giang), một mương (mương cổ Linh Cừ từ thời Tần, tên cũ là Tần Cừ), và Tam Bảo (tức ba thứ quý là Rượu Tam Hoa, đậu phụ nhự và tương ớt). Có thể kể thêm 3 loại thực thảo quý là cỏ Mã đề, khoai sọ Lệ Phố và hồi. Hẳn vì thế mà người Quế Lâm không ngại ngùng mà tự hào: Quế Lâm sơn thủy đệ nhất thiên hạ. 
Lúc trò chuyện cùng các đồng nghiệp Trung Quốc, tôi thầm nghĩ, chắc hẳn phía bạn không thể biết, những điều ấy, tôi đã được cụ Phương Đình chỉ dẫn kỹ lưỡng rồi. Kiến văn uyên thâm, cộng thêm khả năng quan sát kỹ lưỡng và hết sức tinh tế đã giúp cho ông để lại hậu thế những thiên tùy bút xuất sắc. Nhờ thế mà văn đàn Hán Nôm Việt Nam có thêm một tên tuổi lớn ở thể loại văn xuôi. Những đoản văn từ 150 năm trước sẽ lại thêm sức sống khi mà sự giao lưu văn hóa và nhu cầu du lịch của con người mỗi tăng lên trong xu thế hội nhập của thời đại ngày nay. 
Quả là, thời đại của những tốc độ siêu nhanh, của những Internet đã và sẽ còn đem lại cho người ta nhiều tiện lợi, song lại tước đi thú nhẩn nha, tiêu dao... Tôi thầm cười mà nghĩ, sẽ chẳng có những thiên tùy bút xuất sắc, nếu như cụ Phương Đình cưỡi máy bay Boeing hay Airbus mà đi sứ Yên Kinh...!
 
r
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.02.2021 05:06:11 bởi Ct.Ly >

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Chiều Ghềnh Ráng - 02.09.2015 16:32:50
Có một người văn Việt ở Paris...
 
Mùa đông năm 1996, tôi cùng vài ba đồng nghiệp của Đài Tiếng nói Việt Nam sang Pháp học nghiệp vụ báo chí, trước khi đi, nhà văn Ngô Tự Lập có nhờ tôi chuyển thư cho một người quen ở Paris là Đặng Văn Long và bảo: “Anh nên đến chơi thăm anh Long. Anh ấy tốt lắm, cũng có viết văn...” Sang rồi, theo số điện thoại Lập cho, tôi gọi điện. Một giọng nói nhỏ nhẹ, thân thiện trả lời. Anh Long mời chúng tôi đến chơi nhà, và sợ chúng tôi bỡ ngỡ, lạc đường nên vẫn cố đến đón chúng tôi. 
Đúng hẹn, chúng tôi ra điểm hẹn bến xe buýt ngay cửa ga metro Croix de Chavaux thuộc quận ngoại ô Montreill. Một người đàn ông đứng tuổi nhỏ thó, da trắng xanh, thọc tay vào túi áo khoác đi đi lại lại loanh quanh cho đỡ rét, chăm chăm nhìn chúng tôi. Người Việt mình. Đúng là anh Long. Thế là chúng tôi nhận ra nhau. Anh ở cách đấy chừng vài ba chặng xe buýt cũng thuộc Montreill, một căn hộ 7 buồng trên tầng 9 của chung cư. Khi đó, anh cho một thực tập sinh Việt của Viện quân y 103 ở nhờ. Phòng khách rộng, treo mấy bức tranh thư pháp, anh bảo là của đạo diễn – nhà thơ Đỗ Minh Tuấn và vài người quen khác từ Việt Nam sang công tác ghé chơi, tặng lại. Hôm ấy, anh giữ chúng tôi ở lại dùng cơm, chỉ chúng tôi lấy thực phẩm sẵn trong tủ lạnh và dặn hãy nấu những món ăn đặc Việt. Bữa cơm giản dị, ấm cúng tình người. Quen nghe anh xưng anh là cũng gọi theo vậy, song không ngờ anh đã 74 tuổi, sang Pháp từ hơn 50 năm trước. Khi thấy chúng tôi đổi cách xưng hô, anh bảo, không cần thiết, cứ gọi thế cho thân mật, với lại anh đang mong ước được trẻ lại để còn hy vọng một lần về thăm quê hương bản quán. 
Trong câu chuyện, anh cho biết, vốn quê Hải Dương, sinh năm 1919, năm 1940, bị Pháp bắt lính, đưa xuống tàu há mồm cùng bao thanh niên Việt sang Pháp làm lính thợ. Những lính thợ người Việt khi ấy bị đưa sang châu Phi, đi đến một vài xứ thuộc địa Pháp để phục vụ công cho quân đội viễn chinh Pháp, rồi sau đó lại trở về Pháp tiếp tục kiếp lính thợ. Sau năm 1947, giải ngũ định cư tại Pháp, anh có làm một số công việc, chủ yếu là lao động giản đơn. Rồi lấy vợ Pháp, một người đàn bà thuộc tầng lớp lao động bình dân, có hai con. Lúc bấy giờ, vợ anh đã mất chừng dăm năm, con gái lấy chồng sống bên Bỉ, con trai lấy vợ sống trong nội thành Paris, anh sống một mình bằng lương hưu. Từ nhiều năm trước, anh bị bệnh tim, giờ nặng đến mức phải đeo máy trợ tim dưới làn da ngực trái. Căn hộ tầng 9 chung cư này luôn rộng cửa với rất nhiều người Việt Nam, nhất là các anh em văn nghệ sĩ, các nhà báo mỗi khi sang Pháp. 
Anh cho chúng tôi xem một tập thơ của anh, rồi khoe là có một cuốn tiểu thuyết nhan đề Lính thợ ONS vừa được NXB Lao động ấn hành tại Việt Nam, và hiện anh đã viết được chừng 500 trang một cuốn sách khác về người Việt Nam ở Pháp. (2 năm sau, cuốn sách có nhan đề “Người Việt Nam ở Pháp” 1940 – 1954 được in 1997 tại Pháp). Tôi đã từng nhìn thấy bìa cuốn sách Lính thợ ONS bày bán ở Việt Nam, song không ngờ lại được gặp tác giả. Khi thấy chúng tôi trầm trồ, anh nhỏ nhẻ cười hiền, bảo, bốn dĩ là anh nông dân, khi bị bắt đi lính thợ tuy không đến nỗi mù chữ quốc ngữ, song viết lách còn chưa thạo, tất cả là do đi ra ngoài, gian khổ trường đời dạy cho cả. Rồi anh cứ mủm mỉm cười, lúc lắc đầu làm như vẻ không thể tin nổi chuyện một người chẳng mấy hiểu chữ nghĩa sách vở, rồi qua bao năm tháng thân phận cu-li như mình mà lại có ngày trở thành nhà văn, nhà chép sử... Có thể anh thật lòng, mà hoặc có khiêm tốn mà nhận vậy đi chăng nữa thì cũng đâu có khác gì nhau, đều là đáng quý cả. Sau đó, chúng tôi còn đôi ba lần, đến thăm anh vào kỳ nghỉ cuối tuần. Riêng tôi và anh, có thêm vài kỷ niệm nho nhỏ. Lúc chuyện trò về văn chương, anh cho biết là người quen trong nước thỉnh thoảng gửi cho anh dăm cuốn sách nên anh không đến nỗi quá lạc hậu với tình hình văn học nước nhà. Rồi anh khen văn Ngô Tự Lập mới mẻ. Tôi có tặng anh một tập truyện ngắn của tôi do NXB Hà Nội ấn hành. Mấy ngày sau, anh gọi điện đến nơi tôi ở, nói hào hứng là đã đọc xong tập truyện của tôi và không khách sáo bảo là viết bình thường, chắc tay, có đôi ba truyện được, đặc biệt khen truyện Biển của một thời... Vào dịp trước lễ Giáng sinh năm ấy, chúng tôi chuẩn bị về nước, có tranh thủ làm một magazine về người Việt ở Pháp với Tết dân tộc. Khi chúng tôi thực hiện cuộc phỏng vấn thu thanh anh Long, anh nhắc đến ký ức về những cái Tết tuổi thơ nghèo khó mà vui xa xưa từ ngày chưa sang Pháp và kề chuyện cùng vợ con và những người Việt Nam ở Pháp tổ chức đón Tết cổ truyền dân tộc, xúc động quá nên cơn đau tim bột phát. Chúng tôi bị một phen hoảng hồn, may nhờ có máy chỉnh nhịp tim và dùng thuốc kịp thời nên qua khỏi, nếu không chúng tôi sẽ ân hận nhường nào!... 
Thực ra, sau khi giải ngũ khỏi kiếp lính thợ, vì mặc cảm với thân phận mình nên suốt bao năm trời cắm đầu nơi xứ người mà sống, đến lúc tuổi cao sức yếu bệnh tim đeo đẳng dù nhờ quê hương bản quán lắm lắm song cũng không thể về được nữa. Anh tâm sự, thôi thì chỉ còn cách giãi bày, trút hết nỗi niềm thành kính, thương yêu da diết Tổ quốc, quê cha đất tổ bằng ngòi bút, viết nên những điều tâm huyết nhất. Cũng chẳng biết rồi những gì mình viết ra giá trị đến đâu, chỉ biết, khi viết, mình đăm đăm với ý tưởng vạch rõ bộ mặt thật của thực dân, đế quốc và mong muốn thể hiện đức tính trung trinh, can đảm, chịu thương chịu khó để vượt lên số phận của người Việt mình dù trong bất cứ cảnh ngộ nào. Âu cũng là cách trả nghĩa công sinh thành của cha mẹ, quê hương của người con tha hương... 
Có lẽ, cũng chính vì lẽ ấy, tôi không gọi Đặng Văn Long là nhà văn, mà gọi anh là người văn, là để nhấn tới tính cách con người, một người Việt yêu nước, hơn là sự đóng góp về văn chương trong anh, cùng còn bởi, tác phẩm của anh có giá trị tư liệu hơn là gí trị về văn học .
Tôi nhớ, hôm chúng tôi đến thăm anh lần cuối trước khi về nước vì biết rằng khó có ngày gặp lại, anh bồi hồi chìa bàn tay già nua nhăn nheo để chúng tôi nắm. Tay kia anh luôn để lên ngực trái xoa nhẹ, nơi chiếc máy trợ tim thường trực canh gác trái tim anh, chép miệng: “Khổ thế, mấy em ơi... Anh ước ao một ngày nào đó được ngồi trên máy bay như mấy em đây mà về...!”. Anh lại nghẹn lời trong cơn xúc động... Chỉ một ngày sau khi về đến Việt Nam, cả mấy đứa chúng tôi đều nhận được cú điện thoại anh gọi về từ Pháp, ân cần hỏi thăm tình hình đi đường và chúc sức khỏe gia đình trước dịp Tết dương lịch. 
Kể từ ấy, đến nay đã dăm năm trôi qua, tôi vẫn luôn có tin tức về anh qua những người quen, phần đông là dân báo chí, văn nghê, chúng tôi vì mỗi dịp đến Paris đều ghé thăm căn hộ của anh Long. Trước lễ Giáng sinh năm nay (2002) chừng nửa tháng, có tin anh Long qua đời ở độ tuổi ngoại tám mươi. Thế là ngưng đập một trái tim đau, một trái tim tha hương luôn hướng về nguồn cội. Thì cứ cho rằng, những trang văn, trang sử anh viết chỉ là vì yêu tha thiết con người và quê hương đất Việt, và như anh tự nhận, là nghiệp dư đi chăng nữa, thì cái chúng ta biết đến và quý trọng ở Đặng Văn Long là tấm lòng kia mà!... 
Vậy là, từ tết Nhâm Ngọ, anh không còn được vọng xuân dân tộc như bao xuân trước, và ước mong một đời của người con xa xứ được một lần trở về thăm quê của anh không thành. Nhưng đấy là chuyện của một con người bằng xương bằng thịt. Chứ thực ra, nói theo tâm linh người Việt chúng ta, thì giờ đây, anh đã thuộc về hư vô,và ở cõi ấy, chẳng cần phải tàu há mồm, cũng không cần máy bay, anh hoàn toàn tự do trở về quê hương, không ràng buộc bởi bất cứ thứ gì. Vả lại, với Đặng Văn Long, tất thảy những gì anh viết trước đấy thực sự là sự trở về với cội nguồn rồi!...

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Chiều Ghềnh Ráng - 12.10.2015 16:50:52
Chơi vườn Luxembourg
 
Vườn Luxembourg tôi đã biết nó khi theo chân chàng Ma-ri-uyt rón rén bám đuổi cái bóng nàng Cô-dét trong tác phẩm Những người khốn khổ của Victor Hugo. Vườn Luxembourg tôi đã biết với đoạn văn nổi tiếng mà những thế hệ trước tôi hay nhắc đến của nhà văn Anatole France (Giải thưởng Nobel năm 1924) từ bản văn Bóng xưa“… Tôi sẽ nói với bạn những gì tôi thấy khi qua vườn Luxembourg những ngày đầu tháng mười. Vườn Luxembourg hơi buồn nhưng lại đẹp hơn bao giờ hết. Những lá vàng, từng chiếc, từng chiếc rơi đầy hai vai những pho tượng…” 
Với riêng tôi, có gì đó vừa tuyệt đẹp lại xa vời, ngỡ như chẳng bao giờ mình được thấy tận mắt. Vậy mà, giờ thì tôi đang đứng trong vườn Luxembourg rồi! 
Thực ra, khi vừa mới ở ga metro hay R.E.R gì đấy dưới lòng đất Paris trồi lên mặt đất, bắt gặp một không gian cây cối ở ngay trước mặt, người tôi khẽ run lên. Một cảm giác thật khó tả cứ trào dâng trong lòng tôi. Vườn Luxembourg là đây ư?! Bấy giờ là trung tuần tháng mười một, chứ không phải là tháng mười khi năm học mới bắt đầu, và tôi cũng không phải là cậu học trò hay ngài Anatole France đi tìm kỷ niệm xưa theo rình cái bóng của mình, tôi chỉ là một người khách xa lạ từ phương Đông lần đầu đặt chân đến đây với cả lòng ngưỡng mộ ấp ủ từ lâu. Vậy thôi. Hà cớ gì phải rón rén? Nghĩ thế rồi mà bàn chân tôi cứ ngập ngừng, bước bước lại dừng. Là tôi sợ mình bỏ sót gì chăng. Ngay trên lối đi cổng vào một cây lớn vàng rực toàn thân mà tôi không biết gọi tên chi. Hẳn là những chiếc lá vàng trên cây kia đã bao mùa thu rồi buông rơi từng chiếc một xuống vai các pho tượng. Tôi đứng hồi lâu dưới gốc mà chẳng có một chiếc lá vàng nào rụng xuống, chỉ có đám lá vàng đã rụng từ bao giờ đang khô thiếp dần đi thì chốc chốc lại khẽ xào xạc nơi mặt đấy mỗi khi làn gió bấc thổi lùa đi. Một cảm giác buồn buồn, nhột nhột, nơi chân tóc cổ áo như có kiến hay sâu tơ chạm vào. Tôi ngửa mặt nhìn mãi vừng vàng, lưu luyến chẳng muốn rời chân đi. Loanh quanh theo các lối của vườn, tôi và mấy người bạn cùng đi lâu lâu một ai lại ồ lên thích thú, trầm trồ buột miệng khen ngợi gì đó. Giữa vườn có hồ nước nhỏ, thiên nga, vịt trời, chim chóc từng bầy ngụp lặn, phơi hóng bộ cánh, hoặc nhẩn nha nhặt nhạnh chút thức ăn, hay dạn dĩ xán gần lẩn quẩn chân du khách. Tôi đặc biệt thích thú những chậu cúc. Đủ loại cúc vàng, cúc nâu hoa nở rực rõ như đơm xôi trên những chiếc chậu cổ, mà mỗi chiếc chậu mang một kiểu dáng khác nhau, có chiếc được tạo thành bởi khóm tượng những hài đồng. Vì thế, mỗi chậu hoa cúc có thể xem là một tác phẩm nghệ thuật. Đông đúc và náo nhiệt nhất vẫn là khu vui chơi với trò cưỡi ngựa. Khách chơi vườn xúm đông xúm đỏ mua vé đợi đến lượt mình cưỡi ngựa. Những chú ngựa cảnh giống lùn, chân to hiền lành, mệt nhoài bởi cứ phải chạy đi chạy lại trên một tuyến đường định sẵn để chiều lòng những du khách muốn có cảm giác của các kỵ sĩ trong chốc lát. Khác hẳn Disneyland với các trò chơi nhân tạo kỳ thúc mang cảm giác mạnh, những trò chơi ở vườn Luxembourg dân dã và gần gũi với tự nhiên. Để ý quan sát, tôi cảm nhận, ngoại trừ những khách du lịch nước ngoài hay người từ các thành phố, tỉnh lẻ của Pháp đến đây cho biết, như kiểu chúng tôi chẳng hạn, còn phần đông người Paris chơi vườn Luxembourg đều có nhu cầu thư giãn tĩnh tâm, hoặc giả trai gái yêu nhau hò hẹn tâm tình, và nữa là lũ học trò lẩn vào đây tìm góc yên tĩnh để ôn luyện bài vở…
Dạo mãi trong vườn chưa thỏa, mấy chúng tôi nảy ra ý định hơi điên rồ là thả bộ vòng quanh hàng rào phía ngoài vườn ngắm cảnh phố phường. Phía đông là Boulevard Saint Michel (đại lộ Thánh Misen) sầm uất, ranh giới của hai quận 5 và 6. Phía Bắc là Rue Medicis và Rue de Vaugirard, hai phố này án ngữ mặt chính của vườn. Phía Tây là Rue Guynemer và Rue d’Assas. Còn mặt Nam là Rue Auguste và Comte. Những phố bao bọc quanh vườn đa phần theo kiểu kiến trúc đặc trưng miền Bắc nước Pháp, nhà cao cỡ từ ba, bốn đến bảy, tám tầng liền nhau màu xám xịt, khá cổ kính. Thực hiện xong ý định điên rồ đó, chúng tôi đều mỏi nhừ, người râm rấp mồ hôi mặc dù trời chiều Paris đang lạnh chừng 3 – 4 độ C.
Với thời gian chừng tháng rưỡi ở Paris, vì bận học hành, công việc nên tôi chẳng còn thời gian quay lại chơi vườn Luxembourg lần nào nữa. Vả lại, những ngày nghỉ cuối tuần sau đó, chúng tôi phải dành để đi chơi các điểm du lịch nổi tiếng khác và đặc biệt chúi đầu vào mấy viện bảo tàng. Giờ đây, có lẽ ấn tượng sâu đậm nhất nơi tôi về Paris là buổi chơi vườn Luxembourg. Cứ mong có ngày được trở lại Paris. 
Và khi ấy, dù mới chỉ một lần, tôi đã có thể như nhà văn Anatole France xưa, rón rén từng bước lần theo cái bóng của mình trên mọi lối đi ngóc ngách của vườn mà sống lại kỷ niệm cũ…
( 1996 )
Ps: Kể từ ngày ấy, cho đến mùa thu năm 2012, tôi mới có dịp trở lại nước Pháp, và may mắn làm sao, Trường ENA ( Học viện Hành chính quốc gia Pháp ), nơi tôi theo học khóa đào tạo ngắn hạn, lại nằm kế bên vườn Luxembourg. Vậy là tôi có cả nửa tháng trời, ngày học nào cũng dùng bữa ăn trưa nhẹ tự túc ngay tại vườn Luxemboug, rồi tha thẩn chơi vườn cho đến giờ học buổi chiều. Vâng, vẫn là mùa thu lá đỏ lá vàng rực, vẫn những chậu cúc thu màu sắc tuyệt đẹp, vẫn những chú thiên nga, vịt trời nhẩn nha trên mặt nước hồ trong vắt tới đáy, vẫn vòm trời thu xanh ngắt cùng những cụm mây trắng nhẹ rong chơi, vẫn những cặp tình nhân ôm ghi nhau trên ghế đá, vẫn những cô cậu học trò sinh viên một mình lặng lễ đọc sách, ôn luyện thi cử, và vẫn những pho tượng trắng lác đác lá vàng ngủ trên bờ vai...
Tôi đã xúc cảm mà viết bài thơ " Luxemboueg, mười sáu tuổi thêm" ( bài thơ có trong blog này), có những câu thơ:

"...Ta lặng ngắm
thu Paris chừng vậy,
bồi hồi
nhớ ngày thu năm ấy,
Luxembourg
vườn tình
mười sáu tuổi thêm...".
Sau đó, tôi còn nhiều lần trở lại khu vườn tuyệt diệu này. Mỗi lần mỗi xúc cảm, và ký ức thì mỗi dầy thêm...

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Chiều Ghềnh Ráng - 29.11.2015 09:15:28
Tàu điện, giao thông hay là văn hóa ?
                                            
       
           Tôi nhớ, vào những ngày cuối cùng của năm 2006, có hai thông tin gây nên trong tôi cùng một xúc cảm . Đó là, Hà Nội công bố khởi công xây dựng ga đầu mối tuyến metro đầu tiên tại Nhổn và Paris khánh thành tuyến xe điện nổi dọc theo bờ sông Xen.  
          Sở dĩ hai tin ấy lại gây cho tôi một cảm xúc chồng lấn là bởi, tôi đã có cả một thời tuổi thơ sống với xe điện Hà Nội và nhiều ngày lặn ngụp trong những tuyến metro ngầm của Paris. Thêm nữa, lại đặt trong bối cảnh khi mà cái lối giao thông, nhất là giao thông đô thị, Việt Nam mình chẳng giống ai...
          Trở lại mươi năm trước, tôi cùng đồng nghiệp báo chí có vài tháng trời ngang dọc Paris khi theo một khóa tu nghiệp, và lẽ dĩ nhiên, chúng tôi chọn một phương thức đi lại duy nhất, rẻ tiền và tiện lợi nhất là metro. Paris có cả thẩy 13 tuyến metro ngang dọc chằng chịt, đó là chưa kể những tuyến RER ( xe lửa ngoại ô ) nối với các tuyến metro và hàng trăm tuyến xe buýt. Tôi thuê nhà ở của Việt kiều tại vùng ngoại ô phía Đông là Montreuil nên tuyến metro hằng ngày chúng tôi đi học và đi thực tế hoặc đi chơi cuối tuần là tuyến số 9, khởi nguồn từ ga đầu tiên phía đông - Marie de Montreuil. Còn như muốn đi đâu đó khắp Paris, vào đến ga đầu mối Nation, là có thể đổi sang tuyến số 1, số 2, số 6, và khi sang một trong ba tuyến ấy, đến các ga đầu mối khác lại có thể đổi sang một vài tuyến mới. Cứ như vậy, nếu không trồi lên mặt đất và khéo chọn tuyến, ta có thể cả ngày chui trong lòng đất Paris chỉ với một vé vào cửa ban đầu. Lẽ dĩ nhiên, khi bước sang lãnh địa của RER thì phải trả thêm vé vào cửa khác ( nếu không sẽ bị phạt, 100 franc cho một lần vi phạm ) và ngay cả khi ta không để ý loanh quanh thế nào cũng dễ vấp phải cửa ngăn cho một lần trả vé khác (đấy là cái tài của các nhà quy hoạch và quản lý hệ thống này ). Với những ai chưa từng đi, sẽ hỏi, chui rúc dưới đó không thấy được cảnh sắc phố phường thì có gì lý thú? xin thưa, đấy là cả một thế giới sống động, đơn giản bởi trước hết, có đến già nửa dân Paris và ba phần tư khách du lịch chọn hình thức giao thông này. Tôi luôn giữ ấn tượng về những dòng người tuôn chảy vội vã nửa đi nửa chạy trong những lối đi ngầm khi đổi tàu, nhất là lúc trồi lên mặt đất, rồi đó là những biển quảng cáo sắc màu trăm thứ bà giằn, những siêu thị liên thông, những ban nhạc rong, những kẻ thất nghiệp xin tiền và cả những tên láu cá trộm cắp vặt v.v... Bằng metro, ta có thể đến hầu như tất cả các điểm du lịch hoặc mua sắm, ăn chơi nổi tiếng nhất của Paris như : tháp Eiffel, vườn hoa Luxembourg, Khải Hoàn Môn trên quảng trường Charles de Gaull - đại lộ Champs Elysses, Bảo tàng Louvre, điện Tuileries và Versailles, Nhà thờ Đức Bà ( Notre Dame des Champs), Tòa Thị chính; rồi nữa là toà nhà chọc trời Montparnasse, đồi Montmartre với khu chợ tranh nổi tiếng, khu chơi bời St. Denis, Pigal v.v....
          Dạo ấy, mỗi khi ngồi trên metro vun vút trong lòng đất Paris, tôi lại nhớ về những tuyến xe điện thô sơ leng keng đi về sớm tối với những tuyến Bờ Hồ-Chợ Mơ, Bờ Hồ- Hà Đông, rồi Yên Phụ, Bưởi, Vọng của Hà Nội thuở nào, mà cũng lại do người Pháp khởi nguồn từ thời Pháp thuộc. Ngày nhỏ, nhà tôi ở ngõ Trúc Lạc trên phố Phó Đức Chính, thế là mỗi khi đi đâu, tôi lại được bố mẹ, các chị dắt đi tắt qua ngõ Năm Gian ngược dốc lên đê Yên Phụ để đi tàu điện. Cứ thế leng keng, những chuyến tàu cũ kỹ đi về suốt tuổi thơ tôi , và nó càng da diết khi gia đình tôi rời thành phố về quê Hưng yên sinh sống. Leng keng, bền bỉ, nhẫn nại khuya sớm tàu điện suốt cả thời bom đạn Mỹ, mãi đến yên hàn thống nhất đất nước... Rồi tuổi sinh viên tôi lại lấy đó là phương tiện đi lại chính với những kỷ niệm khó quên của những lần trốn vé, nhảy tàu ...
          Hồi đó, ở Paris- trung tâm văn hoá văn minh châu Âu, tôi chưa có gì để so sánh ngoài chút hoài niệm về tàu điện Hà Nội. Gần đây, tôi đi công tác Nhật Bản, và với chục ngày ở Tokyo, tôi lại chọn phương tiện đi lại chính cho mình ở thủ đô hiện đại nhất châu Á này, metro. Lúc ấy, tôi đã có cái để mà so sánh, không, để mà nhớ về thì đúng hơn , ấy chính là metro Paris. Tokyo cũng có 13 tuyến metro, song có cảm giác nhiều tuyến nằm ở độ sâu hơn so với metro Paris. Thắc mắc ấy được một người quen của tôi, tiến sỹ y khoa Junichi Inaba giải thích, những tuyến metro nằm rất sâu đó là của tư nhân, bởi chính phủ Nhật Bản có chính sách khuyến khích đầu tư trong dịch vụ giao thông này bằng cách miễn thuế tài nguyên cho những công trình ở độ sâu 50m trở xuống trong lòng đất. Quan sát kỹ, tôi nhận thấy, người Nhật khác người Pháp, khi di chuyển trên metro, họ lại xem đấy là những giây phút hiếm hoi để thư giãn nghe nhạc hoặc chợp mắt ngủ. Dấu hiệu của một xã hội công nghiệp phát triển quá mức chăng ?
          Rõ ràng, metro không chỉ là dấu hiệu của một xã hội  công nghiệp văn minh, đem lại hiệu quả to lớn về kinh tế, giảm ô nhiễm và tắc nghẽn giao thông đơn thuần mà còn có bóng dáng của văn hóa. Với người Pháp, với hệ thống metro văn minh như vậy, song họ lại cho sống lại một hệ thống tàu điện nổi dọc bờ sông Xen, thì ngoài việc góp phần giảm lượng xe hơi, tăng hiệu quả giao thông, giảm ô nhiễm, có một mục đích nữa nhắm tới là văn hóa-du lịch. Du khách đến Paris, có lẽ nào lại tiếc tiền mua một tấm vé lên chuyến tầu điện du ngoạn, ngắm cảnh sắc đôi bờ sông Xen ?!
          Ngẫm người lại nghĩ đến ta. Với tình trạng giao thông quá tải , lộn xộn và ô nhiễm nặng của Hà Nội hiện nay, tôi đã từng mơ đến một ngày kia xa vời là có metro. Giờ thì giấc mơ ấy không còn vô vọng nữa, dù vẫn phải chờ đợi lâu. Nhưng tàu điện nổi, Hà Nội đã từng có một thời , sao lại không hồi sinh bây giờ nhỉ ?
 
r
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.02.2021 05:11:42 bởi Ct.Ly >

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Chiều Ghềnh Ráng - 01.04.2016 11:30:50
Vạn lý trường thành
và chuyện nàng Mạnh Khương
 
Tôi đã đọc sách báo, đã xem qua phim ảnh nhiều lần về Vạn Lý trường thành. Tôi cũng đã từng nghe nói rằng, cố lãnh tụ Mao Trạch Đông trong một lần đến trường thành đã từng nói và để lại một bức thư pháp “ Bất đáo Trường thành phi hảo hán “. Song khi chính mình đặt chân, bước đi những bước đầu tiên lên bậc đá của Trường thành, tôi vẫn không kìm nén nổi một xúc cảm mãnh liệt trào dâng, và tự hỏi : “ Vậy là mình đã đến được Vạn Lý Trường thành rồi sao ?!”.
Khi những dãy núi xa mờ có thể thấy từ lúc ra ngoại ô Bắc Kinh cứ xích lại gần, mọi người háo hức hỏi nhau “ Sắp đến Vạn lý trường thành chưa ? Từ đây có thể nhìn thấy không ?”. Cái tâm lý muốn mau chóng trở thành hảo hán khiến ai nấy đều nhấp nhổm không yên. Và rồi, bóng dáng của tường thành cũng đã hiện ra xa mờ trong sương sáng. Bắt đầu từ bãi đậu xe, đâu đâu cũng đầy ắp hết thảy những gì liên quan đến Trường thành. Thoạt đầu là Vạn Lý trường thành bác vật quán, rồi kế đến Trường thành toàn chu ảnh viện. Tiếp nữa là tường đá, dải hoa, nhà hàng đều được gắn tên Bát Đạt lĩnh, tên của khúc Trường thành chạy ngang qua Bắc Kinh.  
Lối dẫn lên Trường thành, người tham quan đông nghẹt. Khách nước ngoài nhiều, song người Trung Quốc còn đông hơn. Ở đất nước đông dân nhất thế giới này, những 1,3 tỷ người, trừ những địa phương có Trường thành chạy qua, còn lại, cũng chẳng dễ gì để đặt chân lên nó ít nhất một lần trong đời. Thế nên, bất kể là khách nước ngoài hay trong nước, hễ có dịp đến Bắc Kinh, chỉ cần vài ba ngày, đa phần chọn Trường thành là điểm tham quan đầu tiên. Ai cũng muốn trở thành hảo hán mà. Điều đó, tôi đọc được trên nét mặt tươi tỉnh của mọi người, dù là mới chỉ lên đến mặt thành.       Bao quát, phần đông khách chọn hướng đi lên phía Bắc, còn đoạn phía Nam thì thưa thớt hoang vắng. Dòng người chen chúc chầm chậm xuôi ngược chuyển dịch. Đoạn Trường thành phía Bắc này có 12 điếm canh, và ai cũng cố để lên đến điếm số 8 cao nhất. Phía Đông, Trường thành uốn lượn như một con trăn khổng lồ đang trườn đi, cũng có 12 điếm canh, nhưng chỉ người dân địa phương lên thôi. Khách du lịch vừa không đủ sức và thời gian để đi. Mà có muốn thì cũng khó, bởi chưa đưa vào khai thác kinh doanh du lịch như ở phía Bắc. 
Nói đến Vạn Lý trường thành, mọi người ít nhiều đều biết được là Tần Thủy Hoàng đế cho xây dựng từ hơn hai trăm năm trước Công nguyên. Nhưng đâu hẳn thế. Thực ra, Tần Thủy Hoàng chỉ có công trong việc xây nối các đoạn Trường thành vốn đã có từ trước vào với nhau. Trước khi vua Tần là Doanh Chính lần lượt đánh bại sáu nước khác ( Hàn, Triệu, Ngụy, Sở, Tề, Yên ) thống nhất toàn bộ lãnh thổ Trung Hoa, thì các quốc gia nhỏ để chống sự xâm lấn của các bộ tộc thảo nguyên phương Bắc đã cho xây trường thành suốt thời Đông Chu liệt quốc.Vậy diện mạo của Vạn Lý trường thành cho đến ngày nay là công sức của triều đại nào ? Theo những tài liệu khác nhau thì việc đánh giá cũng khác nhau. Ngay về chiều dài của nó cũng vậy. Căn cứ theo tên gọi, trường thành dài cỡ vạn lý ( một lý tương đương với 888 mét ). Song, có tài liệu cho rằng nó dài tới 7.200 km. Chuyến thăm Trường thành này, ông Lý Anh, người nhiều năm công tác tại Ban Đối ngoại trung ương Trung Quốc nói rằng, theo những tài liệu gần đây, Trường thành có độ dài 6.700 km, bắt đầu từ Sơn Hải Quan thuộc tỉnh Liêu Ninh rồi uốn lượn trải dài bất kể núi cao hay đất bằng đến tận Gia Dụ Quan trên sa mạc Gô-bi thuộc tỉnh Cam Túc. Về chiều dài của Trường thành, tôi đã kiểm chứng thêm một số tài liệu khác, thì con số 6.700 km là khá xác thực.Việc các quốc gia chư hầu cát cứ thời nhà Chu xây dựng từng khúc của Trường thành thế nào thì không rõ. Đến đời nhà Tần, lịch sử ghi nhận, từ năm 221-210 Tr.CN, Tần Thủy Hoàng sai đại tướng Mông Điềm chiêu mộ 30 vạn dân công để xây đắp, tu bổ và nối các khúc Trường thành vào với nhau. Người ta còn truyền đến ngày nay câu chuyền về nàng Mạnh Khương may áo rét cho người chồng đi xây Trường thành. Chuyện rằng, vợ chồng nàng Mạnh Khương mới cưới nhau thì chồng nàng bị mộ phu đi xây dựng Trường thành. Nàng Mạnh Khương ở quê tần tảo việc nhà vừa đan áo rét cho chồng. Đan áo rét, nàng Mạnh Khương gửi gắm vào đấy hết thảy tình thương yêu, thủy chung son sắt với người chồng đang lao dịch chốn ải xa. Áo đan xong cũng vừa gặp mùa đông đến. Nàng không quản gian nan lặn lội tìm đưa áo rét cho chồng khắp nẻo Trường thành. Khi biết được tin chồng thì chồng nàng đã chết vùi thây dưới chân Trường thành. Đau thương tột bậc, Mạnh Khương đã khóc lóc sầu thảm suốt mấy ngày đêm. Nỗi ai oán của nàng chấn động thiên địa, khiến sụp đổ cả đoạn tường thành, phát lộ xương cốt chồng nàng. Sau chôn cất cho chồng, nàng tuẫn tiết, thác theo cho trọn tấm chung tình. Đời sau xây miếu thờ Mạng Khương và hiện còn ở vùng Sơn Hải quan. Thực tế sự gian khổ của những người xây dựng Trường thành đến mức độ thế nào thì không rõ, song câu chuyện về nàng Mạnh Khương thì được điển hình hóa, sống mãi đến ngày nay, như một gương sáng về đạo nghĩa vợ chồng thủy chung.        Song còn một ý nghĩa nữa, ấy là sự tố cáo tột bậc về việc bạo chúa xưa nay vì muốn bảo vệ ngai vàng của mình đã đẩy dân chúng vào cảnh lao lực, lầm than, chết chóc...
Người ta cho rằng, Vạn Lý Trường thành tuy manh nha được xây dựng từ thời nhà Chu, tiên Tần ( trước CN ), song trải qua nhiều triều đại, nhất là vào thế kỷ 13, sau khi quân Mông Cổ tràn vào Trung Hoa với sự lên ngôi của Hốt Tất Liệt lập ra nhà Nguyên, thì Trường thành bị bỏ hoang phế. Đơn giản bởi khi đó, gót ngựa Nguyên Mông đã trải dài qua Trung Á, lướt khắp châu Âu đến biển Caspien và cửa ngõ Rome, tất thảy đều nằm dưới quyền cai trị của Đế chế Nguyên Mông, thì Trường thành còn chi tác dụng nữa. Cả lãnh thổ Trung Hoa đều thuộc quyền cai quản của Nhà Nguyên Mông, thì Trường thành cũng không cần phải tu bổ, bảo vệ. Với gần một trăm năm tồn tại, Trường thành nằm sâu trong lãnh thổ mênh mông vô tận của Nhà Nguyên Mông, nên bị bỏ hoang như một phế tích. Sự tồn tại của nó chỉ giễu cợt cái ý tưởng ngớ ngẩn của các triều đại Trung Hoa, rằng chẳng có tường thành nào đủ vững chắc vĩnh cửu để ngăn chặn được sức mạnh của con người. Cho đến giữa thế kỷ 14, vào năm 1368, khi Nhà Nguyên sụp đổ ở Trung Hoa, được thay thế bằng Nhà Minh (đánh dấu bằng việc Minh Thái tổ Chu Nguyên Chương lên ngôi lập ra Nhà Minh, đặc biệt khi Minh Thành Tổ Chu Đệ rời đô từ Nam Kinh về Bắc Kinh ), thì Trường thành mới được triều đình nhà Minh quan tâm trở lại. Và nó đã thực sự được tái thiết, được kiên cố hóa bằng đá, được hoàn chỉnh và cả trang điểm để lưu diện mạo đến tận ngày nay. Như vậy, suốt mấy thế kỷ nhà Minh cai trị Trung Hoa, cũng đã có không biết bao nhiêu cuộc, bao nhiêu của cải, sức người được đổ ra nhằm gia cố cho Vạn Lý Trường thành thêm vững chắc. Và cũng có biết bao nhiêu gia đình, số phận dân đen rơi vào cảnh ngộ giống như nàng Mạnh Khương xưa kia?... Đương nhiên, cũng đã có bao nhiêu nàng Mạnh Khương mới không tên tuổi, không được hậu thế lưu danh. Song thiết tưởng, chỉ một nàng Mạnh Khương đời Tần cũng đã quá đủ cho một Trường thành dằng dặc, cho lịch sử một Trung Hoa cổ đại chiến tranh liên miên đẫm mồ hôi nước mắt và xương máu.          
Leo lên tháp canh trên Trường thành, phóng tầm mắt ngược về phía vắng khách tham quan, bức tường như con trăn khổng lồ trườn đi trong hoang sơ trời đất cây cỏ mà chạnh lòng bởi sự hưng suy của các triều đại, sự nhỏ nhoi của thân phận con người. Hoàng đế quyền uy, triều đại hùng mạnh mà cũng thoáng chốc thành không, nữa là thảo dân sinh quần. Lên đỉnh tháp cao trên Trường thành mà cảm khái. Lại có thể xuống chân tường thành để suy ngẫm những điều sâu lắng. Tấm bia đá của thời hiện đại khắc bút tích của Chủ tịch Mao Trạch Đông, câu lập ngôn " Bất đáo Trường thành phi hảo hán " đã nhanh chóng nổi tiếng khắp Trung Hoa và cả thế giới. Ám ảnh về sự thống nhất toàn Trung Hoa hẳn theo chân vị lãnh tụ này từ khi còn trẻ bước chân vào sự nghiệp cách mạng.
Cũng không phải ngẫu nhiên mà ông gọi tên cuộc hành quân rút lui chiến lược nhằm bảo tồn lực lượng đội quân cách mạng do ông lãnh đạo trong cuộc chiến chống Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch, thống nhất đất nước là Vạn lý trường chinh. Lịch sử ghi nhận rằng, nhằm tránh sự tấn công của quân đội Quốc dân đảng, ngày 16 tháng 10 năm 1934, từ chiến khu Giang Tây, Phúc Kiến, đội quân gồm 90 vạn người do Mao Trạch Đông lãnh đạo đã làm cuộc trường chinh rút lui chiến lược với quãng đường dài 6 vạn dặm và kéo dài hàng năm trời lên vùng giáp ranh Tây Tạng rồi lại ngược lên phía Bắc, đến tận Diên An thuộc tỉnh Thiểm Tây. Gian khổ bởi thiếu ăn khát uống và bệnh tật cùng sự khắc nghiệt của thiên nhiên, hy sinh bởi bị quân Tưởng truy sát luôn theo chân đội quân dọc đường , để khi đến đích là chiến khu Diên An, chỉ còn lại chừng 7 ngàn người.
Câu chuyện về nàng Mạnh Khương đã tạc một tượng đài không tưởng vào nhân thế, để cùng với Trường Thành trơ gan cùng tuế nguyệt.

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Chiều Ghềnh Ráng - 08.05.2016 10:16:15
Ký sự Hàn Quốc ( VI )
 
6. Đôi điều về báo giới xứ kim chi.
         
          Sang Hàn Quốc theo chương trình hợp tác và trao đổi giữa Hội nhà báo hai bên, nên ngay khi nhập cảnh và xứ kim chi, chúng tôi đã tiếp xúc ngay với dân làm báo xứ này. Ấy là Kim Dong Ki, phụ trách hành chính-lễ tân của Hội nhà báo Hàn  Quốc.
          Một tháng trước đó, Kim có tháp tùng ông Chủ tịch Hội và một số nhà báo Hàn Quốc sang thăm Việt Nam, ngay khi đón, Kim gặp lại vài ba người quen trong đoàn chúng tôi, nên anh thân thiện và chia sẻ, bỏ qua sự xã giao thông thường.
          Ngay chiều hôm ấy, chúng tôi thăm trụ sở làm việc của Hội nhà báo Hàn Quốc ( trong Toà nhà báo chí ), nằm bên kia đường với President Hotel, nơi chúng tôi ở. Khu vực văn phòng của Hội và phòng làm việc của ông Chủ tịch nhìn chung là hẹp và khá giản dị, bù lại, để view quanh cảnh phố xá thì khá thuận lợi .
          Ông Park Chong Ryul, Chủ tịch Hội cùng đồng nghiệp tiếp chúng tôi trong bầu không khí thân mật, giản dị. Ông Park mới trúng chức Chủ tịch hồi đầu năm 2012 với nhiệm kỳ 2 năm, sau một thời gian khá dài hoạt động báo chí ở Mỹ. Theo ông cho biết và lấy làm tự hào, thì ông là người đầu tiên ở Hàn Quốc cho đến nay, trúng cử chức Chủ tịch với 100 % số phiếu bầu. Điều đó, chứng tỏ tài năng và uy tín của ông trong báo giới xứ kim chi rất cao. Cũng theo ông Park, hiện xứ kim chi có khoảng 30 nghìn người hoạt động trong lĩnh vực báo chí và truyền thông, song Hội nhà báo xứ Hàn mới chỉ kết nạp đến 8 nghìn hội viên ( chứng tỏ có sự chọn lọc kỹ càng ). Ông Park tặng chúng tôi, mỗi người một cuốn sách về báo chí vừa ấn hành, mà ông là tác giả, có tên “ White House Black President “- tập hợp các tác phẩm báo chí của ông trong thời gian tiếp xúc với Nhà Trắng và làm báo ở Mỹ nói chung. Ông Park hé lộ rằng, nhìn chung, chính quyền ở Seoul và xứ kim chi , là khá e ngại và “ không mấy thích thú “ với báo giới xứ này, vì lo bị xía chuyện, bị chọc ngoáy và làm phiền...
          Trong bữa tiệc chiêu đãi, và cả khi dạo phố đêm Seoul, với chúng tôi, ông Park Chong Ryul và đồng nghiệp luôn thể hiện sự thân thiện, lịch thiệp, chia sẻ tâm thế nghề làm báo, khiến cho mọi người thấy gần gũi, đồng cảm với nhau hơn ...
          Rời Seoul, đến Gwangju, Gyeongnam, Jeju, chúng tôi đều được các Chi hội nhà báo và các đồng nghiệp báo chí địa phương tiếp đón chu đáo, thân mật. Cũng như ở xứ ta, chuyện nghề, chuyện đời chỉ nở rộ và xôm trò trong bữa tiệc có hơi men. Lúc ấy, nhiều ranh giới và sự giữ kẽ xã giao là không cần thiết, thậm chí bị xóa bỏ. Song, cả hai bên vẫn luôn đủ tỉnh táo để thể hiện cái gọi là “ phương diện quốc gia “ tối thiểu. Phương châm giao tiếp trrong suốt chuyến thăm là “ thân thiện, chia sẻ, điều độ ” cùng được cả hai bên tôn trọng, tạo nên sự thành công cho chương trình hợp tác. Xin mở ngoặc ở đây, là chuyện uống rượu của báo giới Hàn Quốc. Họ rất thích uống “rượu bom”, một cách gọi hài hước cho thứ đồ uống “ rượu pha bia “. Rượu bom được pha tại bữa tiệc giữa bia với rượu sô-chu của Hàn Quốc. Tỷ lệ và cách pha thế nào là tùy ý thích và cảm hứng của người pha. Ông chủ tịch Park là một người nổi tiếng trong báo giới về pha rượu bom, điêu luyện và nghệ thuật đẹp mắt...
          Thời gian ba ngày ở đào tự trị Jeju, có một chuyện mà tôi muốn nói ở đây, đó  là sự thăm hỏi đột xuất của Tòa soạn báo Hallailbo. Sau chuyến chúng tôi đi chơi bằng du thuyền và câu cá trên vịnh biển ở Jeju, cả đoàn dự bữa chiêu đãi bữa tiệc hải sản tự chọn. Đang bữa ăn thì họ đến. Theo lời tự giới thiệu, nhà báo của Tòa soạn Hallailbo có tên là Kim Myeong Seon. Anh nghe nói có đoàn nhà báo Việt Nam, bèn tìm cách gặp bằng được, để biết, để giao lưu, và để đề nghị, các nhà báo Việt Nam nên quan tâm và viết về chủ đề “ cô dâu Việt “ ở Jeju và Hàn Quốc nói chung. Theo nhà báo này, hiện ở Jeju có hơn 500 cô dâu Việt ( chỉ phụ nữ Việt Nam lấy chồng Hàn Quốc và hiện sinh sống ở xứ kim chi ). Đi cũng với anh ta hôm ấy, còn có một đồng nghiệp và một “cô dâu Việt” người Cần Thơ, qua đó đã 3 năm. Cô gái này làm phiên dịch tiếng Việt cho anh. Trước đó, chúng tôi cũng đã gặp vài ba cô dâu Việt khác ở đây, và ít nhiều hiểu được hoàn cảnh, tâm tư, nghề nghiệp của họ ở bên này ( sẽ viết kỹ trong một phần khác ).
          Cuộc gặp gỡ và đề nghị của nhà báo này, đã gợi ra nhiều điều về thân phận con người, gia đình, hoàn cảnh xã hội, sự thích nghi... và cả những xúc cảm sâu xa khác, nơi mỗi chúng tôi !...
 
 

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Chiều Ghềnh Ráng - 25.09.2016 11:20:16
Nhàn tản Trương Hữu Lợi
 
 
          1. Độ khoảng mươi năm trước khi về nghỉ hưu, Trương Hữu Lợi hay được anh em đồng nghiệp ở Đài TNVN nhắc đến nhiều. Song không phải vì công việc chuyên môn, cũng không phải vì chuyện văn chương, lại càng không phải do anh gây ra một xi-cang-đan nào, mà bởi về sự nhàn tản. Hễ cánh viết nhà đài chúng tôi ngồi với nhau, khi tách cà phê nóng buổi sáng, chén hoặc ly bia buổi chiều, loanh quanh thế nào rồi cũng nhắc đến Trương Hữu Lợi, cùng cái sự nhàn tản ở anh.
Khi về công tác ở Đài TNVN, tôi mới biết đến Trương Hữu Lợi. Ở thời điểm đó, tôi hay viết truyện cho thiếu nhi nên thi thoảng đáo qua gửi bài nơi phòng Văn học thiếu nhi ( thuộc Ban Văn học nghệ thuật ) tại tầng 2 ngôi biệt thự cổ trong trụ sở 58 Quán Sứ ( cũ ). Khi ấy, Trương Hữu Lợi là Phó phòng biên tập và nhà thơ Lê Đình Cánh là Trưởng phòng.
Với nhà thơ Lê Đình Cánh, thì tôi đã biết đến tên tuổi anh thông qua bài thơ Mẹ ra Hà Nội được trao giải cao cuộc thi thơ của Báo Văn Nghệ, cùng với đó là những bài thơ lục bát nhuần nhuyễn, hóm hỉnh. Ấn tượng của tôi lần đầu gặp, Lê Đình Cánh vồn vã và khéo, còn Trương Hữu Lợi thủ thỉ,  thân thiện. Và không lâu sau lần gặp đầu tiên, tôi và Trương Hữu Lợi thành thân nhau. Anh sinh năm 1946, tuổi Bính Tuất ( lý lịch ghi sinh năm 1948 ), hơn tôi những 11 tuổi, nên tình bạn giữa anh và tôi kiểu tình bạn vong niên. Trong sinh hoạt hàng ngày, giữa đông người hay chỉ riêng hai anh em với nhau, anh đều goi tên và xưng mình với tôi.
Cùng làm việc trong ngôi nhà chung 58 Quán Sứ, nhưng lĩnh vực công việc của chúng tôi khác nhau xa. Trương Hữu Lợi làm biên tập mảng văn học nghệ thuật, sáng tác là nghề chính của anh, trong khi đó, tôi làm ở Ban Thính giả, hằng ngày phải tiếp dân, nhận và xử lý đơn thư của thính giả, rồi soạn thảo văn bản gửi các bộ ngành, cơ quan hữu quan, trả lời lại cho thính giả, một công việc tỷ mẩn, dễ nảy sinh bực dọc, và chẳng dính gì đến văn chương cả. Song bù lại, tôi có điều kiện tiếp nhận, thấu hiểu thêm đời sống thực tế xã hội của mọi tầng lớp người dân lúc bấy giờ, thời kỳ manh nha chuyển đổi từ bao cấp sang cơ chế quản lý mới, mà khởi đầu là Chỉ thị 100 về khoán sản lượng trong nông nghiệp. Và chính vì thế, tôi đã viết được nhiều truyện ngắn lấy chất liệu từ đời sống xã hội đăng các báo Văn nghệ, Người Hà Nội, Văn nghệ Tp.Hồ Chí Minh v.v...
Tôi và Trương Hữu Lợi hay ăn trưa cùng nhau nơi quán cơm bình dân trên phố Quán Sứ, hoặc Tràng Thi. Thi thoảng có thêm nhà thơ Lâm Huy Nhuận ( biên tập viên Phòng Văn học, cùng Ban biên tập Văn học nghệ thuật với Trương Hữu Lợi ), thì gọi thêm đôi ba chén rượu. Hễ hôm nào hơi quá chén là Lâm Huy Nhuận cũng cao hứng đọc thơ, đi vài động tác võ cổ truyền Bình Định quê anh, và quá thêm chút nữa thì quậy tưng bừng...
Những lúc đi riêng với nhau như thế, Trương Hữu Lợi hay thủ thỉ chuyện nghề báo ở Đài, rồi cả chuyện tình cảm lâm ly bi đát của anh... đặc biệt là câu chuyện của anh với một nữ họa sĩ hơn anh mấy tuổi. Sau này, chuyện tình cảm của họ đã qua đi, song họ vẫn coi trọng nhau, và đã có lần, tôi theo Trương Hữu Lợi đến thăm nhà người nữ họa sĩ ấy. Sau đó, tôi còn gặp nữ họa sĩ đó vài ba lần, không thấy chị nói gì đến chuyện ấy, song chị luôn giữ vẻ trìu mến mỗi khi nhắc đến tên anh. Câu chuyện giữa họ, tôi chỉ được nghe kể từ một phía. Đã có lần, tôi chơi nhà anh, Trương Hữu Lợi chỉ tay lên mấy bức họa trên tường mà khoe rằng, đấy quà quà tặng của chị cho anh. Hiện tôi vẫn nhớ mang máng hình ảnh mấy bức họa có bút tích của chị trong bộ tranh “ Những tâm trạng...” ấy. Chẳng hiểu, giờ còn được treo ở nhà anh nữa không ?...
Trương Hữu Lợi có lối sống giản dị, cách ăn mặc sạch sẽ song xuềnh xoàng. Nhìn dáng vể bên ngoài, thật khó ai biết được, anh là người có mấy thứ hết sức đặc biệt, mà không mấy ai có được.
Ấy là, khi còn học phổ thông tại quê nhà, Trường Cấp 2 Bắc Lý ( nay là Trường THCS Bắc Lý ), Lý Nhân, Hà Nam, anh là học sinh xuất sắc, từng được đại diện cho lứa học sinh đội viên thiếu niên tiền phong lên Hà Nội báo cáo thành tích với Bác Hồ.
Ấy là, anh đã từng học Đại học Lốt-di ( Lodzi ) Ba Lan, chuyên ngành văn học, và là một người nhẩy đầm ( khiêu vũ ) khá giỏi, năm 1972 tốt nghiệp về nước, công tác tại Đài Tiếng nói Việt Nam và ở liền một mạch cho đến khi nghỉ hưu.
Ấy là, anh từng làm phóng viên chuyên mảng Nông nghiệp của Đài Tiếng nói Việt Nam, nổi tiếng một thời với tư cách là tác giả của loạt phóng sự điều tra về “ khoán chui “ trong nông nghiệp miền Bắc thời bao cấp, góp phần vào việc Đảng và nhà nước ta điều chỉnh chính sách, ra đời Chỉ thị 100 và Nghị quyết trung ương 10 về thực hiện khoan hộ, khoán sản phẩm trong nông nghiệp, khởi đầu thời kỳ đổi mới.
Ấy là, anh từng được đồng chí Trường Chinh, khi ấy đương chức Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, gọi lên gặp, hỏi chuyện hàng giờ đồng hồ, cho phép nói thật lòng suy nghĩ của mình về nông nghiệp, nông thôn, nông dân ở ta ( mà bây giờ ta quen gọi là “ tam nông” ) ...
Quả là, mới chỉ liệt kê ngần ấy thôi, đã thấy Trương Hữu Lợi ẩn chứa nhiều điều thú vị trong vẻ ngoài hết sức bình dị ở anh...
Nhưng thôi, tôi chỉ kể những điều về Trương Hữu Lợi trong lĩnh vực nghề nghiệp làm báo, sáng tác văn thơ và mối quan hệ với đồng nghiệp, anh em, mà tôi biết hoặc chính anh nói cho nghe... 
( còn nữa )


tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Chiều Ghềnh Ráng - 25.11.2016 17:13:23
Nhàn tản Trương Hữu Lợi ( II )
 
2. Trước hết, là con người làm báo Trương Hữu Lợi. Mà nói đến anh với tư cách nhà báo, là gắn chặt với Đài Tiếng nói Việt Nam. Không rõ này đầu trở thành người nhà Đài ( VOV ), anh đã làm việc ở mảng nào, song mọi người ở Đài và giới làm báo ở ta biết đến tên tuổi anh, là khi anh trở thành phóng viên chuyên mảng nông nghiệp, nhất là từ anh viết loạt phóng sự điều tra về “ khoán chui “ trong nông nghiệp. Nói đến “ khoán chui “ ( thực chất là khoán hộ ), thường người ta chỉ biết đến việc ông Kim Ngọc, khi làm Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú thí điểm thực hiện từ năm 1968, chứ ít người biết, việc này sau đó còn được nhiều địa phương khác bí mật làm theo như Vĩnh Bảo, Hải Phòng và một số xã, huyện thuộc Hà Nam Ninh cũ. Ở vào thời điểm ấy, trước luồng ý kiến chủ đạo là việc khoán hộ là phá vỡ HTX nông nghiệp, phá vỡ chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước ta về quản lý tập trung ruộng đất dưới hình thức tập thể là HTX và nông trường quốc doanh, nhiều báo chí đã vào cuộc. Năm 1981, khi ấy, Trương Hữu Lợi là phóng viên chuyên mảng nông nghiệp, được Đài phân công về huyện Xuân Thủy, tỉnh Hà Nam Ninh ( cũ ) tìm hiểu, viết phóng sự điều tra. Sau loạt bài đó, anh được đồng nghiệp nể trọng. Thêm nữa, sau khi anh được Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh gọi lên hỏi chuyện, Trương Hữu Lợi được xem là phóng viên nông nghiệp giỏi. Chỉ thị 100-CT/TW của Ban Bí thư về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động, (thường gọi tắt là khoán 100); rồi tiếp theo là Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị khóa VI về nông nghiệp ban hành năm 1988 ( khoán 10 ), thực chất là sự thừa nhận và nâng cấp của khoán hộ trước đây, Trương Hữu Lợi thực sự khẳng định vị trí vững chắc của mình với tư cách phóng viên chuyên nông nghiệp. Về đường hướng phát triển, khi ấy, anh là Bí thư Đoàn thanh niên của Ban Đối nội, một đơn vị chủ lực của Đài Tiếng nói Viêt Nam. Những tưởng vào bệ phóng như thế, anh sẽ phát triển nhanh chóng. Không ngờ, Trương Hữu Lợi lại rẽ ngang, chuyển sang làm biên tập viên mảng Văn học nghệ thuật. Sao vậy?
Vâng, tại sao Trương Hữu Lợi lại đột ngột rẽ ngang từ một phóng viên nông nghiệp nổi tiếng sang làm biên tập viên Văn nghệ, vốn không phải là sở trường của anh? Việc này diễn ra trước khi tôi bước chân về Đài Tiếng nói Việt Nam nên tôi không biết. Sau này, khi thân nhau, lúc trà dư tửu hậu, Trương Hữu Lợi rỉ rả kể, tuy đứt khúc, nhưng xâu chuỗi lại, tôi cũng hiểu được nguyên nhân sự việc, và qua đó hiểu thêm về anh, biết được đôi chút chuyện hậu trường nhà đài...
Số là, từng xảy ra mâu thuẫn trong công việc giữa Trương Hữu Lợi và một người đồng nghiệp cấp trên trực tiếp. Lời qua tiếng lại có, hiểu lầm có, mâu thuẫn ngày càng lớn hơn. Và một lần, giữa phòng làm việc, bất bình, nóng giận vì cảm thấy bị xúc phạm, anh đã vác cả chiếc ghế ngồi lao thẳng vào người đồng nghiệp cấp trên kia. May mà mấy đồng nghiệp khác xúm vào can ngăn, chứ không biết hậu quả sẽ khôn lường... Rồi sau đó, qua nhiều lần họp hành kiểm điểm nội bộ, Trương Hữu Lợi không phải là người có lỗi. Song le, bát nước hắt đi thì chẳng thể bù lại cho đầy, người đồng nghiệp cấp trên kia chuyển công tác qua vài cơ quan khác, tiếp tục giữ chức vụ cao hơn nữa. Còn Trương Hữu Lợi như quả bóng xi hơi, anh mất dần tính cách của một phóng viên nông nghiệp xông xáo, đầy chất phản biện. Từ chỗ, chỉ cộng tác với mảng văn học thiếu nhi làm vui vì lòng yêu trẻ, anh chuyển hẳn sang vị trí biên tập viên của Ban Văn nghệ Đài. Đây là bước chuyển quan trọng để biến một Trương Hữu Lợi nhà báo thành một Trương Hữu Lợi nhà thơ.
Trương Hữu Lợi trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam khi tuổi cũng đã nhiều. Kể từ tập sách văn học thiếu nhi đầu tay “ Mèo mắt xanh “ xuất bản 1986, đến tập sách cuối là “ Ngôi sao nhỏ đi tìm ánh sáng “ xuất bản năm 2013, Trương Hữu Lợi có 8 đầu sách. Anh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam ở mảng văn học thiếu nhi, với 4 tập sách. Không chỉ có vậy, hễ nói đến mảng văn học thiếu nhi của Đài Tiếng nói Việt Nam thì không thể không nhắc tên Trương Hữu Lợi. Anh khá giỏi trong việc dàn dựng chương trình văn học thiếu nhi, và đặc biệt có duyên khi tự dẫn chương trình hay trực tiếp kể chuyện cho các em. Khi nhà đài đổi mới khung chương trình, chuyên mục “ Kể chuyện cổ tích & Hát ru cho bé “ là con đẻ của Trương Hữu Lợi.
Chuyên tâm với mảng văn học thiếu nhi, song Trương Hữu Lợi luôn  tự biết xoa dịu, thỏa mãn nỗi khát khao, nỗi niềm tâm sự của mình. Anh xuất bản 3 tập thơ, “ Hoa lạnh “ ( 1990 ), “ Cõi hoang “ ( 1994 ) và “ Nhịp ngựa hoang “ ( 2009 ). Hơn thế, khi nghỉ hưu, Trương Hữu Lợi còn kịp cho ra đời tiểu thuyết “ Suối quên “  ( 2009 ).
Tiểu thuyết “ Suối quên “ là tiểu thuyết duy nhất của Trương Hữu Lợi, và ngay lần thử sức đầu tiên này, anh đã đẩy gần như toàn bộ hiện thực cuộc sống xã hội vào cõi ảo. Trong cõi ảo, anh mặc sức quấy đảo câu chuyện, tha hồ khắc họa tính cách nhân vật và đẩy các tình tiết lên đỉnh điểm, bất chấp phi lý, mà không sợ ai đó boăn khoăn, căn vặn thực hư ra sao. Ấy là cái mới, những cũng là điểm yếu của anh ở tiểu thuyết này.
Cùng sự thành công ở mảng văn học thiếu nhi, theo tôi, thơ Trương Hữu Lợi khá ấn tượng. Bản thân anh là người duy tình, sau này sống lặng lẽ, khiêm nhường, nên thơ anh nhìn chúng là âm tính, và khá nhất quán trong cách thể hiện. Khó tìm thấy trong thơ anh những câu thơ ồn ào, sống động, hay nhịp điệu gấp gáp, hào sảng. Trái lại, câu thơ lặng lẽ, ẩn ý, ẩn dụ, ngôn ngữ chắt lọc, kỹ càng, nhất là khi anh viết về bản năng, bản thể. Sự trăn trở trong anh cũng luôn có vỏ bọc. Hình như anh ngại nói trắng ra sự thật. Nhưng đọc chậm, đọc kỹ, lại thấy được sự khát khao nơi anh âm thầm trỗi dậy, sự hóm hỉnh, tinh nghịch cứ ẩn hiện, thấp thoảng đâu đó, khiến ta phải cười tủm...
Thơ Trương Hữu Lợi không phải là loại thơ đọc trên diễn đàn, nơi đông người hội họp, mà là thơ đọc thủ thỉ khi đàm đạo dăm ba người, hay riêng hai người với nhau...

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Chiều Ghềnh Ráng - 31.12.2016 11:49:40
Nhàn tản Trương Hữu Lợi ( III )
 
3. Về nhà thơ Trương Hữu Lợi, cách chơi với đồng nghiệp, bạn bè văn chương với nhau, rất đáng nể. Thời anh còn trẻ, là phóng viên đầy nhiệt huyết và năng nổ thì tôi không được rõ, nên không lạm bàn. Khi tôi về đầu quân nhà Đài vào năm 1987, và gần như ngay sau đó, tôi làm quen và thân với Trương Hữu Lợi, anh đã thể hiện là một con người bình dị, khiêm nhường rồi. Kể từ đó cho đến lúc ra đi mãi mãi, trong cái nhìn của tôi, Trương Hữu Lợi là một người tử tế.
Vâng, chỉ hai từ “ tử tế “ thôi, thiển nghĩ, không dễ chút nào. Trong công việc, với tư cách là biên tập viên, trong quản lý, tư cách một trưởng phòng, anh luôn mẫn cán, chu đáo, cẩn trọng và nhường nhịn. Trong quan hệ với đồng nghiệp, bạn bè, anh em với nhau, anh hiền lành, cảm thông, chia sẻ và hễ giúp ai được cái gì, kể cả tiền bạc, anh đều sẵn lòng, không hề tính toán thiệt hơn. Đều này, ngần ấy năm, lại gần nhau hàng ngày, tôi thấy, và hẳn nhiều người biết. Nhiều năm làm việc ở Ban Văn nghệ ( sau là Ban Văn học nghệ thuật Đài Tiếng nói Việt Nam ), nơi nhiều nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, nghệ sĩ nổi tiếng, và phần đông giàu cá tính, như :  Hoàng Ngọc Anh, Nguyễn Bùi Vợi, Trần Nhật Lam, Trần Phương Trà, Trúc Thông, Trần Mạnh Thường, Lê Đình Cánh, Tuấn Vinh, Lâm Huy Nhuận, Nguyễn Thị Đạo Tĩnh, Trần Chung, Vũ Thanh, Hồ Bắc, Thuận Yến, Thế Song, Văn Dung, Lê Việt Hòa, Vũ Kim Dung, v.v... Trương Hữu Lợi vẫn luôn giữ được sự nể trọng của mọi người. Việc này, quả không dễ. Dưới quyền quản lý của anh, các phóng viên, biên tập viên trẻ mảng văn học nghệ thuật của VOV trưởng thành nhanh chóng, bởi anh rất tận tâm, tận tình trong việc hướng dẫn, chia sẻ kinh nghiệm, khơi gợi cho họ phát huy sự sáng tạo cá nhân, hơn là áp đặt, ấy là, anh quản lý nhân viên theo kiều “ đức trị “.  
Trước đây, tôi và Trương Hữu Lợi phiên chế ở hai ban khác nhau, Đầu năm 2008, hai đơn vị này nhập làm một, ấy là VOV2 ( Hệ phát thanh Văn hóa-Đời sống- Khoa giáo ), khi ấy, tôi đang là Phó Trưởng ban Ban biên tập Văn hóa xã hội, được điều đi làm Giám đốc Cơ quan thường trú VOV khu vực miền Trung. Nhiều lần, hai anh em ngồi với nhau, Trương Hữu Lợi cười hiền, chép miệng bảo: “ Tiếc nhỉ, mình không được làm quân của Nhạc ngày nào cả ...”. Thực ra, vì quý mến tôi mà nên vậy thôi. Khi tôi  kết thúc nhiệm kỳ luân chuyển, quay về Hà Nội thì anh đã nghỉ hưu rồi. Vậy là hai chúng tôi không được làm việc chung với nhau dù chỉ một ngày...
Sao mọi người lại nhìn nhận anh sống nhàn tản. Công việc nhà đài thì lúc nào cũng bận, cứ chương trình nối tiếp chương trình, hết ngày này tháng khác, năm lại năm. Nhàn là sao đây? Trương Hữu Lợi nhàn là ở cái tâm. Người xưa dạy “ Tri túc tâm thường lạc “ ( nghĩa là, biết đủ thì lòng an vui ), thì anh là người như vậy. Công việc luôn tận tâm, quyền lợi lại chẳng so đo, ganh tị với ai, nên không yên vui sao được. Thời gian rảnh rỗi, anh sáng tác và ngao du đây đó, mạn đàm văn chương với bạn bè. Trương Hữu Lợi có mấy sở thích, ấy là thuốc lá và trà thơm; không uống được rượu, vài ly nhỏ thì mặt đỏ nhừ, say cả chấy, nhưng bạn mời thì không chối từ, nâng lên đặt xuống làm vui, lấy cao hứng mà mạn đàm thôi. Ấy là viếng cảnh chùa chiền, đền miếu gần xa.  Và, ấy là yêu...
Để ý nhiều năm, như thành chu kỳ vài ba năm một, Trương Hữu Lợi, đổi chu kỳ hết yêu lại muốn đi tu, rồi đó lại yêu. Lạ thế đấy. Tình yêu ở nơi anh, đồng nghĩa với cảm hứng sáng tác. Tôi hiểu vậy, song hay đùa anh, vờ chất vấn về cái sự này, anh chỉ cười hiền hiền, tội tội, như người có lỗi vậy. Anh không biết đi xe máy, cứ ngày ngày chiếc xe đạp ngoại cũ kỹ cà tàng. Thi thoảng, kết thúc giờ làm, anh khoe đi café hay đi ăn với bạn gái, rồi túi khoác lên vai, xuống gốc cây hè đường cổng cơ quan đợi bạn gái đi xe máy đến đón, và ngồi sau xe máy phụ nữ ngon ơ.
Trương Hữu Lợi có một giai đoạn ngắn sống khá vui vẻ thoải mái, ấy là sau khi nghỉ hưu, anh vào Thành phố Hồ Chí Minh sống với con trai là kiến trúc sư công tác tại một đơn vị quân đội. Ở đấy, anh làm quen với Việt An, người bạn thân thuở học trò của tôi, rồi hai người lại làm quen với Trần Hồng Giang, một bloger của Blog Tiếng Việt khi đó cũng đang sống với người chị ở đấy. Bộ ba thường xuyên giao du, chuyện trò, văn chương, thơ phú, chữ nghĩa với nhau. Họ quý mến nhau, tôn trọng nhau lắm. Ở ngoài Hà Nội, tôi vui và thèm lây bầu không khí ấm áp đầy ắp tình người ấy của họ.
Một thời gian, Trần Hồng Giang ra lại quê ngoài Bắc, Nghĩa Hưng, Nam Định. Còn Trương Hữu Lợi thì phát hiện K phổi, ra Hà Nội khám chữa bệnh. Thế là bộ ba mỗi người một nơi. Tuy vẫn liên lạc với nhau qua mạng xã hội, qua điện thoại nhưng chẳng thể như trước nữa.
Trương Hữu Lợi nghiện thuốc là nặng. Khi biết mình K phổi, anh giảm hút nhưng không bỏ. Nhiều người khuyên anh nên bỏ, anh bảo: “ Mình K phổi có lẽ hậu quả của mấy chục năm nghiện thuốc lá. Giờ bỏ thuốc, cũng đâu có khỏi được bệnh. Thôi thì cứ thi thoảng làm vui, gọi là giải tỏa tâm trạng nặng nề, thêm can đảm mà chống chọi bệnh tật. Âu có ích hơn là bỏ. Chừng nào không hút được nữa thì thôi. Mới lại, chữa bệnh chứ đâu chữa được mệnh ...”.
Có một thời gian, anh khỏe hẳn lên. Đợt ấy, tôi rủ anh đi Hà Giang, cùng đi có nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền. Chúng tôi tổ chức tọa đàm nghề nghiệp cùng với Hội Nhà báo và Đài phát thanh truyền hình tỉnh Hà Giang. Tại buổi tọa đàm ấy, Trương Hữu Lợi đăng đàn hơn giờ đồng hồ về chuyện anh viết loạt phóng sự điều tra về “ khoán chui “ thế nào. Chuyến đi ấy, chúng tôi băng qua vùng núi đất phía tây Hà Giang, qua các huyện Quang Bình, Hoàng Su Phì, Xín Mần...Sáng chơi chợ Cốc-pài thị trấn Xín Mần, Trương Hữu Lợi vui lắm, anh nhăm nhăm tìm mua một chiếc áo cánh chẽn dân tộc Mông làm kỷ niệm.
Sau này, khi bệnh nặng thêm, đầu rụng hết tóc, phải đội tóc giả, thi thoảng anh vẫn ghé qua trụ sở 58 Quán Sứ, ngồi hàng giờ với tôi chuyện nghề, chuyện đời, chuyện văn chương, vui vẻ ăn hết suất cơm ở căng-tin cơ quan, chuyện trò với nhiều đồng nghiệp cũ...
Vâng, quả là trời đền bù cho Trương Hữu Lợi ít nhiều, mùa thu năm 2013, Nhà xuất bản Kim Đồng lựa chọn xuất bản tập truyện cổ tích và đồng thoại “ Ngôi sao nhỏ đi tìm ánh sáng “; Thi đàn Việt Nam tổ chức giới thiệu và giao lưu thơ Trương Hữu Lợi; và chuyên mục “ Thơ & cuộc sống “ của VOV2 tọa đàm chủ đề “ Trương Hữu Lợi và Khúc ru mình “.
Khoảng một năm trước khi mất, anh hầu như chỉ chống chọi với bệnh tật, ít viết. Không thấy anh công bố tác phẩm nào mới, lâu lâu vẫn đăng đây đó những bài thơ cũ mà anh tâm đắc.
Tập thơ “ Nhịp ngựa hoang “ ( NXB Hội nhà vănm 2008 ), xem như thơ tuyển chọn Trương Hữu Lợi, thay cho đề từ, anh viết “ Hoa lạnh,Cõi hoang, Vuông cỏ rối/ Đáy Suối quên chới với trăng buồn/ Canh dài vần vụ mưa tuôn/ Cây gày bóng nghe bên cồn chơ vơ...”. Tôi nghĩ, anh muốn tổng kết sự nghiệp văn chương của mình trong mấy câu thơ ấy...
Trương Hữu Lợi cả đời gắn bó với Đài Tiếng nói Việt Nam. Tiếc là anh ra đi không lâu trước lễ kỷ niệm 70 năm thành lập Đài. Hẳn ở nơi xa xôi ấy, Trương Hữu Lợi đâu biết, trong không gian trưng bày truyền thống 70 năm xây dựng và trưởng thành của Đài TNVN tại trụ sở 58 Quán Sứ, trong số muôn vàn kỷ vật, có trưng bày bản thảo vài trang loạt phóng sự anh viết về khoán chui, và bài báo kể chuyện cuộc gặp gỡ, chuyện trò với Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh về tam nông...
Giờ đây, anh chẳng còn phải bận lòng nhàn hay không nữa, khi đã là người của muôn năm cũ. Nhưng, với tất cả những gì Trương Hữu Lợi để lại, hẳn đồng nghiệp và bạn bè sẽ luôn nhớ về anh !...

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Chiều Ghềnh Ráng - 08.02.2017 16:51:13
Người thơ tôi chưa từng gặp,...
 
( Chân dung nhà thơ Trần Trọng Trí )
 
          1.  Nhận diện người thơ,...
Ấy là nhà thơ Trần Trọng Trí.
           Xin được gọi ông như vậy. Trần Trọng Trí không phải là nhà thơ với nghĩa đầy đủ của nó, nên trong bài viết này, tôi gọi ông là Người thơ.
          Trần Trọng Trí nguyên là thuyền trưởng tàu hải quân HQ 05, từng một thời gian dài tham gia bảo vệ chủ quyền biển đảo tại quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
          Câu chuyện về ông được bắt đầu từ một sự việc. Ấy là, trên trang Blog của tôi, mang tên “ Ngẫm & Viết “ được thiết lập trên Blogtiengviet.net, vào ngày 27 tháng 2 năm 2011, có đăng bài “ Trời sắp mưa, thơ ứng tác của Trần Đăng Khoa “, trong bài viết, tôi có quen miệng gọi bài thơ ứng tác của Trần Đăng Khoa là thơ Đường luật. Sau đó, có nhiều bạn đọc vốn là cao thủ về loại thơ này, cảm nhận, nêu ý kiến rằng đó không phải là thơ Đường luật vì không chỉnh về niêm luật thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Những ý kiến đó là đúng cả. Tuy nhiên, cũng có nhiều ý kiến khác, cho là, thơ đùa bỡn nhau, ứng tác tức thì không sửa chữa theo kiểu thất ngôn bát cú, có thể chấp nhận được, không nên khắt khe, bắt bẻ mà làm gi. Trong số nhiều ý kiến hay, tôi đặc biệt chú ý đến ý kiến của một bạn đọc có tên Trần Trọng Trí. Xin trích nguyên văn, bởi qua cảm nhận này, mọi người có thể biết ít nhiều về con người ông, và cả quan niệm của ông về thơ ca nói chung: “ Tôi đã về hưu mấy năm nay, giờ làm thợ cắt tóc. Nghe con cháu út nhà tôi bảo trong quán lá Lễ Nhạc nhà Chu có cuộc hội thảo về TĐK rất hay, tôi bèn ra quán Nét ghé chơi. Thấy đúng là hay thật. Tôi đồng ý với ông Nhạc. Đây là thơ tếu, cốt ghép mấy câu bỡn bạn. Nội dung chính là những chữ đầu ghép lại, nội dung, vần điệu, niêm luật có thể búa xua. Vì thế chẳng nên mang luật định ra bàn. Tôi là dân Nga học ( Tôi học thuyền trưởng ở O-Đe-sa, Nga, cùng với Ngô Tự Lập. tôi từng có thơ in trên báo Hải quân và báo Văn Nghệ. Tôi cũng rất yêu thơ Đường, nhưng cũng ngấy thơ Đường vì sự gò bó của niêm luật, đối thanh, đối ý. Nhưng thơ Đường sang ta nó mới hủ nho như thế, chứ bản thân những nhà thơ lớn đời Đường như Lý Bạch, Đỗ Phủ họ cũng thoát ra khỏi cái lề luật hà khắc của nó nên mới thành đỉnh cao nhân loại. Tôi cũng có mấy kỷ niệm với Thần Đồng - Tất nhiên Thần đồng bây giờ người ta mới gọi, chứ chúng tôi vẫn gọi gã là Cua Đồng. Gã có tặng tôi hai bài thơ cũng viết kiểu ứng tác. Bài thứ nhất rất dài, nhưng tôi chỉ nhớ được bốn câu: "Thuyền trưởng ơi, hãy cho tôi bát rượu/ Tôi uống vào cho biển cả nó thêm say/ Cho sóng lớn chồm lên muôn sức ngựa/ Nâng tầu ta đi canh giữ nước non này". Chúng tôi sướng những câu thơ này lắm. Rất sảng khoái và rất lính. Tôi còn đố Khoa làm một bài thơ đái ở trên biển. Cứ sõng thẳng từ trên boong xuống biển. Không ngờ cha Cua Đồng đã biến một việc rất thô tục thành một bài thơ trữ tình mà cánh lính biển tàu HQ05 từ lính đến quan đều thuộc: "Anh biết giấu vào đâu giữa muôn trùng trời nước/ Nỗi nhớ em không một phút nào ngơi/ Nỗi nhớ trào dâng anh xả vào biển cả/ Nguồn yêu thương cuồn cuộn chảy dưới trời". Sướng. Bác Nhạc cho tui thăm gã cua đồng, và nhắn dùm: Thuyền trưởng Trí vẫn nhớ K,Mong K sớm trở về với biển, hoặc đến Liễu Đề, Nam Hà thì ghé nhà Trí chơi”.
Quả thật, khi vị cựu thuyền trưởng tàu HQ05 đưa ra nhận định: "Tôi cũng rất yêu thơ Đường, nhưng cũng ngấy thơ Đường vì sự gò bó của niêm luật, đối thanh, đối ý. Nhưng thơ Đường sang ta nó mới hủ nho như thế, chứ bản thân những nhà thơ lớn đời Đường như Lý Bạch, Đỗ Phủ họ cũng thoát ra khỏi cái lề luật hà khắc của nó nên mới thành đỉnh cao nhân loại"..., tôi thực lòng kính trọng sự am tường của ông về thơ Đường, thơ Đường luât và thi ca nói chung, sâu sắc, không nệ cổ. Về cơ bản, tôi đồng tình với nhận định của ồng, bởi khi tìm hiểu thơ Đường cũng thấy được, các thi nhân lớn đời Đường đã sớm cách tân thơ Đường rồi.
           Sau đó, Trần Đăng Khoa vào đọc, ghi cảm nhận, đáp từ ông Trần Trọng Trí, nguyên văn như là: “ Vài hôm vừa rồi quây quả với mấy đám tang, bữa nay mới ghé vào quán lá của nhà họ Chu, mới hay chốn đô hội này vui thật. Nhờ vậy, tôi mới gặp được nhiều bạn cũ, nhiều người quen cũ, có người đến ba chục năm nay không thấy mặt, như anh bạn Việt An. Ông này tài lắm. Dạo thi văn, lão ấy còn trên tôi đến ba nấc. Lâu không gặp. Có người bảo lão dạo này bị gái bắt mất hồn, gặp người thân chẳng còn nhận ra nữa. Có người lại bảo, lão say rượu rồi phải gió, méo mồm rồi. Hoá sai bét. Lão vẫn to béo uỳnh uỵch, lại còn đang được mệnh danh là trùm khủng bố mạng. Ai tranh luận với lão cũng thua. Vì sau cơn động rượu, người lão mọc toàn mồm. Hóa ra cũng lại là giai thoại. Hoặc cũng có thể người ta sợ lão, nhìn lão hoa mắt, tưởng quái vật. Với tôi, lão vẫn là chàng Việt An, ( tức là Vit- theo cách gọi của Gà Phố) hiền khô thuở nào. Bây giờ, tất cả đều gặp nhau ở đây, gặp trong chốn âm i, là cái chợ âm phủ, có tên Blog tv.net này. Tôi cũng kinh ngạc và hoảng hồn khi thấy các quý vị tung ra hàng loạt những bài vè càn quấy của tôi. Cắn rơm cắn cỏ xin các ngài xóa ngay khỏi bộ nhớ, vì đấy không phải tác phẩm văn chương, mà là những trò đùa, đùa tếu để vui trong thoáng chốc, cười toét cái rồi thôi. Các bác cứ lưu lại như một tác phẩm thật sự thì hãi lắm.
Tôi cũng bất ngờ khi gặp bác Trí thuyền trưởng. Bác này có cô con gái rất xinh tên là Hà. Bác gả hết cho chú lính này đến chú lính khác, đi đến đâu bác cũng được xưng tụng bố vợ. Khi nhận thư, cánh lính mới té ngửa: "
Bố ơi, dạo này con ngoong lắm, không gác chân lên cổ mẹ, mí nữa đêm ngủ con không đái dầm nữa đâu bố ợ". Hóa ra tiểu thư công nương mới học lớp 1. Tôi đã kể chuyện này qua nhân vật Thuận ở cuốn tiểu thuyết Đảo chìm. Cháu bây giờ chắc đã mấy con rồi. Bữa nào tôi với Chu Nhạc về Liễu Đề nhờ bác tân trang cho mái tóc nhé. Chúc các bác, các bạn luôn gặp điều lành”.
          Nhà thơ Trần Đăng Khoa và thuyền trưởng Trần Trọng Trí gặp lại nhau trên trang blog, những tưởng thế đã là thú vị. Thật bất ngờ, tiếp nữa, còn có mấy thùy thủ, lính tráng thuộc quyền của thuyền trưởng Trí cũng nhận ra ông trên trang blog này. Xin trích cảm nhận của họ, âu cũng hiểu biết thêm về người thơ Trần Trọng Trí. Cựu thủy thủy Nguyễn Văn Tròn viết:” Ối thủ trưởng Trí ơi! Em không ngờ lại gặp thủ trưởng ở đây. Em nghe bà chị em khen quán lá ông Nhạc, em vào xem người ta mổ thịt ông K, hóa ra lại gặp thủ trưởng cũng tham gia tùng xẻo. Em dạo này mở quán thịt chó, cũng sống được Sếp ạ. Sếp thuộc thơ bác K còn em lại khoái thơ Sếp. Mà thơ rất thiết thực. Sếp còn nhớ Sếp cáu um lên vì bọn thằng Lĩnh ỉa bậy không? Sếp viết thơ lên mảnh tôn cắm bên cạnh hố xí: "Ỉa thật đúng lỗ mới tài/ Ỉa trệch ra ngoài kỹ thuật không cao". Nhưng em thích nhất bài thơ Sếp tặng em. Hồi em kiếm được tấm vải dù cho con vợ mới cưới. Sếp viết hộ em: " Gửi tặng em yêu tấm vải dù/ Anh đi tìm kiếm xuýt mất c.../ Mìn vướng, bom gài, anh đ... sợ/ Một tay cuộn dù, tay bịt c...". Nghĩa là giữ cho em cả tinh thần và vật chất. Mất cái "cần tăng số" thì có đến hàng trăm mét dù, nó cũng bỏ. Em ôm trọn vẹn về mà con vợ em nó đi theo thằng khác. Có giữ được quái đâu. Bây giờ giờ em thay ba vợ rồi. Vợ em hiện là giáo viên dạy mẫu giáo, lương ít nhưng tử tế, có điều kiện nuôi con. Hôm nào em sẽ về quê thủ trưởng đấy”.
          Tình cờ được gặp lính cũ trên blog, cựu thuyền trưởng Trí, qua cảm nhận đáp lại: “ Con cháu tôi lại khoe, có một bác đọc thơ ông, lại khen thơ ông hay hơn thơ ông Khoa. Tôi lại phải vào quán lá của bác Nhạc. Hóa ra là chú Tròn. Rất mừng chú có quán thịt chó. Mà dạo xưa chú có biết ăn thịt chó đâu nhỉ. Hôm TS giết con Ái Vân ( tên con chó khoang - lính thường lấy tên ca sĩ họ thích đặt cho chó ) để chiêu đãi tướng Cương, chú với ông  Khoa không ăn. Chú còn nôn ọe. Bây giờ lại nghiện thịt chó à. Rất mừng chú có ba vợ. Anh một vợ đã mệt phờ. Bà cai ngục nhà anh cũng béo như ông khoa, mà nước vẫn dâng như lũ sông Hồng. Chú Tròn ba vợ thì kém đếch gì cụ khốt đồ nho, nhân vật của bác Nhạc. Cái truyện ấy hay đấy. Vào đọc ngay. Tôi rất thích... Tôi bây giờ đọc bác Nhạc luôn luôn. Mặc dù mỗi lần vào quán bác Nhạc, tôi lại mất ngót chục ngàn. Mụ chủ còn đe tăng giá. Mụ vợ tôi cũng điên "Già còn đĩ...."... Tiếc là lâu rồi, tôi không gặp ông Khoa, chỉ thỉnh thoảng thấy ông ấy trên truyền hình. Béo quá. Ông ấy về làng không khéo chết oan vì dân nó đánh, nghi là tham nhũng. Hôm tôi qua Đài, đi với mấy ông cựu chiến binh bên Bộ tham mưu, có ông Đảng, Phó Chủ tịch Hội CCB đài tiếp rồi dẫn đi xem mấy nơi, qua phòng ông Khoa thì ông ấy đi vắng. Tôi vẫn làm thơ, tham gia câu lạc bộ thơ. Hôm vừa rồi có gửi bốn bài cho ông Bành Thông in trong tập Hương ngoại ô cùng với một triệu tiền mua sách. Thơ mà tôi tâm đắc, cánh cựu chiến binh quê tôi thích đều là thơ mách qué. Bác Nhạc có giám in thơ tôi không? Đại loại như thế này: IẾC XIẾC: Tối qua đi xem xiếc/ Thấy rõ ràng từng chiếc/ Càng nhìn lại càng tiếc/ Không được đi đoàn xiếc/ Để được sờ từng chiếc/ Tiếc/ Iếc xiếc. Bữa nào vào Quảng Bình tôi sẽ đến thăm chú Tròn. Còn bác Khoa với bác Nhạc tôi gặp chắc không khó lắm. Bây giờ các bác ấy mở quán tôi sẽ vào luôn”.
Nguyễn Văn Tròn hồi đáp cựu thuyền trưởng Trí: “ Thủ trưởng Trí
May có bác Nhạc làm liên lạc để em được gặp thủ trưởng. Em mở quán thịt chó, nhưng vẫn không biết ăn thịt chó. Điều đó chẳng quan trọng. Vợ và chú em vợ em tác nghiệp, còn em thu tiền với điều hành chúng. Quán của em ở thị trấn Ba Đồn, với bảng hiệu: Cày tơ Tròn lùn. Đông khách lắm. Thế cái bệnh lòi dom của thủ trưởng bây giờ thế nào? Thủ trưởng vẫn làm thơ quậy à? Em vừa thấy thủ trưởng quậy trên mạng bác Nhạc, nói cái vụ cối chày gì đó. Thủ trưởng cũng nên giữ mồm giữ miệng một chút, chả gì Sếp cũng Đại tá, lương tướng, xuýt nữa anh hùng. Mạng ấy toàn trí thức đọc cả đấy. Em xem thấy ù đầu. Thủ trưởng cũng phải cẩn thận trước bà xã. Bà ấy có thể không thích văn chương nhưng vì tò mò, tuỏng ở đấy có gái trinh, mò vào, gặp thủ trưởng nói xấu vợ thì chết. Loạng quạng mụ có bồ lại tắm cho thủ trưởng một can xăng như vợ nhà báo HH  thì khốn. Đàn bà không tin được đâu... Em qua ba chày rồi, em biết. Tanh lắm. Thủ trưởng vẫn phải cẩn thận đấy. Lúc nào thăm thủ trưởng, em nói nhiều, bây giừ qua nhà ông Nhạc, anh em mình nói với nhau mà toàn thiên hạ nghe, cụt cả hứng. Thủ trưởng bảo trọng”.
          Không những thế, một thuộc cấp của ông là Lê Văn Khánh cũng qua con đường cảm nhận vào bài viết của tôi để nhận lại thủ trưởng cũ của mình: “ Ôi chồ chồ, thủ trưởng ơi, em là Khánh đây, Khánh cắt tóc và dạy thủ trưởng cắt tóc đó. Thằng Tròn điện cho em bảo vô xem thủ trưởng, lại bày cho em cách viết thư cho thủ trưởng. Em vào mấy hôm rồi, nhưng bữa ni mới biết cách viết thư. Em đọc thơ thiên hạ tháy thua thơ thủ trưởng hết. Em đọc ai cũng thích. Vịnh cây khoai môn: Trên rừng sướng nhất cây khoai môn/ Củ nó luộc lên ăn rất ngon/ Cái bẹ nấu canh ăn cũng sướng/ Lá nó hao hao giống cái l... ; Vịnh Nồi hầm: Trắng trắng đen đen lại lùm lùm./ Cũng đai cũng ốc, cũng tùm lum/ Thịt gân nhét phứa vào trong ấy/ Một lúc rút ra nhũn nhùn nhùn; Vịnh cái tủ lạnh Sa-ra-top: Cắm vào run rảy toàn thân. Rút ra nước chảy từ chân xuống sàn. Hỡi người quân tử giàu sang. Cắm vào xin chớ vội vàng rút ra. Nhưng em thích nhất bài thơ Sống ở đảo chìm, viết tặng ông Trần Đăng Khoa: Sống ở đảo khoái ơi là khoái/ Nó giúp ta đi đái rất gần./ Đái ở đầu, đái ở chân (tức đầu đảo, chân đảo)/ Đứng đâu đái đấy, đéo cần đi xa/ Chẳng như hồi sống ở nhà/ Muốn đái một bãi phải ra tận vườn. Hay. Thủ trưởng có thơ mới, bảo bác Nhạc đăng cho chúng em thưởng thức nhá”.
          Đấy, chỉ qua những dòng cảm nhận, đối đáp giữa cựu thuyền trưởng Trần Trọng Trí với nhà thơ Trần Đăng Khoa và mấy người lính cũ của ông, ta có thể nhận diện được Trần Trọng Trí, quan niệm của ông về thi ca, cùng thơ ca hò vè của ông, và ít nhiều thực tế cuộc sống của những chiến sĩ hải quân bảo vệ đảo.
          Sẽ còn nhiều điều thú vị và bất ngờ về cựu thuyền trưởng Trần Trọng Trí và những người lính đảo của ông...
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 08.02.2017 16:52:44 bởi tamvanvov >

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Chiều Ghềnh Ráng - 01.05.2017 13:28:24
2. Những cuộc đối thoại thơ:
          Sau những cuộc nhận ra nhau và hồi đáp thú vị giữa vị cựu thuyền trưởng Trần Trọng Trí, cùng những người lính biển một thời của ông, và nhà thơ Trần Đăng Khoa, Trần Trọng Trí có đọc kỹ một số truyện ngắn và thơ của tôi trên trang blog Ngẫm & Viết, ( truyện có: Ngày xưa ấy, Thấm thoắt tháng ngày, Giải thoát ... , thơ thì Xuân mưa, Đi biển một mình ... ), ông có đưa ra một số nhận xét. Thêm nữa, khi tôi công bố bài viết “ Đảo Chìm, nghệ thuật tạo dựng không gian truyện “ trên blog của mình, rất nhiều nhà văn, nhà phê bình và nghiên cứu văn học, đọc và đưa ra những nhận xét tích cực, điều ấy khích lệ thêm những cựu lính biển. Trần Trọng Trí đọc thường xuyên mỗi ngày và ông rất chịu khó ghi cảm nhận, khi đưa ra nhận xét này nọ, lúc lại thơ ca hò vè tếu táo làm vui. Sôi động hơn, khi một nhà thơ nữ, cũng là blogger của Blogtiengviet.net ( xin phép được giấu tên ) cảm nhận bằng thơ vào trang blog của tôi, Trần Trọng Trí đọc được và dường như ông được kích hoạt, thơ vè tuôn ào ào, có ý trêu đùa nữ nhà thơ nọ. Sự thông minh, hóm hỉnh vốn có, và cái khiếu hài hước của ông được đẩy lên cao. Từ đó sinh ra các cuộc họa thơ mang tính chất bông đùa nhau. Tôi ghi lại và trích một số thơ họa của Trần Trọng Trí.
          Tôi có bài thơ Xuân mưa: “ Xuân đem hạt nắng gieo đâu/ Mưa bay giăng nhẹ nỗi sầu cho ai / Bất ngờ nở đóa sớm mai/ Dùng dằng xuân giọt nhỏ ngoài mái hiên “, thì Trần Trọng Trí họa Xuân nắng: “ Xuân sang, ta Sáu Tư rồi/ Vắt đâu ra mấy giọt giời được đây/ Mặt trời đã tốc vấy mây/ Ta cùng vợ vác cối chày ra phơi”. Tôi đọc và đưa ra đề nghị là sửa câu “ giọt trời “ thành “ giọt giời “, ông khoái lắm, đồng ý luôn.
Tôi đăng bài Đi biển mùa đông: “ Mùa đông/ đi biển/ một mình/ hoang vu biển / vẫn tự tình,/ đâu em/ bờ dương thầm thĩ/ môi êm,/ gối đầu tay/ mộng/ chong đêm/ một mình...”; Nữ nhà thơ nọ họa bài Trước biển: “Lặng nghe.../ sóng động / lòng mình / triệu năm/ vẫn hát khúc tình tự em/ cồn cào/ gửi nhớ vào đêm/ bờ dương lả/ gió vuốt mềm tóc ai...”; Trần Trọng Trí vào cuộc họa: “Có chày mà không cối/ Chẳng thể nào văn minh/ Dù trăm chàng râu rậm/ Vẫn bùng biêng một mình/ Thương quá Chu thi sĩ/ Gối đầu lên cánh tay/ Lấy thi ca làm cối/ Chày lại vang nhịp chày/ Giờ có thơ ta đọc/ Thơ hóa thành biển trăng/ Quờ tay ra đã gặp/ Vành vạnh một ả hằng/ Vầng trăng không biết lặn/ Cứ nõn nường tươi xinh/ Ai bảo chàng Chu Nhạc/ Ra biển khơi một mình?”.
Không thấy nữ nhà thơ nọ ọ ẹ gì, ông tiếp tục khiêu khích, thơ rằng: “ Ả nguyệt đâu rồi nhỉ/ Để biển mịt mù đêm/ Ta gối chày lằng sóng/ Chờ đợi vầng trăng lên”... Việt An thấy vậy vào cuộc, ghi cảm nhận khích ông là “ Bộ trưởng Bộ Giã gạo”, trước khi vào lính Hải quân, Trần Trọng Trí liền quay mũi nhọn sang Việt An như sau: “ Chú em thông minh thật/ Anh là thợ giã đây/ Trước một chày một cối/ Giờ ba cối một chày/ Về hưu rỗi rãi lắm/ Thì vác chày đi chơi/ Có gạo đâu mà giã/ Ả nguyệt phắn mất rồi/ Chú đẻ rơi bên cối/ Vầng trăng thu lẻ loi “.
Quả thật, Trần Trọng Trí thông minh, hóm hỉnh, giàu tính hài hước, thơ ứng tác của ông cũng rất chi là tài tình. Gạt đi sự bông đùa tếu táo, bỏ qua những câu thơ, những từ ngữ bạo dạn theo kiểu khấu ngữ dân gian, nhìn chung, thơ ông khá hay. Khi tôi bày tỏ với ông điều này, ông hiểu, song ông vẫn đẩy sự bông đùa lên cao nữa. Từ câu chuyện về mối tình ngang trái trong truyện ngắn Ngày xưa ấy của tôi, ông vịnh thành thơ mà trêu tôi: “ Tiếc là chàng hiền quá/ Không hiền còn dại điên/ Ngả phứa nó lên cỏ/ Hai đứa cùng lên tiên/ Tiết hạnh nó chẳng giữ/ Vậy mà còn vân vi/ Lão đồ nho hâm quá/ Rõ thật như cù...đì “.
Vậy đấy, Trần Trọng Trí sắc lẻm như dao cau, mạnh bạo như mãnh thú khi bàn chuyện lính tráng, chuyện về đàn bà, tình yêu, tình dục. Có thể nói, ông là một trí thức, pha thêm chất lính, và trong người tồn dư tính láu cá nông dân.., Ông là vậy, và những người lính biển thuộc cấp của ông, dường như nhiều năm sống gần ông, nên ít nhiều chịu ảnh hưởng từ ông, cũng lanh lợi và sắc lẻm không kém. Ấy là Nguyễn Văn Tròn ( tức Tròn Lùn ). Anh chàng này bàn góp với thủ trưởng Trí của mình như sau: “ Thủ trưởng Trí ơi! Bây giờ chắc thủ trưởng đang ngủ, mà mấy con mẹ quán Nét cũng đang ngủ, thế mà em đã lẻn được vô nhà bác Nhạc rồi đấy. Em vô bằng cái máy tính con của em. Rất tiện lợi. Giờ em quyết định thế này: Giữa tháng Ba này là ngày giỗ ông anh của em. Bác Nguyễn Văn Vuông, hy sinh thời chống Mỹ. Em mời thủ trưởng vô Quảng Bình. Tiện thể, ta quá giang mấy trăm cây đi Nghĩa trang Trường Sơn. Em sẽ tặng thủ trưởng cái vi tính xách tay và cái USB nối mạng, em bao thủ trưởng cước hàng tháng, để thủ trưởng đọc bác Khoa, bác Nhạc và trăm thứ rất hay trên mạng. Còn báo nhạt toẹt. Cước chẳng đáng bao nhiêu đâu. Em thử rồi. Chỉ cần thủ trưởng không xem phim đồi trụy thì phí rẻ lắm. Em chỉ tiết kiệm mấy đĩa thịt chó là thủ trưởng chơi tẹt ga. Thủ trưởng nhắn cho em thằng H., con Nh. ( Cái con bé ngày xưa thủ trưởng cứ xui em hôn nó rồi bóp v. ấy). Bây giờ chắc già khắm ra rồi. Rồi thằng B., thằng V., thằng C., thằng Kh., thằng Tr. ( Thằng Tr. khỏe như trâu mà bị vợ cắm sừng, khổ thế. Em bảo thôi vứt đi, kiếm đứa khác. Đàn bà thiếu giống. Bác Khoa cứ ra rả tôn vinh chị em, cũng hâm lắm. Bác này rất thông minh, thông thái, nhưng thi thoảng cũng hâm đột xuất ). Em thấy đàn bà chẳng mấy sâu sắc thủy chung gì đâu,...  Đấy, như vợ tay nhà báo nọ, có thể thiêu chồng chạy theo một thằng hạng tép, mà chưa chắc cái chày của nó đã hơn...  Đàn bà là vậy. Chắc nó rót vào tai mấy câu khen đểu là... Đàn bà thường chỉ tiếc và đuổi theo những thằng đểu và thường coi khinh những thằng tử tế. Thủ trưởng nhớ báo cho em mấy thằng ấy nhé, còn thằng Khánh thì em liên lạc được rồi. Có vi tính em với thủ trưởng có thể thông thương mà không làm phiền bác Nhạc, bác Khoa nữa. Mà nếu thủ trưởng có bồ hẹn càng tiện lợi... cánh công chúc này nọ cũng búa sua vậy cả....”.
Xin được thứ lỗi, nếu chị em nào đọc đoạn trích cảm nhận của Tròn Lùn, mà phật ý. Cảm thông và cám cảnh cho anh chàng cựu lính thủy này, bởi anh ta đã qua ba đời vợ mà hai người đầu đều bỏ anh ta chạy theo người đàn ông khác. Có lẽ, vì thế mà chàng ta sinh ác cảm với phụ nữ chăng? Những mà, chỉ ác khẩu thôi. May mắn là người vợ thứ ba, theo anh chàng tự nhận, là người tử tế đấy thôi. Anh chàng này, ngoài đời chắc hẳn là một người đàn ông xốc vác, quyết liệt. Qua những gì tôi biết, tôi hình dung, thiển nghĩ, đằng sau vẻ bất cần và mạnh bạo đến quyết liệt ấy, anh chàng là một người cả nghĩ và đa cảm. Chẳng thế, Nguyễn Văn Tròn bàn về thơ Trần Đăng Khoa thế này: “ Em lại thích thơ bác Khoa sau này hơn thơ ngày trước. Bài thơ Lính đảo hát tình ca rất tuyệt. Bài về nghĩa trang Văn điển nữa. Nhưng viết về phụ nữ của bác Khoa, em thích nhất mấy câu này, sau khi gặp gái, bác ấy đã ngây ra như ngỗng ỉa: "Tôi vội nhìn theo nào có thấy/ Bời bời lối cỏ, bóng em đâu?/ Tìm em lại gặp con chó đá/ Ngoác miệng làm duyên giữa bụi lau". Đời nhiều chó đá lắm bác ạ ". ...
Nói về người thơ Trần Trọng Trí, nhưng sao tôi lại nói nhiều về Nguyễn Văn Tròn làm vậy? Là có duyên cớ đấy. Bởi, cùng sự xuất hiện và giao lưu với mọi người trên mạng, cựu thuyền trưởng Trần Trọng Trí có thêm sự khích lệ từ Nguyễn Văn Tròn, khiến ông như nhập đồng vào thế giới ảo internet một cách mê say, và hơn thế, ông còn đưa ra những quyết định ngoài đời rất nhanh chóng, làm thay đổi hẳn cuộc đời ông ngay sau đó...

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Chiều Ghềnh Ráng - 18.08.2017 09:55:26
3. Như vệt sao băng vút qua bầu trời,


Áp lực và mong muốn có máy vi tinh, kết nối internet thì thầy trò Trần Trọng Trí - Nguyễn Văn Tròn đã nhanh chóng đạt được. Khi tôi đề nghị Trần Trọng Trí đổi một từ trong bài thơ ứng tác của ông, không những đồng ý, ông còn nhắn lại: “ Ông Nhạc chữa cho tôi một chữ mà hay hơn đấy. Cao thủ. Mặc dù ý không thay đổi, nhưng chữ “giời” thì hợp hơn chữ” trời”. Tôi sẽ qua chú Tròn trong dịp tới. Chú giúp tôi mua vi tính, nhưng không cần tặng tôi, thằng con rể tôi nó cho. Thằng cu đang muốn kéo tôi về Yên Bái sống với nó. Tôi đang tính. Nghe có mấy đứa vừa báo tôi bên nhà ông Khoa có trò mới cũng vú vê búa sua. Tôi sang xem đã nhé”.
Rồi sau đó, trong cảm nhận khác, cựu thuyền trưởng Trí hào hứng thông báo: “Tôi đã sắm máy tính cũ xách tay và cả USB, có thể vào các ông thường xuyên. Mụ vợ tui còn mê các ông hơn cả tui. Cảm ơn các ông đã giúp tui nhập thế giới hiện đại. Ngày mai tui đi Sài Lang Thành nhưng vẫn đọc các ông đấy”.
Trần Trọng Trí đi chơi xa, nhưng ông không quên vào mạng để đọc mọi người. Theo tôi hiểu, quan trọng là, ở đấy, ông gặp lại các đồng đội, lính cũ của mình, những người từng nhiều năm sát cánh bên ông bao năm tháng gian khổ, hy sinh; và hơn thế nữa, ông còn biết thêm thông tin mọi mặt, phải trái, giúp ông thoát khỏi thân phận một vị cựu đại tá nghỉ hưu trở thành người cắt tóc nơi phố huyện, ù cạc vì thiếu thông tin...
Cách ít hôm, Trần Trọng Trí vẻ bùi ngùi, thông báo qua cảm nhận : “ Bữa rày, ông Khoa đưa cái Đảo chìm lên, tôi đọc lại và ngơ ngẩn suốt cả một chiều. Tôi vào mạng, tìm xem người ta bàn thế nào về cuốn sách này, thấy rôm rả lắm. Nhưng sách báo giấy thì chẳng có ai nhắc đến một dòng, cũng như văn chương Chu Nhạc vậy, ông có đến hơn chục cuốn sách rồi, bạn bè mạng bàn về ông rất hay, thế mà ngoài đời, nhiều người còn nhầm ông với một hội viên Hội nhà văn Việt Nam khác trùng tên... Sáng nay, tôi và con gái qua Hà Nội, có đến thăm ông Nhạc, ông Khoa. Con bé ( nhưng cũng là gái xề rồi , là nguyên mẫu, trong Đảo Chìm, ông Khoa gọi là Mộng Tương ), nó cứ trách sao chú ấy ghét gì con mà đổi tên quê thế. Nhưng nó vẫn quý chú Khoa. Bữa nay, chỉ mong được chụp ảnh với hai nhà thơ nổi tiếng, nhưng ông thì đi vắng, tôi lại cứ tưởng ông làm việc với Đoàn của Đức ở tầng 3. Nhưng không có. Ông Khoa cũng không đến cơ quan. Sáng mai, tôi đi Lào thăm chú Tròn rồi chuyển gia đình về Yên Bái. Thôi già rồi thì theo con. Con gái tôi nó thích văn chương ông lắm. Nó bảo nó còn thích văn chú Nhạc hơn văn chú Khoa. Tôi nghĩ, có thể nó còn thù chú Khoa đã giễu nó trong Đảo Chìm. Chúc khỏe”.
Khi đọc được thông tin này, tôi lấy làm tiếc lắm. Vậy là, đã hai lần, Trần Trọng Trí đến tận trụ sở 58 Quán Sứ, để tìm gặp Trần Đăng Khoa và tội mà không gặp được. Tôi nhắn lại ông, và thâm tâm nghĩ, dù là ông ở quê Liều Đề ( Nam Định ), hoặc theo con gái về sống tại Yên Bái, thì cũng đâu xa, cứ liên lạc thường xuyên thì việc gặp nhau đâu khó: “ Bác Trí. Thật tiếc, khi bác đến VOV, cả hai chúng tôi lại vắng cả. Tôi đang đi công tác Điện Biên. Còn Khoa thì không trực thứ 7, nên cũng không đến cơ quan. Bác cho biết số điện thoại của bác ( hoặc người nhà ), tôi và Khoa sẽ liên lạc với bác ngay. Cho tôi gửi cảm ơn tới Hà ( Mộng Tương công nương của Đảo Chìm ). Cảm ơn Hà đã đọc văn chúng tôi “.
Tôi điện thoại thông báo với Trần Đăng Khoa thì anh cũng lấy làm tiếc. Ngay sau đó, Khoa nhắn cho ông: “ Bác Trí. Nghe Chu Nhạc điện, tôi mới biết sáng nay bác và tiểu thư công nương qua cơ quan tìm tôi và Chu Nhạc. Nhưng tiếc quá, Nhạc đang đi công tác. Lão dẫn đầu đoàn nhà báo Đài về Điện Biên, hi vọng chuyến này xóm lá được đọc cả thơ và văn của hắn. Còn tôi bữa nay không trực cơ quan, tiếc quá. Bác cho tôi số điện thoại hoặc điện cho tôi theo số 0913533260. Tôi rất mong được nghênh đón bác. Còn cháu Hà, thích văn chú Nhạc hơn văn chú Khoa thì đúng quá rồi. Cháu thế là tinh đấy. Vì chú Nhạc viết hay hơn chú Khoa. Vợ chú cũng thích văn chú Nhạc hơn văn lão Hâm ở nhà mình. Mong được đón hai bố con “.
Cảm giác, Trần Trọng Trí bần thần, bùi ngùi xúc động, và có vẻ bất an về nhiều lẽ ? Tiểu thuyết Đảo chìm của Trần Đăng Khoa, ông đọc trên mạng, đã vô tình sống dậy trong ông hết thảy cả quãng đời sung sức, đầy nhiệt huyết và khát vọng sống, nhưng vô cùng gian truân, và không kém cô đơn, dù bên cạnh mình có bao nhiêu đồng đội; hẳn bao ký ức vui buồn ùa dậy, chen lấn trong lòng ông; rồi nữa, ông đã quyết định thay đổi cuộc sống của gia đình mình sau chuyến đi Quảng Bình và Lào cùng người lính cũ Nguyễn Văn Tròn? Hay còn linh cảm gì nữa chăng ? ...
Cái điều tôi nghĩ, điều Trần Đăng Khoa nghĩ và mong muốn được đón hai bố con vị cựu thuyền trưởng tàu HQ 05, và chắc hẳn, tự thân Trần Trọng Trí cũng nghĩ vậy. Đâu khó gì. Đã hai lần chưa gặp, thì lần thứ ba, thứ tư sẽ gặp. Giữa Trần Đăng Khoa và Trần Trọng Trí, họ sống với nhau nhiều ở Trường Sa và trên tàu HQ 05 thời điểm năm 1982, nay có gặp là gặp lại thôi, kiểu gặp của những cựu binh một thời sống chết bên nhau. Riêng ông và tôi, thì chưa từng gặp nhau...
Bẵng đi cả tuần, rồi nửa tháng, không thấy ông xuất hiện trên mạng, cả Tròn Lùn nữa. Tôi nghĩ, thầy trò nhà này gặp gỡ sum họp, rủ rê thăm nom các cựu lính biển khác, rồi kéo nhau sang tận Lào du ngoạn thì không chừng cả tháng. Có lẽ mảng vui, rồi đường sá xa xôi nên các vị xao nhãng internet. Quả thực, không có các cảm nhận bông đùa tếu táo nhưng rất đỗi chân tình của Trần Trọng Trí cùng đám lính cũ của ông, tôi thấy thiêu thiếu, và hẳn Xóm blog Tiếng Việt cũng kém xôm trò. Thôi đành đợi họ về, giờ thầy trò họ đều có laptop, nối mạng USB cả rồi , tha hồ mà giao lưu, thơ phú, gặp gỡ, bù khú...
Một ngày làm việc bình thường, theo thói quen, tôi đến sớm trước giờ làm việc nửa tiếng, bật máy vào mạng tranh thủ xem một số thông tin đầu ngày và blog cá nhân mình. Không tin vào mắt mình, khi đọc những dòng cảm nhận sau đây: “Chú Chu Nhạc kính mến! Cháu là Hà con gái bố Trần Trọng Trí. Bố cháu và chú Tròn đã mất vì tai nạn giao thông tại Thái Lan. Xe do chú Tròn lái. Chú Tròn mất tại chỗ. Còn bố cháu vào viện đến ngày thứ ba thì mất vì vết thưong quá nặng. Bố cháu mất đã nửa tháng rồi. Bố cháu rất quý chú và chú Khoa nên cháu báo để các chú biết. Nếu có gì đường đột mong chú tha lỗi. Cháu Hà”... Sau chút bàng hoàng, xem kỹ, cảm nhận của Hà được viết lúc 23h24 ngày 23 tháng 4 năm 2011. Như vậy, cựu thuyền trưởng Trần Trọng Trí và cựu lính thủy Nguyễn Văn Tròn đã vĩnh viễn ra đi trước đó nửa tháng rồi. Đâu ngờ, những dòng cảm nhận ông viết vào ngày 19 tháng 3 năm 2011, báo tin việc ông đi tthăm Nguyễn Văn Tròn rồi cùng nhau sang chơi bên nước Lào, lại là những dòng cuối cùng ông để lại nơi Blogtiengviet.
Đã có bao nhiêu lời bày tỏ lòng tiếc thương, cảm mến thầy trò Trí-Tròn, lời chia buồn sâu sắc với cháu Hà và gia đình hai người, song chẳng có gì bù đắp nổi sự mất mát đó. Nhà thơ Trần Đăng Khoa viết: “Trần Thu Hà! Chú thực sự sửng sốt trước tin của bố cháu và chú Tròn. Sáng nay, chú đang ở Thái Bình thì chú Nhạc báo tin. Trước đó, chú cũng có một linh cảm không lành về bố cháu và chú Tròn. Trước đây, bố cháu và chú Tròn hay qua Xóm Lá và có nhưng cảm nhận rất thú vị, vừa hóm, vừa thông minh, lại rất vui, đúng như tính bố cháu. Sự góp mặt của bố cháu và chú Tròn, làm Xóm Lá sinh động hẳn. Thế rồi bẵng đi, không thấy bố cháu lại. Chú hỏi chú Nhạc. Chú Nhạc cũng chỉ nghĩ là bố cháu đi chơi rồi về. Chú Nhạc còn bàn với chú làm một chương trình truyền hình về bố cháu và chú Tròn. Chú cũng đã chuẩn bị. Vậy mà ai ngờ...Đây là một tổn thất không gì bù đắp được. Chú đau đớn chia sẻ nỗi đau đớn này với mẹ cháu, chị em cháu. Lúc nào qua Hà Nội thì báo chú. Chú rất muốn được đón cháu như đón một người nhà thân thiết, xin chia sẻ nối đau này với cháu và gia đình”.
Sau vài ngày tĩnh tâm, tôi viết trên blog của mình bài “ Tưởng nhớ cựu thuyền trưởng Trần Trọng Trí “, lại có bao lời chia sẻ từ cộng đồng Xóm Lá ( Blogtiengviet.net ), Trần Hồng Giang, một blogger khuyết tật được nhiều người yêu mến, chia sẻ “ Bất ngờ quá anh Nhạc ơi!
Em đọc
Đảo chìm của anh Trần Đăng Khoa ngay từ lần xuất bản đầu tiên. Với lòng yêu mến và cảm phục những người lính đảo đến khôn cùng. Vậy nhưng đến vừa rồi qua blog của các anh thì em mới biết là bác Trí nguyên mẫu trong Đảo chìm là đồng hương Nghĩa Hưng với em. Biết được thông tin này, em đã rất vui mừng, em đã nhờ một người bạn ở thị trấn Liễu Đề, liên lạc với bác Trí để một lúc nào đó có thể gặp gỡ. Em hy vọng khi gặp được bác ấy thì sẽ viết một cái gì đó về một con người mà mình ngưỡng mộ.Thế mà... Cuộc đời này sao lại có những thực tế phũ phàng như thế chứ!”.
Tôi lần giở các trang blog của mình, tìm tất thảy dấu vết của cựu thuyền trưởng Trần Trọng Trí và cánh lính cũ của ông để lại, kể từ ngày đầu ông xuất hiện ( ngày 28 tháng 2 năm 2011 ) cho đến bài viết cuối cùng ( ngày 19 tháng 3 năm 2011 ), nghĩa là chưa đầy một tháng, thầy trò ông đã làm sôi động cả Xóm Lá với những dòng tâm sự, với thơ ca đối đáp giàu chất lính, phồn thực và rất uy-mua...
Đột ngột xuất hiện và vụt biến mất, họ như những vệt sao băng vút qua bầu trời vậy !...
( còn nữa )

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Chiều Ghềnh Ráng - 02.12.2017 16:42:21
4. Vĩ thanh,
 
Một câu hỏi đặt ra, tại sao thầy trò Trí – Tròn lại sang tận Thái Lan, để rồi xảy ra sự cố đáng tiếc ở đó ? Theo suy luận của tôi, Tròn Lùn đã từng thông báo rằng, anh ta mở quán Cày tơ ở Ba Đồn, làm ăn khá phát đạt, lại mở thêm mấy quán nữa tận bên Lào. Tròn Lùn có ô tô riêng. Vậy là, sau khi đón thủ trưởng Trí và Quảng Bình, thăm thú đồng đội cũ, viếng nghĩa trang Trường Sơn, rồi họ sang bên Lào chơi, tiện thể giải quyết công việc quán xá bên đó. Giờ quốc tế thông thương, mấy nước Đông Nam Á qua lại nhau dễ dàng như đi chợ. Từ thủ đô Viên-chăn, chỉ cần qua cầu bắc ngang sông Mê-kông, sang cửa khẩu Noọng-khai, là vào tỉnh Udon của Thái Lan rồi. Sở dĩ biết vậy, trong một chuyến công tác sang Lào năm 2010, tôi cũng đến được tỉnh lỵ Udon theo đường này. Có điều, Thái Lan giao thông theo hệ thống của Anh ( cũng như một số nước khác như Nhật bản, Hồng kông ), ngược ta, đi trái về phải. Ô tô của họ phần lớn là tay lái nghịch. Nếu người mình sang đó, xe tay lái thuận, lại thêm thói quen theo luật giao thông ta ( đi phải về trái ), thì chỉ vài giây sơ ý xao nhãng là lao xe sang phần được ngược chiều ngay...
Đáng tiếc làm sao. Âu cũng là số phận. Kể từ khi nhận ra nhau, họ cần nhau, cựu thuyền trưởng Trần Trọng Trí và người em lính cựu Nguyễn Văn Tròn... Những nhận xét rất thẳng thắn, chân thành và tinh tế của họ, nhất là những bài thơ cũ được nhắc lại, những cảm tác tức thời hóm hỉnh, pha chất lính tráng và phồn thực của họ, thật hay, đã khiến cả Blogtiengviet.net sôi động, sinh khí hẳn lên... Không những thế, cặp thủ trưởng-lính cũ, anh em, thày trò Trí –Tròn còn tranh thủ kể chuyện đời thường sau khi họ chia tay nhau rời quân ngũ, chuyện sinh sống làm ăn thành bại, chuyện vui buồn thế sự, chuyện gia đình...Họ trút hết nỗi niềm cho nhau...Tâm đầu hợp ý, có cảm giác như từ đây, họ không thể sống thiếu nhau !...
Cho đến nay, ngoài những gì người thơ Trần Trọng Trí để lại trên blog của tôi, chủ yếu là văn thơ đối đáp, hài hước bông lơn, tôi không biết những bài thơ khác của ông đã từng được đăng báo Văn nghệ, báo Hải quân và trong tuyển thơ Hương ngoại ô ra sao. Không biết nên chẳng bàn. Theo suy đoán của tôi, Trần Trọng Trí đã có gần như cả cuộc đời phục vụ trong Hải quân, đặc biệt quãng thời gian dài ông sống và chiến đấu bảo vệ quần đảo Trường Sa, làm thuyền trưởng tàu HQ 05, hẳn số thơ ca hò vè ông sáng tác rất nhiều ( mà mấy bài các cựu lính biển Nguyễn Văn Tròn, Lê Văn Khánh nhớ là điển hình ). Sẵn trí thông minh, tính hài hước, và không kém phần lãnh mạn trong mình, Trần Trọng Trí sáng tác hay ứng tác, là pha trò cười, là nhắc nhở, là động viên, khích lệ cánh lính của mình có thêm tình thần và lòng can đảm, cố kết, trụ vững, chống chọi với sóng gió biển khơi và sự rình rập của kẻ xâm lấn, đặng bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải của quốc gia.
Song những gì Trần Trọng Trí để lại, như tôi đã từng đưa ra nhận định, gạt đi những gì quá bông lơn tếu táo, bỏ qua những câu chữ còn ít nhiều dung tục cửa miệng, thì nhìn chung, thơ ca của ông giàu yếu tố phôn-clo, giàu chất uy-mua, khá phồn thực và không kém phần lãng mạn... Rồi đây, những bài thơ hài hước của ông sẽ vẫn được cánh lính biển, và nhiều người hơn nữa, nhớ đến... Và hơn thế nữa, ở ông, còn là sự am tường về thi ca nói chung, mực thước nhưng không nệ cổ, chấp nhận sự cách tân và phát triển của thi ca đương đại... Trong tập sách Trường Sa, mới xuất bản của nhà thơ Trần Đăng Khoa, cùng với nội dung chính là những bài thơ anh viết về biển đảo, tiểu thuyết Đảo Chìm, có trích đăng một số câu chuyện ngoài lề lên liên quan đến chủ đề này và nhiều ý kiến khác về tiểu thuyết Đảo Chìm, có đôi chút câu chuyện về cựu thuyền trưởng Trần Trọng Trí, cùng các cựu lính thủy Nguyễn Văn Tròn, Lê Văn Khánh và những đồng đội khác.
Vậy, với người thơ Trần Trọng Trí, thiết tưởng, như thế là hạnh phúc... Mỗi khi nhớ về ông và Nguyễn Văn Tròn, là nhớ về quá khứ pha chút tiếc nuối của sự thiếu vẹn tròn...
Trong một bài thơ, Trần Trọng Trí đã viết: “ Ta gối đầu lắng sóng/ Chờ đợi vầng trăng lên “... Giờ, thì hẳn, ông và Tròn Lùn, ở miền xa thắm ấy, họ thanh thản gối đầu lắng sóng, chờ đợi vầng trăng lên !...

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Chiều Ghềnh Ráng - 30.07.2018 12:07:16
Một thời má đỏ,
 
 
Em một thời má đỏ
Ta một thời long đong
 (Chỉ lửa là rất thật-NCN)
 
Anh lên Châu Mộc, theo lời mời của Quân, người bạn thân, cán bộ quản lý Văn phòng khu vực Tây Bắc của một cơ quan báo chí lớn. Quân sắp đến tuổi nghỉ hưu, vốn yêu mến miền đất thơ mộng này, muốn tìm một mảnh đất rộng để làm nhà vườn, đặng an nhàn tuổi già. Quân bảo: “Tôi biết ông cũng yêu quý vùng đất này chẳng kém gì tôi, cuối tuần ông lên đây chơi với tôi, cùng tôi tìm đất, biết đâu, ông cũng động lòng, kiếm một mảnh đất… Đồng bệnh tương lân mà, tôi và ông đều tương tư vùng đất này, bởi cả hai ta, cùng để lại nơi đây một mối tình dang dở, một thời… nhỉ”. Nghe vậy, anh cười: “Mối tình dang dở ư? Có thể với ông là đúng, song với tôi, thì chưa hẳn… Nhưng thật tình, tôi yếu mến miền đất thơ mộng này, có khi còn hơn ông!”. Cả hai cười vang.
          Quân đưa xe về Hà Nội đón anh lên. Chiều cuối tuần, xe ngược lên châu Mộc. Qua Thung Khe, cơn giông kéo lên đầy trời, may là đầu hè nên không bị sương mù. Trời đổ mưa nặng hạt.  Quân lặng nhìn quang cảnh đồi núi gội mưa, cảm thán:”Tôi rất thích ngồi xe ngắm trời mưa, ông ạ”. Cậu lái xe nghe vậy hài hước: “ Ôi, sếp thích, nhưng em khổ sếp ơi. Lái xe đường núi trong mưa thế này, cực lắm, sếp à”. Chúng tôi phá lên cười, rồi lặng đi nhìn mưa rơi hồi lâu, hình như mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng. Anh chợt nhớ, động lòng thốt lên mấy câu thơ:” Ơi một thời khao khát/ Em thì còn trẻ măng/ Ngước cái nhìn ngơ ngác/ Ta vờ ngó vầng trăng/ Chỉ lửa là rất thật/ Bừng lên cháy hết lòng/ Em một thời má đỏ/ Ta một thời long đong”… Quân nghe, nói mơ màng như đẩu đâu ấy” Ừ,… đúng là em một thời má đỏ, … ông nhỉ?’. Anh cùng ờ như mơ hồ…
          Mưa dứt từ lúc nào, xe lên tới cao nguyên Châu Mộc. Cao nguyên sau cơn mưa gột rửa, tươi mát yên lành trong màu xanh  mướt của ngô và chè. Những năm rồi, anh qua lại vùng đất này nhiều lần, nhưng mỗi lần mỗi ngỡ ngàng. Lần này, là sự ngỡ ngàng về vẻ tươi mới và có gì đó khang khác của cao nguyên mà anh chưa nhận ra.
 
          Lấy phòng khách sạn, tắm rửa sạch sẽ, mọi người đi ăn nhà hàng theo lời mời của một người bạn với Quân. Món ăn bản địa, ẩm thực Thái Mường lạ miệng. Cụng ly chúc tụng, nên ai cũng ngà ngà, một trạng thấy đầy hưng phấn. Anh cao hứng đọc thơ, là thơ tình, về mảnh đất này, nên mọi người đều vui lắm.
          Đêm về, tưởng là ngủ được ngay, nhưng không ngờ, anh lại khó ngủ làm sao…

#
          Ngày ấy, cách đây gần bốn mươi năm rồi, anh đang học năm cuối đại học Nông nghiệp. Lớp của anh lên đây thực tập, đồng thời học nốt mấy môn học phù hợp với điều kiện thực tế của Nông trường Bộ ở đây.
          Mấy chiếc xe khách Hải Âu đã chở đoàn sinh viên vượt dốc Cun, rồi Thung Khe lên với Mộc Châu. Ngày đó, khi xe ì ạch leo đèo, cả đám sinh viên, phần lớn quê các tỉnh đồng bằng, lần đầu lên miền núi, đã tranh nhau ghé nhìn qua cửa kính phong cảnh núi non hùng vĩ  của vùng cửa ngõ Tây Bắc, thích thú lắm. Khi đó, một chàng sinh viên lớn tuổi, là bộ đội chuyển ngành, cảm khái khi cất tiếng đọc mấy câu thơ “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm/ Heo hút cồn mây sung ngửi trời/Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống/Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, khiến mọi ngượi lặng đi…Ngày ấy, bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng chưa nhiều người biết, song sức gợi của nó thì cả người không yêu thơ cũng cảm thấy gai người. Đường sá nhỏ hẹp, quanh co,  nhiều đoạn xóc này người, rồi cuối cùng cao nguyên châu Mộc cũng hiện ra trong màn sương chiều se lạnh. Đêm ấy, mọi người được bố trí nghỉ ở nhà khách Nông trường Bộ, sau một buổi tối lang thang ra những nương chè.
Thời gian cả lớp ở lại đây chừng mươi ngày để học nội quy chung, học nốt vài môn học, rồi sau đó chia ra từng nhóm nhỏ, về thực tập tại các đội sản xuất cụ thể. Dạo ấy, Nông trường Mộc Châu được chính phủ Cuba giúp đỡ xây dựng nên khang trang và quy củ lắm. Các đội sản xuất được phân chia theo các loại hình công việc chuyện biệt hoặc kết hợp, chẳng hạn chuyên trồng chè, chuyên trồng cỏ và nuôi bò sữa, hoặc kết hợp cả trồng chè và nuôi bò sữa…
Anh được phân về một đội sản xuất cách xa trung tâm Nông trường Bộ chừng dăm cây số, chuyên về đồng cỏ và bò sữa. Từ trung tâm phải ngược dốc vào sâu tít nơi rải rác có những bản người Mường, người Thái, người Mông Hoa. Đội sản xuất này, có khoảng gần trăm công nhân, phần lớn chưa lập gia đình, ở tập thể tại khu lán trại đơn giản kiểu nhà cấp 4, giường tầng. Để nhường chỗ cho cánh sinh viên thực tập ở, các công nhân phải dồn lại, nhường riêng một khu nhà cho khách.
Ở đội sản xuất này, chỉ có chừng gần chục nam giới, trong đó có vị Đội trưởng. Còn lại là nữ, chủ yếu độ tuổi trên đôi mươi, đều quê ở các tỉnh đồng bằng Bắc bộ như Hà Tây, Hải Hưng, Hà Bắc, Nam Hà, Thái Bình… Tay đội trưởng, tên Thiết, tuổi ngoài ba chục, đã có vợ con, và thật hợp với cái tên của mình, người y còi đen xắt lại, thêm hiếng một mắt, nhìn khá gớm ghiếc. Nghe đám công nhân nữ xì xào với nhau, y rất tinh ranh, ghê gớm và là một sát thủ tình trường. Cánh sinh viên thì bảo nhau, chẳng qua, thời chiến tranh vừa rồi, con trai mạnh khỏe ra trận hết, chỉ còn lại ít đàn ông đui què mẻ sứt ở nhà, nên của hiếm mà thành tinh thôi. Chuyện làng quê thời chiến thiếu đàn ông, không lạ, nhưng không thể sánh với chuyện nông trường thiếu đàn ông. Cái tỷ lệ, một đàn ông với mười đàn bà đang độ tuổi thanh xuân bị dồn vào một chỗ thì mới ghê gớm làm sao. Đàn bà sung sức, lại thừa mứa như thế, bị dồn nén nơi xó rừng, dễ làm họ rực lên…
Mang tiếng nhiều phụ nữ như thế, nhưng ở đội sản xuất này anh cũng chỉ để ý và nhớ tên được mấy người mà thôi. Và đương nhiên, phụ nữ để nam giới thuộc mặt nhớ tên giữa đám đông ắt phải có gì đặc biệt, xinh hoặc xấu, hoặc tính tình có gì đó khác lạ. Người đầu tiên, để anh lưu tâm, ấy là Duyên, một kỹ thuật viên, cỡ tuổi anh, quê dưới xuôi, vóc dáng tầm thước, da nâu, gương mặt không hẳn xinh nhưng ưa nhìn và khá lạnh. Người thứ hai, là Hương, vóc dáng nhỏ nhắn, gương mặt khá xinh, hay cười nói, nhí nhảnh kiểu trẻ mới lớn. Người thứ ba, ấy là Lan, tạng người có da có thịt, gương mặt tròn trịa, hàm răng trắng đều, tính tình xởi lởi, dễ chịu. Và cuối cùng là Tẻo, tên xấu, người thấp lùn, gương mặt có gì đó dị dạng, lại mắc chứng điên tình. Ngày làm việc, rồi các bữa cơm tập thể, anh hay gặp họ, nhưng thi thoảng hỏi chơi mấy câu tầm phào, theo kiểu mà người ta hay nói cửa miệng là ”trai sinh viên, gái nông trường”, tán tỉnh chút cho vui . Với Duyên, cô gái này luôn giữ ý đúng mực giữa đám đông, không chủ động chuyện bao giờ, chỉ trả lời khi bị hỏi, và luôn có ý phòng thủ. Cánh nam sinh viên bảo nhau “con bé này kiêu lắm”, nhưng nghe đâu, cô đã từng yêu sâu nặng và rồi thất tình với một chàng sinh viên Hà Nội hào hoa nào đó, dạng về đây thực tập từ vài năm trước đó, nên tính tình sinh ra vậy.
Với Hương, anh đã vài lần nói chuyện, thậm chí, đã có lần, anh cùng cô bé này ra đồng cỏ chăn bò. Buổi sáng, lùa bò ra đồng cỏ, thả rông để chúng gặm cỏ và vận động cho thoải mái. Nhũng con bò sữa lang trắng đen, giống của nước ngoài, điểm xuyết trên nền cỏ xanh, giữa quang cảnh núi non, trông thật thơ mộng. Hương thả bò rồi tìm một gốc cây có bóng mát ngồi, canh chừng. Có anh bên cạnh, cô hát véo von, hết bài này sang bài khác. Anh cũng dở bài tán, đọc lên mấy câu thơ tình của mình, khiến cô bé thich lắm. Cô khen thơ hay rồi bắt đọc thơ nữa, nhưng anh thì lại chán. Anh vờ chiều nhưng cũng không thích cái tính trẻ con của cô bé. Tuổi đôi mươi, học hết cấp hai rồi lên đây, tính trẻ con là phải thôi. Riêng cô bé này có biệt tài, dăm chục con bò cô chăn thả, cô thuộc dáng hình của từng con, đến mức ở rất xa, hễ chỉ đến con nào, cô cũng đoán trúng phóc tên số của con ấy. Anh đã thử tài cô mầy bận và cô chưa bao giờ sai.
Còn với Lan, anh chuyện trò nhiều hơn cả, bởi tính cô xởi lởi, tự nhiên, không né tránh kiểu Duyên và cũng không làm ra vẻ trẻ trung hồn nhiên như Hương. Lan quê Thái Bình, kém anh  vài tuổi và đã có thâm niên tại nông trường dăm năm rồi. Một sáng chủ nhật, khi anh vẩn vơ bên đường, có ý quan sát quang cảnh, thì bắt gặp Lan. Cô rủ anh cùng đi hái nấm với cô, anh vui lắm. Lan bảo, mùa hè, sau những ngày có mưa, nấm sẽ mọc nhiều. Điều này thì anh hiểu, vì hồi còn ở quê, những ngày mưa nhiều, khi đi thả trâu cùng đám trẻ làng, anh cũng đã từng lấy được nhiều nấm, loại nấm cỏ, từng cái to nhỏ như trứng gà, như củ khoai tây nảy nhan nhản ở sườn bờ mương. Hái về, thái thành lát xào lên, hoặc xắt đôi kho kỹ với tương, ăn rất ngon. Anh và Lan tha thẩn trên đồng cỏ, vừa dõi mắt trên mặt đồng cỏ tìm nấm, vừa hỏi chuyện nhau. Cô kể, hồi ở quê, thỉnh thoảng được đi xem chiếu phim, thấy cảnh nông trường ở Liên Xô, có những cánh đồng lúa mì bát ngát, những đàn bò sữa cao lớn gặm cỏ nhởn nhơ trên thảm cỏ xanh bao la, thì cô thích lắm, ước ao một ngày kia thoát ly khỏi làng que nghèo, trở thành công nhân nông trường. Vậy khi có người làng sống ở trên này, về thăm quê, bảo ở đây đang tuyển công nhân nông trường, giống như cảnh phim cô đã xem thì cô háo hức muốn đi ngay. Và cô đã trở thành công nhân nông trường Châu Mộc. Tuy không đẹp mơ mộng như phim ảnh thì công việc cô đang làm cũng tạm ổn. Chỉ mỗi tội, ở đây ít nam giới, mà chị em thì quá đông. Lan bảo, ông giám đốc nông trường thương các cô lắm. Có lần ông nói vui rằng, nếu pháp luật cho phép đàn ông được lấy nhiều vợ, thì ông sẽ lấy mười vợ để giúp một số cô có gia đình. Lại có lần, ông giám đốc bảo, cứ tình cảnh này thì các nữ công nhân bỏ nông trường về quê lấy chồng hết, rồi ông lại ước ao, ở gần đây, có vài đơn vị bộ đội thì tốt quá. Ông giám đốc, còn kêu gọi các chàng sinh viên hãy lưu tâm giúp ông điều đó, tuy nhiên, không phải là cái cách, mỗi đợt sinh viên về thực tập, kết thúc mỗi đợt, để lại vài ba cô công nhân bụng mang dạ chửa và sau đó là những đứa trẻ không cha…mà phải thực sự gắn bó với nông trường, lấy vợ và ở lại đây.  Đấy là những gì Lan nói cùng anh khi hai người đi hái nấm với nhau. Chốc lát, chiếc làn cô mang theo đã đầy ắp những trái nấm trắng ngà nhìn thật ngon mắt. Trời đang nắng đẹp chợt mây đen kéo lên rất nhanh, và cơn mưa bóng mây đổ xuống, hai người vừa chạy vừa cười đùa, khi trú được vào một lán trại thì quần áo cả hai gần như ướt hết. Lan tỏ ra ái ngại khi quần áo ướt bết vào thân hình cô. Biết cô ngượng, anh vờ nhìn lảng ra đồng cỏ, song thế cũng đủ để cảm nhận được sự hấp dẫn toát ra từ dáng vè thanh xuân đầy sức sống nơi cô. Cầu vồng bảy sắc bừng giăng chân dãy núi xa xa, anh nhìn trộm Lan và vờ nhìn cầu vồng than:’Tưởng mưa bóng mây thì nhanh, nhưng không ngờ lâu tạnh thế nhỉ?”. Cô chỉ ầm ờ, lén gỡ từng mảng quần áo ướt bết vào người, mặt đỏ bừng…
#
Và một lần, nhóm sinh viên của anh trực kỹ thuật đêm. Đêm ấy, Lan là công nhân trực kỹ thuật chính. Chập tối, Lan thông báo, rất có thể đêm nay, sẽ có bò đẻ, bởi theo bảng theo dõi kỹ thuật và thăm khám thực tế, khả năng sẽ có vài con bò mẹ sinh nở nay mai. Thế nhưng, anh bạn cùng ca trực với an bảo là thấy người ơn ớn như sốt, xin về trước vì ngại sương đêm sẽ ốm. Vậy là, chi còn lại có anh và Lan, nên anh có chút gì đó hồi hộp... 
Lan luôn chân luôn tay, nhóm bếp củi rồi bắc lên một nồi nước to, nói là để có nước sôi sát trùng dụng cụ, chuẩn bị cho bò đẻ. Anh ngồi canh chừng bếp lửa, thêm củi, gạt tàn. Đêm mùa hè mà sương dày đặc. Anh hỏi bâng quơ:
- Này em, mùa hè ở đây lạnh vậy sao?
- Khí hậu cao nguyên mà anh… Thế mới nuôi được bò sữa chứ, anh  - cô cười – Ôi, em quên mất, anh là kỹ sư đến nơi rồi mà em lại đi giải thích cho anh. Em xin lỗi nhé.
Cô cất miệng hát một đoạn chèo, hình như điệu Đường trường thu không thì phải, nghe man mát buồn...
Thấy anh vẫn ngồi im lặng, Lan gợi chuyện:
- Em hỏi đùa nhé,... anh tên Mạnh, nhưng sao cứ nhan nhát làm sao ấy... Dáng dấp thì  thư sinh ... cứ như là... con gái ấy – Cô lại cười – Hay là, anh ...
Lan bỏ lửng, lại hát tiếp câu chèo đang bỏ lửng.
- Thì bố mẹ mình để mãi toàn con gái, út ít đến mình là trai, nên đặt tên vậy cho vẻ khí thế... Cha mẹ sinh con, trời sinh tính mà...Anh cũng đang cố làm cho mạnh mẽ đây – Anh chống chế, đùa lại.
- Thì cứ như em đây, tên khai sinh trong giấy tờ là Lang, khoai lang ấy. Chả là mẹ em đẻ rơi em ở ruộng khoai lang, nhà đông con nên đặt tên là Lang cho dễ nuôi, mà anh. Tên làm sao, người bao hao làm vậy, thế nên người em giờ cứ nuột nà nhẵn nhụn như củ khoai lang đấy thây – Cô cười to khiến anh cảm thấy thoải mái, dễ chuyện hơn – Bọn con gái ở đây trêu em, bảo là, ai lại tên Lang, khoai lang cơ chứ, quê mùa chết ấy. Thế rồi, chúng nó cắt của em cái chữ “g” thành ra Lan. Gọi thế hay anh nhỉ? Mà anh có thấy, ở đây, hoa phong lan rừng đẹp tuyệt vời không?... Giờ thì mọi người ở đây toàn gọi em là Lan thôi...- Cô dừng chuyện, giọng buồn buồn -  Này anh, nghe nói hôm trước, cái con bé Tẻo nó xông vào chỗ các anh quấy quả đấy à?
- Ừ, … nhưng mà…nghe nói cô ấy bị căn bệnh oái oăm gì thì phải?
- Vâng anh, chẳng rõ, nhưng người ta bảo nó điên tình... là cái bệnh phát do thiếu đàn ông ấy. Nó phát bệnh như vậy mấy lần rồi… Rõ khổ cái Tẻo, người gợm như vậy, đàn ông nào nó màng. Đến như chúng em đây, nghĩ chẳng đến nỗi nào mà cũng chẳng có ma nào thèm ngó nữa là... Lâu lâu, rồi bọn em cũng đến phát bệnh như nó mất...
Lan như xịu xuống. Quả là, vài hôm trước, tối muộn, khi cánh con trai tán gẫu chán chê, đang định đi ngủ, thì của nhà bật mở tung. Tẻo xông vào, miệng huyên thuyên không rõ, choàng ôm chặt một cậu giường gần ngay cửa vào. Cậu ta sợ quá, vùng người gỡ tay Tẻo ra nhưng cô này ôm chặt quá, miệng cô lại sùi bọt như người lên cơn động kinh. Mấy cậu khác sợ quá, ré lên, quáng quàng nhảy bắn ra khỏi nhà. Một cậu liều xông vào gỡ giúp cậu kia, gỡ được rồi cùng bỏ chạy hết ra ngoài. Tẻo gầm gừ, chừng mắt đuổi theo, cho đến khi mấy cô công nhân chạy đến, ôm ghì và lôi Tẻo về khu nhà nữ công nhân. Anh cũng hoảng, lần đầu tiên biết thế nào là điên tình.
-Giá cứ sống ở quê, tuổi này như em chắc con bồng con bế cả rồi. Nghe nói ở quê, chiến tranh hết, mấy năm nay, bộ đội phục viên, xuất ngũ về đông lắm. Dẫu chẳng được người lành lặn, thì thương binh, cụt chân cụt tay cung chả sao, miễn là còn cái ấy... Lan nhìn anh cười - Biết đâu lại vớ được chàng trung úy cũng nên,- và cô cất tiếng hát đùa “ tình tang tình, em đi rình trung úy…”
Cô cười to khiến anh bật cười theo, thú vị :
- Người như em, kiểu gì mà chẳng lấy được chàng trung úy, mà thiếu tá cho oách, em ơi... Nhưng mà thôi, chẳng lẽ. giờ bỏ về? Chịu khó ở đây săn một chàng kỹ sư nào đó, em ạ.
- Vậy à? Em chẳng tin – Cứ  hết đợt sinh viên này về, rồi đi... rồi lại đợt khác, mà có đứa nào bắt chết được ai đâu... Giọng cô buồn hẳn – Đấy, cứ như cái Duyên, anh biết rồi đấy, xinh và duyên thế, năm trước có một chàng kháu đáo để, ngỏ lời yêu nó. Những tưởng mặn nồng, cưới nhau đến nơi rồi, mà nó cũng được chàng đưa về tận thủ đô thăm nhà, giới thiệu với cha mẹ... Nhưng rồi, nàng trở lên, ỉu xìu, thất tình, nghe nói chàng vẫn thiết tha lắm, song cha mẹ thì đâu có chấp nhận cô con dâu là công nhân chăn bò nơi xó xỉnh rừng xanh núi đỏ, cơ chứ?...
Lan bỏ lơi câu chuyện, nhưng thấy anh lặng lẽ cời củi bếp, lại tiếp:
- May mà, còn chưa kịp vác cái trống ỏng, kẻo ê mặt mà lại nuôi con một mình – Lan chép miệng – Cũng chẳng biết thế là may hay không... Có khi, có thai, kiếm được đứa con, nếp tẻ gì cũng được, phòng thân, ngộ nhỡ sau này “chống ề” thì cũng có đứa con nương tựa tuổi già...
Quả là, chuyện này, anh không dễ nói, vì chính anh nay cũng đã thành người của câu chuyện đó rồi. Biết nói gì, thanh minh cho người ta à? Còn anh thì sao, nếu ở vào hoàn cảnh như chàng sinh viên nọ?
- Anh biết không, có mấy chị lơn lớn tuổi ở đội này, cũng đang nuôi con một mình đấy. Anh để ý, có vai ba ngôi nhà tranh bên rìa đường đi vào bản người Mông, là nhà của các chị ấy đấy. Nhỡ có con rồi , sinh hoạt tập thể cũng khó, nên Nông trường cám cảnh, cho mượn đất làm nhà tạm để ở... - Lan tiếp câu chuyện.
- Thế có biết cha mấy đứa trẻ là ai không? Họ có biết và quan tâm đến chuyện này không? Anh thăm dò.
- Em cũng chẳng rõ nữa ...- Cô xa xôi, rồi giọng tự nhiên đanh lại – Thà có con rơi với các chàng sinh viên, còn đáng hơn có con với con khỉ đột gớm giếc ở đây...
- Là em... muốn nói tới tay Thiết, đội trưởng phải không? Anh dò đoán vì ít nhiều nghe mọi người rì rầm về con người này.
- Đồ khỉ đột. Gớm giếc lắm... – Cô như nghẹn giọng - Hắn chăn bọn con gái, nhất là đứa nào người gợm mặt mũi sáng sủa chút,… hắn giống như chuyện con dê đực, sáng ra đứng cửa chuồng canh từng con cái một để làm cái chuyện súc vật ấy..
- Đến vậy sao? Anh ái ngại, so người, bất lực. Chẳng hiểu Lan có nhìn thấy bộ dạng và cử chỉ của anh không?
- May mà, năm nào cũng có những đợt sinh viên về đây thực tập. Có các đoàn khách, lão ta đành bớt đi, giả bộ xởi lởi, là sợ mang tiếng này nọ đấy thôi. Còn không, chỉ có người ở đây với nhau, lão ấy dữ lắm, như quỷ ám ấy, anh ạ. Các anh về đây bao lâu, bọn em được dễ thở và thoải mái bấy nhiêu... Ngay như tối nay, vì lão ấy nghĩ em trực cùng một nhóm vài ba người, chứ mà biết chỉ còn em và anh thôi thì thế nào lão ấy cũng mò ra... Mà cũng chả biết đâu, lão ấy lại lù lù xuất hiện ngay bây giờ, cứ như ma xó ấy - Cô nói giọng ớn lạnh, anh nghe cũng gai người.
- Chắc là... lão ấy thích em?... – Anh nói nhỏ và có gì đó như ghen tuông - Đúng thế chứ ?...
- Cũng chẳng rõ ... Em ghê sợ lão ta – Em chẳng được cứng cõi như cái Duyên, nó đã thẳng thừng cự tuyệt lão ấy. Lão ấy thích nó lắm. Không xơ múi gì, nên lão ấy căm nó, anh ạ. Em thì ... em, cứ sờ sợ là...
- Sợ gì lão ấy, còn có ... mọi người - Anh xuýt buộc miệng- còn có anh,- thì kịp ngưng, đổi cách nói.
Thực tình, anh làm gì có sức, có quyền, có điều kiện và kể cả sự can đảm kiểu “người hùng cứu mỹ nhân” cơ chứ?!... Vả lại, anh có định ăn đời ở kiếp đây đâu, chẳng qua, vài tháng thực tập rồi về. Hoặc giả, có anh hùng anh trưởng, ra mặt bệnh vực cô thì chỉ tội mua thù chuốc oán cho cô mà thôi. Nghĩ vậy, máu yêng hùng trong anh dịu lại. Lan chuẩn bị xong công việc, cô lấy đâu ra mấy bắp ngô, củ sắn, ra bếp lửa ngồi bên anh, lặng lẽ cho ngô và sắp vào bếp than hồng nướng.
- Thức đêm là hay đói lắm anh à. Anh em mình chịu khó nướng, lát nữa ăn – À, nếu có bò đẻ, mai kia em sẽ chiêu đãi anh món sữa đầu. Ngon lắm anh ạ. Anh đã ăn sữa đầu bao giờ chưa? – Rồi không đợi anh trả lời –cô liến thoắng – Sữa đầu không lấy làm thương phẩm được vì nó quá nhiều chất béo, dễ sinh men làm hỏng sữa, nên mọi người được lấy ăn thoải mái. Chỉ cần nấu chừng khoảng bảy, tám mươi độ là nó đóng bánh đặc sệt lại, bổ và ngon tuyệt.
Anh và cô, lặng lẽ nướng ngô sắn. Anh liếc trộm, má cô đỏ hồng lên, gương mặt tròn xinh có phần quyến rũ, mắt to đen nhìn vào ngọn lửa đầy xa xôi. Lòng anh dâng lên một mối thương cảm. Bản thân, anh đã trải qua mối tình đầu, từng thất tình và thất vọng, anh hiểu được sự trống vắng, cô lẻ. Cứ mãi nơi này, tìm đâu ra một bóng đàn ông cho ra hồn? Rồi anh lại tự hỏi mình, với Lan, tình cảm của anh ra sao? Anh có thích cô không? Rõ ràng là có. Nhưng anh cũng thích và còn để ý đến Duyên, đến Hương. Vậy tức là anh chơi trò phiêu lưu theo kiểu tìm cảm hứng tình cảm thoáng qua rồi. Thực lòng, anh có bị cuốn hút bởi vẻ đẹp lành  lạnh, xa cách và bí ẩn của Duyên, song anh cũng thích sự thân thiện, xởi lởi, chân thành và sự khỏe mạnh đầy nữ tính của Lan. Còn về tương quan, rõ ràng, anh và Lan hay chuyện trò và gấn gũi, thân tình với nhau hơn. Giờ đây, anh được ngồi sát bên cô, cảm nhận được sức hút, mùi vị đàn bà từ nơi cô, trong một phong cảnh nên thơ huyền bí như ảo, đồng cỏ mênh mông chìm trong sương đêm, se lạnh, trăng muộn cuối tháng mờ tỏ đầu núi, bếp lửa bập bùng... Cảm nhận sự gần gụi, anh lại nghĩ xa... Lúc mới lên đây, còn ở nhà khách Nông trường Bộ, anh đã từng bắt quen với một dược sĩ nghiên cứu sinh điển trai  lịch thiệp đang là nghiên cứu sinh về cây dược liệu cho đề tài Phó tiến sĩ của anh ta; rồi anh cũng đã xem đoàn làm phim lên đây quay nhiều cảnh cho bộ phim truyện về đề tài vận động người Mông vào nông trường, với cô diễn viên xinh đẹp thủ vai chính; rồi chính anh, bắt gặp chàng dược sĩ và nàng diễn viên xinh đẹp sóng đôi tình tứ đi chơi đêm hút bóng vào đồng cỏ; lại cũng anh, chứng kiến cảnh một anh chàng cao to đẹp giai râu quai nón như tài tử xi-nê nước ngoài, từ Hà Nội lên, chẳng rõ là chồng hay người yêu của nữ diễn viên nọ, cãi cự nhau, động thủ kiểu ghen tuông... Tình yêu và tình dục, là vậy ư?... Giờ đây, anh và cô, như hút vào nhau. Ban nãy, cô đã đùa trêu anh, tên là Mạnh nhưng lại đầy thư sình và nhát quá đấy thôi... Cô cũng nói chuyện, nhiều chàng sinh viên về đây, khi về xuôi đã để lại giọt máu rơi của mình,... rồi cả chuyện, các nữ công nhân chủ động kiếm đứa con phòng nương tựa sau này... lại cả chuyện tay Thiết quỷ ám, luôn rình rập, gạ gẫm các nữ công nhân, trong đó có cả cô... Hẳn là, cô có ý bóng gió, xa xôi? Chắc là, cô đang muốn điều gì đó ở anh?
Lan lấy ra ngô và sắn  đã chín – Anh ăn đi, nóng mới ngon – Giục anh ăn, cô thừ người, rồi như nén tiếng thở dài, cất giọng hát một đoạn chèo điệu sử rầu buồn thảm, trong vở Quan âm Thị Kính, khi Thị Kính phải đi xin ăn để nuôi con của Thị Màu… Anh ăn ngô nướng, nghe mà lòng nghẹn thắt, khó nuốt... Có gì như trách cứ, ai oán... Cô trách anh sao?  Trong khi anh lại ý thức trách nhiệm, vì nhà trường đã phổ biến nội quy thực tập, đặc biệt lưu ý, các sinh viên nam phải giữ mối quan hệ nghiêm túc, đúng mực với các nữ công nhân nông trường, tránh việc quan hệ nam nữ bừa bãi ngoài hôn nhân, và nếu ai vi phạm, tuy mức độ mà xử phạt, có thể không cho thi tốt nghiệp, hoặc đuổi học. Nghĩ mà kinh.
Cô bỏ lửng câu hát, nín thinh, rồi nghe như có tiếng nức nở. Anh se sắt thương cảm, lại có gì đó bừng dậy sức nóng đàn ông...
- Thương Thị Kính, anh nhỉ ... nhưng Thị Màu còn tội nghiệp, đáng thương hơn, ... nàng ta có lỗi gì đâu... anh nhỉ?...- cô cảm động.
Anh bừng tỉnh, choàng tay qua người cô, kéo riết về phía mình– Không sao mà – Anh chỉ nói được có thế - Cô ngả hẳn đầu vào bờ vai anh. Anh vuốt tóc, chạm vào má cô, cảm nhận được những giọt nước mắt. Bàn tay cô dẫn dắt bàn tay anh tìm kiếm... Anh mụ mị đi và hai người xoay lại ập vào nhau, nụ hôn dính chặt, những cánh tay xoắn xuýt, cái ghì xiết lại...
- Ôi thôi chết,... – Cô bừng tỉnh, gỡ môi khỏi cái hôn nghẹt thở, ngơ ngác, thất thần... – Anh ơi, con bò sắp sinh rồi !...
Cô vùng khỏi vòng tay ôm của anh, cuống quýt, chân tay luýnh quýnh như thừa, không biết phải làm gì. Anh choáng váng, vẫn u minh chưa hiểu ra sao. Cô giục anh:
- Anh vào đây, giúp em với, bò mẹ đang sinh. Em vừa thoáng nghe tiếng bò mẹ, em biết...
Cô chạy vội vào chuồng ngay cạnh đấy, nơi nhốt con bò mẹ đang sinh, khi anh vào đến nơi, thấy cô đang loay hoay, đỡ phần đầu và hai chân trước con bê đã thòi ra giữa hai chân sau con bò mẹ. Chấn tĩnh, cô tỏ ra thành thạo với công việc, anh thì loanh quanh vòng ngoài, chờ cô sai bảo việc gì thì làm theo việc nấy. Tự thân, thấy ngường ngượng, nghĩ mình sắp thành kỹ sư rồi, ngoài mớ lý thuyết suông ra, thực tế công việc thì phụ giúp cho cô không xong. Ca sinh suôn sẻ, chú bê ra ngoài, lóng ngóng một chút cũng đứng lên được khi cô nâng đỡ. Bò mẹ liếm láp cho con vẻ an lành, trìu mến, và bê con đã biết rụi đầu vào bụng, tìm vú mẹ.  Cô dọn dẹp cho sạch sẽ. Anh quay lại bếp lửa thì khẽ giật mình khi thấy tay Thiết đội trưởng đã lù lù ngồi đấy rồi. Anh khẽ chào. Hắn nhìn anh bằng con mắt rưỡi, đầy vẻ dò la, nghi ngờ, mặt lạnh như tiền bảo:
- Tôi đến đây từ nãy, không đánh tiếng, thử xem anh chị làm ăn thế nào. Ca đẻ suôn sẻ nhỉ. Được đấy, cô Lang ơi...
Hắn nói to, gọi cô bằng tên tục. Lúc ấy, cô mới biết sự có mặt của hắn, và vâng dạ cho qua chuyện. Hắn nhìn anh chằm chằm, ỡm ờ:
- Này cậu, ca trực của sinh viên các cậu tối nay, tưởng có mấy người cơ mà, sao lại chỉ mỗi mình cậu vậy?
Anh giải thích sơ qua lý do sao lại có mình anh trực, hắn ngúc ngắc cái đầu nhỏ như chim sẻ, nhìn cô, dò trống không:
- Chắc không có chuyện gì chứ ? Cô, cậu?
- Chuyện gì là chuyện gì ạ? Em không hiểu – cô bình thản, và hình như cô cố giấu đi cái cười mỉa.
Anh không sợ gì hắn, nhưng trong lòng cũng sinh ái ngại. Hồi nãy, nếu bò mẹ không sinh con đúng lúc ấy, thì không biết, trong vòng ôm của nhau, anh và cô sẽ ra sao ? Rồi hắn xuất hiện, bắt quả tang hai người... và làm toáng lên... rồi nữa, chuyện này sẽ đi đến đâu?... Anh nhìn cô, nhìn hắn, cố làm như vô sự. Hắn bảo:
- Thôi khuya rồi, công việc cũng xong rồi... Cậu về đi, không phải trực nữa. Tôi đợi cô Lang dọn dẹp xong rồi về sau – Hắn đuổi khéo anh.
Điều anh lo ngại, là anh về rồi, chỉ còn hắn với cô, hắn sẽ làm gì cô? Cưỡng bức chăng, khi rõ ràng hẳn tỏ ra ghen tức với anh, và thái độ của hắn có gì đó đầy mưu mô, thủ đoạn? Anh nhìn cô dò hỏi. Cô vẫn bình thản, lấy mảnh giấy báo, gói mấy bắp ngô và củ sắn đã chín, đưa cho anh, nhìn thẳng vào mắt anh cái nhìn như ra hiệu rằng hãy yên tâm:
- Xong cả rồi, anh Mạnh về đi, anh cầm cả gói ngô sắn nướng này về cho mấy anh chị sinh viên cùng ăn. Em cũng xong ca trực rồi, về luôn đây. Anh yên tâm, em không sợ ma đâu... – Cô bật cười – mà có anh Thiết đây,…ma nó cũng sợ mất vía. Anh Thiết nhỉ?
- Vâng... hắn xẵng giọng – Các cô ở đây, tôi thấy, có cô nào sợ ma đâu,... Còn cô, ma nó sợ cô thì có...
Anh ôm bọc ngô sắn trong tay, bước thấp bước cao. Quãng đường từ trại trực về chỗ anh ở chỉ già trăm mét mà anh đi mãi, bởi chốc chốc, lại ngoái đầu nhìn về hướng trại, nghe ngóng, xem có động tĩnh gì không. Về đến khu nhà ở, anh nép vào đầu hồi ngầm quan sát, cho đến khi nhác thấy bóng hai người đi về gần đấy, và anh nghe tiếng cô nói chuyện khá to, cứ như là thầm báo với anh, rằng cô không sao, chằng có chuyện gì xảy ra…
Đêm ấy, anh mất ngủ, đầu óc cứ ong ong những gì vừa xảy ra ... Anh thiếp đi và bừng tỉnh dậy, lắng nghe, trời còn tinh mơ. Anh nhẹ ra khỏi giường khi mọi người vẫn còn ngủ. Mở cửa nhìn ra, trời đất thảo nguyên ban mai thật tinh nguyên...
 
 
 
            Cũng như đêm năm nào, anh khó ngủ, cứ miên man trôi dạt trong dòng ký ức. Đêm năm nao mất ngủ, khi ấy, anh chộn rộn bởi sự bột phát tình cảm và lo lắng cho cô bị tay đội trưởng ma quỷ xâm hại. Giờ đây, là sự thức dậy của tiềm thức và sự chiêm nghiệm cuộc đời. Anh đã trải qua những mối tình, được mất, cuộc sống cũng thành bại, đây đó. Cao nguyên châu Mộc không còn sự tinh khiết, trinh nguyên và hoang sơ của ngày xưa, mang vẻ đẹp mộc mạc của cô gái quê pha chút rung núi, còn bây giờ có vẻ đẹp của sự kiến tạo, kiểu vẻ đẹp của thiếu phụ biết son phấn ăn diện và làm dáng. Non sông thay đổi là thường tình, nhưng lòng anh thì đã đằm một châu Mộc xưa cũ rồi.
          Mươi năm gần đây, do tính chất công việc, năm nào anh cũng ngang qua vùng đất thảo nguyên này vài ba lần. Cũng có đêm ngủ lại, cùng đó là các cuộc rượu say nghiêng ngả. Nhớ có lần, trong một tiệc vui, anh có khoe, mình đã từng thực tập ở đây, rằng này nọ. .. Chuyện sinh ra chuyện, có một cậu thanh niên điển trao nhận vui, bảo:” Này bố…có khi bố là bố đẻ của con đấy… Ngày xưa, bố thực tập ở đội ấy chứ gì, mẹ con cũng là công nhân ở đội ấy đấy… Tính thời gian bố ở đấy, so với tuổi con hiện nay, rất có thể, con là con rơi của bố, bố ơi !...”. Rồi cứ một lần gọi “Bố”, cu cậu lại chuốc anh một chén rượu. Hăng lên, anh cũng gọi cậu ta là “con”, rồi cả tiệc cụng ly, reo hò rôm rả, bảo chúc mừng cho bố con nhận nhau. Lúc say, cu cậu rụi đầu vào vai anh lè nhè: “Bố ơi, bố còn miếng đất nào ở Hà Nội không? Bố cho con nhé… Con sẽ đưa mẹ con về dưới ấy… sống cả đời trên này,…chán lắm rồi, bố ạ… Cho bõ cái công, bố bỏ rơi hai mẹ con ngần ấy năm trời…”. Anh say, cứ ầm à cho qua chuyện. Cu cậu nhè nhè: “Hay là…Bố sợ con đòi đất à?... Thôi, đất cát, chuyện ấy tính sau… Hôm nay, nhân bố con mình gặp nhau,… bố là bố cứ kỷ niệm thằng con giai bố quả máy ảnh G11 này,..”. Miệng nói, tay cu cậu giằng giằng chiếc máy ảnh đeo lủng lẳng trước ngực anh. Chuyện vui là vậy, nhưng anh cũng đã ngầm hỏi đây đó, xem còn dấu tích gì của Lan không. Nghe đâu, cô lấy chồng vài năm sau đó, giờ nhà cửa con cái ở đấy, cũng gần nơi đội sản xuất cũ. Giờ đây, nông trường sản xuất tập trung xưa cũ không còn, thay vào đó là công ty cổ phần, đât đai, nương chè, đồng cỏ, bò sữa đều giao khoán hộ. Chuyện về cô nghe vậy, song chẳng rõ thực hư, nhưng thời gian quá lâu, nên giờ đây nghĩ lại, chỉ chút xao lòng, nhẹ như một tiếng thở dài…
          Khó ngủ lại hay dậy sớm. Sáng ra, anh tỉnh ngủ, kéo của kính phòng nơi tầng cao khách sạn, nhìn ra xa. Vẫn còn đó những cánh đồng chè, nhưng nhà cửa đã san sát. Cứ tốc độ này, nếu không gìn giữ, thì chẳng mấy Châu Mộc sẽ mất đi thứ quý nhất, ấy là khí hậu cao nguyên đặc trưng, sương mù và se lạnh ngay giữa mù hè. Anh nhìn quanh quất, thử tìm hướng đi vào đội sản xuất năm xưa anh thực tập. Anh mất phương hướng bởi giờ đây chẳng còn gì dấu vết xưa. Cảnh thay thì người cũng đổi là thế.
          Sau bữa ăn sáng, anh cán bộ địa chính đến khách sạn, đón đoàn của anh đi thăm khu di tích Trung đoàn Tây Tiến mới được xây dựng vài năm nay. Rồi nữa, ghé thăm thác Giải yếm, một thác nước rất đẹp đang được khai thác thành khu vui chơi giải trí. Gần trưa, cậu cán bộ địa chính mới đưa Quân đi tìm đất mua làm trang trại. Loanh quanh vài ba chỗ, Quân xem có vể không thích. Định thôi thì chợt anh cán bộ địa chính nhớ ra, dẫn mọi người loanh quanh một hồi nữa, đến một khu vườn trại, phía trước là tường cao, có cồng ra vào chắc chắn. Người chủ bán đất vưa kịp phóng xe máy đến, dẫn Quân và cậu địa chính vào xem đất vườn. Nắng lên, mệt vì đêm qua mất ngủ, anh ngồi lại trong xe, lim dim ngủ. Chợt anh nghe tiếng người nói to, choàng tỉnh. Nhìn ra, trước cổng vườn, Quân và anh địa chính đang nói chuyện với nữ chủ vườn. Nhìn kỹ, anh ngây người bởi cô chủ giống Lan quá. Lúc nãy, cô mặc áo chống nắng, kính râm và mũ bảo hiểm che kín nên anh không tường mặt. Có lẽ nào là Lan, cô công nhân anh quen biết ngày nào? Người thì giống, tính độ già đi sau từng ấy năm cũng tương đồng. Duy chỉ có tên thì không đúng. Anh nghe rõ cậu địa chính gọi chủ vườn là Linh. Còn cô, tên Lan, và gọi theo tên tục là Lang, đâu phải là Linh. Không phải chăng? Hay cô lại đổi tên? Hoặc giả, vì lý do nào khác nữa?
          Anh chộn rộn, khó tả. Chưa định thần, thì mọi người chào chia tay nhau và cô chủ đóng cổng khuất vào bên trong. Trở lại xe, Quân khen đất được, nhưng mua hết thì nhiều tiền quá. Quân phân vân, bảo sẽ rủ người chung vốn mua cả khu vườn trại, rồi vui miệng rủ anh. Hay là, anh nảy ý định, nếu Quân quyết, anh sẽ chung mua. Biết đâu, gặp lại, đúng là cô ấy?...
          Ngày ấy, anh không quên Lan. Sau đêm đó, chừng hơn nửa tháng, nhóm của anh rút về Nông trường Bộ, thị trấn Nông trường ngày nay. Có lần, trước khi về xuôi, anh và mấy đứa bạn thân rủ nhau đi thăm bản người Mông. Bọn anh đi nhờ được xe tải của quân đội. ngang qua đó, song lúc về, phải đi bộ, anh nán lại, tranh thủ ghé vào thăm. Chỉ gặp Duyên và Hương, còn Lan lại ra chơi thị trấn thăm nhà người quen từ sang, chưa về. Không gặp lại cô, anh buồn, không hẳn vì nhớ nhung tức thì, song ít nhiều, anh và cô có điều riêng với nhau để mà nhớ mãi về sau…
          Kết thúc đợt thực tập, anh cũng không gặp lại Lan. Thực lòng, anh e ngại và chưa đủ sức mạnh tình cảm để một mình trở lại đó, chia tay riêng với cô. Khi về trường, anh có viết vài bức thư gửi lên, trong đó có thư cho Lan. Và cũng chỉ riêng cô hồi đáp thư  anh. Thư ngắn gọn, nét chữ to tròn, ngồ ngộ. Nội dung, tình cảm chung chung và có gì đó xã giao, anh cố tìm nhưng không thấy chút gì riêng tư ở đó. Và câu chuyện chấm dứt, khi anh gửi cô thư nữa, nhưng không có hồi đáp. Cũng có thể, anh tốt nghiệp ra trường, nên thư cô gửi lại thất lạc chăng? Và rồi, trước khi nhận quyết định vào Nam công tác, anh gặp lại người bạn học cũ ở Hà Nội, là giáo viên đi nhận công tác ở một trường học gần quê anh. Anh đi xa, để lại sau lưng, một người mẹ già, và một mối tình với người bạn giáo viên ấy…
          Rồi anh cũng thất bại trong chuyến đi xa và mối tình để lại. Lại những cuộc kiếm tìm mới, anh lập gia đình khi đã cứng tuổi. Thi thoảng, anh vẫn nghĩ đến cô, phảng phất như một một lặng buổn xưa cũ…
          Giờ gặp lại nhau ư, rất có thể là vậy? Nhưng chẳng để làm gì, anh còn nhớ đến cô, song chắc gì cô còn nhớ đến anh.
          Hay chăng, cứ để câu chuyện cũ là một ký ức đẹp và buồn!... ./.
 
 
 
 

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Chiều Ghềnh Ráng - 07.01.2019 10:38:23
Ngày xưa, Thụy Khuê có một căn phòng…
 
Căn phòng ấy rộng vừa 9 m2, ở khu tập thể P16 Thụy Khuê, Hà Nội. Nó thuộc quyền quản lý của Bộ Nông nghiệp tồn tại từ hơn ba chục năm trước. Vậy đâu phải là quá vãng “ngày xưa”, nhưng tôi vẫn gọi thế, là bởi, cái quá khứ ấy, đáng xem như chuyện của ngày xưa !...
Căn phòng rộng vừa 9 m2 ấy là nơi ở nhà báo Trịnh Bá Ninh.
Về nhà báo Trịnh Bá Ninh, tôi đã nhiều lần nhắc đến tên anh, trong những câu chuyện của tôi. Thiết tưởng, cũng nên nhắc lại đôi chút, để bạn đọc lưu tâm nhà báo nổi tiếng này. Nguyên là, nhóm ba người, nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhà báo Trịnh Bá Ninh, và tôi, là bạn học thời phổ thông với nhau, lứa học cấp 3 thời cuối cùng của cuộc chiến chống đế quốc Mỹ (1972-1975). Trần Đăng Khoa và Trịnh Bá Ninh cùng học ở Trưởng cấp 3 Nam Sách (Hải Dương), cho đến khi, được tập trung về Trường cấp 3 Hồng Quang, thị xã Hải Dương (cũ) để luyện thi, kỳ thi học sinh giỏi Văn lớp 10 (hệ 10/10) toàn miền Bắc (tháng 4.1975), thì có thêm tôi, và Việt An (Nguyễn Xuân Sinh), cùng một số người khác nữa. Sau này, thân thành nhóm riêng với nhau cho đến giờ, chỉ có 4 người (Trần Đăng Khoa-Trịnh Bá Ninh-Nguyễn Chu Nhạc- NguyễnViệt An).
Trở lại câu chuyện căn phòng 9 m2 ở khu tập thể Bộ Nông nghiệp P16 Thụy Khuê, chỗ chiu ra chiu vào của nhà báo Trịnh Bá Ninh. Số là, sau khi chia tay nhau ở Đội tuyển học sinh giỏi văn lớp 10 của tỉnh Hải Hưng (cũ), Trần Đăng Khoa nhập ngũ ngay, còn lại chúng tôi trở về trưởng mình, ôn thi tốt nghiệp, đúng vào những ngày tháng hào hùng của Chiến dịch Hồ Chí Minh, tổng tiến công giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đại thắng mùa xuân 1975. Tôi và Trịnh Bá Ninh học Đại học Nông nghiệp, Việt An theo học chuyên ngành Điện. Khi tốt nghiệp, tôi nhận quyết định vào tỉnh An Giang công tác, Việt An thì nhập ngũ và được điều vào đơn vị phụ trách điện của sân bay quân sự Tân Sơn Nhất, riêng Trịnh Bá Ninh được tuyển dụng về công tác ở Báo Nông nghiệp (thuộc Bộ Nông nghiệp) và trở thành người làm báo chuyên nghiệp rất sớm. Còn Trần Đăng Khoa thì vẫn mải miết việc quân, chuyển tiếp qua nhiều đơn vị, cả khi theo chân các đơn vị quân đội tham gia chiến dịch biên giới Tây Nam, giải phóng Campuhia khỏi nạn diệt chủng của Khmer Đỏ.
Vậy là, những tháng năm ấy, trụ lại thủ đô và công việc tương đối ổn định là Trịnh Bá Ninh, còn ba chúng tôi đều phiêu dạt phương xa. Và đương nhiên, Trịnh Bá Ninh trở thành một cây cọc đóng trụ, để ba chúng tôi và một số bạn bè khác nữa tìm đến, mỗi khi về Hà Nội.
Để có được căn phòng riêng vừa 9 m2 đó, Trịnh Bá Ninh cũng khá vất vả về chỗ ăn ở. Ngày ấy, khó khăn mọi bề, ăn thiếu, mặc thiếu, nhưng khổ nhất là ở thiếu. Khu tập thể dành cho cán bộ nhân viên các bộ ngành trung ương ở Hà Nội rất ít, nên nhiều người không có nhà riêng, hoặc gia đình ở Hà Nội, thì ở tập trung vài ba người một tại khu tập thể cơ quan. Vẫn không đủ, nhiều người ở luôn phòng làm việc, đêm nằm bàn cơ quan. Trịnh Bá Ninh cũng vậy, anh ở luôn tại Tòa soạn báo ở cơ quan Bộ, số 5 Ngọc Hà. Một thời gian, anh được về tá túc chung trong một căn phòng rộng chừng gần ba chục m2 trên tầng 2 khu P16 Thụy Khuê, với hai nhà báo đàn anh là ông A và anh T. Đang nằm bàn cơ quan, được như vậy, với Trịnh Bá Ninh là hạnh phúc lắm rồi… Ở căn phòng chung rộng rãi, nhưng đâu được thoải mái, vì ở chung mấy người, thêm nữa, ông A rất khó tính, hay càu nhàu và dạy bảo “Các cậu trẻ, phai thế này…thế nọ”… Chỉ vào chủ nhật, ông A về thắm gia đình ở Hưng Yên, còn anh T thì thăm vợ con đâu như Bắc Ninh, thì cánh bạn bè của Trịnh Bá Ninh mới kéo đến đấy bày vẽ nấu nướng, ăn uống, nhưng chiều là phải dọn dẹp sạch sẽ tinh tươm. Cứ thế một thời gian, Trịnh Bá Ninh chuẩn bị cưới vợ, là cô M, một nhân viên hành chính của Tòa soạn, sau một hồi dàn xếp, căn phòng chung ấy được ngăn bằng vách cót ép thành hai phần, vừa 9 m2 phía đầu hổi, có cử đi riêng cho đôi vợ chồng sắp cưới, còn lại phần rộng gấp đôi hai người A và T ở chung. Ôi thật hạnh phúc xiết bao. Chỉ 9 m2 riêng tư, ấy là niềm mơ ước của nhiều người ở vào thời ấy rồi.
Cũng cần phải thêm đôi chút về gốc rễ của khu nhà P16 Thụy Khuê này. Đây là một khu rất rộng, bên số chẵn đường Thụy Khuê, tức là về phía Hồ Tây. Cổng chính vào, chia ra làm 2 khu, bên phải là dãy Nhà khách của Bộ Nông nghiệp, 3 tầng, khá khang trang, còn bên phải là khu tập thể của Bộ. Cùng là kiến trúc kiểu Pháp và từ thời Pháp, song khu nhà khách là kiến trúc nhà ở, còn khu tập thể bên trái chỉ có 2 tầng, tầng trệt nguyên là chuồng nuôi ngựa, còn tầng trên là nhà ở cho những người chăn nuôi ngựa. Thời Tây, đầu thế kỷ 20, chính phủ bảo hộ Pháp đóng ở khu Quảng trường Ba Đình, nên P16 Thụy Khuê, chính là Trại ngựa phục vụ cho các quan Tây. Sau này, khi Bộ Nông nghiệp đóng trụ sở ở số 5 Ngọc Hà, kế bên Bách Thảo, nên lấy toàn bộ khu P16 Thụy Khuê làm Nhà khach và khu tập thể cho Bộ mình.
Cơ ngơi vừa 9 m2, ấy là cơ đồ giang sơn của nhà báo Trịnh Bá Ninh, nếu chỉ riêng vợ chồng anh ở với nhau thì đâu có gì đáng nói. Cái chính là, đây là nơi đi lại, tá túc của không biết bao nhiêu người thân và quen biết với cặp vợ chồng này. Họ hàng an hem ruột thịt thì đủ hai bên quê, nhà Trịnh Bá Ninh ở Nam Sách (Hải Dương), nhà M ở Ứng Hòa (Hà Tây); bạn bè của Ninh thì có tôi, nhà Trần Đăng Khoa, nhà báo Nguyễn Sỹ Bình, và nhiều bạn bè cùng lớp với anh hồi Đại học Nông nghiệp … thêm bạn bè của M cũng lắm.
 
 
 

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Chiều Ghềnh Ráng - 09.10.2019 17:05:49
Cánh chim chơ-rao của buôn làng Cơ-tu,
 
Tôi biết đến tên loài chim Chơ-rao là qua thơ ca từ hồi đi học...
           Quả là như vậy... 
           Ngày học phổ thông, sách Trích giảng văn học dùng trong nhà trường, phần văn học cách mạng, có tác phẩm "Bài ca chim Chơ-rao" của nhà thơ Thu Bồn. Ngày đó, tôi yêu thích trường ca này bởi chất bi tráng và sực hơi thở Tây Nguyên, nên đã từng thuộc lòng phần trích đoạn, như sau này thuộc trường ca "Nước non ngàn dặm" của nhà thơ Tố Hữu vậy... Nhưng ngày đó, chỉ là lòng yêu văn chương thuần khiết thôi, chứ chưa thấu hiểu cội nguồn của cảm hứng thi ca, chữ nghĩa, nhất là những gì ẩn giấu, chất chứa trong mỗi câu thơ, khổ thơ  ấy... 
           "... Chim chơ-rao ơi, chào chim nhé/ Con chim không bao giờ chịu lẻ đàn/ Chim hãy đến rãy rừng ta ca hát/ Đem nguồn vui đến nóc buôn Sang... Chim chơ-rao ơi, bay về buôn vắng/ Báo tin buồn đi khắp mọi nơi/ Mặt trời đã rụng hai tia nắng/ Rừng Tây ánh lửa đỏ sáng ngời...". Qua những vần thơ bi tráng ấy, loài chim chơ-rao đã được nhà thơ Thu Bồn nâng lên thành biểu tượng cho ý chí và sức mạnh tinh thần của cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên một lòng theo cách mạng, đánh đuổi ngoại xâm, giải phóng dân tộc, giải phóng quê hương... Rồi nữa, trong ca khúc "Tiếng đàn Ta-lư", nhạc sĩ Huy Thục cũng nhắc đến loài chim này, dù chỉ thoáng thôi "...Con chim chơ-rao xinh, hót trên canh vui mừng công anh...",  song cũng để lại ấn tượng về một loài chim rừng khác lạ. Ngày ấy, nghe thì biết vậy chứ đâu biết loài chim ấy thế nào.... 
           May sao, đến một ngày, tôi có cơ hội tìm hiểu và đắm sâu vào một vùng đất với cảnh vật, con người, sắc thái bản vị địa phương, để từ đó sống lại nguồn cảm xúc thi ca mà trường ca về loại chim chơ-rao của nhà thơ Thu Bồn mang lại, từ thuở học trò...
            Ngày ấy, cũng đã mười năm rồi...
            Đầu năm 2008, cầm tờ quyết định và đôi lời dặn dò của Lãnh đạo Đài TNVN (VOV) vào Đà nẵng, phụ trách Cơ quan tại khu vực miền Trung, thú thật, ngoài quyết tâm, tôi chưa hình dung là mình sẽ thực hiện việc lên sóng phát thanh chương trình tiếng dân tộc thiểu số trong khu vực như thế nào. Địa bàn miền Trung dài dằng dặc, hàng ngàn cây số, với 9 tỉnh, từ Quảng Bình đến tận Khánh Hòa, có khá nhiều dân tộc thiểu số sinh sống, vậy lựa chọn tiếng dân tộc nào đây? 
           Ý tưởng chị thành hình hài khi tham khảo bản khảo sát cũ của cơ quan từ người tiền nhiệm, và ý kiến của một vài đồng nghiệp cùng những người có vốn hiểu biết về các dân tộc thiểu số trong địa bàn, để đi đến quyết định lựa chọn tiếng Cơ-tu. Điều tra, khảo sát thấy, người dân tộc Cơ-tu chiếm số đông hơn cả, và sự ảnh hưởng của họ khá tốt với các dân tộc thiểu số khác trong vùng như Giẻ-triêng, Pa-cô, Vân kiều v,v... Thêm nữa, tiếng Cơ-tu đã từng được La-tinh hóa trước đó, nên sẽ thuận lợi cho việc làm chương trình phát thanh...
           Có một sự cảm tính, song lại củng cố lòng quyết tâm trong tôi khi lựa chọn ngôn ngữ này, ấy là tình yêu văn học từ các tác phẩmBài ca chim chơ-rao của Thu Bồn và Nước non ngàn dặm của Tố Hữu. Câu chuyện của nhà thơ Tố Hữu trong trường ca của mình thể hiện đậm nét, ấy là cảm tình và lòng kiên trung của người dân làng Rô, một buôn làng người dân tộc Cơ-tu ở huyện Giằng (Quảng Nam), một lòng hướng theo cách mạng, đã che giấu, đùm bọc, bảo vệ ông và đồng chí Huỳnh Ngọc Huệ thoát khỏi sự truy tìm của giặc Pháp, khi hai người vượt ngục Đak Glei vào năm 1942 để tiếp tục hoạt động cách mạng ... 
           Còn về Bài ca chim chơ-rao của Thu Bồn, từ trích đoạn trong sách Giảng văn thời đi học, tôi cũng đã đọc cả trường ca và thật sự yêu thích tác phẩm này. Ai cũng biết, trường ca này, tác giả sáng tác về đề tài Tây nguyên, về tình thần bất khuất của bà con các dân tộc Tây nguyên, một lòng theo cách mạng, thông qua hai nhân vật điển hình là Hùng (người Kinh) quê miệt biển miền Trung và Rin (người dân tộc thiểu số) ở vùng núi cao, cùng nhau hoạt động, vận động đồng bào dân tộc đi theo cách mạng, đánh đuổi giặc Tây... Nhà thơ Thu Bồn, người quê Điện Bàn (Quảng Nam), sớm hoạt động cách mạng, làm báo ở Liên khu 5, rồi được cử lên địa bàn Tây Nguyên, nhà thơ đã sáng tác trường ca này khi đang hoạt động của vùng Chư Prông (Gia Lai), nơi có ngon núi cao nhất Tây Nguyên,... Đương nhiên, các địa danh, cảnh sắc, hơi thở và tính chất con người Tây nguyên hiện hữu trong trường ca. song ai dám bảo, Thu Bồn không phả vào đó hình ảnh của trai tráng quê hương miền biển Quảng Nam và chính bản thân mình vào trường ca qua nhân vật Hùng? Còn Rin, người dân tộc thiểu số, nhưng nhân vật này quê đâu trong mênh mông đại ngàn Trường Sơn miền Trung? Quảng Nam quê hương của nhà thơ với các huyện miền núi Hiên, Giằng, Phước Sơn, Trà My... tuy khác về đơn vị hành chính ngày nay, nhưng lại hòa chung một tính chất dân tộc miền núi cả vùng đại ngàn Tây nguyên, phía đông Trường Sơn... Vì thế, Rin và đồng bào của mình có thể ở ngay chính vùng Chư Prông, nơi nhà thơ sáng tác trường ca, hay bất cứ một buôn làng nào đó trong bạt ngàn Tây Nguyên, như loài chim chơ-rao tự do chao lượn trên bầu trời đại ngàn Trường Sơn?... 
            Sau đó, khi chuẩn bị lên sóng tiếng Cơ-tu, tôi và các đồng nghiệp ở VOV Miền Trung có điều kiện gặp gỡ với đồng bào Cơ-tu, nhất là những người có kiến thức và sự hiểu biết về văn hóa phong tục dân tộc Cơ-tu như ông Arất Hơn (Chủ tịch Hội Khuyến học Tây Giang), một người có công sưu tập và truyền bá tiếng Cơ-tu, và ông Bríu Liếc (Chủ tịch UBND huyện Tây Giang), người biên soạn cuốn từ điển văn hóa phong tục Cơ-tu, thì được biết, người Cơ-tu rất yêu quý nhà thơ Thu Bồn, người con ưu tú của quê hương Quảng Nam mình, và họ cho rằng, trường ca Bài ca chim Chơ-rao là viết về cộng đồng Cơ-tu vốn sinh sống ở vùng Hiên, Giằng, Hòa Vang (Quảng Nam) và có thể cả khu vực Nam Đông, A Lưới của Thừa Thiên Huế... Trong một lần tâm sự, ông Bríu Liếc bày tọ sự tự hào, rằng trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, không có một người dân Cơ-tu nào theo địch, một lòng kiên trong theo cách mạng, chống ngoại xâm, như nhân vật Rin và buôn làng anh, là điển hình trong trường ca Bài ca chim chơ-rao của nhà thơ Thu Bồn, của đất Quảng Nam son sắt, kiên trung... Vậy nên, người dân Cơ-tu thấy ở đó có bóng dáng văn hóa, phong tục, tập quán (như tục cà răng, căng tai, tượng nhà mồ, âm nhạc, hát lý, dân vũ, và nhiều nét sinh hoạt thường ngày... nhất là loài chim chơ-rao, loài chim thân thuộc hay đậu nóc nhà gươl )... Lẽ dĩ nhiên, cho rằng như vậy, vừa có căn cứ, vừa là cảm tính bởi sự yêu quý... Riêng mình, tôi thấy ở trường ca này của nhà thơ Thu Bồn có tính phổ quát cho các dân tộc sinh sống cả một dải đông Trường Sơn bao gồm phía tây miền núi các tỉnh từ Thừa Thiên Huế cho đến Khánh Hòa và các tỉnh Tây Nguyên...
           Quả là, vẻ đẹp văn chương đã lan tỏa đến những người làm báo chúng tôi, thêm yêu quý những người con của buôn làng Cơ-tu... Với riêng tôi, tình cảm yêu quý ấy, củng cố lòng quyết tâm thực hiện việc lập và phát sóng chương trình phát thanh tiếng Cơ-tu. Một dân tộc có tiếng nói, chữ viết đã được La-tinh hóa, bản sắc văn hóa độc đáo, có truyền thống yêu nước cao độ, cư dân khá đông, sống rải rác dọc dãy Trường Sơn và vùng biên giới Việt-Lào, họ xứng đáng có một chương trình của mình trên sóng phát thanh của Đài quốc gia!...
           Rồi đó những ngày tất bật, quan trọng nhất là yếu tố con người. Chúng tôi đã tuyển được bốn nhân sự (2 cặp nam nữ) người dân tộc Cơ-tu ở các huyện Đông Giang, Nam Giang. Cái khó là, người Cơ-tu sống ở các vùng khác nhau (cao, trung, thấp) thì tiếng nói cũng ít nhiều khác nhau, vậy phải làm sao để tất cả cộng đồng dân tộc Cơ-tu và một số các dân tộc khác hiểu tiếng Cơ-tu như người Giẻ-triêng, Pa-cô, Vân-kiều... cũng nghe được chương trình phát thanh này trong khi họ chưa có chương trình của riêng minh. Trình độ văn hóa đào tạo của các phát thanh viên Cơ-tu tương lai này cũng không đồng đều, duy nhất một em tốt nghiệp đại học Văn hóa,  người thì sau khi tốt nghiệp phổ thông có học thêm một vài lớp sơ cấp chuyên ngành ngắn hạn, người lại vừa tốt nghiệp phổ thông. Nghe nói tiếng Cơ-tu chỉ là một việc, song chuyển ngữ sang mẫu tự La-tinh sao đây, để thể hiện linh hoạt và sinh động văn bản Cơ-tu la-tinh trên sóng là rất khó,... Chúng tôi đã đưa các em lên thị trấn Prao (huyện lỵ của Đông Giang) nhờ ông Arất Hơn, một chuyên gia tiếng Cơ-tu, có kinh nghiệm giảng dạy, hường dẫn, chỉ bảo, kèm cặp hàng tháng giời mới tạm ổn. Hàm ý, chúng tôi ý thức việc cho các em được sống trong môi trường cộng đồng văn hóa, phong tục của mình mới là quan trọng, để ngay từ đầu, biết cách thể hiện bản sắc dân tộc mình trong sản phẩm báo chí. Rồi nữa, việc lựa chọn tên phát thanh viên, xây dựng và đặt tên các chuyên mục, âm nhạc, âm thanh, tiếng động sao cho mang hơi thở, sức sống, gợi không gian đẫm chất Cơ-tu...
          Vậy là, công sức của VOV miền Trung, sự nỗ lực của bản thân các em, sự hỗ trợ của địa phương và các đơn vị chức năng của VOV,  được đến đáp, khi ngày 15 tháng 9 năm 2009, chương trình phát thanh tiếng Cơ-tu lần đầu tiên lên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam. Tôi và vài đồng nghiệp lên Đài phát sóng trên đỉnh cao Bà Nà kiểm tra khâu cuối cùng và chờ đợi... Đúng giờ phút, nhạc hiệu chương trình phát thanh tiếng Cơ-tu vang lên, và lời chào của các phát thanh viên Cơ-tu lần đầu cất lên chào đồng bào Cơ-tu và thính giả xa gần,... khiến mấy anh em đồng nghiệp trong phòng máy kỹ thuật phát sóng mừng chảy nước mắt... Rồi cả hai đầu, Bà Nà và văn phòng cơ quan tại Tp.Đã nẵng nối điện thoại, thông báo cho nhau tín hiệu hai đầu đều tốt, cảm xúc mừng vui chộn rộn khi làn sóng phát thanh truyền tiếng nói Cơ-tu như những cánh chim chơ-rao bay lượn khắp bầu trời, trên bạt ngàn nương rãy và buôn làng Cơ-tu báo tin vui... 
           Ngay sau giờ phút lên sóng cảm động ấy, mọi người lại vùi đầu cho việc thăm dò, tìm tòi, điều chỉnh, để gần một tháng sau, vào ngày 12 tháng 10 năm 2009, Lễ công bố phát sóng chương trình tiếng Cơ-tu chính thức được diễn ra tưng bừng tại Đà Nẵng, có sự hiện diện của các bên cơ quan, chính quyền địa phương, đặc biệt là nhiều thính giả người dân tộc Cơ-tu từ buôn làng đến... Bà con vui mừng rưng rưng vô hạn, khi nghe tiếng nói của dân tộc mình trên làn sóng quốc gia, chào đón cánh sóng-cánh chim chơ-rao từ nay ngày ngày bay đến từng nhà sàn của buôn làng Cơ-tu... Với những người làm nghề chúng tôi, chung sự xúc động, còn mang ý nghĩa, đứa con thứ 12 của Hệ chương trình phát thanh tiếng dân tộc (VOV4) đã chào đời!... 
           Nhanh quá, mới ngày nào, vậy mà đã ngót 10 năm rồi đấy. Ngần ấy tháng ngày, có biết bao lo toan, khó khăn để duy trì và nâng cao chất lượng cho chương trình phát thanh này... Nhớ những ngày đầu. làm theo lối tắt, đường truyền của chương trình từ máy tính ở cơ quan qua internet đến mày tình của đài phát sóng trên đỉnh cao Bà Nà, rồi từ đó tung lên trời, có những ngày mưa bão, mưa giông, đứt cáp truyền, chúng tôi lo đến thắt lòng làm sao nối lại cáp truyền, thậm chí, tính cả phương án nếu không kịp khôi phục đường truyền, phải cóp chương trình vào USB phi xe máy mang lên núi cao cho kịp giờ phát sóng... Lại nữa, lo nơi ăn chốn ở cho các bạn trẻ Cơ-tu đảm bảo cuộc sống hàng ngày để họ yên tâm làm việc... Ngần ấy khó khăn, rồi cũng vượt qua tất cả, khi đài phát sóng phải di dời từ đỉnh cao Bà Nà, nhường đất cho dự án phát triển du lịch khu vực, để xuống đỉnh cao Sơn Trà, mất vị thế độ cao vì  độ cao thấp bằng nửa so với cũ... Mừng nữa, các chàng trai cô gái Cơ-tu ngày nào bỡ ngỡ rời núi về phố làm phát thanh viên, nay đã phương trưởng, tu nghiệp bằng cấp đầy đủ, kinh nghiệm dày lên, và nhiều người không chỉ là phát thanh viên đơn thuần, mà đã trở thành cây bút thực thụ ... Mới đây, trong một lần đến Tây Nguyên, tôi có gặp nhà báo Đỗ Trọng Phụng, người từng công tác tại Cơ quan VOV Tây Nguyên ở Buôn-ma-thuột. Chuyện nghề, nhà báo Đỗ Trọng Phụng bảo, ngày ấy, ông đang chịu trách nhiệm quản lý Phòng Phát thanh tiếng dân tộc của VOV Tây Nguyên, với 6 thứ tiếng hàng ngày. Khi VOV Miền Trung lên sóng chương trình tiếng Cơ-tu, ông đã thích thú và khâm phục những người làm chương trình vì thấy ở đấy cái mới và sự sinh động. Ông đã nhắc nhở các biên tập viên của mình, hãy biết cách gạt đi sự tự hào và ỷ lại, để lắng nghe và học tập các bạn trẻ Cơ-tu. Tôi tin, ông thực lòng, khi bộc lộ điều này...
          Sau này, theo xu thế mới, phát thanh hiện đại, đa phương tiện, đa nền tảng để thích nghi với công nghệ 4.0, tiếng Cơ-tu cũng như toàn bộ chương trình tiếng dân tộc VOV4 đều ra thêm trang thông tin điện tử, thay vì cánh sóng, kỹ thuật internet đưa các chương trình tiếng dân tộc vươn xa khắp mọi nơi, đến với từng con người bằng lợi thế của mình. 
Khi một ngôn ngữ của dân tộc nào đó được sử dụng trên phương tiện báo chí, văn học nghệ thuật, ấy là dân tộc ấy có điều kiện phát triển mà vẫn có điều kiện bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc. Thế giới phẳng ngày nay, văn mình thế giới ùa vào mọi ngõ ngách của đời sống xã hội trên phạm vi toàn cầu, sự giao thao văn hóa là một tất yếu, song vô hình chung, đã xảy ra một cuộc "xâm lăng" về mặt văn hóa của các nước mạnh... Có một ví dụ nho nhỏ, ngay trên chính những buôn làng Cơ-tu, ngày nào, bà con chỉ biết đến nương rãy, chiêng trống, múa hát... thì nay, thanh niên trai gái lại thích diện áo phông, quần bò, áo sơ-mi, váy tây, vợ chồng trẻ cưới nhau, sinh nở đặt tên toàn là tên nhân vật trong phim, hay tên các ngôi sao điện ảnh Hàn Quốc vì bội thực phim Hàn Quốc trên các kênh ti vi... Sự phai nhạt bản sắc dân tộc từ những điều nhỏ nhất ấy, không mấy ai để ý, diễn ra hàng ngày, và rồi đến một lúc nào đó, ta ngỡ ngàng nhận ra, nhiều biểu hiện của bản sắc văn hóa dân tộc mình đã phai màu, thậm chí không còn nữa. Của cải, vật chất có thể mất đi, rồi lấy lại không mấy khó, còn khi bản sắc văn hóa mất đi, có thể sẽ mất đi vĩnh viễn, khó lấy lại lắm thay... Tuy nhiên, của cải là của mỗi người nên của ai nấy giữ, còn bản sắc văn hóa kia lại là của chung cộng đồng, dân tộc, thì ai giữ đây?!...
           Một câu hỏi khó giải đáp, ở quy mô cộng đồng, dân tộc, quốc gia, trong khi sự đa dạng về văn hóa vốn là tài sản quý báu của loài người, lại đang bị đồng hóa bởi số ít thực thể văn hóa của các nước mạnh. Sẽ là nhàm chán bao nhiêu, thậm chí sẽ là thấy bại, khi không còn sự đa dạng về văn hóa?
            Với suy nghĩ đó, chỉ từ một thứ tiếng dân tộc, tiếng Cơ-tu, một trong 12 tiếng dân tộc được lên sóng đài phát thanh quốc gia, tôi đã bàn thêm về vai trò, sự quan trọng của nó trong công cuộc bảo tồn ngôn ngữ và qua đó góp phần bảo tồn bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số... Hiện giờ, chỉ là con số 12, nhưng một ngày nào đó, có thể sẽ là ngôn ngữ khác như Tày Nùng, Pa-cô, Vân-kiều lên sóng...
            Các bạn trẻ Cơ-tu của tôi ơi, các bạn đã lớn lên nhiều, đã thật sự trưởng thành rồi, hãy biết yêu quý và trân trọng những ngày tháng qua... Ơi, những A-lăng Lợi, Vơ-ních Oang, A-lanh Kim Cương, Hoith Nhàn, A-viết Sĩ, các bạn đã là những cánh chim chơ-rao của đại ngàn, của buôn làng Cơ-tu rồi đấy,... Các bạn đã gặt hái được những thành công, đó là những Giải Vàng trong Liên hoan Phát thanh toàn quốc, nhưng hơn cả, các bạn đã ở trong lòng mỗi người dân Cơ-tu, bởi ngày ngày các bạn đã làm bà con buôn làng Cơ-tu “ưng cái bụng”...  Hãy cùng các đồng nghiệp yêu quý của tôi ở VOV Miền Trung, cần cù và sáng tạo, biết chắt chiu để góp gió, nâng cao cánh sóng Cơ-tu nhé...
            Giờ đây, vẫn những câu thơ của nhà thơ Thu Bồn theo tôi trong dòng ký ức về một thời: "Chim chơ-rao ơi, chào chim nhé/ Con chim không bao giờ chịu lẻ đàn/ Chim hãy đến rãy rừng ta ca hát/ Đem nguồn vui đến nóc buôn Sang..." ./.
 
Đã mang vào thư viện
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.02.2021 04:47:32 bởi Ct.Ly >

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Chiều Ghềnh Ráng - 09.10.2019 17:08:42
Chuyện học sinh giỏi văn,
 
 Ngày xưa, hồi tôi đi học phổ thông, ngành Giáo dục ở ta đã sớm ý thức việc đào tạo học sinh giỏi các cấp. Tôi nhớ không nhầm, ngày ấy, người ta chỉ tập trung và hai môn chính, là Toán (Tự nhiên) và Văn (Xã hội). Hằng năm, theo hệ phổ thông 10/10, đều tổ chức kỳ thi học sinh giỏi tất cả các lớp từ 1-10. Nhưng, chỉ riêng các lớp cuối cấp là 4 (cấp I), 7 (cấp II) và 10 (cấp III) là lần lượt tổ chức kỳ thi học sinh giỏi từ cấp huyện, tỉnh thành phố và sau cùng là Toàn miền Bắc (khi ấy chưa thống nhất đất nước, còn phân miền Bắc-Nam). Riêng lớp 10 thì tổ chức kỳ thi từ cấp tỉnh, rồi toàn miền Bắc. Sau năm 1975, thống nhất chung ngành Giáo dục cả nước, thì cấp thi cao nhất là Toàn quốc, và theo đà phát triển mở rộng, các môn thi cũng được mở rộng sang các môn tự nhiên, xã hội khác (ngoài Toán và Văn)...
Thực ra, ngày ấy, cũng chưa có trường chuyên lớp chọn mang tính phổ biến ở các cấp và nhiều môn học như sau này. Thường là, sau mỗi kỳ thi học sinh giỏi các cấp, phát hiện ra một số học sinh giỏi, đúng ra là có năng khiếu Toán hoặc Văn, tập trung thành đội tuyển, mời một số giáo viên được cho là dạy giỏi hai bộ môn này, đến giảng dạy cho đội tuyển trong một thời gian ngắn. Cách đào tạo này na ná như huấn luyện gà nòi để thi đấu vậy. 
            Năm học lớp 4, tức là cuối cấp 1, tôi được chọn vào đội tuyển của cấp huyện, cũng tập trung ôn luyện chừng nửa tháng rồi tham dự kỳ thi học sinh giỏi Văn cấp tỉnh. Ngày ấy, tôi còn nhỏ và cũng không đạt kết quả gì, nên không nhớ kỹ, song tôi mang máng, chúng tôi cũng được rèn theo kiểu đề bài mở, chẳng hạn như "Em phải xa một làng quê một thời gian dài. Khi xa em nhớ nhất những gì ở làng quê mình? Em hãy kể chuyện đó...". Vậy cũng là khó rồi. 
            Cho đến lớp 10, cuối cấp 3, tôi lại may mắn trúng vào đội tuyển học sinh giỏi môn văn của rỉnh Hải Hưng. Đề thi ở cấp tỉnh, không phải là đề mở, vẫn là kiểu cách bình giảng một chủ đề cúa tác phẩm văn học được giảng dạy trong chương trình học, tuy khó nhưng không có gì đặc biệt.
             Mùa xuân, 1975, đội tuyển học sinh giỏi mon Văn lớp 10 của Hải Hưng có 20 người được triệu tập về Trường cấp III Hồng  Quang, tại thị xã Hải Dương, hầu hết các huyện trong tỉnh đều có học sinh được chọn, tôi thuộc huyện Mỹ Hào. Năm lớp 8 tôi học ở Trường Cấp III Văn Lâm, nhưng sang lớp 9 thì tôi xin chuyển trường về Mỹ Hào cho gần nhà, đi học đỡ vất vả. Năm ấy, cấp III Văn Lâm, trường cũ của tôi không có ai được tuyển, nên tôi thấy buồn buồn. Tề tựu về cấp III Hồng Quang, tôi biết tin đội tuyển của mình có nhà thơ thần đồng Trần Đăng Khoa nên mừng lắm. Từ khi học cấp I, tôi đã nghe danh về nhà thơ thiếu nhi này rồi, tuy nhiên chỉ nghe trên đài nói này nọ chứ đâu có sách báo để đọc mà biết thơ của Trần Đăng Khoa hay thế nào. May mắn, năm tôi học lớp 8 ở trường cấp III Văn Lâm, thầy giáo dạy Văn lớp tôi là thầy Lê Thường, một giáo viên giỏi bộ môn Văn của Ty giáo dục Hải Hưng. Thầy Lê Thường người Hà Nội, trước đó có nhiều năm công tác ở Ty Giáo dục Hải Hưng, và từng được Ty phân công tìm kiếm, phát hiện, theo dõi và kèm cặp các học sinh có năng khiếu Văn học, đặng ươm mầm tài năng, mong có được những Trần Đăng Khoa khác nữa. Thầy Lê Thường đi về nhiều địa phương trong tỉnh, và thầy cũng đã nhiều lần gặp gỡ, nói chuyện, với Trần Đăng Khoa, và sau đó viết bài phê bình, nghiên cứu về thơ Khoa. Tôi nhớ, khi dạy chúng tôi, thầy Lê Thường hay nói chuyện về thơ Trần Đăng Khoa. Thầy đăng đàn ngoại khóa Văn học nói chuyện cả buổi về Trần Đăng Khoa và tài năng thơ ca của thần đồng thơ. Thầy thuộc hầu hết thơ Khoa và hay chọn những bài điển hình đọc cho chúng tôi nghe. Tôi thích lắm, noi theo tập tọng làm thơ...
           Hôm đầu gặp mặt cả đội tuyển, tôi háo hức lần đầu gặp mặt thần đồng thơ mà tôi ngưỡng mộ bấy lâu. Vì thiếu cơ sở vật chất, nhà trường lầy tạm một căn phòng rộng, mà giữa phòng vẫn kê một chiếc bàn bóng bàn. Tất cả hai mươi đứa từ các trường cấp 3 trong tỉnh, được lựa chọn về đội tuyển, ngồi xung quanh chiếc bàn bóng bàn. Thầy giáo phụ trách đội tuyển là thầy Hậu, giáo viên dạy mon văn của trường Hồng Quang, được Ty Giáo dục cử phụ trách, đồng thời cũng là người dạy chính cho đội tuyển. Thầy Hậu dáng vè hiền lành, cử chỉ điềm đạm, phổ biến nội quy chung. Tôi nhìn quanh điểm qua tất cả các gương mặt, thầm tìm kiếm ai là thần đồng thơ Trần Đăng Khoa. Tôi quan sát một khuôn mặt nam sinh đeo cặp kính cận dày cộm, vì đoán đó là Khoa. Cậu ta luôn cúi xuống, chốc chốc ngước mình, mủm mỉm cười, tay cầm một chiếc bút vạch vạch vào mặt bàn bóng. Tôi hơi khó chịu, bởi là người biết chơi bóng bàn, tôi hiểu, việc đó rất có thể gây xước mặt bàn làm lệch đường bay của quả bóng nếu trúng vào vết xước. Thậm chí tôi bực mình, nhẩm bụng chê thần đồng thơ gì mà lại nghịch như vậy. Đến khi thày Hậu mời Trần Đăng Khoa phát biểu, thấy anh chàng phục phịch thấp lùn đứng lên, tôi thầm à lên, biết mình "bé cái nhầm". Anh chàng cận thị kia là Trịnh Bá Ninh, cùng trường cấp 3 Nam Sách với Trần Đăng Khoa. Thời gian ở đội tuyển, ba chúng tôi thân nhau như anh em, và tình bạn thân bộ ba ấy theo đến bây giờ... 
           Trở lại câu chuyện đội tuyển văn. Ngày ấy, mỗi đứa trong đội tuyển được đưa về ở nhờ nhà của một học sinh trong trường, nên ba đứa tôi không được ở cùng nhau. Thời gian ở đội tuyển, chúng tôi phải học cả ngày, buổi sáng bồi dưỡng văn, buổi chiều học các môn học khác cho kịp chương trình và để còn thi tốt nghiệp. Thày Hậu là người dạy văn chính, còn có thày Trị được mời từ một trường trong tỉnh lên giảng một số tiết. Chương trình bồi dưỡng môn văn, chúng tôi được ôn luyện các thể loại văn nghị luận chính như chứng minh, giải thích, bình giảng và sự kết hợp các thể loại này. Cùng đó, chúng tôi tập phân tích một số bài văn mẫu. Thêm nữa, có một số buổi ngoại khóa, nói chuyện văn thơ theo chủ để, nhằm mở mang kiến thức văn học chung... Năm ấy, thày Lê Thường không được gọi dạy đội tuyển, nhưng một lần đi công tác Ty Giáo dục, thày Lê Thường ghé thăm đội tuyển. Thày rất vui khi gặp lại tôi, người học trò cưng của thày khi tôi học ở trường cấp 3 Văn Lâm. Khi đó, tôi đứng đầu khối về môn văn, được thày Lê Thường tin tưởng, nhờ chép lại vào sổ lưu trữ một số bài văn hay của học sinh các trường mà thày tuyển chọn ra. Thày vui hơn khi gặp lại Trần Đăng Khoa. Khi còn công tác ở Ty giáo dục Hải Hưng, thày Lê Thường được giao nhiệm vụ tìm kiếm học sinh có năng khiếu văn học, nên thày từng qua lại nhà Trần Đăng Khoa nhiều lần, thân tình với gia đình Khoa, bố mẹ, anh ruột Khoa là nhà thơ Trần Nhuận Minh. Thời gian ấy, chúng tôi còn được gặp gỡ một số văn nghệ sĩ của tỉnh nhà như nhà thơ Ngô Hoàng Anh, nhà văn Nguyễn Phúc Lai, nhà văn Triều Dương (Triều Dương khi đó ở Đài Phát thanh tỉnh, sau về tuần báo Văn Nghệ, Hội Nhà văn). Ngày ấy, ấn tượng nhất đối với tôi, không phải là các nhà văn, nhà thơ địa phương, mà là một cán bộ Tỉnh đoàn, chị Trần Thị Duyên. Chị Duyên, quê Thái Bình, cơ duyên đưa chị về công tác ở Tỉnh đoàn Hải Hưng, và chị là một cán bộ đoàn gương mẫu, người chị-người bạn thân thiết với Trần Đăng Khoa từ thời Khoa còn là thiếu nhi mới tập làm thơ. Chủ nhật, Khoa hay dẫn chúng tôi đến Tỉnh đoàn thăm chị Duyên, khi đó chị ở một căn phòng khu tập tập thể. Tôi nhận từ chị thứ tình cảm trìu mến, ấm áp. Biết chị bị bệnh tim, ngày càng nặng thêm,  khó qua khỏi, biết chị nhiều lúc cô đơn, khi chị từng từ chối tình cảm luyến ái của vài ba đàn ông vì không muốn làm phiền đến cuộc sống của họ... Mỗi khi chúng tôi đến, chị vui lắm. Mấy chị em líu ríu cả buổi. Sau khi giải tán lớp, mọi người về lại trường cũ, chị Duyên giữ địa chỉ, hay gửi thư thăm hỏi, động viên, nhất là mỗi khi có chuyện buồn. Khoa vào bộ đội, chúng tôi vào đại học, tứ tán dần, chỉ còn lại bộ ba Trần Đăng Khoa-Trịnh Bá Ninh- và tôi là giữ mối liên lạc thường xuyên, qua lại nhà nhau. Mấy năm sau, chị Duyên mất vì căn bệnh tim, không ai trong số chúng tôi biết lúc đó. Sau Khoa biết tin, báo cho chúng tôi, mọi người rất buồn và thương nhớ chị. Riêng Khoa viết bài bài thơ “Bến đò” về chị, hay và cảm động. Câu kết thức dậy trong lòng người về một thuở “... Ta đi theo/ lòng vẫn ở nơi đây/ ai cũng chỉ có một lần/ cái thuở thơ ngây...”... Gần đây, xem bộ phim tài liệu “Thế giới nhỏ của Khoa” do truyền hình Pháp thực hiện từ ngày Khoa mới làm thơ, cùng hình ảnh nhà thơ Xuân Diệu, thấp thoáng bóng hình chị Trần Thị Duyên, tôi bồi hồi nhớ vê một thuở học trò giỏi văn ngày ấy....
           Lại chuyện thi. Năm ấy, kỳ thi được tổ chức lập Hội đồng thi tại từng tỉnh, khi đọc đề thi, mọi người ngơ ngác với dòng chữ cụt lủn "Văn học với việc xây đắp tâm hồn anh (chị)". Thể loại gì? Làm thế nào đây? Ai cũng bần thần. Tôi mất nửa tiếng đồng hồ, không biết bắt đầu như thế nào... Sau cái mở bài khá chật vật, tôi viết liên hồi kỳ trận, viết như kẻ mộng du, viết về sự say mê văn học từ ngày còn nhỏ, viết về văn học đã tác động lại mình như thế nào... Tóm lại là nghĩ sao viết vậy, viết như một sự giải tỏa, trài lòng... Mươi trang giấy kín đặc, viết đến mỏi rã tay cho đến hêt giờ. Nộp bài thi, cũng chẳng hiểu bài mình thuộc thể loại nào. Sau này, khi đã trưởng thành, cầm bút viết văn, tôi nghĩ, bài văn ngày ấy của tôi là tùy bút cũng nên. 
           Kỳ thi ấy, đội tuyển Hải Hưng không ai được giải, kể cả thần đồng thơ Trần Đăng Khoa. Nghe nói, đội tuyển Hải Hưng người cao điểm nhất cũng không vượt quá điểm 10/20 (theo qui chế, từ điểm 11.20 mới được xét giải). Thi xong, cả đội cười đùa vui vẻ, trêu nhau việc không biết làm theo thể loại nào. Cũng chẳng ai áp lực gì, có chăng Trần Đăng Khoa, bởi chàng ta là thần đồng thơ, lại giật giải Nhất kỳ thi học sinh giỏi văn toàn miền Bắc hồi cấp 2 (lớp 7/10). Kỳ thi học sinh giỏi văn lớp 10 toàn miền Bắc cuối cùng ấy (4.1975), người đoạt giải nhất là một nữ học sinh chuyên văn trường cấp 3 Thái Phiên, Hải Phòng, được chấm điểm 16;20. Mãi về sau, khi các loại sách tuyển chọn này nọ được xuất bản, tôi mới biết, đấy là năm đầu tiên Ngành giáo dục của ta dùng đề thi mở, và đáp án của đề thi ấy, yêu cầu thí sinh phải nêu được các chức năng cơ bản của văn học, rồi dùng các tác phẩm văn học đã đọc và học để chứng minh cho từng chức năng ấy... Thảo nào, ngày ấy, đội tuyển chúng tôi trượt hết, bởi chẳng một ai nghĩ ra vậy... 
           Song chẳng hề hấn gì, cái chính là chúng tôi được gặp và quen nhau, trở thành bạn thân đi bên nhau dọc chặng đường đời. Chúng tôi chia tay thày Hậu, thày Trị và những thày cô khác ở trường cấp 3 Hồng Quang. Chúng tôi, hai mươi thành viên đội tuyển chia tay nhau với những dòng lưu bút... Tất cả cùng ghi nhớ, bữa cơm liên hoan chia tay, trưa ngày 15/4/1975. Lưu luyến lắm, đã có nước mắt, và cả những mối tình lứa đôi nảy nở... Ai về trường ấy, riêng Trần Đăng Khoa đến tỉnh đội để nộp đơn xin nhập ngũ... Lúc ấy, tin chiến thắng dồn dập bay về từ chiến trường Miền Nam, những ngày sôi sục  của chiến dịch Hồ Chí Minh...
           Về đến trường, bắt đầu những ngày ôn thi, thi học kỳ 2 và chuẩn bị thi tốt nghiệp. Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Niềm hân hoan vỡ òa, khiến lũ học sinh cuối cấp chúng tôi như muốn bay lên. Từ đây, tha hồ học hành, để bay đến mọi miền khi non sông liền một dải... Phần lớn những thành viên chúng tôi vào đại học, những lạ thay, không một ai học ngành văn học cả. Tôi và Trịnh Bá Ninh học đại học nông nghiệp, Trần Đăng Khoa vẫn miệt mài quân ngũ, hay như Nguyễn Việt An học ngành điện, vào quân đội rồi thành chủ doanh nghiệp, song lòng yêu văn chương thì vẫn theo cùng. Có sao đâu, khi mầy chúng tôi vẫn theo đuổi văn chương, báo chí, để sau này và cho đến bây giờ, đều là dân báo chuyên nghiệp, văn thơ đủ loại. 
           Nhớ lại chuyện học sinh giỏi văn, còn là cái cớ để bàn thêm việc đào tạo gà chọi thi đấu, và việc ra đề mở của ngành giáo dục. Nên hay không nên đây ?
            Theo tôi, việc đào tạo học sinh giỏi văn kiểu gà chọi, nhằm thì thố giật giải này giải nọ, cho đến cùng, vẫn là "thành tích chủ nghĩa", giờ không nên duy trì nữa vì thực sự không cần thiết. Thành tích ấy chẳng nói lên điều gì. Với mỗi cá nhân, không riêng gì môn văn học, để có kiến thức cơ bản, đương nhiên việc giảng dạy ở các cấp học là cần thiết, nhưng để có một tài năng, thành nhân tài, có đóng góp cho sự tiến bộ và phát triển xã hội, lại phần lớn nhờ tư chất thông minh, sáng tạo và sự khổ luyện, nỗ lực của cá nhân đó. Điều ấy, lại mang tính chất cá biệt, chẳng thể đào tạo, bồi dưỡng. huấn luyện  mà thành. Thực tiễn đời sống xã hội đông tây kim cổ đã cho thấy chân lý đó. Trong một hội thảo bàn về giáo dục do Đài Tiếng nói Việt Nam tổ chức, có sự tham gia của một số vị lãnh đạo cao nhất ngành và các chuyên gia giáo dục xã hội, nhà thơ Trần Đăng Khoa đã tham luận, đưa ra ý kiến, rằng anh có mười năm đi học, và sau đó phải mất mười năm để thoát ra khỏi cái vỏ kén kiến thức phổ thông mà trưởng thành như bây giờ. Như vậy, không có nghĩa là  phủ nhận vai trò của giáo dục, mà hàm ý, chỉ coi giáo dục như những chất liệu cơ bản, để mỗi người tự thiết kế, tạo nên sản phẩm mang dấu ấn cá nhân; rằng giáo dục ban đầu, không phải là cái bục cao, để rồi người ta đứng trên cái bục ấy thành cao hơn... Xin nói gọn trong lĩnh vực văn học, năng khiếu thiên bẩm là quan trọng nhất, còn việc học tập, bồi dưỡng kiến thức là góp  cho tài năng thiên bẩm ấy phát sáng thôi.
            Riêng việc ra đề mở môn văn học (và có thể mở rộng sang các môn xã hội khác như lịch sử, địa lý, triết học,...) là rất nên. Cần khuyến khích các nhà trường, các kỳ thi sử dụng đề mở. Những năm gần đây, ngành giáo dục sốt sắng thực hiện cải tiến, trong đó có việc làm sách giáo khoa, tổ chức thi cử, cấu trúc đề thi... Điều đó là chủ trương đúng, nhưng khi thực hiện, lại rất chi lúng túng, được cái này thì hỏng cái khác, tránh tả khuynh lại chạy sang hữu khuyên. Vì lẽ ấy, hầu như sau mỗi kỳ thi (vào bậc THCS, tốt nghiệp THPT và tuyển sinh đại học, cao đẳng), cả xã hội lại được dịp bàn tán, chê bai này nọ. Chê chán, người ta lại mang so sánh với các quốc gia có nền giáo dục tiến bộ. Việc ra đề mở cũng vậy... Đã có bao nhiêu bài viết trên mạng xã hội bàn luận về việc đề thi mở trong các kỳ thi tú tài ở Trung Quốc...
            Tôi nhớ, hơn chục năm trước, năm 2007, tôi tình cờ đọc một bài viết bàn về đề thi tú tài môn văn ở Bắc Kinh, yêu cầu thí sinh thẩm 2 câu thơ trong bài thơ Biệt Nghiêm Sĩ Nguyên của Lưu Trường Khanh, đời Đường: "細 雨 濕 衣 看 不 見/ 閒 花 落 地 聽 無 聲",(Tế vũ thấp y khan bất kiến / Nhàn hoa lạc địa thính vô thanh, dịch nghĩa là: mưa phùn làm ướt áo, có nhìn mà chẳng thấy/ hoa rơi từ từ xuống đất, nghe không tiếng động). Khi đó, tôi đã nghĩ là khó nhưng rất hay. Những năm gần đây đề mở họ ra còn thú vị hơn nhiều. Ví như mùa hè 2019, đề thi văn ở tỉnh Giang Tô, khiến mọi người phải lè lưỡi công nhận là hay và cực khó (Dựa theo tài liệu bên dưới, chọn góc độ, tự nghĩ đề bài, viết bài văn trên 800 chữ, không hạn chế thể văn (trừ thơ)."Mỗi vật đều có 1 tính, nước thì nhạt, muối thì mặn. Nước thêm nước vẫn là nước, muối thêm muối vẫn là muối. Chua ngọt cay nhạt mặn, năm vị điều hòa, cùng tồn tại hòa trộn tạo ra trăm ngàn vị khác. Vật đã thế, sự việc cũng thế, con người càng thế."). Và người ta lại bàn tán về bài luận của cậu học sinh đạt điểm tuyệt đối. Tôi không lạm bàn về đề thi này, song tôi ủng hộ cách ra đề mở kiều này. Cái gì hay và phù hợp thì nên nghiên cứu học tập. Tôi nghĩ, ngành giáo dục ở ta nên nghiêm túc nhìn lại mình. Có thể, kỳ thi mang tính phổ cập thì áp dụng đề mở các môn xã hội tự luận ở mức độ nào đó, nhưng các kỳ thi mang tính tuyển chọn thì nên áp dụng...
Thiết nghĩ, học sinh giỏi văn, và mở ra các môn xã hội khác, là để học kiến thức nền, còn muốn trở thành nhà nọ, nhà kia thì phải có năng khiếu, lòng đam mê và sự nỗ lực khác thường, mà những phẩm chất đó, không thể đào tạo, bồi dường mà nên.
          Học giỏi văn, mà thiếu phẩm chất như vừa nêu, thì có mang danh xưng nhà nọ, nhà kia, vẫn chỉ là thứ "văn chương học trò" mà thôi!,,,
 
  Đã mang vào thư viện
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.02.2021 04:49:02 bởi Ct.Ly >

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Chiều Ghềnh Ráng - 24.10.2019 10:29:59
Có ai đò dọc cùng tôi ?...
 
Có ai đò dọc cùng tôi ?...
Tôi viết bài tùy bút "Thương nhớ những chuyến phà", đăng trên trang blog cá nhân, nhà văn Trần Tâm ở Quảng Ninh đọc rồi buông một câu cảm thán "Cuộc đời con người ta, phà sang ngang thì nhiều, nhưng hỏi có mấy ai đi đò dọc!?...". Tôi bảo: "Đò dọc nhọc nhằn, gian nan lắm, liệu mấy ai dám?...". Biết là, vất vả, nhọc nhằn đấy, nhưng việc đến người thì người phải đi thôi...
Vậy có ai đò dọc với tôi không?...
Là đò dọc thật, chứ không phải biểu theo nghĩa bóng, đi đò dọc cuộc đời, tức là chuyện ăn đời ở kiếp với nhau. Tôi có đò dọc cuộc đời của tôi, và bạn thì cũng vậy. Nên chăng, ta có thể cùng nhau làm một chuyến đò dọc kiểu du ngoạn, souvenir với nhau mà thôi... Khi chờ đợi ai đó cùng đò dọc, tôi sẽ kể đôi chuyến đò dọc mà tôi đã từng trong cuộc đời bươn chải đây đó của mình...
           Tôi nhớ, ngày đi học, khi kể chuyện cuộc đời này nọ, bố tôi hay đọc câu ca "Thuận buồm xuôi gió thì chén chú chén anh. Lên thác xuống ghềnh thì buồi anh dái chú". Thật tình, tôi không nỡ dùng từ tục, nhưng không giữ nguyên câu cửa miệng ấy thì chẳng thể lột tả được ngữ nghĩa, hàm ý của câu ca. Hàm ý, mượn chuyện đi đò dọc, để nhắc nhở, răn con người ta, chơi với nhau, kết chạ cùng làm việc, khi thuận buồm xuôi gió thì ra bề thân tình lắm, nhưng lúc lên thác xuống ghềnh, gian nan khó nhọc, người ta mới sinh mâu thuẫn, mới hiểu lòng người...
            Hồi tôi đang làm việc ở Ban Nông Lâm nghiệp huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang, cách đây cũng đã hơn ba chục năm rồi, tôi hay phải đi công tác cơ sở. Từ thị trấn huyện lỵ, đến các xã xa nhất, giáp biên giới với tỉnh Cam-pốt của Campuchia, tôi thường chọn phương tiện tàu đò, ấy là đò dọc. Cỡ ba chục cây số, đò chạy tằng tằng len lách theo kênh dọc giữa đồng đất bạt ngàn tràm và năn nác. Mùa mước nổi mênh mông, chao ơi là sốt ruột. Khách đi tàu đò phần lớn là người buôn bán nhỏ, hàng hóa đủ loại, mùi cá mắm, hơi người nhức mũi. Nhưng khổ nhất là cái khoản tiểu tiện. Giữa đồng nước chẳng đâu là bến bờ, chẳng biết đi vào đâu, mà nhịn thì chết ngất...
           Có một lần, tôi làm chuyến đò dọc thực đã đời. Khi ấy, cơ quan tôi mua mấy trăm con bò, do thương lái gom từ bên Campuchia. Tiền đầu tư từ ngân sách của huyện. Cậu giám đốc người địa phương, thuộc diện thoát nạn mù chữ, chỉ thạo mỗi chữ ký, nên tôi với  tư cách là Phó giám đốc nông trường được giao chịu trách nhiệm thực hiện thủ tục thanh toán tại hai đầu mua-bán, qua ngân hàng Tri Tôn (An Giang) và Hà Tiên (Kiên Giang). Từ thị trấn Tri Tôn đến Hà Tiên ước chừng 150 km theo đường thủy. Chúng tôi có ba người, thêm một nhân viên nam người địa phương, thông thạo đường xá và nữ kế toán trưởng thuê một tàu đò nhỏ trọn gói đi Hà Tiên. Theo kênh Tám Ngàn, tàu chạy miết ngang qua Hòn Đất, vùng đất mà nhà văn Anh Đức đã lầy chất liệu sống từ anh hùng Phan Thị Ràng để xây dựng nhân vật chị Sứ trong tiểu thuyết Hòn Đất của mình. Tàu đò theo các con lạch xuyên giữa đồng tràm bạt ngàn. Đất vùng này nhiễm phèn nặng, chỉ thích hợp với tràm. Chẳng thế mà, trước đây, không hiểu sao ngành nông nghiệp lại quy hoạch triển khai hàng chục nông trường chuyên canh lúa. Cứ cuối mùa mưa, đầu mùa khô, lúa đang thì con gái thì sặc phèn chết úa gần hết, lúa thu hoạch được chỉ bằng một phần mười số thóc gióng sạ xuống. Chính cái nông trường chăn nuôi bò tôi đang làm việc, ngay trước đó cũng lâm vào tình trạng như vậy, Bộ chủ quản bỏ của chạy lấy người, trả lại đất đai và cơ sở cho địa phương quản lý, tìm hướng chuyển đổi cây con phù hợp với đất đai, thổ ngơi bản địa... Ờ thời điểm ấy, tôi đã nghe nói, người ta đổ lỗi cho những ai đó, trong đó, có một nhà báo, viết sách ca ngợi hết lời về đồng bằng sông Cửu Long là vụa lúa của đất nước, với cách ví von hình tượng là đất nước ta mang hình cái đòn gánh là dải đất miền Trung, gánh hai thúng thóc hai đầu là đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Hình tượng thì quả là đẹp và ý nghĩa, nhưng đồng bằng lưu vực sông Hồng, nhiều năm đã thực sự là vựa lúa của miền Bắc, chứ đồng bằng sông Cửu Long mắc dù rộng lớn hơn nhiều, song mới chỉ là tiềm năng. Và một người nữa, người làm công việc quy hoạch, hoặc đình chính sách của nhà nước, người biến ý tưởng và hình tượng ví von của nhà báo nọ, thành hiện thực. Thế là người ta rầm rộ cho thành lập hàng chục nông trường chuyên canh lúa ở vùng tứ giác Long Xuyên-Hà Tiên, và kết quả thất bại thảm hại, thóc lúa thu hoạch chỉ bằng một phần nhỏ của thóc giống sạ xuống, chưa kể bao nhiêu chi phí đầu tư khác. Sau nhiều thất bại cay đắng, rồi cũng đến ngày đồng đất miền Tây Nam bộ thành vựa lúa thật, khi người ta thay đổi tư duy, cơ cấu lại cây trồng thích hợp...
          Tàu đò của chúng tôi chạy mải miết, vợ chồng chủ tàu, chồng cầm lái, vợ nấu cơm bằng bếp đun than củi ngay trên tàu, phục vụ bữa ăn cho mọi người. Về phía Hà Tiên, xa xa thấy cột ống khói của nhà máy xi măng vươn trên bầu trời, ngày ấy, chúng là biểu tượng của công nghiệp ở miền Tây. Trời ngả bóng chiều, tàu đò đến vungj biển Vĩnh Hồ, nơi hội tụ của nhiều dòng kênh, trong đó có kênh Vĩnh Tế. Vĩnh Hồ tấp nập tàu thuyền vào ra, ngang dọc trong bóng hoàng hôn, ngút xa là cửa biển, bên kia là trung tâm thị trấn, cảnh sắc thật nên thơ. Tôi đã từng đọc lịch sử hình thành vùng đất này, hiểu câu chuyện của cha con Mạc Cửu, Mạc Thiên Tích, đã dày công mở đất từ thời chúa Nguyễn đàng trong. Biết lịch sử, yêu thích thơ văn của Tao đàn Chiêu Anh các với Hà Tiên thập vịnh...
            Sau một ngày tàu thuyền vất vả, đêm ấy, giấc ngủ vẫn chập chờn, phần lạ nhà, phần việc chính chưa xong. Sáng trở ra, ăn sáng và nhấp chút cà phê rồi vội đến ngân hàng. Xong thủ tục, cũng chẳng thời gian đâu mà ngắm, lách ngang qua chợ đông đúc để trở về bến tàu đò, và lặng lẽ rời Hà Tiên. Thực lòng, tôi muốn thăm thú chút đỉnh, nhất là thăm chùa Hang,Thạch động, nhưng gấp việc, nên chẳng lòng dạ nào... Tàu lại cần mẫn, mải miết về lại Tri Tôn. Mấy bữa ăn cũng quấy quá cho xong. Mệt bã người, chui vào trong mui, nằm ngủ vùi, cho đến tận nửa đêm thì về đến nông trường... 
          Mãi sau này, khi làm báo, tôi mới trở lại vùng đất Hà Tiên, bấy giờ mới có điều kiện thăm thú đây đó trong Hà Tiên thập vịnh. Và phải sau nhiều năm nữa, mùa hè 2018, tôi lại về Hà Tiên. Đi bằng xe hơi, nhanh chóng nên thăm thú được nhiều. Vẫn những di tích, danh thắng xưa, song nay đổi khác nhiều. Để kinh doanh du lịch, người ta cho mở rộng, thiết kế này nọ, nguy nga, sáng láng lắm, nhưng thực lòng, tôi thích vẻ xưa hơn... 
Chuyến đò dọc đi Hà Tiên năm 1985 ấy, dù sao vẫn khá êm ả bởi chúng tôi thuê bao cả chuyến. Sau này, đò dọc mà lại là đò chợ, phức tạp hơn nhiều. Tôi sẽ kể lại đây,...
          Đã 27 năm qua rồi, vẫn nhớ chuyến đi ấy. Hè năm 1992, tôi tháp tùng nhà văn Đặng Quang Tình, khi đó là Trưởng ban Thính giả của Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), từ Hà Nội vào Nam thực hiện một công việc quan trọng, điều tra thính giả nghe đài. Xong công việc ở Nha Trang (Phú Khánh) và tại thành phố Hồ Chí Minh, thày trò chúng tôi đi Miền Tây. Cơ quan thường trú của Đài tại phía Nam điều hẳn một xe phục vụ. Ở Cần Thơ, bí thư Tỉnh ủy Hậu Giang khi ấy là ông Nguyễn Hà Phan rất nhiệt tình với việc điều tra thính giả nghe đài trên địa bàn, khi chúng tôi đặt vấn đề trước. Song mọi việc ở đây, tạm chờ, ưu tiên cho chuyến xuống Minh Hải (gồm Bạc Liêu và Cà Mau). Tỉnh lỵ tại thị xã Bạc Liêu thì tôi khá thạo, bởi thời gian còn công tác ở An Giang, tôi đã vài lần sang đây, thăm các bạn cùng lớp Đại học Nông nghiệp I về công tác ở tỉnh này. Nhà văn Đặng Quang Tình bảo, phải điều tra ở Cà Mau mới đích đáng. Vậy lại Cà Mau thẳng tiến. Đích xa nhất là Rạch Gốc.
Trước đây, Rạch Gốc thuộc huyện Năm Căn, phiên chế về huyện Ngọc Hiển. Khó khăn nhất là muốn đi đến đây, chỉ duy nhất phương tiện thủy, tàu đò. Thế là, cả xe và anh tài đành để lại thị xac Cà Mau. Thày trò tôi mua vé tàu đò đi Ngọc Hiển. Tàu đò lớn, khách đi đông, phần lớn cũng là người buôn bán vặt từ miệt biển lên thị xã mua hàng về bán, nên tàu đò đấy ắp hàng hóa. Kênh lớn, tàu bè qua lại tấp nập, sóng nước đánh ì oạp, nhất là khi có những chiếc ghe bè, ngất ngưởng hàng hóa, chạy qua khiến nhiều xuồng nhỏ của dân bị sóng đầy dạt, hoặc nước bắn tung tóe. Khách thương lái ăn uống, trò chuyện rôm rả, tôi nghe loáng thoáng câu được câu chăng, còn nhà văn Đặng Quang Tình không nghe quen, thỉnh thoảng lại hỏi lại tôi xem họ nói gì. Ngày ấy, tình trạng ngăn sông cấm chợ khá phổ biến ở Miền Nam, và ở đây cũng vậy. Tàu đò chạy dăm cây số lại bắt gặp một trạm kiểm soát của một xã nào đó lập ra, để kiểm tra bắt hàng buôn lậu, ngày ấy, phổ biến là thuốc lá ngoại nhập lậu như Zet, Capstan, More, Dullhin... Tàu chạy ngang trạm, không thấy phất cờ thì cư vô tư chạy, còn thấy phất cờ thì dừng tàu, cặp bờ để nhân viên trạm xuống tàu khám xét hàng, kiểm tra, nếu thấy hàng lậu là phạt, hoặc tích thu. Qua một trạm, có phất cờ, thay vì phải giảm tốc độ cặp bờ, thì người lái tàu đò phớt lờ, tăng tốc cứ giữa dòng mà chạy. Mấy nhân viên trạm tuýt còi, hô hoán bắt dừng nhưng không được, tức giận ôm súng CKC đuổi dọc bờ, và bất ngờ, nổ mấy phát súng. Chắc là chỉ bắn chỉ thiên để dọa, nhưng khách tàu đò nhốn nháo, hét lên vì sợ. Thày trò chúng tôi cũng sợ, phải thụp người nép sát lòng tàu, tránh đạn. Ngộ nhỡ thì khốn... Chủ tàu vẫn cố chạy không dừng, nên nhân viên trạm cũng đành bỏ cuộc. Thày trò chúng tôi bảo nhau, chắc chuyến này, khách buôn có nhiều hàng lậu nên quyết chạy... Rồi tàu đến bến cuối. Chúng tôi xuống bến, hỏi thăm, biết được, muốn đến Rạch Gốc, Tân An lại phải đi tiếp tàu đò. Thế là hai thày trò, tìm thuê một chiếc vỏ lãi để đi Rạch Gốc. Vùng này, sông nước, đầm phá mênh mông, chiếc vỏ lãi tắt ngang một góc đầm phá khá rộng, trời nổi cơn giông, rồi mưa ràn rạt. Ngồi trên võ lãi mỏng manh, giữa trời nước trong tiết mưa giống như thế, thày trò nhìn nhau, không khỏi lo lắng. Thấy vậy, người chủ đò bảo yên tâm đi, nước trông mênh mông vậy nhưng không sâu, khỏi phải lo lắng. Rồi võ lãi rẽ vào lạch nhỏ, đôi bờ đã loáng thoáng nhà dân, đã có gì đó ấm áp, đỡ hoang vắng. Rồi khu dân cư đông đúc Rạch Gốc đã hiện ra. 
           Cặp bờ, lên tìm gặp cán bộ khóm ấp, trình giấy tờ và đặt vấn đề công việc. Mọi người nhiệt tình lắm. Nước nôi qua loa và bắt tay vào công việc. Họ cử một người giúp việc cho thày trò, đưa chúng tôi đến từng hộ gia đình, phát phiếu, hướng dẫn cách ghi phiếu. Ngày ấy, dân cư tiếng là đông nhưng cũng chẳng mấy, phần lớn ở cặp đôi bờ kênh và khu vực chợ. Đôi bờ kênh qua nhau vẫn phải dùng xuồng ba lá, hình như có vài cây cầu khỉ ở những lạch ngang, chứ kênh chính, thuyền bè lớn qua lại để thông ra biển nên không có cầu vì sợ vướng. Thày trò chúng tôi làm một mạch, quên cả đói, miễn sao xong việc. Đến nhà nào, thấy chủ nhà có radio là mừng lắm. Nhưng người dân ở đây, chủ yếu là nghe tin tức và ca nhạc, dân ca, nhất là cải lương, vọng cổ. Gần như họ nghe không sót chương trình cải lương nào của nhà đài. Xẩm tối thì xong việc, nhưng quá muộn để trở về. Họ mời chúng tôi nghỉ qua đêm. Trong ngôi nhà cộng đồng gỗ lá, bữa cơm tôi được bày ra. Đồ nhậu có xoài xanh, khô cá đuối, lẩu cá lóc. Thày trò tôi cùng dăm cán bộ ấp và cán bộ văn hóa xã, cụng ly. Vài ba ly, chuyện trò rôm rả hơn. Lúc này, chúng tôi mới có dịp để hỏi thêm về địa lý, thổ ngơi, lịch sử vùng đất.
Câu chuyện chủ yếu xoay quanh ngọn hải đăng trên đảo Hòn Khoai và cuộc khởi nghĩa Hòn Khoai do Phan Ngọc Hiển lãnh đạo. Từ biển Rạch Gốc ra Hòn Khoai không xa, chừng hơn chục cây số, ở đấy có ngọn hải đăng được người Pháp xây dựng vào những năm đầu thế kỷ 20. Chắp nối từ câu chuyện kể của mọi người, biết ở đào này, còn có nhà tù để thực dân Pháp giam giữ tù nhân, trong đó những người theo tư tưởng cách mạng, chống Pháp. Đấy cũng là mầm mống để cuối năm 1940, nhà giáo, nhà báo Phan Ngọc Hiển đã lãnh đạo các tù nhân nổi dậy, đánh chiếm và giết tên chúa đảo. Cuộc khởi nghĩa này được xem là một bộ phận của Nam Kỳ khởi nghĩa. Tuy rằng, sau đó, cuộc khởi nghĩa bị thực dân Pháp đàn áp, Phan Ngọc Hiển và những người tham gia khởi nghĩa bị Pháp bắt và xử tử, song ý nghĩa của nó lại lớn lao. Tinh thần vì cách mạng hy sinh của nhà giáo-nhà báo-nhà văn Phan Ngọc Hiển đã được ghi nhận, để sau này, người ta lấy tên ông đặt cho tên đất ở vùng cực nam tổ quốc này...
Đêm ấy, thày trò tôi đều khó ngủ, chuyện trò về nghề báo, nghề văn, về các vùng đất đã qua, quá nửa đêm về sáng mới chợp mắt. Sáng ra, chia tay ra về, các cán bộ ở đây cứ tiếc, bảo nếu ở lại vài ngày, có thể thuyền ra Hòn Khoai thăm thú cho biết. Biết là thế, nhưng kế hoạch công việc ở Cần Thơ đang chờ mà lịch trình đi có hạn định. Hứa đại, khi nào trở lại sẽ ra Hòn Khoai. Lúc về, tôi mới có tâm trí quan sát kỹ cảnh sắc hai bên bờ kênh, vì biết rằng sẽ khó có thời gian trở lại đây. Thấy thấp thoáng xa xa hai bên bở là những vuông tôm. Ngày ấy, người dân mới khởi xướng việc nuôi tôm nước lợ vùng đồng ruộng, đàm phá ven biển. Đi sao về vậy, vẫn đò dọc như thế, nhưng suôn sẻ, bình yên. 
          Mới đó mà đã gần ba mươi năm trôi qua. Quả là không dễ trở lại. Nghe các bạn tôi ở Bạc Liêu, Cà Mau bảo là, Rạch Gốc bây giờ sầm uất lắm, đã được tách ra khỏi xã Tân An để trở thành thị trấn riêng, còn đảo Hòn Khoai đã trở thành điểm du lịch hấp dẫn.
           Vậy có ai đò dọc với tôi không? Ta cùng trở lại Rạch Gốc. 
           Nhưng nghe nói, đường xá bây giờ đã đấu nối, có thể xe hơi bon bọn đến tận nơi, chứ không cảnh đò giang cách trở, đò dọc bồng bềnh như xưa nữa ... 
 
 

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Chiều Ghềnh Ráng - 13.02.2020 11:16:26
Mưa dầm tháng hai,
 
Tháng Hai âm lịch.
           Chưa đến rằm nhưng đã có nhiều ngày mưa, đúng tiết mưa dầm xứ Bắc. Chẳng nhớ hôm mồng Một có mưa không? Nhớ lời mẹ tôi dạy từ ngày còn nhỏ, hễ mồng Một, ngày đầu tháng âm lịch nào mà có mưa là cả tháng ấy mưa nhiều...

           Mưa phùn, mưa bụi, mưa xuân, ấy là một. Kiểu mưa này chỉ có ở Bắc bộ và bắc miền Trung. Sở dĩ có nhiều cách gọi là do thói quen của từng vùng, miền và từng người mà thôi. Gọi mưa phùn, là người ta hình dung, mưa như cỗ máy thiên nhiên phun mạnh vào không gian thành những hạt nước nhỏ xíu; còn gọi mưa bụi hay mưa phấn, ấy là hạt mưa li ti như khói, như bụi, giăng mờ mịt bầu không; còn gọi mưa xuân là bởi kiểu mưa này chỉ có vào tiết xuân. Thường là vào cuối tháng Giêng, kéo sang hết tháng Hai, mùa xuân, xen kẽ giữa những đợt không khí lạnh khô hanh từ phương Bắc tràn xuống, và những ngày oi nóng như mùa hè, là những ngày có không khí lạnh yếu đi lệch Đông ra phía biển, gặp khí nóng phương Nam chặn lại, đưa hơi nước từ biển bốc lên, gặp không khí lạnh từ Bắc vào, tạo thành những đám mây mưa, song chỉ đủ sức làm thành kiểu mưa phùn, mưa bụi cho đất liền mà thôi. Với tình chất vậy, tạo nên tiết nồm ẩm, nóng lạnh thất thường, rất khó chịu, khó lường cho con người, vạn vật...
         Tùy mỗi năm, sụ chệnh lệch giữa cách tính theo dương lịch và âm lịch sự chênh nhau về thời gian độ vài ba tuần, thậm chí bốn năm tuần. Thời vụ, tiết trời được người xưa ấn định cho vạn vật, được tả trong ca dao, tục ngữ thì tính theo âm lịch. Ví như, tiết Giêng Hai âm lịch chẳng hạn, theo dương lịch thì là cả khoảng thời gian các tháng hai, ba, tư của năm dương lịch rồi. Lại ví như, câu ca dao "Tháng Giêng là tháng trồng khoai, tháng Hai trồng đậu, tháng Ba trồng cà, tháng Tư cày vỡ ruộng ra,,." cho thấy nông lịch của người xưa. Dĩ nhiên, cái nông lịch này là theo tập quán canh tác xưa cũ, của nền văn minh lúa nước của vùng Bắc bộ, canh tác năm chỉ một đến hai vụ lúa nước, xen kẽ là hoa màu, hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên... Ngày nay, nông lịch này không còn phù hợp nữa, bởi sự can thiệp của con người bằng khoa học kỹ thuật trong tạo giống cây trồng phản ứng ánh sáng trung tính, trong chế độ tưới nước, điều chỉnh nhiệt độ, nên thời vụ của từng loại cây trồng cũng khác đi... Còn cây cối thiên thiên thì chịu tác động của biến đổi khí hậu nên việc ra hoa, kết trái, đổi màu, trút lá cũng ít nhiều thay đổi...
         Tiết mưa phùn tháng Hai cũng đa dạng lắm. Nếu như không khí lạnh yếu, thường chỉ trời mưa bụi vào lúc chiều tối, qua đêm đến sáng ngày sau, ban trưa thì trời hửng. Nếu không khí lạnh mạnh hơn, có thể trời lắc cắc mưa thành hạt rồi kéo dài vài ba ngày thành mưa dầm. Thường gió mùa về lúc nửa đêm về sáng. Đêm trước đi ngủ, trời còn chưa mưa, nhưng rồi, trong giấc ngủ mơ màng ta nghe lơ mơ đâu đó tiếng động nhẹ, mau thưa, rồi lắc cắc, lộp độp, tiếng mưa gõ vào mái hiên, lá cây ngoài ban công, rồi rỏ giọt... Sáng ra, sân đã ướt đầm... Mưa lây nhây, trời có lúc tạnh, rồi lại mưa, cứ thế vài ba ngày liền. Ẩm ướt, lép nhép...
         Trong tiết mưa dầm tháng Hai, cũng đã là tháng ba dương lịch rồi, khi hoa bưởi hoa chanh đã vãn, hoa xoan rộ lên rồi nhanh chóng qua đi. Ấy là lúc hoa gạo bung trời, đỏ lựng, đỏ ối tùy thời tiết hay cảm giác của người ta. Lúc đầu. lác đác hoa, gợi con người ta về một sự khởi phát, rồi cả cây bừng nở, thì cho người ta sự viên mãn, và khi hoa gạo vãn dần, lại cho ta cảm giác buồn buồn của sự rụng rơi, hoài niệm, luyến tiếc. Các cây gạo nở hoa cũng trước sau khác nhau tuy theo đọ tuổi của cây. Thường là, những cây gạo còn non, hoa hay trổ sớm, cái kiểu háo hức của tuổi trẻ, và hoa cũng không bền, nhanh chóng rụng hết. Cây già hơn, hoặc cổ thụ, thường điềm tĩnh, hoa nở chậm, cũng lớp lang, cành già cành non, cành bổng, cành la, hoa trước hoa sau, nên mùa hoa kéo dài cả tháng trời và lúc nào cũng cho ta thấy vẻ đẹp của nó. Hoa gạo có phẩm chất và vẻ đẹp ấn tượng trong mọi kiểu thời tiết... Này nhé, trời hửng nắng, hoa gạo tươi rạng cả khung trời nơi nó đứng, cho người ta cảm hứng sáng tạo. Trời sương mờ, nhiều thứ cỏ cây bị sương che phủ, riêng bông hoa gạo, to tướng và đỏ lựng điểm xuyết trong màn sương làm cho quang cảnh hư ảo, mộng mĩ, mê hoặc cõi trần. Còn như trời mưa gió, hoa gạo ở trên cành thì tươi rói, khi rụng xuống, không mỏng manh tan tác như cánh phượng, mà ngổn ngang, bề bộn và có gì đó quằn quại như những nỗi đau đời, nỗi niềm thương cảm chưa tan...
        Cứ thế, suốt hàng tháng trời, từ độ trung tuần tháng hai, đến tận gần cuối tháng ba âm lịch, hoa gạo đó đây, khi lác đác, lúc đỏ tung trời xứ Bắc bộ. Và để rồi khi mùa hè đến, quả gạo lại một lần nữa tung trời những sợi tơ trắng. Ngày xua, những nhà nghèo, người ta đi nhặt, lượm những sợi tơ gạo ấy về nhồi làm áo, gối và chăn ấm cho mùa đông đấy. Chẳng thế mà, đã có ý kiến đề xuất lấy Hoa Gạo làm quốc hoa.
         Với riêng tôi, một lần đi thăm chùa Keo ở Vũ Thư, Thái Bình, nhằm đúng vào mùa hoa gạo. Từ trên đê cao, nhìn xuống cổng chùa Keo, mấy vầng hoa gạo đỏ ối phủ kín cả tam quan chùa. Những cội gạo già mốc thân, thi thoảng buông vai ba bông gạo xuống lộp bộp khiến người ta giật mình thảng thốt. Nhìn lên, bất ngờ một bông gạo rơi, xoay tròn như chiếc ô trên cao xuống, có cảm giác như vòng luân hồi trần gian. có một bà cụ già, lưng còng gập xuống, lẩn thẩn tìm trong đám hoa gạo thảm đỏ khoảng trống trước cửa chùa, nhặt lấy vài bông hoa gạo cầm về, chẳng hiểu để làm gì. Hình ảnh ấy cứ ám ảnh trong tôi mỗi mùa hoa gạo...
        Sáng nay, trước răm tháng Hai, trời mưa bụi giăng mờ mịt phố phường Hà Nội. Mưa dầm đã mấy ngày nay rồi. Tiết trời này thật điển hình của mùa xuân Bắc bộ. Người đi đường áo mưa cũng được, mà không áo mưa cũng chẳng ướt. Lại rẩm riu nhớ câu thơ của Trần Đăng Khoa "Mưa bay như khói qua chiều/ Vòm cây như rỏ giọt đều qua đêm... / Sáng ra mở cửa nhìn ra/ Vẫn mưa mà đất trước nhà vẫn khô"...
         Và thế, tiết mưa dầm tháng hai ẩm ướt sẽ dần qua,...
         Mùa xuân rồi cũng cạn ngày,...
 
  Đã mang vào thư viện
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.02.2021 04:51:34 bởi Ct.Ly >

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Chiều Ghềnh Ráng - 14.03.2020 09:09:50
                                                          NẮNG MUỘN
                                                          Truyện ngắn
 
        Đã cuối thu đầu đông.
        Chiều chưa muộn mà những vạt nắng đã lụi dần, chỉ còn đâu đó chút ánh sáng yếu ớt váng vất nơi ngọn tre, tán cau chót vót trước nhà. Bà Nguyệt vừa cho lợn ăn, vừa tranh thủ quét tước mảnh sân con vương vãi lá cây. Xong việc, bà vào bếp, lẩn thẩn lấy chiếc nồi còn lưng cơm nấu từ trưa vả chiếc niêu đất chuyên kho cá ra hâm lại. Chỉ cần nấu chút canh rau tập tàng, ở nhà có một mình, thế cũng là quá đủ. Bà thần người nghĩ, không biết giờ này, ông Chiến, chồng bà đã ăn cơm chưa nhỉ. Đã hơn tuần nay, chồng bà được con trai về đón lên chơi mãi trên trang trại của nó ở mạn ngược. Theo thói quen, cứ chiều xâm xẩm là bà lại ngóng ra cổng như chờ chồng về. Rõ là “lo bò trắng răng”, trên ấy cha con, ông cháu líu ríu, đông vui là thế, việc gì mình phải ngồi nhà lo chuyện cơm nước cơ chứ? Bao nhiêu năm đằng đẵng, bà lo thế quen rồi. Thôi, giờ cứ lo cái thân già mình đi đã. Dạo này, cái lưng nhâm nhẩm đau, hai đầu gối cũng khó chịu, đêm nằm, bắp chân buồn như trấu cắn. Mình đã là một bà già rồi. Ngày xưa, ở tuần tuổi ngoài sáu chục như mình thì hẳn là già, nhưng thời nay có khác, nhất là các bà, các mợ sống ngoài thành phố, áo quần son phấn cứ phây phây. Đấy, chẳng đâu xa, như cô vợ của người ấy, nghe nói tuổi cũng ngót sáu mươi rồi, nghĩa là chỉ kém mình có dăm tuổi, vậy mà nhìn béo tốt, mỡ màng, dáng vẻ sang trọng như vào tuổi trung niên...
          Bà Nguyệt tự cười buồn. Ôi dào, mỗi khi ngắm cái khuôn mặt già héo của mình nơi thau nước lúc rửa mặt, bà chẳng dám tin ngày trẻ mình xinh đẹp có tiếng trong làng là thế. Mà tự dưng bà lại nghĩ ngợi, thầm so sánh cái bộ dạng già lão quê mùa của mình vời vợ người ấy làm gì nhỉ? Rõ vớ vẩn chưa. Phải chăng, lâu rồi bà mới ở vào tình trạng sống một mình như bây giờ, nên sinh nghĩ ngợi lung tung. Hay là, vài hôm nay, trông thấy người ấy, khi sóng đôi cùng với vợ, lúc đi một mình trên đường làng, mà sinh nghĩ ngợi này nọ chăng?
          Chẳng buồn dọn cơm vào mâm bưng lên nhà ăn, bà Nguyệt cứ vậy, cơm canh, cá kho cứ nồi nào thức ấy, để xuống nền bếp, xới bát cơm, ngồi ăn. Nhìn ra sân, nắng chiều đã tắt, ngõ ngoài phảng phất khói sương. Bà Nguyệt ăn uể oải, miệng nhai, mắt nhìn, nhưng đầu óc nghĩ đâu đâu...
X
Ngày ấy, vào học cấp 2, chung lớp học với Nguyệt có đến chục đứa người cùng làng, xét chuyện họ hàng dây mơ dễ má, nội ngoại, đều có họ với nhau cả. Cùng tuổi với Nguyệt có vài ba đứa, do muộn đi học, hoặc do học kém bị đúp, số còn lại kém vài tuổi, có Đăng. Cậu ta quê ở làng, nhưng sinh ở Hà Nội, khi bắt đầu xảy ra chiến tranh chống Mỹ thì Đăng theo gia đình chuyển về quê sinh sống  Cậu ta người nhỏ nhắn, trắng trẻo, thư sinh, có vẻ nhút nhát, ít nói. Xét về họ hàng bắc cầu, Đăng là vai anh của Nguyệt. Cậu ta học giỏi, đều cả hai môn toán và văn, học lực luôn đứng đầu lớp, thậm chí đầu cả khối học toàn trường. Năm nào cậu ta cũng được nhận giấy khen về thành tích học tập. Chẳng bù cho Nguyệt, học hành khó khăn chật vật làm sao. Đặc biệt là môn Toán, Nguyệt học thế nào thì những con số nó cứ chuồi ra khỏi đầu. Có lần, Nguyệt đánh bạo nhờ Đăng giảng cho cách giải mấy bài toán khó. Thấy vậy, Đăng bảo là nếu Nguyệt không ngại, thì mỗi tuần, Đăng sẽ dến tận nhà Nguyệt giảng giải lại những kiến thức Toán cơ bản, đặng để Nguyệt hiểu và có thể tự làm những bài toán đơn giản. Nguyệt chỉ cố sao cho đạt điểm trung bình môn học này thôi, trong lòng muốn lắm, nhưng cứ ngại, nên từ chối khéo. Dẫu vậy. hai người cũng cảm thấy thân nhau hơn.
          Bù lại, Nguyệt giúp Đặng một số việc thuộc về đồng áng nhà nông. Trẻ con ở quê, những năm chiến tranh, thường phải giúp cha một số công việc nhà nông đơn giản như chăn trâu, căt cỏ, vào những buổi không phải tới trường, Nguyệt lớn tuổi hơn, lại con nhà nông bẩm sinh nên khá thạo công việc đống áng. Khi gặp nhau ở ngoài đồng, để ý, Nguyệt thấy mỗi khi đi chăn trâu, Đăng thường mang theo sách học, hoặc truyện gì đó tranh thủ đọc. Nguyệt vưa thả trâu vừa cắt cỏ, đầy gánh cho mình rồi thì cắt thêm nữa, mang buộc thành bó để Đăng cho lên lung trâu cưỡi mang về. Ít trò chuyện, nhưng hai người ngầm giúp nhau vậy. Lớn tuổi hơn, Nguyệt sớm dậy thì, đã có những rung động đầu đời, tự lòng mình đã phảng phất hình ảnh của Đăng, dù biết cậu ta kém mình mấy tuổi.
          Trong đám trẻ làng hay chăn trâu cắt cỏ và làm việc đồng áng, con gái lớn chút, còn có cái Hớn. Đúng với cái tên của mình,  Hớn phổng phao và lúc nào cũng nó cũng hơn hớn như bắt được của vậy. Nó tính khí tồ tề, nên hay làm mọi người bực mình vì những câu nói vớ vẩn, vô duyên. Xét về họ hàng, nó thuộc chi họ và là vai em của Đăng, nên khi xưng hô giữa đám đông, cái Hớn chẳng ngài gì, thản nhiên xưng em với Đăng . Việc này làm Đăng lúng túng đỏ mặt.  Cái Hớn cứ xưng xưng gọi Đăng, “anh ơi, anh à, bố em bảo thế này, thế nọ”… Nguyệt là người kín đáo, ít nói nên cảm giác khó chịu mỗi khi thấy vậy, bởi thâm tâm, Nguyệt quan tâm nhiều đến Đăng.
          Làng Hạ nắm dọc theo một con sông nhỏ, chi lưu của sông Cái, nên mỗi mùa mưa lũ thượng nguồn, nước từ sông Cái đổ về sông làng đầy ăm ắp, ngầu đỏ phù sa. Đối với đám trẻ chăn trâu cắt cỏ đồng, vui thích nhất là mùa nước sông to. Khi ấy, lòng sông rộng ra, tha hồ vùng vẫy, bơi lội, tôm cá theo nước nguồn về cũng nhiều hơn, nên thoải mái đánh bắt. Song cũng có cái lo, ấy là mỗi khi trâu lội sông bơi qua bờ bên kia, phá lúa và hoa màu, thì lại phải bơi sang rong trở lại… Có lần, con trâu Ba Gông sứt mũi nhà Đăng nuôi, xuống sông đầm rồi lên bờ bên sà vào ruộng lúa của Hợp tác xã. Đăng sợ bị phạt, cuống lên, không biết xử trí ra sao,. Cậu ta mới tập bơi, nước cạn thì không sao, nhưng nước sông lớn lại chảy xiết, nên không dám liều bơi sang. Nguyệt muốn giúp nhưng cũng lúng túng chưa biết tính sao, thì cái Hớn bảo “Để tớ… Anh Đăng ơi, em bơi sang dắt trâu cho”. Nói rồi, cái Hớn cứ nguyên quần áo nhào xuống sông, phăm phăm bơi sang. Sau một hồi dằng co, hò hét, đánh vật với con trâu Ba Gông sứt mũi, nó cưỡi lưng trâu vượt sông trờ lại bờ bên này như một vị anh hùng chiến thắng trở về vậy. Cái Hớn dúi thừng trâu vào tay Đăng bảo “Đây nhé. Anh cố giữ đừng để nó lôi anh xuống sông nữa đấy. Rõ đàn ông đàn ang gì mà nhát thế!”. Đăng vửa mừng vừa bực vì bị nó tét tát, đỏ mặt, né người nhìn đi nơi khác, trong khi cái Hớn thì cứ hi hi ha ha. Nguyệt cũng bực thay cho Đăng, song để ý, thấy quần áo cái Hớn ướt bết vào người nó, khiên cơ thể nó, nhất là những chỗ mây mẩy con gái mới lớn nổi rõ như người không mặc gì. Nguyệt ngượng đỏ mặt ngoảnh đi, thấy ghét sự vô duyên của cái Hơn, lại như giận gì Đăng, trong khi cái Hớn cứ như tung tẩy… Phải chăng, Nguyệt cảm nhận được thứ tình cảm của mình dành cho Đăng ?...
          Những năm ấy, chân ruộng xa và trũng úng của làng, gặt xong vụ chiêm, nước đã ngập sâu, cứ bữa chùi, cấy chay thôi, được bao nhiêu cũng quý. Đến vụ mùa lúa chín, nước vẫn ngập đến ngọn, vì các cơn bão cuối mùa khiến trời đổ mưa như trút. Khi gặt, người ta dùng lưới hái quơ lấy ngọn, gánh về xếp đống, lúa ướt sũng chày thành nước nơi sân kho hợp tác xã. Đập đập, rũ rũ rồi mang chia cho các hộ gia đình, có trừ hao thì vẫn thiệt cho người lấy. Hình như lão đội trưởng ghét gì nhà Đăng, nên những hôm thóc ướt như vậy, nhiều nhà chê không lấy, lão ta cứ nhè những gia đình, trong đó có nhà Đăng mà chia thóc. Chứng kiến cảnh ấy, Nguyệt xót cho nhà Đăng lắm, nhưng biết làm sao?
          Đã chiến tranh, gian khổ, thiếu thốn, lại hay thiên tai. Đáng sợ nhất là trận lụt xảy ra vào mùa mưa bão năm 1971. Mùa thu ấy, mưa đâu mà nhiều thế, liền cả tuần, đồng trũng chưa kịp thoát nước đi đâu thì bỗng nhiên nước lại đổ về ấm ầm, đồng làng trắng băng, sông cưồn cuộn nước, nhiều khúc lút cả bở, không phân biệt nổi đâu là đồng đâu là sông. Cả làng, chỉ mấy nhà quen nghề chài lưới là có thuyền, cũng là loại thuyền nan, thuyền gỗ nhỏ bé, là còn dám bơi loanh quanh. Vườn nhà Nguyệt bị ngập hết, còn nhà Đăng ở chỗ đất khá cao thì cũng ngập mấp mé cổng vào. Nghe nói, đê vỡ  tứ tung đâu mãi mạn sông Lô, sông Đà, sông Hồng, làm mấy tỉnh đống bằng ngập ráo, đồng ruộng hoa màu mất trắng và đau xót là có rất nhiều  người chết do lũ vở đê cuốn trôi. Người dân bảo nhau, chính phủ phải cho máy bay trực thăng đi cứu tế những vùng bị ngập sâu bằng cách đóng bao ni-lông bánh mì, bột mì và gạo thả xuống như rài truyền đơn ấy. Chừng nửa tháng, nước cũng rút dần. Đường làng, rồi các đường trục chính ngoài đồng ruộng cũng nhô lên. Nước rút đến đâu, cỏ mọc đến đấy. Lúc lụt lớn, trâu bò phải cho ăn rơm dự trữ, nhưng khi nước rút, thì cũng phải kiếm cỏ cho ăn chứ. Bà con dân làng sốt ruột, cũng chớp chới ra đồng kiếm cá tôm mà ăn…
Một chiều, Nguyệt thoáng thấy bóng Đăng dắt con trâu Ba Gông ngang ngoài cổng nhà mình. Cảm giác không yên tâm, Nguyệt bảo bố mẹ đi cắt ít cỏ tươi, rồi liềm gánh bám theo. Đồng vắng toe, lác đác người đây đó lội ngụp ngoài xa giăng lưới, đặt rọ đặt lờ cá. Đăng dắt trâu cho ăn cỏ nơi con đường trục chính giữa cánh đồng. Nước vẫn ngập khá sâu. Nguyệt cắt cỏ loanh quanh cách đó một quãng, chốc chốc lại đưa mắt theo dõi Đăng. Mải chút, Nguyệt cảm giác bất an, và khi nhìn ra, thấy Đăng đang loay hoay dưới nước, ngập đến nách, dằng co với con trâu đang cố chuồi ra xa nữa đắm cả mình. Nguyệt bỏ liềm cẩm chiếc đòn gánh, chạy vội về phía ấy, đến nơi thì cũng là lúc con trâu Ba Gông lôi tuột cả Đăng xuống vùng nước sâu ngập đầu người. Nguyệt ào xuống, gọi bảo Đăng hãy buông thừng trâu ra, bơi lại vào bở. Nguyệt nhoài người đưa chiếc đòn gánh ra để Đăng nắm lấy rồi kéo đòn gánh lôi Đăng vào. Đến chỗ nước nông, Đăng đứng được chân, cả hai tái mét mặt, thở hổn hển, rồi bì bõm lội vào lên lên bờ đường. Thực ra, bình tĩnh  thì Đăng cũng bơi vào chỗ nước nông được, nhưng do đồng nước ngập trắng băng nên khó biết chỗ nông sâu ra sao, Đăng mới hoảng vậy. Trong khi Đăng còn chưa hoàn hồn, thì Nguyệt lại ý tứ chuyện con gái, lánh người ra xa một chút, xây lưng lại, vừa vắt nước trên quần áo, vừa long ngóng tìm cách tránh để quần áo của mình bết vào người như cía Hớn dạo nào. Biết là Đăng lén nhìn mình, Nguyệt đỏ mặt, lí nhí bảo: “Cậu cứ chờ chút, vùng vẫy chán, con trâu nó tự lên thôi... Còn tớ... tớ phải đi cắt cỏ tiếp đây”. Nói rồi, Nguyệt bỏ đi, quên cả chiếc đòn gánh của mình... Đăng gọi “Ơ kìa, Nguyệt ơi, cậu quên đòn gánh à?”. Nguyệt quay lại,, bảo “ Ừ nhỉ... cứ để đấy, tý nữa tớ lấy”... Nguyệt cắt cỏ, đầu óc cứ để đâu đâu, suýt cắt vào tay. Chốc chốc, lén nhìn về phái Đăng, lần nào cũng bắt gặp cậu ta đang nhìn mình. Nguyệt nghĩ, cậu ta cũng thích mình, nếu không, sao cứ nhìn mình mãi thế, và ngợp đi trong niềm vui dâng lên. Cảm giác như có cái gì chạm vào người, Nguyệt giật bắn, ngoảnh lại, thì ra Đăng đứng ngay sau lung, đưa chiếc đòn gánh khẽ chạm vào người cô ”Con trâu tự lên rồi…Trả Nguyệt đòn gánh này”. Đăng chỉ nói được có vậy rồi đứng chết trân. Nguyệt cố nói to “Để đây cho tớ …Tờ nói rồi, khi nào cắt xong tớ qua lấy mà”. Quấn áo ướt, Nguyệt cứ ngồi, nhưng thấy vậy thật không tiện, bèn đứng dậy, lùi cách xa một chút, hai tay lúng túng che che sợ Đăng nhìn rõ thân thể mình trong quần áo ướt bết. Đăng biết ý nhìn ngang, bảo “Ban nãy, may có cậu… không thì tớ … không biết thế nào… Cảm ơn cậu nhé!...”. Hai cặp mắt đối nhau, Nguyệt cảm nhận mắt Đăng nhìn mình khác lạ, như có gì đó bùng cháy…Nguyệt né cái nhìn ấy, và cô thoát ra bằng cách xẻ một phần cỏ mình vừa cắt, để riêng ra, bảo “Cậu mang cho con Ba Gông ăn thêm, rồi về đi, kẻo người ngấm nước lâu cảm lạnh đấy… Tớ cùng về đây:”. Nguyệt xếp quang gánh cỏ, quảy lên vai, chào Đăng. rảo bước, không ngoành lại, nhưng linh cảm mách bảo, Đăng vẫn đứng đấy nhìn theo mình. Nguyệt tự nhủ lòng, cậu ấy thích mình thật rồi, và tự nhiên, cô đưa lén tay khẽ chạm vào phần ngực mẩy thiếu nữ của mình…
Những năm tháng ấy, cuộc chiến tranh chống Mỹ ngày càng ác liệt. Mỗi năm, vài lần tuyển quân, trai làng lác đác nhập ngũ, ở làng chỉ còn đám choai choai và đàn ông đứng tuổi. Anh trai của Nguyệt vừa tốt nghiệp cấp 2 là nhập ngũ ngay. Người đi ra chiến trường vẫn đi, không khí vẫn hào hùng lắm, Ngược chiều ấy, lâu lâu tin buồn về làng quê một âm thầm lặng lẽ, ấy là giấy báo tử các liệt sĩ đã hy sinh ở mặt trận và nó chỉ bùng ra trĩu nặng, uất hận, đau buồn trong lễ truy điệu ở đình làng. Ấn tượng và ám ảnh mãi về sau, còn là sự trừng phạt đối với một vài người đào ngũ, bằng cách cho dân quân áp giải họ trên đường làng, đeo biển trước ngực “Ai cũng hèn nhát như tôi thì mất nước”. Nguyệt thương và lo cho anh trai mình lắm, nhưng lại cầu mong anh ấy đừng có đào ngũ, để khỏi phải chịu nhục như vậy. Cái Hớn bày tỏ muốn đi bộ đội hay thanh niên xung phong để được cống hiến. Và nó được toại nguyện. Hôm mấy đứa gặp nhau ngoài đồng, nó bảo :”Chào các cậu, tớ sắp đi thanh niên xung phong rồi. Bố tớ bảo trai thời loạn mà. Tiếc cái, tờ là con gái, nếu vào bộ đội, tớ cũng có thể thành dũng sĩ diệt Mỹ, thành anh hùng…”. Nó hớn hở, nhơn nhơn chỉ tay vào mặt Đăng:”Con trai như anh, xung phong nhập ngũ đi chứ… Nghe bảo, mấy đứa ở làng bên còn cắt tay lấy máu viết đơn xin nhập ngũ đấy.”. Thấy mặt Đăng tĩn ra, Nguyệt thương, cãi hộ “Cậu ấy vẫn chưa lớn  mà… với lại có đi khám nghĩa vụ quân sự cũng không đủ sức khỏe đâu…”. Cái Hớn nhìn chăm chăm từ đầu đến chân Đăng bảo: “Ừ nhỉ… cái mã anh thì sao đeo nổi ba lô, còn gạo nước, súng đạn nữa chứ”. Bộ dạng, mặt mũi Đăng nhăn nhó trông thật tội nghiệp. Nguyệt cố đùa để lấy lại tinh thần cho Đăng “Với lại, ai cũng ra trận hết thì sau này chiến tranh kết thúc, thông nhất đất nước, lây đâu ra người để xây dựng lại đất nước… Đăng học giỏi, học tiếp thành kỹ sư, tiến sĩ, mai đây cống hiến vẫn kịp mà…”. Đăng nhìn Nguyệt, ánh mắt tỏ vẻ biết ơn, nói như tự nhủ “Mình cũng nghĩ thế!...”.
Cái Hớn đi. Bố nó đem thư nó khoe với hàng xóm, nên người làng ít nhiều biết được mặt trận trong ấy cũng đầy gian khổ hy sinh,.. Thế rồi, chuyện buồn đến với nhà Nguyệt. Giấy báo tử anh Trung, anh trai Nguyệt hy sinh ở chiến trường B.
Lễ truy điệu anh Trung ở sân đình, giữa đám dân làng, Nguyệt thấy thấp thoáng bóng Đăng, nhưng cậu ta e dè đứng xa lẫn vào đám đồng. Sau đấy, Nguyệt vẫn phải đầm ải việc đồng áng, vì bố mẹ dường như già yếu đi trông thấy sau khi anh Trung hy sinh. Chị gái Nguyệt lấy chồng ở xã bên, năng đi lại an ủi cha mẹ hơn, nhung việc chính trong nhà, Nguyệt phải đảm đương hết. Tuổi mới lớn, chưa kịp  niềm vui hoa niên thì đau buồn đã ập đến, làm Nguyệt vốn bản tính nhu thuận, lại thêm lặng lẽ hơn. Mỗi khi ra đồng, làm gì thì Nguyệt cũng có ý, đưa mắt quanh quất, bao quát xem có bóng dáng Đăng không. Hết cấp 2, Nguyệt ở nhà làm ruộng giúp gia đình, Đăng học lên cấp 3 nên phải đi trọ học xa. Cuối tuần nào, Đăng cũng về nhà, thi thoảng ra đồng giúp bố mẹ, nên hai người cũng khó giáp mặt nhau. Thiếu bóng dáng Đăng, Nguyệt thấy công việc đồng áng chẳng còn thú vị gì nữa, nhưng cô không thể không làm. Nguyệt váng vất trong lòng bởi không ngờ mình lại đem lòng yêu mến, quý trọng người anh họ xa kém mình vài tuổi, thư sinh nho nhã ấy. Thâm tâm, Nguyệt hiểu, Đăng cũng có tình cảm đặc biệt với mình, nếu không muốn nói là thích mình ra mặt,... Cô cũng ý thức được hình thức xinh đẹp của mình. Người như Nguyệt, nếu không phải vì chiến tranh, làng quê thiếu trai tráng, thì có mà đắt như tôm tươi, nhiều nhà tranh nhau đánh tiếng. Hoàn cảnh chung vậy, Nguyệt không dám nghĩ về chuyện chồng con của mình. Ngay như tình cảm thầm kín giữa Nguyệt và Đăng, hai người hiểu lòng nhau, nhưng không một ai dám thộ lộ. Với Nguyệt, lớn tuổi hơn, nếu như Đăng chủ động, cũng chưa chắc cô dám đón nhận, bởi chiến tranh vẫn còn đó, ngày thêm ác liệt, ái dám bảo không, ngày một ngày hai, Đăng cũng sẽ lên đường nhập ngũ, vào mặt trận và không bao giờ trở về như anh trai Nguyệt và bao trai tráng khác? Nếu không, học giỏi như cậu ấy, sẽ học lên cao nữa, thậm chí ra nước ngoài học tập, tương lai tiền đồ rạng mở, lúc ấy, Nguyệt và làng quê sao níu chân người đi? Và một cản trở nhãn tiền, ấy là cha mẹ hai bên, chắc gì họ đã đồng tình, ủng hộ, khi hai nhà có họ hàng xa với nhau, và Nguyệt lại hơn Đăng vài tuổi?... Nguyệt không dám nghĩ, lại càng chẳng dám mơ, hai người có hạnh phúc đôi lứa!... Còn Đăng, Nguyệt thầm phỏng đoán, cậu ấy thích mình bởi thứ cảm xúc nhất thời của chầng trai mới lớn, ít nhiều mang tính bản năng, khi mà Nguyệt đang độ tuổi xinh đẹp mỡ màng của thiếu nữ dậy thì, tính nết lại ngoan hiền, chăm chỉ, nhường nhịn...
Với ý nghĩ như vậy, Nguyệt cố dứt mình ra khỏi thứ tình cảm thuần khiết đầu đời dành cho Đăng, để quyết định việc lựa chọn người đàn ông của đời mình,,,
X
Số là, làng Hạ đang ảm đạm bởi những mất mát đau thương vì một số trai làng hy sinh nơi mặt trận, thì không khí bỗng thay đổi đột ngột, tưng bừng hẳn lên, khi có một người anh hùng từ chiến trường trở về. Người ấy là anh Dũng. Nói là anh hùng thì hơi quá, đúng ra, anh Dũng được phong danh hiệu dũng sĩ diệt Mỹ. Anh ấy hơn Nguyệt mấy tuổi, nhập ngũ trước anh trai cô một năm, Khi còn học cấp 3, anh ấy học giỏi văn và nói năng lưu loát, văn hoa. Nhập ngũ, huấn luyện rồi đi chiến trường B. biền biệt mấy năm không tin tức, nay bỗng trở về với danh hiệu dũng sĩ và là thương binh vì mất một bên chân. Việc anh Dũng trở về gây nên một sự kiện chưa từng có ở làng Hạ, thậm chí cả xã, Từ cán bộ xã, đến cán bộ các đoàn thể, thôn xóm đều đến tận nhà thăm anh. Họ hàng, làng xóm cũng ùn ùn kéo đến thăm. Đến nhà anh, không những để chia vui, và để hỏi thăm người nhà đang ở mặt trận, còn để nghe anh Dũng kể chuyện chiến đấu nơi chiến trường ác liệt ra sao... Đảng ủy xã gợi ý và tổ chức mời anh Dũng đứng ra nói chuyện với mọi người nhằm động viên tinh thần chiến đấu, sản xuất chung. Sau buổi tổ chức ở xã, anh Dũng nói chuyện ở làng. Mọi người càng xôn xao chuyện về anh Dũng bao nhiêu, thì nhà Nguyệt tủi thân bấy nhiêu, nỗi buồn vì anh Trung hy sinh. Nguyệt cứ ước, giá anh Trung mình cũng như anh Dũng thì hạnh phúc bao nhiêu. Buồn là thế, nhưng khi anh Dũng kể chuyện chiến trường ở sân đình, Nguyệt có đi nghe, nhưng chọn chỗ xa đứng. Công bằng, anh Dũng kể chuyện rất cuốn hút, dẫn dắt, lưu loát, truyền cảm, khiến mọi người khi lặng đi vì xúc động, lúc lại ồn lên vui vẻ vì sự hài hước. Nguyệt ngồi khá xa bàn diễn giả, và nghe cũng câu được câu mất, nhưng cô cảm thấy ánh mắt anh Dũng luôn dõi thẳng vào mình. Vì vậy, cô vờ như không biết, quanh quất nhìn đi đâu đó. Khi anh Dũng nhăc tên vài ba chiến sĩ người lầng đã hy sinh, có tên anh Trung, thì anh nhìn thẳng vào mắt Nguyệt, khiến cô trào nước mắt suýt bật khóc thành tiếng. Kết thúc buổi nói chuyện, anh Dũng hùng hồn nói những lời như hiệu triệu. Khi dân làng giải tán, ra về hoặc túm lại thành từng nhóm, chuyện trò này nọ, không ngớt lời khen ngợi, thì anh đi thẳng đến chỗ Nguyệt đứng. Nguyệt thắt tim không biết ứng xử ra sao thì anh ân cần: “Nguyệt phải không?... Anh đi mấy năm mà ở nhà em lớn vổng lên,… xinh quá... Anh suýt không nhận ra đấy... Anh lấy làm buồn tiếc khi biết tin anh Trung em hy sinh... Chiến trường mà, mũi tên hòn đạn nó tránh mình, chứ mình làm sao tránh nó... Lúc ấy chỉ còn biết tìm địch mà tiêu diệt... Anh may mắn hơn, chỉ mất một chân... Nhưng không sao, em à. Còn một chân với hai cánh tay này, không chiến đấu nơi chiến trường thì cống hiến nơi mặt trận sản xuất, xây dựng... Em ạ, anh tin mình đủ khả năng gánh vác việc gia đình...”. Câu cuối, anh trầm giọng nhỏ như chỉ đủ cho hai người nghe. Sau này, khi lấy nhau. Nguyệt mới hiểu, khi ấy, anh Dũng đã hàm ý việc sẽ hỏi mình làm vợ...
Và rồi, chì dăm tháng sau, bao ồn ã từ việc anh Dũng xuất ngũ về làng với các câu chuyện chiến trường của mình lắng đi, thì anh lại gây nên một xôn xao mới, ấy là việc đánh tiếng hỏi Nguyệt làm vợ. Làng nước, ai cũng khen là đẹp đôi vừa lứa, trai anh hùng, gái thuyền quyên. Gọi anh Dũng là trai anh hùng cũng là xứng đáng với những cồng hiến và mất mất của anh cho chiến tranh thống nhất đất nước, còn Nguyệt, nói gái thuyền quyên thì hơi quá, song ở tuổi mười tám đôi mươi, dẫu không giỏi giang xuất sắc nhưng xinh xắn và hiền thục. Bố mẹ Nguyệt mừng lắm, phân giải cho cô, tuy anh Dũng là thương binh đấy, nhưng như vậy là phúc rồi, lại nữa, anh đang là sự ngường mộ của mọi người, lấy nhau, vợ chồng yên phận mà sản xuất, sinh con đẻ cái. Nguyệt có vẻ thuận theo, nhưng trong lòng, vẫn ít nhiều vương vấn mối thiện cảm với Đăng. Song le, chuyện ấy chỉ hai người biết với nhau, có chăng, mẹ Nguyệt mơ hồ biết chuyện, tìm cách gạt ngay đi để Nguyệt không mơ tưởng gì, bảo “Con gái có thì, chiến tranh thì ngút trời như thế, biết đâu mà lường, con ạ... Với lại, nhà bên ấy dòng Nho gia nền nếp, chọn dâu con kỹ lắm, duyên số có thành thì làm dâu cũng mệt... Mà nhà người ta có hỡi hơi gì đâu,… chẳng nhẽ cọc đi tìm trâu à?”. Mẹ Nguyệt buông mấy câu như vậy khi có hai mẹ con với nhau, lửng lơ vậy thôi nhưng có sức lay chuyển, và Nguyệt sụp đỏ trước lý lẽ đó, chấp thuận việc đánh tiếng ngỏ lời của anh Dũng. Việc chọn ngày cũng phiên phiến  vì chiến tranh. Động viên thành tích của anh Dũng, xã bán phân phổi cho anh ít bánh kẹo, chè gói và thuốc lá để tổ chức đám cưới.
Trước lẽ cưới ít ngày, một chiều, Nguyệt tranh thủ làm đồng giúp bố mẹ. Xong việc, chiều đã muộn, Nguyệt ra bờ sông rửa chân tay, định về thì chạm trán Đăng. Cậu ta trọ học xa nhà, chiều ấy từ nơi trọ về nhà. Thấy Đăng, Nguyệt lúng túng như người mắc lỗi, lí nhí chào. Khác mọi khi, Đăng mạnh bạo, chủ động nói chuyện. Hai người đi sóng đôi nhưng Nguyệt lánh xa đủ để nói chuyện. Chuyện nhì nhằng một hồi, khi gần đến cây đa đầu làng, Đăng dặng hắng, hỏi  “Nghe nói... Nguyệt săp lấy chồng?”. Nguyệt bước chậm như đứng lại “Ừ... Đăng biết rồi à?”. “Chủ nhật tuần trước về nhà, ... mẹ tớ nói...Vậy là đúng...”. “Vài ngày nữa là chúng tớ tổ chức đám cưới...”. “Nghe nói... là anh Dũng... Anh ấy xứng đáng mà... Anh ấy thật may mắn ... khi lấy được Nguyệt...”. “Tớ tưởng cậu nghĩ... tớ may mắn lấy được anh ấy cơ ?”. Nguyệt thoát khỏi mặc cảm có lỗi, cố đùa. Hai người dừng hẳn, đối diện nhau, Đăng nói chậm, từng từ một “Nguyệt có yêu... À, có thích anh ấy không?’. Hai cặp mặt gặp nhau, Nguyệt nói lảng tránh “Bố mẹ tớ... cả tớ... đồng ý lời cầu hôn của anh ấy...”. Đăng nén tiếng thở dài “Đáng tiếc... tớ không phải là người may mắn... Chúc đắng ấy hạnh phúc!...”. Nguyệt nín thinh, cúi mặt “Đăng còn trẻ... Lại học giỏi... tương lai rạng ngời...chờ cậu mà...”. Đăng gặng “Cậu có vẻ buồn? Sắp cười rồi... thì phải vui chứSao vây?”. Nguyệt như muốn khuỵu chân, lấy hết can đảm “Tớ xin lối... ấy nhé...”. Rồi như một kẻ trốn chạy, Nguyệt nén bật khóc, rảo bước thật nhanh  đi hút vào đường làng. Đến khúc ngoặt, Nguyệt mới dám ngoải nhìn lại, Đăng vẫn đấy, cái bóng mảnh khảnh thư sinh của cậu ta như một dấu chấm phảy trong bóng hoàng hôn...
 
X
Mới đó, mà đã hơn bốn mươi năm rồi...
Ánh chiều đã tắt. Sương phảng phất đâu đó nơi ngọn cây. Bà Nguyệt thở dài, đứng dậy dọn dẹp bát đũa, nôi niêu. Khép cửa bếp, lên nhà, đến trước gương. Lâu rồi, bà mới dám đứng trực diện soi gương. Đâu rồi gương mặt trái xoan vẻ buồn buồn, hàm răng trắng đều và mái tóc đen dày dài chấm thắt lưng tuổi mười tám đôi mươi của cô Nguyệt xinh có tiếng trong làng? Giờ chỉ còn gương mặt hao mòn dày nếp nhăn và mái tóc thưa mỏng bạc già nửa... Bật đèn sáng trưng, từ hôm chồng vắng nhà, bà Nguyệt thích để đèn sáng, bật ti vi cho đỡ cô quạnh. Ngó mặt ti vi mà bà chẳng rõ người ta nói gì ở đấy...
 Ngần ấy năm, vẫn tất bật sớm hôm việc đồng áng, nhà cửa. già đi là đương nhiên, song bà Nguyệt hiểu mình già hơn so tuổi. Lo việc nhà chồng, nhà mình, bà như đã quên Đăng từ lâu lắm rồi. Sau lần giáp mặt cuối cùng ấy, thi thoảng Nguyệt thấy bóng dáng Đăng đâu đó trong làng. Đăng có đi khám nghĩa vụ quân sự nhưng không đủ sức khỏe nhập ngũ, tốt nghiệp cấp 3 thì cũng là lúc giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Đăng đậu đại học, ra trường nhận công tác mãi phương Nam. Bố mẹ Đăng người trước người sau mất cả, các chị gái lấy chồng nên nhà vườn ở làng Hạ bỏ không nhờ người quen trông hộ. Lâu lâu, người làng thấy Đăng đáo về thăm nom ...
Còn Nguyệt, sau đám cưới, chỉ biết chuyên tâm, quán xuyến việc cả hai gia đình. Sống với nhau, Nguyệt hiểu, ngoài chuyện chiền trường, chồng mình cũng chỉ văn hoa vặt vãnh thôi, chứ kiến thức chẳng là bao. Thêm nữa, việc đồng áng cũng không mấy thạo, sức khỏe yếu vì thương tật nên bao việc nặng nhọc hai bên đều đổ hết vào đầu Nguyệt. Thực lòng, cô cũng không trách gì chồng, hiểu chồng mình đã hiến tuổi thanh xuân cho chiến tranh và bị thương tật đã là một thiệt thòi lớn. Sự buồn tủi của Nguyệt ấy là mãi không chửa đẻ. Vài ba năm, rồi dăm năm qua đi, Nguyệt không một lần mang thai. Làng xóm cũng xì xào này nọ, người chê cô đực, không biết chửa đẻ, kẻ lại bảo anh Dũng bị nhiễm gì đó ở chiến trường nên tịt dường con cái. Chẳng biết giải thích làm sao, Nguyệt thây kệ, nhưng thâm tâm, tự biết mình vẫn đầy đủ, đều đặn chức năng sinh lý đàn bà. Vậy thì chỉ có thể tại chồng thôi. Nghĩ vậy, song cũng không dám nói thẳng với chồng. Có vài ba lần Nguyệt tìm thầy, thuốc thang, đông tây y đủ cả nhưng vẫn chẳng được. Cực chẳng đã, Nguyệt đánh bạo nói với chồng, thì anh Dũng gạt phắt, bảo anh khỏe mạnh, ngoài cái chân cụt ra, không bệnh tật gì cả. Nói vậy thôi, anh Dũng có thể giấu người ngoài chứ làm sao giấu được Nguyệt. Vợ chồng đầu gối tay ấp hàng đêm, chuyện giường chiếu, chăn gối ra sao, Nguyệt hiểu chứ. Vốn bản tính hiếu thắng nên anh Dũng không bao giờ nhận lỗi về mình. Sự hiếu thắng của một người lính trận trở về bộc lộ cả trong chuyện tình ái với vợ ngay đêm tân hôn. Khi Nguyệt còn chưa hiểu chuyện gì xảy ra thì anh Dũng đã làm xong nhiệm vụ con đực của mình với vẻ hoan hỉ. Nguyệt những tưởng có thể chồng háo hức kiểu của đàn ông lần đầu lâm trận. Nhưng rồi, sau vẫn vậy, nên Nguyệt chưa một lần có được cảm giác sung sướng đàn bà. Nói năng thì khéo léo là thế nhưng chuyện chăn gối anh Dũng lại vụng về, đơn điệu, vị kỷ…Và dần dần, mỗi lần chăn gối, Nguyệt chỉ còn cảm giác cam chịu cho xong chuyện. Song như thế còn là may mắn. Sinh lực đàn ông trong chuyện tình dục của anh Dũng như ngọn đèn hao dầu cạn bấc, chập chờn, le lói và lụi dần. Kể cả việc chồng trở thành bất lực đi chăng nữa, Nguyệt cũng cam chiụ nếu như trước có được mụn con. Mỗi đêm, vợ chồng nằm bên nhau, canh thâu đằng đẵng, nhiều lúc Nguyệt ứa nước mắt tủi thân, nhưng ngẫm nghĩ, chồng mình cũng đáng thương lắm chứ. Mươi năm vẫn không con cái, muốn níu giữ gia đình, Nguyệt hiểu mình phải có con bằng mọi giá. Người chị ruột nhỏ to, bàn với Nguyệt, tính toán nếu thuốc thang không được mà mình vẫn có thể sinh đẻ, thì liều một phen, chủ động xin giống của ông thầy thuốc nào đó, miễn sao có thai sinh con. Ai biết đấy là đâu. Chuyện này, Nguyệt nghe đâu đó đã từng, song bản tính nhu mì, không dám nghe theo. Thực lòng, những năm tháng không con cái, hằng đêm, vợ chồng nằm cạnh nhau như hai miếng gỗ ghép không khớp, Nguyệt cũng từng phiêu lưu trong ý nghĩ. Có nhiều lần, Nguyệt khát khao được ân ái thì chồng cũng chỉ ôm ấp, vuốt ve qua loa. Nguyệt đã nghĩ về người đàn ông thuở hoa niên của lòng mình, và tự hỏi, nếu hai người có duyên phận với nhau, biết đâu có vài ba đứa con cũng nên. Lại có lúc nghĩ quẩn, Nguyệt khát khao đàn bà ước được ôm ấp, được dâng hiến cho người ấy... Song mới chỉ nghĩ vậy thôi, Nguyệt đã cảm giác của người có lỗi với chồng... Chồng buồn một thì Nguyệt buồn mười, song cứ buồn phiền thì cuộc sống chỉ mòn mỏi thêm mà thôi. Cuối cùng, vợ chồng bàn bạc, nhờ cậy tận bệnh viện tỉnh, xin được một trẻ sơ sinh trai vô thừa nhận, về nuôi làm con. Khi nhà có tiếng trẻ khóc cười, niềm vui đến với vợ chồng Nguyệt như một sự đến bù của cuộc đời.
May là, cu Đạt, đứa con nuôi lớn lên khỏe mạnh. Dù không giỏi giang nhưng được cái lanh lợi, biết nghe lời cha mẹ. Đến tuổi, cu Đạt đi nghĩa vụ quân sự, đóng quân mấy năm ở miền Trung du. Ra quân, thấy miền đất ấy thuận lợi cho việc làm kinh tế, nó xin với bố mẹ thuê gom đất lập trang trại canh nông, rồi bén duyên với cô gái bản địa, nên vợ chồng. Giờ thì Nguyệt đã là bà nội của hai đứa cháu đủ nếp tẻ. Rốt cuộc, hạnh phúc cũng mỉm cười với vợ chồng Nguyệt, bù đắp cho những gì là thiệt thòi của mấy chục năm qua... Cu Đạt, dẫu chẳng phải giọt máu của vợ chồng Nguyệt, nhưng người xưa bảo “cha sinh không bằng mẹ dướng”, nó về làm người của nhà Nguyệt từ lúc lọt lòng, cũng đâu có khác con ruột. Thiên hạ đầy rấy nhà con cái hư hỏng, cha mẹ đau xót đã phải thốt lên rằng “biết khổ thế này, tao bóp chết mày từ lúc sơ sinh”…Được như vậy, với Nguyệt là may mắn rồi…
Thực ra, khi nhà có tiếng trẻ khóc cười, mọi quan tâm đổ dồn hết vào đứa con nuôi. Hạnh phúc đôi lứa của vợ chồng Nguyệt đâu cfn quan trọng việc chăn gối, mà niềm vui là ở đứa con kia.
          Đã từng này tuổi đầu, chuyện cũ đã qua đi những bốn mưới năm, bà Nguyệt chẳng còn vui buồn với quá khứ xa xưa. Sở dĩ. bà nhớ lại, nghĩ ngợi chuyện cũ, là bởi vài năm gần đây, các anh chị em nhà Đăng về quê cho xây ngôi thờ tự trên nền đất vườn có ngôi nhà gianh vách đất cũ. Kể từ đó, Đăng và vợ con hay về quê hơn. Năm trước, sau bao nhiêu năm, Nguyệt mới giáp mặt Đăng. Chùa làng được trùng tu, Đăng về quê, đến chùa thắp hương công đức. Hai người chạm mặt nhau nơi cổng chùa, mặc dù bà Nguyệt cố tình né đi, giấu mặt dưới khăn choàng đầu, song Đăng vẫn nhận ra, chào trước “Bà Nguyệt đấy à? Có phải Nguyệt không?”. “Vâng, tôi … Ông về quê,… lên chùa lễ Phật ạ”. “Lâu lắm rồi… mới gặp lại…bà… Ông nhà và cháu khỏe chứ?...”. “Vâng,…Cảm ơn ông hỏi thăm … ông nhà tôi và các cháu vẫn thường…Bà nhà và các cháu có về cùng ông không ạ?… Cho tôi gửi lời thăm sức khỏe…”. Đại khái mấy câu xã giao vậy, bà chủ động cắt chuyện cáo lỗi đi trước. Tưởng chỉ vậy, nhưng sau đó bà cũng nghĩ ngợi ít nhiều. Mới hôm trước, bà đi làm đồng, nhác trông xa biết vợ chồng Đăng đang xây lại mộ cha mẹ. Bà chống lưng nhìn, thoáng chạnh lòng. Mà ngày trước cũng đâu vào đâu, ngoài chút tình cảm nam nữ của những kẻ mới lớn. Nghe đâu, mấy đứa con của Đăng học hành giỏi giang lắm, còn Đăng thành nhà văn nhà thơ gì đó. Bà Nguyệt từng nghe đám thanh niên ở làng kháo nhau rằng, chúng đọc trên mạng, thấy thơ văn của ông Đăng viết nhiều về chuyện làng mình, cả về Nàng Thơ ngãy xưa chi dó, không biết có thật không và là ai nhỉ? Bà có chút bâng khuâng trong lòng, chả nhẽ, ông ấy viết về mình?...
           Chợt có tiếng chuông điện thoại. Chồng bà gọi về bảo, ông sẽ ở thêm mươi ngày nữa nơi trang trại của con. Cũng báo thêm, vợ chồng cu Đạt muốn năm nay đón bố mẹ lên ăn Tết trên ấy, thay vì như mọi năm, vợ chồng con cái chúng kéo nhau về quê ăn Tết với bố mẹ, và ông đang cân nhắc…
Bà Nguyệt chộn rộn, thắp một tuần hương trên bàn thờ gia tiên, thầm nghĩ, ừ có lẽ như thế cũng hay?!.. ./.
 
 
Đã mang vào thư viện 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.02.2021 04:54:41 bởi Ct.Ly >

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Chiều Ghềnh Ráng - 04.04.2020 16:33:26
Thương nhớ những chuyến phà.
 
Trong cuộc đời làm việc của mình, nhất là từ khi vào nghề làm báo chuyên nghiệp, những chuyến công tác đó đây, gần xa, tôi đã từng qua biết bao chuyến phà... Từ chuyến đò ngang sông quê đầu đời ngày nhỏ đi học, cho đến ngưỡng tuổi già, để xuôi chuyến đò dọc cuộc đời dần về cuối bến, làm sao nhớ nổi những lần đò phà ngang bến bãi cơ chứ ?,,, 
Có lẽ, ở xứ sở Việt mình, với mỗi người, tiếng hát ru của mẹ thời thơ ấu và tiếng gọi đò khi lớn khôn là gợi nhớ nhất, nó đi theo ta suốt cả cuộc đời !?...
"Đò ơi... đò ơ ơ ơ...i...", tiếng gọi đò lúc chiều buông bến vắng, của những ai từng lỡ đò, chờ đò mãi chẳng được, thả một nỗi buồn len vào lòng lữ khách và mãi không tan... 
           Ở xứ sở mình, nắng lắm mưa nhiều, sông ngòi giăng mắc như mạng nhện, ai đâu biết có bao nhiêu bến đò, phà?... Sông ngăn cách trở, vô tình cho những con đò, chiếc phà sứ mệnh nối liền hai bờ thương nhớ của mỗi đời người...
           Đã bao lần qua đò, qua phà, chẳng thể nhớ số chuyến, nhưng vẫn có những lần đò phà để nỗi nhớ khôn nguôi. Nỗi nhớ này nó không cồn lên như nỗi nhớ tình yêu đầu đời đánh mất, cũng chẳng khứa vào lòng như những trắc trở đường đời, mà nó chỉ man mác như có như không, chợt thấy chợt tan, mỗi khi ta ngang qua một dòng sông nào đó ...
Chuyến phà đầu tiên tôi mà tôi nhớ lại rất bình yên, Ấy là khi tôi đang học đại học. Cậu bạn cùng lớp Hoàng Gia Trình, rủ về thăm nhà bạn ở mãi tận Hưng Hà, Thái Bình. Tôi lai Gia Trình trên chiếc xe đạp Phượng Hoàng từ nhà tôi, gần Phố Nối, theo đường 39 đến thị xã Hưng Yên, rồi rẽ theo đường đê vài cây số đến bến phà Triều Dương thuộc địa phận Tiên Lữ. Dòng sông Luộc nước hiền hòa, đôi bờ xanh rờn ngô lúa. Ngoài con sông Hồng, sông Đuống, sông Thái Bình, thì đây là lần đầu tiên tôi biết sông Luộc. Anh bạn Gia Trình chỉ tay sang bờ bên kia bảo, qua phà đi thêm chục cây số nữa mới đến, ở phía ấy còn có sông khác là Trà Lý. Tôi nghe tên sông này hay hơn tên sông Luộc nên thích ngay. Không ngờ, sông Luộc còn có tên chữ là Phú Nông. Ngày xưa qua sông này về quê vợ Thái Bình, thi hào Nguyễn Du đã cảm tác thành thơ (Độ Phú Nông giang cảm tác). Xưa kia, Nguyễn Du gắn bó với vùng đất sông Luộc này. Ngay từ khi còn nhỏ, lúc gia đình ở Thăng Long bị loạn lạc, Nguyễn Du đã được Đoàn Nguyên Tuấn, bạn thân của Nguyễn Nghiễm (anh ruột Nguyễn Du) đưa về nhà mình ở Quỳnh Côi (Thái Bình) nuôi ăn học như người thân. Không những thế, sau Nguyễn Du lấy vợ là em gái Đoàn Nguyễn Tuấn, trở thành con rể của Hoàng giáp Đoàn Nguyễn Thục. Thái Bình trở thành quê vợ và nơi trú ngụ của Nguyễn Du, bởi sau này, dưới triều Tây Sơn, Đoàn Nguyễn Tuấn ra làm quan, nhưng Nguyễn Du vẫn giữ quan điểm trung với vua Lê chúa Trịnh, không muốn làm quan với nhà Tây Sơn, cũng lánh về đây ở ẩn một thời gian. Khi làm quan với triều Nguyễn, Nguyễn Du từng được bổ làm Tri huyện Phù Dung (thuộc Phù Cừ, Hưng Yên) liền kề vùng đất này. Vậy ra, một phần ba cuộc đời ông sống ở vùng sông Luộc này, bao nhiêu lần đò giang qua sông, nên có thơ cảm tác là phải thôi. Thời ấy, đôi bờ sông Luộc hẳn xanh tươi lắm, nên Nguyễn Du đã tả trong thơ mình "Du nhân vô hạn cảm/ Phương thảo biến thiên nhai" ( nghĩa là: Người lãng du dạ đầy thương cảm. Cỏ thơm rợn đến chân trời ).
          Trở lại chuyến đi ấy, Gia Trình qua lại đây nhiều nên khi yên vị trên phà, kể cho tôi nghe sơ lược lịch sử vùng đất quê mình, trấn Sơn Nam Hạ, xưa cũng là nơi phát nghiệp đế vương của nhà Trần (Hải Ấp, Lưu Xá, Hưng Hà, Thái Bình)... Chuyến đi ấy để lại cho tôi ấn tượng tốt về một vùng quê thuần nông thanh bình, yên ả. Để sau đó, trước khi cùng Gia Trình vào Nam nhận công tác, tôi về lại đây, một mình trên con ngựa sắt Phượng Hoàng, lốp nứt phòi cả săm, phải quấn tạm bằng dây chun, tôi phải vất vả vác xuống phà...
            Cùng với Gia Trình, chúng tôi vào Nam nhận công tác trên chuyến tàu hỏa bão táp vào đầu thu năm 1981, dọc đường phải nhiều lần tăng-bo, ngủ vạ vật ở nhà ga vì mưa bão miền Trung gây sạt lở chắn đường ở đèo Cù Mông, đèo Cả. Chia tay nhau ở Bến xe miền Tây, Sài Gòn, Gia Trình lên xe đi Bạc Liêu (Minh Hải), còn tôi về Long Xuyên (An Giang). Lần đầu chạm mặt đồng bằng sông Cửu Long bạt ngàn cò bay thẳng cánh, thấy Cửu Long giang sóng nước ra sao. Cho đến tận giờ, mỗi nhớ lại, tai tôi vẫn âm vang tiếng rao của những người bán hàng rong, đặc biệt là nem Lai Vung ở bến Bắc Mỹ Thuận qua sông Tiền. Tiếng rao cất lên đều đều, buồn buồn, gợi nỗi nhớ nhà da diết, dù mới đi xa nhà có một tuần. Người Nam gọi phà là bắc, lúc ấy tôi chưa hiểu, nên cứ nghĩ là bến phà Mỹ Thuận này ở phía Bắc, vậy còn bến phà nữa ở phía Nam. Nhưng rồi, xe đi trên đất huyện Lấp Vò (Đồng Tháp) đến bến phà nữa, là Bắc Vàm Cống, qua sông Hậu, bờ bên đã là đất Long Xuyên (An Giang) rồi. Tôi thắc mắc mà không dám hỏi ai, phần vì ngại, phần "sợ quê", để dần dà tìm hiểu sau. Miền Tây Nam bộ đang mùa lũ, năm ấy lũ lớn, đồng ruộng trắng băng, phân biệt ruộng với sông nhờ những hàng dừa nước xanh chớp chới. Con phà đầy nhóc ô tô, xe máy và người, lừng lững như dãy nhà hai tầng chênh chếch nương theo con nước mà sang bờ bên. Buồn vui chộn rộn, lạ lẫm xen chút lo lằng, không biết mình sẽ nhiệm sở ra sao. Đầu lởn vởn câu thơ Huy Cận "Lòng quê rờn rợn vời con nước/ Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà". 
            Khi về Bảy Núi, Tri Tôn công tác và ở đấy gần bảy năm trời, tôi bao lần qua lại mấy bến phà này (Vàm Cống, Cần Thơ, Mỹ Thuận) mỗi lần lên Sài Gòn,đi phép ra Bắc. Rồi đó, những chuyến đò dọc, chẳng khác chi dân thương hồ miền Tây, đi công việc tại những điểm xa như Ba Chúc, Lạc Quới, Vĩnh Gia, hay sang tận Hòn Đất, Hà Tiên...
            Sau này, anh bạn Gia Trình rời Bạc Liêu, về nông trường Đông Anh, Hà Nội làm việc, tôi cất công đến thăm bạn, lần mò hỏi đường, người ta bảo đừng theo đường vòng Cầu Đuống mà đi tắt qua bến phà Đông Trù, gần ngã ba Dâu, nơi sông Đuống lấy nước từ sông Cái. Sông không rộng nhưng nước xiết, nên cảm giác sờ sợ. Qua phà, đạp xe theo đường đê, ngang đất Mai Lâm, lại nhớ đến chuyện bố tôi hay kể rằng ngày xưa hay vỡ đê sông Cái hoặc sông Đuống, đâu quãng ấy, nên đời sống người dân trong vùng cơ cực lắm.  Năm nào mùa mưa lũ, cũng lo ngay ngáy, sợ vỡ đê, chẳng chết trôi thì cũng chết đói. Chẳng thế mà, cụ Ngô Tất Tố, người quê đây, chẳng cần đi đâu xa, cứ chất liệu thực tế ở vùng quê mình mà viết nên các tác phẩm kinh điển của văn chương xứ Việt là Việc làngTắt đènLều chõng... Nhờ thế, khi làm báo chuyên nghiệp, tôi đã trở lại vùng quê này, để thực hiện một chương trình phát thanh đặc biệt trong dịp Lễ Quốc khánh.
            Trong cuộc đời làm báo chuyên nghiệp, công tác liên miên, sông ngòi, đò phà là chuyện cơm bữa. Hầu như các phà lớn, tôi đều qua hết, như phà Tân Đệ, Đò Quan, Ninh Cơ (Nam Định), phà Bính, phà Gót, phà Đình Vũ (Hải Phòng), phà Bãi Cháy (Quảng Ninh), phà Đà Bắc (Hòa Bình), phà Bến Thủy (Nghệ An), phà Sông Gianh, bến đò Son (Quảng Bình), bến đò Vàng (Bắc Ninh), bến đò Ninh Xá (Hải Dương) ... 
Phà Bãi Cháy, ngày trước cắt ngang vịnh biển, rộng và luôn đông khách, mỗi lần qua chờ cả tiếng đồng hồ là chuyện thường. Những ngày mưa giông, thời tiết xấu, phải qua phà thật ái ngại. Tôi đã gặp những lần như thế, lần qua Hòn Gai công tác, nhân tiện ghé thăm gia đình nhà thơ Trần Nhuận Minh, và một lần khác, đúng khi có bão rớt, tìm gặp nhà văn Dương Hướng và nhà thơ Trần Ngọc Tảo, nhờ chỉ dẫn để xuống Cẩm Phả, tầm bằng được nhà văn Võ Huy Tâm, thực hiện cuộc phỏng vấn ông về tác phẩmVùng Mỏ. Ngồi trên phà mà cứ nơm nớp lo lắng, ngộ nhỡ... May là không có chuyện gì bất trắc. 
            Giờ thì những nơi ấy phần lớn có cầu cả rồi. Nhiều cây cầu mang tầm vóc thể kỷ, như cầu Bãi Cháy, cầu Mỹ Thuận, cầu Cần Thơ, và mới đây nhất là Vàm Cống cũng đã thông xe, bỏ lại đó bến Bắc Vàm Cống, nơi ghi dấu ấn đầu tiên cuộc đời công chức của tôi. Năm 2017, trước khi nghỉ hưu, tôi có dịp đi lại tuyến đường Lấp Vò (Đồng Tháp) qua Bắc Vàm Cống sang Long Xuyên, để đi tiếp Tri Tôn, nơi 37 năm trước, tôi qua đây đi nhiệm sở, bắt đầu cuộc đời công chức của mình. Con phà hai tầng rẽ nước sang bên, nhìn cây cầu xây dở vắt ngang sông mà lòng nao nao, nhớ lại ngày xưa ấy, nhìn những cụm lục bình, nhưng cành mục trôi dạt trên sóng nước, tự nhiên thương cảm cả con phà lẫn những thợ thuyền vận hành, rồi sẽ ra sao khi thông cầu. Giờ thì tất cả đã đi bến bờ khác cả rồi... Một con đò nhỏ chở tuổi thơ ta qua sông quê, hay con phà khủng thì cũng như nhau cả thôi, đều có thân phận, đều trôi chảy cùng dòng sông và dòng đời !...
             Có một bến đò mà tôi chưa nhắc đến. Đấy là bến đò Hàn qua sông Thái Bình, từ thị xã Hải Dương sang đất Nam Sách. Bến đò này một thời như bến đò tình yêu của tôi. Ngày đó, tôi và người bạn gái ấy, hay cùng nhau qua đò Hàn sang Nam Sách thăm nhà Trịnh Bá Ninh và Trần Đăng Khoa, là những bạn chung của hai tôi. Mối tình đầu vụng dại, chỉ biết yêu hết lòng, còn chẳng biết đoán ý của người bạn gái nữa. Đò giang, sóng nước, mây trời, và cả thơ phú, đều bồng bềnh, choi vơi, nương theo tâm trạng buồn vui của lòng mình và gương mặt tươi tắn hay đượm buồn của người ấy... Và hình như, ở vào tuổi mới lớn, trong tình yêu, con gái thường là người dẫn dắt thì phải? Tôi như con đò để người ấy cầm lái, chèo đi đâu cũng được... Mối tình đầu đánh mất, cầu qua sông cũng đã bắc đâu đó, người xưa đi lấy chồng, mình cũng đã yêu người khác, rồi lập gia đình. Nghe đâu bến đò ấy vẫn còn, vì cuộc đời luôn có người lỡ dở cần qua sông...
            Tôi và người bạn ấy, sau gặp lại nhau, trêu đùa như chưa từng có chuyện gì, cũng chẳng còn nỗi đau khứa lòng nào... Nhưng bóng dáng con đò và tiếng gọi đò ơi lan trên sống nước một thuở thì vẫn như đâu đó!... Cuộc sông không thể dừng lại, những cây cầu hiện đại thay thế cho đò phà là lẽ đương nhiên, không thể à ơ thương nhớ mãi được. Cũng biết vậy, nhưng con người ta, chẳng thể cứ bảo không là thôi ngay được, khi mà nỗi nhớ thương những bến bờ và những chuyến đò phà một thuở, không phài là tội lỗi gì !,,,
 
Đã mang vào thư viện
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.02.2021 04:56:28 bởi Ct.Ly >

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Chiều Ghềnh Ráng - 06.04.2020 16:41:17
Chuyện tình của người đánh gộc tre.
Truyện ngắn
 
              Tôi xin kể lại một chuyện tình.
          Ấy là câu chuyện tình của người đánh gộc tre, mà tôi nghe được.s
          Ngày ấy, tôi mới ngoài hai mươi tuổi. Cuộc chiến tranh chống xâm lược Mỹ đã kết thúc được dăm năm. Cũng vì vậy, tôi không phải nhập ngũ mà được đi học đại học.
          Tôi tốt nghiệp đại học. Nhận giấy gọi công tác vào một tỉnh biên giới mãi tận cùng phía Nam. Đất nước mới giải phóng, mình lại vừa tốt nghiệp đại học, háo hức đi xa, nhất là được cống hiến xây dựng phát triển vùng đất mới mà trước đó còn bị chia cắt. Thế nhưng, tôi không yên lòng, bởi ở nhà, còn mỗi mình mẹ tôi, khi đó đã bắt đầu bước vào tuổi già. Thêm nữa, ngôi nhà gianh vách đất năm gian đã cũ nát, bắt đầu bị mọt, cần phải sửa chữa. Mẹ con tôi bàn nhau, trước khi tôi nhận công tác vào Nam, ở nhà tranh thủ làm mấy việc lớn. Nhờ bà con hàng xóm hạ ít xoan to trong vườn, chặt hết mấy bụi tre, đem ngâm nhờ ao làng, chờ vài năm nữa có tre gỗ sửa nhà. Xong việc, còn đám gốc tre phải được đào đánh bỏ đi hết để gây bụi mới. Phiền nỗi, cả làng, chẳng có ai theo nghề đánh gộc tre cả. Tôi dò hỏi mãi thì có người mách bảo là xã bên có lão Khoái là người chuyên nghề đánh gộc tre, nhưng lâu rồi không thấy lão ấy lang vãng nên chẳng biết có còn theo nghề hay đã bỏ, hoặc giả ốm đau bệnh tật gì chăng. Thây kệ, tôi lóc cóc đạp xe sang xã bên hỏi tìm đến tận nhà. Tiếp tôi, là anh Khoan, con trai lão Khoái. Chén nước, câu chuyện, tôi mới biết lão Khoái đã không còn trên cõi trần nữa. Anh Khoan bảo:
          - Tôi không định theo nghề của ông cụ nhà tôi. Tuy cũng có biết chút nghề này. Nó lao lực, cơ cực lắm, chẳng ai muốn làm. Nhưng mà tôi  nghĩ, thì cũng phải có ai làm chứ, với lại, tôi mới xuất ngũ, chưa có nghề gì làm thêm, tuy bị thương nhẹ, không mấy ảnh hưởng đến sực khỏe. Sức dài vai rộng, chẳng nhẽ ăn không ngồi dồi. Sẵn còn đồ nghề của ông cụ nên hàng xóm láng giềng ai biết nhờ thì làm giúp thôi.
          - Vâng, mong anh cứ coi tôi như hàng xóm láng giềng mà giúp cho. Nhà tôi xin chu toàn, công xá đầy đủ ạ.
          Anh Khoan có chút lưỡng lự nhưng thấy tôi khẩn khoản thì đồng ý. Hôm sau anh mang đồ nghề, đạp xe tìm đến nhà tôi, bắt đầu công việc. 
 
***
 
          Lũy tre to, khá lâu năm, nên một mình anh Khoái đánh gốc, cật lực cũng phải cả tuần. Theo đúng lệ, dù là khoán gọn trả công hay tính công nhật, thì gia chủ cũng phải lo bữa cơm trưa cho người làm công. Thêm nữa, hàng ngày nước nôi, ngô khoai gì tùy ý gia chủ. Lúc xong công việc, tính toán công xá, và mời người làm công bữa ăn tươi có đồ nhắm. Xưa nay vẫn vậy. Anh Khoan được cái dễ tính, ủ tích trả, thêm nước uống cả ngày, không nghiện ngập gì. Tôi ngoài những lúc giúp mẹ việc vặt, còn đâu, ngồi hẫu xem anh Khoan làm việc. chuyện trò làm vui, mang tính động viên. Mấy ngày đầu, anh Khoan còn giữ ý ít nói, vài hôm quen việc quen người thì hay chuyện hơn. Chuyện nọ dọ chuyện kia, rồi đến chuyện tiếu lâm cho vui mà quên nhọc. Tôi và anh thi nhau kể, lượm lặt chuyện hàng xóm, thiên hạ ra để kể, cái thật cái hư, miễn có cái mà cười vui...
          Đây là một câu chuyện anh Khoan kể cho tôi nghe...
Chuyện rằng, có một anh chàng chuyên nghề làm thuê nặng nhọc, từ việc thổ mộc đào ao, đào giếng, vật đất, đắp tường, đến đánh gộc tre... Anh ta đi các làng, cất tiếng rao, hễ nhà nào gọi vào làm thì có việc và thu nhập. Một hôm, có người thuê anh ta đánh gộc tre. Chủ nhà là một người đàn bà nạ dòng, cỡ bốn chục tuổi, góa chồng. Công xá khoán gọn, trả bằng thóc. Đánh hết đám gốc tre, anh ta được nhận tiền công là ba thúng thóc. Đôi bên thỏa thuận vậy, nên cứ thế mà làm...
Dĩ nhiên, ngày ngày, bà chủ nhà phải lo nước uống, và phục vụ bữa trưa, bày mâm bát thức ăn, bê ra vườn, trải chiếu manh dưới gốc cây sấu to bóng dâm mát, mời người làm công ăn. Để người làm công lao động hiệu quả hơn, biết anh chàng này nghiện thuốc lào, bà chủ kỳ công moi móc góc buồng chân tủ gì đó tìm được chiếc điếu bát cũ của chồng, mang ra lau chùi sạch sẽ, để cho anh chàng hút thuốc lào vặt. Chiều chuộng đến thế là cùng. Những lúc rảnh rỗi, bà chủ cũng ra hóng chuyện, chỉ chỏ giao việc này nọ, hỏi thăm thân phận, gia cảnh ra vẻ thân tình... Vài ba ngày trôi qua, đôi bên cũng biết gia cảnh của nhau...
Anh chàng làm công, tuổi hơn ba chục, con nhà nghèo và mồ côi cha mẹ từ nhỏ, phải sống với người chú ruột, bị đối đãi chẳng ra gì. Lớn lên, tự lấy sức ra lao lực kiếm ăn bằng nghề làm thuê và vẫn độc thân. Anh chàng mặt mũi bình thường, nhưng thân thể khỏe mạnh, cơ bắp rắn chắc, có thể kham nổi những công việc chân tay nặng nhọc.
Bà chủ, tuổi bốn chục, góa chồng, có một cô con gái, nhưng sớm lấy chồng, nên bà ở một mình trong ngôi nhà vườn khá rộng này. Bà chủ là người hoạt bát, không đẹp nhưng kiểu người có duyên. Tuổi bốn mươi, thân thể đậm đà, ngực lưng hông đâu ra đấy, mặn mà. Đôi mắt hơi sâu, đen láy, nhìn lâu dễ chết chìm...
Bà chủ nạ dòng và chàng người làm cường tráng, chuyện lâu thành cởi mở. Để đỡ vướng khi làm, sợ mồ hôi mồ kê, anh chàng cời trần, đánh mỗi cái quân cộc, lộ cơ bắp săn chắc. Những lúc nghỉ tay, bà chủ nhà rót nước đưa tận tay cho uống, tiện thể chiếc quạt nan trên tay, phảy dăm ba nhát quạt mát cho anh chàng đôi chút. Lâu lâu, đôi cặp mắt bắt gặp nhau... dừng lại và lảng tránh... xưng hô thì ỡm ờ, chủng chẳng, không ra trên dưới... Những câu nói vui vơ không đầu không cuối, chẳng ra đâu vào đâu cả... Hết ngày, anh chàng múc nước giếng rửa qua loa rồi về, sáng hôm sau đến sớm, bắt tay vào việc. Bữa cơm trưa đều đều, nhưng theo ngày thức ăn như nhiều hơn...
Cứ vậy, dãy gộc tre bị anh chàng phăng teo hết. Đống gộc tre chất phơi trong vườn đây thêm. Dăm bảy ngày trôi qua, công việc xong xuôi. Ngày cuối cùng, theo thông lệ, gia chủ mời cơm người làm công bằng bữa ăn tươm tất, gọi là để cảm ơn người làm và thanh toán công xá với nhau. Bữa cơm chiều ngày cuối ấy, ngoài mấy món thông thường, bà chủ mua một đĩa lòng lợn to, kèm thêm chai ba rượu. Chủ mời cơm nên ăn cùng. Chàng làm công cũng tắm rửa sạch sẽ tinh tươm khác hẳn mọi ngày. Rượu rót ra chén, mời chào xã giao và nhấp môi. Đôi ba chén, chủ khách mềm môi, nói năng bạo dạn hơn. Xưng hô cũng tôi tôi mình mình. Trời lên đèn thì bữa ăn cũng xong. Đến lúc đôi bên trả công xá cho nhau. Nhưng rồi chuyện gì đến cũng đến. Mâm bát còn để ngổn ngang cả đấy thì anh ả, chẳng rõ rượu ngấm đến đâu, mà cứ díu vào nhau. Cũng dằng co đẩy ra kéo vào, hấm hứ, ầm ừ, rồi dìu nhau vào buồng trong,...
Chàng làm công trai tráng khỏe mạnh, khao khát da thịt đàn bà, cứ hùng hục kiểu thổ mộc hay đánh gộc tre... Còn bà chủ nạ dòng đang tầm hồi xuân, góa chồng mấy năm ngỡ quên mùi đàn ông, gặp gỡ nhau đây như bắt được của. Cặp đôi xoắn xít vào nhau, hừng hực khí thế. Chợt bà chủ nhà gắng sức đẩy anh chàng ra khỏi mình. Chàng ta đang hăng bỗng châng hẩng. Bà chủ bảo anh chàng là không được, chẳng lẽ bà mất không cái việc giữ trinh tiết với chồng bấy lâu nay à. Là tự nhiên bà nghĩ đến ba thúng thóc tiền công, lại đem cái trinh tiết cho không thằng cha căng chú kiết này à? Anh chàng đang hăng máu vịt, không thể buông miếng mồi ngon thế này đến miệng. Dằng co, chân tay lẫn mồm miệng, cuối cùng đôi bên ngã giá, chàng ta bớt cho bà chủ một thúng thóc, chỉ lấy công hai thúng thóc thôi, nếu bà cho đồng ý cho anh chàng tiếp tục... Lại ôm ấp lăn lóc một hồi thì bà chủ nằng nặc đẩy anh chàng ra khỏi mình... Lúc này thì anh chàng máu quá rồi và hiểu ngay bà chủ nhà muốn gì ở mình, không ngần ngại bớt thêm thúng nữa, hứa chỉ lấy tiền công đúng một thúng thóc thôi... Và thế là cặp đôi quắp chặt lấy nhau như chẳng thể tách rời...
Những tưởng sẽ một trận mây mưa gió dập hoa vùi, thì anh chàng làm công chợt nhận ra, chẳng lẽ mình ham vui chút mà gần mất trắng công sức lao lực cả tuần nay. Mà cũng có phải được nếm mùi da thịt thiếu nữ trinh tiết mỹ miều gì cho cam, chẳng qua một mụ đàn bà nạ dòng... Nghĩ thế, anh chàng đần ra như khúc gỗ, định bỏ cuộc. Lúc này, bà chủ mới để ý đến của nợ của anh chàng, kích cỡ to khác thường và hơi dị dạng. càng dậy hứng. nên thấy anh chàng đờ người ra vậy, vội vàng níu kéo, hứa trả lại một thúng thóc, tiền công còn hai thúng. Anh chàng bắt đầu vỡ vạc được một chút, hiểu ra sự tình, bỗng đầu óc sáng lên, tỏ ra tinh ranh. Thế nào cũng quyết lấy lại đủ ba thúng thóc tiền công lao lực bấy ngày mà vẫn kiếm chác được cuộc tình. Ngộ được vậy, anh chàng liền vờ thôi không lâm trận nữa. Đến nước này, bà chủ nhà nạ dòng không chịu nổi nữa, nhục cảm bùng lên như triều dâng, diết chặt vòng tay ôm ghì lấy anh chàng, miệng rên lên hứa sẽ trả đủ công xá ba thúng thóc cho anh chàng. Được lời như cởi tấm lòng, anh chàng đổ ập xuống người bà chủ nhà. Một trận cuồng phong nhục dục cuốn phăng mọi tính toán thiệt hơn, trời đất bỗng trở về trạng thái nguyên sơ...
Và đêm đó, anh chàng làm thuê chẳng phải khăn gói ra về. Anh chàng ngủ lại đấy qua đêm đến bảnh mắt hôm sau. Trở dậy, không còn phải đánh gộc tre nữa, anh chàng được bà chủ nhà bưng thau đồng nước giếng mát đến tận bên giường để rủa mặt. Bữa sáng, chàng có mấy quả trứng vịt lộn nhắm rượu, rồi húp thêm tô cháo nóng to tướng. Chàng ta ra về với đầy đủ ba thúng thóc tiền công đánh gộc tre...
Câu chuyện chưa dừng lại ở đấy. Một thời gian sau, họ nên vợ chồng. Anh chàng đến ở hẳn nhà vợ. Tuy vợ hơn chồng gần chục tuổi, nhưng cặp đôi sống với nhau ổn thỏa. Cô con gái riêng của vợ không đồng ý cuộc hôn nhân chênh lệch này, có ý chống đối một thời gian, nhưng đến khi thấy mẹ mình mang thai rồi sinh ra cậu con trai khỏe mạnh với người chồng mới thì cũng thôi phản đối, đành chấp nhận...
 
***
Nghe chuyện Khoan kể, tôi cười, bảo anh ta:
- Ông anh kiếm đâu ra của độc thế. Câu chuyện thú vị đấy.
- Chắc là anh không tin? – Khoan tủm tỉm bảo – Thì nhiều người cũng không tin mà... Nhưng tôi không bịa hay kiếm chuyện kể cho vui đâu... Chuyện thật của cha mẹ tôi đấy...
Tôi chỉ còn biết tròn mắt, miệng ô a vì ngạc nhiên. Anh Khoan thủng thẳng:
- Thật khó tin... nhưng lại là thật anh ạ ... Thầy u tôi ăn ở với nhau được gần hai chục năm, cùng không đến nỗi nào – Anh nhìn tôi như vẻ muốn tìm một sự xác nhận – Chỉ tiếc là thầy tôi lại đoản mệnh... Khi tôi nhập ngũ được ít lâu thì thầy tôi mất sau một cơn bạo bệnh... Cũng là bởi ông ham công tiếc việc, lại toàn việc nặng nhọc ... Có lẽ còn do... u tôi... cũng làm ông hao tổn sức lực ...
Nghe có chút bùi ngùi trong giọng điệu của Khoan. Tôi chút nữa nhỡ miệng khi định buông một câu châm ngôn, thì kịp dừng, nhưng Khoan đón lấy, nói toạc ra...
- Người đời vẫn bảo, trai tơ vớ phải nạ dòng, như nước mắm... chẳng hiểu người ta nói vậy nhằm ý gì? Chắc có ý chê bai... nhưng với thầy u tôi cũng đâu đến nỗi nào... Tôi đây... là kết quả của cuộc tình... nước mắm thối chấm lòng lợn thiu... cũng có sao đâu!...
Khoan cười sảng khoái. Tôi chỉ còn biết nói lời động viên. Khoan bảo:
- Ngẫm lại, u tôi là người thật cao số... mình bà đưa tiễn cả hai ông chồng xuống suối vàng trước... rồi sống thọ ngoài bảy chục tuổi mới chịu xuống theo... Chẳng hiểu ở dưới cõi âm ấy, bà ở với ông nào... hay chung với cả hai ông ...
Khoan lại cười. Chợt như nghẹn lại.
- Tôi lo rằng... Tôi sẽ tìm một nghề gì khác để làm, chứ không làm nghề này nữa,... cực nhọc lắm... Nhớ trước đây, khi tôi ở tuối mới lớn, thầy tôi thỉnh thoảng cho tôi đi theo xem ông làm việc... Ông có ý chỉ bảo cho tôi biết này nọ, đặng sau này ngộ nhỡ không có nghề gì khác thì chí ra còn có nghề này mà theo, đặng kiếm được miếng ăn cho vào miệng...
Muốn phá tan tâm trạng nặng nề của Khoan, tôi lảng:
          - Nhưng làm sao anh biết chuyện này của cha mẹ anh?... Chuyện như anh kể ấy?   
- Thì ngày nhỏ, tôi lẵng nhẵng bám chấn thầy tôi đây đó... Cũng chỉ đôi ba lần nghe ông nói này nọ, đại khái vậy,... nhưng mình bé quá nên không mấy hiểu... Mãi sau này, tôi biết nhiều hơn, nhất là sau khi thầy tôi mất... Tôi thành người lớn, nên hiểu chuyện người lớn thôi ... Với lại, do u tôi kể,... ngày một ngày hai, những lần giỗ thầy tôi... Tôi xâu chuỗi lại... thành câu chuyện như vậy...
Khoan lại cười. Tôi cười theo. Khoan bảo:
- Thế gọi là chuyện tình của người đánh gộc tre, được không anh nhỉ ?... Tôi bằng này tuổi đầu,... cỡ như thời thầy u tôi gặp nhau, nên duyên ấy, vậy mà tôi đã có mảnh tình vắt vai nào đâu... Nói vậy, tôi chẳng còn là trai tân, cũng đã đôi ba lần biết mùi đàn bà, nhưng đều là tạm bợ...
- Ngẫm ra, thấy,...- Tôi ngần ngại - Câu chuyện thật thú vị... cái chuyện tâm lý giới tính đàn ông, đàn bà ấy... Tạo hóa làm nên vậy...
- Thôi, cứ cho là chuyện tiếu lâm, đi anh, - Khoan bảo – hể ra cho nó vui,... anh nhỉ!?
Cả hai người cùng cười vang...
Chuyện ngày ấy là thế. Đã mấy chục năm trôi qua rồi. Thàng nhớ lại câu chuyện của anh chàng đánh gộc tre, như chuyện tiếu lâm, buồn cười đấy, nhưng cười ra nước mắt. Mẹ tôi già yếu, ra thành phố sống cùng một người chị gái của tôi được dăm năm thì mất. Mảnh vườn quê, tôi giao cho một người chị trông nom giúp. Cái bụi tre ngày đó nhở cậy anh Khoan đánh giúp cũng đã vài lần chặt hết thay bụi mới. Gần đây, mấy anh chị em chúng tôi hùn nhau xây một ngôi thờ tự để lấy chỗ đi về quê hương khói giỗ chạp. Bụi tre ấy được chặt tỉa thu gọn lại, chủ yếu làm cảnh...
Vậy mà tôi quên, không hỏi thăm anh Khoan giờ gia cảnh vợ con thế nào? Lâu lắm rồi, bây giờ về quê, chạm mặt anh ta thì rôi cũng không nhận ra. Thế nhưng, câu chuyện tình duyên dở cười dở khóc của người đánh gộc tre như chuyện tiếu lâm, mà anh ta bảo là chuyện của cha mẹ mình, thì tôi nhớ !... ./.
 
 
 
 
 
 
Đã mang vào thư viện
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.02.2021 05:02:14 bởi Ct.Ly >

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Chiều Ghềnh Ráng - 11.04.2020 22:42:36
Ngũ cung
Truyện ngắn của Nguyễn Chu Nhạc
 
1.
         Năm ấy, 
         Như lời hẹn trước trong bức thư gửi nàng theo địa chỉ gia đình, đúng chiều mồng 5 Tết, y cưỡi chiếc xe đạp cũ kỹ lọc cọc đến nhà nàng. Đạp xe dọc theo bờ sông nặng mùi nước bẩn, đầu óc tôi ong ong với những câu hỏi, câu trả lời, những tình huống tự vẽ đặt ra cho kịch bản tìm gặp lại nàng...
         Y vốn nhút nhát, thường nhường nhịn, hay thụt lùi khi phải quyết định những việc hệ trọng, song lần này thì y không lưỡng lự. Y quyết định chấp nhận sự thành bại trong việc cứu vãn mối tình kéo dài gần bảy năm với nàng, nên đã gửi chiến thư cho nàng và ra cái hẹn gặp nàng tại nhà nàng, trước sự chứng kiến của cha mẹ nàng. Vậy có ghê gớm không chứ? Thư gửi đi trước cả tháng nhưng không có hồi đáp. Nàng có nhận được thư hay không, hoặc giả nhận được mà không trả lời, thì cũng thây kệ. Y xem cách này là con bài, là nước cờ cuối cùng cho cuộc tình...

        Đây rồi, khu tập thể nhà nàng. Mấy năm rồi, y không đến đây, bởi y ngại gặp mặt cha mẹ nàng. Y coi việc yêu nàng như hành vi đánh cắp cô con gái rượu của gia đình họ. Nhiều năm trước, khi còn chưa yêu nàng, với tư cách là người quen cũ của cả nhà, là người bạn của mấy anh em nàng, y hay qua lại đây, vui vẻ, tự nhiên như một thành viên trong gia đình, nên biết, bố nàng, anh trai và em trai của nàng đều chiều chuộng, yêu quý và xem nàng như báu vật của họ. Thế mới thành chuyện, khi một thằng chân đất ất ơ như y, ngoài cái bằng đại học, thì sự nghiệp chưa hình hài gì, lại làm việc ở mãi xứ mù, cách thủ đô cả ngàn cây số, dám chiếm đoạt tình cảm, con tim nàng làm của riêng. Điều ấy, khác gì hành vi của một tên trộm gian giảo, hay một tên cướp liều lĩnh, cơ chứ?
       Ngơ ngác chút vì cảnh quan thay đổi, nhưng y vẫn nhận ra dãy nhà có căn hộ của gia đình nàng. Nó nằm sâu nhất trong cả khu chung cư này, giáp với hàng rào ngoài cùng, liền kề đó là đất ruộng làng. Y đã từng mở cửa sổ phòng khách căn hộ tầng ba nhà nàng nhìn ra đồng ruộng xem người ta làm công việc nhà nông nên nhớ lắm. Cẩn thận dựng chiếc xa đạp nép chân cầu thang, khóa lại, kiểm tra kỹ càng, y chậm rãi leo tầng bậc thang. Có chút hồi hộp, phập phồng con tim, song y quyết trông trờ lui. Đúng rồi, căn hộ 306, tuy màu sơn cửa được sơn lại sẫm hơn nhưng y vẫn nhận ra sự quen thuộc của cái lỗ quan sát trên cánh cửa. Y ghé sát mắt lỗ quan sát nhìn vào chẳng mấy rõ gì, nhưng tai lại nghe được loáng thoáng tiếng người nói chuyện. Y căng ngực hít một hơi thật sâu rồi nín thở, gõ vào cánh cửa ba cái... Không thấy động tĩnh gì. Y lại ghé mắt nhìn qua lỗ nhỏ, chỉ thấy tiếng nói chuyện bặt đi. Y lại cạch cạch gõ thêm lần nữa và ghé mắt nhìn... Có tiếng chân người bước lại gần cửa rồi một con mắt ghé sát nhìn ra. Hai con mắt đối nhìn nhau qua lỗ tròn. Y nhận ra mắt nàng bởi cảm nhận được con mắt nhìn ra ấy màu nâu. Ngày còn yêu nhau thắm thiết, y say đắm đôi mắt màu nâu ấy của nàng. Ngày đó, nàng lấy làm tự hào về đôi mắt to nâu và mái tóc mây có gì đó Tây Tây của mình. Một loáng nhìn nhau, rồi lỗ nhìn trên cửa ấy bị đóng sập lại, và y còn kịp nghe được giọng nàng nới vào trong bảo có người nhưng nhầm nhà....
       Y đứng chết trân. Người tê tái. Lặng đi một lát, y chậm chạm từng bước một xuống cầu thang, bởi chân nặng như đeo chì. Y kẽo kẹt đạp xe ra về, như người mất phương hướng, lòng tê dại với một ý nghĩ choáng ngợp đầu óc, rằng mối tình kéo dài bảy năm trời đằng đẵng với nàng chấm hết từ đây...

2.
          Năm ấy,
Y đi phép từ nơi y đang làm việc mãi biên giới Tây Nam, một vùng đất khỉ ho cò gáy, lại vừa đi qua chiến tranh. Thực lòng, y không muốn đi phép ra Bắc chút nào, bởi tàu xe khó khăn, tốn kém, nhưng linh cảm về cuộc tình đổ vỡ nên y quyết đi với hy vọng cứu vãn. Khi ấy, nàng về trường cũ học chương trình cao học, và rất có thể sai đó sẽ ở lại Hà Nội, không trở lại nơi làm việc cũ nữa. Đến nhà nàng thi y ngại, thư từ thì lâu rồi nàng không hồi âm, nên y chẳng biết tìm gặp nàng ở đâu. Suy nghĩ, y thử tìm nàng cầu may theo suy luận của mình. Y chọn ngày đầu tuần, đi đón lõng nàng ở cổng trường đại học nơi nàng đang theo học cao học. Lưng buổi sáng, y đạp xe đến cổng trường đợi. Trời đổ mưa, y bèn tìm một quán trà chén bên đường đối diện với cổng trường, gọi chén trà và thanh kẹo lạc nhấm nháp đợi. Mưa mãi không tạnh, y đợi sốt ruột, bà chủ quán vắng khách nên cũng không nỡ đuổi ý. Tiết cuối năm, mưa dai càng thêm lạnh. Y gọi thêm trà uống đến xót ruột. Y giết thời gian và sự nóng ruột bằng cách nghĩ ngợi một tứ thơ chợt nảy trong đầu "Anh tìm em trong thành phố mưa"... Giữa trưa, sinh viên tan trường. Y dán mắt vào cổng trường, do tìm và rồi, y nhìn thấy nàng đạp xe từ trong trường ra, song đôi với một bạn gái khác. Y hấp tấp phóng xe theo, bắt kịp nàng. Nang ngạc nhiên khi y gọi tên nàng. Người bạn gái đi cùng giữ ý, chào hai người rồi rẽ ngang. Chỉ còn nàng và y đạp xe bên nhau. Trời vẫn mưa nhỏ nhưng đều hạt. Hết phố nọ nối sang đường kia, đọc Đường Láng trong cơn mưa tầm tã. Mùi nước sông tù đọng hôi hám bị nước mưa quấy lên xông nồng nặc,. Nàng hỏi thăm y mấy câu rồi im lặng nghe y nói. Y nói nhiều lắm, như bù những ngày xa cách nhớ nhung. Song điều lo ngại về mối tình tan vỡ thì y sợ không dám nói đến. Xe đạp của nàng tuột xích. Y loay hoay mãi mới chữa được, để rồi hai người lại sóng đôi. Giờ thì y im lặng nghe nàng nói. Y loáng thoáng nghe nàng kể, rằng ông hiệu trưởng nơi nàng công tác lên Hà Nội, ghé thăm nhà nàng, có kể với bố mẹ nàng rằng y nhiều lần đến trường và ở qua đêm tại khu tập thể của trường. Rằng việc đó là vi phạm quy định và thiếu trong sáng về đạo đức. Rằng bố mẹ nàng rất bực tức về điều đó,.. Và họ bắt buộc nàng phải chấm dứt ngay mối quan hệ tình cảm ý... Y nghe mà tê tái lòng, nhưng ít nhiều còn vớt vát hy vọng đến một ngày nào đó, bố mẹ nàng sẽ nhìn nhận lại mối tình của hai người, cho nàng và y đến với nhau, nếu như nàng nhất quyết không rời bỏ y. Song đến khi, nàng bảo, bố mẹ nàng đã dùng những từ khá nặng lời khi nói về y, thì y thất vọng thực sự. hiểu là cuộc tình không thể cứu vãn...
 
3.
          Năm ấy,...
          Y đi phép. Số là, từ ngày nhận công tác, y bị điều chuyển đến một vùng biên giới mãi cuối trờ Nami, vùng đất hoang vu khỉ ho cò gáy, lại vừa qua cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam, nên buồn chán lắm. Cả cơ quan là dân địa phương, duy mình y là người Bắc vào, nên được bố trí ở ngay tại cơ quan. Quanh năm suốt tháng, ngoài công việc chuyên môn, y chẳng biết làm gì ngoài nỗi thương mẹ già ở quê và nỗi nhớ nàng thường trực. Thảng ra, y sa vào cuộc nhậu, say túy lúy, cũng là để thoát ra khỏi hai nỗi thương nhớ ấy. Cả năm, y tích cóp được ít tiền bạc, là để đủ tiền mua vé tàu xe và chút quà cho chuyến nghỉ phép ra Bắc. Có một sự lựa chọn, đi phép vào dịp tết Nguyên đán, hay dịp nghỉ he? Dịp tết thì tàu xe đông đúc khó đi, còn dịp nghỉ hè thì nàng lại nghỉ hè, về nhà ở thành phố chứ không ở trường nơi nàng dạy học. Thế là y chọn dịp sau tết trước kỳ nghỉ hè hàng năm, nhất cử lưỡng tiện.
          Kỳ nghỉ đó, về nhà được vài ngày thì bà ngoại của y ốm nặng. Y chở mẹ y về quê ngoại, để mẹ ở lại chăm bà vài hôm. Vừa dịp cuối tuần, nàng từ trường về thành phố thăm nhà, tiện đường ghé vào nhà y. có riêng hai người với nhau, nên hai đứa thoải mái bên nhau, tha hồ cùng nấu ăn, cùng trò chuyện mà không phải giữ ý khi có mẹ y ở nhà. Chiều muộn hôm ấy, nàng định ra về thì y nhất quyết giữ nàng lại. Đầu y nung nấu một ý nghĩ, đây là cơ hội hiếm hoi hai người được bên nhau ngay tại nhà mình mà không cần phải ý tứ gì. Nàng khăng khăng ra về còn y thì quyết giữ, cuối cùng nàng nhượng bộ. Rồi y và nàng lại cùng nhau nấu bữa tối. Ngày ấy nghèo, thức ăn thiếu thốn. May có ít trứng gà, khoai tay và rau cỏ sẵn trong vườn, khéo nấu được bữa ngon. Nàng trổ tài bếp núc, còn y lăng lăng giúp việc. Hai đứa chí chóe trêu chọc lẫn nhau...
          Màn đêm buông xuống. Gặp buổi có trăng đẹp, nên y và nàng ngồi bên thềm nhà ngắm vườn, ngắm trăng, thì thầm chuyện đủ thứ. Y kể về vùng đất hoang sơ biên giới Tây Nam nơi y sống, về rừng tràm, về khói đốt đồng mùa khô, về mùa nước nổi rực màu bông súng và hoa điên điển, về “muỗi bay như sáo thổi, đải nổi như bánh canh”, về nỗi thương mẹ lụi cụi một mình và niềm yêu thương mong nhớ nàng đêm đêm...  Còn nàng thì kể về bạn đồng nghiệp cùng trường, về những học sinh của nàng học hành, nghịch ngợm ra sao...  Gió năm rười rượi và trăng lúc mở lúc tỏ, hai người tay trong tay nhau mà thương nhớ vẫn rưng rưng...
          Khuya. Ngủ sao đây? Y dọn chiếc giường ở buồng trong cho nàng ngủ, nơi vốn dành riêng cho chị gái của y ngủ, nhưng người chị đi làm ở thành phố, lâu lâu mới về nhà. Con y ngủ ở phòng ngoài. Cánh cửa buồng chỉ khép hờ. Đêm quê khuya thanh vắng, nghe rõ riếng sấu dế kêu vườn ngoài. Còn trong nhà, y nghe rõ chốc chốc nàng trở mình khó ngủ. Y cũng có ngủ được đâu. Nỗi khát khao cứ rực lên trong thân xác y. Ngòn đèn dầu hỏa hãm hạt đỗ để trên bàn hắt lên một vầng sáng huyễn hoặc, đê mê. Nén mình không nổi, y bật dậy như một chiếc lò xo bung phá, đảy cửa buồng ập vào. Nàng biết cả, và dường như chỉ chờ có vậy, vươn đôi tay vít người y xuống. Trong bóng đêm ảo diệu, y và nang bập vào nhau, lập cập, cuống quýt, va chạm, hổn hển và mê muội, dạt trôi trong miền hoan lạc...
          Cái đêm trăng quê yên tĩnh thanh bình ấy, hai người chẳng biết bao nhiêu lần tỉnh thức, tháng thốt, rồi lại chìm đắm trong nhau... Không biết náng nghĩ gì. Còn y, linh cảm mách bảo, đây sec là một đêm tuyệt vời nhất trong cuộc đời của y, cho dù mai sau có thế nào đi chăng nữa !?...
 
***
4.      
Năm ấy,
Y đi nhận công tác ở phương Nam đâu đó mới được một năm. Y khao khát chờ đợt chuyến đi phép đầu tiên trong cuộc đời viên chức của mình. Trước ngày lên đường vô Nam, lời yêu vừa ngỏ vội vàng, chưa một lần cầm tay, chưa một nụ hôn. Tiếng là yêu nhau hơn năm rồi nhưng toàn qua thư từ. Tình cảm gửi trên từng nét chữ, y đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần. Y dồn nén tình yêu, đợi ngày ra Bắc gặp nàng.
Về đến nhà, y dành ngày đâu để hàn huyên với mẹ. Ngày sau đó, y lao đến chỗ nàng. Đường xa nắng nôi mấy chục cây số mà y đạp xe băng băng, háo hức, không biết mệt mỏi. Hỏi đường đến dăm lần, chiều tà y cũng đến được ngôi trường nơi nàng dạy học. Chiều thứ bảy, học sinh vừa tan, sân trường vắng hoe. Y dừng xe giữa sân trường, nhìn quanh quất định hướng thì một cô gái đạp xe ra. Thấy y, cô chủ động hỏi, thì ra là cô giáo cùng tổ bộ môn với nàng. Cô ta cho biết, nàng bị đau mắt, xưng tấy phải đi bệnh viện huyện chữa trị. Nang nhờ cô ấy có ý chờ đón, nếu y xuống thì đưa y đến bệnh viện huyện giúp. Thế là y vội vàng theo cô giáo ấy. Hai người đạp xe song song, y tranh thủ hỏi chuyện để biết thêm về cuộc sống của nàng ở đây. Bệnh viện chỉ cách trường dăm cây số, chốc đã tới nơi. Cô gái dắt y đến phòng bệnh của nàng, đưa ăng-gô cháo, hỏi thăm nàng mấy câu, bàn giao y cho nàng rồi cáo lỗi về luôn kẻo tối. Y và nàng bên nhau, mừng mừng tủi tủi. May mà một mắt nàng bị viêm cấp, dùng thuốc kịp thời nên vẫn phải băng kín bên viêm nhưng sẽ không ảnh hưởng đến thị lực. Y mò ra phố, đi mấy hàng nước mua được vài cái bánh trưng con. Bữa tối, nàng ăn cháo, con y bánh chưng, vừa ăn vừa rúc rích chuyện. Cho thỏa nỗi nhớ mong. Rồi hai đứa ra ngồi hóng gió trời. Khu nội trú bệnh viện nhìn ngay đồng lúa, hương lúa và cỏ lên ngai ngái. Trăng thượng huyền mành cong như vành môi. Ánh điện vàng vọt kéo bầy phù du chao đến, bay rối lên khiến hai đứa không thể ngồi lâu. Phòng bệnh rộng gần chục giường nhưng chỉ có mấy bệnh nhân, nên thừa giường không. Y giăng màn cho nàng, rồi chọn chiếc giường bệnh trống sát cạnh giường của nàng để qua đêm. Phong bệnh tắt đền, chỉ chút ánh sáng từ ngọn đèn bảo vệ ngoài hiên qua ô của kính dọi vào mở ảo. Không gian tĩnh lặng chỉ còn tiếng côn trùng từ đồng lúa vào. Y khó ngủ, lạ nhà lạ cảnh ngộ. Giường bên, nàng cũng không ngủ thì phải, vì chốc chốc lại thấy giở mình. Hình như mắt nàng vẫn còn nhức, vả lại, hai đứa nằm gần nhau thế, mỗi người một giường nhưng chỉ cách nhau mấy chục tấc. Y rất muốn an ủi nàng, sao cho nàng tạm quên đi cái nhức. Mẹ y vẫn bảo là “thứ nhất đau mắt, thứ nhì nhức răng” là gì. Hơn nữa, y thèm sự động chạm. Lúc chập tối, hai người ra sân ngồi hóng gió, sát bên nhau, mùi cơ thể thanh nữ của nàng hấp dẫn ý, dẫn dắt bàn tay y tìm kiếm, nên giờ đây, cái cảm giác ấy cứ rực lên trong người ý. Y trở dậy, lén sang giường nàng, khi vừa vén màn chui vào thì nàng đã ý tứ dịch nhẹ người nhường đủ chỗ cho y nằm. Tim y đập thình thịch, đảo nhìn quanh khắp phòng bệnh nghe ngóng. Không thấy ai động tĩnh gì, chỉ có tiếng thở đều, tiếng ngáy khe khẽ của ai đó. Có lẽ, họ ngủ cả rồi, hoặc có ai đó biết thì cũng vờ ngủ, mặc kệ... Thân thế y áp dính vào nàng, và hai tay y lần mò trong bóng tối... Nàng đón nhận sự đụng chạm của y trong im lặng và rồi không nén được cảm xúc, tay nàng quờ ghì diết y vào nàng...
Sáng hôm sau, khi nghe tiếng chim bên ngoài líu lo, y tỉnh ngủ. Ý thức mình đang nằm ngủ trên giường của mình khiến y nhẹ người. Trời có vẻ còn sớm, nhưng nhìn sang giường nàng bên cạnh đã không thấy nàng ở đó. Quanh quất, các bệnh nhân cùng phòng cũng đã dậy hết. Y trở dậy có ý tìm nàng thì nàng trở vào với chậu nước sạch trên tay. Nàng khẽ cười giục y rửa mặt và còn cẩn thẩn bảo y chịu khó rửa bằng tay vì nàng đang đau mắt nên không dùng chung khăn mặt của nàng được vì sợ lây. Y ngoan ngoãn làm theo, có ý không chạm ánh mắt nàng vì nhớ lại chuyện giữa hai người đêm qua...
Sau khi khám bệnh dùng thuốc buổi sáng, nàng mừng vui thông báo được xuất viện. Nàng bảo, bệnh đã bớt nhiều, đáng lý hôm sau mới được về, nhưng nàng nói khó sao mà bác sĩ đồng ý cho nàng về, điều trị ngoại trú theo đơn thuốc. Y buộc đồ tư trang của nàng mang theo, đèo nàng về trường. Chiều ấy là chủ nhật. Sân trường vắng bóng người. Mấy thầy cô giáo ở cùng dãy nhà nội trú với nàng cũng về nhà hoặc đi chơi đâu đó chưa lên trường, nên cả không gian sân trường mênh mông dành cho hai người. Nàng và y tha thẩn sân trường, cũng bầy chim sẻ nâu, mấy đôi bồ câu và thảm lá cây rụng. Lúc này thì y mạnh bạo nắm tay nàng, dung dăng dung dẻ mà không sợ ai nhìn thấy...
Đêm buông. Sau bữa cơm tối, y rủ nàng ra sân hóng mát, nhưng nàng từ chối, bảo y đi một mình, nàng bận sửa soạn đồ dúng, giáo án gì đó. Y đi dạo loang quanh một hồi, Ngoài tiếng côn trùng, ếch nhái thì chẳng có gì hấp dẫn nên y trở về. Hé cửa, bước chân vào phòng, y ngỡ ngàng khi thấy nàng tần ngần như hóa đá, trên tay nàng là cuốn sổ nhật ký và chép thơ của y. Y ớn lạnh xống lưng, và tái mặt vì hiểu, sẽ có chuyện chẳng lành xảy ra. Y tiến đến trước mặt nàng đứng chết trân. Nàng ngước nhin y bằng đôi mắt nhòe nước. Nàng không nói gì, nhưng linh cảm để y lướt nhìn cuốn sở nàng đang mở trên tay, hiểu rằng, nàng vừa đọc nhật ký của y. Đấy là những trang y ghi vào những ngày đầu bước chân vào Nam, sau khi đã ngỏ lời yêu với nàng và được nàng chấp nhận. Khi ấy, y đã rất thật thà, bảy tỏ cảm xúc, việc y và nàng đã nhận lời yêu nhau, nhưng nhiều lúc, y vẫn nhớ người yêu cũ. Chỉ có vậy thôi, lại thật lòng, nhưng với nàng lúc này thật là cú giáng mạnh vào tình cảm của nàng. Kìm không nổi, nàng òa khóc như mưa gió. Y tê tái, đỏ gục xuống chân nàng, úp mặt vào lòng nàng, lắp bắp xin lỗi. Hình như, cuống lên vì sợ mất tình yêu với nàng, y cón nói lời thế thốt gi đó nữa. Nàng vùng đứng dậy, hất đầu y ra, đến bên của sổ, nhìn đêm tối. Y càng cuống, chân tay như thừa, chợt y nhìn thấy chiếc kéo trên bàn, nơi nàng dở việc khâu vá gì đó. Một ý nghĩa lóe lên, y vớ ngay lấy chiếc kéo, đưa tận tay nàng bảo rằng nàng muốn làm gì y cho thỏa nỗi giận hờn nghi ngờ y. Rằng tình yêu của y đã dành cho nàng là chân thật... Và thế là, nàng vứt chiếc kéo xuống đất, vít đầu y ghì chặt vào ngục nàng, nức nỏ từng cơn. Nước mắt y cũng đầm đìa, người y mềm sụn. Y cảm nhận rõ y yêu nàng biết bao, say đắm, nhất là từ đêm trước ở bệnh viện huyện, hai người đã là của nhau. Y dìu nầng đến bên giường và hai người đỏ ập xuống, bão táp yêu đương, hờn giận chen lấn cuồn cuộn dâng lên trong ánh đèn dầu hỏa vàng quạch không đủ sáng hắt ra trời đêm...
 
5.
          Năm ấy,
          Y vừa tốt nghiệp đại. Y về quê sống với mẹ đợi giấy gọi công tác của nhà trường. Cả mấy tháng trời ở nhà, y làm việc vặt, dọn vườn và giúp mẹ đôi ba công việc nhà nông, mong ngóng chờ biết tương lai mình sẽ ra sao, thì nàng đột ngột xuất hiện...
          Chuyện là, mười năm trước, khi cuộc chiến tranh bằng không quân của Mỹ ra miền Bắc đang ác liệt, thì nhiều trường đại học ở thủ đô phải sơ tán về những địa phương lân cận để tránh máy bay đánh phá. Nàng khi ấy mới là cô bé con chừng mươi tuổi, theo bố mẹ vốn là cán bộ của một trường đại học sơ tán về làng quê của y. Nàng và người anh ruột học chung một lớp với y. Biết gia đình y cũng từ thủ đô chuyển về quê nên hai anh em nàng nhanh chóng làm thân với y. Hơn thế nữa, lúc ấy, y học giỏi nhất lớp, nên nhiều đứa cầu thân. Khác với người anh trai vốn tính khép nép, nàng là cô bé mạnh bạo, chơi chan hòa với mọi người. Ngáy ấy, nàng là một cô bé phổng phao, mạnh khỏe, hiếu động, trái ngược hẳn với bộ dạng y mảnh khảnh thư sinh, yếu ớt. Nàng và ngưới anh hay nhờ bố mẹ mình mượn sách của thư viện trường đại học mang cho y mượn đọc, khi biết y ham đọc sách. Được chừng gần hai năm học, khi bắt đầu vào cấp học cấp hai, thì trường đại học ấy rút đi, và hai anh em nhà nàng trở về thành phố học. Kể từ đấy, chục năm trôi quan, nàng không một lần trở lại nơi mình đã học những năm sơ tán chiến tranh. Nghe đâu, bố mẹ nàng thi thoảng có trở về làng thăm lại gia đình người chủ mà gia đình nàng đã từng ăn nhờ ở đậu ngót hai năm trời.
          Y ngạc nhiên khi nàng và người anh trai của mình xuất hiện trước cổng nhà y. Có chút ngờ ngợ, y nhận ra ngay. Đôi bên vui mừng khôn tả. Những câu hỏi thăm, chuyện lộn xộn, khi thì tranh nhau, lúc lại nhường nhau nói. Ký ức tuổi thơ đi học cùng nhau cứ ùa về. Nàng theo học đại học sư phạm, tốt nghiệp được phân công về dạy ở một trường cấp ba thuộc tỉnh của y, nhưng ở huyện xa cách nhà y vài chục cây số. Hôm ấy, nàng đi nhiệm sở, lạ nước lạ cái nên anh trai nàng đưa nàng đi. Chẳng hiểu trời xui đất khiến thế nào, dọc đường, hai anh em rủ nhau tạt vào nơi sơ tán cũ, vào thăm nhà y. Y và mẹ rất vui, tất bật dốc hết nhiệt tình và đò ăn thức uống trong nhà để làm cơm mừng hai anh em nàng. Nàng không xinh, nhưng tươi tắn, có duyên, bởi sự tự tin khỏe mạnh. Mái tóc cắt ngắn uốn cong ốp vào đầu, cùng nét tươi duyên mỗi khi nàng cười, ít nhiều hấp dẫn, tạo sự thiện cảm trong y...
           Thế rồi, chừng vài ba tuần, nàng lại về thăm nhà và khi trở lại trường, thường nàng ghé vào nhà thăm mẹ con y. Từ nhà nàng ở thành phố, đến nơi dạy độ chừng hơn năm chục cây cố, mà nhà y thì ở giữa chặng đường dài ấy, lại cách trục quốc lộ không xa, rất tiện cho nàng ghé. Y bảo nàng, nên ghé nhà y. coi như trạm nghỉ chân cho đỡ mệt. Nàng cười nhận lời. Và đôi ba lần ghé vậy, y và nàng thêm hiểu nhau hơn. Một điều quan trọng, cả hai đều ngầm cho nhau biết, khi ấy, chưa ai là hoa đã có chủ. Thực ra, y đã qua vài mối tình thoáng qua tuổi sinh viên, nhưng chẳng ra đâu vào đâu. Còn nàng, chỉ thấy nhắc đến đôi ba bạn gái thân thởi học phổ thông và đại học, chứ không thấy bóng dáng một chàng trai nào. Những lúc trò chuyện bên nhau như vậy, y đã mạnh dạn, đọc nàng nghe mấy bài thơ, hoặc đưa nàng đọc bản thảo viết tay vài ba truyện ngắn. Y cũng bày tỏ nỗi khát khao muốn theo nghiệp viết lách, văn chương. Nàng nghe, tỏ vẻ thích thú lắm. lại còn nói lời động viên y. Nàng bảo, hiện tại nàng chưa yêu, nhưng trong ý nghĩ của mình, lâu nay, luôn chớp chới bóng dáng của chàng trai hải quân trong trang phục áo sọc ngang xanh, đội mũa hải quân có hai dải băng xanh vườn bay sau lưng giữa đại dương trời nước xanh lồng lộc. Nàng nhìn y, cười tươi, khẽ nheo đôi mắt nâu tuyền khi bày tỏ ước mơ ấy. Y nhìn nàng như dò hỏi. Điều lắng lại trong y không phải là câu nói, ấy là đôi mắt nâu của nàng. Y tự nhủ, không hiểu nàng lấy đâu từ tạo hóa màu mắt nâu ấy, màu mắt thường thấy ở người phương Tây, rồi y lại nhớ đến giai điệu bài hát Đôi mắt màu hạt dẻ của nước ngoài mà y từng nghe và thích...
          Và một lần, nàng ghé. Ấy là một ngày đặc biệt đối với ý. Y đã càm trong tay tờ quyết định điều y đi nhận công việc ở mãi một tình biên giới tận cùng phương Nam. Có chút háo hức của tuổi trẻ muốn chinh phục miền đất mới, có chút hăng hái của người bắt đầu cuộc đời viên chức, có chút băn khoăn vì thương mẹ già ở quê một mình, và chút có xao xuyến của một mối tình chớm nở với nàng... Y sắp đếp đồ đạc tư trang, dự tính ngày lên đường đi nhiệm sở cùng với mấy người bạn. Y mong ngóng nàng, muốn được gặp mặt nàng trước khi lên đường vào Nam. Nàng đến. Y mừng khôn tả. Nàng có vẻ thảng thốt, khi y thông báo sắp nhận công tác xa.  Lại những câu chuyện chen lấn, lộn xộn, không đầu không cuối. Khi muốn ở bên nhau lâu thì thời gian lại trôi nhanh...
          Buổi chiều, nàng cố dứt ra để về trường. Y muốn níu giữ mà không nỡ vì sợ muộn chiều tối thì khổ thân nang một mình đường xa. Y tiễn nàng một quãng. Hai người đạp xe song song, lòng những muốn nói mà chẳng thể. Định bụng một quãng thôi, mà đến cả chục cây số vẫn chưa muốn dứt ra để chia tay, mỗi người một ngả. Trời nổi cơn giông, mây đen kéo về và gió nổi. Nàng giục y quay về, y cứ dằng dai không nổi, bảo đi thêm quẫng nữa, Nàng thấy cần phải dứt khoát nên xuống xe, đứng nép vào lề đường. Quốc lộ chiều cuối tuần, người xe nườm nượp ngược xuôi. Y đành phải dừng xe, nép vào bên đường cùng nàng. Bịn rịn, nói qua nói lại mấy câu chia tay. Lòng y dâng lên một nỗi cô đơn khi mường tượng cảnh cuộc sống đơn độc nơi đất khách quê người mãi cuối đường chân trời, khiến y mạnh bạo, nhìn thẩng vào đôi mắt nâu to của nàng thốt lời yêu. Nàng tái mặt, lặng đi, miệng lí nhí câu gì không rõ bởi tiếng xe cộ và giông gió át đi. Y vội vàng quay xe, nhảy lên, đạp vội vàng một thôi dàu không dám ngảnh nhìn lại. Cho đến khi, tim y bớt thình thịnh trong lồng ngực, thì y mới dám ngoái đầu nhìn lại. Vừa khi ấy, nàng cũng mới lên xe đạp đi. Lúc này thì y dừng lại, lặng nhìn theo bóng dáng của nàng dần mất hút vào dòng xe cô trên đường. Y thẫn thờ đạp xe trở về trong trạng thái đầu óc bâng lâng, mất phương vị, như kẻ vừa bắn đi mũi tên mà chẳng biết nó bay đến đâu và liệu có trúng đích hay không ?...
          Về gần đến nhà thì trời đổ mưa. Y cứ đầu trần mưa ướt vậy mà đi. Lòng y chỉ một nỗi lo, nàng thân gái đường trường mưa gió thế này, liệu có sao không?... Còn tình cảm của y ư? Lời yêu đã ngỏ. Nhẹ cả người. Mặc cho duyên phận đưa đảy. Từ nay, chỉ còn biết trông chờ vào những lá thư mà thôi, khi y đặt chân tới miền đất mới...
          Hơn mười năm trời để gặp lại nhau. Và thêm dăm năm trời yêu nhau tha thiết, với bao nhớ nhung xa cách ngàn trùng, với biết bao cẩm xúc yêu thương vô bờ bến, với bao lần trắc trở, giận hờn. cuối cùng, đi đến hồi kết. Cùng như lần chia tay trước khi y đi xa, nàng vẫn là người chủ động, ngày ấy, để cho y đủ dũng khí thốt lời yêu, còn sau này, để y thắm nỗi đau dứt tình. Y là kẻ yếu đuối, luôn phụ thuộc vào nàng...
          Cho đến tận giờ, y và nàng chưa hề gặp lại nhau, dù đôi ba lần hình bóng nàng phảng phất đâu đó, gợi cho y sống lại ký ức. Chẳng biết nàng nghĩ về y thế nào, còn y, biết là, trong bao nhiêu khoảnh khắc đáng nhớ trong cuộc đời và mối quan hệ giữa hai người, thì năm khoảnh khắc ấy, như ngũ cung vĩnh viễn âm vang trong lòng y, cho dù mai nay có thế nào đi chăng nữa !... ./.
 
 
 

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Chiều Ghềnh Ráng - 22.05.2020 10:52:56
Giờ đã mai sau,...
Truyện ngắn
 
Đợt gió mùa đông bắc cuối mùa tràn về hôm trước gây mưa to, nhưng cái lạnh chỉ lào khào, đủ gây nhớ. Người ta bảo là rét Nàng Bân. Mọi năm, độ này trời đã sang hạ lâu rồi. Năm nay, thời tiết lạ lùng, chiều ba mươi tết mưa tầm tã, đêm trước lúc giao thừa giông gió sấm chớp đùng đùng, đến giao thừa trời tạnh chốc lát, rồi cứ thế rả rích mưa qua ngày đầu năm mới. Ở cái tuổi bảy nhăm, ông Trác chưa thấy bao giờ... Thời tiết vậy, mấy vị biết lý số phán khác nhau, ông thì bảo năm nay trời độc, điềm báo có chuyện gở, ông khác lại nói, năm nay có chuyện động trời, nhưng sau đó sẽ đổi mới và thịnh phát. Chăng biết đâu mà lần...
Chiếc xe chở cha con ông Trác cùng hai người bạn tâm giao về thăm quê ông ngang qua thị xã Sơn Tây lên đến cầu Trung Hà thì trời mây giông lại đùn lên. Đường lên Hiền Đa vùng quê ông, một vùng trung du nằm ven bờ sông Thao, một bên là đồng lúa đã vào hạt, còn bên sông nước đã to. Lũ tiểu mãn về sau vài đợt mưa lạnh cuối mùa làm nước sông dâng cao.  Nước ngập, bãi sông trống vắng, ngô và lau sậy loáng thoáng. Năm nay, chẳng ai ngờ dịch bệnh tưởng đẩu đâu chơi chơi vậy thôi, ai ngở như vết dầu loang, nhoáng cái đã lan ra cả địa cầu, dân tình giàu nghèo, công dân hạng bét đến quan chức, nguyên thủ khắp thế giới đều cuống hết cả lên... Ông Trác đã xếp lịch du xuân cùng gia đình và bạn bè đành hủy hết, thay vào đó ông lang bạt hết nhà đứa con này đến đứa con khác, trưởng sở đóng cửa, nên ông làm mỗi một việc là giữ đám cháu, cơm nước cho chúng ăn, nhắc chúng tự ôn bài vở, cho các con yên tâm đi làm. Mệt và chán nhưng không bỏ được. Cuồng chân, nẫu người, nên khi vãn dịch bệnh, lệnh cấm túc được nới lỏng là ông í ới, rủ ngay vài người bạn tâm giao, làm chuyến về quê ông, gọi là đi Thanh minh bù cho đỡ bí bách mấy tháng qua.,,
Ngoài trời lác đác mưa. Xe bon bon đường vắng. Trên xe, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ. Trung, con trai ông, một kiến trúc sư giỏi và còn là nhạc sĩ tài hoa dùng smartphone quay phim quanh cảnh, còn ông thì đầu óc chập chờn những hình ảnh từ quá khứ ùa về. Ông nghe loáng thoáng bên tai câu chuyện của hai vị khách mời đi cùng, cậu bạn vong niên kém ông đúng một giáp đang hùng biện cho vị nhà giáo già về chuyện dịch bệnh Covid 19 với sự lý giải từ lịch sử xa xưa, lấy bài kệ “Hữu không” của thiền sư Từ Đạo Hạnh thời Lý ra để lý giải và xem như một lời tiên tri về nạn dịch bệnh chết người bây giờ... Lời kệ là “Tạc hữu trần sa hưu. Vi không nhất thiết không. Hữu, không như thủy nguyệt. Vật trước hữu không không” với lời dịch tài tình của Huyền Quang tam tổ “Có thì có tự mảy may. Không thì cả thế gian này cũng không. Kia xem bóng nguyệt lòng sông. Ai hay không có, có không là gi”. Thì cứ xem, trước dịch bệnh này, thế giới có trật tự cả, từ quốc gia đến mỗi con người, phân hạng giàu nghèo, sang hèn, quan chức hạng nhất với lê dân... vậy mà, chỉ một loại virus vô hình trong mắt thường đã làm đảo điên toàn thế giới, xóa nhòa mọi ranh phận. Cứ theo cái lý ấy, chủng vius này đã khiến mỗi quốc gia, dân tộc và mỗi con người đều phải tự nhìn nhận lại chính mình, thậm chí thay đổi tính cách, nếp sống của mình để phù hợp với thời hậu virus, nghĩa là tìm cách để sống chung với nó nếu muốn tồn tại... Rằng việc xuất hiện chủng virus này, cùng với sự chết chóc mà nó gieo rắc khủng khiếp và rộng lớn hơn cả một cuộc chiến tranh, nếu nhìn ở góc độ tich cực, thì nó đem lại sự bình đẳng, cân bằng nào đó cho con người nói chung. Vậy chăng, cái sự hữu-không trong vũ trụ. chẳng phải đã được các vị thiền sư đưa ra lý giải mỗi mối quan hệ trong cuộc sống từ hàng ngàn năm trước, trên nền tảng triết lý sắc sắc không không của nhà Phật, đó sao?...
Ông Trác lơ mơ nghe những người bạn chuyện tró, và ông cảm thấy thú vị với sự kiến giải của người bạn vong niên. Đầu ông hiện lên hình ảnh thời thơ ấu của mình ở cái làng Thạch quê gốc nằm ngoài đê sông Thao này, toàn đất bãi phù sa, chẳng có đá mà làng lại có tên là Thạch. Ông nhớ, ngày trẻ, ông đã từng hỏi cha mình về tên làng, thì cha ông cũng lờ mờ, đoán rằng, chắc thuở xa xưa, dòng họ nhà ông chắc gốc ở vùng núi phía núi Đọi Đèn kia di về ven bở sông này sinh sống, rồi cùng các họ khác lập làng, nên lấy chữ Thạch làm tên làng để đời đời nhớ về gốc rễ của mình. Đậm nét nhất là hình ảnh cha ông, mỗi sáng dong con trâu với bắp cày trên vai, từ làng vượt ngang bờ đê vào làm ruộng ở cánh đồng trũng bên trong đê, xa xa là dãy núi Đọi Đèn. Ánh nắng chiếu hắt hình bóng con trâu và người cha thành khổng lồ, mà sau này ông đã lấy hình, ý tứ đó viết thành thơ, để rồi con trai ông, đã phổ nhạc thành ca khúc hay ... Vậy mà, đã bao mùa, cả cha và mẹ ông đã về nằm chung khu vực với những người quá cố trong dòng họ nhà ông ở nghĩa địa Đồng Đế này?... Mải nghĩ, quên chỉ đường, chiếc xe vượt quá lối rẽ xuống cánh đồng, khiến ông Trác phái nhắc cậu lái xe quành trở lại.
Hai cha con ông Trác cùng mấy người bạn theo lối mòn nhỏ, men theo con ngòi để đi vào nghĩa địa Đồng Đế. Ở đấy, cả dòng họ, trong đó có cha mẹ ông, từ hơn trăm năm nay, sau khi quy tiên dù ở đâu thì trước sau đều được con cháu đưa về nằm đây, mộ phần khang trang, bia mộ rõ ràng. Sau trận mưa đêm qua, đất nhão lép nhép, khiến mọi người thập thõm lần đường một hồi. Trung tâm nghĩa địa là ngôi mộ tổ, tính đến ông Trác là chín đời, được xây cất hoàng tráng với mộ phần và bệ thờ đá có vòm mái cong, chạm khắc nổi cùng đối liễn chữ Nho. Ông Trác nhớ, ngày nhỏ theo bọn trẻ trâu trong làng, ông hay ra bãi tha ma này chơi nghịch trò trận giả hay trốn tìm, nấp sau các gò mộ. Ngày đó, bãi tha ma còn thưa mộ, cỏ dại và cây mua, dứa dại mọc um tùm. Gò một tổ của dòng họ ông là một cái gò đường lớn, nên mỗi khi nước đồng ngập lụt, đám trẻ con thả trâu hay tụ tập ngòi chơi trên đó. Thằng cu Trác là ông bây giờ cũng thường có mặt trong đám trẻ tụ bạ ở đó. Hay đâu, chúng lại ngồi chơi trên mộ tổ dòng họ mình. Chơi chán, lũ trẻ trâu lại nhày ùm xuống ngòi Thản, bơi lội, tắm táp thỏa thích. Con ngòi lấy theo tên người, nghe nói dăm đời trước, trong làng có một ông tên Thản, đã bỏ tiền thuê nhân công nạo vét và mở rộng con ngòi tự nhiên để lấy lối chèo thuyền vào sâu trong đồng mỗi mùa mưa lũ, còn đến mùa cạn thì con ngòi lại nguồn nước dự trữ để tưới cho đồng ruộng. Đời sau ghi nhớ công ơn người có công khai mở, lấy tên Thản của người đó làm tên ngòi.
Mộ cha mẹ ông Trác ở phía sau không xa ngôi mộ tổ dòng họ. Mấy anh em ông Trác, từ hơn chục năm nay, đã xây dựng phần mộ cha mẹ khang trang. Tiện thể phần đất trống bên cạnh, mấy năm trước ông đã bỏ dăm triệu bạc mua nốt để sẵn đấy, phòng khi cần đến, cũng là có ý ngầm dành nơi yên nghỉ cho vợ chồng ông, hoặc mấy anh em ruột thịt đã tuổi xế chiều cả. Ông Trác chỉ đất giải thích này nọ cho hai người bạn nghe, thì cậu con trai ông cười bảo: “Mẹ đã mua sinh phần cho bố và mẹ ở bên quê mẹ rồi còn gì...”. Bị cậu con cắt ngang, ông hơi bục, giọng gằn: “Rõ là... vó vẩn... Dẫu có thế thì cũng phải chia một lọ con phần tro cốt tao, đưa về đây, để nằm cạnh cha mẹ tao... Rõ chưa?”.  Cậu con cười trừ, thủng thẳng dàn hòa: “Đấy... bác và chú nghe chuyện...rõ cả rồi ạ. Mai sau, cháu... Y lệnh...”. Ông Trác cảnh giác: “Nhưng mà... y lệnh ai?”. Cậu con lại cười: “Y lệnh bố mẹ...”. Nó khôn ngoan, Hòa cả làng. Cùng cười...
Mọi người trở về làng Thạch. Làng nằm ngoài đê. Đình và chùa nằm kế bên nhau, đều hướng mặt ra sông Thao. Chùa vẫn giữ được nét rêu phong cổ kính, trong khi đình đã được tu bổ nhiều nét mới. Cây đa làng sum suê thân rễ phía trước giữa đình và chùa, có lẽ hơn trăm tuổi rồi, bời ngày nhỏ ở làng, cây cũng đã to, ông Trác hay cùng đám trẻ làng leo trèo, nhặt quả đa chín ăn lúc đói lòng. Trở ra, theo lối dốc xuống bến Điếm. Bến văng hoe vắng hoét. Có dăm con thuyền đậu, chỉ mỗi một thuyền có chủ, có hai cha con đang chuyển củi khô lên xếp trên bở. Lau sậy um tùm lút cao lấn cả bến. Ông Trác ngăm nghía, lòng chạnh buồn, chẳng bù ngầy xưa bến này quanh năm suốt tháng đông vui tấp nập. Gọi là bến Điếm, bời ngày xưa trên bến có một cái điếm gạch nhỏ. Điếm này không phải là điếm canh đê, bởi là điếm canh đê thì phải ở trên mặt đê. Còn điếm này là điếm canh của bến sông. Ngày nhỏ, cu Trác hay ra bến chơi, khi ấy cái điếm đã dột nát, có một ông lão không có nhà nên trú ngụ ở đấy. Cứ theo bố của ông giải thích, thì cái điếm đó, thời nhà Nguyễn, người ta cho dựng để kiểm soát việc buôn bán, thu thuế và chặt bắt hàng lậu. Sau không cần nữa nên để hoang thành đổ nát. Dẫu vậy, thì việc buôn bán ở bến Điếm thời ông còn bé tấp nập lắm. Sáng chiều, thuyền bè cặp bến Điếm đông đăc, kéo dài cả một khúc sông Thao. Hay la cà ở bến, cu Trác vẫn nhớ những bè luồng, nứa, và những thuyền buôn chở đầy ự những hàng nông lâm sản, như củ nâu, măng tươi, và nhiều nhất là chè băm. Chè băm là loại chè lá già, được thu hái đâu đó từ các vùng chè Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai, Lai Châu, được người ta băm nhỏ, phơi khô, đem đóng vào bao tải hoặc các sọt nan cài lá cọ, mỗi bao, sọt nặng cỡ dăm chục cân đến cả tạ. Chè băm chở về xuôi, bán cho dân đồng bằng mua uống, chứ ngày đó lấy đâu ra chè búp sao mà uống đâu. Cu Trác ấn tượng nhất là cảnh những thuyền, bè buôn hàng lớn có người kéo dây trên bở phía trước và vài người dùng con sào dài đi theo chống đẩy giữ cho thuyền bè đi song song với bờ sông. Cảnh những phu kéo thuyền bè giống như bức tranh Những người kéo thuyền trên sông Von-ga nào đó mà cu Trác đã từng thấ. Chẩng là, cu Trác hay được bố cho sang chơi nhà người chú ở thị xã Phú Thọ, cậu con người chú tầm tuổi Trác lại dắt sang chơi nhà hàng xóm. Nhà này to bề thế, trên tưởng nhà có treo tờ tranh giấy này. Cu Trác nhìn thấy thích lắm, ngắm nghía kỹ nên nhớ, nhất là hình ảnh các phu kéo thuyền ăn vận rách rưới, đầu cúi gằm, oằn vai lưng kéo sợi dây chão để thuyền đi. Thế nên, khi bắt gặp những người kéo thuyền bè ngang qua khúc sông Thao bến Điếm, thì thích lắm, reo lên rồi chạy xuống bến, bám theo những người phu kéo thuyền, sờ thử và nắm tay vào sợi chão to đẫy, kéo. Có người phu kéo quát đuổi, bảo quẩn chân. Cu Trác về kể với bố, liền bị bố mắng cho một trận, bảo như thế là nguy hiểm, ngã xuống sông thì toi đời. Vậy nên, cu Trác càng nhớ, sau này lớn lên, tìm hiểu, biết bức tranh ấy của một sĩ người Nga rất nổi tiếng tên là Ilya Repin từ giữa thế ký 19. Giờ đây, con trai ông và những người bạn đứng trên Bến Điếm, ngó ngược xuôi cả một khúc sông Thao đang mùa lũ tiểu mãn mà thuyền bè thưa thớt, làm sao hiểu nổi nơi sâu thẳm ký ức ông bao chuyện xưa cùng những con người cũ đang sống dậy trong lòng ông, và những điều mắt thấy tai nghe trên bến Điếm từ ngày ấy ông mang về nhà hỏi cha mình, để rồi trong một bài thơ ông bật ra câu “Sông Thao, đò dọc đò ngang những câu chuyện mắc lưới”. Ai bảo là làm thơ dễ nhỉ? Có những câu thơ người ta phải đi một đời người mới bật ra được...
Trở vào làng. Ông vào nhà người thím họ, mượn chìa khóa để vào Từ đường dòng họ thắp hương. Gặp người thím họ, thăm hỏi dăm ba câu chuyện, loanh quanh sang chuyện đàn bà, con gái yêu đương ngãy xưa...
Bà thím bảo, dạo trước tết, cái Thà, cháu gọi bà bằng di, sống mãi nơi biên giới Lào Cai về thăm quê. Thế là thím cháu ông Trác chuyện một hồi về người đàn bà tên Thà, khiến cho hai người bạn ông ngơ ngác chẳng hiểu chuyện gì.
Ngày ấy, ông chuẩn bị nhập ngũ. Tốt nghiệp đại học lên miền núi Hà Giang nhận công tác được hơn năm thì có lệnh gọi nhập ngũ, Chiến trường miền Nam đang thiếu quân, mà miền Bắc thì luôn sẵn sàng “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Chàng cán bộ thương nghiệp Trác lên với cao nguyên đá còn chưa kịp bén duyên ai, ngoài chút tình cảm thinh thích cô nhân viên mậu dịch nơi chân dốc Mã Tin khỏe mạnh có duyên, thì đã phải rời vùng đất này để vào lính. Chàng thanh niên Trác đi thăm bố, đang xây dựng xưởng chè nơi Bến Sơn, để chào ông trước khi nhập ngũ. Chàng mượn được ông cậu họ chiếc xe đạp cà tàng hăm hở phóng đi. Dọc đường, chàng thấy một cô gái độ tuổi mới lớn, diện chiếc áo xanh sĩ-lâm, nón lá đi bộ cùng chiều. Cô gái thấy chàng thì chẳng ngần ngại xin đi nhờ đến dốc Chủ Chè. Thế là chàng cắm cổ gò lưng đèo cô nàng. Đến chân dốc thì nghỉ chân chốc lát, cho đỡ mệt. Chàng tháo bi đông nước mời nàng trước rồi mình uống sau. Định nói lời chia tay thì cô nàng bảo, em còn đi nữa, đến tận Bến Sơn cơ. Chàng ngạc nhiên. Nàng nhoẻn cười tự nhiên bảo: “Thì em phải nói đến dốc Chủ Chè thì anh mới cho đi nhờ chứ”. Nói dối dễ nghe ghê cơ. Chàng khoái chất tự nhiên của cô bé, mắng yêu: “Này nhớ... trẻ em nói dối là không tốt đâu đấy”. Vênh mặt: “Thế người lớn nói dối là tốt à... Với lại... người ta... người lớn rồi đấy nhớ”. Phì cười: “Người lớn gì mà bé như cái kẹo vậy? Đã nói dối... lại còn nói dối bộ đội nữa thì... đương nhiên lại càng không tốt rồi”. Cãi ngay: “Ô ô... bộ đội đâu? ... làm gì có bộ đội ở đây?’. Nhìn quanh quất. Cười vênh mặt: “Anh... anh là bộ đội á?... Thế quần áo, giày mũ bộ đội đâu?”. Tự hào: “Này nhớ... mấy hôm nữa thôi, anh đây là bộ đội rồi đấy...”. Ngạc nhiên, dịu giọng: “Thật á?... Thế thì cho em xin lỗi nhé... Ban nãy... sợ nói đi nhờ đến tận Bến Sơn, xa quá... anh lại từ chối...”. Cười bảo: ”Bộ đội là phải giúp đỡ nhân dân chứ... Đúng không nào, cô bé?...Quân với dân như cá với nước kia mà”.  Li nhí: “Vâng... nhưng mà... không được gọi em là cô bé nữa... Lớn rồi mà...”. Cả hai cùng cười.
Thế là chàng và nàng cùng ngược dốc Chủ Chè. Chàng dắt xe, còn nàng đi bên, cầm tay vào booc-ba-ga đẩy nhẹ. Vừa đi vừa trò chuyện. Lúc này, nhìn kỹ, chàng thấy cô bé khá xinh. Gương mặt bầu bầu, nhưng cái cằm hơi lẹm, đôi mắt to đen, cái trán hơi dô vẻ bướng bỉnh. Lên đỉnh dốc, chàng đã thinh thích cô bé rồi. Đổ dốc, xe càng nặng càng tuột nhanh, chàng cố gắng làm chủ tay lái, còn nàng thì sợ nên hai tay ôm chặt vòng bụng chàng. May mà không trượt ngã dù mấy lần loạng choạng. Từ đấy vào Bến Sơn còn một thôi đường nữa. Chàng bắt đầu dẻo miệng, chuyện trò, hỏi han đủ thứ. Cao hứng còn đọc thơ, những câu thơ đầu đời của chàng, đầy những chia xa thương nhớ, những anh anh em em rồi. Chẳng hiều nàng có nghe rõ không nhưng chốc chốc khen hay. Chàng càng phởn chí, dù đạp xe bở hơi tai song vẫn luôn miệng. Chân dốc Đá Thờ, con dốc cao nhất, chàng nàng lại xuống xe dắt bộ lên dốc. Tới đỉnh dốc, dừng nghỉ cho đỡ mệt, vả lại chàng cũng nấn ná muốn kéo dài thời gian ở bên nhau. Giờ thì chàng mạnh bạo hẳn, thấy nàng duyên nên tán tỉnh. Thực lòng, trước lúc nhập ngũ, chàng nảy ý định “thả thính” đời sau này về buông câu, bèn nửa khen nửa tán, cười bảo: “Em xinh quá. Mới gặp mà anh đã thấy thích em rồi... Cô bé ơi, nếu sau này anh còn sống trở về... thế nào anh cũng tìm em...rồi xin với cha mẹ em để xin cưới em...”. Nàng đỏ mặt thẹn, ngúng nguẩy: “Cái nhà anh này... Em không thích đùa đâu nhé..”. Cười dấn tới: “Thì anh có đùa đâu. Anh nói thực lòng đấy... Bộ đội, ai lại đi đùa nhân dân cơ chứ...”. Nàng thích ra mặt, song cố làm ra vẻ tỉnh queo. Chàng chợt nhớ, sắp phải chia tay rồi mà chưa biết tên nàng, bèn chủ động: “Anh tên Trác... Còn em tên gì?”. Lúng túng: “Em tên Thà... tên xấu anh nhỉ?”. Căn vặn: “Thế em vào Bến Sơn làm gì? Định xin làm công nhân nhà máy chè à?”. Cười: “Không ạ. Em vào thăm mẹ em đang làm công nhân ở đấy?... Thế còn anh?”. Hơi lúng túng bởi câu hởi ngược: “Thì anh cũng đi thăm bố anh làm trưởng phân xưởng sản xuất ở đấy... chào để đi bộ đội”. Tò mờ: “Thế bố anh tên gì?...”. Buột miệng: “Bố anh tên Tráng... vậy mẹ em tên?... Thôi đúng rồi, em là Thà, con gái mẹ Thực, đúng không?...”. Ngạc nhiên: “Ôi, ... sao anh lại biết tên mẹ em?’. Òa to: “Thôi rồi... mày là cái Thà con cô Thực...”.
Thế là tan giấc mộng điệp. Mẹ của nàng là em họ nội tộc với bố của chàng. Phong tục ở quê, đã họ hàng với nhau, dẫu xa hàng chục đời thì  trai gái cũng không thể lấy nhau được. Tan cơn mộng, chàng xưng hô với nàng theo kiểu họ hàng với nhau, nên tao tao mày mày. Cô gái cứ tròn mắt vì thấy chàng đổi cách xưng hô thế. Chặng đường từ dốc Đá Thề vào đến Bến Sơn còn vài cây số nữa, chẳng còn là đường đưa chàng lính mới kiêm nhà thơ đến với bến hẹn hò, mộng yêu đương nữa...
Cha con ông Trác xong thủ tục thắp hương khấn các cụ tổ dòng họ, trở lại nhà bà thím. Lại tiếp câu chuyện về người đàn bà tên Thà. Ngày ấy, ông Trác vào lính, rồi đi tiếp vào Nam, sang chiến trường Lào, biền biện mấy năm. Khi trở ra Bắc, về quê, hỏi thăm thì người em họ lên tận Lào Cai làm công nhân rồi lấy chồng người Việt gốc Hoa. Khi đã biết là họ hàng với nhau, thì ông Trác chẳng tiếc. Nhớ thế cũng là đủ về một nàng thơ của quá vãng. Trong những năm còn ở lính, chiến trường bom đạn, những vần thơ lởn vởn trong đầu hay những bài thơ thành hình được viết vội bằng bút chì nguệch ngoạc sổ tay, cô em họ tên Thà ấy cũng ít nhiều để lại bóng hình. Sau này, đi khắp khói mọi nơi, quen biết nhiều người đàn bà đẹp, lòng dạ cũng xao xuyến này nọ, song chẳng hiểu sao, hình ảnh của những người đàn bà xưa cũ mà ông Trác từng có duyên gặp gỡ ở cái đất bán sơn địa bên bờ Thao giang ấy vẫn cứ theo đuổi, ám ảnh ông mãi. Từ làng Thạch quê ông, đến chân núi Đọi Đèn của Cẩm Khê và cả vùng xa khuất bên kia nữa đất Yên Lập, mọi thứ đều gần gũi, thân thương. Phải chăng, đúng quy luật, ở cái tuổi già lão, người ta lại chỉ nhớ chuyện đã xa?...
Ngày ấy, ở độ tuổi mười một, mười hai, cuối bậc tiểu học, kỳ nghỉ hè đến, cu Trác hay được bố cho đến nơi ông đang làm việc chơi. Ông Tráng, bố cu Trác là người năng nổ, có kinh nghiệm làm chè, nên được cấp trên tin tưởng giao cho việc đi lập xưởng chè mới. Thế là ông cứ xa nhà quanh năm, hết Thanh Ba, Hạ Hòa, lại Yên Lập. Vậy là, mới chục tuổi đầu, cu Trác đã được bố tha đi nhiều nơi. Tính tình hiếu động và nhanh mồm miệng, nên cu Trác được các cô chú, anh chị ở các phân xưởng xí nghiệp chè quý lắm. Không hiểu sao, hồi đó, nhiều phân xưởng chỉ toàn nữ công nhân, có nhiều người quê mãi vùng trong Thanh Nghệ Tĩnh. Có lẽ, nghề làm chè phù hợp với nữ hơn nam. Có lần, lúc nghỉ giải lao giữa ca, mấy chị nữ công nhân trêu ghẹo nhau rồi lôi cả Trác vào cuộc. Cu Trác bị mấy chị bế thốc đặt ngồi vào chiếc dành to tổ bố, rồi lấy cả bao tải lá chè tươi đỏ ụp xuống đầu. Cụ cậu bị lá chùm ngập cả đầu thì hốt hoảng vùng người ngoi lên. Các chị cười như nắc nẻ, khoắng tay bới lá chè cho cụ cậu, Trong cơn loạn xạ đó, cu Trác cảm nhận được có bàn tay quờ quạng đụng chạm vào phần giữa hai bẹn cậu. Cu cậu vùng đứng lên, cáu đỏ mặt tía tai, vặc to “Em ứ thích các chị đùa thế đâu”. Vậy mà các chị thì đấm lưng nhau mà cười. Cu cậu đâu biết,  có chị chỉ khẽ cười đỏ mặt...
Và rồi, một đêm, trời mưa giông chuyển hạ sang thu. Mưa ngàn, mau thưa suốt đêm. Cu Trác ngủ với bố trong căn phòng hẹp ở khu nhà công nhân. Gần nửa đêm, ông Tráng vùng dậy lấy đèn pin đi kiểm tra phân xưởng xem mưa gió thế có bề gì không. Cu Trác sợ ma không dám ở một mình, cứ bám lấy bố đòi đi theo. Ông Tráng bực quá, dỗ không được, bèn gõ cửa phòng bên cạnh, nhờ gửi cu Trác vào đấy. Phòng này rộng, có những mấy chị công nhân cùng ở, toàn giường. Chị Nụ, người lớn tuổi nhất phòng, có giọng nói miền trong nằng nặng, nhận cho cu Trác ngủ nhờ giường. Một ngọn đèn chai dầu hỏa hãm hạt đỗ hắt chút ánh sáng đỏ quạch nơi góc phòng. Ngoài trời vẫn mưa gió sùi sụt. Chị Nụ cho cu Trác nằm phía trong, giáp với tường vách, còn chị nằm chặn phía ngoài, phủ chiếc chăn chiên đắp chung, dỗ dành cu cậu: “Em đừng sợ, Ngủ đi... Có chị đây, con ma không dám”. Cu Trác yên lòng, nhưng lạ giường. cựa quậy một lúc rồi ngủ thiếp đi. Cu cậu miền man, giấc mơ nối tiếp giấc mơ. Trong mông lung, trôi dạt, cậu thấy mình ấp mặt vào hai trái núi, nhưng núi gì mà ấm áp, mềm mại, thơm tho, hấp dẫn đến thế, khiến cậu cứ rụi mặt miệng vào đấy. Thoảng tiếng nước chảy nhẹ êm đâu đó, lại có gì đó mơn chớn chỗ nhạy cảm làm cậu thinh thích làm sao... Và cậu cứ chìm đi, lạc dần vào sự khoan khoái lạ kỳ... Sáng hôm nay, cu Trác thức giấc thì mọi người đã dậy hết cả rồi. Thì ra, đêm qua, cậu ngử cả đêm trên giường của chị Nụ. Bố cậu đi tuần tra về, không muốn làm phiền các chị nên cứ để cho cậu ngủ bên đó. Cậu ra sân, nhìn quanh quất, thấy mấy chị đang tập thể dục, song không thấy bóng dáng chị Nụ đâu. Mấy ngày còn lại ở đấy, các nữ công nhân vẫn hay trêu đùa cu cậu, riêng chị Nụ thì không. Hình như, chí né như không muồn giáp mặt cậu, còn cậu thì chỉ dám nhìn trộm chị mà thôi...
Ấn tượng đầu đời về giới tính ám ảnh, lẵng nhẵng theo ông Trác từ ngày ấy cho đến tận bây giờ. Mãi sau này, có lần. ông Trác hỏi thăm bố mình về những nữ công nhân cùng xưởng ngày ấy, thì ông cụ bảo, nghe đâu, chị Nụ không lấy chồng, khi đã đứng tuổi thì tự kiếm được đứa con. Cũng kiểm điểm này nọ một hồi, chị Nụ xin thôi việc, đưa con về quê miền trong sinh sống và biệt tin tức...
Với ông Trác, tuy sớm va chạm về chuyện nam nữ, thế nhưng đều bị động, nên vẫn ú ớ lắm. Khi trong lòng mình manh nha chút tình cảm luyến ái thì lại trở nên nhút nhát. Vào độ tuổi mười bốn mười lăm, học cuối cấp hai, Trác chơi thân với cái Nhuần. Nó kém Trác vài tuổi và học lớp sau. Nhà Nhuần ở xóm trong đồng, mà trường học lại ven chân đê, nên mỗi buổi học, Nhuần hay tạt ngang cổng nhà Trác gọi rủ cùng đi học. Sở dĩ hai anh em thân nhau là bởi cái Nhuần hay bị mấy thằng con trai làng Thạch bắt nạt trên đường đi học. Trác thương con bé bị bắt nạt, lấy cớ họ hàng bênh vực cái Nhuần, thế nên con bé tự thân quý Trác thôi.
Một năm, lũ sông Thao về sớm, lại to, làng Thạch ngoài đê nước mênh mông tràn vào làng, ngập hết lối ngõ, sân vườn. Nhà nào đất trũng thì nước vào nhà, ngập lưng chân giường. Lũ thế, chỉ người lớn ở lại giữ nhà, giữ làng, còn người già và trẻ con thì gửi sơ tán vào các nhà họ hàng, người thân xóm trong đồng ở nhờ. Mấy anh chị em nhà Trác tứ tán mấy nơi. Trác vào ở nhờ nhà cái Nhuần. Năm học chưa hết, tối tối trẻ con vẫn phải học bài, Hè nóng bức, lại nhiều muỗi, nên buổi tối, Trác phải chui vào trong màn ngồi học. Đèn dầu hỏa khét lẹt leo lét ánh sáng, Học thế, đầu óc u u minh minh, chữ nghĩa, con số chạy đâu hết. Một tối, trời đã về khuya, học buồn ngủ, gà gật trong màn thì Trác nghe như có tiếng dội nước ngoài sân giếng. Trác tình ngủ, hé mắt nhìn ra thì thấy bóng con gái đang tắm, Nhìn kỹ thì nhận ra cái Nhuần mờ tỏ trong ánh trăng. Nó mặc nguyên quần áo, múc nước giếng dội lên người. Trác nhìm trộm, đầu óc non trẻ cố mường tượng ra những gì ở bên trong quần áo cái Nhuần. Tỉnh ngủ hẳn. Nào ngờ, buồn ngủ thế, vậy mà khi tắt đèn đi ngủ, Trác lại không ngủ được, cứ vẩn vơ nghĩ về thân thể cái Nhuần. Trong lòng cậu bé mới lớn có sự đổi khác...
Và rồi, chỉ ít ngày sau, hai đứa có một kỷ niệm chẳng thể nào quên. Chiều nghỉ học, cái Nhuần rủ Trác đi chăn trâu và móc cua đồng. Hai đứa hì hụi ở cách đồng, gần gò Vinh, nơi có hàng trăm gốc lộc vừng cổ thụ. Chợt nhớ chuyện cha mình kể về gò cây lộc vừng ngàn năm này, Trác bèn rủ cái Nhuần cùng mò vào xem. Giữa gò Vình có một ngôi mộ hay miếu cổ gì đó, vẻ bí ẩn ma mị. Cài Nhuần sợ nên không dám bén mảng đến ngôi miếu cổ, trong khi Trác mò tận nơi, lần xung quanh xem xét, rồi chắp tay, lầm rầm khấn vái. Trác đã từng nghe cha mình kể rằng ngôi miếu cổ ấy, nghe đâu thờ nữ thần, nàng công chúa Ngọc Hoa là con gái của Hùng Vương, lại nghê đâu, thờ công chúa Tiên Dung. Chẳng rõ thật hư, chỉ biết bao đời nay, ngôi miếu cổ rất linh thiêng, nên người trong vùng giữ lễ thờ cúng. Trời bồng nổi cơn giông, mây đen kịt cả vùng. Hai đứa, rồi chạy về quán Trịnh cách đó không xa để trú mưa. Gần đến nơi thì mưa ập xuống sầm sập. Vào được quán thì cả hai ướt như chuột lột. Cái Nhuần có vẻ lạnh, phần vì ướt phần vì sợ. Trác thấy vậy, rất muốn kéo nó đứng sát cạnh mình, như che chở, nhưng cái Nhuần có ý giữ khoảng cách nam nữ.  Hai đứa đứng nhìn ra trời mưa, chẳng ai nói gì. Trác ngó ngoáy, chốc lốc đưa mắt nhìn ngang. Quần áo cái Nhuần ướt đẫm, bết vào thân thể, rõ hình cặp nhũ hoa non như chũm cau nhu nhú, và cặp mông đang độ lớn... Tự nhiên, Trác lén nhìn xuống đũng quần mình, ngường ngượng, lại nghĩ, nhà mình với nhà cái Nhuần có họ hàng, dây mơ rễ má với nhau, chẳng biết sau này lớn lên, nếu hai đứa yêu nhau thì có được lấy nhau không nhỉ? Nghĩ thế, bởi Trác biết là ở làng Thạch mình, có những cặp trai gái thích nhau, muốn lấy làm vợ chồng thì bị đôi bên cha mẹ ngăn cản, bảo là họ hàng, không được kết hôn...
Hình như cái Nhuần cũng cảm nhận được cái nhìn dò xét của Trác nên nó né nhìn về hướng khác vờ không biết song đầy cảnh giác. Những câu nói vu vơ về trường lớp, bạn học này nọ, không đầu không cuối. Trời sấm chớp ùng oàng, mỗi khi có ánh chớp lóe lên, cái Nhuần lại nhắm nghiền mắt, so người, hai tay bịt chặt hai bên tai. Trác cũng thấy sợ nhưng phải cố làm ra vẻ đàn ông cứng cỏi. Bởi Trác biết, những lúc trời có sấm sét thế này, những nơi có cây to hay quán xá nơi đồng rộng trống vắng hay bị sét đánh. Thế nên, mỗi lần chớp lóe, Trác lại lầm rầm cầu khấn bà chúa được thờ ở miếu cổ gò Vinh phù hộ độ trì cho hai đứa. Chẳng rõ bà chúa có phù hộ hay không, nhưng may mắn bình yên vô sự. Rồi mưa cũng dần ngớt. Hai đứa ra về. Cái Nhuần ý tứ để Trác đi trước, nó đi sau, cách Trác một chút, như thế, vừa tránh được cái nhìn của Trác, mà có gặp ai trên đường là việc thưởng tình. Trác đi trước, muốn ngảnh lại đằng sau lắm nhưng ngại, đi như thằng tù bị cái Nhuần áp giải vậy.
Lũ vãn, Trác về lại nhà mình. Kết thúc năm học ấy, năm học sau, Trác vào cấp 3, cái Nhuần vẫn đang học cấp 2 cũ. Thi thoảng hai đứa chạm mặt nhau đâu đó trên đường, chỉ vài câu chào hỏi thông thường. Kế đó, gia đình nhà Trác rời làng Thạch, chuyển lên thị xã ở bờ bên sông Thao sinh sống. Đò giang cách trở, năm đôi ba lần về quê dịp giỗ tết. Trác có ban bè và những mối quan hệ mới. Chút tình cảm manh nha học trò phai xa dần. Rồi nữa, đất nước bước vào thời kỳ chiến tranh phân miền Bắc Nam. Lứa thanh niên độ tuổi Trác lác đác tòng quân. Tuổi thanh xuân của Trác đang bị hút về phía trước, hấp dẫn đấy song không thể đoán trước điều gì. Mỗi lần về làng Thạch, vô tình hay hưu ý, Trác loàng thoáng biết Nhuần học hành đâu đó,...
Chẳng một lời ngỏ, cũng đâu hứa hẹn thề bồi gì... Vậy mà giờ đây, tóc bạc da mồi, mắt mờ, chân chậm, ông Trác vẫn nhớ. Thậm chí, chuyện xưa cũ lại hiển hiện, rõ nét hơn ngày thơ dại ấy. Nó ngấm vào lòng, rồi bật ra thành thơ lúc nào không hay... “Đâu triền hoa cỏ, nghêu ngao/ tình xuân mắt biếc đâu nào, ngày xưa/ khúc tiêu dao ướt trận mưa/ và em, vạt nắng xế trưa, lội đồng.../ Một ngày cạn giấc sầu đông/ Anh đăng lình xem lấy chồng ngoài đê...”. Ông Trác thập thững đường làng, bến sông, mà cứ thấy thấp thoáng đâu đó màu cỏ hoa, cảm nhận hương hương đồng nội ngai ngái, đẫm nước cơn mưa, chập chờn ánh đền dầu hỏa và thân thể mây mẩy con gái mới lớn của cô bé Nhuần...Những câu thơ chớp lóe trong ý nghĩ khiến ông choáng như say rượu...Ngó ra, sông Thao vẫn mải miết chày, chỉ có đôi bờ là cảnh vật đổi khác. Bờ bên kia, vài ống khói cao vút lúc tỏ lúc mờ trong mây trời sũng nước
Đi loang quanh một hồi, già nửa thế kỷ vút qua nhanh chóng, mà giờ đây, vẫn thế thôi ư? Vậy thì sắc sắc không không của cuộc đời mỗi con người ta là thế chẳng?!...
Chẳng lẽ, cô bé Nhuần và những người đàn bà khác thuở xa xưa ấy chỉ còn là nỗi nhớ suông, hay nhớ khan thế thôi, khó nuốt trôi, cứ mắc mớ trong dòng ký ức hỗn độn của ông?
Hẹn gì đâu, Nửa câu thề. Chỉ là công quản. Ngày về, bỗng dưng... Lội đồng, ngày ấy, rưng rưng. Đâu rồi, quán Trịnh, mình từng bên nhau? Thế rồi... Giờ đã mai sau...
Vừa mới đó mà đã già nửa thế kỷ qua, thì ngày hôm nay đây xem như là mai sau rồi. Quên cả cậu con trai và những người bạn, ông Trác như mê đi trong miền ký ức. Ông hiểu, những hình bóng ấy còn nhũng nhằng theo ông đến bến đò cuối... ./.
 
Tháng 5. 2020
 
 

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Chiều Ghềnh Ráng - 31.05.2020 12:21:08
Đi tìm một cơn mơ,
 
“Cơn mơ chết từ đêm hôm trước
chớp mắt rầu rầu cỏ đã um xanh...”
( Thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền )
 
Ông lẩn thẩn đi tìm cơn mơ. Ông Hòa nghĩ thế, nhưng ông Tuyền, bạn chí cốt của ông lại không nghĩ vậy. Con người và cách nghĩ khác nhau nên quan niệm khác nhau cũng phải thôi. Ông là nhà giáo, dẫu có chút đam mê văn chương thì cũng đầy chất mô phạm trong người. Còn ông Tuyền, một thi nhân, là kiểu thi nhân cả đời chông chênh đi giữa thực và mơ, đương nhiên, lãng đãng mơ mộng khác ông. Ông ít khi mơ, mà có mơ thì mọi chuyện diễn ra trong giấc mơ cũng rất chi là nghiêm túc. Còn ông Tuyền thì hay mơ, mơ cả lúc thức, ấy là khi ông ấy làm thơ. Khác tính nết nên hai người chơi với nhau rất thân, cứ như có sức hút về nhau. Ồng Hòa đã hơn một lần bảo ông Tuyền, rằng ông là phần xác còn ông Tuyền là phần hồn của một con người vậy. Chơi với nhau mấy chục năm nay, nhất là từ khi ông rời bỏ mảnh đất trung du về Hà Nội sinh sống sau khi nghỉ hưu, thì hai người càng gắn bó. Mươi năm nay, khi mạng xã hội phát triển, ông Tuyền lập trang văn thơ của mình ở đấy, một hồi, mời gọi ông và lập sẵn cho ông một trang, rồi dạy ông cách sử dụng  Kể cũng tiện, tiếng là hai ông cùng ở trong một thành phố, nhưng người đông, giao thông như mắc cửi, cả tháng, thậm chí vài tháng hai người mới gặp nhau một lần. Thế nên, nhờ mạng xã hội, hai ông có thể thăm nhau, chuyện trò với nhau hàng ngày. Ông là thầy giáo dạy văn, lâu ngày tập tọng viết văn làm vui. Trang văn của ông, tháng đôi lần, ông mới có bài tản văn, chẳng bù cho ông Tuyền, thơ bắn liên thanh, tằng tằng vài ngày một bài, mà bài nào đọc cũng được cả, ý từ, câu chữ, mạch thơ, biến ảo, khó nắm bắt. Ông Hòa phục bạn mình lắm. Đọc thơ của bạn già, ông khoái bởi sự liên tưởng lạ, bởi ký ức tuôn chảy đan xen với hiện tại, làm câu thơ biến ảo. Tuy nhiên, ông cũng bực mình, cứ như đang ăn một món ngon thì nhai phải sạn vậy, bởi thơ của ông Tuyền hầu như chẳng có bài nào toàn bích, hay đơn giản là tròn trịa, suôn sẻ cả. Bài nào cũng có sạn, khi thì câu thơ trúc trắc hơn văn xuôi, khi thì có đôi ba từ sáo rỗng. lúc lại lổn nhổn như người nấu bột nhưng để bị vón cục. Tức nhất là ông Tuyền cứ tùy tiện dùng từ Yêu, từ Thơ, trong các bài thơ của mình một cách vô tội vạ. Nhiều lần ông Hòa bực mình nói trắng ra với bạn lúc trà dư tửu hậu, ông Tuyền không bực, nhận lỗi ngay, nhưng rồi đâu vẫn đấy. Ông Hòa bảo bạn, khi nào ông Tuyền định chọn lựa một số bài thơ thành tập xuất bản thì nhất định phải nhận phần biên tập trước, để phăng-teo những từ thừa và lộ ấy đi...
Giờ thì hai ông bạn già dắt nhau về thăm quê nơi miền trung du. Thu xếp để đi cặp với nhau thế này là khó lắm. Ông Tuyền về quê rồi đi thăm người con nuôi của mình, còn ông Hòa về cùng nhưng là đi tìm giấc mơ của mình. Số là, ông Hòa vừa có một giấc mơ ngọt ngào và kỳ lạ. Chỉ kỳ lạ với riêng ông thôi, bởi chiêm nghiệm lòng mình thì mới xem là kỳ lạ. Mơ đêm trước, sáng hôm sau trở dậy, vào mạng xem thì ông bắt gặp một bài thơ của bạn mình vừa mới đăng trên trang của ông ấy lúc rạng sáng. Ông Tuyền viết về giấc mơ “Hay dở nắng mưa oi mùa nóng lạnh/ ai người ngồi đợi chuyện vu vơ/ cơn mơ chết từ đêm hôm trước/ chớp mắt rầu rầu cỏ đã um xanh...”. Bắt gặp khổ thơ này, ông Hòa khẽ rùng mình, ớn người, lạnh dọc xống lưng. Ông đọc cả bài, rồi đọc đi đọc lại khổ thơ này, rẩm riu nghĩ, sao lại có chuyện trùng hợp với giấc mơ của ông nhỉ? Ông Tuyền có biết gì về giấc mơ đêm trước của ông đâu, và ông ấy lại càng không biết chuyện tình lỡ dở thời trai trẻ của ông. Phải chăng, có điềm gì gở, không hay xảy ra với người ấy?...
Người ấy, là người đàn bà tên Thùy, vợ chưa cưới đầu đời của ông Hòa. Ngồi trên ô tô, từ thị xã tỉnh lẻ, về vùng đất Phù Ninh ven sông Lô, ông Hòa bắt đầu câu chuyện tình lỡ dở của mình với ông Tuyền...
Hai ông tỉ tê chuyện ngày xưa. Ngày xưa ấy, gọi thế thôi chứ chưa hẳn đã xưa. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, các trường lớp mới được mở. Vùng trung du nghèo nằm hai bên bờ sông Thao hiếm trường lớp lắm. Ông Hòa quê Đỗ Sơn bên tả ngạn, còn ông Tuyền quê Thạch Đê lại bên hữu ngạn. Hai bên nhìn thầy nhau nhưng đò giang cách trở. Vào tiểu học, quê ông Hòa không có trường, nên ông phải qua đò cắt ngang sông Thao sang Thạch Đê để học nhờ. Hai người cùng lớp vài năm với nhau, nhưng ngày ấy trẻ con chẳng mấy nhớ. Sở dĩ vậy, vì ông Tuyền có bố làm công nhân xưởng chè, nên đi theo. chuyển học nơi khác, còn ông Hòa khi quê có trường lớp rồi thì thôi học nhờ. Hai đứa biệt tin nhau. Sau lớn lên, đi đó đậy, gặp nhau và thân nhau, gợi chuyện một hồi, mới biết là cùng lớp. Khi hai người trở nên thân nhau, thì cả hai đều yên bề gia thất, nên ông Tuyền chỉ biết Nguyệt, vợ ông Hòa bây giờ, chứ đâu biết người đàn bà tên Thùy kia. Ông Hòa cùng giấu bạn. chưa từng nói gì về người đàn bà nay. Người đàn bà tên Thùy ấy là nỗi đau tình, nỗi đau đời đầu tiên của ông Hòa, dễ gì kể chuyện ra đâu. Ngay chính bà Nguyệt, vợ ông cũng chỉ láng máng, và ông Tuyền thì mờ tịt. Vậy mà, đọc mấy câu thơ của ông Tuyền, ông Hòa giật mình, cứ cảm giác là bạn ông ám chỉ chuyện tình của mình... Ông Hòa ớn người không phải vì ngại lộ chuyện cũ, mà sợ vì linh cảm có chuyện gở xảy ra với người đàn bà một thuở của mình,,,
Ở độ tuổi mười tám, đôi mươi, học xong cấp 3, cũng là lúc đất nước bước vào cuộc chiến tranh. Thanh niên có học vấn không nhiều, nên có trình độ tốt nghiệp bậc phổ thông là quý lắm rồi. Đất nước phân miền, chiến tranh và xây dựng phải song hành. Hầu hết, lứa thanh niên có học thời ấy được chia làm thành mảng rõ ràng. Một số vào quân ngũ, số còn lại, không cần phỉ thi thố gì, cứ căn cứ học bạ, học lực và lý lịch gia đình về thành phần xuất thân, để chọn lựa, đưa vào các trường đào tạo theo chuyên ngành, thậm chí, đưa đi đào tạo ở nước ngoài trong hệ thống các nước thuộc phe Xã hội chủ nghĩa. Xét về học lực, chàng thanh hiên Học thuộc loại khá đều, nhưng về lý lịch nhân thân, lại là con cái nhà địa chủ,  thuộc diện thành phần bóc lột, lý lịch xấu, bị loại ra. Chàng Hòa cay đắng nhìn các bạn học cùng trang lứa với mình, cứ nay mai, khăn gói đi nhập học ở các trường đại học và trung học chuyên nghiệp. Biết là mình thuộc diện lý lịch xấu, song chàng Hòa vẫn hy vọng một ngày nào đó, được gọi tên. Nhưng rồi, chàng bị bỏ lại ở thôn quê, bộ đội cũng không mà học hành lên cao hơn lại càng không. Chàng cảm giác như mình là người thừa của xã hội, chẳng ai đoái hoài gì đến mình, ngoại trừ người thân ruột thịt gia đình. Ấy là bà mẹ của chàng. Mẹ bảo chàng, phải tự ý thức chuyện thành phần gia đình mình, chẳng thể ganh đua với người khác, rằng cha mất sớm, nhà neo người, không học hành lên cao thì lấy vợ sinh con đẻ cái. Ấy cũng là nghĩa vụ lớn với gia đình, dòng tộc. Vậy là chàng ngậm ngùi, xếp bút nghiên, làm vườn, cày bừa. học làm ruộng thành một nông dân thực thụ. Việc làm nông nghiệp, tự mình gắng thì được, song lập gia thất lại chẳng dễ chút nào. Nếu như trước đó, gia đình khá giả, giàu có là một lợi thế, thì giờ đây, lại là trở ngại. Người ta ngại dây dưa với những nhà thành phần bóc lột, hay liên quan đến phong kiến, đế quốc. Thế nên, tìm được người được nết, mà không ngại chuyện thành phần đâu phải chuyện dễ dàng.
Nhưng rồi, chàng Hòa cũng đã tăm tia được một cô gái tên Thùy, người làng bên. Thùy kém Hòa vài tuổi, học sau mấy lớp, hết cấp 2 thì thôi học, ở nhà làm ruộng giúp cha mẹ. Gia đình Thùy, thuộc diện nhà nghèo, nhưng có vẻ hiền lành tử tế. Được vậy là ổn rồi. Thùy là con cả, dưới còn những dăm đứa em lít nhít. Về hình thức, Thùy không xinh, khuôn mặt bầu, cũng ưa nhìn, vóc dáng khỏe mạnh, nhất là phần hậu, theo kiểu “to hông rộng háng đáng đồng tiền”. Lại con cả, ruộng sâu trâu nái không bằng còn gái đầu lòng. nên mẹ Hòa nhìn người, ưng ý ngay, vì có tướng đảm và hứa hẹn sinh cho bà lũ cháu. Hai người ưng nhau, hai gia đình cũng đồng ý, thế là tết ấy, mẹ sai chàng mang đồ sêu lễ sang nhà gái, xem như lấy chỗ đi lại chình thức, cũng là đánh tiếng với thiên hạ để giữ người. Vậy là, chỉ còn chờ ngày lành tháng tốt, hai bên thuận lợi là cưới hỏi, thành hôn. Chàng khấp khởi, phần nào nguôi ngoai nỗi buồn phải ở nhà, không được thoát ly...
Tháng dăm ba lần, Học sang thăm chơi bên nhà Thùy. Thực tình, chàng muốn sang nhà vợ chưa cưới hàng ngày hay ít ra tuần vài ba bận, nhưng mẹ ngăn, bảo sang nhiều nhà người ta lại coi thường mình. Có lần, Học đánh bạo, xin phép bố mẹ Thùy cho phép đưa Thùy đi chơi xa. Hai người đèo nhau lên thị xã chơi. Ngắm nghía chán chê, mua sắm vài thứ lặt vặt, ăn quà trưa, đủ cả. Chàng nàng bên nhau ríu rít. Ngày ấy, chàng chưa văn thơ như sau này, nhưng cũng thuộc được mấy câu thơ Nguyễn Bính, bảo nàng là cùng đi tỉnh thế này, không phải lo như chàng trai nọ sợ người yêu “hương đồng gió nội bay đi ít nhiều”. Nàng nghe, ngơ ngác chẳng hiểu gì .. Chiều về, không may bánh xe bị xì hơi, dắt bộ mãi mới tìm được chỗ vá xăm, về đến nhà thì trời đã tối. Lối về ngõ nhà Thùy một bên bờ đầm, bên kia tre pheo um tùm. Gần đến nhà, Thùy giữ ý đòi xuống đi bộ tự về. Hai đứa chia tay bịn rịn. Hòa cầm tay Thùy, không muốn thôi. Chàng thèm khát, đánh liều, nhìn quanh thấy trời tối vắng, không một ai, bèn kéo Thùy vào người mình, định hôn. Nàng không phản đối. Cặp đôi vừa ấp vào nhau thì Thủy nhảy cẫng lên, kêu có rắn. Bất ngờ, cả hai cũng hoảng. Thế là cái hôn đầu đời của chàng không thành...
Vậy mà trong giấc mơ vừa mới đây, ông mơ thấy mình hôn người đàn bà ấy, âu yếm, thắm thiết lắm. Tỉnh giấc, ông Hòa hết bàng hoàng rồi đâm ngẩn ngơ. Ông cố nhớ lại hương vị của nụ hôn. Đôi chim già hôn nhau, ngọt ngào thì không đúng, nhưng nhạt nhẽo thì cũng không phải. Hương vị thế nào nhỉ? Ngẫm nghĩ mãi. Lạ nhỉ, ngày xưa ấy, chàng nàng đã kịp hôn nhau bao giờ đâu mà biết hương vị của nó cơ chứ? Tự nhiên ông Hòa chờn chợn, nhìn sang vợ nằm bên cạnh, khẽ chạm tay vào người. Bà Nguyệt, vợ ông như cảm nhận được cái chạm tay, khẽ trở mình nằm nghiêng vào phía trong. Ông Hòa nén thở ra nhè nhẹ, vắt tay ngang trán, ngẫm ngợi. Sao vậy nhỉ? Ông chưa từng hôn cô Thùy bao giờ, mà nay lại mơ thế. Phải chăng, nỗi đau tình bị phản bội theo đuổi ông từ ngày ấy, suốt nửa thế kỷ qua, thành ẩn ức trong ông, giờ lặn vào giấc mơ theo đó mà có cảm giác hình hài?...
Hồi đó, ông Hòa còn nhớ lắm, những ngày tháng chờ hôn lễ nên duyên vợ chồng mới dài làm sao, phấp phỏng và cũng thi vị làm sao... Từ cảm mến ngày đầu làm quen, chàng Học đã dần cảm nhận được sự xao xuyến trong lòng mình với Thùy. Vì thế, khi Thùy thông báo gia nhập đội nữ thanh niên xung kích thời chiến của huyện, thì Hòa ít nhiểu cảm thấy lo lắng. Tuy không dám ngăn cản, song thực lòng, Hòa không muốn vậy. Chàng lo sợ Thùy tham gia, công việc sẽ bận hơn, dễ xao nhãng tình cảm hai người với nhau, và nhất là, dễ phát sinh tình cảm với người khác vì điều kiện quan hệ xã hội mới... Bụng lo, miệng vẫn động viên, nhưng Học không quên bóng gió nỗi lo ngại của mình. Thùy cũng hiểu, bảo chàng cứ yên tâm. Hòa cũng tự trấn an mình, đã sêu lễ, đi lại nhà nhau như thế thì trệu làm sao được ?...
Thế nhưng, cuộc đời mấy ai học được chữ ngờ, khi gia đình Hòa chắc như đinh đóng cột chuyện cưới xin thì xảy chuyện động trời. Một buổi, Thùy hẹn đi chơi và cô nàng chủ động bày tỏ ý muốn được chấm dứt quan hệ giữa hai người. Hòa sửng sốt, căn vặn thì Thùy chỉ viện lý do là sau thời gian tìm hiểu thấy không hợp nhau, nên muốn chấm dứt quan hệ hôn nhân. Hòa chỉ nghĩ, chắc cô ấy giận dỗi gì đó, nên có thể làm lành. Rồi tiếng đồn đến tai Hòa, rằng Thùy bị một chàng bộ đội đẹp trai công tác ở huyện đội, người thị xã chinh phục và nàng ta mê mệt chàng lính công tử đẹp trai dẻo mỏ kia. Hòa bán tín bán nghi, định bụng sẽ lựa lời hỏi Thùy cho ra nhé, thì một hôm, Thùy tự mình đến nhà Học, trả đồ sêu lễ, và nói lời xin lỗi gia đình. Lý do từ hôn chỉ đơn giản là thấy không hợp với Học và gia đình bên này. Hòa chết đứng như Từ Hải, còn bà mẹ thì giận tím mặt, xem đây là hành vi hỗn xược vì dù có thể nào đi chăng nữa thì bên gia đình Thùy cũng phải có bề trên đi cùng cho phải phép. Bà mẹ Hòa giận là thế nhưng vẫn giữ được sự bình tĩnh, nói những lời mát mẻ nhưng sâu cay với Thùy, hàm ý là cô chê thành phần gia đình bà, sợ ảnh hưởng xấu. Thùy cũng ghê gớm chẳng kém cạnh, đối đáp câu một. còn bảo là cha mẹ cô cũng không đồng ý việc trả sêu lễ, đây chỉ là ý định của riêng mình nên gia đình bên này có mắng mỏ thế nào thì cô cũng xin nhận hết. Hòa cay đắng đến thành tê dại, chỉ biết can mẹ mình thôi. Mẹ tủi hổ một thì chàng tủi hổ mười. Đàn ông đàn ang gì mà sắp đến ngày cưới, để người đàn bà mình sẽ cưới làm vợ đến tận nhà từ chối và trả lại đồ sêu lễ. Ngượng với mẹ, xấu hổ với họ hàng, làng xóm, bạn bè, tủi nhục với chính mình...
Dứt tình là vậy, nhưng Hòa vẫn muốn biết nguyên nhân đích thực của việc từ hôn. Dò hỏi thì nguyên nhân đúng như lời đồn đại. Nàng ta lật kèo vì mê trai khác. Hòa hận Thùy, lại hận mình cam phận ở làng theo đít trâu, nên người ta coi thường, khinh phụ mình thế. Chí khí trong người chàng lại dâng lên ngùn ngụt. Làm sao thoát khỏi lũy tre làng đây?
Thật may mắn. Dạo ấy, ngành giáo dục thiếu giáo viên trầm trọng, nhất là vùng trung du rừng cọ đồi chè này. Qua một người quen mách bảo, Hòa nộp hồ sơ và sau đó được gọi đi học trường sư phạm hệ 10 + 1 của tỉnh. Chàng hăm hở khăn gói đi tập trung nhập học. Ở nhà buồn chán và xấu hổ bao nhiêu sau vụ bị từ hôn, nay được đi học trung cấp chuyên nghiệp, vừa thoát khỏi lũy tre làng, đỡ xấu hổ, sau trở thành thày giáo, còn vui gì bằng. Ở trường sư phạm, vì lớn tuổi hơn, lại chững chạc, nói năng lưu loát hơn chúng bạn nên Hòa được cử làm tổ trưởng, rồi lớp phó. Là trường sư phạm, ở lớp và trong trường, số nữ sinh nhiều hơn nam, có nhiều cô xinh xắn hơn so với ở quê, nên chàng tha hồ tăm tia, kén chọn. Vậy thôi, chứ chim phải tên sợ cành cây cong, nên Hòa không mồm mép tán tỉnh bừa như các sinh viên nam khác, chỉ ngầm quan sát, lựa chọn đối tượng nào phù hợp với gia cảnh của mình...
Trong số các nữ sinh của lớp, có Nguyệt, người quê Phù Ninh ven sông Lô, khiến chàng cảm mến. Nguyệt có gương mặt ưa nhìn, dáng hơi mảnh, nhanh nhẹn. Cô nói năng nhẹ nhàng, và biết cách né tránh, ứng xử để không làm phật ý hay mất mặt các anh chàng tán tỉnh mình. Không hiểu sao, Nguyệt lại rất cảm tình với Hòa, biểu hiện ở việc cô không ngần ngại hỏi bài, nhở Hòa giảng giải cho những vấn đề cô chưa hiểu và cũng hay để ý, giúp Hòa trong cuộc sống thiếu thốn ở lý túc xá. Kinh nghiệm xương máu từ thất bại của cuộc tình đầu, Hòa chủ động ngỏ lời với Nguyệt và được cô chấp nhận. Thuận lợi thế, thì đấn tới luôn. Hòa mừng mở cở trong bụng, nhưng một trở ngại ập đến. Có một thày giáo trẻ dạy trong trường cũng thích Nguyệt và vị này công khai bày tỏ tình cảm với Nguyệt trước đám đông. Hòa ấm ức, linh cảm về sự đổ vỡ đầu tiên có thể tái hiện xâm chiếm trong lòng. Hòa quyết không đi theo vết xe đổ, phải chủ động giành giật thôi.
Một chủ nhật, Hòa tìm đến nhà Nguyệt như đã hẹn, định bụng sẽ thưa chuyện với bố mẹ của Nguyệt xin phép được đi lại gia đình với tư cách hai đứa yêu nhau. Không ngờ, vừa đánh tiếng ngoài cồng đã thấy Nguyệt xồ ra, thì thầm báo tin là vị giảng viên nọ, người đang theo đuổi Nguyệt không hẹn trước, bất ngờ đến chơi, đang ngồi uống nước trong nhà. Nguyệt băn khoăn không biết xử trí sao đây. Quả là tình thế thật khó. Bị bất ngờ, Hòa cũng lúng túng, nhưng tự dưng máu liều nổi lên, đầu óc sáng suốt, quyết đánh một trận, được ăn cả ngã về không... Chàng cố trấn tĩnh theo Nguyệt vào nhà. Sau hồi chào hỏi xã giao, chàng vào trận. Liền một mạch, rằng chàng và Nguyệt có cảm tình với nhau, đã tìm hiểu tính nết và gia cảnh của nhau, nay hai đứa thống nhất thưa với hai bên gia đình, lại may mắn có vị thầy giáo đáng kính đến chơi nhà, xin thầy làm chứng giúp, xin phép cho hai đứa yêu nhau tiến tới hôn nhân. Đánh bài ngửa xong, chàng nhẹ cả người, chờ kết quả. Vị giảng viên kia tròn mắt, á khẩu. Cha mẹ của Nguyệt cũng là người tiến bộ, không hẳn nhận lời song cũng không ngăn cản, chỉ căn dặn hai đứa cứ tìm hiểu kỹ lưỡng kẻo sau này lại hối hận. Vị giảng viên kia chỉ còn biết cười mếu mà về thôi,...
Kể ra câu chuyện của mình với bạn già, ông Hòa như người uống rượu ngà ngà say. Chuyện cũ buồn vui của cả một thời trai trẻ khó khăn khơi gợi ký ức ùa về. Ông Tuyền nghe chuyện, gật gù, bâng quơ một câu thơ “Trái buồn đau, giấu ở đâu? Này ơi... chớ để bợt màu tháng năm...”.  Nghe thơ bạn, ông Hòa rẩm riu nghĩ...  Ừ nhỉ, suốt những tháng năm qua, trái buồn đau của cuộc đời ông đâu chỉ một hai, cứ thảng. lại rụng một vài trái. Ông đem giấu ở đâu được, ngoài thẳm sâu cõi lòng mình? Giờ đi lại con đường xưa, dù cảnh sắc đổi thay, nhưng trong trí nhớ vẫn như in cái ngày xưa ấy. Kia rồi, cây đa năm thân. Hơn nữa thế kỷ trước, cây đa này đã chia thành năm thân sừng sững ở đấy rồi. Nó chứng kiến tuổi trẻ và tình duyên của ông. Xa xa, trên đường bờ đê sông Lô, tán cây gạo cổ vẫn nhô cao, nhưng lạ thay, hình như nó đã chết khô thì phải? Ngày trẻ, mình đạp xe kẽo kẹt tuyến đường này mãi, ông Hòa thuộc từng lối rẽ. Có điều, ngày ấy là đường đất hoặc rải cấp phối đá răm, nhà cửa hai bên đường phần lớn là nhà gianh, còn giờ là đường bê tông nhựa, và nhà cửa cũng khang trang hơn nhiều. Ngày ấy, nhà Nguyệt ở cách lối rẽ chỗ cây đa năm thân không xa. Sau này, bố mẹ vợ ông Hòa theo các con về sống ở thị xã, để lại đất nhà vườn cho người cháu họ ở quê trông nom, giữ nơi chốn đi về. Vợ chồng ông Hòa lấy nhau, sinh liền gái đầu và hai trai sau. Nguyệt dạy cấp 1, ông thì cứ phát triển lên, hàm thụ đại học, rồi dạy cấp 3. Ông trờ thành giáo viên giỏi môn Văn của tỉnh, và được đề bạt làm hiệu trưởng một trường cấp 3 có tiếng trong vùng. Gia đình ông về thị xã sống, cho đến lúc nghỉ hưu. Con cái phương trưởng, lập nghiệp ở Hà Nội, ông bà cũng bán nhà ở thị xã về theo con. Nghỉ hưu, rỗi rãi, ông bắt đầu viết văn, cho đỡ buồn và cũng muốn thử sức trong lĩnh vực văn chương. Giờ thì ông Hòa đã có vài đầu sách xuất bản, chủ yếu tặng bạn bè, người thân đọc chơi, lấy chỗ giao lưu với thiên hạ. Vất vả cả đời, nhưng quả là trời đã thương ông, ban cho ông một người đàn bà đảm đang, chỉn chu, biết thu vén cho gia đình, là bà Nguyệt vợ ông. Ông Hòa từng tự hỏi, nếu ngày ấy, nên duyên vợ chồng với Thùy thì cuộc sống của ông sẽ ra sao nhỉ? Ông cũng đã ngầm so sánh giữa Thùy với vợ ông và dường như không có câu trả lời. Với Thùy, tiếc và giận đấy, tất nhiên theo thời gian thì cả hai thứ đó đều nhạt dần. Với Nguyệt, hài lòng, và sự hài lòng tăng theo năm tháng. Cho đến giờ, bà Nguyệt vẫn chăm chút cho ông từng li từng tí và dường như muốn sở hữu ông một cách trọn vẹn. Thực lòng, bà ấy không thích ông tình tang văn chương thơ phú, bởi sợ ông dễ có cơ hội bám theo bóng hồng khác...
Đêm ấy, hai ông già ngủ lại nhà người con nuôi ông Tuyền. Cuộc đời ưu ái ông Tuyền nhiều hơn. Ông ấy có mấy đứa con đều giỏi giang, trời lại cho ông ấy thêm đứa con nuôi hiếu thảo. Tính ông ấy quảng giao, thích ngao du đây đó và thơ phú cứ tuôn ào ào, xuất thần ra thơ nhưng lại quên ngay. Chơi với nhau ngần ấy năm, chính ông Hòa lại là người lưu giữ thơ của ông ấy. Sở dĩ vậy bởi ông Hòa thích thơ ông ấy, vì thích nên thuộc và nhớ thôi. Cậu con nuôi nhà ngay chân đê sông Lô, vườn tược rộng cả ngàn thước, có cái nhà làm chòi canh ở bãi sông. Thế là hai ông đòi dắt nhau ra ngủ đêm ở đấy, để tiện chuyện trò mà không sợ ảnh hưởng đến giấc ngủ của cả nhà.
Tiết cuối xuân, trời vẫn se lạnh. Hai ông già tha hồ tỉ tê với nhau. Sẵn đồ nhắm và rượu. Cứ nâng lên đặt xuống, nhẩn nha chuyện vãn đêm. Ông Hòa bảo, gần năm chục năm sống với bà Nguyệt, nhưng hầu như ông chẳng ngủ mơ thấy vợ bao giờ. Yêu thương chăm chút nhau là thế, nhưng mơ thì không. Vậy mà, ông lại nhiều lần mơ thấy cô Thùy. Thì ra, hận nhiều mà thành ám ảnh. Nhớ lại, những lần mơ thấy Thùy, cô ấy hầu như im lặng, chẳng nói năng gì, trong khi ông lại cau có hoặc nhấm nhẳng mắng mỏ cô ấy này nọ, toàn những điều chưa từng có trong đời thực giữa hai người. Có lần, ông mơ, thầy cô ấy khóc lóc khi bị ông mắng mỏ, rồi than là số khổ nên mới bỏ người tử tế là ông, lại đâm đầu đi theo những kẻ chẳng ra gì, ông đã không xót thương thì thôi, còn mắc nhiếc mãi. Mơ thế, tỉnh ngủ, ông cứ ân hận. Chỉ là mơ thôi mà vẫn ân hận. Sao trong mơ ông vẫn không bỏ qua cho cô ấy nhỉ? Phải chăng, ông là người cố chấp, mặc dù ông nghĩ mình đã bỏ qua chuyện cũ lâu rồi?...
Ông Tuyền uống nhiều, lơ mơ nghe, lại đọc thơ, chẳng biết cho ông hay là chính ông ấy: “Chia xa, vãn cuộc, đẫm tình/ mạn đời sóng vỗ, giật mình, em đâu/ Phố đông, em nắng không màu/ biển xanh, anh bỗng... không nhau, thật buồn/ chia xa, kẻ phía ngọn nguồn/ người nơi góc biển, cánh chuồn ngày mưa...”. Nghe thơ, ông Hòa ngẫm nghĩ, quái sao, cái lão già này lại thấu hiểu lòng ông đến thế. Lão ấy đọc câu thơ nào ra cứ như moi hết ruột gan ông ra phơi cho thiên hạ thấy vậy. Ở đời, người xưa bảo, xa thơm gần thường là vậy. Vợ ông, hàng ngày bên cạnh ông, đầu gối tay ấp mấy chục năm trời, có yêu thương đến bao nhiêu thì cùng thành thường. là chuyện đương nhiên. Còn Thùy, chỉ cỡ một năm với nhau thôi, xem như khoảnh khắc, song sao lại sâu đậm và nhức nhối làm vậy. Nếu cuộc đời của Thùy sau này nhàn hạ, sung sướng thì có lẽ ông sẽ nhẹ lòng, bởi vì cô ấy đã chọn được người đàn ông tài giỏi hơn ông thì việc cô ta bỏ ông là đáng thôi. Đằng này, cô ấy lại chạy theo và không may vớ phải những thằng đàn ông chẳng ra gì... Sau khi lập gia đình, sinh con để cái, sự nghiệp dần đi lên, ông Hòa có để ý, tìm hiểu xem cuộc đời của người đàn bà đã từng đang tâm làm cái việc hắt cả bát nước đầy vào mặt ông.
Số là, Thùy say mê chàng lính cậu người ở phố, những tưởng lấy nhau thì anh chàng kia, chán cuộc chơi, đánh bài chuồn. Thùy cố níu kéo bằng cách tìm đến nhà anh chàng ở thị xã. Cha mẹ anh chàng lạnh nhạt, bảo rằng con trai họ không thể lấy một cô gái quê ít học như cô. Thùy ê chề vì đã có thai trong bụng. Bố mẹ Thùy biết chuyện, mắng nhiếc thậm tệ. Tủi hổ, cùng đường sinh quẫn, cô đã lang thang cả một buổi chiều dọc bở đê sông Lô trước khi quyết định quên sinh. Lúc chới với trong dòng nước xiết thì tình cờ có một bè tre nứa chạy ngang qua. Thấy vậy, người đàn ông chống bè đã nhày xuống vớt Thùy lên. Được cứu sống, nhưng người yếu và tâm trạng nặng nề, it lâu cô đánh mất cái thai. Khi đã tĩnh tâm lại, Thùy tìm được nhà người đàn ông đã cứu mình, cảm ơn cứu mạng. Anh chàng kia nhà nghèo chuyên nghề đi bè thuê trên sông Lô. Đôi bên cám cảnh nhau rồi nên quyên vợ chồng, có với nhau mấy mụn con gái. Thùy xin được vào làm công nhân một nông trường chè, còn người chồng vẫn theo nghề cũ. Chồng cô không phải là người xấu, nhưng tính tình cục súc và hay rượu, và hễ rượu vào là nóng tính, ghen tuông này nọ, thượng cẳng chân, hạ cằng tay vợ. Anh ta còn hành vợ cả cái tội không biết đẻ con trai để anh ta đứt người nối dõi, thờ cúng. Thùy chỉ còn biết cam chịu. Mà không cam chịu thì còn biết đi đâu nữa khi cuộc đời đã bầm dập, tủi nhục vậy, đến cái chết nó cũng chê ...
Biết cuộc sống Thùy khổ ải vậy, ông Hòa đã từng đắc ý, ra điều, ngày xưa bỏ ta, tưởng đâu, ai ngờ khổ thế, cũng là đáng đời. Đi suy bì với đàn bà, lại là người thất thế, thật chẳng đáng mặt đàn ông. Hiểu thế, nhưng vẫn thấy mát lòng. Thì ông cũng là con người với nhiều thói hư tật xấu, chứ đâu phải là thánh nhân !... Nhiều năm tháng qua, ông Hòa vẫn ngầm dõi theo cuộc đời của người đàn bà ấy. Thi thoảng mơ thấy Thùy, ông Hòa lại xao động một thời gian. Vợ ông, bà Nguyệt cũng chỉ biết lờ mờ về cuộc tình đầu tan vỡ của chồng mình, nhưng không căn vặn. Có lẽ, bà ấy muốn để đến một ngày nào đó ông tự kể, mà không kể thì cũng chẳng hề hấn gì.
Giấc mơ lạ, ông hôn người đàn bà ám ảnh cả đời ông, cái hôn chưa hề có trong đời thực. Những lần trước, giấc mơ phũ phàng, dù khổ ái thì người ấy vẫn sống nhăn răng. Lần này, giấc mơ dịu dàng ngọt ngào, có khi lại là chuyện gở? Hay là, người đàn bà ấy đến chào từ biệt ông, để rũ bỏ cuộc đời đau khổ về cõi xa xăm? Cây gạo cổ thụ chết khô kia như một điềm báo? Giờ nằm nghe gió sông Lô ào ạt thổi đâu đó ngoài kia, ông thấy có gì khác xưa đâu, vậy mà, người như đã chia xa...
Ông trút một tiếng thở dài vô thức. Ông Tuyền nhìn ông, cái nhìn đầy cảm thông, lại cất giọng đọc thơ “Chia xa, được một chín thua/ không nhau, năm tháng...  gió lùa lạnh lưng...”. Ừ nhỉ, hai người chia xa, ông và người đàn bà ấy có hon gì nhau đâu, được thì chỉ một thôi song thua lại  những chín kia mà. Ông Hòa bần thần, nhắc bạn, bảo ngủ đi kẻo thức khuya lại mệt.
Nhắc bạn vậy, nhưng ông Hòa biết là đêm nay sẽ khó ngủ. Ông sợ, đặt mình nằm ngủ, ông lại mơ một giấc mơ chẳng thể đi tìm... ./.
 
 
 

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Chiều Ghềnh Ráng - 25.07.2020 19:27:58
Khói đồng cay mắt....
 
          Ngày ấy, chị mới ngoài ba mươi tuổi thôi và còn trẻ đẹp, hấp dẫn lắm ... Vậy nên,...
          Chị đã là mẹ của ba đứa con, lít nhít trứng gà trứng vịt. Ngoài đôi mươi, chị đã lấy chồng và đẻ liền hai đứa. Chồng chị là một người Nam tập kết ra Bắc, hơn chị đến chục tuổi, làm nghề kỹ thuật cơ giới. Ngay sau giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, anh Sáu, chồng chị thuộc diện lớp cán bộ đầu tiên được chọn về Nam gây dựng cơ giới ở tỉnh quê nhà. Chị khăn gói đưa hai con nhỏ theo chống về sinh sống ở tỉnh lỵ quê anh thuộc miền biên giới Tây Nam bộ. Vào trong đó, chị chưa có việc làm, chỉ chợ búa, cơm nước, trông con nhỏ. Phấn khởi, chị sòn sòn thêm đứa nữa, thành ra chưa đến ba mươi tuổi đầu đã là mẹ nái sề với những ba đứa con,... Vậy là, cắm mặt chăm sóc con cái, chị có biết trời đất bên ngoài thế nào đâu. Rồi gia đình chị chuyển về huyện lỵ quê nhà, lại vướng bận thêm các mối quan hệ bên nhà chồng, hỏi han thưa gửi là cạn ngày hết tháng. Mấy mà già?... Thực ra, chị cũng từng có quãng ngắn ngày son trẻ, phơi phới thanh xuân, yêu đời,...
          Hồi đó, chị độ tuổi đôi mươi.
          Mẹ chị mất sớm, sau khi sinh đứa em trai được vài tuổi, nhưng cha chị không tục huyền, gà trống nuôi hai chị em, nên dù nghèo nhưng chị được sống trong cảnh thương yêu đùm bọc, ấm cúng. Cái Tấm, ngoài việc đi học cũng giúp giập được cha nhiều việc nhà và cả việc đống áng nặng nhọc. Chẳng hiểu sao, cha mẹ lại đặt cho chị cái tên Tấm. Chắc là muốn chị có hậu vận sung sướng như cô Tấm trong cổ tích?
          Tấm sớm phổng phao, nên khi học hết cấp hai, chừng mười lăm tuổi, đã là cô gái xinh xắn. May thay, thu hết các nét đẹp của cha mẹ, Tấm  có vóc người dong dỏng, da trắng môi đỏ, tóc dài óng, và khuôn mặt có nét Tây, mắt to, xống mũi cao, miệng hơi rộng và hàm răng trắng đều đặn, khác hẳn với đám con gái quê. Thế nên, người làng bảo Tấm như con lai Tây. Đang độ tuổi phơi phới thì mẹ mất sau một thời gian lâm bệnh chữa trị không qua khỏi. Tấm không học lên nữa, ở nhà giúp cha nuôi em. Những năm đất nước chiến tranh, con gái quê, học thế cũng là đủ. Trời phú cho Tấm giọng hát hay, thuộc và hát theo được hầu hết các làn điệu chèo nghe được từ đài phát thanh trong các chương trình dân ca nhạc cổ. hay học lỏm khi xem chèo. Có năng khiếu vậy nên ở xã gọi tham gia vào đội văn nghệ, cũng biểu diễn thi thố này nọ. Xinh xắn và có năng khiếu văn nghệ như vậy, nhưng ở làng chẳng đám trai nào đánh tiếng, ngoài sự trêu chọc tán tỉnh của mấy tay cán bộ xã và đám đàn ông đã có vợ, trong khi đám con gái mới lớn bình thường khác lại đắt như tôm tươi. Hình như người ta ngại cái vẻ đẹp khác người của Tấm. Tấm cũng chẳng cần, bởi thâm tâm cô vẫn chờ đợi cơ hội để theo nghề văn công chuyên nghiệp. Và cô hội ấy đã đến, khi đoàn chèo tỉnh nhà về địa phương tìm tuyển người. Vẻ đẹp hình thể và khả năng ca hát trời phú nên Tấm trúng tuyển ngay. Những tưởng may mắn thì cha cô đột ngột qua đời vì một cơn bạo bệnh ngay sau khi cô nhận được giấy gọi nhập đoàn chèo tỉnh. Thật tình, Tấm không đang tâm tìm cơ hội phát triển tài năng nghệ thuật cho mình mà để lại đứa em trai chưa đến mười tuổi ở nhà một mình. Tấm đã mấy đêm mất ngủ, nước mắt vắn dài, đắn đo để đi đến quyết định không vào đoàn chèo tỉnh mà ở nhà làm ruộng nuôi em.  
          Cho đến giờ, chị cũng chẳng rõ quyết định ngày ấy của mình là đúng sai thế nào. Chỉ biết, chị không cảm thấy hối tiếc hay ân hận gì, thi thoảng lúc lòng dạ yếu mềm càm thấy chạnh lòng. Theo chồng về quê, một vùng đất viễn biên Tây Nam bộ, người ta thuần cải lương, vọng cổ, vui cũng ca mà buồn cũng ca, chị ngỡ quên hết những làn điệu chèo mà trước đây chị thuộc nằm lòng. Vậy chứ, thi thoảng, những lúc ở nhà một mình, chạnh buồn nhớ quê ngoài Bắc, chị cất lời hát đôi làn điệu Đường trường thu không, Đường trường trong rừng man mác, đủ buồn. Trong đầu chị vẫn âm u làn điệu Sử rầu, Lần thảm, nhưng nó bi ai quá, chị không dám hát vì sợ vận vào thân. Có lần, lâu lắm rồi, ấy là sau lễ Thất tuần bố chị, cám cảnh thân phận mình, phải ở nhà nuôi em, từ bỏ ước vào văn công để trở thành nghệ sĩ hát chèo, chị đã hát Sử rầu. Là hát cho sự chua xót nỗi lòng, thân phận. Và kể từ đấy, thôi hẳn. Cũng có khi, nhà có nhậu, anh Sáu, chồng chị ngà ngà say, khoe với bạn nhậu bảo chị hát chèo, chị giữ thể diện cho chồng, cất lời điệu Lới lơ vui tươi gây không khí. Lời hát thì vui, nhưng ngừng lời, lòng người hát lại buồn, nhớ quê da diết. Cả tuổi thanh xuân, lớn lên ở một làng quê Bắc bộ, cách sông Cái không xa, chị thân thuộc với mái nhà tường đất mái rạ, với con đường làng quanh co lát gạch nghiêng long lở, với những hàng rào râm bụt hoa đỏ, mây gai, hoặc ô rô, hay cúc tần có dây tơ hồng quấn quýt. Vùng quê chị, ngoài lúa còn có đay và đất bãi trồng ngô, Vào đây, cảnh sắc đồng ruộng khác hẳn, chỉ có lúa, tràm và cỏ dại. Một năm chỉ có hai mùa, mùa mưa thì hầu như ngày nào cũng mưa, nước sông Hậu tràn về mênh mông, chỉ có những ngọn núi vùng biên ải này là nhô lên và các chòm ấp cùng những hàng thốt nốt phất phơ trên biển nước trắng xóa một màu... Còn mùa khô thì cơ khổ, nóng và bụi, ba bốn tháng trời không một giọt mưa. Nắng chang chang từ mờ sáng đến mờ tối. Khói đốt đồng lên mờ mịt cả bầu trời. Lại thêm những làn bụi đường cuộn lên mỗi khi có xe chạy, khiến người đi đường và nhà cửa cặp mé lộ ngập chìm trong làn bụi đất. Cái kiểu thời tiết đặc trưng vùng miền này chị mãi không quen...
          Vùng đất Thất Sơn, đồng bằng lầy thụt xen lẫn núi này thật chẳng đâu có trong cả xứ miền Tây này. Anh Sáu, chồng chị bảo, cả vùng có tới hơn ba chục ngọn núi có tên gọi, nhưng người ta chỉ chọn bảy ngọn núi làm biểu tượng chính ấy là các núi Cấm, Tượng, Dài, Tô, Sam, Két, Tà Biệt. Cũng nhiều người kể tên khác, nhưng với chị thì như nhau cả thôi. Nhà chị ở cách chân núi Nam Vi không xa, nên chị hay lên núi này kiếm củi, tìm cây thuốc và dọn chút rẫy trồng khoai mì. Quê anh Sáu gần chân núi Dài, mỗi khi rảnh rỗi anh hay cùng đám bạn và người bà con lên núi đốt than và đi săn thú rừng.
          Yên ổn gia đình sau chiến tranh biên giới Tây Nam, anh Sáu cậy nhờ xin cho chị vào làm người nấu ăn bếp tập thể liên cơ quan huyện gồm nông, lâm, thủy lợi, cơ giới. Khu liên cơ đóng trong một khu vườn rộng hàng chục công đất, dày xanhg cây cối, những xoài, dừa, mãng cầu, vú sữa. Đây là một khu tịnh xá cũ vô chủ được trưng dụng do người chủ cũ bỏ lại chay ra nước ngoài dịp giải phóng niềm Nam năm 1975. Cả thấy vài chục người ăn tập thể, mình chị xoay xở cũng vất, phụ cấp thấp nhưng có việc làm và thu nhập là vui rồi. Có điều tiền ăn ít nên việc đổi món thật khó bề. Cứ ngày ngày, mớ cá rô, chia ra, nửa đem kho tiêu, nửa nấu canh chua me rau súng. Ăn mãi cũng chán. Mùa nước nổi về thì đỡ hơn. Chị lọ mọ lội nước cánh đồng trũng ngay sau cơ quan nhặt được ít cua đồng và vài bó rau muống đồng, về nấu riêu cua và rau muống xào tỏi, ăn lạ miệng, ngon đáo để.
          Chị vui hơn khi bếp ăn cơ quan đông thêm khi có người bổ sung. Ấy là mấy cán bộ kỹ thuật, trong đó có một chàng kỹ sư nông học mới tốt nghiệp ra trường được điều từ ngoài Bắc vào. Bảo, chàng ký sư trẻ này lại là đồng hương hàng tỉnh với chị. Vậy là hai chị em nhanh chóng thân nhau. Chị coi Bảo như cậu em trong nhà, quý như cậu Vinh, em ruột chị vậy. Bảo dáng dấp thư sinh, kiểu người ít lao động chân tay, là con trai duy nhất và út trong nhà, bên trên có mấy chị đỡ hết việc nặng nhọc cho, nên cậu ta chỉ biết đôi việc lặt vặt như chăn trâu, tát nước. Tiếp xúc gần, chị thấy cậu chàng hiểu biết, thông minh và ăn nói cũng khá. Ngày chủ nhật, hễ nhà có món nhậu là anh Sáu chồng chị lại sai con đi mời cậu Bảo đến nhậu cho vui. Bảo khéo tay, hằng tháng, cậu chàng đến nhà chị hớt tóc cho mấy cha con anh Sáu. Những ngày đầu, Bảo háo hức, còn đòi theo chị lên núi hái cây thuốc và kiếm củi về đun.
          Mùa đốt đồng, nhằm chủ nhật, chỉ rủ Bảo đi đốt rơm rạ trên mấy công đất trồng lúa của gia đình. Hai chị em kẽo kẹt đèo nhau bằng xe đạp xa gần chục cây số. Rồi lại băng ruộng mệt nhoài mới tới nơi. Hai chị em ôm rơm rạ chất thành đống, Chị quen việc không sao, chứ Bảo sức vóc thư sinh, làm một lúc đã mồ hôi nhễ nhại. Châm lửa đốt, khói lên nghi ngút về trời. Hai chị em ngồi nghỉ uống nước, ăn bắp luộc. Nhắc chuyện quê ngoài Bắc, Bảo nói nhớ nhà, nhớ mẹ. Chị cũng thấy nhớ, cất lời hát điệu Đường trường thu không. Lâu không hát, giọng không nhuần nhưng vẫn đúng giai điệu. Man mác buồn. Làn điệu chèo giữa đồng quê Tây Nam Bộ nghe có gì đó là lạ. Chị dứt lời, hỏi Bảo bớt nhớ nhà chưa, thì cậu chàng chỉ cười nhẹ, rồi đọc nho nhỏ mấy câu thơ. Chị nghe câu được câu mất, cũng là nỗi nhớ quê, nhớ mẹ, nhớ người yêu chi đó... Để ý, thấy cậu chàng rụi tay đầy nước mắt. Chị đùa là khóc nhè nhớ người yêu, thì cậu chàng chối, bảo khói đồng vào cay mắt thôi. Mùa đốt đồng, khói gọi khói, các đồng rấm rải trác khắp đồng nghi ngút như mây, cuộn lơ lửng trong nắng quái hoàng hôn đỏ bầm, ma mị, ám ảnh. Lúc về, thấy cậu chàng mệt, chị nhận phần đạp xe. Bảo ngồi sau có vè ngượng vì để đàn bà đèo, nhưng do mệt quá, tựa đầu vào lưng chị, thiu thiu ngủ thì phải. Bàn tay cậu chàng bám nhẹ vào eo bụng chị, vô tình tạo cảm giác lâng lâng, chị đạp mải miết mà không thấy mệt...
          Thấm thoắt vài năm qua qua nhanh. Bếp tập thể liên cơ quan giải tán. Chị mất việc làm, ở nhà trông giữ con, nuôi thêm bày gà và mấy con heo thịt làm vui. Không còn bếp ăn tập thể, Chi lo cho Bảo ăn uống thất thường, nhưng cũng may, cậu ta quen thung quen thổ, có chỗ thân quen đi lại và cũng thêm bạn bè nhậu nhẹt. Chị vẫn giữ lệ, hễ nhà có mồi nhậu ngon ngon chút là sai con đi mời cậu Bảo đến nâng ly làm vui. Cậu Vinh, em trai chị về quê ngoài Bắc khi trở vào đưa theo một người con gái họ bên mẹ chị. Những tưởng vào chơi thăm thú tính kế làm ăn, nào ngờ cô nàng ở tịt nhà chị, rồi hai anh ả lằng ngoằng với nhau có thai. Chị cản không được, hai đứa lấy nhau và xin ở riêng. Chị giận em trai mà cũng thương cho cái thân mình, nuôi em lớn nhưng bảo em không được, để ra nông nỗi này. Nghĩ mà buồn, thấy uổng phí cái công mình đã hy sinh cả thanh xuân, tài năng bỏ đoàn chèo ở nhà làm lụng muôi em trai mà giờ nó đổ đón ra thế. Hai nhà cách nhau có một quãng thôi, nhưng ít qua lại, vì cô em dâu bất đắc dĩ kia e ngại, tránh mặt chị. Tình thương em trai, chị chuyển sang cho Bảo. Chị chịu khó nấu nướng các món ăn kiểu Bắc mời Bảo đến ăn...
          Mùa nước nổi về, thật thích. Cả  cánh đồng mênh mông dưới chân núi Dài trắng băng một màu nước, ngút ngàn đến tận mạn kinh Vĩnh Tế. Người ta chị còn nhận biết đâu là lộ bởi những làn khói bụi đường, khói xăng xe bay lên, và đó đây hàng cây thốt nốt và dừa để phân định bờ đất.  Con đường dài mấy chục cây số từ thị xã Châu Đốc đi Tịnh Biên, Tri Tôn mảnh như một sợi chỉ, những hòn núi to như Cấm Sơn, Nam Vi và những quả núi nhỏ khác nổi lổn nhổn trên đồng nước chẳng khác gì đám dừa điếc khô rụng rơi nổi lềnh bềnh. Xa xa, bờ kinh Tám Ngàn ngày đêm rộn ràng tiếng ghe xuồng, tắc-ráng phành phạch. Nước lên to, cùng với tôm cá theo về là cua và chuột đồng. Chị và hai thằng cu con đầu, má con rủ nhau đi nhặt cua và bẫy lưới bắt chuột đồng. Cua thì con nào con nấy to cộ bò lổm ngổm cắt ngọn lúa, còn chuột đồng thì từng đàn bám đuôi nhau bơi thành dây, đớp đọt cỏ non trên mặt nước rồi leo lên thân dừa, thân cây thốt nốt, thân tràm trú ngụ khi no bụng. Thế nên, người miền Tây mới gọi chuột đồng tránh đi là sóc tràm cho bớt ghê... Chị tha hồ trổ tài bếp núc làm các món ngon như chuột đồng quay, chuột bỏ lu, cua đồng rang xả ớt, cua đồng muối nặm, hay nấu riêu chua me, hay nấu rau đay rau dền cơm... Anh Sáu, cậu Bảo có mồi ngon nhậu, còn đám trẻ con thì thức ăn đãy bụng.  Cả nhà tuần nào cùng vài ba bữa tưng bừng.
          Một lần, Bảo nghỉ phép ra Bắc cả tháng, trở vào, dáng vẻ buồn buồn ít nói. Chị làm đồ nhậu, để anh Sáu và Bảo cụng ly mừng gặp lại sau chuyến đi phép của Bảo. Bữa nhậu, chị hỏi han luôn miệng, nhưng Bảo chỉ trả lời cầm chừng, mặt mũi vẫn không vui lên chút nào. Đoán có chuyện, nhưng chị không nài hỏi thêm. Thời gian sau, Bảo lăn ra sốt. Sốt rét. Vùng này nổi tiếng là vùng sốt rét. Những ai từ vùng khác đến đây sinh sống, dù có giữ gìn mấy thì không trước thì sau cũng nhiễm sốt rét. Chị và mấy người quen lo thuốc thang, cơm cháo cho Bảo. May mà cũng nhẹ nên nhanh qua khỏi. Nhưng sau trận sốt, Bảo gày và xanh xao, cử chỉ chậm chạp, tính tình mềm yếu hẳn đi. Chị thương Bảo nhiều, nhưng cũng chẳng thể giúp gì hơn. Chị luấn quấn với đám con đã mệt nhoài ra rồi, nay lại mới mang bầu đứa nữa, chẳng biết sẽ xoay xở ra sao đây. Mỗi chủ nhật, không phải đi làm, Bảo hay ra nhà chị, có việc vặt gì thì làm giúp. Chị cũng lấy đó làm vui.
          Mùa hè năm ấy, hai thằng cu lớn được nghỉ hè. Anh Sáu hứa cho chúng theo lên rãy làm khoan mì và dạy cách làm than củi. Bữa cơm trước khi lên rẫy, có mấy ký thịt nhím rừng do một người quen bẫy được gửi cho, chị trổ tài làm món xào lăn xả ớt và món cà ri ăn với bún. Anh Sáu và Bảo cụng lý liên tục. Chị ăn qua loa rồi ra xếp đồ đạc cho mấy cha con ở rãy cả tuần. Buổi chiều, anh Sáu đánh xe bò chở đầy nhóc đồ đạc lên rãy. Hai thằng cu con mừng vui gõ vung nồi hát váng lên. Chị dọn dẹp nhà cửa. Bảo quá chén, nằm bệt ở bộ ngựa gian ngoài ngủ ly bì. Chốc chốc cậu chàng lại ngóc đầu dậy thổ ra chiếc chậu chị đặt sẵn bến dưới. Rõ khổ, bữa nay quá chén, lại cảm gió chi đây nên mới như vậy. Chị lấy nước cho Bảo uống, rồi bắt cậu chàng nằm sấp để chị giác gió khắp lưng. Nghe chừng cũng đỡ nhiều, nên Bảo ngủ thiếp đi.
          Trời sẩm tối. Chị bắc nồi cháo lên bếp để lát cho Bảo ăn giã rượu. Tắm táp cho đứa bé và lấy cơm cho ăn, rồi chị đi tắm. Cái buồng tắm đơn sơ phía sau buồng trong và bếp, được quây bằng lá dừa khô, cũng chỉ để cho đàn bà con gái dùng thôi, chứ đàn ông thì khỏi cần. Là cách nhớ thế thôi, chứ lúc tối trời, chị ngồi cạnh lu, cởi bỏ áo múc nước dội lên người loáng chút là xong, lâu thành quen thế rồi. Dân miệt này các nhà đều vậy cả. Vừa dội nước, nhìn mảnh trăng non nhô đầu núi, tự nhiên vui miệng, chị nhớ đến một điệu chèo và cất tiếng khe khẽ hát. Bỗng cảm giác có gì là lạ, bèn ngoái nhìn, chị giật mình vì thấy Bảo đang đứng ở cửa bếp gần sau lưng chị lặng nhìn. Chị khẽ kêu ối. Bảo ấp úng: “Đang mơ ngủ, nghe như ai hát... Thì ra là... Chị hát chèo hay quá...”. Chị lúng túng, quờ tay lấy cái áo vắt nhanh lên bờ vai che ngực: “Ồ, cậu Bảo...  đã tỉnh rượu rồi ha? ... Chị xong rồi đây. Cậu vừa xỉn dậy, chớ có tắm mà cảm đó nghen...Lau người qua cho mát thôi,... để chị lấy cháo cho cậu ăn. Cháo ngon lắm...”.  Chị cũng cảm nhận giọng nói không bình thường của mình. Bảo vẫn đứng nguyên đấy, nhưng ý tứ nhìn nghiêng ra mé lộ: “Em vẫn mệt lắm... Bụng còn  nôn nao. Chỉ thấy khát nước thôi...”. Nói rồi Bảo trở lui, đi ra buồng ngoài. Chị vội vàng thay quần áo, luýnh quýnh thế nào, xỏ nhầm cả ống quần...
          Chị dọn mâm. Mâm cơm chỉ có hai người. Chị ăn những thức ăn cũ còn lại từ bữa trưa. Bảo ăn cháo, món cháo thơm ngon mùi gạo mới, có thịt nhím băm nhỏ, bỏ hành răm cho giải cảm. Bảo ăn uể oải, cố ăn hết tô cháo để chiều lòng chị. Bữa ăn kéo dài, vừa ăn vừa chuyện. Lúc này, chị mới lựa lời hỏi chuyện Bảo chuyến ra Bắc vừa qua. Bảo nói mẹ câu năm nay yếu nhiều, nên đang tính gắng ở lại đây một thời gian rồi ra Bắc xin việc. Chị chỉ biết nói lời động viên, nhưng thực lòng, nếu Bảo ra hắn ngoài Bắc, chị sẽ rất buồn, cảm như mình mất đi chỗ dựa tinh thần. Bảo định xin phép về khu liên cơ thì chị gàn, bảo ở lại đây ngủ, bởi sợ người còn yếu, sợ đêm hôm ngoài trời gió máy, ngộ nhỡ làm sao thì khổ. Không hiểu sao, chị muốn Bảo ngủ lại. Rồi chị xếp mềm gối bộ ngựa gian ngoài dọn chỗ ngủ cho Bảo. Cậu chàng chỉ còn biết nghe theo. Còn chị và đứa nhỏ ngủ buồng trong...
          Chị và Bảo lội bì bõm bắt cua trên đồng ngập nước mênh mông. Thảm lúa hè thu bị lướt đi bởi nước ngập tận ngọn. Cỏ năn nác mọc chen lẫn. Những con cua càng to kềnh càng chẳng sợ người, lổm ngổm trên ngọn co giơ càng nghiến cắt ngang ngọn lúa, thấy động thì lấc láo cặp mắt lồi thô lố ra nhìn và giương càng lên phong thù chứ không them bò chạy. Chị lựa chiều tay tránh càng. chộp ném vào chiếc thùng tôn. Bảo vụng về hơn nên thỉnh thoảng bị cua cắp tay đau kêu oai oái. Đang mùa mưa lũ, mây đen kéo lên rất nhanh rồi mưa xuống như trút. Chị em hò nhau chạy mưa lên bờ kinh, tìm chỗ trú mưa. Chạy vội, chị vấp chân trong bùn ngã rúi rụi xuống ruộng nước. Bảo vội chồm tới đỡ chị lên. Mưa ngập ướt, quần áo bết vào người, Bảo giúp chị gột bùn đất, chẳng hiểu vô tình hay hữu ý, tay Bảo quờ quạng đụng vào bầu ngực căng mẩy của chị...  ”Ấy đừng... đừng...”, chị buột miệng và bừng tỉnh. Thì ra chị vưa thiếp đi, mê ngủ vậy thôi. Đang ngẩn ngơ hư thực, trong ánh sáng mù mờ của ngọn đèn hãm nhỏ treo trên bếp, chị nhột người nhận ra Bảo đang ngồi ghé mép giường ngủ, Chị nhắm mắt vờ ngủ thì Bảo khẽ cúi người xuống, chạm nhẹ môi vào trán chị, rồi lướt khẽ chạm vào đầu mũi và dừng ở môi chị. Chị mơ màng êm ái tận hưởng sự đụng chạm. Rồi nữa, đôi bàn tay Bảo đặt vào hai bầu ngục chị đang căng mẩy lên. Và một bàn tay rời bầu vú trướt nhẹ xuống dưới thân, lập tức chị hiểu cái đích đến của bàn tay ấy nhưng khi nó lướt đến cái bụng bầu thai mấy tháng lùm lùm thì dựng lại... Bảo rút tay lên e dè... “Đừng...đừng...”. Chị khẽ đảy tay bảo, ngồi dậy. Phía trong giường, đứa bé vẫn ngủ say... Bảo lắp bắp: “Nước...khát nước”... Chị chỉ chỗ, Bảo chui ra khỏi mùng, rót nước ra cốc, uống ừng ực, thở hổn hển, tần ngần rồi trở ra buồng ngoài. Chị không tài nào ngủ lại được nữa, nghe tiếng Bảo lát lát trở mình, thở dài... Vắt tay ngang mày, suy nghĩ đắn đo một hồi, chị nhỏm dậy, nhìn đứa bé con vẫn say ngủ, nén thở, ra khỏi màn. Chị thổi tắt ngọn đèn dầu hãm nhỏ ở bếp, rồi nhẹ chân ra buồng ngoài. Ánh sáng sao đêm hắt qua cửa sổ sáng mờ. Chị rón rén đến ghé ngồi bên mép bộ ngựa nơi Bảo ngủ. Chị nghe rõ tiếng thở và nhịp tim mình đập mạnh. Như hồi chị con gái mới lớn lén ghé bên hàng rào nhìn trộm chàng trai trẻ hàng xóm sắp vào quân ngũ. Chị lưỡng lự, rồi đặt bàn tay khẽ vuốt mái tóc Bảo. Cậu chàng nằm co như con tôm, quay mặt vào trong, im thít như ngủ. Vuốt tóc Bảo một lát, chị mạnh bạo co chân vào trong mùng, xoay mình nhẹ nhàng nằm xuống bên cạnh, choàng tay ôm Bảo vào lòng. Nghe tiếng thở, chị biết Bảo thức nhưng nằm im không phải ứng. Tay chị vòng ôm bụng Bảo vừa khẽ kéo vào lòng vừa nhích mình để hai thân thể vừa khít cánh cung. Chị cảm nhận bầu ngực mình khẽ tì vào lưng Bảo. Im lặng . Chị đưa tay chạm khuôn mặt Bảo thì thấy ươn rướt. Vai Bảo khẽ rung và chị biết Bảo khóc. Chị lặng lẽ cởi cúc áo để bộ ngực trần chà nhẹ. Bảo nấc nhẹ, nhệu nhạo “Cô ấy không chờ đợi được nữa... bỏ... nhận lời với người khác rồi...”.  Chị không kìm mình được nữa, đột ngột xoay người Bảo và cậu nương theo ấp cả khuôn mặt mình vào bầu ngực chị. Bảo rụi rụi mặt, nức nở thành tiếng. Chị ghì đầu bảo vào bộ ngực trần của mình, cảm nhận nước mắt Bảo ướt dẫm hai bầu vú, vỗ về: “Thôi nào... Khổ thân... Tội nghiệp quá... Không sao đâu....”. Bảo cứ lắp bắp, chẳng rõ nói gì. Rồi đôi môi Bảo ngập ngừng chạm vào đầu vú chị đang mẩy căng của người đàn bà mang bầu, bên này rồi bên kia, như một kẻ tham lam, háu đói, lâu ngày... Tay Bảo lần sờ xuống thân dưới chị, bắp đùi, bẹn, lướt nhẹ qua vùng kín và dừng lại ở vòm bụng lùm lùm. Chị ý thức, đưa tay mình ấp lên bàn tay Bảo ở vòm bụng, giữ không cho bàn tay ấy di chuyển nữa. Bảo không dám nhúc nhích, nhưng người như căng lên như cánh cung đang kéo chờ buông dây... Chị nén mình thở trút ra thật nhẹ kiểu đánh úp, một tay chị vẫn giữ bàn tay cậu trên bụng mình, tay kia chị rờ nhẹ lướt từ bụng xuống dưới chạm chỗ phồng căng, dừng lại... Chị nhắm nghiền mắt, sợ mở mắt ra thì tỉnh cơn mê mà ý thức... Trong mê loạn, vô thức, bày tay chị làm trò ảo thuật, Bảo ngậm cả bầu vú chị đầy miệng, bên này, nhả, bên kia, lập bập, mê mẩn... Cả hai mê sảng, tê dại, lịm đi...
          Chị bừng tỉnh, ý thức. Bảo vẫn ngậm bầu vú ngủ lịm. Hai bàn tay trên vòm bụng vẫn ấp vào nhau, chị khẽ rút bàn tay kia dính dấp và cảm nhận mình ướt át. Lặng im, chị khẽ thở dài, nhích người rút bầu vú ra, ngồi dậy, cài khuy áo, nhẹ ra khỏi mùng. Hình như trời đã dần về sáng. Trở vào buồng trong, không dám thắp lại đèn, vì không muốn cơn mộng mị tan mất, lần mò bóng tối rút then, mở cửa sau, ra lu nước, rửa qua mình mẩy. Trở về giường, ghé nằm xuống cạnh con, chị vẫn lâng lâng. Tự hỏi lòng mình, tình cảm với Bảo như thế nào, rồi nhủ lòng, đương nhiên như cậu em quý mến rồi. Gì nữa? Chắc có chút tình cảm ngoài tình chị em, bởi không sẽ chẳng thể có chuyện này?... Thực ra, cả thời thanh xuân, xinh đẹp, chị đã từng yêu ai đâu, ngoài bóng dáng anh chàng hàng xóm có họ xa, điển trai, vừa kịp lớn đã vào lính rồi hy sinh. Với chồng chị, anh Sáu, ấy là sự cảm thông, tình thương dành cho một người đàn ông lớn tuổi, xa quê phải sống độc thân nơi đất Bắc, là sự đền bù cá nhân nhưng lại mang cái danh chung dành cho miền Nam còn trong cảnh chia cắt, là nghĩa vợ chống chung con chung của. Mang tiếng là ngấn ấy mặt con, ăn ở với nhau hơn chục năm trời, đêm đêm đầu gối tay ấp, nhưng chị luôn là người thụ động, nhiều khi là cam chịu. Đã bao giờ chị chủ động và quyết liệt trong bày tỏ tình cảm của minh đâu. Chị có băn khoăn, dẫu sao chị là gái có chồng, gần sắp bốn đứa con, nhưng chị mới ngoài ba mươi tuổi thôi mà, vẫn còn trẻ đẹp, hấp dẫn lắm .. Chẳng hiểu Bảo có ý thức tình cảm của chị không, hay là cậu ta chỉ nghĩ về cô người yêu cũ và coi chị như một kẻ thay thế chốc lát lúc cô đơn? Thôi kệ, nghĩ nhiều mà làm gì, chị tin vào sự thành thật của mình và sự đón nhận nồng nhiệt của Bảo, xem như một sự an ủi với cả hai. Chị thiếp đi...
          Cả nửa tháng sau đó, Bảo không qua nhà chị. Còn chị chút lăn tăn nhưng bận rộn quên đi. Anh Sáu và hai đứa lớn từ rãy trở về nhà. Nhịp sống thường ngày hối hả. Rồi không nén được, chị đi chợ thị trấn và tiện thể ghé qua căn phòng tập thể của Bảo ở khu liên cơ. Bảo có nhà, đang ôm ghi ta tập một bài gì đó. Chị chủ động: “Lâu lâu không thấy cậu ghé nhà, chị đi chợ, vào thăm sợ cậu đau yếu chi ?...” . Bảo cười gượng: “À không... em bận vừa đi xã mấy hôm mới về, chị...”. Chị em đôi câu chuyện không đầu cuối, chị để lại bịch vài chục trứng: “Cậu nhớ ăn, kẻo một mình ngại nấu, ăn qua loa là không đủ sức khỏe đâu... Cậu nhớ vừa  qua sốt rét đấy nha...”. Chị ra về, Bảo tiễn chị một đoạn đến cổng cơ quan, lúng búng: “Chị Tấm... em thật có lỗi...”. Chị nhìn Bảo, cười buồn: “Bữa nào rảnh qua nhà... lỗi chi đâu... là ở chị... Để chị bảo anh Sáu kiếm chút mồi, cậu qua nhậu cho vui... Anh Sáu lâu không thấy cậu, nhắc hoài đó... Đâu như anh có cái dạ dày nhím rừng mang ngâm rượu, nói là xớt cho cậu một phần dành để chữa bệnh đâu bao tử... Quý lắm đó... Nhớ qua chi nghe...”. Bảo gật đầu...
          Ít ngày sau, Bảo nói nhận thư nhà, rồi cậu chàng làm đơn xin nghỉ không lương ra Bắc chăm mẹ bệnh nặng. Chừng mấy tháng sau, Bảo trở vào, làm thủ tục chuyển công tác ra Bắc hẳn. Cậu chàng bận rộn thủ tục giấy tờ, chào hỏi, chia tay người quen bạn bè, nhậu liên miên cả tuần. Trước hôm đi, Bảo mới dành ăn bữa cơm chia tay với gia đình chị. Bữa cơm bùi ngùi, người đi kẻ ở. Chuyện đêm ấy, chị không nghĩ là mình dâng hiến, đơn thuần, có thể, đấy là lần cuối cùng ngọn lửa tình dục trong chị bùng cháy, để rồi dần tàn lụi. Bảo ít nói, trong khi anh Sáu liên thuyên đủ chuyện, say líu cả lưỡi. Chị phải gàn anh chớ ép rượu Bảo để cậu tỉnh táo sớm mai đi xe về Sài Gòn. Ánh mắt chị và Bảo thỉnh thoảng gặp nhau, soi rọi nỗi niềm riêng. Đêm ấy, anh Sáu tỉnh rượu, cứ vần vò này nọ, thây kệ cái bùng chềnh ềnh sắp sinh của chị...
          Bảo ra Bắc ít ngày thì chị sinh bé Út Hường. Vậy mà, cho đến khi, Út Hường học xong, đang lo xin việc làm thì Bảo trở lại mảnh đất này. Bảo đã là người đứng tuổi, chững chạc, và là người thành đạt, có con lớn đang học đại học rồi. Hơn hai mươi năm qua, chị không gặp lại, dù thi thoảng vẫn nghe được tin tức này nọ. Bảo già đi nhưng vóc dáng vẫn kiểu thư sinh xưa. Còn chị đã thành bà lão rồi. Gánh nặng gia đình đông con, chồng quanh năm say xỉn khiến khuôn mặt xinh đẹp nét Tây xưa đầy nếp nhăn, và đầu tóc rụng thưa vãn, thân hình dỏng cao thành gù xuống. Hai chị em khi thì tranh nói, lúc lại lặng thinh. Ngần ấy năm xa cách, chị rất sợ vầy mà đã vài lần phải hát điệu Sử rầu. Chị phải tiễn biệt anh Sáu và hai kẻ đầu xanh, đứa do tai nạn, đứa thì bệnh tật. Chị đứng vững trên cõi đời này đã là khó nhọc lắm rồi. Nhưng nay chị có chút niềm vui, vì sau lần trở về thăm chốn cũ, Bảo nhận lo việc làm cho Út Hường, và nhờ đấy, bé lập gia đình, làm chỗ dựa cho chị. Chị theo vợ chồng Út Hường lên thành phố giữ cháu. Ở thành phố, đông vui là thế, nhưng chiều chiều, chị lại bồng cháu ra ngõ, nhẩn nha hát ru, ngóng về miền Tây mà nhớ quay nhớ quắt ruộng đồng mênh mông, kinh rạch và bóng núi Dài, núi Cấm...
          Thấm thoắt, giờ thì cô Tấm xinh đẹp hát chèo hay nhất làng ngày xưa đã là một bà lão gần bảy mươi lưng còng xuống, sống ở căn nhà nhỏ trên nền đất cũ gần ngã ba lộ. Mùa đốt đồng, mỗi chiều bà lão hay kê ghế ngồi trước sân nhà hóng mặt về phía đồng xa, nơi những cuộn khói đốt đồng đùn lên quấn quện thành những dải mây. Mắt bà rớm nước, chắc không phải do khói đốt đồng cay mắt... ./.
( Nguyễn Chu Nhạc )
 
 
 
 
 
 
 

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Chiều Ghềnh Ráng - 22.08.2020 09:44:43
Có ai đò dọc cùng tôi ?...
 
 Có ai đò dọc cùng tôi ?...
Tôi viết bài tùy bút "Thương nhớ những chuyến phà", đăng trên trang blog cá nhân, nhà văn Trần Tâm ở Quảng Ninh đọc rồi buông một câu cảm thán "Cuộc đời con người ta, phà sang ngang thì nhiều, nhưng hỏi có mấy ai đi đò dọc!?...". Tôi bảo: "Đò dọc nhọc nhằn, gian nan lắm, liệu mấy ai dám?...". Biết là, vất vả, nhọc nhằn đấy, nhưng việc đến người thì người phải đi thôi...
Vậy có ai đò dọc với tôi không?...
Là đò dọc thật, chứ không phải biểu theo nghĩa bóng, đi đò dọc cuộc đời, tức là chuyện ăn đời ở kiếp với nhau. Tôi có đò dọc cuộc đời của tôi, và bạn thì cũng vậy. Nên chăng, ta có thể cùng nhau làm một chuyến đò dọc kiểu du ngoạn, souvenir với nhau mà thôi... Khi chờ đợi ai đó cùng đò dọc, tôi sẽ kể đôi chuyến đò dọc mà tôi đã từng trong cuộc đời bươn chải đây đó của mình...
           Tôi nhớ, ngày đi học, khi kể chuyện cuộc đời này nọ, bố tôi hay đọc câu ca "Thuận buồm xuôi gió thì chén chú chén anh. Lên thác xuống ghềnh thì buồi anh dái chú". Thật tình, tôi không nỡ dùng từ tục, nhưng không giữ nguyên câu cửa miệng ấy thì chẳng thể lột tả được ngữ nghĩa, hàm ý của câu ca. Hàm ý, mượn chuyện đi đò dọc, để nhắc nhở, răn con người ta, chơi với nhau, kết chạ cùng làm việc, khi thuận buồm xuôi gió thì ra bề thân tình lắm, nhưng lúc lên thác xuống ghềnh, gian nan khó nhọc, người ta mới sinh mâu thuẫn, mới hiểu lòng người...
            Hồi tôi đang làm việc ở Ban Nông Lâm nghiệp huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang, cách đây cũng đã hơn ba chục năm rồi, tôi hay phải đi công tác cơ sở. Từ thị trấn huyện lỵ, đến các xã xa nhất, giáp biên giới với tỉnh Cam-pốt của Campuchia, tôi thường chọn phương tiện tàu đò, ấy là đò dọc. Cỡ ba chục cây số, đò chạy tằng tằng len lách theo kênh dọc giữa đồng đất bạt ngàn tràm và năn nác. Mùa mước nổi mênh mông, chao ơi là sốt ruột. Khách đi tàu đò phần lớn là người buôn bán nhỏ, hàng hóa đủ loại, mùi cá mắm, hơi người nhức mũi. Nhưng khổ nhất là cái khoản tiểu tiện. Giữa đồng nước chẳng đâu là bến bờ, chẳng biết đi vào đâu, mà nhịn thì chết ngất...
           Có một lần, tôi làm chuyến đò dọc thực đã đời. Khi ấy, cơ quan tôi mua mấy trăm con bò, do thương lái gom từ bên Campuchia. Tiền đầu tư từ ngân sách của huyện. Cậu giám đốc người địa phương, thuộc diện thoát nạn mù chữ, chỉ thạo mỗi chữ ký, nên tôi với  tư cách là Phó giám đốc nông trường được giao chịu trách nhiệm thực hiện thủ tục thanh toán tại hai đầu mua-bán, qua ngân hàng Tri Tôn (An Giang) và Hà Tiên (Kiên Giang). Từ thị trấn Tri Tôn đến Hà Tiên ước chừng 150 km theo đường thủy. Chúng tôi có ba người, thêm một nhân viên nam người địa phương, thông thạo đường xá và nữ kế toán trưởng thuê một tàu đò nhỏ trọn gói đi Hà Tiên. Theo kênh Tám Ngàn, tàu chạy miết ngang qua Hòn Đất, vùng đất mà nhà văn Anh Đức đã lầy chất liệu sống từ anh hùng Phan Thị Ràng để xây dựng nhân vật chị Sứ trong tiểu thuyết Hòn Đất của mình. Tàu đò theo các con lạch xuyên giữa đồng tràm bạt ngàn. Đất vùng này nhiễm phèn nặng, chỉ thích hợp với tràm. Chẳng thế mà, trước đây, không hiểu sao ngành nông nghiệp lại quy hoạch triển khai hàng chục nông trường chuyên canh lúa. Cứ cuối mùa mưa, đầu mùa khô, lúa đang thì con gái thì sặc phèn chết úa gần hết, lúa thu hoạch được chỉ bằng một phần mười số thóc gióng sạ xuống. Chính cái nông trường chăn nuôi bò tôi đang làm việc, ngay trước đó cũng lâm vào tình trạng như vậy, Bộ chủ quản bỏ của chạy lấy người, trả lại đất đai và cơ sở cho địa phương quản lý, tìm hướng chuyển đổi cây con phù hợp với đất đai, thổ ngơi bản địa... Ờ thời điểm ấy, tôi đã nghe nói, người ta đổ lỗi cho những ai đó, trong đó, có một nhà báo, viết sách ca ngợi hết lời về đồng bằng sông Cửu Long là vụa lúa của đất nước, với cách ví von hình tượng là đất nước ta mang hình cái đòn gánh là dải đất miền Trung, gánh hai thúng thóc hai đầu là đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Hình tượng thì quả là đẹp và ý nghĩa, nhưng đồng bằng lưu vực sông Hồng, nhiều năm đã thực sự là vựa lúa của miền Bắc, chứ đồng bằng sông Cửu Long mắc dù rộng lớn hơn nhiều, song mới chỉ là tiềm năng. Và một người nữa, người làm công việc quy hoạch, hoặc đình chính sách của nhà nước, người biến ý tưởng và hình tượng ví von của nhà báo nọ, thành hiện thực. Thế là người ta rầm rộ cho thành lập hàng chục nông trường chuyên canh lúa ở vùng tứ giác Long Xuyên-Hà Tiên, và kết quả thất bại thảm hại, thóc lúa thu hoạch chỉ bằng một phần nhỏ của thóc giống sạ xuống, chưa kể bao nhiêu chi phí đầu tư khác. Sau nhiều thất bại cay đắng, rồi cũng đến ngày đồng đất miền Tây Nam bộ thành vựa lúa thật, khi người ta thay đổi tư duy, cơ cấu lại cây trồng thích hợp...
          Tàu đò của chúng tôi chạy mải miết, vợ chồng chủ tàu, chồng cầm lái, vợ nấu cơm bằng bếp đun than củi ngay trên tàu, phục vụ bữa ăn cho mọi người. Về phía Hà Tiên, xa xa thấy cột ống khói của nhà máy xi măng vươn trên bầu trời, ngày ấy, chúng là biểu tượng của công nghiệp ở miền Tây. Trời ngả bóng chiều, tàu đò đến vungj biển Vĩnh Hồ, nơi hội tụ của nhiều dòng kênh, trong đó có kênh Vĩnh Tế. Vĩnh Hồ tấp nập tàu thuyền vào ra, ngang dọc trong bóng hoàng hôn, ngút xa là cửa biển, bên kia là trung tâm thị trấn, cảnh sắc thật nên thơ. Tôi đã từng đọc lịch sử hình thành vùng đất này, hiểu câu chuyện của cha con Mạc Cửu, Mạc Thiên Tích, đã dày công mở đất từ thời chúa Nguyễn đàng trong. Biết lịch sử, yêu thích thơ văn của Tao đàn Chiêu Anh các với Hà Tiên thập vịnh...
            Sau một ngày tàu thuyền vất vả, đêm ấy, giấc ngủ vẫn chập chờn, phần lạ nhà, phần việc chính chưa xong. Sáng trở ra, ăn sáng và nhấp chút cà phê rồi vội đến ngân hàng. Xong thủ tục, cũng chẳng thời gian đâu mà ngắm, lách ngang qua chợ đông đúc để trở về bến tàu đò, và lặng lẽ rời Hà Tiên. Thực lòng, tôi muốn thăm thú chút đỉnh, nhất là thăm chùa Hang,Thạch động, nhưng gấp việc, nên chẳng lòng dạ nào... Tàu lại cần mẫn, mải miết về lại Tri Tôn. Mấy bữa ăn cũng quấy quá cho xong. Mệt bã người, chui vào trong mui, nằm ngủ vùi, cho đến tận nửa đêm thì về đến nông trường... 
          Mãi sau này, khi làm báo, tôi mới trở lại vùng đất Hà Tiên, bấy giờ mới có điều kiện thăm thú đây đó trong Hà Tiên thập vịnh. Và phải sau nhiều năm nữa, mùa hè 2018, tôi lại về Hà Tiên. Đi bằng xe hơi, nhanh chóng nên thăm thú được nhiều. Vẫn những di tích, danh thắng xưa, song nay đổi khác nhiều. Để kinh doanh du lịch, người ta cho mở rộng, thiết kế này nọ, nguy nga, sáng láng lắm, nhưng thực lòng, tôi thích vẻ xưa hơn... 
Chuyến đò dọc đi Hà Tiên năm 1985 ấy, dù sao vẫn khá êm ả bởi chúng tôi thuê bao cả chuyến. Sau này, đò dọc mà lại là đò chợ, phức tạp hơn nhiều. Tôi sẽ kể lại đây,...
          Đã 27 năm qua rồi, vẫn nhớ chuyến đi ấy. Hè năm 1992, tôi tháp tùng nhà văn Đặng Quang Tình, khi đó là Trưởng ban Thính giả của Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV), từ Hà Nội vào Nam thực hiện một công việc quan trọng, điều tra thính giả nghe đài. Xong công việc ở Nha Trang (Phú Khánh) và tại thành phố Hồ Chí Minh, thày trò chúng tôi đi Miền Tây. Cơ quan thường trú của Đài tại phía Nam điều hẳn một xe phục vụ. Ở Cần Thơ, bí thư Tỉnh ủy Hậu Giang khi ấy là ông Nguyễn Hà Phan rất nhiệt tình với việc điều tra thính giả nghe đài trên địa bàn, khi chúng tôi đặt vấn đề trước. Song mọi việc ở đây, tạm chờ, ưu tiên cho chuyến xuống Minh Hải (gồm Bạc Liêu và Cà Mau). Tỉnh lỵ tại thị xã Bạc Liêu thì tôi khá thạo, bởi thời gian còn công tác ở An Giang, tôi đã vài lần sang đây, thăm các bạn cùng lớp Đại học Nông nghiệp I về công tác ở tỉnh này. Nhà văn Đặng Quang Tình bảo, phải điều tra ở Cà Mau mới đích đáng. Vậy lại Cà Mau thẳng tiến. Đích xa nhất là Rạch Gốc.
Trước đây, Rạch Gốc thuộc huyện Năm Căn, phiên chế về huyện Ngọc Hiển. Khó khăn nhất là muốn đi đến đây, chỉ duy nhất phương tiện thủy, tàu đò. Thế là, cả xe và anh tài đành để lại thị xac Cà Mau. Thày trò tôi mua vé tàu đò đi Ngọc Hiển. Tàu đò lớn, khách đi đông, phần lớn cũng là người buôn bán vặt từ miệt biển lên thị xã mua hàng về bán, nên tàu đò đấy ắp hàng hóa. Kênh lớn, tàu bè qua lại tấp nập, sóng nước đánh ì oạp, nhất là khi có những chiếc ghe bè, ngất ngưởng hàng hóa, chạy qua khiến nhiều xuồng nhỏ của dân bị sóng đầy dạt, hoặc nước bắn tung tóe. Khách thương lái ăn uống, trò chuyện rôm rả, tôi nghe loáng thoáng câu được câu chăng, còn nhà văn Đặng Quang Tình không nghe quen, thỉnh thoảng lại hỏi lại tôi xem họ nói gì. Ngày ấy, tình trạng ngăn sông cấm chợ khá phổ biến ở Miền Nam, và ở đây cũng vậy. Tàu đò chạy dăm cây số lại bắt gặp một trạm kiểm soát của một xã nào đó lập ra, để kiểm tra bắt hàng buôn lậu, ngày ấy, phổ biến là thuốc lá ngoại nhập lậu như Zet, Capstan, More, Dullhin... Tàu chạy ngang trạm, không thấy phất cờ thì cư vô tư chạy, còn thấy phất cờ thì dừng tàu, cặp bờ để nhân viên trạm xuống tàu khám xét hàng, kiểm tra, nếu thấy hàng lậu là phạt, hoặc tích thu. Qua một trạm, có phất cờ, thay vì phải giảm tốc độ cặp bờ, thì người lái tàu đò phớt lờ, tăng tốc cứ giữa dòng mà chạy. Mấy nhân viên trạm tuýt còi, hô hoán bắt dừng nhưng không được, tức giận ôm súng CKC đuổi dọc bờ, và bất ngờ, nổ mấy phát súng. Chắc là chỉ bắn chỉ thiên để dọa, nhưng khách tàu đò nhốn nháo, hét lên vì sợ. Thày trò chúng tôi cũng sợ, phải thụp người nép sát lòng tàu, tránh đạn. Ngộ nhỡ thì khốn... Chủ tàu vẫn cố chạy không dừng, nên nhân viên trạm cũng đành bỏ cuộc. Thày trò chúng tôi bảo nhau, chắc chuyến này, khách buôn có nhiều hàng lậu nên quyết chạy... Rồi tàu đến bến cuối. Chúng tôi xuống bến, hỏi thăm, biết được, muốn đến Rạch Gốc, Tân An lại phải đi tiếp tàu đò. Thế là hai thày trò, tìm thuê một chiếc vỏ lãi để đi Rạch Gốc. Vùng này, sông nước, đầm phá mênh mông, chiếc vỏ lãi tắt ngang một góc đầm phá khá rộng, trời nổi cơn giông, rồi mưa ràn rạt. Ngồi trên võ lãi mỏng manh, giữa trời nước trong tiết mưa giống như thế, thày trò nhìn nhau, không khỏi lo lắng. Thấy vậy, người chủ đò bảo yên tâm đi, nước trông mênh mông vậy nhưng không sâu, khỏi phải lo lắng. Rồi võ lãi rẽ vào lạch nhỏ, đôi bờ đã loáng thoáng nhà dân, đã có gì đó ấm áp, đỡ hoang vắng. Rồi khu dân cư đông đúc Rạch Gốc đã hiện ra. 
           Cặp bờ, lên tìm gặp cán bộ khóm ấp, trình giấy tờ và đặt vấn đề công việc. Mọi người nhiệt tình lắm. Nước nôi qua loa và bắt tay vào công việc. Họ cử một người giúp việc cho thày trò, đưa chúng tôi đến từng hộ gia đình, phát phiếu, hướng dẫn cách ghi phiếu. Ngày ấy, dân cư tiếng là đông nhưng cũng chẳng mấy, phần lớn ở cặp đôi bờ kênh và khu vực chợ. Đôi bờ kênh qua nhau vẫn phải dùng xuồng ba lá, hình như có vài cây cầu khỉ ở những lạch ngang, chứ kênh chính, thuyền bè lớn qua lại để thông ra biển nên không có cầu vì sợ vướng. Thày trò chúng tôi làm một mạch, quên cả đói, miễn sao xong việc. Đến nhà nào, thấy chủ nhà có radio là mừng lắm. Nhưng người dân ở đây, chủ yếu là nghe tin tức và ca nhạc, dân ca, nhất là cải lương, vọng cổ. Gần như họ nghe không sót chương trình cải lương nào của nhà đài. Xẩm tối thì xong việc, nhưng quá muộn để trở về. Họ mời chúng tôi nghỉ qua đêm. Trong ngôi nhà cộng đồng gỗ lá, bữa cơm tôi được bày ra. Đồ nhậu có xoài xanh, khô cá đuối, lẩu cá lóc. Thày trò tôi cùng dăm cán bộ ấp và cán bộ văn hóa xã, cụng ly. Vài ba ly, chuyện trò rôm rả hơn. Lúc này, chúng tôi mới có dịp để hỏi thêm về địa lý, thổ ngơi, lịch sử vùng đất.
Câu chuyện chủ yếu xoay quanh ngọn hải đăng trên đảo Hòn Khoai và cuộc khởi nghĩa Hòn Khoai do Phan Ngọc Hiển lãnh đạo. Từ biển Rạch Gốc ra Hòn Khoai không xa, chừng hơn chục cây số, ở đấy có ngọn hải đăng được người Pháp xây dựng vào những năm đầu thế kỷ 20. Chắp nối từ câu chuyện kể của mọi người, biết ở đào này, còn có nhà tù để thực dân Pháp giam giữ tù nhân, trong đó những người theo tư tưởng cách mạng, chống Pháp. Đấy cũng là mầm mống để cuối năm 1940, nhà giáo, nhà báo Phan Ngọc Hiển đã lãnh đạo các tù nhân nổi dậy, đánh chiếm và giết tên chúa đảo. Cuộc khởi nghĩa này được xem là một bộ phận của Nam Kỳ khởi nghĩa. Tuy rằng, sau đó, cuộc khởi nghĩa bị thực dân Pháp đàn áp, Phan Ngọc Hiển và những người tham gia khởi nghĩa bị Pháp bắt và xử tử, song ý nghĩa của nó lại lớn lao. Tinh thần vì cách mạng hy sinh của nhà giáo-nhà báo-nhà văn Phan Ngọc Hiển đã được ghi nhận, để sau này, người ta lấy tên ông đặt cho tên đất ở vùng cực nam tổ quốc này...
Đêm ấy, thày trò tôi đều khó ngủ, chuyện trò về nghề báo, nghề văn, về các vùng đất đã qua, quá nửa đêm về sáng mới chợp mắt. Sáng ra, chia tay ra về, các cán bộ ở đây cứ tiếc, bảo nếu ở lại vài ngày, có thể thuyền ra Hòn Khoai thăm thú cho biết. Biết là thế, nhưng kế hoạch công việc ở Cần Thơ đang chờ mà lịch trình đi có hạn định. Hứa đại, khi nào trở lại sẽ ra Hòn Khoai. Lúc về, tôi mới có tâm trí quan sát kỹ cảnh sắc hai bên bờ kênh, vì biết rằng sẽ khó có thời gian trở lại đây. Thấy thấp thoáng xa xa hai bên bở là những vuông tôm. Ngày ấy, người dân mới khởi xướng việc nuôi tôm nước lợ vùng đồng ruộng, đàm phá ven biển. Đi sao về vậy, vẫn đò dọc như thế, nhưng suôn sẻ, bình yên. 
          Mới đó mà đã gần ba mươi năm trôi qua. Quả là không dễ trở lại. Nghe các bạn tôi ở Bạc Liêu, Cà Mau bảo là, Rạch Gốc bây giờ sầm uất lắm, đã được tách ra khỏi xã Tân An để trở thành thị trấn riêng, còn đảo Hòn Khoai đã trở thành điểm du lịch hấp dẫn.
           Vậy có ai đò dọc với tôi không? Ta cùng trở lại Rạch Gốc. 
           Nhưng nghe nói, đường xá bây giờ đã đấu nối, có thể xe hơi bon bọn đến tận nơi, chứ không cảnh đò giang cách trở, đò dọc bồng bềnh như xưa nữa ... 
 
 

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Chiều Ghềnh Ráng - 13.09.2020 11:43:26
Đường sang quê ngoại,
Ấy là con dường từ quê nội sang quê ngoại.Với  tôi, quê nội luôn đau đáu trong lòng những ngổn ngang chuyện nhân tình thế thái, thì quê ngoại lại là nỗi nhớ nhung hoài niệm tràn đầy xúc cảm yêu thương, như một niềm an ủi, vỗ về mỗi khi nghĩ đến...          
Sao vậy, tôi đã tự vấn mình để rồi tự trả lời,... Ngày nhỏ ở thành phố, trong các câu chuyện của bố mẹ, quê hương đã được song thân nhắc đến. Tuy nhiên, cả bố lẫn mẹ tôi, hay kể chuyện về quê ngoại, thi thoảng lắm mói có chuyện vè quê nội. Trẻ con nên chỉ biết nghe chuyện và háo hức được về thăm quê. Lên 5 tuổi, lần đầu tiên tôi được theo các chị gái về quê dịp nghỉ hè, và đó là quê ngoại. Ngày ấy tàu xe khó khăn, nhưng về quê ngoại cũng khá tiện lợi. Bố tôi dắt mấy chị em chúng tôi ra Bến Nứa, mua vé xe khách chạy tuyến đường số 5, đến Chợ Đường Cái thì xuống. Thêm đoạn ngắn nữa là về đến nhà bà ngoại rồi. Sau lần đầu, tôi còn thêm vài lần về quê ngoại nữa, nhưng quê nội thì vẫn chưa. Bố tôi bào, quê nội tôi chỉ cách quê ngoại chừng dăm bảy cây số thôi. Ở quê ngoại, mấy chị em chúng tôi vô cùng thích thú vì được sống trong không gian vườn tược ao chuôm rộng rái, đầy cây cối hoa quả. Thêm nữa, các bác và cậu dì tôi cũng hay cho con cài về quê nghỉ hè, nên có thời điểm, đám trẻ con chúng tôi ở nhà bà ngoại tôi lên đến hàng chục đứa, tha hồ vui chơi...Còn quê nội, sau đấy vài năm, tôi mới biết đến, khi gia đình tôi rời Hà Nội về quê nội sinh sống ngay từ những ngày đầu tiên của cuộc chiến tranh chống Mỹ. Lúc ấy, đang học vỡ lòng, nhưng tôi cũng lờ mờ biết chuyện, để quyết định việc về quê nội sống, bố mẹ tôi đã bất đồng ý kiến nhau, khi mẹ tôi kiên quyết đòi về sống ở quê ngoại, đến mức ông bà to tiếng, dỗi bõ nhau... Sau này, lớn lên chút, tôi đã hiểu nguyên nhân vì sao ngày đó, song thân bất đồng việc chọn về quê nào để sinh sống thời tao loạn ấy....Trong khi bố tôi không muốn bị mang tiếng sống nhờ bên quê vợ và ông tin tưởng vào lời hứa của anh em họ hàng bên nội giúp đỡ dựng nhà cửa, thì mẹ tôi lại bày tỏ sự bực tức về hết thảy những gì bà phải chịu đựng, ê chề ở quê nội thời cải cách ruộng đất, những lời tố điêu toa của anh em, họ hàng đối với bà nội tôi, và cả những ngày bị đội cải cách giam lỏng ở chuồng trâu..., thêm nữa, ở quê ngoại có sẵn đầy đủ tình cảm yêu thương chở che của đại gia đình đang chờ đợi... Và cái lý "thuyền theo lái, gái theo chông" đã buộc mẹ tôi, cực chẳng đã, đồng ý về quê chông sinh sống. Và thế là, một ngày đầu đông, trên chuyến xe cam-nhông, gia đình tôi rời bỏ phố phường thủ đô về quê nội sinh sống với nghề làm ruộng mà tất cả các thành viên trong nhà không ai thạo...Thôi, chẳng buồn nói những khó khăn, vất vả, cục nhọc mà gia đình tôi đã chịu đựng và gắng sức vượt qua ở quê, để trở về với ký ức đường sang quê ngoại như một hoài niệm an ủi, êm dịu...Quê nội và quê ngoại tôi cùng huyện nhưng đầu huyện, cuối huyện. Tình theo đường chim bay thì chỉ chừng 7 cây số thôi, và có hai lối sang. Lối thứ nhất, ấy là tắt cánh đồng làng Chùa, đến thị trấn Bần Yên Nhân, chừng 3 cây số, rồi từ đây đi ô tô tuyến theo đường số 5 đến Chợ Đường Cái thì xuống bến. Còn cách thứ hai, đi bộ tắt qua cánh đồng làng Chùa, làng Khách rồi Hoàng Nha, Thanh Đặng, sang đất Lạc Hồng và đến quê ngoại tôi thuộc Thị Trung, Đình Dù. Ngày ấy, xe đạp là của quý hiếm, nhà tôi không có xe, bởi chiếc xe đạp duy nhất của bố tôi đã bị đem bán, để lấy tiền mua miếng đất vườn, làm nhà ở quê. Đi đâu, quanh gần xa, đều đi bộ cả.Thường thì mỗi khi về quê ngoại, nhất là vào mỗi mồng hai Tết, nhà tôi chọn lối thứ hai, tuy đi bộ mệt hơn, nhưng chủ động, chứ không phụ thuộc vào ô tô. Tôi nhớ, đã có lần, hai bố con tôi chờ cả nửa buổi chiều mồng hai tết ở bến xe Bần mà không có xe, cuối cùng đành đi bộ dọc đường 5 đến chập tối mới đến quê ngoại. Hằng năm, có hai dịp để về quê ngoại, ấy là ngày giỗ ông ngoại tôi, và nữa là mồng 2 tết theo truyền thống "mồng một tết cha, mồng hai tết mẹ, mồng ba tết thày". Bố mẹ tôi cũng phân công, giỗ ông ngoại tôi, ưu tiên để mẹ tôi về, có ý để bà vừa được khấn cha vừa được thăm sức khỏe của mẹ, còn dịp mồng 2 tết thì bố mẹ tôi thay nhau xen kẽ. Riêng tôi, được cả nhà ưu tiên, dịp tết nào cũng được về quê ngoại, còn hai chị gái trên tôi thì thay nhau từng năm...Ngay năm đầu tiên khi về quê sinh sống, tết năm 1964 sang 1965, tôi lúc ấy, 7 tuổi, đã được bố tôi cho về quê theo lối tắt cánh đồng. Lúc đường lớn, khi bờ sông, rồi cả bờ ruộng, cứ theo lối người làm đồng đã đi thành lối mòn trắng cỏ. Tôi sợ nhất, mỗi khi phải đi ngang qua cửa quán Chuột của làng Thái Lạc. Quán cổ lại thêm cây si rậm rạp, nên bề ngoài quai quái thế nào ấy. Biết tôi sợ, bố tôi chấn an, bảo "Như quán Táo làng mình, chẳng có gì đáng sợ, con ạ". Là nói thế thôi, chứ nhìn nó âm u, rờn rợn, như có cả bầy ma quái ẩn náu...Tôi mường tượng, trong góc tối mờ mờ của quán, hàng đàn ma quái đầu người, mình chuột, leo trèo thoăn thoắt lên các hàng cột và vòm mái của quan. Bình thường, nhìn con chuột còn thấy siwj nữa là ma mình chuột đầu nhân... Và cũng nhờ chuyến đi đầu tiên băng đồng sang quê ngoại, tôi đã mang máng thuộc đường, để sau đó, trong một lần đi thi học sinh giỏi môn toán lớp Một ở trường cấp I Lạc Hồng, thày giáo bỏ quên không đón tôi, mặc dù sợ hãi, nhưng tôi lần hồi nhớ đường một mình cuốc bộ băng đồng về đến nhà mình. Sau này, nhớ lại, tôi cười thầm nghĩ, ngày ấy mình đã biết cách "tự cứu mình trước khi trời cứu".Một lần khi ngang cánh đồng Thái Lạc, Lạc Hồng, bố tôi chỉ tay vào những lũy tre xanh bìa làng bảo là, làng này có một ngôi chùa cổ được xây dựng từ thời Lý, cổ gần bằng ngôi chùa Lạng (Viên Giác tự) ở quê nội. Chùa Lạng quê tôi thì tôi từng nghe bố tôi kể chuyện nhiều lần, nhất là chuyện Thần Sấm đá gầm lên tức giận mỗi khi trong vùng có chuyện gì đó kinh thiên động địa. Khi về quê, bố tôi đã dắt tôi lên chùa Lạng, chỉ từng phê tích và giảng giải cho tôi biết, nên mường tượng chùa Thái Lạc cũng có gì đó giống chùa Lạng quê mình. Gợi ý của bố tôi ngày đó kích thích trí tò mò, nhưng không hiểu sao mãi sau này tôi mới đến thăm viếng chùa này, mặc dù cách quê ngoại tôi chừng non cây số và khá tiện đường. Chùa được xây dựng vào đời Lý Nhân Tông (năm Đại Định thứ 2, 1162) và thuộc hệ thống chùa Tứ pháp ở nước ta. Vì thờ Pháp Vân (Thần Mây) nên có tên chữ là Pháp Vân tự, và được biết, những bức vì gian giữa thượng điện có kiến trúc thời Trần, mà kiểu này hiện chỉ còn ở chùa Bối Khê (Thanh Oai) và chùa Dâu (Thuận Thành). Bức chạm khắc gỗ chạm hình thiên nữ Càn Thát Bà, là một trong Thiên Long bát bộ của Phật giáo, nên thuộc diện cổ nhất, quý hiếm của nước ta... Thấy nhà tôi sáng, mọi người mừng lắm. Bố tôi bảo, bà ngoại tôi quý các con, nhưng mẹ tôi được bà quý nhất, là bởi, mẹ tôi chịu nhiều thiệt thòi, từ nhỏ đã sớm cùng bà ngoại tôi buôn bán, bươn chải giúp bà ngoại nuôi các em...Bữa cơm chiều mồng 2 tết ở nhà bà ngoại tôi là vui nhất và ấn tượng nhất đi suốt tuổi thơ tôi cho đến tận giờ, khi mái đầu đã bạc. Ngoài sân vườn hồng tươi xác pháo tép xen lác đác cánh hoa đào, trong nhà bên mâm cỗ tết là bà ngoại tôi, các cậu di út và các bác, các cậu từ Hà Nội về, thêm đám trẻ con mươi đứa. Câu chuyện râm ran như chẳng bao giờ dứt.. Không khí đầm ấm gia đình ngày ấy sau này tôi hiếm thấy... Câu chuyện như không dứt ấy nối tiếp vào đêm đến rạng sáng, dường như không ai muốn ngủ, chuyện nọ dọ chuyện kia, buồn vui có cả...Sáng mồng ba, tôi lại được theo người lớn đi chúc tết họ hàng bên quê ngoại. Niềm vui con trẻ cứ nhân lên cùng những hào, xu mới tiền mừng tuổi. Sau bữa cơm trưa mồng ba, bác và cậu tôi ra Hà Nội. tôi chào bà ngoại về lại quê nội.Cũng con đường ấy, khác hắn chiều hôm trước sang với sự háo hức, lòng tôi thoáng buồn, theo chân bố, mẹ và chốc chốc ngoảnh lại nhìn dặng cây xanh bìa làng che khuất, thầm tìm nơi nhà bà ngoại. Lại ước ao và chờ đợi mồng 2 tết năm sau!...

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Chiều Ghềnh Ráng - 25.10.2020 10:47:26
Cổ Loa, một ngày và hai nghìn năm trước,...  
 
Ngày mới làm báo chuyên nghiệp ở Đài TNVN, đã có lần, tôi theo các anh chị phóng viên lớp trên đi công tác Đông Anh, ngang qua đất Cổ Loa, thấp thoáng đâu đó vòng thành đất cây cối mọc xanh, nhưng đích đến của chuyến đi là các HTX nông nghiệp ngoại thành, nên nắc nỏm một ngày nào đó trở lại đây tìm hiểu sâu về mảnh đất lịch sử này. Ấy vậy mà, chẳng hiểu sao, kể từ đó đến nay đã ba mươi năm, tôi mới trở lại, trong khi tôi đã đi khắp đông tây nam bắc, thế giới mấy chục nước? Xa xôi gì đâu, từ trung tâm thành phố đến đây chỉ chừng vài chục cây số mà thôi. 
Chuyện An Dương Vương, vua của nhà nước Âu Lạc, với những huyền thoại về thần Kim Quy giúp nhà vua xây thành Ốc, chuyện Nỏ Thần và mối tình bi thương Mỵ Châu-Trọng Thủy đã ăn vào tiềm thức mỗi người dân xứ Việt, như một bài học sâu sắc về dựng nước và giữ nước, về sự cảnh giác cao độ với ngoại bang, đặc biệt với ngoại bang phương Bắc ...
            Buổi nay, tôi cùng nhà văn Nguyễn Trọng Huân, từ quê vợ anh, làng Lại Đà ven sông Đuống sang thăm nhà thơ Nguyễn Lâm Cẩn theo cái hẹn. Để đến được nhà Nguyễn Lâm Cẩn ở Uy Nỗ, Đông Anh, chúng tôi phải ngang qua Ngũ Huyện Khê, con sông có từ thời An Dương Vương, rồi ngang qua một khúc thành ngoài của thành Ốc. Đi bằng xe máy, nên thích đâu dừng đó, nên câu chuyện về thành Ốc bảng lảng trong suy nghĩ của tôi. Cuộc hàn huyên ở nhà Nguyễn Lâm Cẩn, có thêm nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền (thân sinh nhạc sĩ Nguyễn Vĩnh Tiến) và Đào Dục Tú, cựu biên tập viên của chương trình phát thanh Việt Kiều (chương trinh phát thanhDành cho đồng bào xa tổ quốc của Đài Tiếng nói Việt Nam), người có vốn kiến thức về văn hóa-lịch sử khá tốt, nên câu chuyện của chúng tôi lúc trà dư tửu hậu, chủ yếu về lịch sử và phong tục vùng đất này...
           Và những câu chuyện phiếm ấy, như chất xúc tác, nên khi trở ra, tôi và nhà văn Nguyễn Trọng Huân, cùng la cà trong khu thành Ốc, sống dậy trong đầu óc những huyền sử Cổ Loa... 
            Nhà nước Âu Lạc và thời gian cai trị của An Dương vương Thục Phán, cách thời nay hơn hai nghìn năm trước, nên tư liệu về triều đại này cũng khá mơ hồ. Ngay việc xác định thời gian tồn tại, hiện cũng có ít nhất hai nguồn sử liệu. Đó là, theo như Đại Việt sử ký toàn thưKhâm định Việt sử thông giám cương mục thì cho rằng  An Dương Vương làm vua Âu Lạc kéo dài 50 năm, từ 257 TrCN đến 208 TrCN, đồng nghĩa với niên đại nhà nước Âu Lạc; Còn theo Sử ký Tư Mã Thiên được coi là tài liệu gần thời đại nước Âu Lạc nhất, lại cho rằng An Dương Vương và nước Âu Lạc tồn tại từ khoảng 208 TrCN đến 179 TrCN, tức là gần 30 năm. . Vậy đâu là chính xác. Cho nên, lịch sử về triều đại này có tính huyền sử là vậy. Dẫu sao, so với nhà nước Văn Lang của các vua Hùng xa xưa nước, cứ liệu lịch sử của triều đại An Dương Vương có tính xác thực hơn.
           Chúng tôi tha thẩn, từ vòng thành ngoài, vào khu đền miếu, giếng Ngọc, rồi cánh đồng và khu dân cư xen kẽ, lại vòng thành ngoài, mường tượng về thành Ốc của hơn hai ngàn năm trước... Thực ra, cùng không khó để mường tượng cho lắm....
           Thử mường tượng, bắt đầu từ việc lập nước của Thục Phán. Theo cứ liệu lịch sử, ngài gốc Âu Việt (tức vùng Lưỡng Quảng ngày nay), sau khi đánh bại vị vua Hùng cuối cùng, rồi lập ra nhà nước mới, Âu-Lạc trên cơ sở sáp nhập Lạc Việt (nước Văn Lang) với Âu Việt của mình. An Dương Vương đã chọn đất Cổ Loa làm kinh đô của nhà nước mới, không chọn đất Phong Châu vốn kinh đô của nhà nước Văn Lang, và cũng không chọn đất thuộc lãnh thổ Âu Việt cũ của mình (như Phiên Ngung chẳng hạn). Xét về địa lý, Cổ Loa là vùng giáp ranh giữa đồng bằng và trung du, miền núi, vị trí khá trung tâm, giao thông thủy bộ đều thuận tiện, cư dân đông đúc. Về tầm chiến lược, thuận cho việc cai trị vùng đất mới chiếm được, tiến có thể mở mang bờ cõi xuống dải đất ven biển phương Nam, thoái có thể nhanh chóng rút về xứ cũ (Lưỡng Quảng). Việc định đô ở vùng đồng bằng rộng lớn, cũng cho thấy tư duy tiến bộ của An Dương Vương, ấy là xây dựng bộ máy cai trị nhà nước, chứ không phải ở nơi rừng rú hiểm trở với hình thức cai trị sơ khai mang tính bộ lạc, bộ tộc của các vua Hùng, 
            Ngày nay, cho dù có thể tham khảo nhiều tài liệu về thời kỳ này, thì chúng ta cũng chỉ thấy dẫn liệu từ các bộ sử như Hán thư của Ban Cố, Sử ký của Tư Mã Thiên và Đại Việt sử ký toàn thư. Gạn lọc trong mớ bòng bong ấy, có thể nhận biết mấy điểm cơ bản, đó là Thục Phán đánh chiếm nước Văn Lang của vua Hùng rồi lập ra nhà nước mới là Âu Lạc (trên cơ sở nhập Lạc Việt vào Âu Việt), song thời gian tồn tại của nhà nước Âu Lạc là 50 năm (257TrCN-208TrCN) hay 30 năm (208TrCN-179TrCN) thì cũng không rõ; thứ hai là việc An Dương Vương xây thành Ốc với truyền thuyết Rùa vàng chỉ dẫn, và thứ ba, nhà nước Âu Lạc bị mất bởi cuộc xâm lược của Triệu Đà để lập ra nước Nam Việt trên cơ sở gộp nước Nam Việt cũ của Triêu Đà (gồm Quế Lâm và Tượng quận, Nam Hải) với lãnh thổ của nước Âu Lạc, để thành nước Nam Việt rộng lớn, khi ly khai, lúc thần phục nhà Hán... 
           Ta lại hình dung từng sự kiện:
           Việc nhà nước Âu Lạc tồn tại 30 năm hay 50 năm tồn tại, còn bỏ ngỏ, không xác định.
            Việc thần Kim Quy báo mộng rồi rùa vàng bò để lại dấu chân và An Dương vương cứ theo đó mà làm chân móng xây thành Ốc, điều này có thể hiểu và lý giải được. Thực địa, vùng đất Cổ Loa là điểm tiếp giáp giữa đồng bằng và trung du, xưa kia có nhiều sông ngòi trong khu vực được thông nhau như sông Hồng, sông Đuống (Thiên Đức), sông Hoàng, sông Cầu, Ngũ Huyện khê... nên rất có thể có nhiều chỗ nền đất yếu, thậm chí lầy thụt. Như vậy, thành đất được xây trên nền đất yếu, dễ sụt đổ là đúng, Tuy nhiên, ngay trên khu vực lầy thụt cũng có nhiều dài đất ngầm, chân móng của vùng trung du nên nền đất cứng. Vậy, nhà vua hoàn toàn có thể xây thành đất khi biết lợi dụng những chỗ có nền đất cứng ở khu vực này để làm chân móng và xây thành trên đó. Việc rùa bò để lại dấu chân, có thể coi như một phát hiện, một gợi ý để nhà vua theo đó mà xây thành Ốc chăng?...
            Sự kiện Triệu Đà, vua của nước Nam Việt (khu vực Uất Lâm, Tượng quận, Nam Hải) đem quân xâm chiếm nước Âu Lạc của An Dương Vương Thục Phán, để mở rộng lãnh thổ nước Nam Việt mới (bao gồm Uất Lâm, Tượng quận, Nam Hải và Âu Lạc) thì cảSử ký Tư Mã Thiên và Đại Việt sử ký toàn thư đều ghi chép. Như thế, đã hai nghìn năm nay, mặc nhiên công nhận sự kiện này. Cùng đó, truyền thuyết về mối tình bi thương Mỵ Châu-Trọng Thủy đã ăn sâu vào tiềm thức người Việt, phủ huyền thoại lên lịch sử dựng nước và giữ nước của xứ Việt ta, nên chúng càng có sức thuyết phục. Tuy nhiên, tra cứu sử sách, thì sự việc khổng hẳn như vậy. Cùng sự kiện này, Sử ký Tư Mã Thiên không hề nói đến chuyện Mỵ Châu-Trọng Thủy trong toàn bộ tiến trình Triệu Đà đánh chiếm Âu Lạc của An Dương Vương. Còn Đại Việt sử ký toàn thư và An Nam chí lược của Lê Tắc thì có nói đến chuyện Mỵ Châu-Trọng Thủy nhưng cũng không nhất quán. Có chăng, sách Lĩnh Nam chích quái thì kể chuyện này khá ly kỳ. Về bản chất, sách Lĩnh Nam chích quái là cuốn sách tập hợp các chuyện cổ tích, dân gian được sưu tầm thành sách từ cuối thời Trần, sau được Vũ Quỳnh chỉnh lý, cho nên, yếu tố thần thánh, ma quái, ly kỳ trong truyện mang tính truyền kỳ, thêm bớt cho hấp dẫn, khó xác thực với sự thật lịch sử. Vậy nên, chỉ có thể xem như một tham khảo mà thôi.
           Gần đây, có một số nghiên cứu lịch sử, đưa ra nhận định, Triệu Đà không phải tưởng nhà Tần quê ở Chính Định, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc, vâng lệnh vua Tần, cùng tướng Đồ Thư mang quân nam tiến, đánh chiếm nước Âu Lạc của An Dương Vương (như sử sách đã ghi chép). Theo nghiên cứu này, thì Chân Định, quê của Triệu Đà, chính là vùng Thái Bình, Việt Nam ngày nay, bởi Chân Định là tên cổ của vùng Kiến Xương (Thái Bình), và mãi đến đời vua Thành Thái triều Nguyễn, Chân Định mới được đổi thành Trực Định, phủ Kiến Xương.  Bằng chứng dẫn liệu, theo Hoài Nam Tử (bộ sách do Hoài Nam vương Lưu An biên soạn), có nói đến, nhưng ở đây, Úy Đà Đồ Thư, là chỉ chức danh võ quan của Đồ Thư, chứ không thể suy diễn Úy Đà thành Triệu Đà, để rồi sau đó hiểu là 2 tướng Triệu Đà và Đồ Thư được vua Tần lệnh cho mang quân đi đánh Âu Lạc? Cùng với đó, nghiên cứu này còn bác bỏ việc mặc định Chân Định quê của Triệu Đà, tức là huyện Chính Định thuộc tỉnh Hà Bắc (Trung Quốc). Với cách hiểu mới, nghiên cứu này còn chỉ ra những căn cứ về đến thờ Triệu Võ Đế (tức Triệu Đà) ở Đồng Xâm (Thái Bình), Văn Giang (Hưng Yên) và một số lãng xã ở vùng Đông Anh, Cổ Loa (Hà Nội)... Cũng theo nghiên cứu này, việc Triệu Đà là vua 70 năm và thọ tới 121 tuổi (ở vào thời hơn 2 nghìn năm trước) là một sự vô lý, khó tin?!... Điều này được lý giải bởi phân tích giai đoạn lịch sử ( Triệu Đà từ 207 TrCN đến 180 TrCN, danh xưng Triệu Văn vương, rồi Triệu Vũ đế). Kế tiếp là Triệu Hồ (cũng danh xưng là Triệu Vũ đế, từ 180-137 trCN). Tiếp nữa là Triệu Muội (Mạt), danh xưng Triệu Văn đế (từ 137-124 TrCN)... Và chấm dứt thời Vệ Dương vương Triệu Kiến Đức (112-111 TrCN).                           Nếu như vậy, sẽ không có cuộc xâm lược nào của Nhà Tần sang xứ ta, mà chỉ là sự tranh đoạt giữa các thủ lĩnh của cả vùng Bách Việt rộng lớn mà thôi (bao gồm Uất Lâm, Tượng quận, Nam Hải, Giao châu). Điều này, chứng minh, ở vào thời ấy, Nam Việt Triệu Đà, đã tỏ ra hùng mạnh, khôn khéo hơn An Dương vương trong việc trị quốc, ổn định phương Nam, nhất là việc thi hành chính sách an dân, và đường lối ngoại giao trước với nhà Tần, sau với nhà Hán ở phương Bắc, nhằm xây dựng nhà nước phong kiến cho cả vùng đất Bách Việt xưa kia ?...
          Như vậy, chúng ta đã có cái nhìn đa chiều hơn về thời kỳ xa xưa hơn 2 nghìn năm trước về lịch sử đất nước. Sẽ vẫn có những nghiên cứu, nhưng tranh luận về thời kỳ này. Tuy nhiên, những nghiên cứu mới tính xác thực đến đâu còn chưa rõ, song cho chúng ta cái nhìn rõ ràng hơn, gần gũi hơn về một thời kỳ mà trước đây vẫn xem như huyền sử. Triệu Vũ đế (Triệu Đà) là người nước Triệu được vua Tần cử đi xâm chiếm Âu Lạc, hay Triệu Đà vốn người Âu Lạc, còn chưa rõ, thì có một sự thật lịch sử, ấy là sau khi đánh bại An Dương Vương, đã sáp nhập Âu Lạc và Nam Việt, và đem Âu Lạc chia làm 2 quận là Giao Chỉ và Cửu Chân, còn triều đình thì đóng tại Phiên Ngung (Quảng Châu ngày nay), mỗi châu quân lại giao cho một tướng cai quản. 
           Trong lịch sử nước nhà, có một thời kỳ dài hơn nghìn năm được gọi là Bắc thuộc, hay cụm từ sau này thường dùng là hơn nghìn năm Bắc thuộc. Vậy, hơn nghìn năm Bắc thuộc ấy được tính từ mốc nào? Điểm khởi đầu, nếu coi Triệu Đà là ngoại xâm phương Bắc, thì cũng có 2 khác nhau, ấy là năm 208 TrCN (theo Đại Việt sử ký toàn thư), còn năm 170 TrCN (theo Sử ký Tư Mã Thiên). Nếu coi Triệu Đà là người Nam Việt, thì tính từ năm 111 TrCN, khi Hán Vũ đế tiệu diệt nhà nước Nam Việt với vị vua cuối cùng là Vệ Dương vương Triệu Kiến Đức. Điểm kết thúc, cũng có các quan điểm để tính khác nhau. Ấy là năm 902 với khởi nghĩa của Khúc Thừa Dụ thành công, hoặc năm 938 khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán, xây dựng nhà nước tự chủ. Trong thời kỳ Bắc thuộc, cũng có những giai đoạn tự chủ xen kẽ, ấy là thời kỳ Hai Bà Trưng (40-43 sau CN) và thời Tiền Lý (Lý Bí, Triệu Việt vương, Lý Phật Tử, 544-602). 
          Một ngày để hiểu những biến cố lịch sử của cả một thời kỳ xa xưa từ hơn hai nghìn năm trước, quả là chuyện buồn cười. Nhưng dù chỉ một ngày thôi, chẳng có gì đáng cười và sẽ là vô ích, nếu như không cho tôi cảm hứng để lần giở lại nhiều trang sử nước nhà, những điều mình đã từng học, từng đọc và đã quên đi do bận rộn công việc, mưu sinh. Lịch sử bất cứ một quốc gia nào cũng có những góc khuất, cũng có những điểm nghi hoặc dẫn đến sự tranh luận về sau. Vậy thì, huyền sử An Dương vương dựng nhà nước Âu Lạc, với chuyện thần Kim Quy, chuyện nỏ thần, và mối tình bi ai Mỵ Châu-Trọng Thủy vẫn lung linh màu sắc huyền thoại, thì có sao ? Điều quan trọng, nó cho các thế hệ dân Việt bài học không bao giờ được mất cảnh giác về nguy cơ ngoại xâm, để bảo vệ độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia... 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 10.04.2021 16:01:10 bởi tamvanvov >

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Chiều Ghềnh Ráng - 10.11.2020 10:45:27
Tản mạn về sách,...
 
Tản mạn về sách, tự thân cái tít đã nói lên, điều Chủ bút định viết gì ở đây. Thực ra, những câu chuyện về sách, tôi cũng đã viết từ lâu lắm rồi và những tản mạn đó tôi đã đăng tải trong vài ba tập sách trước của tôi, là Lên núi tầm mai, Những người thắp lửa... Tuy nhiên, những chuyện ấy từ hai chục năm trước và có thể nói, đã xưa lắm rồi, bởi thời đại 4.0 thì mọi sự đều nhanh chóng thuộc về quá khứ... Lâu nay, tôi rẩm riu, định viết thêm gì đó về sách, nhưng vì bận rộn lại thôi... Nay thời gian cũng rỗi rãi hơn, nên có thể nhẩn nha mà bàn luận dăm ba điều...
Chiều nay, đi bộ thể dục ở Công viên Thống Nhất, tình cờ thấy Hội sách đang mở. Trong cái nắng đầu hè 35 độ C, người chơi hội sách khá đông, mà phần lớn lại ở độ tuổi thanh thiếu niên. Có chút ngạc nhiên và mừng thầm, vậy ra, đâu phải giới trẻ quay lưng với văn hóa đọc... Là mừng thế thôi, chứ thực ra cùng phải xem mọi người đọc sách gì và đọc như thế nào đã ?...
 
1. Ngày xưa tôi đọc sách,
Có thể nói, ngày thơ bé, tôi đọc sách từ khi còn chưa biết nhận mặt chữ cái. Vô lý. Chưa biết chữ thì làm sao đọc sách được. Có đấy, đó là nghe người lớn kể chuyện sách. Cách đọc sách kiểu này, còn hiệu quả hơn là tự đọc. Bởi khi ấy, đầu óc không bị phân tán, tất cả nhăm nhăm như nuốt lấy từng lời kể, mà tình tiết câu chuyện còn được người kể diễn đạt, nhấn nhá khiến chuyện sinh động, hấp dẫn hơn. Vả lại, người giỏi kể chuyện còn biết thêm bớt cho câu chuyện hoàn thiện hợp lý hơn theo logic chuyện kể. Chình vì thế, người nghe chuyện một cách tập trung, nghe xong, có thể kể lại câu chuyện đó cho người khác được ngay... Nếu bạn không tin, bạn cứ thử mà xem, sẽ rõ điều tôi nói...
           Và người kể chuyện sách cho tôi ngày thơ bé, ấy là cha tôi. Ông vốn là một kiến trúc sư từ thời Tây, biết cả chữ Nho và Pháp ngữ, đọc khá nhiều sách, Đông Tây kim cổ, ở vào thời ấy, gọi đùa ông là mọt sách cũng được. 
           Khi tôi đến tuổi vào học lớp Vỡ lòng (hệ 10.10 ở miền Bắc trước đây), cũng là thời điểm đất nước bước vào cuộc chiến tranh chống Mỹ xâm lược, sau sự kiện Vịnh Bắc bộ-05.8.1964. Mặc dù lúc đó, gia đình tôi ở Hà Nội, nhưng sách vở cũng không dễ có. Có lẽ, để khơi dậy lòng yêu sách trong cậu con trai út nhỏ dại, bố tôi đã nghĩ ra một cách thích hợp và vô cùng hiệu quả. Ấy là, trước lúc ngủ, khi hai bố con đã yên vị trên giường, tranh thủ lúc mẹ tôi còn dọn dẹp nhà cửa, bố tôi kể cho tôi một câu chuyện nào đó, hoặc một đoạn, một chương trong truyện dài kỳ, như Ngàn lẻ một đêm, Ngụ ngôn La-phông-ten, Truyện cổ Grim....
           Sau đó, khi gia đình tôi chuyển về quê sinh sống theo lệnh giảm dân số ở thủ đô thực hiện chính sách thời chiến, thì việc đọc sách thành không tưởng. Ngày ấy, trường lớp bậc Tiểu học (cấp I) không có, toàn phải học nhờ chốn đình chùa. Trẻ con nhếch nhác. học hành chểnh mảng, chỉ muốn bỏ học, thử hỏi lấy đâu ra sách mà đọc, trong khi sách giáo khoa còn khan hiếm. 
           May thay, một chân trời tri thức mở ra trước mắt tôi, chuyện không tưởng lại thành hiện thức. Mấy khoa của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội sơ tán về quê tôi, và họ mang theo về một phần thư viện của nhà trường. Lại may, có vài đứa con cán bộ giáo vụ và hành chính của trường cũng theo về, học cùng lớp với tôi. Thế là chúng có sách gì đọc thì tôi có sách ấy đọc ké. Chẳng là, lúc ấy, tôi thuộc diện học giỏi của lớp, lại thêm gia đình cũng từ Hà Nội về, nên mấy đứa nhanh chóng chơi thân với nhau. Thậm chí, có sách chúng không đọc nhưng cũng mượn để mang cho tôi. Thế là, mới học lớp 3, lớp 4, tôi đã đọc Thần thoại Hy LạpNhững người khốn khổKhông gia đình , và khá nhiều tác phẩm văn học nổi tiếng của nền  văn học Nga-Xô viết... 
            Lại tiếp, khi Trường Tổng hợp ra Hà Nội, thì chi vài ba năm sau, trong quãng thời gian không kích của Mỹ ra miền Bắc, một bộ phận của trường chính trị trung ương lại sơ tán về, và theo đó cũng là kho sách của họ. Lần này, sách khá nhiều, nhưng tôi có sách đọc, không phải là nhờ quen người ở trường, mà nhờ hai người chị gái. Lúc ấy, hai người chị tôi vào độ tuổi mới lớn, hinh thức khá xinh, nên là đối tượng để các chàng sinh viên để mắt, tăm tia... Các chàng hay đến nhà tôi chơi, lấy cớ uống trà đạm đạo chuyện văn chương chữ nghĩa với bố tôi, song thực ra là tìm cách tán tính các chị tôi. Các chàng mượn sách truyện mang đến cho hai chị tôi đọc, và chẳng biết các chị có nhòm ngó gì không, chứ thằng em tôi thừa nước đục thả câu, giành đọc ngốn ngấu tất cả sách gì đến tay... Thời kỳ này, tôi được tiếp cận những Tây Du ký, Thủy Hử, Hồng Lâu mộng thuộc hàng kinh điển của Trung Quốc, rồi Gia đình của Ba Kim, Rừng thẳm tuyết dày của Khúc Ba... Văn học Nga-Xô viết thì có Đội cận vệ thanh niênSông Đông êm đềm, Trong chiến hào Stalingrad, và cả Những linh hồn chết, Taras Bulba của Gogol, Sông Đông êm đềmĐất vỡ hoang của Solokhov, Cánh buồm đỏ thắm của Grin ... Tôi không nhớ xuể những tác phẩm thuộc hàng kinh điển của văn học thế giới mà tôi đọc ngày ấy... Ngày ấy, tôi cũng rất mê truyện Kiếm hiệp. Tôi nhớ, có một bộ sách kiếm hiệp xuất bản từ thời Pháp thuộc theo từng tay sách một, mỗi tay chỉ có một hồi, dầy cỡ nghìn trang, tên là Lục kiếm đồng, tôi mượn được, đọc đến thuộc lòng. Sau đó, tôi có thể kể loại toàn bộ tiểu thuyết kiếm hiệp đó từ đầu đến cuối, chính xác đến từng tình tiết, thế võ...
           Chỉ biết, những tác phẩm văn học dù đọc ké, đọc vội đó đã củng cố trong tôi lòng ham mê đọc sách và tình yêu văn chương...
           Và lòng đam mê sách ấy, đã cho tôi sự kiên nhẫn và khát khao tích cóp sách, xây dựng tủ sách cho riêng mình sau này...

           2. Tủ sách cá nhân
           Thú đọc sách, lòng đam mê sách khi hình thành và lớn dần trong tôi, thì tôi bắt đầu nảy sinh ý muốn lập tủ sách gia đình. Đọc sách ké, sách mượn cũng phải nhờ cơ may, vậy lấy đâu ra tiền để mua sách cơ chứ? Bản thân mới học cấp 2 (như bậc THCS bây giờ), được bố mẹ nuôi ăn học đã là phúc rồi, thời chiến tranh, thiếu thốn, đói kém đủ đường, miếng ăn cho vào miệng còn không đủ thì lấy đâu ra tiền mua sách. Hoặc giả, ngày ấy có tiền đi chăng nữa, cũng không biết mua sách ở đâu. 
          Để có tủ sách, thì cần có tủ và sách. Tủ thì tôi sử dụng ngăn chứa chính giữa chiếc tử chè bằng gỗ gụ cũ, kê chính giữa nhà, làm bàn thờ tổ tiên của gia đình. Bố tôi kể, chiếc tủ chè thuần gỗ gụ này là bố tôi mua lại của người ta, nghe đâu, cuộc chiến ở phổ phường Hà Nội giữa quân ta với quân Pháp vào mùa đông năm 1946, nó từng là vật dụng được người dân mang ra đường chất đống làm chường ngại vật và chiến lũy ngăn quân Pháp, thế nên toàn bộ cửa tủ và lèo hoa văn bị mất hết. Khi nhà tôi còn sống ở Ngõ Trúc Lạc, Hà Nội, chiếc tủ này đã dùng làm tủ thờ, lúc chuyển về quê, nó vẫn giữ công năng ấy. Vì mất hết cánh, mẹ tôi mua một viếng vải nhựa dầy nền kẻ ô khá đẹp phủ lên, vừa trang trí lại che được phần cánh tủ bị mất. Trong tủ để ít bát đĩa cổ, ít đồ thờ tự và những vỏ hộp nhôm sữa Gi-gô của Pháp đựng lặt vặt. Tôi xếp gọn số đồ đạc ấy vào một bên, còn cỗ trống thừa ra, cũng đủ chứa vài ba chục cuốn sách...
Vậy chỉ thiếu sách. Tính sao đây? Loanh quanh, tôi tìm được sổ sách giấy tờ của người chị gái, thấy có cuốn sách dạy về kỹ thuật nuôi bèo hoa dâu làm phân xanh (giờ gọi là phân hữu cơ) bón ruộng do Hợp tác xã nông nghiệp phát cho, và một cuốn sách Trong chiến hào Stalingrad, bìa dày giấy đẹp. bản tiếng Việt được xuất bản từ Liên Xô, đóng dấu thư viện đại học... Tôi biết cuốn này do một chàng sinh viên mượn từ thư viện nhà trường mang đến nịnh người đẹp (chị tôi), rồi quên không lấy lại, tôi đã đọc đi đọc lại mấy lần rồi. Vậy là có 2 cuốn làm lưng vốn ban đầu...
            Và bắt đầu cuộc tìm kiếm để thiết lập tủ sách riêng cho mình. Tiền không có, và nếu có, cũng không biết mua ở đâu. Trẻ con ở quê ngày xưa, rất ít khi cha mẹ cho con cái tiền bạc, Vậy mà, tôi có cách kiếm tiền đấy. Kiếm một cách chính đáng. Trời phú cho tôi tài chơi bi. Tôi bắn bi thuộc loại giỏi nhất xóm. Khoảng cách xa mấy, tôi bắn cúng trúng, rất ít khi trượt. Bọn học sinh, chơi bi một hồi với nhau, tôi ăn hết bi của chúng. Chúng nó nể tôi lắm. Được rồi, đứa nào có tiền mua, tôi bán lại cho chúng, giả thử, mua bi mới ở bà hàng xén, một hào mua được mười viên bi, còn nếu mua bi cũ của tôi, thì được những mười lăm viên. Bán lại cho chúng được tiền, trước sau, tôi sẽ lại ăn hết số bi của chúng. Có đứa, thấy tôi chơi thì không dám chơi nữa vì sợ tôi ăn hết. Bán bi được ít tiền, tôi không ăn quà, dành để hôm nào lên thị trấn, vào hiệu sách tìm mua truyện. Cứ thế, tủ sách của tôi có thêm các quyển Số phận của chú bé đánh trống của nhà văn Liên Xô, A, Gai-đa, Lá cờ thêu sáu chữ vàng của Nguyễn Huy Tưởng, Đội du kích thiếu niên Đình Bảng của Xuân Sách. Dế mèn phiêu lưu ký của Tô Hoài...          
            Hồi học cấp 3, trường ngay thị trấn Bần Yên Nhân, vào kỳ nghỉ hè, các học sinh phải chia thành nhóm để trực trường. Đến phiên trực của tôi, mẹ tôi cho ít tiền để buổi trưa mua gì ăn. Tôi uống nước cầm hơi, nhịn ăn trưa, vào hiệu sách dốc hết tiền mua được một cuốn truyện, đọc ngấu nghiến đến chiều về nhà với cái bụng rỗng, người đói lả... 
           Cứ dần dà, cái tủ sách ngầm trong lòng bàn thờ ấy đầy lên, và theo đó, kiến thức sách vở và mơ ước mơ hồ về một ngày kia mình trở thành người cầm bút lớn lên, rõ hình hài... 

           3. Truy tầm và tích cóp.

           Vào đại học, tôi học ở Đại học Nông nghiệp Hà Nội, đóng tại Châu Quỳ, Gia Lâm. Cùng học, có anh bạn Trịnh Bá Ninh, người chung đội tuyển học sinh giỏi văn Hải Hưng, lại thêm người bạn cùng lớp quê Thái Bình là Hoàng Gia Trình. Trình cũng là người đọc nhiều. Ngày ấy, tôi và Trình có thể nói chuyện hàng ngày về Tây Du ký, Thủy Hử, Tam Quốc diễn nghĩa... Thích đọc sách, nên cũng thích tầm mua sách. Khốn nỗi, vẫn câu chuyện tiền đâu? Hồi đó, nhà nước ta vẫn duy trì chế độ học bổng cấp đại học. Sinh viên trúng tuyển vào trường, được cấp học bổng 18 đồng một tháng, khi ấy tiễn cũ giá trị lắm, số tiền học bổng chi vừa đủ cho 2 bữa ăn mỗi ngày, và ở thì ký túc xã nhà trường. Giáo trình nhà trường cho mượn, hết năm thu lại. Còn tiêu pha gì thêm, dĩ nhiên là tiền gia đinh cho. Như vậy thì cũng chẳng có tiền, tích cóp, lâu lâu mua được một cuốn. Đời sống sinh viên, ưa ca hát và thích thơ. Đấy là đời sống tinh thần chính của sinh viên, lại chẳng mất chút phí nào. Hát nhạc đỏ, rồi cũng biết nghêu ngao dăm bài hát nổi tiếng của Trịnh Công Sơn... Còn thơ thì Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Tố Hữu, cũng có một số người biết thơ Puskin, Lermantov, Nhekraxov, Chiutrev. Exenhin, Maiakovsky... Ngày ấy, tôi và Trịnh Bá Ninh chịu khó mua thơ lắm. Yêu thơ là chính, với lại, mua thơ rẻ hơn mua tiểu thuyết, nên đến khi tốt nghiệp, tôi mua được cả trăm tập thơ, chủ yếu là các nhà thơ Việt nam hiện đại.  May mà, đến năm thứ 3, nhà nước có chính sách, gia đình nào đang có từ 2 người đang học Đại học thì được một suất trợ cấp, giá trị 4 đồng. tháng. Nhà tôi, có 2 người, chị gái tôi học trên tôi một khóa, cùng trường, nên tôi được xét hưởng trợ cấp.Hằng tháng được nhận 4 đồng, cũng là một khoản kha khá, đỡ mẹ tôi một tiền tiêu vặt, tôi có đồng ra đồng vào, quà vặt lúc đói bụng và mua vài cuốn sách.
           Hầu như tuần nào, tôi cũng đảo qua hiệu sách nhân dân ở phố Châu Quỳ, đến thành thân quen chị bán hàng ở hiệu sách. Quen rồi, có cái lợi, dặn chị bán sách khi có sách văn học mới thì để dành cho mình, hoặc lúc tìm được sách hay nhưng lại không đủ tiền thì nhờ chị cất giữ đến lúc đủ tiền thì mua... Ngoài hiệu sách ấy, chúng tôi còn quen thân với mấy hiệu sách khác ở thị trấn Gia Lâm, thị trấn Bần Yên Nhân, thị trấn Nam Sách (quê Trịnh Bá Ninh). Lâu lâu sang Hà Nội, thế nào cũng phải lượn vào Hiệu sách Hà Nội-Huế-Sài Gòn ở góc cắt phố Tràng Tiền-Ngô Quyền. Vào đấy, thực ra chỉ thỏa mãn thú tầm sách thôi, chứ thực ra ít khi mua được sách. Tiếng là hiệu sách lớn nhất thủ đô, nhưng đa chủng loại, đông người mua, nên rất hiếm khi sách văn học hay, quý còn đến tay mình. Chính ở mấy hiệu sách nhỏ nhà quê kia, chúng tôi lại mua được sách hay vì có chân trong...
           Nói chung, hễ đi đến đâu, thấy có hiệu sách nhân dân là mò vào. Đến các thị trấn, thị xã nào, nếu có điều kiện là hỏi thăm, tìm hiệu sách. Sau này, tôi vào nhận công tác ở mãi tận huyện Tri Tôn, thuộc vùng Bảy Núi, biên giới thuộc tỉnh An Giang. Với gần bảy năm trời làm việc ở đây, cái hiệu sách nhỏ ở trung tâm phố huyện ấy đã cung cấp cho tôi nhiều sách hay và quý của các tác giả nổi tiếng thế giới, như Những người khốn khổNhà thờ Đức Bà Pariscủa V. Hugo, Bông hồng vàng của C. Paustovsky, Chuyện núi đồi và thảo nguyên của T. Aimatov, Đỏ và đen của Standal, Bà Bovary của G. Flobert, Anna Karenina của L. Tolstoi, Những vì sao của A. Đô-đê, Tuyển truyện ngắn của Sê-khốp, Truyện ngắn Turgeniev... Thời bao cấp, thiếu thốn đủ thứ, những cuốn sách hay ấy được in trên giấy đen, mặt nhẵn mặt xù xì, nhưng trẻ trung mắt tinh, khát khao hiểu biết, đọc ngấu nghiến, rồi đọc nghiền ngẫm. Mỗi chuyến đi phép ra Bắc, tư trang dồn đủ một ba-lô, để còn tha theo cả bao tải sách. Tàu xe cách rách, rong ruổi từ miền Tây lên Sài Gòn rồi đợi tàu ra Bắc, về Hưng Yên, mất cả tuần, nhưng không thấy vất vả, là vì có niềm vui, thỏa nối đam mê ...

           4. Loạn sách, biết chọn gì đây.

            Cuộc sống thay đổi thật nhanh. Khi có đủ cơm gạo, no cái bụng rồi, thì các phương tiện khác như radio, ti vi, tủ lạnh, xe máy cũng không mấy mà có. Sách cũng vậy, các nhà xuất bản, các đầu nậu làm sách nhanh chóng thỏa mãn nhu cầu của người đọc. Và theo đó, các hiệu sách nhân dân, thuộc hệ thống phát hành sách do nhà nước quản lý từng giữ vai trò quan trọng suốt một thời kỳ, lắt lay và thui chột, rồi biến mất, thay vào đó là các cửa hàng sách tư nhân. Loạn sách. Nhưng trước khi bàn về loạn sách, tôi kể chút chuyện về một việc làm dại dột của mình... 
           Ấy là khi, tôi làm việc ở Hà Nội, mẹ tôi cũng ra thành phố ở với một người chị gái của tôi, ngôi nhà gianh ở quê, nơi mà ngay đi học tôi đã bắt đầu lập tủ sách cá nhân với cái hộc tủ thờ mất cánh, bị bỏ không. Sợ thất lạc và ẩm mốc, tôi chuyển toàn bộ số sách có được đến vài trăm quyển đến để nhở nhà của một người chị gái khác ở quê. Thời ấy, trên văn đàn của ta bắt đầu xuất hiện một hiện tượng mà các nhà phê bình văn học ở ta gọi là nền văn học phải đạo.Báo chí văn nghệ bàn ra bàn vào, có y kiến là đã đến lúc cáo chung cho nên văn học phải đạo. Những sáng tác mới của nhà văn Nguyễn Minh Châu như "Phiên chợ Giát", "Mùa trái cóc ở miền Nam", "Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành", "Cỏ lau,"...  được người đọc khen ngợi này nọ... trong khi nhiều tác phẩm văn học khác, ngay cả tiểu thuyết Dấu chân người lính của chính ông, từng được khẳng định, lại bị coi nhẹ...Và đương nhiên, những điều đó ảnh hưởng đến tôi. Chẳng hiểu sao, tự nhiên tôi thấy những tập thơ mà tôi dày công tích cóp trở nên nhạt nhẽo, một chiều, rồi quy chung vào cái gọi là "nền văn học phải đạo". Khi tôi được cấp một gian nhà cấp bốn ở khu tập thể cơ quan, cùng với những vật dụng thiết yếu là giường tủ bàn ghế, tôi đặt đóng ngay một cái giá sách, bằng gỗ tốt bởi một thợ vườn. Tôi mang số sách gửi nhở nhà người chị ở quê lên trưng vào giá sách mới nhà mình. Ước mơ hai chục năm trời đã thành hiện thực. Nhưng, tôi đã cố tình bỏ lại gần trăm tập thơ ở quê, mặc người nhà chị gái sử dụng tùy ý. 
            Giờ nghĩ lại, thấy mình không phải. Cho dù có thế nào đi chăng nữa, thì đó cũng là công sức, sáng tạo của mỗi tác giả. Thật lòng, nghĩ mình có lỗi với sách, với  các nhà thơ ấy... 
            Trở lại chuyện loạn sách. Bắt đầu từ việc đổi mới kinh tế, kéo theo là các kiểu đổi mới. Các nhà xuất bản không còn tự chủ được nữa, dẫn đến việc phải liên doanh với các nhà đầu tư, mà ngày đó, người ta quen gọi là "đầu nậu". Riêng tôi, lúc ấy cũng có vài ba cuốn được in theo hình thức này. Ví như, tập truyện ngắn "Đêm nguyệt thực", tập sách đầu tay của tôi dự thi ở Nhà xuất bản Hà Nội, đã được một đầu nậu nhận in, phát hành ( 1993) và may mắn đoạt giải; hay như tập truyện ngắn "Hoa tầm xuân" (Nxb Văn học) thì do Công ty Phát hành sách liên doanh với đầu nậu in; hoặc tập "Những người thắp lửa" (Nxb Lao động) và tập tản văn "Lên núi tầm mai" (Nxb Văn học) do Trung tâm Văn minh văn hóa Đông Tây in, phát hành, rồi tập truyện ngắn "Tổ ấm chim câu" (Nxb Lao Động) do một tư nhân bỏ vốn in ấn, phát hành ... Người viết sách vui vì sách được xuất bản mà mình không phải bỏ vốn. Những tập sách khác và cho đến tận bây giờ, sách của tôi vẫn xuất bản, phát hành theo cách thức này... 
            Hà Nội giờ đây có nhiều nhà sách tư nhân, song nổi tiếng nhất vẫn là phố Nguyễn Xí, gần khu vực Bờ Hồ. Ở đây, người tìm sách, mua sách ngày nào cũng đông nghịt. Sở dĩ đông, là bởi trước hết gần trụ sở của Tổng công ty phát hành sách trung ương có từ thời bao cấp, lại ở trung tâm, tiện cho người mua sắm nói chung. Các nhà sách liền kề nhau, chủng loại đa dạng, giá cả phải chăng (luôn có chiết khấu, giảm giá)... Người yêu sách ở Hà Nội, ai cũng biết đến bà Mão. Có thể coi, bà là một trong số ít người đưa ra hình thức bán sách theo cách thức tại nhà, không cần cửa hàng. Ngày ấy, một số nhà mặt đường ở đây cho thuê kinh doanh sách, còn nhà bà Mão lại ở sâu trong ngõ hẹp, tít trên tầng hai. Bà Mão đã nghĩ ra cách, lấy mấy phòng ở của nhà mình, bày toàn sách, trên vách, dưới sàn xếp kín đặc, người mua bỏ giày dép, dầm cả lên sách mà chọn tìm, mua gì ra ngoài bàn ở hành lang tính tiền. Vậy mà khách đông nườm nượp, hơn cả cửa hàng cửa hiệu sang trọng... Cách thức này của bà, sau rất nhiều người học theo... Bà Mão nổi tiếng đến mức, mới năm trước, bà mất, một số báo và rất nhiều trang Facebook đã đưa tin, bởi có khá nhiều phóng viên, nhà báo từng là khách hàng của bà từ ngày họ còn là sinh viên nghèo... 
            Lâu lâu, nhớ thú tầm sách, hoặc mỗi khi đau đầu vì công việc, tôi hay chọn đi tầm sách để giải tỏa. Sách bây giờ in đẹp, bìa bắt mắt, gợi mở. Phải công nhận, việc thị trường lĩnh vực xuất bản, người làm sách phải cạnh tranh, cùng với sự lựa chọn đầu sách, in ấn đẹp, giá cả hợp lý, giới xuất bản có nhiều chiêu độc để sách bán chạy. Thói quen của tôi, bước chân vào bất kỳ một hiệu sách nào, cũng lướt mắt đáo qua một lượt, rồi xem kỹ và quyết định mua hay không. Tôi nhớ, có lần, tại một hiệu sách trên phố Bà Triệu, Hà Nội, tình cờ, tôi bắt gặp và mua một cuốn sách mỏng ở chỗ bày sách đại hạ giá, nhưng hóa ra lại được cuốn sách quý, ấy là tập thơ "Xem đêm" của nhà văn Phùng Cung. Có lẽ, nhiều bạn đọc không biết đến cuộc đời truân chuyên của nhà văn này. Ông bị dính án văn chương, nghe nói vì cái truyện ngắn "Con ngựa già của chúa Trịnh" bị quy kết này nọ, bị cho là cạnh khóe nhân vật cao cấp nào đó. Tập thơ "Xem đêm" là tập hợp cả đời thơ của Phùng Cung gồm mấy trăm bài ngắn dài, được ông viết phần lớn trong thời gian bị tù đày hơn chục năm gì đấy. Lại nghe nói, ông Nguyễn Hữu Đang, (người từng chịu trách nhiệm tổ chức việc dựng Lễ đài cho buổi ra mắt của Chính phủ Cụ Hồ, ngày mồng 2 tháng 9 năm 1945 tại quảng trường Ba Đình), đã trích một phần tiền lương truy lĩnh sau khi ông này được phục hồi nhân phẩm, để Phùng Cung có tiền xuất bản tập thơ đó. Theo tôi, đây là tập thơ hay nhất trong vòng mấy chục năm nay ở ta. 
            Loạn sách, nhưng tôi vẫn mua sách theo cái kiểu của riêng mình...
            Ấy là, tìm mua loại sách thuộc hàng kinh điển, dùng làm tài liệu tra cứu khi cần thiết.
           Ấy là, sách bộ mới một số tác phẩm nổi tiếng của các tác gia văn học thế giới (ví như L. Tolstoi, V. Hugo, G. Maupassant, O. Balzac Y.Kawabata, Mạc Ngôn  ...).
           Ấy là, sách theo thú chơi của mình. Ví như, Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần, tôi có những mấy bộ bản in khác nhau, Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Đông Chu liệt quốc của  Phùng Mộng Long,  Thủy Hử của Thi Nại Am cũng có mấy bộ kiểu như vậy...
          Ấy là, một số tác phẩm thuộc các tác giả giật giải Nobel văn chương hằng năm, hoặc các tác phẩm được làng phê bình văn học đánh giá cao... 
Ấy là sách kiếm hiệp. Tôi mê sách kiếm hiệp từ nhỏ, nên mua đủ toàn bộ tiểu thuyết  võ hiệp của Kim Dung và một số tác phẩm của các tác giả kiếm hiệp khác cùng thời với ông.
          Cứ thế, dần dà, tủ sách của tôi lên đến vài ngàn cuốn.

          5. Ps 

         
Chiều muộn, đi bộ công viên, thủ túi quần có 100k. Ngang qua Hội sách đã tàn, hầu hết các quầy đã đóng thùng cho lên xe chở về. Còn ít quầy vẫn cố nán lại vì chiều khách, Ghé một quầy bán cả sách cũ và mới, hỏi "Có bộ BÀI CA SƯ PHẠM của Makarenko không?". Thưa rằng: "Cháu không có ở đây, nhưng ở quấy nhà cháu số... đường Giải phóng, cháu có đấy. Hôm nào chú qua, cháu bán cho"... 
          Lại ghé vào Nhà sách Nhã Nam, khách mua bán vẫn tấp nập. Lướt nhanh, nhặt ra 3 quyển này, thanh toán hết có 90k, vẫn thừa 10k bỏ túi. Trên đường về, giải thích cho cô con gái, sinh viên năm thứ 3 ĐH Kinh tế Quốc dân, rằng tại sao bố lại mua 3 cuốn này (HỒ.của Y., Kawabata, NGÀY XƯA của Nguyễn Nhược Pháp, vàĐIÊU TÀN của Chế Lan Viên, thuộc Tủ sách Vietnam Danh tác. Định mua cả Tập thơ THU của Lưu Trọng Lư nữa, nhưng không đủ tiền nên đành bỏ lại). Cô con gái gật gù, à ra thế. Cháu cũng hay đọc sách, nhưng sách nó chọn thường là sách học, sách tham khảo, và tiểu thuyết ngôn tình... Mua cuốn HỒ của tác giả người Nhật bản là Yasunari Kawabata, lòng có chút thích thú.     Trong các quốc gia châu Á, sau Trung Quốc và Ấn Độ, xét về văn chương (mở rộng ra lĩnh vực Triết học, Lịch sử, Địa lý...) thì đứng thứ 3 là Nhật Bản, theo tôi. Cho đến giờ, Nhật Bản đã có 3 tác giả được trao Nobel Văn chương, mà Yasunari Kawabata là người mở đầu và vĩ đại nhất... Tôi đã thích các tác phẩm của ông này, bộ ba tiểu thuyết XỨ TUYẾT, TIẾNG RỀN CỦA NÚI, NGÀN CÁNH HẠC. Các tác phẩm khác của ông cũng rất hay, là VŨ NỮ IT-ZU và NGƯỜI ĐẸP SAY NGỦ... Hy vọng cuốn HỒ này cũng sẽ thú vị... 
          Chính vì yêu vắn chương của ông, tôi đã có một Tiểu luận về nhà văn này và các tác phẩm chính của ông...
          Giờ thì tôi vẫn mua, nhưng chọn lọc rất kỹ. Đam mê sách thì vẫn còn, song phải biết san sẻ cho những thú vui, nghỉ dưỡng khác, phù hợp với lối sống chậm trong một xã hội công nghệ hối hả...
          Vả lại, còn phải dành thời gian cho viết nữa...
 
 

Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 2 của 4 trang, bài viết từ 31 đến 60 trên tổng số 104 bài trong đề mục