VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( II )

Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 3 của 4 trang, bài viết từ 61 đến 90 trên tổng số 104 bài trong đề mục
Tác giả Bài
tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Chiều Ghềnh Ráng - 16.12.2020 18:15:07

 

Hoa chanh vẫn tím vườn xưa
(Truyện ngắn của Nguyễn Chu Nhạc)
 
Giêng hai dấm dứt mưa dầm,
để cho ta lại lặng thầm nhớ xưa,...

         Sáng trở dậy, công việc đầu tiên của Việt là vào buồng bệnh của mẹ, giúp mẹ làm vệ sinh cá nhân, rồi pha sữa cho mẹ uống. Đã mấy tháng nay, mẹ anh bị chứng tai biến mạch máu não phải nằm yên một chỗ. Việt bỏ hết công việc của nhà cho vợ con quan lý, từ Sài Gòn nhao ra Bắc, đến bệnh viện rồi đưa mẹ về quê chăm sóc. Tiếng là nhà đông anh em, nhưng ai cũng bận việc của mình, Việt là con cả, nhưng anh lại sớm xa nhà, học hành, rồi vào quân ngũ và sau đó lập nghiệp, lấy vợ, định cư ở phương Nam nên mọi công việc chăm sóc cha mẹ già ở quê đều do các em đảm nhiệm. Thảng năm đôi lần, Việt bay ra Bắc thăm các cụ, ở quê chừng mươi ngày, biếu các cụ ít tiền rồi lại biền biệt. May giờ liên lạc thuận tiện, tháng dăm ba lần điện thoại hỏi thăm cho yên lòng.
          Xong việc chăm mẹ bữa sáng, Việt trở ra pha ấm trà. Thoảng hôm nào Bình, cô em gái ở gần chợ búa mua quà sáng về đổi món, còn không thì anh cứ luân phiên mì tôm, cơm rang cho tiện. Đang nhâm nhi chén trà, định bụng làm gói mì tôm thì đã thấy Bình đánh tiếng ngoài sân.
          - Em mua cho bác bánh giò đây. Bánh giò xóm Chợ ngon có tiếng, hẳn bác còn nhớ chứ? 
- Nhớ chứ,... Việt thủng thẳng.- Cô cứ làm tôi biệt xứ không về quê bao giờ ấy.
- Thì em cứ ngỡ bác quên ... Bình bóc bánh giò để ra đĩa mời anh, cười cười bảo - À này, bác Việt... sáng nay ở chợ, bác có biết em gặp ai không?...
          - Ôi, chợ làng đông cả huyện ngườ thếi... - Việt cảnh giác - làm sao anh biết được nhà cô gặp những ai ?...
          - Này,... em gặp chị Thắm xóm Chợ đấy... - Cô em nói nhỏ như nói thầm - Thắm, người yêu cũ của bác ý... Chị ấy cũng đi chợ. Nghe đâu chị ấy sống ở Hạ Long hay Cẩm Phả gì đó. Cùng nghỉ hưu rồi, nhưng mà trông người vẫn trẻ trung lắm... Trẻ hơn em là cái chắc....
          - Điêu vừa chứ - Anh yêu cái nhà cô Thắm bao giờ mà cô cứ xung xưng mọc mọc lên thế ?
          - Kìa, bác - Bình cười – Lại chối rồi. Bác đỏ mặt lên thế kia... tức là có gì chứ... Mà thôi, nói thế này cho chuẩn... cái nhà cô Thắm ấy yêu bác, đúng không? ... Không tin, để em hỏi u thì rõ ngay thôi - nói cho vào buồng trong - U ơi... 
          - Thôi, tôi xin cô - Việt cười trừ - để yên cho u nghỉ... chỉ được cái quấy rối - anh trách yêu cô em gái. 
          Buồng trong, có tiếng mẹ anh ú ớ gì đó, Việt giục Bính vào xem sao. Ăn xong chiếc bánh giò, anh rót chén trà nhấp từng ngụm, ngẫm ngợi... Ngoài sân, con gà trống choai loay hoay gạ gẫm mấy ả mái tơ... Nắng lên, sân vườn còn ướt sau trận mưa đêm qua. Vẫn đang tiết xuân mà. Cây chanh cỗi cạnh sân giếng và bể nước mưa đơm những chùm hoa tim tím. Việt hít căng một hơi, cảm giác mùi hoa chanh thơm dìu dịu, phảng phất như có như không. Anh bâng khuâng, chợt như tiếng ai đó mơ hồ ngoài cổng "Anh Việt ơi...".

###
          Ngày ấy, thời đi học, bố Việt là hiệu trưởng trường cấp hai của xã, ông lại trực tiếp giảng dạy môn văn. Việt học khá cả văn và toán, nhưng vì bố anh dạy văn, nên anh không muốn mình được xem là học sinh giỏi môn văn, vì như thế khác nào ỷ vào bố. Anh gắng học môn toán sao cho giỏi trội lên, để chứng tỏ lực học tự thân. Thắm người xóm Chợ, khác xóm, nhưng chỉ cách nhà anh chừng nửa cây số, cô học cùng lớp với cái An, em gái ngay dưới Việt. Thắm học văn khá, còn lại thì thường thôi. Tính cô bé bạo dạn, chơi thân với cái An, nên thi thoảng qua nhà Việt, tiếng là đến chơi với bạn, nhưng còn để mượn sách và nhớ bố anh giảng thêm cho những bài văn khó, hay còn vì gì gì nữa thì Việt chẳng rõ. Việt không thích sự mạnh bạo này của Thắm, nên hay tránh mặt, mỗi khi cô bé đến nhà. Đã thế, Việt lại bị cái An gán ghép với Thắm và lâu lâu mang ra chế giễu, càng làm anh khó chịu. Nhiều hôm, Thắm đến bất chợt, nhưng nghe thấy tiêng cô léo nhéo với cái An ngoài sân là Việt vội mang sách vở từ bàn học gian ngoài lánh vào buồn ngủ của bố mẹ để học. Có buổi Thắm mải chuyện với An, khiến Việt phải ở lì trong buồng không dám ho he, nhịn cả tiểu tiện đến khổ sở vì không muốn ló mặt ra. Buồn cười thế đấy. Có lẽ chính vì vậy mà sau này anh khó quên chăng?...
         Làng quê anh đồng ruộng bằng phẳng, nhưng lại thuộc vùng đất bán sơn địa, nương tựa vào chân núi An Phụ, trải quanh vùng có sông lớn Thái Bình và Kinh Thầy chày qua, nên có thể xem như địa thế rất đẹp. Chẳng thế mà xưa kia, cả vùng đất này là đất thang mộc của nhà Trần từ thuở mới lập triều, có trang ấp của An Sinh Vương Trần Liếu, thân sinh ra Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Thế nên, cùng với xứ Hải Ấp và hương Tức Mặc thì đất An Sinh này cũng là đất trọng yếu, có công lớn trong việc dung dưỡng nhiều nhân tài gây dựng vương triều Trần oanh liệt của lịch sử chống ngoại xâm nước nhà. Người dân mấy làng ở đây có thói quen canh tác hành tỏi. Thu nhập cao hơn canh tác lúa nhưng lao động nghề nông thì vất vả lắm. Riêng xóm Chợ nhà Thắm thì ít ruộng, các hộ sống chủ yếu bằng buôn bán vặt quanh năm suốt tháng bám vào chợ, nhất là nghề làm các món quà vặt. Nào bánh tẻ, bánh khúc, bánh cuốn, bánh giò, trong mấy thứ ấy thì bánh giò xóm Chợ ngon nổi tiếng trong vùng. Ngày còn đi học ở quê, lâu lâu mẹ anh đi chợ mua sắm mới dám mua quà bánh giò cho mấy bố con ở nhà ăn. Bánh giò, chỉ là món quà quê, đâu có gì cao sang nhưng cũng như bánh cuốn, là để ăn chơi, thưởng thức quà chứ không phải là loại bánh ăn no bụng như bánh đúc, bánh tẻ, bánh khoai. Cả nhà anh, bảy miệng ăn, tiêu pha trông chờ cả vào đồng lương thầy giáo của bố anh, còn mẹ anh làm nông nghiệp, thêm mấy anh em phụ vào thì đủ gạo nước rau cỏ hàng ngày thôi. Vậy nên, hôm nào có quà bánh giò xóm Chợ là sang lắm, đứa nào cũng háo hức, chỉ riêng bố anh được mẹ phần riêng cả chiếc, còn hai đứa chia nhau một cái, ăn loáng hết ngay miệng thì vẫn chóp chép thòm thèm lắm...
          Có lần, Việt hỏi mẹ anh về chuyện bánh giò xóm Chợ có từ bao giờ và sao lại ngon làm vậy? Mẹ anh bảo, cũng chỉ nghe cái cụ nói sở dĩ ngon vậy là có bí quyết riêng. Chuyện kể là, xưa kia, thời giặc Nguyên Mông sang xâm chiến nước ta, nhà Trần thực hiện kế sách lui binh, bỏ vườn không nhà trống nên cả trang ấp An Sinh và vùng dân lân cận làng mạc cũng bỏ không hết. Trên đường chạy loạn, có một nữ nhân người trong trang ấp bị tụt lại, lạc đường đến nghỉ chân ở dưới gốc đa giếng nước cuối xóm Chợ. Nữ nhân này đói khát, được một bà người làng nhường cho nửa cái bánh giò đang ăn dở của mình, lại múc nước giếng cho uống. Đỡ đói khát, người lại sức nên nữ nhân ấy đuổi theo kịp đoàn người nhà trang ấp. Sau này, đuổi xong giặc, làng xóm thanh bình, nữ nhân ấy về lại trang ấp An Sinh và lên tới hàng quản gia. Nữ nhân đó nghe đâu quê gốc ở gần kinh thành Thăng Long, con nhà có nghề làm bánh giò, vì cảm cái ơn người xóm Chợ cho ăn cứu đói, đã cho gia nhân trang ấp dò tìm được bà già xóm Chợ trước nhường ăn cho mình, mời đến trang ấp, biếu quà báo ơn và còn truyền cho bí quyết nghề làm bánh giò của nhà mình. Kể từ đấy, bảy tám trăm năm nay, người xóm Chợ có nghề chuyên làm bánh giò, bánh bán và bỏ mối nhiều nơi trong vùng, nhưng nghề  này thì cũng chỉ giữ ở vài chục nhà thuộc họ hàng thân thiết của bà cụ tổ nghề bánh giò ngày xưa của xóm thôi, trong đó có nhà cái Thắm. Miếu Bà gần cây đa giếng nước cổ xóm Chợ là thờ người nữ gia nhân trang ấp xưa ấy và nghe đâu cũng thiêng lắm. Người dân xóm Chùa vẫn hay thắp hương cầu khấn xin phù hộ này nọ. Mẹ anh còn bảo, bánh giò tiếng là quà quê, không khó làm, nhưng làm ngon thì khó lắm. Để làm ra loại bánh ngon, thì đương nhiên các nguyên liệu làm bánh như gạo bột, nhân thịt mộc nhĩ đầu phải ngon, song khó nữa là kỹ thuật làm bánh, nhất là khâu ráo bột, để sao cho áo bánh lúc chín đủ độ mềm dẻo mà ăn vẫn giòn, không sượng không nát...
          Tốt nghiệp phổ thông, Việt theo học chuyên ngành cơ điện. Thỉnh thoảng về thăm nhà hoặc kỳ nghỉ hè, Việt hay gặp Thắm ở nhà mình. Cái An, em gái anh học lên cấp ba trường huyện vẫn chung lớp với Thămm nên hai đứa thường qua lại nhà nhau. Mỗi khi chạm mặt, Việt không né tránh nữa, nhưng cũng chỉ chào hỏi xã giao, vì chẳng gì anh đã là sinh viên. Thắm đã phổng phao dậy thì thành thiếu nữ rồi, nên Việt thấy mình cũng cần phải ra dáng đàn ông chứ chẳng thể cư xử kiểu học trò như trước nữa.
           Ngày ấy, một sáng chủ nhật nọ, trong kỳ nghỉ thăm nhà, Việt ở nhà một mình. Bố anh có việc gì đó vắng nhà, còn mẹ và mấy đứa em thì ra đồng cả vì đang mùa thu hoạch tỏi. Việt mới từ trường về, cũng định ra đồng giúp mẹ và các em. Mẹ thương anh đường xa xe cộ vất vả nên bảo anh cứ ngủ cho đã rồi muồn muộn ra đồng cũng được. Việt ngủ dậy thì mọi người đã đi hết, nhà vắng tanh. Anh định ăn sáng rồi ra đồng thì nghe có tiếng ai gọi cái An ngoài cổng. Anh ló ra và còn đang ngó nghiêng thì ai đó gọi tên mình. “-Anh Việt ơi, em đây mà ... Em... Thắm đây ạ”.  Việt mở cổng, nhận ra Thắm. Cô xách một túi nặng tay, cười hỏi: “- Hai bác và An có nhà chứ ạ? “. Việt giải thích qua, nhưng quên không mời cô vào, thì Thấm chủ động: “Thế anh Việt khộng định cho em vào nhà à? Hay cứ để em đứng đây rồi về? “. Việt lúng túng xin lỗi, mời Thắm vào nhà. Cảm giác có lỗi nên anh  bị động, lặng lẽ rót cốc nước lọc to tướng đặt trước mặt Thắm. Cô đưa anh cái túi nặng trĩu trên tay, bảo : “ Em qua đây, trả bác trai tập thơ Nguyễn Bính em đã mượn bác về đọc tham khảo... Tiện đây, em xin biếu câc bác và nhà mình chục bánh giò... Bánh nhà em làm đấy, vẫn còn nóng hổi...Đáng lý là anh phải xách giúp em từ ngoài cổng vào ấy chứ...”. Cô cười đùa, khiến Việt càng lúng túng: “Tôi chán quá nhỉ... xin lỗi nhé.”. Thắm nhìn quanh quất, bỗng à lên “Bánh giò là phải ăn nóng thì mới ngon,... Để em bóc một cái anh Việt ăn thử nhé... Chính tay em làm đây, anh ăn xem em có khéo nghề không?...? Việt rãy nảy: “Ấy đừng... Con cái làm sao dám ăn trước bố mẹ... Với lại, nhà tôi có nếp, quà ai biếu cứ phải bày lên bàn thơ thắp hương các cụ trước rồi mới dám xin lộc...”. Việt vội đi lấy chiếc đĩa đưa Thắm để cô bày ra, rồi anh đặt lên bàn thờ thắp mấy nén hương. Xong việc, Việt ngồi xuống tiếp chuyện Thắm. Cô cười như người có lỗi: “Khi nãy, em vô duyên quá... Cho xem xin lỗi, suýt nữa phạm thượng các cụ... Anh thông cảm cho em nhé. Nhà mình đây lễ giáo... bên nhà em dân chợ nênquen xuê xoa...” . Việt vội gạt đi. Câu chuyện giữa anh và cô cởi mở hơn...
          Là khách nhưng Thắm lại chủ động dẫn dắt câu chuyện. Thắm hỏi thăm anh học ngành cơ điện có khó lắm không, rồi cuộc sống sinh viên chắc thiếu thốn lắm... Đại khái thế, anh cứ răm rắp trả lời cô như một câu học trò ngoan. Một hồi tắc tị, dường như hết chuyện, Việt chợt nhớ là anh chưa hỏi gì cô, khi ấy mới dụt dè hỏi xem sau này cô mơ ước làm nghề gì. Cô cưới rạng rỡ; “Em thích học sư phạm lắm, Làm cô giáo dạy văn, như bố anh ấy... Chắc là thú thị lắm nhỉ? Anh Việt có thấy thế không?”. Anh ngớ người khi bị hỏi ngược, bảo: “Mình không rõ... bố mình có thấy thú vị không... chứ ông nói chuyện với mẹ mình thì cứ khô như ngói ấy... cấm thấy câu nào dịu dàng cả”. Thắm cười. tay che miệng mà cười, khiến anh ngây như ngố; “Thắm không tin.., cứ hỏi cái An nhà mình là rõ...”. Cô cố nín cười: “Em tin... thì thầy u em cũng vậy mà... Các cụ quen nếp cũ, nhất là trước mặt con cái, hay chỗ đông người... nói năng cứ như là chẳng quen biết nhau ấy... thế nhưng... lại đẻ sòn sòn cả đống con... Mai đây, anh em mình chẳng thế, anh nhỉ?...”. Dường như nhận ra cái ngố hiện rõ trên mặt anh, cô nói như giải thích: “Ý em là... đến thế hệ trẻ như anh em mình... xưng hô nói năng với nhau sẽ khác các cụ xưa... dìu dàng, âu yếm hơn...”. Thắm đỏ mặt, nghiêng người nhìn ra sân vườn cố giấu đi nụ cười.Chợt Thắm hởi: “Anh Việt này, em để ý thấy bờ rào quanh vườn nhà anh không có mồng tơi nhỉ ?... “. Việt nhìn ra sân vườn: “Ừ nhỉ, toàn những mây gai, dứa dại, với ít cây duối... Mẹ mình bảo như thế hàng rào mới kín, ngăn được gà qué hàng xóm sang phá, lại chống được trộm cắp...”. Thấy Thắm yên lặng, Việt giải thích: “Còn mồng tơi... mẹ mình có trồng một ít, thêm thắt rau vườn, nhất là khi bắt được cua đồng...”. Thắm bỗng nhiên mơ màng: “Chắc là cái giậu mồng tơi nhà cô hàng xóm trong thơ Nguyễn Bính là không có thật anh Việt nhỉ? ... Chắc nhà thơ mượn cái giậu mồng tơi ra để nói chuyện tình duyên giữa chàng và nàng vốn là hàng xóm với nhau anh nhỉ?...” Việt tròn mắt ngạc nhiên. Thắm nhìn đâu xa ngoài vườn, cứ thế đọc liền một mạch hết bài thơ Cô hàng xóm của Nguyễn Bính... Việt nghe, á khẩu, ù tai... Thắm dừng đọc thơ, nhìn anh: “Bài thơ hay thật anh nhỉ... Em thích thơ Nguyễn Bính lắm, nhất là bài Cô hàng xóm, bài Cô lái đò, rồi bài Chân quê,... cả bài Lỡ bước sang ngang nữa,...nhưng bài này dài quá nên chỉ thuộc in ít thôi... Anh Việt có thích thơ Nguyễn Bính không?...”. Việt lúng túng, nói bừa: “Có chứ, mình cũng thích... nhưng mà chỉ thích vậy thôi... chứ không thuộc làu như Thắm... Mình chỉ nhớ mỗi câu Hôm qua em đi tỉnh về. Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều. May mà anh đọc ra được hai câu thơ ấy, không thì ôi mặt mang tiếng từng là học sinh giỏi của huyện lại con thầy giáo dạy văn. Thắm tỏ ra thích thú như là tìm được người cùng sở thích: “Bài thơ Chân quê cũng thật là hay anh nhỉ?... Anh này, nếu may mắn trời cho em đỗ đại học, rồi sau này có sống ở thành phố... thì em sẽ chẳng như cô gái nọ của nhà thơ để bay đi cái chất hương đồng gió nội đâu... Nhà quê mình cũng có nhiều cái hay mà người thành phố không có, anh nhỉ ?...”. Thắm hạ giọng như nói với chính mình...
           Giờ thì Việt chẳng thể nhớ nổi chuyện với Thắm hôm ấy, hai người còn nói linh tinh những gì nữa. Chỉ nhớ, sau khi nói về hoa chanh vườn quê và cô gái nhà quê xưa đi chơi tỉnh để bay đi chất quê trong thơ Nguyễn Bính, Việt hầu như không nhìn dám nhìn thẳng vào mắt Thắm, anh cứ ngọ nguậy người, chốc chốc lại nhìn ra cây chanh ngoài sân giếng đang nở đầy hoa tim tím trăng trắng... Đầu óc Việt mơ màng, lởn vởn những câu thơ Nguyễn Bính, thì nghe Thắm à lên: “Thôi chết... em làm mất thời giờ của anh quá... Hết tuần hương rồi, anh hạ lộc giùm em, rồi còn ra đồng kẻo muộn. Nhờ anh chuyển lời với hai bác,... Giờ em còn ra Miếu Bà hạ lễ... Chả là, trước khi qua đây, tiện  đường, thầy u em có sai mang ít bánh giò ra thắp hương Miếu Bà ngày rằm...”. Nghe vậy, tự nhiên Việt thấy người ơn ớn gai gai sống lưng. Hỉnh ảnh ngôi miếu cổ âm u nơi cuối xóm Chợ hiện lên trong óc anh. Rổi anh khẽ rùng mình, cảm giác phảng phất một hình bóng người đàn bà ăn vận theo lối cổ xưa chập chờn ẩn hiện trong hình dáng của Thắm. Anh nén chấn tĩnh, hít thật sâu rồi thở ra nhè  nhẹ, tiễn Thắm ra tận cổng: “Thế em có nhắn gì cái An không?...”. Thắm bị bất ngờ: “À không... không ạ... Có thứ định nhắn cho nó... ban nãy nói chuyện, em gửi anh hết rồi đó...”.  Thắm nhoẻn cười đầy vẻ tinh ranh, quay người bước đi. Việt nhìn theo tần ngần, chẳng hiểu cô ngụ ý gì ?...
+++
        Bính quay ra bàn trà với anh. Cô nhìn Việt tủm tỉm:
        - Bác này, ... gặp em, chị Thắm còn hỏi thăm sức khỏ u và cả bác nữa đấy.
         - Thế cô bảo sao? Việt cảnh giác.
         - Thì em kể thật, rằng u bị tai biến nằm một chố... rằng bác ở Sài Gòn ra chăm sóc u... rằng thì là mà... chị ấy nói về quê chơi ít ngày, biết tim u ốm và bác đang ở đây, nên dự định mai kia gì đó ... chị ấy đến nhà mình thăm u... thăm bác... – Bình nhìn anh cười tinh quái – Thì quý hóa quá chứ còn gì nữa...
         - Thì hỏi thăm thế là được rồi... cần gì phải thăm nom nữa- Việt nhăn mặt- chẳng dám làm phiền,...
         - Bác không biết đấy thôi... Thời gian bác đi học rồi ra trường vào quân ngũ, chị Thắm rất chăm qua nhà mình chơi, kể cả khi chị An là bạn thân của chị ấy vắng nhà ra Hải Phòng làm công nhân... Em biết, chị ấy năng qua lại nhà mình, lấy cớ bạn chị An, nhưng phần lớn là giữ mối thân tình với nhà mình là vì bác đấy... Ngộ nhỡ duyên thành danh phận... Năng đến nhất là năm chị ấy thi trượt đại học, ở nhà tự ôn thi, làm bánh giò phụ giúp cha mẹ. Chị ấy thích sư phạm nên gắng thi nữa, rồi cũng chẳng nên cơm cháo gì. Nghĩ thấy thương thương là... Mỗi lần đến nhà mình, ra chiều bẽn lẽn rồi, chứ không tự tin hơn hớn như trước nữa... May mà nhở người quen xin cho học ở một trường kế toán ngành rồi thoát ly ra vùng mỏ Quảng Ninh...– Bình nhìn anh dò ý tứ - Hồi đó, thầy mình cũng quý chị ấy, hình như thầy có ý chờ xem hai người thế nào... Còn u mình thì bảo, gia đình bên ấy buôn bán vặt nhưng cũng là nhà tử tế, chị Thắm thì được cái khỏe mạnh, tươi tắn, biết nghề cũng tốt... chỉ chê mỗi cái tính hơi mạnh bạo... Chẳng lẽ, ngày ấy bác không biết ư?... Em hỏi thật này,... bác từng có cảm tình với chị ấy không?...
         Việt nghe, ừ à, cười trừ cho qua nhưng Bình không chịu buông tha:
         - Ngày ấy, mỗi lần đến nhà mình chơi, chị ấy lại xách theo một làn nặng bánh giờ làm quà... Lâu ngày, đem tích lại, có nhẽ, cả thấy đến hàng trăm chiếc bánh giò ấy chứ, bác... Hơ hơ...  Bọn em ở nhà tha hồ chén... Thây kệ, nhà anh chị có yêu nhau hay lấy nhau, chúng em chẳng cần biết, chỉ biết là cứ hưởng lộc cái đã... Ai bảo nhà chị ấy có lòng thì chúng em đây có dạ, vậy thôi...- Bình cười trêu - Giờ thì bác về mà tính sổ, trả hết món nợ bánh giò cho chị Thắm của bác nhé ... Thôi, để em vào bếp nấu cháo cho u, tiện thể nấu cơm trưa, cùng ăn với bác cho vui...
         Còn lại mình, Việt thơ thần ra sân vườn. Anh loanh quanh, hết ngắm cây này sang cây nọ. Mỗi góc vườn, mỗi cây cối lại gợi lên trong anh những ký ức thơ ấu, tuổi học mới lớn. Mấy đứa em anh, biết nhiều chuyện, gán ghép này nọ giữa anh với Thắm, nhưng chúng không biết rằng, trong lòng. anh cũng từng nghĩ về cô như là người yêu của mình. Ngày ấy, trường anh học vẫn đóng ở Phủ Lỗ, nơi sơ tán thời chiến tranh máy bay Mỹ đánh phá, trưởng sở, ký túc xá toàn tranh tre nứa lá lụp xụp. Cuộc sống thiếu thốn khem khổ đủ bề. Cánh sinh viên chống đói bằng cách kể chuyện tiếu lâm, kể chuyện quê, hát hò thơ phú, và khoái nhất là chuyện tình yêu. Dân học cơ điện mà thơ phú thì cục mịch thế nào ai cũng hiểu. Anh có khiếu văn nên đương nhiên là nhất lớp về khoản chuyện văn thơ. Anh nặn ra vài bài thơ tính, chàng nàng sướt mướt, đọc lên trong những lúc tán gẫu hay khi liên hoan, chúng bạn khen nhất quả đất luôn. Thế rồi, chúng bạn nài anh kể chuyện người yêu, vì chúng cho rằng thơ tình như thế nhất định phải tặng cho một em nào đó. Nghĩ mặt ta đây, đàn ông đàn ang, anh bịa chuyện người yêu này nọ, bí thì mang Thắm ra để bịa thêm, lẽ di nhiên, anh đổi tên người yêu là Tươi, là Hoa gì đấy... Kể ra cứ như thật. Mỗi lần về thăm nhà, hoặc kỳ nghỉ hè lên, chúng bạn lại gạ chuyện về gặp người yêu thế nào. Lại kể, lại bịa. Diết một hồi, Việt có cảm giác như mình và Thắm yêu nhau thật. Cô ta thích mình thì rõ rồi, nhưng mình có thích cô ta không, thì không chắc. Anh cũng đã tự vấn mình, cười thầm mà gạt đi, thành chuyện cũng ổn, mà không thì cũng khổ đau gì đâu mà lo... Quả thực, có những lúc nghĩ đến Thắm, hoặc  nghe mấy đứa em nhắc đến tên cô, thảng Việt vân ớn mình khi nhớ lại hình bóng người đàn bà cổ xưa chập chờn trong bóng dáng của Thắm từ cái hôm cô đến chơi nhà anh sau khi cô đi thắp hương khấn vái Miếu Bà xóm Chợ. Có gì đó khiến anh chờn chợn, sinh nghĩ ngợi này nọ. Hay cô ta là... anh không dám nghĩ nữa... Linh cảm, có một cái gì đó ngăn cản Việt đến gần cô ấy... Thôi kệ, cứ để cho cuộc sống tự nhiên, nước chảy, bèo trôi...
          Cái An, bạn học của Thắm, có lần đã kể với anh rằng, có một dịp nghỉ Tết, về quê chơi, hai đứa gặp nha, bù khú đủ thứ chuyện. Khi đó, Thắm sắp lấy chồng, người cùng nghề, cô ta đã đùa An bảo là: “Thiếu chút nữa tớ làm chị dâu của cậu... Nhưng mà, tớ và anh Việt duyên đã chẳng ra đâu vào đâu, mà phận lại càng không có, nên tớ mới phải đi lấy chồng thiên hạ thế này, ... Cậu có thấy tiếc không?”. An bảo là vô cùng tiếc, đùa thế rồi hai đứa cười như nắc nẻ. Nói được ra thế, chứng tỏ cô ấy cũng có nuối tiếc gì đâu... Vậy nhẹ lòng. Khi anh chậm lấy vợ, vì là con trưởng nên bố mẹ anh cũng sốt ruột, có ý giục. Mẹ anh còn bảo, biết thế ngày ấy cứ vun vào cho anh với Thắm thì có khi đã lít nhít mấy đứa cháu rồi cùng nên. Rồi ra, cuộc đời sắp đặt đâu vào đấy cả, anh làm quen với một cô gái kém anh cả chục tuổi, quê ở gần chùa Hương ngoài Bắc vô Nam sinh sống. Có phận thì vừa duyền cùng thành đôi... Vợ anh, có nét gì đó na ná Thắm, nghĩa là cũng mạnh bạo, trong cả tình duyên và cuộc sống gia đình sau đó...
          Còn có một chuyện nữa, mấy đứa em Việt, kể cả cái An, tiếng là bạn thân với Thắm cũng không biết rằng, cách đây dăm năm,  anh và Thắm đã gặp lại nhau một lần ở Sài Gòn. Khi ấy, Thắm đi công tác, không hiểu sao cô ấy có số điện thoại của Việt, đã gọi điện hỏi thăm anh. Hai người hẹn gặp nhau ở một quán cà phê gần khách sạn cô ở. Vài giờ đồng hồ với bao nhiêu là thứ cần hỏi, cần biết, cần nói, nên câu chuyện lộn xộn chằng đầu cuối. Thắm trẻ trung hơn anh tưởng. Cách ăn mặc và trang phục khá sánh điệu, khiến Việt nhớ lại hai người xưa đã từng nói gì về chân quê, về cái sự bay đi ít nhiều chất hương đồng gió nội trong thơ Nguyễn Bính. Vẫn như ngày trước, Thăm luôn là người chủ động dẫn dắt câu chuyện, còn anh tuy không giống cậu học trò nhút nhát, nhưng có ý nhường nữ giới, kệ cho cô dẫn dắt. Bản tính anh vậy. Chuyện gia đình đôi bên, rồi lại xoay sang chuyện học trò ở quê. Có điều, chuyện về văn chương thơ phú thì Việt lại chủ động nhắc. Thắm cười tươi, bảo giờ vẫn thích nhưng chẳng còn đâu thời gian mà thơ phú, với lại cô cho rằng bây giờ thơ phú thiên hạ nhiều quá đọc không xuể. Lâu lâu vớ được tờ báo, tờ nào cũng có trang thơ, mà nhiều bài đọc trúc trắc, không vần điệu, đọc xong chẳng hiểu nói gì... Cô còn bảo, hay là nhiều năm nay làm nghề kế toán, chỉ biết đến những con số, chỉ quen với chuyện hạch toán lỗ lãi nên mất đi sự cảm thụ thơ ca... Việt nghe cô chê thì chỉ biết cười trừ ...
         Giờ thì mấy anh em nhà anh gia đình đều yên ấm. Gánh nặng lại ở chuyện hiếu đễ, bổn phận và trách nhiệm của con cái với đáng sinh thành. Bố anh đổ bệnh rồi nằm một chỗ gần chục năm mới mất. Việc chăm sóc ông ngần ấy năm, tuy các con cũng xúm vào nhưng phần nặng vẫn một tay mẹ anh cả. Bố anh mất đi, vừa qua giỗ đầu, thì mẹ anh lại ngã bệnh như bố. Bà nằm liệt giường chẳng biết sơm tối thế nào, có thể là chuyện lâu dài... Những lúc như thế này, người ta mới hiểu việc báo hiếu đâu có dễ, và có dâu con ở bên mới quý làm sao... Những ngày xa chốn đô thị náo nhiệt ở quê chăm mẹ, Việt mới thấm thía và ngộ những đạo lý và nhiều điều mà trước đây không để ý, hoặc chưa thấu tỏ. Một mình chăm mẹ, tự nhiên, anh hay nghĩ đến Thắm...
          Giờ anh và Thắm, ai yên phận nấy, có khi cô ấy lên chức bà rồi cùng nên... Ngày mai, kia cô ấy đến thăm nhà, hai người sẽ chuyện những gì nhỉ? Liệu có còn tâm trạng và hứng thù mà chuyện thơ văn hay không? Chỉ có thơ Nguyễn Bính là hầu như vẫn tươi nguyên với những người yêu nhau, với những ai từng có duyên mà không nên phận, thành lỡ dở...
          Bình bê mâm cơm lên, ớ gọi, anh từ trở vườn vào, thì trời lắc cắc mưa. Một đợt gió mùa sắp ùa về. Tiết giêng hai, trời còn mưa phùn, ẩm ướt. Tự dưng, trong đầu anh phảng phất một tứ thơ,.. ./.
 
 
 
 
 
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 28.02.2021 14:36:04 bởi tamvanvov >

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Chiều Ghềnh Ráng - 12.01.2021 17:49:36
Võ Quảng, niềm cảm hứng thôi thúc văn chương trong tôi,...
tản văn
       Sáng nay, một sáng đầu đông, cuối tuần, dù giờ không phải bận công sở, việc làm thêm thì không thời gian, nhưng tôi vẫn giừ cái thói quen cũ, ngủ dậy muộn hơn ngày thường một chút. Một thói quen công chức ăn vào đầu óc, ám vào da thịt, thật khó bỏ. Thủng thắng nhấm nháp chén trà Thái ngon trong tiết trời se lạnh vì gió mùa về đêm qua, lơ đãng ngó mặt ti vi,...
        Ngày đi học ở quê, tôi đã say mê đọc truyện "Quê nội" của nhà văn Võ Quảng. Ngày ấy, sách hiếm lắm, và sách cho thiếu nhi lại càng ít. Thế nên, cùng với "Dế mèn phiêu lưu ký: của Tô Hoài, "Đội du kích thiếu niên Đình Bảng" của Xuân Sách, "Đất rừng phương Nam" của Đoàn Giỏi, "Quê nội" của Võ Quảng đã cho tôi, và tôi tin cả một thế hệ học sinh, thiếu nhi ngày ấy niềm say mê, lòng khao khát với bao ước mơ, hoài bão... 
Với riêng tôi, nhà văn Võ Quảng đã ít nhiều bồi đắp nên trong tôi tình yêu văn học, để tôi tiến gần hơn với nghiệp cầm bút, làm báo, viết văn sau này. Tự thâm tâm, tôi biết ơn ông về điều đó...
         Hơn chục năm trước, tôi có vài năm biệt phái vào Văn phòng miền Trung của Đài Tiếng nói Việt Nam đóng chân ở Đà Nẵng, nên có điều kiện qua lại nhiều lần vùng Đại Lộc, Quảng Nam. Đây là quê hương của nhà văn Võ Quảng, vùng đất mà ông nhớ thương suốt mấy mươi năm "ngày Bắc đêm Nam". Vùng đất này thật tươi đẹp, trù phú bình yên bên con sông Thu Bồn nên thơ. Thảo nào, những năm xa quê đằng đẵng ấy, ký ức tuổi thơ đi học đã cho nhà văn Võ Quảng cảm xúc thương nhớ dạt dạt và sự thôi thúc để ông bảy tỏ ra mặt giấy...
        Vậy mà với ông đã trăm năm rồi đấy, và ông vắng bóng trên thế gian này cũng đã hơn chục năm nay, nhưng tác phẩm của ông thì người ta mãi còn phải nhắc đến... 
Vô tình, chuyện về ông lại thức dậy trong tôi, thôi thúc tôi viết một điều gì đấy. Và những câu chuyện bên lề, nhưng ồn ào này nọ, dư âm từ Đại hội nhà văn vừa qua, bỗng bay đi hết. Chỉ còn lại ký ức và sự mong muốn viết ra được mà thôi !...
        Chương trình văn nghệ sáng cuối tuần, "Người lưu giữ tuổi thơ", phim tài liệu về nhà văn Võ Quảng. Tôi bị cuốn hút, không hẳn vì phim hay, mà vì những hình ảnh về nhà văn Võ Quảng, những tác phẩm văn học dành cho thiếu nhi của ông một thời, rồi con phố Hàng Chuối nơi gia đình Võ Quảng từng sinh sống quanh năm vắng vẻ, và cả vùng quê ông, Đại Lộc, Quảng Nam nằm bên con sông Thu Bồn trong mát, đã gợi lên và sống dậy trong tôi biết bao ký ức tuổi thơ....
 
Đã mang vào thư viện
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.02.2021 04:46:04 bởi Ct.Ly >

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Chiều Ghềnh Ráng - 06.02.2021 10:31:33
Ơi đào đá Hà Giang,
Tản văn,
 

"Đã qua mùa tam giác mạch/ mưa xuân đá cũng lên xanh/ cao nguyên đang mùa tươi trẻ/ địa tầng bỗng hóa mỏng manh/ Đào rừng năm nay nở muộn/ bung trời Quản Bạ, Yên Minh/ khoe sắc Sủng Là, Phó Cáo/ phơi hồng Lũng Cú, Đồng Văn...", 
Đó là những câu thơ đầu của bài thơ "Cao nguyên đá đương xuân" tôi sáng tác vào mùa xuân năm Đinh Dậu 2017 trong chuyến đi lên Hà Giang.
Lần ấy, dịp rằm tháng Giêng, đoàn công tác của Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) lên Hà Giang, công bố chương trính phát sóng phát thanh Dân tộc (VOV4) tại Đài Phát sóng FM Quản Bạ, Sau buổi lễ, chúng tôi ghé thăm mô hình du lịch homstay ở làng người Dao (Nặm Đăm), rồi nhập với đoàn công tác của tỉnh Hà Giang ngược núi lên Đồng Văn dự lễ chào cờ đầu năm trên Cột cờ Lũng Cú. 
Thực lòng, khi bắt gặp những cây đào chi chít nụ hoa dọc lối từ trực đường chính lên Trạm phát sóng, tôi đã ngõ ngàng, thích thú. Lúc vào thăm bản người Dao, vườn nhà gõ lối trong bản cũng lác đác đào hoa, song đến khi vượt qua Yên Minh, băng dốc Thẩm Mã vào đất Sủng Là, cửa ngõ Đồng Văn, cảnh sắc mới thực sự huy hoàng. Ôi chao, những đào là đào. Ngỡ ngàng đến bàng hoàng, cảm giác không tin vào mắt mình, tưởng như đang lạc vào chốn Đào nguyên không có thật, hơn cả lão Bật Mã Ôn lạc đào nguyên trong phim Tây Du Ký. Xe bám theo đoàn, băng băng ngược dốc, tôi ngó hai bên đường, cảnh đẹp thần tiên mà lòng những tiếc vì không thể dừng lại chụp dăm ba kiểu ảnh. Đến phố xã Sủng Là, đành rớt đoàn vài phút dừng lại nhà người quen cũ, tặng mấy cuốn sách cho anh chàng Vạn Lý. Chụp vội một kiểu ảnh lưu niệm, thấy tôi luôn miệng than tiếc, anh chàng Vạn Lý gợi ý "Tiếc, thì lúc về chú dừng lại chụp...". Nghe chừng có lý. Nhưng phải tăng tốc bám theo đoàn đã. Với lại, lịch trình đường về không qua lại đây, mà vòng sang Mèo Vạc rồi theo lối khác...
Vùng chân Cột cờ Lũng Cú, vườn nhà dân cũng có đào, nhưng không nhiều và đẹp như ở Sủng Là.  Sau lễ chào cờ ngay chân cột cờ, trời đã tối, đoàn công tác vội về thị trấn Đồng Văn dự tiệc chiêu đãi và giao lưu thơ nhạc. Bầu không khí xuân đầy hơi men và niềm hứng khởi, chằng thể đẩy khỏi  đầu óc tôi những cảnh sắc đào hoa lúc chiều. Đêm ấy, trời đổ mưa xuân, khu phố cổ và chợ Đồng Văn nhếnh nháng ướt, đẫm hơi xuân. Tiếng khèn Mông và hương vị cháo nóng ban đêm khiến không gian thêm huyền ảo, ấy vậy, trong tôi vẫn chớp chới, lấp lóa cảnh sắc đào nguyên như cuốn phim quay lướt... 
Sáng ra, dậy sớm tranh thủ bát phố Đồng Văn. Trời xuân quang quẻ, từng tốp gái người dân tộc thiểu số áo váy xúng xính, sặc sỡ, ríu ríu xuống phố chợ. Ngó quanh, lác đác đây đó những cây đào đơm hoa, nhưng chẳng có thời gian mà ngắm vì còn phải theo đoàn công tác lên Mã-pì-lèng. Từ đỉnh cao, nhìn hút theo con sông Nho Quế mùa cạn nước, trơ trụi, lại thêm nham nhở vì những đập thủy điện đang xây dở dang. Lộ trình tiếp sang Mèo Vạc, tôi và anh bạn cùng xe, một phóng viên cựu VTC, cũng là một tay máy xịn đam mê nhiếp ảnh, lén bảo nhau quay đầu xe về lại Đồng Văn, xuôi Súng Là. Cảm giác tự tách đoàn có gì đó như vụng trộm, xen cảm xúc sắp được tha thẩn, chọn khuôn hình, góc độ, nâng ống kính thu hình những cảnh sắc xứ sở hoa đào đá mà lòng tôi chộn rộn. 
Đây rồi, những dãy đào cây giăng lối hai bên đường, hàng rào nhà dân nối nhau, miên man như bất tận. Bấm máy liên tục. Không ngờ, anh chàng lái xe cũng là một tay máy xịn, đam mê ảnh ót. Xe chúng tôi cứ di chuyển vài chục mét, lại dừng và cả ba nhao xuống chụp. Đâu cũng đào, đâu cũng đá, cũng vòm cổng, mái nhà nâu xỉn ngả màu thời gian. Đẹp mê hồn, trước mặt đẹp, nhìn ngang đẹp, quay lại sau lưng cũng tuyệt vời không kém. Ba người chúng tôi mất gần hai giờ đồng hồ mà vẫn chưa qua được vài cây số khu vực Sủng Là. Ngang qua nhà anh chàng Vạn Lý, ngó thấy cửa nửa khép nửa mở, nhưng không dám đánh tiếng, e mất thời giờ vì còn dành cho việc săn ảnh...
Cứ thế, cả ba người đều mê mải tìm tìm, chụp chụp. Dẫu có mê đắm thì khi ngó mặt đồng hồ,cũng giật mình, í ới gọi nhau về xe, cắm đầu cắm cổ mà chạy thật nhanh, kịp về thành phố dự một tiệc chiêu đãi. Tới nơi, chậm cả tiếng, may mà tiệc chừng quá nửa. Bù lại, tôi và anh bạn đồng nghiệp tự nguyện xin nhận phạt chậm giờ, mỗi người cạn liền ba ly rượu. Lúc ngồi trên xe về đây, cảm xúc dâng trào xen lẫn sự tiếc nuối vì không có thời giờ để săn thêm ảnh, tôi đã chớp nhoàng làm bài thơ Cao nguyên đá đương xuân. Không những uống rượu phạt, tôi cao hứng đọc bài thơ này, thay lời xin lỗi và xem như giải thích cho sự chậm trễ đáng yêu của mình và người bạn đồng nghiệp...
Kể từ ấy, đã ba mùa xuân qua, tôi chưa có dip trở lại cao nguyên đá. Nhớ vùng đất địa đầu Hà Giang nhiều lắm, nhất là mấy địa danh Phó Báng, Phó Cáo, Sùng Là... 
Nhẩm bụng, xuân này, ra giêng, gắng thu xếp ngược nguồn trờ lại cao nguyên đá, theo lời nhắn gửi của anh chàng Vạn Lý, thì dịch dã lại ập đến. nên dự định khó thành hiện thực...
Những mong trời đất sớm yên hàn.
Xuân về rồi đấy, ơi Sủng Là, Phó Bảng, Phó Cáo, Lùng Phìn,... đào đã bung sắc hồng chưa ?...
 

 

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Chiều Ghềnh Ráng - 14.02.2021 11:03:08
Ý tường cuối năm,
Tản văn,
Những ngày giáp Tết, tự dưng nảy ý định làm TUYỂN TẬP THƠ LỤC BÁT của mình. Ý tưởng này bắt nguồn từ phác họa nhanh của nhà thơ Ngô Đức Hành nhân đọc tập thơ Xương rồng khô đã lên xanh của mình, đã nhặt ra một số câu lục bát mà gã thấy thú vị. Nghĩ thế, làm ngay, bén lọc ra từ khoảng 250 bài thơ lục bát trong 8 tập thơ của mình (7 tập đã xuất bản, 1 dự định xuất bản). bước đầu chọn 200 bài. Ra giêng ngày rộng tháng dài sẽ lược bớt đi...
Ngày cuối năm, thử đăng lại một bài lục bát làm từ tết Ất Mùi trong số những bài được chọn, xem ra vẫn phù hợp thời tiết ?... 

Cuối năm ta lại về quê,
Trước làm giỗ mẹ, sau về tuổi thơ,
Ruộng đồng tái dại bơ phờ
Mẹ đi từ bấy đến giờ... vẫn đây,
Vườn nhà đã mấy lần cây
Ngôi thờ tự mới sao tày công ơn,
Nhớ ngày mái rạ sân trơn
Cuối năm gió bấc từng cơn cả chiều,
Lui cui gom những thương yêu
Mẹ lo cỗ tết bao nhiêu cho vừa,
Bánh chưng, giò chả, rau dưa,
Chè kho, bánh mật vẫn chưa yên lòng,
Rồi ra, ngoài ngõ sân trong,
Mẹ thu lá cả mùa đông vun đầy,
Đốt lên đống rấm khói bay,
Nay ngồi nhớ, lại chợt cay mắt mình...

Mong là ý tưởng này thực hiện được trong năm Tân Sửu,
 
r
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.02.2021 04:45:38 bởi Ct.Ly >

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Chiều Ghềnh Ráng - 28.02.2021 14:33:54
Đọc lại Xem đêm của Phùng Cung,
  ( Tiểu luận văn học của Nguyễn Chu Nhạc )
          Những ngày xuân tháng giêng Tân Sửu, đúng thời điểm dịch Covid 19 bùng phát lại, cầm chân không du xuân lễ hội đâu được. Ở nhà, viết và đọc sách giải khuây. Tôi đọc lại tập Xem đêm của Phùng Cung.
          Số là, từ hơn chục năm trước, tôi đã tình cở mua được tập thơ Xem đêm lần xuất bản đầu và đọc thấy thích. Rất thích là đàng khác. Tôi đã viết tiểu luận  “Có một nông thôn trong thơ Phùng Cung”, gửi đăng báo. Sau đó, tôi phát triển thành chân dung văn học “Phùng Cung, người tôi chỉ biết qua thơ” (in trong tập Trời đất thu hay lòng ta thu, Nxb Dân trí 2016). Trong những lần đàm đạo văn thơ cùng bạn bè, nhiều lần tôi khen tập thơ Xem đêm, khiến mọi người tò mò mượn đọc, vì thế mà thất lạc. Tôi tiếc lắm. Trước tết Tân Sửu, tôi nhờ người quen mua được tập Xem đêm, bản mới do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành. Sách in đẹp và phần nội dung có thêm Phụ Lục với các bài viết của Phùng Quán, Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Cầm về thơ văn của ông, còn có cả truyện ngắn Con ngựa già của chúa Trình, mà vì nó Phung Cung đã dính án văn chương ngày nào...
          Đọc lại, vẫn nguyên cảm giác thú vị, nhưng đằng sau câu chữ, vấn điệu, còn thấy được ý tứ sâu xa về thân phận con người nói chung và thân phận với nỗi cay đắng riêng ông.
          Trong bài viết này, tôi không nhắc lại những gì đã nói, đã bàn ở các bài viết trước, như việc khắc họa một nông thôn Bắc bộ điển hình một thời xưa cũ khốn khó còn chưa xa; hay đâu như sự ngộ ra, để rồi tự an ủi, răn mình mang tính thiền định, kinh kệ nhà Phật,,,
          Ở đây, tôi muốn đi sâu tìm hiểu sự ám ảnh, hàm ý về một thân phận bị dập vùi mà vẫn gắng gỏi ngoi lên, loe lói sáng như muốn chứng ninh cho sự trong sạch của bản thân...; và không thể không nói đến một điểm mạnh, ấy là nghệ thuật ngôn từ và tạo dựng không gian thơ của Phùng Cung,
          1. Có lẽ, trong tập tho này, khó có bài thơ nào hàm súc, ám ảnh, ấn tượng hơn bài Trà: “Quất mãi nước sôi/ Trà đau nát bã/ Không đổi giọng Tân Cương”. Nó thể hiện nỗi niềm về thân phận, sự kiên định, ý chí, bản lĩnh và cả khao khát khẳng định sự thanh sạch của bản thân tác giả.
          Có thế thấy, hàm ý về nỗi niềm thân phận bị vùi dập, ý chí, bản lĩnh muốn khẳng định sự thanh sạch và khao khát vượt lên số phận ẩn giấu trong nhiều câu thơ, bài thơ...
Ví như: “Thánh thần ơi/ Phải đâu nhật thực triền miên/ Ngày tối hơn đêm/ Đêm-vó-ngựa/ Quỳ gối chống tay/ Vẫn còn sợ ngã/ Mặt đất quá cheo leo” (Đêm vó ngựa); “Thương cây đào ốm/ Xuân về chẳng nở hoa/ Lá gày run gió lạnh/ Cây cũng có thời vận ư?” (Cây đào); “Trời đất uy nghi/ Xanh vĩnh cửu/ Chim bay hình thánh giá muôn phương/ Cung tên tạo hình thánh giá/ Bắn con chim hình thánh giá tử thương” (Vĩnh cửu); “Phận lấm/ Tối ngày đào khoáy/ Lưng nắng-vẽ/ Hoa văn tiền sử/ Chài chãi đồng chiêm/ Mấy kiếp rồi” (Cua đồng); “Tổ tan/ Trứng mất/ Có trời biết vì sao/ Bỏ hót/ Chỉ kêu/ Mỏ run run rớm máu” (Con chích chòe); “Dông bão trẩy qua xóm nhỏ/ Giập gãy hết rồi/ Ngô độn chuối xanh/ Xì xằng qua bữa/ Kẻng thúc ngũ liên/ Săn kùng đào ngũ/ Chẫu mắt mù/ Nhìn-đóng-cọc vào đêm” (Giập gãy); “Trở giấc xem đêm/ Thiên hà ngọc vụn/ Gió thổi một mình/ Mặt đất tròng trành/ Ma hoa nhày múa” (Xem đêm); “Hệ lụy với tôi/ Là ăn là uống/ Miếng ăn miếng uống/ Hành hạ suốt đởi/ Mấy ai dám cả gan/ Đùa dai với đói khát” (Miếng sống); “Trái đất lênh đênh/ Chênh chênh mùa nắng/ Gió trĩu cành/ Tải bốn mùa cười khóc/ Sóng biển xanh/ Nát bóng hải âu” (Tâm tư);
Thậm chí, Phùng Cung còn cân nhắc. sắp đặt số phận mình, và cho cả cái chết của mình, nếu ông không được sống: “Vạn thuở hồn cỏ xanh/ Mặt đất thơ gắn bó/ Bất hạnh nào hơn/ Già rụi quê người” (Ăn năn); “Sống quá khó khăn/ Chết chẳng dễ dàng/ Tôi phải sống/ Hẳn rôi còn được chết/ Chết là chơi nốt/ Một trò chơi/ Mãn khóa hỗn sinh” (Trò chơi); “Mô hình tôi/ Một trẻ thơ/ Ngoạm củ ráy/ Đứng thẳng người trong xóm/ Quỹ đạo tôi/ Thư thái-loằng ngoằng/ Xó bếp-bở ao/... Khi tôi chết/ Tôi thèm cái lặng lẽ/ ... Nếu tái sinh/ Tôi chẳng ước ao gì khác/ Chỉ mong được như kiếp trước/ Xó bếp đói. No/ Bờ ao tắm mát/ Phận cánh cò/ Mưa-nắng-phong dao” (Thanh thản); “Nhập nhoạng đóm đèn/ Đêm chó mực/ Trạt mùi hạ nhục/ Già trẻ sụt sùi/ Ôm đầu số phận/ Cúi mặt nhìn ngang/ Nghe lanh chân nhang” (Đoàn viên)...
          Dẫu là “phận lấm”, dẫu có “xó bếp, bờ ao” hay “lênh đênh”, “ngày tối hơn đêm” di chăng nữa, thì với Phùng Cung, vẫn quặn thắt một nỗi đau đời-một khao khát vươn lên trên số phận: “Trăng qua song sắt/ Trăng thăm ngục/ Bỗng ta chợt tỉnh-sững sờ/ Trên vai áo tù/ Trăng và lụa/ Ngày xưa ơi!/ Xa mãi đến bao giờ...” (Trăng ngục); “Ai giùm tôi thủ tục làm vô tận/ Thỏa thích trải trời xanh cõi không cùng/ Tôi khao khát huy động/ Những chùm sao đẹp/ Đêm về lung linh chòm xóm nghèo sao” (Khát vọng): “Hỡi bầu trời/ Hãy rộng thêm nhiều nữa/ Để phi đoàn cất cánh/ Xếp đội hình thánh giá uy nghi/ Rộn rã chuông chiều/ Cất giọt mưa sa/ .../ Giải phóng những nếp nhăn/ Trên từng vầng trán hoài nghi” (Giải phóng); “Đêm khuya trằn trọc/ Tôi bắt gặp/ Mùa thiêng hoa chết/ Ngoại giới mưa bay/ Trong hồn tơi tả/ Trăng úa-đầy trời-lá rụng/ Không gian khát vọng khúc giải oan(Khát vong)...
          Chịu khó tìm nhặt, trong Xem đêm, vẫn đây đó những câu thơ hàm ý dạng này, nhưng tôi không sa đà, để khám phá nghệ thuật thi ca tài tình của Phùng Cung...
          2. Nghệ thuật thi ca của Phùng Cung, trong Xem đêm thật tài tính.
          Có thể nhận định một cách ngắn gọn nhất, ấy là sự chắt lọc câu chữ, ý tứ hàm súc, ám ảnh, ấn tượng, không gian sống động, đầy thanh âm, hình ảnh, sắc màu, hương vị và trạng thái cảm xúc...
          Chắc chắn, ngày ấy, Phung Cung và cả chúng ta, không một ai biết đến khái niệm 3D, song tài tình thay, mỗi bài thơ trong tập thơ này đều như một cuốn phim ngắn 3D. Tôi chọn một số bài thơ để minh chứng cho điều này: “Mặt trời hạ-thổ/ Núi-giội-chàm/ Đò chuyến cuối/ Nhìn nhau nhọ mặt/Sữa con so ướt yếm/ Thơm-mùi-khoai-luộc/ Dốc bến tối gà/ Đom đóm rối guồng-tơ-lửa/ Nghe đêm trung giang thả-gió-gọi diều” (Chiều soi bãi); “Sương chiểu nghe-lạnh bước chân/ Khách áo cũ/ Tìm về bạn cũ/ Ai đốt rác lá tre bên ngõ/ Lối đi dầy mùi khói-cuối-năm” (Khói cuối năm); “Chó sủa dông dài/ Giò chuyển canh/ Trái thị cuối thu/ Thơm mùi trăng-úa/ Ao khuya nước thở thì thầm” (Đêm cuối thu); “Thoảng mùi ruộng ải/ Thóc giống cựa mình/ Nắng vắt ngọn-tre-đuôi-én/ Đủng đỉnh điệu cu cườm/ Lạc nhịp-gió may” (Mùa gieo mạ); “Gió quẩn lùm ngỉa cứu/ Mùi ngộ cảm đầy vườn/ Chếch bóng chĩnh tương/ Con vằn say bả/ Hoa chuối tiêu lầm lũi/ tím Tam-giang” (Nôn nao); “Chó sủa làng xa/ Sủa gơn xóc ốc/ Sao diều ai hóc-gió/ ven sông” (Đêm ven sông); “Mảng rêu chiều nắng ghé/ mênh mông/ Con dế loanh quanh/ Tìm lại tiếng mình đêm trước/ Vườn hàng xóm ngổn ngang/ mùi khế rụng” (Chiều nắng ghé); “Oèng oẹc trời khuya/ Chim lợn xổ giọng hãi hùng/ Tôi nhìn sông/ Đầy ắp sao xanh/ Ngoằn ngoèo phun tím/ Lửa-hoa-đăng/ Rần rật rím-luân-hồi” (Sông đếm); “Mành rách gió lay/ Chim chích đu mình săn nhện/ Góc sân nắng hanh/ Lá mít rụng trờ mình-nghé bếp/ Chó hàng xóm/ Sủa cầm chừng vài tiếng/ Lỗi bước lên hè/ Guốc nằm chiếc ngửa chiếc nghiêng” (Nhà vắng);  vv ... vv...
Nhiều lắm, khó mà trích dẫn ra hết được. Bài thơ nào cũng kiệm lời, gạn đến mức cảm giác không có từ nào thừa cả. mỗi từ đều phải gánh một phần ý tứ. Về tư duy, hình thức thơ, có thể thấy, ở đây có sự kết hợp nhuần nhuyễn tính hàm súc, tinh tế, ý tại ngôn ngoại của Đường thi, phong vị thiền và sự chắt lọc của thơ Haiku Nhật Bản, lại gần gũi thân thuộc của tục ngữ, ca dao Việt Nam,
Phần lớn, các bài thơ trong tập này của Phùng Cung là thơ tự do, câu ngắn, ngắt dòng liên tục. và nhiều câu được ngắt nối bằng dấu ngang ( - ), giàu nhạc điệu. Có bài là lục bát, hoặc thơ dạng bốn câu, nhưng được ngắt dòng, nên mới mẻ và ấn tượng. Ở vào thời ký ấy, có thể thấy, Phùng Cung đã rất ý thức trong việc cách tân thơ.  
Ví như: “Trăng lên/ hàm tiếu/ thẫn thờ/ Nửa chững trăng xế/ Chịu giờ mãn khai” (Hoa quỳnh); “Này em!/ Cây khế gãy rồi/ Nỗi chua vẫn hỏi thăm/ Người trồng cây” (Cây khế); “Chút lòng dây gấm khăn điều/ Cảm thương cái nhện/ Chiều chiều giăng tơ/ Không gian đứt nối sững sờ/ Khăn điều dây gấm/ Ngẩn ngơ mấy chiều” (Giăng tơ); “Dáng gày-đầy đặn-trữ tình/ Thuyền au đậu bến Lan Đình/ Trăng xa/ Tử sinh lỡ một lần ba/ Ruột tằm đau/ Mối tơ thừa gió bay” (Trăng xa); “Lênh đênh muôn dặm/ nước non/ Dạt vào ao cạn/ Vẫn còn lênh đênh” (Bèo); “Sen vàng từ thuở lên ngôi/ Bâng khuâng du khách/ Ngậm ngùi vần thơ/ Cồng chùa nhện mải giăng tơ/ Chuông thiêng ngân mãi/ Tiếng thừa trong không” (Chùa Kim Liên); “Lá súng lát mặt ao/ đếm ngọc/ Con sộp phàm vồ bão/ bóng hoa lay/ Lá tre rụng/ Nhuộm hoàng hôn đỏ gạch/ Tiếng cuốc bèo da diết/ gọi ngày mai” (Ao con); “Bờ ao trưa gió lay lá cỏ/ Vang khẽ lời ru nhỏ xanh xanh***/ Cách cách giòn tan/ Con cào cào dội phách/ Khoe cánh điều/ Bay ngập nắng-bổ-cau” (Nắng bổ cau); “Cành xoan cu gáy đứng/ chào mùa/ Ung dung đổ lèo ba/ dõng dạc/ Mùi cơm mới/ Xoắn mùi cá kho nhạt/ Hoa cải thơm quấn quýt/ qunh làng. Một lũy thơm” (Lũy thơm),...
Đổi mới hình thức thơ trên nền tảng các thể thơ cũ bằng cách ngắt nhịp song vẫn giữ mạch thơ khiến người ta xem bằng mắt hay đọc bằng âm đều không thấy nhàm và vẫn dễ nhớ dễ thuộc.
Tuy còn chưa đi sâu phân tích nghệ thuật ngôn ngữ thơ, nhưng với bấy nhiêu thôi, tôi nghĩ, Phùng Cung đã có những đóng góp nhất định trong tiến trình đổi mới thi ca Việt Nam hiện đại !...
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 28.02.2021 14:37:24 bởi tamvanvov >

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Chiều Ghềnh Ráng - 23.03.2021 16:07:02
HOA GẠO THÁNG BA
(Tản văn)
 
Đã có lần, tháng ba, tôi lên Cao Bằng. Đi theo đường Lạng Sơn, qua Thất Khê rồi Đông Khê, khi về lại Bắc Kạn, Thái Nguyên. Đã cuối xuân, chớm hè. Những trận mưa rào sớm gột rửa bụi cho lá rừng. Lòng rạo rực rạng lên một màu hoa đỏ. Hoa trạng nguyên rừng, hay gọi theo cách gọi dân dã của bà con miền núi là hoa hàng rào, lấm chấm đỏ suốt dọc đường đi. Nhưng ấn tượng và mạnh mẽ hơn cả là màu đỏ của hoa gạo. Chợt nhớ rằng, người Tây Nguyên gọi loài hoa này là hoa pơ-lang, còn người miền núi đồng rừng phía Bắc gọi là hoa mộc miên. Lại nhớ có một bài hát về hoa mộc miên từ nửa thế kỷ trước vào cái thời quan hệ hữu nghị Việt Trung anh em cực kỳ nồng ấm: ” Mỗi khi qua rừng biên giới lại thấy hoa mộc miên nở … Mộc miên hoa ơi… “. Ngày nhỏ, tôi đã nghe mấy người chị gái mới lớn tuổi bắt đầu biết yêu, nghêu ngao hát bài hát ấy, chỉ thấy giai điệu thiết tha chứ nào có biết hoa mộc miên là hoa gì đâu… Cũng loài hoa đỏ ấy, cây gạo cổ thụ đầu làng tôi lại như một người lính gác ngày đêm đứng đó, đưa tiễn bao lớp trai làng lên đường ra mặt trận, hay ra đi lập nghiệp xứ người cho thỏa chí trai, rồi lại lặng thầm đón họ về dù họ thành công hay thất bại với sự bao dung chở che của xóm mạc. Năm lại năm, cứ mỗi độ tháng ba cây trổ những bông đỏ ối báo hiệu xuân qua hạ tới, khi công việc nhà nông cấy hái đã xong, đợi tháng năm thu hoạch mùa màng. Cây gạo biết bỏ qua những lời đồn đại của dân làng, của đám trẻ con theo kiểu thần cây đa ma cây gạo. Thân cây xù xì theo thời gian, và còn bởi đám trẻ đẽo gọt mắt gạo để làm những con dấu trò chơi. Rồi những hố hốc trên thân mỗi ngày một nhiều một sâu hoắm. Và cho đến một ngày nào đó cây gạo chết khô và người ta cưa thân trốc gốc. Mà chẳng riêng chuyện quê tôi, giờ đây nhiều làng quê không còn bóng gạo, không còn màu hoa đỏ chói mỗi tháng ba nữa. Nhớ lắm màu hoa đỏ ấy. Tôi cũng có dịp được ngắm hoa gạo ở chùa Keo (Thái Bình). chùa Thầy (Hà Tây), chùa Nôm (Hưng Yên) hay ngắm cả một dòng kênh hai bên rực rỡ hoa gạo đỏ ở miệt biển Hải Hậu-Nam Định. Và bao giờ cũng vậy, màu hoa gạo đỏ cũng đem lại trong tôi một cảm giác ấm áp,bình yên, no đủ !... Mấy năm trước là hoa gạo đỏ dốc đèo Pha Đin đường lên Điện Biên. Giờ là hoa gạo đỏ đường đèo Thất Khê, Đông Khê rồi Quảng Uyên, Trùng Khánh, nơi đồn biên phòng Đàm Thuỷ, chốt thác Bản Giốc…Tôi đã để ý, thấy mấy chiến sĩ biên phòng trẻ người miền xuôi lên biên giới làm nhiệm vụ, nhặt những bông gạo đỏ ném qua hàng rào trêu đùa mấy cô giáo cắm bản. Có một cái gì đó nhen nhóm rồi cháy lên !... ./.

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:Chiều Ghềnh Ráng - 10.04.2021 16:17:52
Người giăng lưới bắt chim ( 1)
                         
          Tôi muốn lấy tên một tập sách của ông để gắn vào tên bài viết này, không phải vì chơi chữ, đơn thuần bởi nó đúng với tính cách con người và ý đồ sáng tác của chính ông.
Ấy là Nguyễn Huy Thiệp !
Ông là ai ? Nhà đoản thiên tiểu thuyết, nhà tiểu thuyết, nhà viết kịch, nhà phê bình, nhà thơ ? Là tất cả các nhà ấy, theo tôi đều xứng đáng cả. (mặc dù có thể chính ông chẳng cần thế ).
Tôi muốn viết về ông, song khó quá. Khó bởi ông là một người quá nổi tiếng, không riêng ở Việt Nam, mà cả ra thế giới. Khó nữa, bởi đã có quá nhiều người viết về ông, nhất là Trần Đăng Khoa, thần đồng thơ đất Việt một thời và hiện người viết phê bình và chân dung văn học xuất sắc, đã lên tiếng. Và lại càng hãi hơn khi Trần Đăng Khoa cùng Thọ muối ( nhà văn Nguyễn Văn Thọ ) đã có cả cuộc đàm đạo dài hơi. Ở đấy, Trần Đăng Khoa loan tin rằng đã bắt mạch được Nguyễn Huy Thiệp, phát hiện ra ông nhà văn này mắc căn bệnh nói ngược, và còn xem đấy là ngón nghề của ông ta, như vậy bệnh này  thành thể mạn tính, có chữa cũng không khỏi được, nên cách tốt nhất là không phải kê đơn gì sất, để mãi cơ thể tự miễn dịch rồi khắc khỏi. Ha, thày lang băm này cũng tài ra phết.
Tôi nghĩ, mình có cách nhìn, cách hiểu của riêng mình. Cũng như ký họa người vậy. Bắt được thần thái người được ký họa hay không, vả lại khuôn mặt người ta, góc nhìn mỗi lúc mỗi khác chứ ? Rồi cũng con người ấy, trong mắt thiên hạ, mỗi người mỗi khác Vậy thì cứ viết. Gọi là chân dung văn học hay là gì gì cũng thế thôi.
Song trước tiên là cảm nhận về con người ông. Trong mắt ông, tôi chẳng là ai cả, chắc chắn là thế. Còn với tôi, ông là một người cầm bút đáng kính trọng (tôi thích từ đáng nể hơn). Nói tôi biết ông, đơn giản là tôi đã từng mò đến nhà ông ở Khương Trung cùng với nhà văn Văn Chinh, nhà báo Trịnh Bá Ninh và mấy anh ở toà soạn báo Nông nghiêp Việt Nam, khi ông mới nổi tiếng với dăm truyện ngắn gây chấn động văn đàn Việt Nam. Tuy nhiên, lần ấy ông vắng nhà nên chúng tôi chỉ chuyện trò xã giao với vợ ông và ngắm cơ ngơi vườn tược đơn sơ của ông. Và nó cho tôi cảm giác ông là một hàn sĩ ẩn dật, song tài năng xuất chúng, nhất là khi ấy, người ta tò mò nói về xuất thân hàn vi của ông, một anh giáo dạy môn phụ (lịch sử) ở đồng rừng Tây Bắc (nghe đâu là Trường cấp 3 Mai Sơn, Sơn La thì phải), rồi bỏ về thủ đô làm "thợ vẽ" ở Công ty Thiết bị và đồ dùng học sinh. Với làng văn Hà Thành dạo ấy, Nguyễn Huy Thiệp như một loài hoa rừng, ví như hoa anh túc hay một loài hoa hoang dại sặc sỡ và thơm hắc thế nào chưa rõ, nhưng lạ. Khác hẳn với lần ấy, sau này tôi cũng đã gặp ông đôi ba lần, toàn vào dịp giáp Tết Nguyên đán khi Báo Nông nghiệp Việt Nam tổ chức gặp mặt các cộng tác viên trong năm, nhất là những tác giả có bài in trong số tết. Để ý, trong mấy lần đó, giữa không khí ồn ào của bia ruợu, ông đều yên vị lẳng lặng, thỉnh thoảng trả lời một vài câu hỏi của ai đó, điềm nhiên vô sự. Tôi không phải là người nổi tiếng nên không biết cảm giác và sẽ ứng xử như thế nào trước đám đông, song quan sát ông, tôi thấy hình như ông cũng không  là người của đám đông thì phải. Ông như không tồn tại ở những chỗ đó, còn tự cao tự đại, xa cách hay không phù hợp thì tôi không rõ.
Tôi luôn có một cái nhìn về con người này, mà cảm nhận đầu tiên đã chi phối suy nghĩ của tôi về ông và cả sự nghiệp văn chương của ông, khi ông còn khuất lấp, chỉ qua một truyện ngắn tôi tình cờ đọc được trên Báo Văn Nghệ từ lâu lắm rồi. Đó là truyện ngắn Huyền thoại phố phường. Ngày ấy, tôi rất chăm đọc báo Văn Nghệ, nhất là văn xuôi, đơn giản chỉ bởi bản thân tôi cũng tập tọng viết được đôi ba truyện ngắn, được đăng trên Báo Người Hà Nội và phát trong chương trình Đọc truyện đêm khuya của Đài Tiếng nói Việt Nam. Phàm là tôi đọc rất kỹ, để xem xem cái mặt bằng văn xuôi, nhất là truyện ngắn Việt Nam mình cao thấp thế nào, và thực ra, còn xem người ta viết gì, viết ra sao, có thể học lỏm học mót được chút nào không. Thế đấy. Khi đọc Huyền thoại phố phường, chỉ ít dòng đầu tôi đã như bị một thứ ma lực mê dụ. Tôi đọc một mạch, bàng hoàng vì thích thú. Đọc chậm lại lần thứ hai. Vẫn thấy hay, và lần này, tôi đã đủ bình tĩnh để nhìn nhận xem nó hay ở chỗ nào và vì lẽ gì. Tôi nhìn tên tác giả. Nguyễn Huy Thiệp. Một cái tên lạ hoắc, rõ là mình chưa thấy bao giờ. Tự hỏi, thằng cha này là ai nhỉ, tôi lại phỏng đoán, hay là một ông đầu sỏi nào đó trong làng văn xuôi đốc chứng lấy bút danh viết theo lối mới ? Nhưng rồi tôi lại tự gạt bỏ, bởi dù mới chỉ tập tọng viết, song tôi cũng là con mọt sách từ nhỏ, tạp nham đông tây kim cổ đọc đủ, nên hiểu rằng với mỗi nhà văn, việc thay đổi bút pháp là không dễ chút nào. Thú thực, ngay lúc ấy tôi đã chợt nghĩ, không biết tay này đã viết nhiều chưa, song viết thế này thì chẳng bao giờ mình theo kịp được. Tôi buồn vui lẫn lộn. Vui vì làng văn mình xuất hiện một cây bút văn xuôi xuất sắc. Còn buồn vì mình mới thập thò định chen chân vào làng văn mà trên đầu đã có núi Thái Sơn như thế, có viết cả đời, lao lực với chữ nghĩa thì cũng chỉ lom khom dưới chân núi mà thôi.
Sau này, khi tiếng tăm nổi như cồn với hàng loạt truyện ngắn xuất sắc liên tục đăng đàn như :Tướng về hưu, Con gái thuỷ thần, Trương Chi, Chảy đi sông ơi, Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết, Những người thợ xẻ, Bài học nông thôn, Không có vua, Thương nhớ đồng quê, Muối của rừng  v.v... người ta hay nhắc đến truyện ngắn được xem như là con dấu son chứng nhận cho tài năng Nguyễn Huy Thiệp là Tướng về hưu, song với riêng tôi, ấn tượng nguyên sơ  chính lại là Huyền thoại phố phường. Quả là, Tướng về hưu xứng đáng là truyện ngắn xuất sắc, cũng như Con gái thủy thần sau đó vậy, nhưng nếu ai hỏi tôi thích nhất truyện nào của Nguyễn Huy Thiệp, tôi không ngần ngại mà trả lời, Không có vua. Còn là những gì nữa, ấy là Những người thợ xẻ, Bài học nông thôn, Thương nhớ đồng quê....
Nguyễn Huy Thiệp có biệt tài đóng dấu ấn của mình vào các nhân vật lịch sử, qua hàng loạt truyện như Trương Chi, Chút thoáng Xuân Hương, Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết, Nguyễn Thị Lộ, Mưa Nhã Nam, cũng như một số truyện ngắn sau này lấy cảm hứng từ người này, người kia ( Đưa sáo sang sông, Hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt ... ) . Ông có biệt tài khắc họa các nhân vật lịch sử từ góc nhìn khác, làm họ sống động hẳn lên, chứ không phải là các bức tượng chết cứng, khiến họ vừa là thần thánh vừa kẻ đời thường trần tục. Theo tôi cái khác người của Nguyễn Huy Thiệp là vậy.
 Tôi xin không bàn về lối kể chuyện, câu chữ, hội thoại của Nguyễn Huy Thiệp, bởi đã có quá nhiều nhà phê bình viết về những điều đó rồi. Tôi thì tôi phục sát đất, vì có chuyện hay không có chuyện, ông cũng phẩy vài nhát là ra ngay diện mạo, hơi hướng. Đấy là cái tài trời cho, tôi nghĩ thế, bởi chẳng có học hành, kiến thức, ai dạy dỗ mà thành thế được. Cái tài " phảy " của ông lan sang cả tiểu luận, phê bình. Vì thế mới có chuyện, Nguyễn Huy Thiệp phảy ra Đồng Đức Bốn, Nguyễn Bảo Sinh, Lê Kim Giao... Lẽ dĩ nhiên, họ cũng phải có gì thực chất của họ thì Nguyễn Huy Thiệp mới phảy ra được. Có bột mới gột nên hồ mà.
Tôi chưa được đọc kịch của ông, ngoài vở kịch chui là Mổ nhà văn, được người người ta lấy từ mạng xuống, phô tô lem nhem . Cũng tài lắm thay. Nghe phong thanh, thiên hạ cũng khen kịch của ông. lắm lắm.
Còn tiểu thuyết thì người ta lại chê nhiều. Tôi có đọc cả hai tiểu thuyết Tuổi hai mươi yêu dấu và Tiểu long nữ., cũng đều từ mạng internet. Không thật thích, song vẫn sắc sảo lắm thay. Ngôn từ, lối thoại vẫn đặc sệt chất Nguyễn Huy Thiệp. Lại nữa, ông vừa cho ra cuốn thứ ba, tôi đã thấy bày bán nhan nhan ở các quầy sách hạ giá hè phố, với cái tên và tranh bìa sặc mùi ba xu, Gạ tình lấy điểm.Tôi không tò mò đến mức tìm đọc, bởi cái tiểu thuyết ba xu ấy lấy cốt từ câu chuyện có thật xảy ra ở một đơn vị thuộc cơ quan tôi nên tôi không lạ. Còn xem văn chương Nguyễn Huy Thiệp ư, tôi cũng cóc cần vì cứ từ hai cuốn trước mà suy ra thôi. Nghe đâu, sách bán khá chạy. Báo chí gặp gỡ, viết bài nói về sự thất bại của Nguyễn Huy Thiệp trong thể loại tiểu thuyết và bù lu bù loa lên rằng, Nguyễn Huy Thiệp viết sách kiếm tiền. Nguyễn Huy Thiệp không tranh luận, cũng không vì thế mà ái ngại. Đơn giản bởi ông chủ trương vậy chăng? Tác phẩm nào cũng có đời sống của riêng nó, có thể sống dai và cũng có thể yểu mệnh ngay đấy, hoặc giả gây ồn ã chút ít rồi chết dần chết mòn. Không cần tất cả phải cùng được lưu danh muôn thuở. Đã từng có ức vạn bài thơ thời Đường, nhưng sống được đến thời đại của chúng ta ngày nay để mọi người ngợi ca cũng chỉ có ngần ấy thôi. Cũng như một cuộc chiến, để đi đến thắng lợi cuối cùng, phải có ngàn vạn kẻ bỏ xác lại chiến trường rồi khuất dần vào quên lãng mới có một chiến công rực rỡ ghi danh sử sách cho người này kẻ nọ. Ngay như hiện giờ, cái ông nhà văn Mạc Ngôn ( Trung Quốc ) liên tục cho ra một seri tiểu thuyết như Cây tỏi nổi giậnRừng xanh lá đỏTửu quốcSống đọa thác đầyTổ tiên có màng chânThập tam bộ, và sẽ là những gì nữa, song người ta chỉ còn nhắc tới vài tuyệt tác ban đầu của ông là Báu vật của đời ( Phong nhũ phì đồn ), Đàn hương hình mà thôi.
Tôi nghĩ không hề hấn gì, bởi Nguyễn Huy Thiệp có những truyện ngắn như Không có vua, Tướng về hưu, Những người thợ xẻ, Con gái thủy thân, Bài học nông thôn, Thương nhớ đồng quê... mang sức vóc của tiểu thuyết. Tiểu thuyết đâu cứ phải nhiều chữ.
Thú thật, dăm năm nay tôi ít đọc truyện ngắn trên báo. Các tập truyện ngắn cũng vậy. Riêng với Nguyễn Huy Thiệp, tôi luôn để ý, và dường như mỗi Tết nguyên đán, tôi thường mong chờ sáng tác mới của ông. Tôi không ưu ái gì ông, và ông cũng không cần điều đó. Đơn giản, tôi chỉ muốn xem xem giờ Nguyễn Huy Thiệp viết lách ra sao.
Giờ thì Nguyễn Huy Thiệp đang say với nghề mới, thợ vẽ. Chán kinh doanh nhậu nhẹt thì sang vẽ. Không biết rồi đây ông sẽ còn giở trò gì nữa? Tôi tin con người này chưa chịu yên vị. Chắc chắn là sẽ có thơ. Nguyễn Huy Thiệp đã từng đe thiên hạ rằng, đến khúc cuối của chặng đường đời, ông sẽ trình làng thơ, và khi ấy thì thây mặc thiên hạ bình phẩm, khen chê, bởi chó chết hết chuyện .
 
Song từ nay đến đấy vẫn còn dài lắm !... 
 

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( II ) - 23.05.2021 11:17:18
Người giăng lưới bắt chim ( III )

Trong số những bức chân dung nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, tôi ấn tượng nhất bức này. Không rõ tác giả là ai. Nguyễn Huy Thiệp cười hết miệng, mắt tít lại, gương mặt rạng ngời, xóa đi hết nét khắc khổ pha chút kiêu bạc thường nhật,... Nét hiếm thấy ở ông !?...
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp rời cõi tạm vào chiều ngày 20.3.2021, đúng cái ngày thế giới chọn là ngày HẠNH PHÚC. Mạng xã hội, báo chí đưa tin rầm rộ. Sau cơn đột quỵ vào cuối năm 2019, rồi những ngày ông nằm cấp cứu ở A9 Bạch Mai, cũng là những ngày cả thế giới náo loạn bởi sự xuất hiện bất ngờ của virus Corona tại Vũ Hán mà sau đó người ta đặt cho cái tên COVID, nhanh chóng lây lan cực nhanh khắp địa cầu, người ta những cầu mong cho ông hồi phục song vẫn nghĩ ngày ông ra đi mãi mãi chỉ được tinh bằng ngày bằng tháng,... Vậy mà ông cầm cự cả năm trời, ra đi sau cả người vợ tào khang sướng khổ một đời cùng ông, vốn khỏe mạnh và luôn chăm sóc ông chu đáo,
Tang lễ nhà văn Nguyễn Huy Thiệp được cử hành vào sáng ngày 24.3 (nhằm ngày 12 tháng 2 âm lịch) tại nhà tang lễ quốc gia số 5 Trần Thánh Tông (Hà Nội). Cánh chuyên bán vòng hoa ngay cổng nhà tang lễ kháo nhau, đám tang ông nhà văn gì nổi tiếng lắm, tha hồ mà bắn vòng hoa đây. Nhưng thực tế, đám tang Nguyễn Huy Thiệp không đông lắm, khác hẳn sự đông đúc chen chúc đám hiếu cha mẹ các quan chức hay doanh nghiệp lớn bởi ở đấy người đến viếng thi nhau thể hiện mình vì có mùi cầu lụy, nhờ vả trước sau. Còn tang lễ Nguyễn Huy Thiệp, chỉ có người thân, họ hàng, bạn hữu văn chương, người hâm mộ và cánh báo chí đưa tin, mặc dù có vòng hoa gửi viếng của ngài Thủ tướng Chính phù và vài ba quan chức cao cấp....
Tôi và mấy bạn văn chương tháp tùng nhà thơ Trần Đăng Khoa, Phod Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, Tổng biên tập Tạp chí Nhà văn và Tác phẩm vào viếng Nguyễn Huy Thiệp. Bức ảnh ông được treo trong tang lễ nghiêm cẩn, khác với các chân dung thưởng thấy, và gương mặt thi hài ông sau hơn một năm cầm cự chống chọi với cái chết cũng khác đi nhiều với thần thái suy tư khắc khổ trước đây. Điếu văn được nhà văn Nguyễn Quang Thiều, chủ tịch Hội viết và đọc trong lễ truy điệu Nguyễn Huy Thiệp cũng đã gây xúc động và ấn tượng mạnh, nhằm tôn vinh cho cả người chết và người sống...
Có một điều, tôi để ý, nơi sân chờ nhà tang lễ, các nhà văn, nhà thơ già trẻ các thế hệ đủ cả. Mọi người gặp nhau, tay bắt mặt mừng có, khen nhau vượng khỏe có, hay rì rầm buồn buồn chuyện nọ chuyên kia có. Một ai đó bảo, cứ nhìn thầy mặt nhau, điểm tên, được bắt tay nhau thế này là mừng rồi. Cuộc đời vô thường lắm, biết đâu nay mai trời gọi tên ai đó... Ngẫm cũng phải, tuổi ngoại thất thập. văn chương tai hoa đến đâu thì cũng hết tuyết cả rồi, như than để ngoài mưa cả thôi. Còn sống trên cõi đời này, khỏe mạnh an vui là nhất, văn chương hay dở mà làm gì ?... Thế giới mạng giờ khác xưa lắm, đi đâu, làm gì, như đi lễ chùa, đi du lịch, hội họp, ăn nhậu, tụ bạ, cưới hỏi, đều chụp ảnh, check-in nuôi Phây cái đã, mà khi đi đám ma người ta cũng vậy. Thế nên, ở đám tang Nguyễn Huy Thiệp, các văn nghệ sĩ nhà ta cũng tranh thủ thăm hỏi, chụp ảnh chẹck-in rôm rả, chứ mấy ai quan tâm đến người nằm xuống... Nghĩ cùng là chuyện thường, chằng đấng trách,...
Trở về sau đám tang nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, tôi rẽ vào uống trà tán gẫu với người bạn thân Gia Hoang chuyên bán thuộc Tây ở chợ Giời. Người bạn cùng lớp đại học với tôi này là người yêu văn chương chữ nghĩa. Giừ hành nghề bán thuốc Tây, nhưng trong lúc rảnh rỗi, rất chịu khó đọc sách báo. Người ở thời đại công nghệ 4.0 bây giờ mà ngày ngày đro kính, thâm chí dùng cả kính lúp trợ giúp, chúi mặt vào sách báo như ngươi bạn tôi đây là hiếm có. Kiến văn của anh bạn Gia Hoàng rất khá. Phạm cái gì thuộc về lịch sử và văn chương,bất kể thơ phú, văn xuôi như truyện ngấn, tiểu thuyết, tản văn, bút ký, chân dung văn học hay phê bình tiểu luận, đọc tuốt, là để thưởng thức và bồi bổ kiến thức bản thân thôi. Gia Hoang cũng là bạn đọc hâm mộ Nguyễn Huy Thiệp. Chúng tôi đã từng cùng nhau bình phẩm mỗi truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp mỗi khi nó được đăng tải trên báo chí những năm qua. Giờ đây, chúng tôi lại nói về Nguyễn Huy Thiệp và những tác phẩm của ông. Hai đứa tôi, cùng nhau nhắt ra, gom lại xem Nguyễn Huy Thiệp có bao nhiêu truyện ngắn thuộc hàng thượng thặng. Kể đến những cái tên: Không có vua, Huyền thoại phố phường, Tướng về hưu, Con gái thủy thần, Những người thợ xẻ, Bài học nông thôn, Thương nhớ đồng quê, Muối của rừng, Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết, Chảy đi sông ơi, Trương Chi, Nguyễn Thụ Lộ, Mưa Nhã nam, Sang sông, Giọt máu, Chút thoáng Xuân Hương, Đưa sáo qua sông, Hạc vừa bay vừa kêu tháng thốt,... Độ hai mươi truyện xuất sắc. Có lẽ thế thôi, cũng nên?
Phê bình văn học của Nguyễn Huy Thiệp, đáng kể có Giăng lưới bắt chimTrò chuyện với hoa thủy tiên. Còn tiểu thuyết của ông, thú thực tôi không thích,... Cái kịch Mổ nhà văn, tuy ám chỉ ai đó, nhưng quả là rất thú vị. bởi ở đấy vừa thâm thúy, vừa bùng nổ, phun trào của sự nín nhịn, kim nén lâu ngày...
Chợt anh bạn Gia Hoang hỏi tôi: "Vậy văn xuôi Việt Nam hiện đại, ông thích ai nhất?". Câu hỏi đột ngột, nhưng tôi trả lời tắp lự: "Trước có Nam Cao, sau là Nguyễn Huy Thiệp.", Tôi nói vậy, không có ý xếp trên dưới mà đơn thuần chỉ theo trình tự thời gian xuất hiện và sáng tác của hai nhà văn tài danh này. Tôi không coi ai hơn ai, họ ngang bằng nhau, mỗi người mỗi vẻ mỗi hay riêng. Bái phục tài hai vị nhưng đọc Nguyễn Huy Thiệp hấp dẫn hơn,...
Rồi tôi và anh bạn Gia Hoàng lại cùng nhau kể tên các cây bút văn xuôi hiện đại xứ ta mà theo cách thẩm của chúng tôi, họ ít nhiều có những tác phẩm để đời, như Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Vũ Bằng, Kim Lân, Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Đỗ Chu, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khắc Trường, Nguyên Ngọc, Lê Minh Khuê, Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài và Trần Đăng Khoa.
Tạm dừng ở đấy vì chưa kể tiếp được !...


tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( II ) - 12.06.2021 16:29:55
Miền xanh thẳm chân mây
Truyện ngắn của Nguyễn Chu Nhạc
1.
Hoài lang biền biệt đêm trường
người đi bao nỗi dặm đường, sá chi
xông pha gươm giáo kể gì
sao đành, người ở chia ly cõi lòng,...
        Những câu thơ váng vất trong ý nghĩ...
        Chiều nay. Minh trĩu nặng tâm tư,
        Thấm thoắt, anh vào vùng Bảy Núi này đã ngót năm,...
       Cứ chiều chiều, lúc nhập nhoạng tối, khi đàn dơi loạng choạng chao trên vòm cao mấy cây xoài cổ thụ, thì dàn cát-xet của một gia đình trong khu tập thể cơ quan lại vang lên, hết ỉ eo những bài hát nhạc vàng rồi sang nỉ non vọng cổ. Nghe mãi, chẳng buồn để ý, vô thức mà thành thuộc. Minh sở thích chèo cổ, ghét cải lương vọng cổ, nhưng riêng bài Dạ cổ hoài lang thì anh không thể làm ngơ. Từng chữ từng lời, thấm dần vào anh từ lúc nào không hay "Từ là từ phu tướng/ Bảo kiếm sắc phong lên đàng/ Vào ra luống trông tin chàng/ Năm canh mơ màng/ Em luống trông tin chàng/ Ôi gan vàng quặn đau í a/ Như chim trời lẻ bạn... chim bay về... nơi vô định/ Trời xa đất lạ trong mây khói mịt mùng/ Kiếp giang hồ mỏi gót phong sương/ Một chiều qua bến lạnh bỗng nhớ tới một người...". 
        Minh nhớ mẹ và nhớ Nguyệt. Sâm sẩm nhớ mẹ, khuya là nhớ em. Anh mang máng nhớ một câu thơ của ai đó vì nó đúng với tỉnh cảnh của mình . Nhập nhoạng, khói lam chiều khiến anh nao lòng nhớ mẹ. Nhớ bóng mẹ ra vào, dáng mẹ ngồi bên bếp lửa với chiếc que cời bếp rơm luôn tay. Nhớ hình bóng mẹ tựa của, rồi chậm rãi ra đóng cổng lúc sẩm tối, mẹ biết lại thêm một ngày nữa con trai mẹ mãi chân trời phương Nam chưa thể về với mẹ... Đêm khuya khó ngủ, anh cồn cào nhớ Nguyệt, nhớ những lời thầm thì và những cái hôn cháy bỏng của Nguyệt trước lúc chia tay, tiễn anh hành phương Nam. Anh thầm phỏng đoán, Nguyệt ngủ chưa hay vẫn đang cặm cụi soạn giáo án, hay mải chấm bài của học sinh. Anh lại thầm hỏi, Nguyệt có đang nhớ tới anh không khi cô cũng một mình ở ngôi trường giữa đồng chiêm trũng xa thủ đô hơn trăm cây số ấy.. Anh trằn trọc không ngủ được, vì nhớ, vì trời phương Nam mùa khô oi nóng. Cố nhắm mắt cưỡng ngủ thì đầu anh lại mường tượng cái nghĩa địa với mấy ngôi mả mới gần ngay cửa sổ phòng ở của anh, chỉ cách một hàng rào cây lá rậm rạp kia thôi. Anh vùng dậy, đóng chặt cửa sổ, nằm im, ý nghĩ miên man và chìm đi... 
2.
Một trông mong vạn chờ mong, 
chẳng thà cứ gái chưa chồng cho cam
sông kia dằng dặc trời Nam.
nước mây vời vợi ai làm cho đau,...
Minh nghe vẳng vằng một giọng nữ đọc thơ., không xa mà cũng chẳng gần, như đâu đó trong khu vườn thôi. Anh ngơ ngác "Ai dấy? Ai vừa đọc thơ đấy?". Giọng nữ cất lên rất gần khiến anh giật mình "Ta đây... ở gần ngươi thôi... nhưng ngươi không thấy đâu,... Ta cho ngươi mấy câu thơ ta vừa ngâm để chắp nối với câu thơ mà ngươi ngâm nga chiều nay...". Minh cố trấn tĩnh để không lộ vẻ sợ hãi "Nhưng bà... bà là ai? ... Sao lại biết tôi làm thơ?... Sao lại tặng thơ bà cho tôi?,...". Giọng nữ khẽ cười "Ngươi không biết ta đâu... Ta sống trước người những hơn hai trăm năm ... Thơ ta vừa đọc ngươi cứ nhận lấy. nối tiếp vào thơ ngươi cũng hợp cảnh hợp tình đó...". Nói rồi, giọng nữ cất lên đọc liền hai khổ thơ với nhau, câu cuối như nghẹn lại trong nước mắt. Minh nghe rưng rưng, quên cả sợ, tự cảm thân quen, muốn trò chuyện: "Thì bà ... cũng nên hiện hình tỏ dung nhan .. hay cho biết quý danh để mà thưa gửi chứ ạ ?...". Giọng nữ nhẹ nhàng, có chút ân cần "Ngươi thật biết phép tắc,... và cũng hết sợ rồi đấy nhỉ,". Cười ôn hòa "Cứ từ tốn, trước sau thì ngươi cùng biết thôi... Ta đến gặp ngươi thế này chẳng phải để chơi đâu ... ắt phải có chuyện để nói chứ...".
        Minh cố căng mắt, ngó nhìn quanh quất hòng nhận diện ngươi đang nói chuyện với mình, nhưng chẳng thấy gì ngoài thứ ảnh sáng nhờ nhờ như sương đục, loáng thoáng hình bóng những cây xoài, cây dừa, vú sữa, mãng cầu vẻ quen quen. Không khí tĩnh lặng, Minh bỗng sợ, lên tiếng: "Bà... ba ở đâu rồi?". Giọng nữ cười nhẹ: "Ta vẫn ở đây... Ngươi nhìn kỹ chưa? Có thầy ta không? Thấy gì quen không?". Minh e sợ "Không thầy bà... chỉ thấy cây cối quen quen thôi...". Cười to "Đã bảo mà... thì cây cối trong vườn hàng ngày... người đi dạo, quét lá khô nấu bếp, rồi leo trèo hái quả cả năm nay. không nhận ra sao được... Ta cho người biết, cả khu vườn này có mười tám cây vú sữa, hai mươi bảy cây dừa và bảy mươi hai cây xoài các loại, thêm ít cây lặt vặt khác ta không tính...Ngươi không tin, mai đếm thử xem...". Minh vẫn nghi hoặc "Vậy là...ta vẫn đang ở trong khu vườn của cơ quan tôi hay sao?".  Hạ giọng "Thì đúng thế ... Thực ra, ta chính là chủ nhà. Ta ở đây từ hai thế kỷ rưỡi nay... còn ngươi mới là khách. Ta nhớ, ngươi đến sống ở đây còn chưa đầy năm kia mà...". Minh ú ớ vâng dạ. Giọng nữ khẽ cười: "À, ta nhớ... người có mấy lần giẫm lên nóc nhà ta để bám cành đu mình leo lên cây xoài cát cổ thụ ở vườn sau ấy...". Minh ớ người cãi "Nhà nào nhỉ ?... Có nhà nào ở vườn sau đâu? ... Tôi giẫm lên nóc nhà bà hồi nào? ". Cười trêu "Người cũng giỏi cãi nhỉ... Chẳng lẽ ta đổ oan cho ngươi sao.... Ngươi thử nhớ lại đi... Không tin, sáng mai, người ra gốc cây xoài cổ thụ vườn sau, tìm xem thấy ở đấy có gì không? Chớ vội cãi ngay thế... ". Minh nghi hoặc, chợt nhớ ra điều gì, vôi kêu lên "Bà này, tôi nhớ hình như là..." Giọng nữ cắt lời, nghe xa vọng lại "Ta có việc đi đây... Hẹn gặp ngươi sau... Cứ suy xét cho kỹ đã... Rồi ngươi cũng sẽ biết về ta thôi.". Minh níu lấy "Nhưng tôi đã mạo phạm... thì sao ạ"...". Cười xa xôi "Chớ lo... Ta tạm tha cho ngươi cái tội mạo phạm giẫm đạp lên nóc nhà ta... Yên tâm và đợi khi ta quay lại...". Minh vẫn chưa chịu "Nhưng bà cũng phải gợi chút... thì tôi mới biết lối mà tìm... chứ mù mịt thế này tôi chẳng biết manh mối ra sao,... tìm đến bao giờ? ", Lại cười "Ngươi thật nhiều chuyện... Dạ cổ hoài lang, ngươi rõ rồi đấy... nhà ông Cao Văn Lầu ấy nói hộ nỗi lòng của người vợ đợi chồng phu phen lính tráng thời tao loạn binh đao ở vùng đất này ,... Sống chết gan tấc biết khi nào về mà chờ đợi cơ chứ... Ta xưa cũng là người cùng cảnh ngộ... Chợt thấy ngươi thương cảm thành thơ mà hiện về nói với ngươi đôi ba câu... Ngươi là người đọc sách, hẳn biết về trận Rạch Gầm Xoài Mút năm xưa, quân Tây Sơn đại phá liên quân Xiêm Nguyễn... Thôi, ngươi chịu khó đọc lại sử sách tỉ tường... Đợi lúc ta quay lại còn có cái để mà nói chuyện. Ta đi đây....".
        Minh choàng tỉnh, ngồi phắt dậy. Bàng hoàng, định thần. Người vã mồ hôi ướt đẫm. Nhìn ra cửa số phía trước nhà, lờ mờ. Trời sáng giăng suông,...
3.
        Đêm ấy, Minh thấp thỏm không ngủ lại được nữa....
        Nghĩ miên man, điểm lại từ ngày anh chào mẹ khoác ba lô hành phương Nam. Chuyến đi bị bão hoành hành, đường qua miền Trung ngập nước, rồi núi lở, làm đoàn tàu lúc chạy, lúc dừng, lúc tăng-bo, nhếch nhác cả tuần mới tới Sài Gòn. Nhóm mấy người cùng đoàn chia tay nhau ở Xa cảng Miền Tây, kẻ Bạc Liêu, Rạch Giá, Đồng Tháp, còn Minh và một người bạn nữa thì An Giang. Vất vưởng mấy ngày ở Long Xuyên rồi hai người bọn Minh được điều đi Bảy Núi, vùng xa xôi khó khăn nhất của tỉnh. Những tưởng có hai người với nhau đỡ buồn chán và đỡ đần nhau lúc khó khăn thì người bạn kia nhớ vợ con ngoài Bắc, thở ngắn than dài. được vài tháng bỏ cơ quan ra Bắc và không quay trở lại nữa. Còn lại một mình, Minh gắng cầm cự. Nửa năm qua đi, anh dần quen với nhịp sống vùng đất mới.
        Cơ quan đóng tại một khu nhà vườn rộng chừng gần hec-ta, rợp xanh bóng dừa, xoài, vú sữa, mãng cầu xiêm... Nghe nói, chủ cũ của khu nhà vườn này chạy sang Mỹ định cư thời điểm kết thúc chiến tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước năm 1975. Khi chiến tranh biên giới Tây Năm xáy ra, quân Khmer Đỏ lấn sang gây ra vụ thảm sát Ba Chúc, quân ta dổn về đây, từng lấy khu nhà vườn này làm nơi đóng quân. Kết thúc chiến tranh biên giới, khu nhà vườn đổ nát hơn, Nhà nước trưng dụng làm cơ quan của huyện, xây thêm vài căn kiếu nhà tạm để có chỗ làm việc. Phía ngoài có vài hộ gia đình nhân viên ở. Phía trong, duy nhất Minh ở lại cơ quan và một cậu thủ kho vật tư người địa phương, tuần ngủ lại vài ba buổi lấy lệ. Ở đây, được cái, mùa nào cây trái ấy, Minh tha hồ ăn, thích gì lấy ăn. Lâu lâu, đám công nhân trạm máy kéo cơ khí hết mùa cày ruộng, về bảo dưỡng máy thì đông vui hơn chút. Thế nên, buổi tối cơ quan hoang vắng, khiến Minh thấy sờ sợ. Dân sống quanh đây đồn là khu nhà vườn có ma, khiến Minh ngại đi chơi tối.
        Sáng trở dậy, Minh dạo quanh khu cơ quan, rồi lượn về vườn sau, nơi có mấy cây xoài cát cổ thụ. Nhìn quanh, vạch cỏ dại, anh tìm thấy đám đất mấp mô lẫn gạch xây chẳng ra hình thù gì. Minh gai người, nhẩm bụng, đoán mò nơi đây từng có một ngôi mộ hoặc miếu thờ cổ nào đó. 
        Nhớ lời người đàn bà gặp trong mơ, Minh bắt đầu tìm hiểu về lịch sử vùng đất. Chuyện tiên chúa Nguyễn Hoàng xưa nghe lời khuyên của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm "Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân", xin chúa Trịnh Kiểm bỏ xứ Bắc vượt Đèo Ngang vào trấn thủ Thuận Hóa từ năm 1558 thì Minh biết, nhưng trải mấy trăm năm qua chín đời chúa Nguyễn đến Nguyễn Phúc Ánh, mở mang bờ coi phía Nam vào trấn Gia Định và châu thổ Cửu Long giang, Chân Lạp xưa thì anh không mấy tường. Việc tìm tòi sách vở và tra cứu tài  liệu cũng không dễ chút nào. Lần mò rồi Minh cũng tìm được nguồn tài liệu từ những cuốn sách sử in trước năm 1975 của một người quen ở Sài Gòn. Lịch sử triều Nguyễn mở ra trước mắt anh, nhất là thời kỳ cuộc khởi nghĩa Tây Sơn nổ ra, công cuộc chinh phạt phương Nam của ba anh em nhà Tây Sơn và cả hành trình gian truân nguy hiểm để phục quốc của chúa Nguyễn Ánh. Minh chú tâm đọc kỹ phần viết về trận Rạch Gầm Xoài Mút, quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy tài ba của Nguyễn Huệ đại phá liên quân Xiêm-Nguyễn, xem có gì đặc biệt mà người đàn bà xuất hiện trong mộng mị. nhắc đến... 
        Ngày xưa, tháng Chạp năm Giáp Thìn sang Ất Tỵ, giao năm 1784-1785, trên khúc sông Tiền, Mỹ Tho từ Rạch Gầm đến Xoài Mút, dài chừng 7 cây số, nơi lòng sông rộng, lại có cù lao. thích hợp cho việc ém quân để quân Tây Sơn bố trí trận địa. Liên quân Xiêm-Nguyễn mắc mưu quân Tây Sơn nhử đến trận địa này, bị phục binh Tây Sơn chặn cứng hai đầu, dồn ứ lại, làm mồi cho hỏa pháo Tây Sơn tiêu diệt. Chỉ trong  vòng một ngày, Nguyễn Huệ chỉ huy quân Tây Sơn phá tan và tiêu diệt gần 5 vạn liên quân Xiêm-Nguyễn. đông gấp đôi quân mình. Hai tướng Xiêm là Chiêu Tăng và Chiêu Sương cùng đám tàn quân thoát chết chạy ngược lên đất Quang Hóa (nay là Tây Ninh) sang đất Chân Lạp để về Xiêm La. Còn Nguyễn Ánh thì cùng đoàn tùy túng phò tá tháo chạy khổ sở đói khát, đến nỗi tướng Nguyễn Văn Thành phải đi cướp của dân lấy miếng ăn cầm hơi, đến nỗi bị dân đánh trả mà trọng thương. Gần năm ngàn quân còn lại chưa đây một ngàn, tan tác cả, phần chạy theo quân Xiêm, nhúm quân theo Nguyễn Ánh chạy dạt về cuối đất, trốn ra đảo Thổ Chu. May mà quân Tây Sơn đuổi theo bị bão biển đánh tan thuyền nên Nguyễn Ánh thoát nạn, bôn ba nhiều năm, chờ thời cơ nhà Tây Sớn có biến, lấy lại cơ đồ...
        Minh cứ ngẫm nghĩ, mảnh đất khu nhà vườn này chắc liên quan gì đến quan quân chúa Nguyễn thời nhà Tây Sơn chinh phạt vùng châu thổ này. Nhưng lịch sử đâu có chi tiết đến mức có thể tra cứu rõ được. Đành chơ cơ duyên thôi. 
4.
        Đầy năm, Minh nghỉ phép, ra Bắc. Lần đầu tiên, anh cảm nhận được niềm vui. niềm hạnh phúc của kẻ xa nhà về cả khoảng cách và thời gian  khi gặp lại mẹ và người yêu. Già nửa tháng. Minh tính toàn, phân bổ sao cho hợp lý để ở bên mẹ, giúp mẹ làm việc nhà với thời gian dành cho người yêu đang dạy học ở một trường xa dăm chục cây số. Trong niềm vui thường nhật những ngày bên mẹ và gần người yêu, nhưng ẩn chứa trong sâu xa, Minh lại thấy nhớ miền Tây sông nước, nhớ khu vườn xanh um cây trái, vắng vẻ và chập chờn ma mị ấy. Chẳng gì, anh cũng đã có bao chiều cô đơn, bao đêm hoang hoải, mất ngủ vì nhớ Bắc và sợ bóng tối. Con người ta lạ thế đấy, vui quá và sợ quá đều đem đến sự ám ảnh khôn cùng. Kỳ nghỉ gần hết, Minh bỗng thấy ngại khi nghĩ đến việc phải trở lại khu vườn ma mị sống tiếp những ngày khắc khoải, những đêm say để ngủ cho quên nỗi sự, những phút giờ hoang vắng đếm tiếng tắc kè tặc lưỡi bóng tối. Minh phân vân khi mẹ bảo ở lại thêm, còn người yêu thì nhắc nhở rằng chậm phép có thể bị cơ quan kỷ luật vì tội vô tổ chức... Nhưng rồi, Minh cũng dứt ra được, trả phép tuy có chậm ít ngày. Thấy anh ba lô trở vào, ông trưởng phòng người địa phương cười đùa "Tưởng cậu ở luôn ngoải... Vô lại thế này là được rồi... Có vợ chưa? Sao không đưa vô đây... tớ nói với Ủy ban huyện cấp cho miếng đất cập lộ, cất cái nhà tạm, chồng làm cơ quan, vợ mần buôn bán vặt. ... Sống khỏe à...".  Minh cười cầu tài cảm ơn. Không nhắc nhở, kỷ luật gì là ổn rồi. 
          Mấy nhà người quen, diện chồng Nam tập kết lấy vợ Bắc, thấy Minh vào lại, hè nhau nhậu, bảo là để mừng anh không đào tẩu. Buồn vui lẫn lộn, Minh quá chén say đứ đừ, thập thõm gắng gượng  khuya về đến phòng, đổ ập xuống giường, say ngủ mê man... 
       Dưới gốc dứa, hóng gió mát, Minh ôm cây ghi ta bập bùng. Anh lựa gạm thử mấy nốt theo một điệu vọng cổ, chợt nghe giọng đàn bà "Đàn này không hợp đâu, phải dùng đàn phím lõm kia.". Minh giật mình, ngừng bặt "Ôi, đúng là bà rồi... Tôi vẫn nhớ giọng bà mà...". Cười nhẹ "Vậy là người vẫn nhớ, khen cho ngươi... Về quê vui chứ?" Minh ngạc nhiên "Quê nào... Tôi vừa nghỉ phép ra Bắc ít ngày... ". Cười thành tiếng "Quê đấy chứ đâu... thăm mẹ thăm vợ thì hẳn vui lắm nhỉ". Minh cãi "Mẹ thì đúng rồi, nhưng ... bạn gái thôi, tôi đã cưới đâu mà vợ ?".  Giễu cợt "Ngươi chưa cưới vợ, ta biết.... nhưng ăn nằm với người ta thì cũng nên coi người ta là vợ... thế lấy của người ta cái ngàn vàng rồi định bỏ người ta à ?...". Minh cứng họng ú ớ "Sao... bà cũng biết à ?". Cười nhạt "Thì ta là ma... dương gian các người hay bảo, biết ma ăn cỗ lúc nào... nhưng ma lại biết rõ các ngươi ăn cỗ thế nào kia đấy". Cười ma mãnh, Minh ớn lạnh cả người "Tôi yêu cô ấy, muốn cưới làm vợ...". Vẻ chân thành "Ta tin ngươi thật bụng... nhưng đời còn dài mà... lòng người dễ thay đổi". Im lặng một lúc. Người đàn bà "Ta đến đây không phải để chuyện yêu đương của ngươi... Thế ngươi đã biết sử sách bao nhiêu rồi ?" . Minh hào hứng "Không nhiều, nhưng cũng đủ biết về trận Rạch Gầm Xoài Mút, nhà Tây Sơn đại phá 5 vạn quân Xiêm-Nguyễn,... biết chúa Nguyễn Phúc Ánh chạy dài trốn chui trốn lủi ra đảo Thổ Chu thế nào...". Mỉa mai "Người có vẻ đắc ý nhỉ...  Ai dạy dỗ ngươi mà cao giọng vậy... làm được vài câu thơ mà giọng đầy thiên kiến vậy... Lịch sử vốn không thiên vị ai...", Minh hăng lên "Tôi không thiên kiến, rõ ràng nhà Tây Sơn, nhất là Quang Trung Nguyễn Huệ, đệ nhất anh hùng, ra Bắc dẹp Trịnh, vào Nam đuổi Nguyễn, trước quét sạch quân Xiêm, sau đại phá  quân Thanh... Thử hỏi, trời Nam xưa nay có ai bằng? ...".  Cười mỉa "Ta phận đàn bà, không bàn việc nước... ôm nỗi lo riêng, ở nhà phụng dưỡng cha mẹ, chăm con trẻ, đêm đêm nghe mưa nhẩm thời khắc chợ đợi chồng mòn mỏi nơi chiến trận, nén lòng ham muốn giữ đạo phu phụ, khi chồng chết trận lại thủ tiết thờ chồng nuôi con khôn lớn... ngần ấy thôi đã khô héo thân xác, úa nẫu tâm hồn rồi... ngươi bảo dễ lắm à... vòm trời này sao lại đổ hết bao nỗi cơ cực lên đầu người đàn bà làm vậy ?...". Minh nghe lòng bùi ngùi "Bà nói cũng phải... hỏi ông giời  hà cớ  gì bắt tội người đàn bà... ? ". Cười to "Ta than thở với ngươi nhiều cũng phí  công. Người thích lý sự thì nghe ta bàn đây... Này nhé, ba anh em nhà Tây Sơn, khởi thủy là giặc cỏ, có thấy nhà Nguyễn ta từ tiên chúa Nguyễn Hoàng vâng lệnh vua Lê, vượt đèo Ngang trấn thủ xứ Thuận Hóa, rồi trải tám đời chúa. mở mang bờ cõi trời Nam, thu phục Chăm-pa, Chân Lạp, mở nửa giang sơn Đại Việt này, ấy là công lao to lớn.... Nhà Tây Sơn kia nổi lên, chẳng qua cũng là tham vọng tranh đoạt thiên hạ, người Việt tàn sát lẫn nhau.... Nhờ việc phá Xiêm, đuổi Thanh mà trời đất dung thứ, lòng người biết ơn nên sử sách ghi công đó... Ta nói vậy, chẳng hay ngươi có ý gì khác? ". Minh ầm ư "Bà nói thế cũng đúng... Chẳng hay, bà xưa kia cũng thuộc người nhà chúa nên mói gọi nhà Nguyễn ta...?".  Người đàn bà ôn tồn "Ngươi tinh ý đấy... Ta không phải người nhà chúa, chỉ là, chồng ta cùng họ với nhà chúa... vả lại nhà ta đôi bên đều gốc dân Thanh Nghệ cả. Ngày trước, Trịnh Nguyễn phân tranh, nhưng lần quân chúa Nguyễn vượt sông Gianh lấn đất Bắc, chiếm làng bắt dân vùng Thanh Nghệ cũng đâu có giết chóc ai, chỉ vì hiếm người mà đất lại rộng, bắt dân cả làng, cả tổng đưa vô trỏng an dân khai mở đất hoang dần về phương Nam. Dân lúc đầu không hiểu, có phần oán thán vì phải rời bỏ quê hương bản quán, nhưng ngẫm kỹ ra lại hóa hay, được yên ổn làm ăn nơi đất mới mà sinh ơn... Cái gì cũng có hai mặt, chắc ngươi hiểu rõ ?" Minh thỏa mãn "Bà cũng thấy được đạo lý của nhà Tây Sơn... thế còn bao việc khác nữa chứ ?...". Cười nhạo "Ta chỉ thấy có vậy thôi.... nhà Tây Sơn chưa thành, anh em đã nghi kỵ lẫn nhau... Nguyễn Nhạc là anh cả mà nhỏ nhen, hẹp hòi, nghi kỵ; Nguyễn Lữ hoài nghi và thiếu quyết đoán. Còn Nguyễn Huệ thì tài năng hơn cả, nhưng cũng mắc chứng ngông nghênh coi trời bằng vung, mục hạ vô nhân, chưa biết lắng nghe.... Đạo làm vua như thế cũng là non kém, sao thấu nổi lòng dân ?... Vậy nên, nhà Tây Sơn nổi lên như sấm rền chớp giật là thế, nhưng nhanh chóng lụi tàn, trước hết là do nghi kỵ, tàn sát lẫn nhau... cũng  là đúng đạo lý trời đất cả đấy ...". Minh buồn buồn "Điều này thì bà cũng có lý... Tôi thắc mắc, không họ hàng thân thích với chúa Nguyễn, gia đình của bà chắc cũng mắc mớ chi đó ?". Chậm rãi "Có chứ... Thư thả nghe ta đây... Tổ tiên hai nhà ta vô xứ Thuận Hóa, rồi theo thời gian mở đất của các đời chúa Nguyễn, dạt dần vào Gia Định trấn, cũng thuộc hàng khá giả, có máu mặt ở xứ này... Phu quân là thuộc hàng võ tướng, trước trận Rạch Gầm Xoài Mút, phu quân ta là tướng lĩnh dưới sự chỉ suy của đại đô đốc Châu Văn Tiếp, vâng lệnh nhà chúa mở màn đánh vào đất Mân Thít (Vĩnh Long). không may bại trận, đại đô đóc Châu Văn Tiếp bị Chưởng cơ Bảo quân Tây Sơn giết chết. Chúa Nguyễn Ánh lại cử tướng quân Lê Văn Quân thống lĩnh tiền quân tiến đánh trận Ba Lai (Bến Tre) và Trà Tân )Định Tường), nhưng rồi tướng Lê Văn Quân cũng bị trọng thương... Phu quân ta cũng tàn quân nhập vào đội quân chính phò tá nhà chúa...". Minh à lên "Vậy ra, gia thế của bà cũng ghê gớm đó... thuộc hàng công thấn của nhà Nguyễn rồi.". Cười đau khổ "Công thần, công trạng mà làm gì... khi hồn lìa khỏi xác ? ... Trong trận Rạch Gầm Xoài Mút, mấy vạn nhân mạng tiêu vong... Phu quân ta cùng đám tàn quân phò chúa Nguyễn tháo chạy rồi lên thuyên trốn ra đảo Thổ Chu... Dọc đường rút chạy, phu quân ta liều chết để bảo vệ nhà chúa... không may tử nạn... Người bảo sao ta không đau xót?..." Minh giọng chia sẻ "Thỉ ra vậy... rất tiếc... tôi hiểu lòng bà !...". Giọng buồn rượi "Khốn cho thân ta... ở nhà vò võ chờ chống... đợi ngày đoàn viên phu quân làm nên công trạng, mang vẻ vang cho gia tộc.... Có biết đâu, ổng bỏ ta mà đi mãi mãi như thế...". Minh cảm thông "Bà có nỗi đau riêng của bà... nhưng đấy cũng là nỗi đau chung của biết bao người mẹ, người vợ.... có người thân tử trận trong những cuộc chiến lên miên suốt mấy thế kỷ qua trên dải đất này". Cười mỉa  "Ngươi nói hay quá nhỉ,... may cho số phận ngươi không phải xông pha trận mạc, không biết hòn tên mũi đạn thế nào, nên người hót hay lắm... Ta còn biết cả chuyện mẹ đẻ của ngươi mừng chảy nước mắt khi ngươi vì thấp bé nhẹ cân không đủ sức khỏe vào lính... Thực lòng, ta mừng cho bà ấy không phải sống những tháng ngày thấp thỏm chờ mong con mình trở về lành lặn... Phúc đức là đấy, ngươi có hiểu không ? Vinh quang thì hay hớm gì khi không còn nữa ?". Minh cãi "Thế bao xương máu đổ xuống là vô ích à ? Tôi không được trực tiếp tham gia cuộc chiến, không bàn may rủi... Ấy là số phận. Có điều này, giờ đây, mỗi khi người ta bàn về cuộc chiến vừa qua. tôi mặc cảm của người ngoài cuộc... thấy mình chưa đóng góp gì cả... xấu hổ lắm chứ". Cười nhạt "Ngươi cũng sĩ diện nhỉ, nhưng nam nhi không có chút sĩ diện mới đáng buồn... Ta không học hành nhiều như ngươi...phận đàn bà, ta thấm nỗi đau ta, mọi lý tưởng cao siêu, mọi lý sự này nọ, với ta đều là suông hết. Chỉ nỗi đau ta từng chịu đựng là có thật !...Đừng lý sự nữa...Ta không muốn nghe đâu.". Minh cười cảm thông, lần đầu tiên anh cười trong cuộc đối thoại "Chiều ý bà, ta nói chuyện khác,.. Công lao cứu giá của phu quân bà như vậy, hẳn sai này chúa Nguyễn không quên chứ ?". Ôn tồn "Ngươi là người chu toàn khi hỏi ta chuyện này.... Quả là sau khi thành nghiệp lớn, nhà chúa thu phục cả giang san, lên ngôi vua đầu triều Nguyễn, ngài ngự đã không quên công lao của những người từng phò tá mình dựng nghiệp, cả kẻ sống và ngưởi chết... Phu quân ta được truy phong tước vị, nhà ta được ban thưởng hậu hĩnh, được cấp trang ấp nơi đây... Cầm lòng vậy, bằng lòng vậy... ta thay chồng cai quản cơ ngơi này, giàu có sản nghiệp ta đâu có màng khi phu quân ta không còn trên cõi đời để cùng ta và con cháu hưởng thụ... Chút an ủi cho  ta ấy là người dân trong vùng nhờ thế mà có công ăn việc làm, được miếng ăn no bụng, được áo quần lành lặn... Họ ơn nhà ta là vậy..." Minh cướp lời "Thế nên họ mới xây miếu thờ cúng bà chứ gì ?" Cười to "Ngươi đúng là kẻ láu cá'... Xây miếu thờ ta trên đất trang ấp nhà ta, ấy là từ con cháu ta... Có điều, dân trong vùng cũng nể trọng ta phần nào mà hương khói cho ta... Vậy thôi.". Minh đắc ý "Bà thấy không, đạo lý ở đời cũng công bắng lắm chứ... Ai làm phúc cho dân thì dân quý trọng...". Trầm ngâm "Điều này thì ta tin ngươi hiểu... rốt cuộc, chúa Nguyễn thắng làm chủ thiên hạ, nên nhà ta mới được hưởng lộc chúa.... Ngươi nghĩ xem, nếu nhà Tây Sơn giữ được cơ đồ, nhà ta đây không chừng thành tội đồ vì tội đi phó tá chúa Nguyễn, bị triệt hạ, tàn sát cũng nên...". Minh băn khoăn "Điều này thì tôi không dám chắc... Có thể là vậy". Cười nhạo "Ngươi cũng là kẻ công bằng đấy chứ....Úng xứ với kẻ thua cuộc ra sao, hoàn toàn phụ thuộc vào bản tính và tâm trạng của người thắng, hoan hỉ bao dung hay cay cú rửa hận... thôi thì, nói sai cho hết được tâm địa con người ta...". Minh chậc chậc "Có lẽ vậy chăng ?...". Cười nhẹ "Ta lại nói đúng tim người rồi... Ngươi bối rối là phải... Ta bàn thế là để so sánh ta với người đàn bà mới đến trú ngụ trên đất của ta,". Minh ngạc nhiên "Ai thế?... người đàn bà nào?". Buồn buồn "À, ngươi đi vắng về quê ít bữa, nên không biết đấy thôi... Có một đàn bà góa mới lìa trần xuống dưới này, đến gặp ta xin trú ngụ... Vậy người không để ý, cái nghĩa địa phía bên kia hàng rào cây nơi cửa sổ sau nơi người ở rồi?... Cái mả mới với những vòng hoa héo...". Minh khẽ rùng mình "Vậy sao?... Tôi chưa kịp để ý.",  Giải tỏa "Ngươi yên tâm... Có ta ở đây làm chủ, ngươi không phải sợ... Với lại, người đàn bà mới đến này vốn hiền lành. Ngươi không sợ bị quấy nhiễu đâu...". Minh vẻ yên tâm. cầu tài "Vậy người này đâu dám sơ với bà được ?" . Cười nhạo "Ngươi cũng khéo nịnh nhỉ... Ý ta là, người này từng chịu cảnh góa bụa như ta xưa... Có điều, khố kiếp đàn bà góa một phần, khốn thêm nỗi người chồng tử trận lại thuộc bên thua cuộc chiến... Nghe đâu, người chồng là sĩ quan cấp tá, tử trận ngay đầu chiến dịch quân Bắc tấn công Tây Nguyên chi đó.... Xác bị vùi lấp đâu đó chẳng rõ nữa..." Minh thở phào "Thì ra là vậy... nhưng biết làm sao được ! Chiến tranh mà, nó có chứa ai đâu". Cảm thông "Góa bụa đã khổ. lại bao năm sống trong nỗi sợ bị bên thắng trần trả thù, hành tội, o ép này nọ... May mà, bên thắng cuộc cũng không tệ..." Minh hào hứng "Đấy, bà thấy chưa.... Đạo lý công bằng mà. Ai làm người nấy chịu... Bà ta không liên quan gì đến việc chống bà ta làm, nên chẳng có gì phải sợ... Nhưng chồng bà ta, nếu còn sống thì tôi không dám chắc được đối xử như bà ta đâu... Chắc chắn ông ta sẽ phải học tập, lao động cải tạo này nọ... ". Mỉa mai "Nghe ngươi nói, thấy rõ cái lý của kẻ mạnh, thấy sự áp chế của bên thắng cuộc.". Minh lên giọng "Đương nhiên... Thời ấy, bà cũng thấy đấy, nhà Nguyễn đã thi hành một chính sách trả thù nhà Tây Sơn tàn khốc... truy lùng, giết chóc, quật mồ mả, phá từ đường, thôi thì không thiếu gì hành vi rửa hận...". Cay đắng "Ngươi thôi đi... ta không muốn nghe nữa....".  Minh tự ái "Vậy thì thôi,... xin phép bà dừng lời...". Vẻ buồn bã "Chuyện thế là nhiều rồi... ta thấy cũng là có íc ... À, ta nói trước điều này... có lẽ làm ngươi buồn.... người con gái của ngươi tên Nguyệt nhỉ.... Tên hai ngươi ghép vào hay lắm... Minh Nguyệt là giăng sáng, nhưng chỉ để mai sau mỗi đứa tháng tháng nhìn giăng sáng mà nhớ đến nhau thôi... Hai người có duyên mà không có phận... Ta đi đây..." Minh bàng hoàng khi nghe lời phán vậy "Kìa bà...cho tôi hỏi vài câu được không ?... Tôi còn chưa tường diện mạo bà kia mà...".  Giọng xa xăm "Thế đủ rồi... ngươi không thể tường diện mạo ta đâu... Ta đã siêu thoát từ lâu... Cho ngươi hay, người đã khuất mà còn để lại diện mạo trong tâm thức người sống, là người còn chưa siêu thoát... ".
 
5. 
        Minh tỉnh cơn mơ. Cảm nhận đầu đau nhức, nặng trịch. Hơi thở vẫn nồng mùi men. Chắc rượu uống lúc chiều là loại rượu kém chất lượng được lên men từ nguyên liệu ri đường. Ngọn đèn dầu hỏa đỏ cạch gió lùa cửa sổ sáng lay lắt. Người váng vất khó chịu. Anh lôi vội chiếc xô nhựa dưới gầm giường nôn thốc nôn tháo cả mật xanh mật vàng. Minh mệt lả người, nằm im, lần hồi nhớ lại giấc mơ ...
        Minh những tưởng, giấc mơ ngày nào gặp người đàn bà tự xưng là chủ khu vườn từng có miếu thờ ngay trong vườn này sẽ không bao giờ lặp lại. Vậy mà anh lại mơ thấy bà ta, tiếp nối câu chuyện bỏ dở từ lần trước. Anh vẫn bị ám ảnh bởi bầu không khí bí ẩn của khu vườn và câu chuyện đằng sau nó.  Minh ngẫm nghĩ, có lẽ sự hoang vắng của khu vườn cộng hưởng với âm khí từ cái nghĩa địa ngay phía sau nhà anh ở đã ám thị anh thành mộng mị. Song những hiểu biết về lịch sử anh đọc ít nhiều được tái hiện vào câu chuyện với người đan bà trong mộng khiến anh nghi hoặc về nguồn gốc khu vườn này và những chủ nhân của nó qua máy thế kỷ. Những người quanh đây, cũng chỉ biết lơ mơ về người chủ bỏ xứ sang Mỹ định cử khi kết thúc chiến tranh phân miền, chứ không ai biết sâu xa hơn về nguồn gốc, liệu rằng các người chủ trước nữa có phải huyết thống trực hệ là nối nhau sống nhiều đời ở đây hay là đã sang nhượng thay tên đổi chủ. 
        Riêng có chi tiết trong mộng mị của anh thì nhanh chóng xác định được ngay. Ngay hôm sau, anh theo lối mòn vạch rào ngó sang nghĩa địa phía sau thì quả nhiên thấy ngôi mả mới thật. Cũng không khó để xác định người nằm dưới mộ ấy là ai. Chị người quen cũng cơ quan sống kế bên chợ An Lạc xác nhận, thời điểm Minh đi phép Bắc, có một chị chuyên bán đồ khô ở chợ An Lạc bị cảm đột ngột rồi mất, và nghe nói chồng chị ta trước đây là sĩ quan Ngụy chết trận. Đối chiếu với giấc mơ của mình, Minh thấy không sai. Chi tiết này là có thật, thì câu chuyện dài trong mộng mị kia có cơ cở để tin... 
        Sau lần ấy, Minh không hề mơ thêm gì nữa, mặc dù anh có ý trông chờ. Công việc, cuộc sống biến động, anh dần lãng đi, mặc dù đâu đó trong những đêm khó ngủ vì nhớ nhà, vì lo tính công việc, nó vẫn thảng về trong ý nghĩ của anh. Mối tình của anh và Nguyệt cũng không thành sau vài ba năm chờ đợi. Nguyệt chủ động chia tay anh vì lý do từ gia đình. Minh níu kéo không nổi đành buông tay... Nguyệt về Hà Nội theo khóa cao học, rồi xin việc mới, không trở lại trường cũ. Chuyện tình đổ vỡ, Minh không đổ lỗi cho việc anh đã vô tình tặng kéo cho Nguyệt, bởi một lần vì không biết, anh đã mua tặng cô chiếc kéo thợ may cùng bộ sách hường dẫn cắt may, thước vải, và dụng cụ may, gửi qua bưu điện để cô tập lúc rảnh rỗi. Sau anh mới biết, người ta bảo, người yêu nhau kỵ nhất việc tặng dao kéo và khăn tay, bởi dao kéo sẽ cắt đứt tơ duyên, còn khăn tay là để lau nước mắt chia tay, ly biệt... Minh có nghĩ đến lời tiên đoan của người đàn bà trong mộng về sự tan vỡ mối tình của anh với Nguyêt, chỉ cảm thấy buồn nhớ những năm tháng ở đấy... 
        Nhưng cũng vì gắng níu kéo mối tình với Nguyệt mà anh quyết tâm ra Bắc. Anh bỏ lại quá khứ với khu vườn, bỏ châu thổ mênh mông sông nước cùng những điệu vọng cổ da diết buồn, bỏ Dạ cổ hoài lang sầu bi não nùng....
        Hơn hai mươi năm sau, Minh mói có dịp trở lại vùng đất Bảy Núi, nhân chuyến công tác miền Tân Nam bộ. Anh tranh thủ thăm gặp những người quen cũ. Vài người trong số thân quen của anh ngày ấy đã khuất bóng. Biết tin cơ quan cũ của anh đã chuyển đi nơi khác, còn khu vườn ấy được huyện quy hoạch xây dựng thành trường dân tộc nội trú. Minh muốn thăm lại nơi cũ. Anh nói qua lý do và xin phép người bảo vệ được vào hẳn sân trường. Anh đứng tần ngần, quan sát khắp lượt, hình dung lại cảnh xưa, người cũ, đâu là hàng dừa, vườn xoài, đâu là căn nhà có phòng anh ở, và đâu từng là chỗ cây xoài  cát cổ thụ dưới gốc có đám gạch xây long lở, vết tích của một ngôi miếu cổ. Bao nhiêu chuyện cũ, hình ảnh xa mờ bỗng hiện về rõ nét trong đầu anh... Người bảo vệ đến bên anh, bảo "Chẳng còn dấu vết cũ, anh hỉ". Minh cười buồn, cảm ơn người bảo vệ... 
        Minh còn trở lại vùng đất này nhiều lần. Anh cũng có thơ ghi lại cảm xúc của mình.  Giờ đây, mỗi khi nhớ về vùng đất ấy, anh thầm gọi tên miền xanh thăm chân mây... ./.
 

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( II ) - 17.07.2021 16:59:21
Nhân gian vạn sự phi.
truyện ngắn của Nguyễn Chu Nhạc, 
1. 
Nhà báo Minh Trung đến tòa soạn. Một ngày làm việc bình thường như bao ngày. Ông khởi động máy tính để soạn bài giới thiệu chương trình câu lạc bộ cuối tuần. Chuông điện thoại máy bàn vang. Cô phóng viên trẻ nghe máy.
- Chú Trung ơi, máy của chú này... Có ai đó muốn gặp chú đấy ạ.
Ông cầm máy, trả lời theo thói quen lâu nay mỗi khi thính giả gọi đến,
- Tôi, Minh Trung đây,... Tôi có thể giúp được gì?...
Một giọng nam trẻ ở đầu máy bên kia rụt rè hỏi lại tên và nơi làm việc của ông. Lặng đi một chút, người đó thay đổi cách xưng hô từ xã giao thành thân mật, xung tên mình là Hiếu, con trai của mẹ Duyên... Ông nghe mà ắng giọng, thụ động trả lời thei mỗi câu hỏi của cậu ta. Rồi chỉ còn mỗi giọng cậu thanh niên, bời ông ù cả tai, loáng thoáng nghe câu được câu mất, nhưng mỗi lời của cậu ta làm ông thêm choáng váng. Ông linh cảm về một sự thật bấy lâu ẩn chứa trong lòng mình sẽ được hé lộ... và từ đây, cuốc sống của ông sẽ thay đổi...
Buông điện thoại, ông thẫn người, đầu ong ong, cám thấy huyết áp tăng lên... Cô phóng viên trẻ nhận ra điều ấy:
- Chú Trung... chú sao thế ạ” ... Người quen cũ hả chú?... – cô cười tinh quái đùa – Hay con rơi con vãi ngày xưa nhận bố?
- Ờ ờ... không... – Ông giật mình, chối.
Giờ thì đầu óc ông chỉ nghĩ về cuộc hẹn gặp với chàng trai kia vào chủ nhận tới. Bao ký ức xa cũ ùa về...
2.      
Một sáng một ngày cuối tuần,
          Trung cắm cúi đạp xe. Trời sớm, hơi sương phảng phất không gian. Đường xá vắng teo. Trung mừng vì đường vắng người, bởi thâm tâm không muốn gặp bất cứ ai. Trên ghi đông xe đạp trei chiếc túi cũ, bên trong đựng cân đường và hai hộp sữa. Trung đi thăm gái đẻ, có cảm giác e sợ của người làm một việc vụng trộm và có gì đó khuất tất. Để đến được nơi Duyên làm việc phải vượt qua gần bốn chục cây số. Dọc đường, hình ảnh những lúc hai người gần gũi thân mật với nhau cứ chập chờn trước mặt, vô hình chung khiến anh quên mệt nhọc, gò lưng nhấn bàn đạp mải miết... Khi trạm truyền thanh huyện hiện ra trước mắt Trung thì trời đúng tầm trưa. 
          Trung dừng xe gần đó, lặng lẽ quan sát, khi mấy nhân viên của Trạm người địa phương, tan tầm ca sáng, về nhà ăn trưa, anh mới dám vào. Duyên thuộc diện nhà xa, được Trạm bố trí cho ở tại Trạm, nhất là sau kỳ nghỉ sinh con đi làm trở lại, có con nhỏ theo mẹ. Vụng trộm, lại không hẹn trước, nên Duyên ngạc nhiên khi Trung xuất hiện. Duyên cứ nhớn nhác ngó quanh quất như sợ ai đó bắt gặp sự có mặt của Trung. Lưỡi anh như xoắn lại, lúng búng giải thích việc đến thăm mẹ con Duyên và món quà đường sữa của mình. Còn Duyên vừa mừng vừa lo. Cơm được dọn ra. Cơm gái đẻ, đơn sơ tôm rang, trứng luộc và canh rau ngót. Duyên ăn cầm chứng, còn Trung ăn cho phải phép, đỡ đói để còn lấy sức đạp xe về. Đứa bé ọ ẹ khóc ở gian trong. Duyên vỗ nựng cho nín, rồi cô cất tiếng gọi Trung vào. Duyên nâng đứa trẻ gần ngang mặt Trung nựng yêu "Con trai của bố Trung đây... Bố Trung nhìn... cái trán bướng này, cái môi mỏng này... rõ giống hệt bố Trung...". Duyên cười, mắt rưng rưng nước "À quên, cu tý phải gọi là cậu Trung thôi,... con nhỉ". Trung cười gượng gạo, lấy ngón tay day nhẹ lên trán, rồi khẽ đụng vào đầu mũi đứa bé: "Con giai mẹ Duyên kháu quá... hay ăn chóng nhớn nhé". Duyên nhìn Trung đăm đăm, cái nhìn như biết ơn, lại như có lỗi. Duyên bảo: "Thôi... thăm thế đủ rồi, mẹ con cu Hiếu cảm ơn bố Trung nhiều lắm ... Bố Trung về luôn đi.... sắp đến giờ làm việc ca chiều rồi, mọi người đến bây giờ... ngộ nhỡ ai nhìn thấy bố Trung ở đây... thì phiền... ". Trung nhận thấy vẻ ái ngại của Duyên trong ánh nhìn và câu đuổi khéo. Trung cúi người thơm nhẹ lên trán bé con: "Chào nhé... hai mẹ con giữ gìn cẩn thận... Bố Trung về đây". Duyên tiện đà: "Từ giờ... bố Trung không cần phải bận tâm về mẹ con nhà cháu nhé... Nhớ, chỉ là cậu Trung thôi đấy... Cu Hiếu đã có mẹ cháu và bố Kiên rồi...".
          Trung đạp xe rời khỏi Trạm truyền thanh huyện, chốc chốc ngoái đầu nhìn lại. Duyên vẫn bế con đứng nhìn theo. Đến khúc quanh, trước khi khuất néo, Trung ngoái lại lần nữa, nhung đã không thấy bóng dáng mẹ con Duyên. Đường về thị xã với anh bỗng vời vợi làm sao !...
          3. 
          Trung là phóng viên báo tỉnh. Bố anh là một nhà báo, nhà văn, nên ông hướng anh theo con đường cầm bút. Thời ấy, cái thị xã vùng than Đông Bắc này được xem là công trường lớn của miền Bắc khi đất nước còn chiến tranh chia cắt. Là thanh niên, dù là công nhân cầm búa cầm choòng hay cầm bút thì ai cũng ước ao được sống và làm việc trên cái công trường khổng lồ này, một biểu tượng của nền công nghiệp miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Các văn nghệ sĩ cũng coi vùng đất đông bắc này là môi trường thực tế sinh động để họ thâm nhập, tìm đề tài và cảm hứng dáng tác. Bố anh xin cho anh ra làm báo ở đây, là muốn cho anh nhanh chóng trưởng thành trong môi trường làm báo thực tế. Còn có lý do riêng, ấy là bố mẹ anh trục trặc và ly hôn, rồi sau đó bố anh tục huyền với một người đàn bà khác vốn là con nhà quan lại nho giáo thất thế và nhanh chóng đẻ liền mấy đứa con. Mẹ anh theo quân ngũ, không thể chăm sóc anh chu đáo. Để yên tâm với gia đình mới của mình và không mang tiếng bỏ bê con vợ cả, anh được bố gửi ra vùng than khi mới học hết phổ thông. Vậy là anh sớm bước vào đời với cuộc sống công nhân tự lập. Mang gen di truyền của bố, anh tập viết báo và trờ thành phóng viên báo tỉnh. Lẽ di nhiên, có sự trợ lực của bố, từ việc bảo ban thêm về nghiệp vụ mẹo mực viết báo, đến sư nhờ cậy ban lãnh đạo báo tỉnh giúp đớ này nọ. Là phóng viên báo tỉnh khi mới ngoài hai mươi tuổi, oách lắm chứ. Mặt non choẹt, măng tơ, anh có thể đi đến bất cứ nơi nào trong vùng mỏ đông bắc này. Nhiều khi, người ta nhầm tưởng anh là cậu sinh viên thực tập, nhưng khi biết anh là phóng viên thì lập tức anh được đối xử trọng thị...
          Trong một chuyến công tác, Trung đã gặp Duyên. Và đúng với cái tên của cô, hai người có duyên với nhau. Chuyến ấy, Trung đi cũng với Quang Chiến, một phóng viên đàn anh đến một huyện miền núi cách thị xã mấy chục cây số. Xong công việc, anh phóng viên đi cùng rủ Trung vào thăm người chị gái làm việc ở đài truyền thanh huyện. Hôm ấy, sắp đến buổi truyền thanh chiều thì máy trục trặc, hai chị em trực ca loay hoay một hồi không xử lý được. Hai người lo lắng, gọi điên tứ tung nhờ vả người sửa máy nhưng không được. Có gái trẻ cố mầy mò sửa. Tình thế vậy, Trung đề nghị được thử sửa. Anh vốn say mê lĩnh vực điện tử âm thanh nên có chút hiểu biết. Thật may, Trung chỉnh sửa một lúc thì được, máy lên sóng buổi phát thanh chiều vừa kịp. Cô gái trẻ tên Duyên cảm ơn Trung rối rít và nhìn anh đầy vẻ thán phục. Lúc trước mọi người đều cuống, chỉ chào hỏi xã giao. Xong việc rồi. mới để ý đến nhau kỹ hơn. Trung thấy cô gái trẻ tên Duyên khá xinh. Gương mắt bầu bĩnh thật hợp với mái tóc xoăn tự nhiên, mắt to đen, má lúm đồng tiền, mỗi khi cười khuôn mặt rạng rỡ hẳn lên. Trung bị Duyên hút hồn.
Sau lần ấy, hai người quen nhau, và tình yêu nảy nở. Yêu nhau rồi. nên hầu như chủ nhật nào Trung cũng đạp xe đến nơi Duyên làm việc thăm cô. Còn Duyên, mỗi khi về thị xã đều tranh thủ ghé tòa soạn thăm Trung. Tâm niệm yêu nhau rồi nên vợ chồng, Trung đã đưa Duyên lên Hà Nội giới thiệu với gia đình nhà mình, và cô cũng đưa Trung về quê cô ra mắt bố mẹ. Tuy nhiên, gia đình bên cô có ý không chấp nhận Trung, chê anh quá thư sinh, và còn một lý do khác, ấy là trước đó đã có một vị cán bộ theo đuổi Duyên, đánh tiếng với gia đình muốn lấy cô. Tình yêu vừa nảy nở đã gặp trắc trở. Linh cảm về mối tình không thành ám ảnh Trung. Một lần, Trung đến thăm Duyên đúng lúc áp thấp ập vào vùng than đông bắc. Chỉ có hai người với nhau ở trạm truyền thanh, không kìm nén được cảm xúc, hai người đã quấn chặt lấy nhau làm cuộc mây mưa khi ngoài trời mưa gió tơi bời mịt mùng tứ phía...
          Sau lần ấy, những tưởng cuộc tình được cứu vãn, nhưng không, Duyên là người già giặn hơn anh nghĩ, cô vẫn nghiêng về sự tính toán thiệt hơn để đến với Kiên, vị cán bộ có thể đem lại cho cô một cuộc sống được đảm bảo trong thời buổi kinh tế khó khăn thiếu thốn. Sau này, suy ngẫm, Trung mới ngộ ra rắng, người đàn bà khi yêu, họ có thể dâng hiến tất cả cho người mình yêu, nhưng lập gia đình, họ lại chi li thiệt hơn khi lựa chọn người lấy làm chồng. Không giống đàn ông, khi yêu có thể bốc đồng thề hái sao trời cho người yêu và sẵn sáng chấp nhận cuộc sống kiểu “một túp lền tranh hai trái tim vàng”....Mối tình với Duyên, anh xem như bài học nhập môn về tình yêu và hôn nhân.
          Rời bỏ thị xã vùng than đông bắc, Trung tự an ủi mình, rằng anh và Duyên có duyên mà không có phận. Và như những gì cô ấy cho anh biết, cùng cảm nhận của bản thân, thì anh vẫn còn một giọt máu rơi ở vùng đất này,...
        4.
        Trung rời cái thị xã vùng mỏ Đông bắc này về làm việc ở thủ đô. Thực ra, sau lần đến thăm Duyên và con, Trung vẫn dò tin xem mẹ con cô sống ra sao. Duyên có gia đình của mình, và trên danh nghĩa, chồng cô là Kiên, có nhà đàng hoàng ở thị xã, và mặc nhiên, anh ta là bố đứa bé. Câu chuyện tình giữa anh và Duyên  vừa mới đó, vết thương tình còn rớm máu, nỗi đau trong anh còn nguyên, đã là quá khứ rồi. Bố đứa trẻ đích thị ai cũng không có ý nghĩa gì, khi họ là một gia đình hạnh phúc,...
    Về thủ đô, công việc mới đầy năng động và hấp dẫn, cuốn hút, choán hết thời gian của Trung, nên anh nhanh chóng hòa vào nhịp sống mới mà lãng quên nỗi đau tình  Bài học nhập môn về tình yêu và hôn nhân thật có ích, khi anh qua giới thiệu làm quen với cưới một cô thợ may nhan sắc bình thường nhưng chịu thương chịu khó, biết quán xuyến gia đình. Cô thợ may đảm đang sản xuất liền cho anh mấy đứa con đủ nếp tẻ. Anh sống chung trong căn hộ tập thể mẹ anh được cấp trong khu nhà binh. Hơi chật một chút nhưng ở vào thời buổi gạo châu củi quế như thế đã là hạnh phúc lắm rồi. Anh là phóng viên làm việc ở một cơ quan báo lớn, vợ công nhân may, chế độ tem phiếu cũng đủ sống. Khi kinh tế bắt đầu thời lỳ mở của, vợ anh tính toán nhận chế độ nghỉ việc, về thuê cửa hàng mở tiệm may đo, rồi phát triển lên vừa nhận may đo vửa mở lớp đào tạo nghề may. Có chút tiền. gom góp mua được căn nhà cấp 4, lấn đất lưu không làm vườn. Anh thì mua được chiếc xe máy, ngày ngày áo quần đóng hộp cưỡi xe đi làm, rất chi là oách. Khi mẹ anh mất. căn hộ của bà ở khu nhà binh thuộc diện giải tỏa, anh nhân được một khoản tiền đền bù kha khá, vợ chông bàn nhau mua một miếng đất ở làng hoa ngoại ô làm của để dành. Vậy là của ăn của để. Anh hài lòng với cuộc sống như thế, thoảng nghĩ đến người yêu cũ, thầm so sánh, chắc gì được như cuộc sống của anh hiện nay.
          Cuộc đời cứ thế hanh thông, con cái lớn dần, đứa vào đại học, đứa đi xuất khẩu lao động nước ngoài, nhà cửa được xây dựng lại khang trang hơn, xe máy cũng được nâng cấp. Những tưởng cứ thế cho đến lúc nghỉ hưu, thanh nhàn tuổi già thì một biến cố xảy ra,...
5.
Sau cuộc gọi điện thoại đến tòa soạn, chuyện giập giạp. chàng trai xưng tên Hiếu là con mẹ Duyên ấy xin được gặp nhà báo Minh Trung. Ông cho thời gian địa điểm và rất nóng lòng được giáp mặt anh chàng mà giờ đây đã chín phần ông tin là đứa con rơi của mình.
Hai người gặp nhau tại một quán cà phê gần nhà ông. Câu chuyện cứ mở ra với nhiều tình tiết mà anh chàng nghe kể từ mẹ nói lại với ông và được ông xác nhận là đúng. Ông cũng nhận là đã biết mặt con từ khi vài ba tháng tuổi ở trạm truyền thanh huyện. Ông thanh minh với Hiếu rằng sở dĩ ngần ấy năm ông không trờ lại thị xã than đông bắc và ngó ngàng gì cuộc sống của họ là vì cậu ta đã có một người cha hơp pháp là ông Kiên, mà cho đến giờ về danh nghĩa vẫn được coi là bố đẻ của Hiếu. Qua câu chuyện, ông biết, ngoài Hiếu ra, Duyên còn sinh hai đứa con nữa với ông Kiên. Ông cũng được giải tỏa thắc mắc bấy lâu nay, liệu ông Kiên có biết Hiếu không phải là con đẻ của ông ta hay không? Hiếu bảo, khi mẹ cậu còn sống, những lúc vợ chống cơm chẳng lành canh chẳng ngọt, ông Kiên cũng cạnh khóe này nọ. song khi Duyên bị ung thư rồi mất, ông Kiên đã có lần nói thẳng vào mặt Hiếu, rằng nó không phải là máu mủ của ông ta mà là con rơi của một tay nhà báo nào đó, rằng ông ta nuôi nó như nuôi một con cửu ghẻ trong nhà, và khuyên nó hãy đi tìm cha thật của nó... Thực lòng, ngần ấy năm trời, Hiếu cũng lờ mờ cảm thấy tình yêu thương đặc biệt của mẹ dành cho mình, khác với mấy đứa em, và cả thái độ lạnh nhạt của bố Kiên. Hiếu còn kể, khi mẹ cậu đau yếu sắp mết, có lần hai mẹ con nghe giọng ai đó nói trên đài, bà lầm bầm bảo, “vẫn cái giọng mềm mỏng, ngon ngọt như ngày xưa, đến cua trong lỗ cũng phải bò ra.... mày cũng có cái giọng giống hệt cha mày đấy con ạ...”. Lúc ấy thì Hiếu chì ngờ ngợ, sau này mới hiểu mẹ mình nói vậy là ám chỉ mình giống bố đẻ, nhà báo Minh Trung cái tài ăn nói, chứ không phải ông Kiên, bố hờ... Hiếu còn cho ông biết, trước lúc mất, mẹ nó đã cho mời nhà báo Quang Chiến, người đồng nghiệp đàn anh của cả hai người đến nhà, nói chuyện, dặn dò và đưa cho ông ấy giữ một lá thư mật trong phong bì dán kín. Chuyện ấy khiến Hiếu suy luận, rằng mình không phải là con đẻ của ông Kiên, mà là con rơi của một ai đó tróng số bạn bè hay người yêu cũ của mẹ mình... Sau khi mẹ mất, Hiếu dò la manh mối, lặng lẽ theo dõi, tìm đọc các bài viết của nhà báo Minh Trung, hay đón nghe các chương trinh câu lạc bộ do ông đảm dẫn. Tự thâm tâm, cậu tin nhà báo Minh Trung chính là cha đẻ của mình.
Bố con nhận nhau, ông có lãi, được nhận cả cháu. Hiếu đã sớm lấy vợ và có con rồi. Gia đình riêng của nó yên ấm lắm.
Biết không thể giấu mãi chuyện này, ông kể với vợ và xin được nhận Hiếu làm con. Vợ ông đón nhận điềm tĩnh, bảo “Tôi không thể trách ông được, bởi chuyện xảy ta trước khi ông quen và lấy tôi... Có chăng, đáng trách ở việc ông giấu tôi đến giờ”. Ông biện bạch, thì chính ông cũng mới biết Hiếu là giọt máu rơi của mình với người yêu cũ. Vợ ông họp gia đình, chính thức thông báo sự tình cho các con và đám em của ông. Khóc cười có cả. Rồi vợ chồng ông kéo cả gia đình làm chuyến đi thị xã vùng than đông bắc để nhận Hiếu. Tuy có chút bỡ ngỡ, nhưng Hiếu tỏ ra hoạt bát, khéo léo làm hướng đạo, đưa gia đình bố đẻ đến gặp bố hờ, có lời thưa gửi, xin lỗi ông Kiên. Rồi nữa, gặp gỡ gia đinh thông gia, tức bố mẹ vợ của Hiếu. Đôi bên tỏ vẻ cảm thông với nhau, và sau cùng tất cả đi viếng mộ thắp hương cho Duyên, khấn xin người đã khuất phù hộ độ trì cho cuộc đoàn viên. Ông vui đến nỗi, đã dẫn Hiếu, mang hoa quả bánh trái đến cơ quan, giới thiệu, mời mọi người, mừng cho cha con ông.
Ông Trung hài lòng lắm. Mừng nhất là việc giải tỏa nỗi ẩn ức của ông và ông Kiên chừng ấy năm trời. Vui nữa là Hiếu biết cách ứng xử khiến mọi nhà đều không ai mất lòng. Kể từ đây, tháng đôi lần Hiếu lên thủ đô thăm bố đẻ. Hai bố con hàn huyên bao nhiêu là chuyện, nhờ thế, ông biết được, những năm tháng qua, cuộc sống vợ chống của Duyên Kiên cũng không dễ dàng gì, và Hiếu ít nhiều thiệt thòi vì phải chịu sự phân biệt đối xử từ phía người cha hơ.... Âm thầm suy nghĩ, ông muốn bù đắp sự thiệt thòi cho Hiếu mà chưa biết cách nào....
6.
Từ ngày nghỉ hưu, ông Trung hay sống ở ngôi nhà nhỏ dựng trong khu vườn xanh tươi ờ làng hoa ngoại ô. Ngoài thú chơi hoa lan và đồ gốm sứ, khi rảnh rỗi ông trồng thêm các loại hoa có thể dúng ướp trà như hồng, nhài, ngâu, mộc... Mỗi dịp cuối tuần, ông ở hẳn trên đó, đi chợ làng, tự nấu ăn, hẹn hò đám bạn già đến thưởng trà, ngâm vịnh thơ phú, đánh cờ. Hứng lên thì cụng đôi ba chén rượu... Ở đây, tiện và thích là mỗi khi Hiếu lên chơi, nó đến thẳng đấy với ông, cha con tha hồ tâm sự, không ngại vợ con biết chuyện này nọ. Đến ngôi nhà chung, dẫu sao còn có vợ ông và mấy đứa em, hành xử nói năng gì cũng ngại, phải ý từ xã giao. Mỗi năm, vào dịp hè, Hiếu đón ông về thị xã vùng than mươi hôm, để ông chơi với các cháu, gặp lại bạn bè cũ và tắm biển. Cứ thế, ông có vài ba năm sống trong niềm vui sum họp ấm cúng.
Thế rồi, cậu con lớn của ông lấy vợ. Vợ ông ấn định, cưới xong thì vợ chồng trẻ lên sống ở ngôi nhà nơi làng hoa ngoại ô. Thâm tâm, ông hiểu vợ mình biết chuyện ông và Hiếu hay gặp nhau ở ngôi nhà vườn ấy, nên thu xếp vậy để tránh việc này và có ý rằng sau này, vợ chồng nó sẽ nghiễm nhiên là chủ nhân của nhà vườn đó. Song thu xếp thế, ông cũng thấy hơp lý, tuy không hài lòng nhưng cũng phải bằng lòng vậy. Thấy thế, Hiếu bàn với ông, xây thêm một ngôi nhà nhỏ nữa trên mảnh vườn ấy. Rồi Hiếu nghỉ phép, lên chỉ huy việc xây dựng, tay bay tay dao xây chỉ đạo đám thợ phụ độ nửa tháng là xong. Việc này khiến vợ ông bực mình, cạnh khóe này nọ. Ông cảm nhận, mối quan hệ của Hiếu với vợ con ông bắt đầu rạm nứt.
Chưa hết, Hiếu tự tin, khẳng định vai trò con trai trưởng ngày càng rõ. Thân sinh của ông mất đã mươi năm, đưa về quê chôn cất còn chưa cải táng, nay mua được sinh phần nên mới cải táng. Hôm bốc mộ, cả gia đình ông không ai thạo việc, định thuê người làm thì Hiếu xin đảm nhận công việc. Nó rửa ráy, xếp xương cốt ông nội bài bản, gọn gàng, khiến mọi người ngạc nhiên thán phục. Còn ông thì mát lòng mát dạ, hãnh diện lắm. Thái độ hài lòng của ông như muốn nói với vợ con, các em và cả họ hàng ở quê rằng, đấy thằng con rơi của tôi xứng đáng là cháu trưởng trong nhà. Vợ ông, ngoài miệng cũng không ngớt lời khen Hiếu, nhưng ngấm ngầm để bụng, ủ mưu,...
Việc gì đến trước sau cũng phải đến. Một lần, Hiếu thưa chuyện với vợ chồng ông, muốn làm thủ tục pháp lý, chính thức là con trai của ông và đổi từ họ Lê của ông Kiên sang họ Hoàng của ông. Việc ấy là đương nhiên, nhưng trước hết phải qua giám định gen di truyền. chứng minh quan hệ huyết thống, đấy là thủ tục pháp lý và cũng là yêu cầu của vợ ông. Thâm tâm, ông tin chắc Hiếu là con ruột của mình, không cần phải chứng minh rườm ra, song yêu cầu là vậy nên đồng ý. Sớm muộng gì cha con cũng thuộc về nhau, ông khuyên Hiếu chấp thuận việc này. Hiếu hiểu lòng ông, động viên “Bố yên tâm... trăm phần trăm con là ruột thịt của bố mà”.
Dịp ấy, ông về quê, trông nom dọn dẹp ngôi nhà vườn bị đóng của bỏ hoang lâu ngày sau khi người mẹ kế của ông qua đời. Ông nhận cú điện thoại vợ ông gọi, báo tin kết quả giám định ADN của ông và Hiếu cho biết hai người không có quan hệ huyết thống với nhau. Ông đang vui với ý tưởng sau khi hoàn tất thủ tục pháp lý nhận con và đổi họ cho Hiếu, ông sẽ đưa nó về quê nội, sửa sang lại ngôi nhà này làm ngôi thờ tự của đại gia đình. Vậy mà... Ông choáng váng ngã quỵ, ngất xỉu, hồi lâu tỉnh lại, gọi điện báo người nhà ở quê đưa đi bệnh viện.
Có nhầm lẫn chăng, ông hy vọng thế. Song khi trờ về nhà, tự tay cầm tờ phiếu kết quả giám định gen, đọc dòng chữ kết luận ghi không có quan hệ huyết thống, thì ông không thể không tin. Đầu óc ông rối loạn, bời bời với bao ý nghĩ xung đột. Hiếu không phải con của Kiên, rõ rồi, cũng không phải con của ông, kết quả rành rành ra đấy... Vậy thì nó là con của ai? Khi đã tỉnh táo, tĩnh trí, ông nhớ lại, điểm qua hết các gương mặt đàn ông thời ấy từng theo đuổi, tán tình, hay là bạn, là người quen của Duyên, phỏng đoán này nọ... Hay là, anh trưởng phòng X, tay nhà báo Z, chàng nhà thơ N?... Ngày ấy, Duyên tự tin, rạng rỡ, xinh nổi tiếng trong vùng, khiến cánh đàn ông khát khao, thèm muốn chiếm hữu cô... Trong đám đàn ông cả tá ấy, có những người đã có vợ. say mê cô, sở dĩ ông chiếm được tình cảm của Duyên là bởi vẻ đẹp trai, hào hoa kiểu người thủ đô, lại con của nhà văn nổi tiếng nọ... Ý nghĩ ghen tuông ngợp lòng ông, chẳng lẽ, một thời điểm ấy, cô ấy cùng quan hệ với mấy người?... Nhưng sao, cô ta lại tin tưởng Hiếu là giọt máu của ông, mà trăng trối lại, khiến nó tìm ông? Sau khi cha con ông nhận nhau, ông cũng đã gặp lại nhà báo đàn anh là Quang Chiến, đọc lá thư Duyên gửi lại, khẳng định Hiếu là con ruột của ông? Hay là chính cố ấy cũng nhầm? Ông chẳng biết tin vào đâu nữa...
7.
Hiếu có đến thăm ông đôi lần sau khi ông đổ bệnh. Hai người an ủi lẫn nhau, bảo vẫn sẽ coi nhau như người thân. Là nói vậy thôi, chứ mặt nhìn nhau tẽn tò làm sao. Chiếu lệ đôi câu rồi ngẩn ra chẳng biết tiếp câu chuyện thế nào. Vợ con ông thì tỏ rõ thái độ lạnh nhạt, xã giao dăm câu ba điều cho phải phép. Hiếu biệt đi không đến nữa... Ông thì vẫn quanh quẩn với ký ức tình yêu xa xưa, ký ức vui vẻ của những ngày đầu cha con nhận nhau. Ông thêm lần tai biến và sức khỏe yếu dần, đi lại khó khăn, mắt kém nên muốn đọc sách cho khuây khỏa cũng khó...
Một lần, cô biên tập viên cùng phòng làm việc cũ với ông, đến chơi nhà, đem mấy bài thơ Đường luật nhờ ông cắt nghĩa, giàng giải ý tứ. Trong số đó có một bài thơ của Chu thần Cao Bá Quát “Khứ tuế nghinh xuân xuân dĩ quy/ Kim niên xuân chí hựu như  phi/ Xuân hoa khai tạ vô câu quản/ Khẳng tín nhân gian vạn sự phi”. Ngẫm nghĩ thấy ý tứ bài thơ thật mênh mông vô tận, như một triết lý sắc không, rằng “năm ngoái vừa mới đón xuân, nay xuân đã quay trờ lại/ xuân đến thấy thời gian nhanh như bay/ hoa xuân nờ đấy rồi tàn ngay đấy. chẳng thể quản chế/ ai  tin thế gian này mọi sự đều là không”... Thấy ông cứ ngâm nga, ngẫm ngợi ý từ bài thơ, cô biên tập viên gợi chuyện, hỏi thăm, bấy lâu, ông có tin gì về Hiếu. Ông bảo không, rồi đồ đoán, nó chắc hận ông, hận mẹ nó lắm. Cô biên tập viên thương ông, bảo là mạng xã hội gtờ phát triển lắm, ông hoàn toàn có thể gặp lại và trò chuyện với Hiếu mà không cần phải đi đâu. Rồi cô thú nhận, rằng có có kết nối qua mạng xã hội và thỉnh thoảng biết tin về Hiếu. Rằng đã có lần, cô thấy Hiếu buâng quơ than thở trên trang cá nhân của mình là “Tôi có cha, rồi người đó bảo không phải cha của tôi. Rồi một ngày nọ tôi tìm được người cha đích thực của mình. Tôi vui lắm, nhưng ngày vui ngắn chẳng tày gang. Bỗng một hôm, người ta bảo người cha tôi tìm được lại không phải là cha mình... Vậy cha tôi là ai đây? Tôi biết tim cha ở đâu và bao giờ thì tìm thấy? Cha ơi, ông là ai?”. Đại khái vậy. Ông nghe bùi ngùi, chảy nước mắt... "Này cháu... Nghe đâu... người ta bảo... cái việc giám định di truyền ấy... người ta cũng có thể can thiệp... làm sai lệch kết quả... phải không?...".
Cô biên tập viên cảm động, không biết phải trả lời làm sao, lờ đi, và cô thấy không cần phải giấu ông, bảo bài thơ của Cao Bá Quát kia chính là cô đọc trên trang cá nhân của Hiếu. Cô  nói, Hiếu đã bình luận, câu thơ cuối “khẳng tín nhân gian vạn sự phi” ấy, rằng “ai tin nhân gian này mọi sự đều là không, thì hệ họ, tôi không tin,... ”.
          Nghe vậy, ông mừng rỡ bảo cô biên tập viên:“Thơ phú, chữ nghĩa kiểu này, chắc chắn, nó giống y tôi... Tôi hiểu rồi, tôi tin nó... và chắc là... nó cũng tin tôi.. .phải thế không cháu? ” ./.
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 19.07.2021 11:35:43 bởi tamvanvov >

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( II ) - 17.07.2021 17:02:18
Khói đồng cay mắt.... ( bản mới )
Truyện ngắn
 
          Ngày ấy, chị mới ngoài ba mươi tuổi thôi và còn trẻ đẹp, hấp dẫn lắm ... Vậy nên,...
          Chị đã là mẹ của ba đứa con, lít nhít trứng gà trứng vịt. Ngoài đôi mươi, chị đã lấy chồng và đẻ liền hai đứa. Chồng chị là một người Nam tập kết ra Bắc, hơn chị đến chục tuổi, làm nghề kỹ thuật cơ giới. Ngay sau giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, anh Sáu, chồng chị thuộc diện lớp cán bộ đầu tiên được chọn về Nam gây dựng cơ giới ở tỉnh quê nhà. Chị khăn gói đưa hai con nhỏ theo chống về sinh sống ở tỉnh lỵ quê anh thuộc miền biên giới Tây Nam bộ. Vào trong đó, chị chưa có việc làm, chỉ chợ búa, cơm nước, trông con nhỏ. Phấn khởi, chị sòn sòn thêm đứa nữa, thành ra chưa đến ba mươi tuổi đầu đã là mẹ nái sề với những ba đứa con,... Vậy là, cắm mặt chăm sóc con cái, chị có biết trời đất bên ngoài thế nào đâu. Rồi gia đình chị chuyển về huyện lỵ quê nhà, lại vướng bận thêm các mối quan hệ bên nhà chồng, hỏi han thưa gửi là cạn ngày hết tháng. Mấy mà già?... Thực ra, chị cũng từng có quãng ngắn ngày son trẻ, phơi phới thanh xuân, yêu đời,...
          Hồi đó, chị độ tuổi đôi mươi.
          Mẹ chị mất sớm, sau khi sinh đứa em trai được vài tuổi, nhưng cha chị không tục huyền, gà trống nuôi hai chị em, nên dù nghèo nhưng chị được sống trong cảnh thương yêu đùm bọc, ấm cúng. Cái Tấm, ngoài việc đi học cũng giúp giập được cha nhiều việc nhà và cả việc đống áng nặng nhọc. Chẳng hiểu sao, cha mẹ lại đặt cho chị cái tên Tấm. Chắc là muốn chị có hậu vận sung sướng như cô Tấm trong cổ tích?
          Tấm sớm phổng phao, nên khi học hết cấp hai, chừng mười lăm tuổi, đã là cô gái xinh xắn. May thay, thu hết các nét đẹp của cha mẹ, Tấm  có vóc người dong dỏng, da trắng môi đỏ, tóc dài óng, và khuôn mặt có nét Tây, mắt to, xống mũi cao, miệng hơi rộng và hàm răng trắng đều đặn, khác hẳn với đám con gái quê. Thế nên, người làng bảo Tấm như con lai Tây. Đang độ tuổi phơi phới thì mẹ mất sau một thời gian lâm bệnh chữa trị không qua khỏi. Tấm không học lên nữa, ở nhà giúp cha nuôi em. Những năm đất nước chiến tranh, con gái quê, học thế cũng là đủ. Trời phú cho Tấm giọng hát hay, thuộc và hát theo được hầu hết các làn điệu chèo nghe được từ đài phát thanh trong các chương trình dân ca nhạc cổ. hay học lỏm khi xem chèo. Có năng khiếu vậy nên ở xã gọi tham gia vào đội văn nghệ, cũng biểu diễn thi thố này nọ. Xinh xắn và có năng khiếu văn nghệ như vậy, nhưng ở làng chẳng đám trai nào đánh tiếng, ngoài sự trêu chọc tán tỉnh của mấy tay cán bộ xã và đám đàn ông đã có vợ, trong khi đám con gái mới lớn bình thường khác lại đắt như tôm tươi. Hình như người ta ngại cái vẻ đẹp khác người của Tấm. Tấm cũng chẳng cần, bởi thâm tâm cô vẫn chờ đợi cơ hội để theo nghề văn công chuyên nghiệp. Và cô hội ấy đã đến, khi đoàn chèo tỉnh nhà về địa phương tìm tuyển người. Vẻ đẹp hình thể và khả năng ca hát trời phú nên Tấm trúng tuyển ngay. Những tưởng may mắn thì cha cô đột ngột qua đời vì một cơn bạo bệnh ngay sau khi cô nhận được giấy gọi nhập đoàn chèo tỉnh. Thật tình, Tấm không đang tâm tìm cơ hội phát triển tài năng nghệ thuật cho mình mà để lại đứa em trai chưa đến mười tuổi ở nhà một mình. Tấm đã mấy đêm mất ngủ, nước mắt vắn dài, đắn đo để đi đến quyết định không vào đoàn chèo tỉnh mà ở nhà làm ruộng nuôi em.  
          Cho đến giờ, chị cũng chẳng rõ quyết định ngày ấy của mình là đúng sai thế nào. Chỉ biết, chị không cảm thấy hối tiếc hay ân hận gì, thi thoảng lúc lòng dạ yếu mềm càm thấy chạnh lòng. Theo chồng về quê, một vùng đất viễn biên Tây Nam bộ, người ta thuần cải lương, vọng cổ, vui cũng ca mà buồn cũng ca, chị ngỡ quên hết những làn điệu chèo mà trước đây chị thuộc nằm lòng. Vậy chứ, thi thoảng, những lúc ở nhà một mình, chạnh buồn nhớ quê ngoài Bắc, chị cất lời hát đôi làn điệu Đường trường thu không, Đường trường trong rừng man mác, đủ buồn. Trong đầu chị vẫn âm u làn điệu Sử rầuLần thảm, nhưng nó bi ai quá, chị không dám hát vì sợ vận vào thân. Có lần, lâu lắm rồi, ấy là sau lễ Thất tuần bố chị, cám cảnh thân phận mình, phải ở nhà nuôi em, từ bỏ ước vào văn công để trở thành nghệ sĩ hát chèo, chị đã hát Sử rầu. Là hát cho sự chua xót nỗi lòng, thân phận. Và kể từ đấy, thôi hẳn. Cũng có khi, nhà có nhậu, anh Sáu, chồng chị ngà ngà say, khoe với bạn nhậu bảo chị hát chèo, chị giữ thể diện cho chồng, cất lời điệu Lới lơ vui tươi gây không khí. Lời hát thì vui, nhưng ngừng lời, lòng người hát lại buồn, nhớ quê da diết. Cả tuổi thanh xuân, lớn lên ở một làng quê Bắc bộ, cách sông Cái không xa, chị thân thuộc với mái nhà tường đất mái rạ, với con đường làng quanh co lát gạch nghiêng long lở, với những hàng rào râm bụt hoa đỏ, mây gai, hoặc ô rô, hay cúc tần có dây tơ hồng quấn quýt. Vùng quê chị, ngoài lúa còn có đay và đất bãi trồng ngô, Vào đây, cảnh sắc đồng ruộng khác hẳn, chỉ có lúa, tràm và cỏ dại. Một năm chỉ có hai mùa, mùa mưa thì hầu như ngày nào cũng mưa, nước sông Hậu tràn về mênh mông, chỉ có những ngọn núi vùng biên ải này là nhô lên và các chòm ấp cùng những hàng thốt nốt phất phơ trên biển nước trắng xóa một màu... Còn mùa khô thì cơ khổ, nóng và bụi, ba bốn tháng trời không một giọt mưa. Nắng chang chang từ mờ sáng đến mờ tối. Khói đốt đồng lên mờ mịt cả bầu trời. Lại thêm những làn bụi đường cuộn lên mỗi khi có xe chạy, khiến người đi đường và nhà cửa cặp mé lộ ngập chìm trong làn bụi đất. Cái kiểu thời tiết đặc trưng vùng miền này chị mãi không quen...
          Vùng đất Thất Sơn, đồng bằng lầy thụt xen lẫn núi này thật chẳng đâu có trong cả xứ miền Tây này. Anh Sáu, chồng chị bảo, cả vùng có tới hơn ba chục ngọn núi có tên gọi, nhưng người ta chỉ chọn bảy ngọn núi làm biểu tượng chính ấy là các núi Cấm, Tượng, Dài, Tô, Sam, Két, Tà Biệt. Cũng nhiều người kể tên khác, nhưng với chị thì như nhau cả thôi. Nhà chị ở cách chân núi Nam Vi không xa, nên chị hay lên núi này kiếm củi, tìm cây thuốc và dọn chút rẫy trồng khoai mì. Quê anh Sáu gần chân núi Dài, mỗi khi rảnh rỗi anh hay cùng đám bạn và người bà con lên núi đốt than và đi săn thú rừng.
          Yên ổn gia đình sau chiến tranh biên giới Tây Nam, anh Sáu cậy nhờ xin cho chị vào làm người nấu ăn bếp tập thể liên cơ quan huyện gồm nông, lâm, thủy lợi, cơ giới. Khu liên cơ đóng trong một khu vườn rộng hàng chục công đất, dày xanhg cây cối, những xoài, dừa, mãng cầu, vú sữa. Đây là một khu tịnh xá cũ vô chủ được trưng dụng do người chủ cũ bỏ lại chay ra nước ngoài dịp giải phóng niềm Nam năm 1975. Cả thấy vài chục người ăn tập thể, mình chị xoay xở cũng vất, phụ cấp thấp nhưng có việc làm và thu nhập là vui rồi. Có điều tiền ăn ít nên việc đổi món thật khó bề. Cứ ngày ngày, mớ cá rô, chia ra, nửa đem kho tiêu, nửa nấu canh chua me rau súng. Ăn mãi cũng chán. Mùa nước nổi về thì đỡ hơn. Chị lọ mọ lội nước cánh đồng trũng ngay sau cơ quan nhặt được ít cua đồng và vài bó rau muống đồng, về nấu riêu cua và rau muống xào tỏi, ăn lạ miệng, ngon đáo để.
          Chị vui hơn khi bếp ăn cơ quan đông thêm khi có người bổ sung. Ấy là mấy cán bộ kỹ thuật, trong đó có một chàng kỹ sư nông học mới tốt nghiệp ra trường được điều từ ngoài Bắc vào. Bảo, chàng ký sư trẻ này lại là đồng hương hàng tỉnh với chị. Vậy là hai chị em nhanh chóng thân nhau. Chị coi Bảo như cậu em trong nhà, quý như cậu Vinh, em ruột chị vậy. Bảo dáng dấp thư sinh, kiểu người ít lao động chân tay, là con trai duy nhất và út trong nhà, bên trên có mấy chị đỡ hết việc nặng nhọc cho, nên cậu ta chỉ biết đôi việc lặt vặt như chăn trâu, tát nước. Tiếp xúc gần, chị thấy cậu chàng hiểu biết, thông minh và ăn nói cũng khá. Ngày chủ nhật, hễ nhà có món nhậu là anh Sáu chồng chị lại sai con đi mời cậu Bảo đến nhậu cho vui. Bảo khéo tay, hằng tháng, cậu chàng đến nhà chị hớt tóc cho mấy cha con anh Sáu. Những ngày đầu, Bảo háo hức, còn đòi theo chị lên núi hái cây thuốc và kiếm củi về đun.
          Mùa đốt đồng, nhằm chủ nhật, chỉ rủ Bảo đi đốt rơm rạ trên mấy công đất trồng lúa của gia đình. Hai chị em kẽo kẹt đèo nhau bằng xe đạp xa gần chục cây số. Rồi lại băng ruộng mệt nhoài mới tới nơi. Hai chị em ôm rơm rạ chất thành đống, Chị quen việc không sao, chứ Bảo sức vóc thư sinh, làm một lúc đã mồ hôi nhễ nhại. Châm lửa đốt, khói lên nghi ngút về trời. Hai chị em ngồi nghỉ uống nước, ăn bắp luộc. Nhắc chuyện quê ngoài Bắc, Bảo nói nhớ nhà, nhớ mẹ. Chị cũng thấy nhớ, cất lời hát điệu Đường trường thu không. Lâu không hát, giọng không nhuần nhưng vẫn đúng giai điệu. Man mác buồn. Làn điệu chèo giữa đồng quê Tây Nam Bộ nghe có gì đó là lạ. Chị dứt lời, hỏi Bảo bớt nhớ nhà chưa, thì cậu chàng chỉ cười nhẹ, rồi đọc nho nhỏ mấy câu thơ. Chị nghe câu được câu mất, cũng là nỗi nhớ quê, nhớ mẹ, nhớ người yêu chi đó... Để ý, thấy cậu chàng rụi tay đầy nước mắt. Chị đùa là khóc nhè nhớ người yêu, thì cậu chàng chối, bảo khói đồng vào cay mắt thôi. Mùa đốt đồng, khói gọi khói, các đồng rấm rải trác khắp đồng nghi ngút như mây, cuộn lơ lửng trong nắng quái hoàng hôn đỏ bầm, ma mị, ám ảnh. Lúc về, thấy cậu chàng mệt, chị nhận phần đạp xe. Bảo ngồi sau có vè ngượng vì để đàn bà đèo, nhưng do mệt quá, tựa đầu vào lưng chị, thiu thiu ngủ thì phải. Bàn tay cậu chàng bám nhẹ vào eo bụng chị, vô tình tạo cảm giác lâng lâng, chị đạp mải miết mà không thấy mệt...
          Thấm thoắt vài năm qua qua nhanh. Bếp tập thể liên cơ quan giải tán. Chị mất việc làm, ở nhà trông giữ con, nuôi thêm bày gà và mấy con heo thịt làm vui. Không còn bếp ăn tập thể, Chi lo cho Bảo ăn uống thất thường, nhưng cũng may, cậu ta quen thung quen thổ, có chỗ thân quen đi lại và cũng thêm bạn bè nhậu nhẹt. Chị vẫn giữ lệ, hễ nhà có mồi nhậu ngon ngon chút là sai con đi mời cậu Bảo đến nâng ly làm vui. Cậu Vinh, em trai chị về quê ngoài Bắc khi trở vào đưa theo một người con gái họ bên mẹ chị. Những tưởng vào chơi thăm thú tính kế làm ăn, nào ngờ cô nàng ở tịt nhà chị, rồi hai anh ả lằng ngoằng với nhau có thai. Chị cản không được, hai đứa lấy nhau và xin ở riêng. Chị giận em trai mà cũng thương cho cái thân mình, nuôi em lớn nhưng bảo em không được, để ra nông nỗi này. Nghĩ mà buồn, thấy uổng phí cái công mình đã hy sinh cả thanh xuân, tài năng bỏ đoàn chèo ở nhà làm lụng muôi em trai mà giờ nó đổ đón ra thế. Hai nhà cách nhau có một quãng thôi, nhưng ít qua lại, vì cô em dâu bất đắc dĩ kia e ngại, tránh mặt chị. Tình thương em trai, chị chuyển sang cho Bảo. Chị chịu khó nấu nướng các món ăn kiểu Bắc mời Bảo đến ăn...
          Mùa nước nổi về, thật thích. Cả  cánh đồng mênh mông dưới chân núi Dài trắng băng một màu nước, ngút ngàn đến tận mạn kinh Vĩnh Tế. Người ta chị còn nhận biết đâu là lộ bởi những làn khói bụi đường, khói xăng xe bay lên, và đó đây hàng cây thốt nốt và dừa để phân định bờ đất.  Con đường dài mấy chục cây số từ thị xã Châu Đốc đi Tịnh Biên, Tri Tôn mảnh như một sợi chỉ, những hòn núi to như Cấm Sơn, Nam Vi và những quả núi nhỏ khác nổi lổn nhổn trên đồng nước chẳng khác gì đám dừa điếc khô rụng rơi nổi lềnh bềnh. Xa xa, bờ kinh Tám Ngàn ngày đêm rộn ràng tiếng ghe xuồng, tắc-ráng phành phạch. Nước lên to, cùng với tôm cá theo về là cua và chuột đồng. Chị và hai thằng cu con đầu, má con rủ nhau đi nhặt cua và bẫy lưới bắt chuột đồng. Cua thì con nào con nấy to cộ bò lổm ngổm cắt ngọn lúa, còn chuột đồng thì từng đàn bám đuôi nhau bơi thành dây, đớp đọt cỏ non trên mặt nước rồi leo lên thân dừa, thân cây thốt nốt, thân tràm trú ngụ khi no bụng. Thế nên, người miền Tây mới gọi chuột đồng tránh đi là sóc tràm cho bớt ghê... Chị tha hồ trổ tài bếp núc làm các món ngon như chuột đồng quay, chuột bỏ lu, cua đồng rang xả ớt, cua đồng muối nặm, hay nấu riêu chua me, hay nấu rau đay rau dền cơm... Anh Sáu, cậu Bảo có mồi ngon nhậu, còn đám trẻ con thì thức ăn đãy bụng.  Cả nhà tuần nào cùng vài ba bữa tưng bừng.
          Một lần, Bảo nghỉ phép ra Bắc cả tháng, trở vào, dáng vẻ buồn buồn ít nói. Chị làm đồ nhậu, để anh Sáu và Bảo cụng ly mừng gặp lại sau chuyến đi phép của Bảo. Bữa nhậu, chị hỏi han luôn miệng, nhưng Bảo chỉ trả lời cầm chừng, mặt mũi vẫn không vui lên chút nào. Đoán có chuyện, nhưng chị không nài hỏi thêm. Thời gian sau, Bảo lăn ra sốt. Sốt rét. Vùng này nổi tiếng là vùng sốt rét. Những ai từ vùng khác đến đây sinh sống, dù có giữ gìn mấy thì không trước thì sau cũng nhiễm sốt rét. Chị và mấy người quen lo thuốc thang, cơm cháo cho Bảo. May mà cũng nhẹ nên nhanh qua khỏi. Nhưng sau trận sốt, Bảo gày và xanh xao, cử chỉ chậm chạp, tính tình mềm yếu hẳn đi. Chị thương Bảo nhiều, nhưng cũng chẳng thể giúp gì hơn. Chị luấn quấn với đám con đã mệt nhoài ra rồi, nay lại mới mang bầu đứa nữa, chẳng biết sẽ xoay xở ra sao đây. Mỗi chủ nhật, không phải đi làm, Bảo hay ra nhà chị, có việc vặt gì thì làm giúp. Chị cũng lấy đó làm vui.
          Mùa hè năm ấy, hai thằng cu lớn được nghỉ hè. Anh Sáu hứa cho chúng theo lên rãy làm khoan mì và dạy cách làm than củi. Bữa cơm trước khi lên rẫy, có mấy ký thịt nhím rừng do một người quen bẫy được gửi cho, chị trổ tài làm món xào lăn xả ớt và món cà ri ăn với bún. Anh Sáu và Bảo cụng lý liên tục. Chị ăn qua loa rồi ra xếp đồ đạc cho mấy cha con ở rãy cả tuần. Buổi chiều, anh Sáu đánh xe bò chở đầy nhóc đồ đạc lên rãy. Hai thằng cu con mừng vui gõ vung nồi hát váng lên. Chị dọn dẹp nhà cửa. Bảo quá chén, nằm bệt ở bộ ngựa gian ngoài ngủ ly bì. Chốc chốc cậu chàng lại ngóc đầu dậy thổ ra chiếc chậu chị đặt sẵn bến dưới. Rõ khổ, bữa nay quá chén, lại cảm gió chi đây nên mới như vậy. Chị lấy nước cho Bảo uống, rồi bắt cậu chàng nằm sấp để chị giác gió khắp lưng. Nghe chừng cũng đỡ nhiều, nên Bảo ngủ thiếp đi.
          Trời sẩm tối. Chị bắc nồi cháo lên bếp để lát cho Bảo ăn giã rượu. Tắm táp cho đứa bé và lấy cơm cho ăn, rồi chị đi tắm. Cái buồng tắm đơn sơ phía sau buồng trong và bếp, được quây bằng lá dừa khô, cũng chỉ để cho đàn bà con gái dùng thôi, chứ đàn ông thì khỏi cần. Là cách nhớ thế thôi, chứ lúc tối trời, chị ngồi cạnh lu, cởi bỏ áo múc nước dội lên người loáng chút là xong, lâu thành quen thế rồi. Dân miệt này các nhà đều vậy cả. Vừa dội nước, nhìn mảnh trăng non nhô đầu núi, tự nhiên vui miệng, chị nhớ đến một điệu chèo và cất tiếng khe khẽ hát. Bỗng cảm giác có gì là lạ, bèn ngoái nhìn, chị giật mình vì thấy Bảo đang đứng ở cửa bếp gần sau lưng chị lặng nhìn. Chị khẽ kêu ối. Bảo ấp úng: “Đang mơ ngủ, nghe như ai hát... Thì ra là... Chị hát chèo hay quá...”. Chị lúng túng, quờ tay lấy cái áo vắt nhanh lên bờ vai che ngực: “Ồ, cậu Bảo...  đã tỉnh rượu rồi ha? ... Chị xong rồi đây. Cậu vừa xỉn dậy, chớ có tắm mà cảm đó nghen...Lau người qua cho mát thôi,... để chị lấy cháo cho cậu ăn. Cháo ngon lắm...”.  Chị cũng cảm nhận giọng nói không bình thường của mình. Bảo vẫn đứng nguyên đấy, nhưng ý tứ nhìn nghiêng ra mé lộ: “Em vẫn mệt lắm... Bụng còn  nôn nao. Chỉ thấy khát nước thôi...”. Nói rồi Bảo trở lui, đi ra buồng ngoài. Chị vội vàng thay quần áo, luýnh quýnh thế nào, xỏ nhầm cả ống quần...
          Chị dọn mâm. Mâm cơm chỉ có hai người. Chị ăn những thức ăn cũ còn lại từ bữa trưa. Bảo ăn cháo, món cháo thơm ngon mùi gạo mới, có thịt nhím băm nhỏ, bỏ hành răm cho giải cảm. Bảo ăn uể oải, cố ăn hết tô cháo để chiều lòng chị. Bữa ăn kéo dài, vừa ăn vừa chuyện. Lúc này, chị mới lựa lời hỏi chuyện Bảo chuyến ra Bắc vừa qua. Bảo nói mẹ câu năm nay yếu nhiều, nên đang tính gắng ở lại đây một thời gian rồi ra Bắc xin việc. Chị chỉ biết nói lời động viên, nhưng thực lòng, nếu Bảo ra hắn ngoài Bắc, chị sẽ rất buồn, cảm như mình mất đi chỗ dựa tinh thần. Bảo định xin phép về khu liên cơ thì chị gàn, bảo ở lại đây ngủ, bởi sợ người còn yếu, sợ đêm hôm ngoài trời gió máy, ngộ nhỡ làm sao thì khổ. Không hiểu sao, chị muốn Bảo ngủ lại. Rồi chị xếp mềm gối bộ ngựa gian ngoài dọn chỗ ngủ cho Bảo. Cậu chàng chỉ còn biết nghe theo. Còn chị và đứa nhỏ ngủ buồng trong...
          Chị và Bảo lội bì bõm bắt cua trên đồng ngập nước mênh mông. Thảm lúa hè thu bị lướt đi bởi nước ngập tận ngọn. Cỏ năn nác mọc chen lẫn. Những con cua càng to kềnh càng chẳng sợ người, lổm ngổm trên ngọn co giơ càng nghiến cắt ngang ngọn lúa, thấy động thì lấc láo cặp mắt lồi thô lố ra nhìn và giương càng lên phong thù chứ không them bò chạy. Chị lựa chiều tay tránh càng. chộp ném vào chiếc thùng tôn. Bảo vụng về hơn nên thỉnh thoảng bị cua cắp tay đau kêu oai oái. Đang mùa mưa lũ, mây đen kéo lên rất nhanh rồi mưa xuống như trút. Chị em hò nhau chạy mưa lên bờ kinh, tìm chỗ trú mưa. Chạy vội, chị vấp chân trong bùn ngã rúi rụi xuống ruộng nước. Bảo vội chồm tới đỡ chị lên. Mưa ngập ướt, quần áo bết vào người, Bảo giúp chị gột bùn đất, chẳng hiểu vô tình hay hữu ý, tay Bảo quờ quạng đụng vào bầu ngực căng mẩy của chị...  ”Ấy đừng... đừng...”, chị buột miệng và bừng tỉnh. Thì ra chị vưa thiếp đi, mê ngủ vậy thôi. Đang ngẩn ngơ hư thực, trong ánh sáng mù mờ của ngọn đèn hãm nhỏ treo trên bếp, chị nhột người nhận ra Bảo đang ngồi ghé mép giường ngủ, Chị nhắm mắt vờ ngủ thì Bảo khẽ cúi người xuống, chạm nhẹ môi vào trán chị, rồi lướt khẽ chạm vào đầu mũi và dừng ở môi chị. Chị mơ màng êm ái tận hưởng sự đụng chạm. Rồi nữa, đôi bàn tay Bảo đặt vào hai bầu ngục chị đang căng mẩy lên. Và một bàn tay rời bầu vú trướt nhẹ xuống dưới thân, lập tức chị hiểu cái đích đến của bàn tay ấy nhưng khi nó lướt đến cái bụng bầu thai mấy tháng lùm lùm thì dựng lại... Bảo rút tay lên e dè... “Đừng...đừng...”. Chị khẽ đảy tay bảo, ngồi dậy. Phía trong giường, đứa bé vẫn ngủ say... Bảo lắp bắp: “Nước...khát nước”... Chị chỉ chỗ, Bảo chui ra khỏi mùng, rót nước ra cốc, uống ừng ực, thở hổn hển, tần ngần rồi trở ra buồng ngoài. Chị không tài nào ngủ lại được nữa, nghe tiếng Bảo lát lát trở mình, thở dài... Vắt tay ngang mày, suy nghĩ đắn đo một hồi, chị nhỏm dậy, nhìn đứa bé con vẫn say ngủ, nén thở, ra khỏi màn. Chị thổi tắt ngọn đèn dầu hãm nhỏ ở bếp, rồi nhẹ chân ra buồng ngoài. Ánh sáng sao đêm hắt qua cửa sổ sáng mờ. Chị rón rén đến ghé ngồi bên mép bộ ngựa nơi Bảo ngủ. Chị nghe rõ tiếng thở và nhịp tim mình đập mạnh. Như hồi chị con gái mới lớn lén ghé bên hàng rào nhìn trộm chàng trai trẻ hàng xóm sắp vào quân ngũ. Chị lưỡng lự, rồi đặt bàn tay khẽ vuốt mái tóc Bảo. Cậu chàng nằm co như con tôm, quay mặt vào trong, im thít như ngủ. Vuốt tóc Bảo một lát, chị mạnh bạo co chân vào trong mùng, xoay mình nhẹ nhàng nằm xuống bên cạnh, choàng tay ôm Bảo vào lòng. Nghe tiếng thở, chị biết Bảo thức nhưng nằm im không phải ứng. Tay chị vòng ôm bụng Bảo vừa khẽ kéo vào lòng vừa nhích mình để hai thân thể vừa khít cánh cung. Chị cảm nhận bầu ngực mình khẽ tì vào lưng Bảo. Im lặng . Chị đưa tay chạm khuôn mặt Bảo thì thấy ươn rướt. Vai Bảo khẽ rung và chị biết Bảo khóc. Chị lặng lẽ cởi cúc áo để bộ ngực trần chà nhẹ. Bảo nấc nhẹ, nhệu nhạo “Cô ấy không chờ đợi được nữa... bỏ... nhận lời với người khác rồi...”.  Chị không kìm mình được nữa, đột ngột xoay người Bảo và cậu nương theo ấp cả khuôn mặt mình vào bầu ngực chị. Bảo rụi rụi mặt, nức nở thành tiếng. Chị ghì đầu bảo vào bộ ngực trần của mình, cảm nhận nước mắt Bảo ướt dẫm hai bầu vú, vỗ về: “Thôi nào... Khổ thân... Tội nghiệp quá... Không sao đâu....”. Bảo cứ lắp bắp, chẳng rõ nói gì. Rồi đôi môi Bảo ngập ngừng chạm vào đầu vú chị đang mẩy căng của người đàn bà mang bầu, bên này rồi bên kia, như một kẻ tham lam, háu đói, lâu ngày... Tay Bảo lần sờ xuống thân dưới chị, bắp đùi, bẹn, lướt nhẹ qua vùng kín và dừng lại ở vòm bụng lùm lùm. Chị ý thức, đưa tay mình ấp lên bàn tay Bảo ở vòm bụng, giữ không cho bàn tay ấy di chuyển nữa. Bảo không dám nhúc nhích, nhưng người như căng lên như cánh cung đang kéo chờ buông dây... Chị nén mình thở trút ra thật nhẹ kiểu đánh úp, một tay chị vẫn giữ bàn tay cậu trên bụng mình, tay kia chị rờ nhẹ lướt từ bụng xuống dưới chạm chỗ phồng căng, dừng lại... Chị nhắm nghiền mắt, sợ mở mắt ra thì tỉnh cơn mê mà ý thức... Trong mê loạn, vô thức, bày tay chị làm trò ảo thuật, Bảo ngậm cả bầu vú chị đầy miệng, bên này, nhả, bên kia, lập bập, mê mẩn... Cả hai mê sảng, tê dại, lịm đi...
          Chị bừng tỉnh, ý thức. Bảo vẫn ngậm bầu vú ngủ lịm. Hai bàn tay trên vòm bụng vẫn ấp vào nhau, chị khẽ rút bàn tay kia dính dấp và cảm nhận mình ướt át. Lặng im, chị khẽ thở dài, nhích người rút bầu vú ra, ngồi dậy, cài khuy áo, nhẹ ra khỏi mùng. Hình như trời đã dần về sáng. Trở vào buồng trong, không dám thắp lại đèn, vì không muốn cơn mộng mị tan mất, lần mò bóng tối rút then, mở cửa sau, ra lu nước, rửa qua mình mẩy. Trở về giường, ghé nằm xuống cạnh con, chị vẫn lâng lâng. Tự hỏi lòng mình, tình cảm với Bảo như thế nào, rồi nhủ lòng, đương nhiên như cậu em quý mến rồi. Gì nữa? Chắc có chút tình cảm ngoài tình chị em, bởi không sẽ chẳng thể có chuyện này?... Thực ra, cả thời thanh xuân, xinh đẹp, chị đã từng yêu ai đâu, ngoài bóng dáng anh chàng hàng xóm có họ xa, điển trai, vừa kịp lớn đã vào lính rồi hy sinh. Với chồng chị, anh Sáu, ấy là sự cảm thông, tình thương dành cho một người đàn ông lớn tuổi, xa quê phải sống độc thân nơi đất Bắc, là sự đền bù cá nhân nhưng lại mang cái danh chung dành cho miền Nam còn trong cảnh chia cắt, là nghĩa vợ chống chung con chung của. Mang tiếng là ngấn ấy mặt con, ăn ở với nhau hơn chục năm trời, đêm đêm đầu gối tay ấp, nhưng chị luôn là người thụ động, nhiều khi là cam chịu. Đã bao giờ chị chủ động và quyết liệt trong bày tỏ tình cảm của minh đâu. Chị có băn khoăn, dẫu sao chị là gái có chồng, gần sắp bốn đứa con, nhưng chị mới ngoài ba mươi tuổi thôi mà, vẫn còn trẻ đẹp, hấp dẫn lắm .. Chẳng hiểu Bảo có ý thức tình cảm của chị không, hay là cậu ta chỉ nghĩ về cô người yêu cũ và coi chị như một kẻ thay thế chốc lát lúc cô đơn? Thôi kệ, nghĩ nhiều mà làm gì, chị tin vào sự thành thật của mình và sự đón nhận nồng nhiệt của Bảo, xem như một sự an ủi với cả hai. Chị thiếp đi...
          Cả nửa tháng sau đó, Bảo không qua nhà chị. Còn chị chút lăn tăn nhưng bận rộn quên đi. Anh Sáu và hai đứa lớn từ rãy trở về nhà. Nhịp sống thường ngày hối hả. Rồi không nén được, chị đi chợ thị trấn và tiện thể ghé qua căn phòng tập thể của Bảo ở khu liên cơ. Bảo có nhà, đang ôm ghi ta tập một bài gì đó. Chị chủ động: “Lâu lâu không thấy cậu ghé nhà, chị đi chợ, vào thăm sợ cậu đau yếu chi ?...” . Bảo cười gượng: “À không... em bận vừa đi xã mấy hôm mới về, chị...”. Chị em đôi câu chuyện không đầu cuối, chị để lại bịch vài chục trứng: “Cậu nhớ ăn, kẻo một mình ngại nấu, ăn qua loa là không đủ sức khỏe đâu... Cậu nhớ vừa  qua sốt rét đấy nha...”. Chị ra về, Bảo tiễn chị một đoạn đến cổng cơ quan, lúng búng: “Chị Tấm... em thật có lỗi...”. Chị nhìn Bảo, cười buồn: “Bữa nào rảnh qua nhà... lỗi chi đâu... là ở chị... Để chị bảo anh Sáu kiếm chút mồi, cậu qua nhậu cho vui... Anh Sáu lâu không thấy cậu, nhắc hoài đó... Đâu như anh có cái dạ dày nhím rừng mang ngâm rượu, nói là xớt cho cậu một phần dành để chữa bệnh đâu bao tử... Quý lắm đó... Nhớ qua chi nghe...”. Bảo gật đầu...
          Ít ngày sau, Bảo nói nhận thư nhà, rồi cậu chàng làm đơn xin nghỉ không lương ra Bắc chăm mẹ bệnh nặng. Chừng mấy tháng sau, Bảo trở vào, làm thủ tục chuyển công tác ra Bắc hẳn. Cậu chàng bận rộn thủ tục giấy tờ, chào hỏi, chia tay người quen bạn bè, nhậu liên miên cả tuần. Trước hôm đi, Bảo mới dành ăn bữa cơm chia tay với gia đình chị. Bữa cơm bùi ngùi, người đi kẻ ở. Chuyện đêm ấy, chị không nghĩ là mình dâng hiến, đơn thuần, có thể, đấy là lần cuối cùng ngọn lửa tình dục trong chị bùng cháy, để rồi dần tàn lụi. Bảo ít nói, trong khi anh Sáu liên thuyên đủ chuyện, say líu cả lưỡi. Chị phải gàn anh chớ ép rượu Bảo để cậu tỉnh táo sớm mai đi xe về Sài Gòn. Ánh mắt chị và Bảo thỉnh thoảng gặp nhau, soi rọi nỗi niềm riêng. Đêm ấy, anh Sáu tỉnh rượu, cứ vần vò này nọ, thây kệ cái bùng chềnh ềnh sắp sinh của chị...
          Bảo ra Bắc ít ngày thì chị sinh bé Út Hường. Vậy mà, cho đến khi, Út Hường học xong, đang lo xin việc làm thì Bảo trở lại mảnh đất này. Bảo đã là người đứng tuổi, chững chạc, và là người thành đạt, có con lớn đang học đại học rồi. Hơn hai mươi năm qua, chị không gặp lại, dù thi thoảng vẫn nghe được tin tức này nọ. Bảo già đi nhưng vóc dáng vẫn kiểu thư sinh xưa. Còn chị đã thành bà lão rồi. Gánh nặng gia đình đông con, chồng quanh năm say xỉn khiến khuôn mặt xinh đẹp nét Tây xưa đầy nếp nhăn, và đầu tóc rụng thưa vãn, thân hình dỏng cao thành gù xuống. Hai chị em khi thì tranh nói, lúc lại lặng thinh. Ngần ấy năm xa cách, chị rất sợ vầy mà đã vài lần phải hát điệu Sử rầu. Chị phải tiễn biệt anh Sáu và hai kẻ đầu xanh, đứa do tai nạn, đứa thì bệnh tật. Chị đứng vững trên cõi đời này đã là khó nhọc lắm rồi. Nhưng nay chị có chút niềm vui, vì sau lần trở về thăm chốn cũ, Bảo nhận lo việc làm cho Út Hường, và nhờ đấy, bé lập gia đình, làm chỗ dựa cho chị. Chị theo vợ chồng Út Hường lên thành phố giữ cháu. Ở thành phố, đông vui là thế, nhưng chiều chiều, chị lại bồng cháu ra ngõ, nhẩn nha hát ru, ngóng về miền Tây mà nhớ quay nhớ quắt ruộng đồng mênh mông, kinh rạch và bóng núi Dài, núi Cấm...
          Thấm thoắt, giờ thì cô Tấm xinh đẹp hát chèo hay nhất làng ngày xưa đã là một bà lão gần bảy mươi lưng còng xuống, sống ở căn nhà nhỏ trên nền đất cũ gần ngã ba lộ. Mùa đốt đồng, mỗi chiều bà lão hay kê ghế ngồi trước sân nhà hóng mặt về phía đồng xa, nơi những cuộn khói đốt đồng đùn lên quấn quện thành những dải mây. Mắt bà rớm nước, chắc không phải do khói đốt đồng cay mắt... ./.

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( II ) - 29.07.2021 19:11:15
 
Phùng Quán,
người đi trọn đời mình trên con đường sự thật !...
 
 
          Vài ba năm nay có mấy sự kiện trong thế giới sách ở Việt Nam. Sách dịch thì có mấy cuốn thuộc diện best seller là Rừng Na-uy, Biên niên ký chim vặn dây cót, Kafka bên bờ biển ( Murakami ), Cô đơn trên mạng (Wisnewski) , Tô-tem Sói (Khương Nhung ), Kitchen ( Banana Yoshimoto ), Mật mã Da Vinci, Thiên thần và ác quỷ ( Dan Brow )... Sách trong nước thì phải nói, ồn ã nhất là cuốn tự truyện Lê Vân yêu và sống, rồi đó là cuốn tiểu thuyết Mẫu thượng ngàn của Nguyễn Xuân Khánh. Gần đây thì đồng thời là tiểu thuyết Ba người khác của Tô Hoài, hồi ký văn học Ba phút sự thật của Phùng Quán v.v...
          Đọc Ba phút sự thật của Phùng Quán, tôi thực sự ngỡ ngàng. Ngỡ ngàng bởi những thông tin, câu chuyện, những chân dung con người, trong đó có mấy người rất nổi tiếng, mà tôi vốn chỉ biết lờ mờ, như Trần Đức Thảo, Nguyễn Hữu Đang, Phùng Cung, Tuân Nguyễn... Ngỡ ngàng bởi văn viết giản dị, chân tình, sâu sắc, cuốn hút và cũng rất chi là trách nhiệm. Điều quan trọng, là qua tác phẩm này, tôi có hình dung đầy đủ hơn về một Phùng Quán, đến mức dù chỉ thấy ông có một lần, nhưng giờ thì tôi có thể phác thảo một chân dung ông, chí ít là theo sự mường tượng và cách nghĩ của riêng tôi.
          Vâng. Tôi đã diện kiến Phùng Quán một lần. Đúng một lần thôi, song khá ấn tượng, bởi trong một hoàn cảnh rất chi là ấn tượng.
          Tôi sẽ trở lại sự diện kiến Phùng Quán sau, để nói về những gì mình biết về ông qua dư luận. Rằng ông vốn là cháu bên ngoại với nhà thơ Tố Hữu, trước khi bước vào làng văn chương, từng tham gia vệ quốc đoàn từ lúc còn nhỏ tuổi, tưng chiến đấu nhiều năm ở mặt trận Thừa Thiên Huế quê hương mình. Tác phẩm khiến độc giả biết đến Phùng Quán là tiểu thuyết Vượt Côn Đảo, được xuất bản khá sớm và còn được giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam, nghe đâu còn được xuất bản bằng tiếng Nga, rồi ai đó lại dịch từ tiếng Nga ra tiếng Việt để in ở Việt Nam. Rồi sau đó ông bị dính vào án văn chương mà mất tên trên diễn đàn văn học nước nhà. Lại nghe tiếp rằng ông chuyên sống bằng nghề câu cá Hồ Tây và vẫn viết văn, đăng báo, in sách dưới bút danh và cả tên người khác, những người thương ông muốn giúp ông không dứt đoạn mạch văn chương và quan trọng hơn cả là ông có một khoản thu nhập để sinh sống cùng giúp giập thêm gia đình. Vì thế mới có cái đuôi gắn vào thành Phùng Quán- cá trộm văn chui . Mới nghe thế thôi cũng đã ly kỳ rồi.
          Tôi diện kiến Phùng Quán trong không khí đổi mới về văn nghệ, không nhớ chính xác là vào năm 1989 hay 1990. Trước đó, hàng loạt văn nghệ sỹ thuộc diện có vấn đề trước đây, người trước kẻ sau xuất hiện trở lại với các sáng tác đăng rải rác trên báo, hoặc xuất bản cái mới, tái bản cái cũ như Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Hà Minh Tuân, Văn Linh, Vũ Bão ... Riêng Phùng Quán tái xuất giang hồ văn chương với bộ tiểu thuyết Tuổi thơ dữ dội, và đã thành công vang dội. Sự thành công của bộ tiểu thuyết cùng người cha tinh thần của nó đã vượt ra khỏi địa hạt văn chương tràn sang cả điện ảnh khi nó được chuyển thành phim truyện. Bộ phim cùng tên do đạo diễn Vinh Sơn dựng.
          Lần ấy, nhà thơ Trần Phương Trà ( Trần Nguyên Vấn ) rủ tôi và một vài đàn em báo chí đến dự buổi chiếu phim ra mắt bộ phim Tuổi thơ dữ dội do Hội đồng hương Huế tại Hà Nội tổ chức ở Hội trường Bộ Tài chính vào ngày chủ nhật. Tôi nhớ, người đến dự khá đông, phần lớn là những ngưòi lớn tuổi nói giọng Thừa Thiên Huế, số ít là thân nhân gia đình họ và bạn bè kéo theo xem ké vì hiếu kỳ, giống như chúng tôi. Trước buổi chiếu, ban tổ chức có đôi lời phi lộ, rồi mời Phùng Quán lên bày tỏ tình cảm và cảm ơn. Phùng Quán lên, chưa kịp nói gì mọi người đã vỗ tay hoan nghênh, không khí khá náo nhiệt. Hình như, sau nhiều năm sống lặng lẽ trong lãng quên của độc giả, bầu không khí náo nhiệt ấy và tấm thịnh tình của mọi người, ông lặng đi. Hắng giọng mấy lần rồi ông cũng lên tiếng, giọng hơi run vì quá xúc động. Ông nói chậm rãi, đưa mắt quan sát khắp hội trường, như vừa nghe ngóng xem người ta đón nhận những lời phi lộ của mình thế nào. Rồi giây phút ấy qua nhanh, ông nói liền mạch và cũng đỡ xúc động hơn. Tôi không nhớ lắm những gì ông nói, song cũng chỉ loanh quanh việc tiểu thuyết của mình được xuất bản, được dựng thành phim và cảm ơn những người đồng hương, anh em bạn bè và đông đảo độc giả khán giả đã đón nhận... Khi ông đang say sưa nói, chợt có một người đứng tuổi, ngồi phía sau hàng ghê chúng tôi, đứng lên, nói rất to, đại ý rằng, Phùng Quán không được nói thế, định nhân cớ mượn diễn đàn tự minh oan hay diễn thuyết gì ở đây ? Hãy xuống đi. Phùng Quán khựng lại, tắc nghẹn họng. Tôi thấy, miệng ông há ra, không thành lời và cũng không khép lại được, như cá đớp khi khi mắc cạn. Thật khó mà biết được diễn biến tình cảm, tâm lý ông lúc ấy. Dáng người thô ráp khắc khổ của ông sụn xuống. Trong sự ngạc nhiên, sự bất bình phản đối của nhiều người với ý kiến của người vừa nói, ông cố gắng như kẻ  ngọng tập nói cho sõi mấy câu cảm ơn ngắn rồi xin phép xuống. Giọng ông tôi thấy có nước mắt !... Buổi chiếu phim bắt đầu khi mọi người vẫn con ấm ức bàn tán khen chê, bày tỏ thái độ và sự phân bua của chính người cắt ngang vừa nãy... 
          Cả buổi chiếu phim rất dài, mặc dù nhiều tình tiết phim cuốn hút, song tôi không tài nào gạt bỏ được hình ảnh Phùng Quán trước buổi chiếu. Ông ngồi ở hàng ghế đầu, cách chúng tôi dăm hàng, nên tôi chỉ thấy cái đầu bù của ông nhô lên trong bóng tối. Và dường như nó cứ to lên, to lên dần, choán hết màn ảnh. Có lẽ do chịu ảnh hưởng của sự việc vừa rồi nên tôi thấy thế chăng ? Tôi không phán xét việc làm của người nọ đúng sai thế nào, nhưng với Phùng Quán, ứng xử với ông như vậy thì có gì đó bất nhẫn, thậm chí là tàn nhẫn. Thực lòng mà nói, khi ấy, tôi cũng thấy giận người đã hét to làm gián đoạn lời phi lộ của Phùng Quán trước buổi chiếu. Đoạn kết, bộ phim dừng ở chi tiết khá đắt, đó là chú bé Mừng bị đồng đội, bạn bè nghi ngờ phản bội, chú đã kêu lên rằng Tôi không phản bội . Tiếng kêu ấy vang vọng khắp núi rừng, núi rừng nghe thấy đấy, song đồng đội có biết cho chăng ? Chẳng cần phải liên tưởng gì thì cũng nảy sinh trong tôi cái ý nghĩ rằng, chú bé Mừng ấy là Phùng Quán, nếu không, chí ít cũng kêu hộ nỗi lòng Phùng Quán ?   
          Sau này, tôi không đọc thêm tác phẩm nào củn Phùng Quán nữa, ngoài đôi ba bài báo trên Tiền Phong. Sự nghiệp văn chương của ông, trừ những tác phẩm viết cho thiếu nhi ký bút danh hoặc mượn tên người khác  (văn chui ), còn lại đều được. Tuy nhiên, tôi không thích lắm, dù rất quý trọng sự chân thật và thô nhám trong văn của ông. Song đến tập sách Ba phút sự thật ( NXB Văn nghệ- Tp.Hồ Chí Minh-2006 ) thì tôi vừa kính phục vừa thích. Bài đầu tiên của tập là một tuyên ngôn nghệ thuật của Phùng Quán, những câu chuyện, những con người trong cả tập sách đều đáng nể. Tôi đặc biệt thích các thiên hồi ký về Tuân Nguyễn, Nguyễn Hữu Đang, Trần Đức Thảo, Phùng Cung... Đọc tác phẩm này, tôi bất ngờ về tài viết tiểu luận và chân dung văn học của Phùng Quán. Quan trọng hơn, qua đây người ta còn có thể thấy được nhân cách của ông. Không có gì là quá, khi bài sau cuốn sách trích bài viết Đứa con không quên lời mẹ dặn của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường về cuốn sách này  : " Đây là một lời tự bạch phản ánh chân thực nhân cách nhà văn của Phùng Quán: Khát vọng suốt đời về sự thật. Bởi sự thật không phải là thứ có sẵn như chiếc bật lửa trong túi áo, mà chính là số phận và khát vọng của Nhân Dân. Nhân Dân là Người Mẹ đẻ đau mang nặng để sinh ra đứa con làm Nhà Văn, và vì thế, đứa con Phùng Quán suốt đời không quên Lời Mẹ dặn :
                   Người làm xiếc đi trên dây rất khó
                   Nhưng không khó làm bằng nhà văn
                   Đi trọn đời mình trên con đường chân thật ".
          Tôi nghĩ, với bộ tiểu thuyết Tuổi thơ dữ dội, nay là tập bút ký và chân dung văn học Ba phút sự thật, nhà văn Phùng Quán đã thực hiện được lời mẹ dặn, là : Đi trọn đời mình trên con đường sự thật !...
 
 
 

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( II ) - 08.08.2021 19:41:53
Nữ bác sĩ mê văn chương
( Chân dung văn học bác sĩ Trương Thị Mầu )
         
          Vào chiều muộn ngày 30 tháng 4 năm 2020, trên trang Facebook cá nhân, nữ bác sĩ người dân tộc Mường-Trương Thị Mầu, Giám đốc Phòng khám đa khoa Lương Điền, huyện Bá Thước, tinh Thanh Hóa đã viết một tâm sự ngắn như sau:
Lại một ngày như thế.
Lẽ ra hôm nay là ngày vui vẻ (30/4) gia đình cũng tổ chức một bữa tiệc mừng ngày đất nước thống nhất. Kết thúc buổi chiều chuẩn bị tắm gội và nghỉ ngơi thì “Bác ơi có bệnh nhân cấp cứu”- một thanh niên bế một cô gái máu me bê bết đầy quần áo, mặt trắng bệch. Chợt nghĩ hay bệnh nhân chửa ngoài tử cung. Siêu âm kỹ không phải, cô gái cam đoan cháu không thể có bầu đâu bác ạ. Chắc là cháu xuống kinh nhiều nên choáng thôi, Huyết áp tụt. Với trực giác có gì không ổn, “Để bác khám sản cho cháu nhé”. “Cháu không khám đâu, cũng không thể truyền dịch được vì lâu quá, cháu phải về vì chỉ xin phép bố mẹ đi chơi một ngày thôi, cho cháu xin đơn thuốc về điều trị”. Mình cho tiêm trợ lực, cô ta vào nhà vệ sinh bị xỉu luôn, cậu con trai bảo cứ truyền dịch cho cô ấy bác ạ. Đúng như tôi dự đoán, cô bé bị chấn thương đường sinh dục rất phức tạp. Cậu con trai ấp úng “Chúng cháu... lần đầu..  Bác ơi, bây giờ phải chuyển tuyến hay làm sao bây giờ. Chúng cháu sợ quá”/ ”Bác sẽ khâu cho cháu, vì chuyển tuyến chỉ cần chảy thêm chút nữa là kiệt máu chết đấy, bác sẽ tiêm giảm đau, tất nhiên vẫn đau nhưng chịu được. Cháu có thể suýt xoa, khóc nhưng không được giãy giụa nghe chưa”. Vừa hồi sức vừa đánh vật, khẩu trang, mồ hôi, kính mờ, mắt cay, hẹp, ánh sáng nhập nhoè, mình già thật rồi, gần 2h ba bác cháu tôi mới hoàn thành ca phẫu thuật. Truyền gần 3 chai dịch, uống bịch sữa cô ấy dần tỉnh táo trở lại, nhưng rất mệt mỏi, tôi lấy 2 lát sâm ngâm mật ong cho cô ấy nhai rồi hỏi chuyện/ “Bác ơi có ảnh hưởng gì tới chuyện có con sau này không”/ “Không, nhưng về tâm lý thì cậu phải vượt qua một số chuyện”. Thì ra cô ấy, 23 tuổi, tốt nghiệp đại học sư phạm văn, đang chờ việc, đi chơi với người yêu. Mình bảo cô giáo gì mà bé thế, cô ấy bảo tại dạo này cháu bị áp lực lo lắng xin việc, lo thi công chức, cô ấy sút 7kg từ 50kg còn 43kg. Lần đầu tiên đi chơi xa với người yêu, hẹn cuối năm cưới.. Cậu là người có học, lại học khoa văn mà thiếu kiến thức về kỹ năng sống thế sao. Cả việc stress do chưa xin được việc nữa, mới 23 tuổi đầu. Rất nhiều người học đại học đi xuất khẩu lao động, vào làm việc trong các công ty cậu biết không . Trong lúc theo đuổi mục tiêu chính cậu cần phải trải nghiệm trong cuộc sống, Thử làm bất việc gì miễn là kiếm ra tiền, đừng phạm pháp là được, thất bại cũng không sao, cuộc sống sẽ dạy ta phải làm gì để tồn tai. “Bác nói chuyện thật thú vị”, cô ấy cười, cũng xinh. Rồi cô ấy nói: “ước gì cháu mạnh mẽ được như bác. Hôm nay bác không chỉ cứu mạng cháu mà bác còn cho cháu hiểu ra nhiều điều. Cám ơn bác rất nhiều”/”Điện thoại của bác đây, cần gì hỏi sau, truyền xong chai dịch có thể về, không cần cám ơn, đừng làm phiền bác, bác mệt rũ ra rồi”. Nhớ lại cách đây 3 năm cũng dịp 30/4 mình cũng xử lý một trường hợp tương tự, chỉ có điều cô bé mới học lớp 11, còn hôm nay là một cô giáo. Buồn. Những ngày 30/4 không vui nhưng cũng không hề dễ quên chút nào..”.
          Tôi mở đầu câu chuyện về một bác sĩ mê văn chương lại bằng chính câu chuyện của người bác sĩ đó về một chuyện không liên quan gì đến văn chương cả. Song tôi nghĩ, ai đó đọc câu chuyện bác sĩ Trương Thị Mầu vừa kể đây, sẽ hiểu ý nghĩa và giá trị nhân văn của nó, mà theo tôi, lý tưởng nghề nghiệp này đã khởi nguồn và dẫn dắt nữ bác sĩ theo đuổi con đường văn chương như một phép tu thân dưỡng tâm, tích đức, gột rửa tinh thần ?...
          1. Bác sĩ, nhà thơ Trương Thị Mầu.
          Sinh năm 1958, tuổi Mậu Tuất tại xứ Mường, chòm Măng, Lương Ngoại, Bá Thước Thanh Hóa, Trương Thị Mầu những mong ước học hành trở thành bác sĩ, để chữa bệnh cho bà con dân tộc Mường của mình. Theo học Y Khoa Thái Bình, tốt nghiệp, nữ bác sĩ trẻ người Mường giữ đúng lời hứa với lòng mình, trở về xứ Mường quê mình công tác. Năm tháng trôi qua, tận tụy công việc, Trương Thị Mầu trở thành giám đốc Bệnh viên đa khoa Bá Thước và được phong danh hiệu Bác sĩ ưu tú. Không an phận, thấu hiểu việc chăm sóc sức khỏa cho người dân vùng núi xa xôi hẻo lánh là cần thiết, khi nghir hưu, Trương Thị Mầu thành lập Phòng khám đa khoa Lương Điền tại quê, tự mình làm giám đốc và bác sĩ trưởng, tiếp tục sự nghiệp khám chữa bệnh cho người dân quê mình.
          Sinh ra trong chiếc nôi văn hóa Mường, thấm đãm bản sắc văn hóa dân tộc minh, Trương Thị Mầu yêu văn học và sáng tác thơ văn, xem văn chương như thuốc dưỡng tâm, dưỡng đức cho nghề y và cuộc sống của mình. Viết truyện, làm thơ như một cach ghi nhật ký. Cứ vậy, lâu ngày, tích lại nên gia tài nho nhỏ và hơn thế, Trương Thị Mầu trở thành nhà thơ của xứ Mường. Chị là hội viên Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Thanh Hóa, hội viên Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam. Tuy có viết một số truyện ngắn, truyện ký, song Trương Thị Mầu là một nhà thơ đúng nghĩa. Đến nay, chị là tác giả của 5 tập thơ: Nghiêng (2006). Bóng núi (2007), Mùa dậy sấm (2009), Người dưng (2012) và gần đây là Nương bóng nhà sàn,
          Đọc thơ Trương Thị Mầu, thấy sự nhất quán, điều này có nghĩa, xuất thân và nghề nghiệp để dấu ấn đậm nét trong tho ca,
 
2. Dấu ấn nghề y trong thơ văn Trương Thị Mầu,
          Mầu chuyện tôi trích ở phần đầu bài viết này chỉ là một trong rất nhiều câu chuyện hàng ngày mà Trương Thị Mầu ghi chép lại. Trên cơ sở những câu chuyện có thật rất chi sinh động ấy, chị chỉ cần lựa chọn, đẩy lên, gia công là thành truyện ký, truyện ngắn.  Khi cảm xúc dâng trào, thì thành thơ.
Một, hai, ba...cố lên, tim đã hồi!
Nhanh nữa lên, một hai ba: thở rồi
Thở đi em, sâu vào, mạnh nữa
Cho không khí ùa vào bầu phổi...
Máu cỉa em đang hồng trở lại
Đôi môi em thắm dần thôi tím tái
Và mắt em chớp chớp mở choàng
Bài thơThở đi emnữ bác sĩ kể chuyện, Thấy rõ, niềm vui vỡ òa sau một ca cấp cứu thành công, trào dâng thành câu chữ vần điệu. Mộc mac như câu nói thường tình nhưng đầy cảm xúc. Nhung rồi, đâu có được nghỉ ngơi để tận hưởng niềm vui:
Thày thuôc nắm tay nhau cười... ứa lệ
Bình tĩnh lại đi tiếp tục ca mổ nhé,
Còn một sinh linh đang đợi chào đời...
Ngay đó, người bác sĩ lại lao vào ca mới:
“Hãy đón lấy đây, mooyj bé gái/ Nhanh nhanh lên lại ấn thở, bóp tim/ Thở đi con,/ Kìa,/Thở đi con gái,/ Tiếng oa/ Vỡ òa.../ Thành ánh bình mình !”.
Lúc ấy, người bác sĩ mới cảm nhận được niềm hạnh phúc vô bờ khi mình vừa đem sự sống đến cho người khác:
Hạnh phúc nào hơn người thầy thuốc
như những thiên thần được chắp cánh bay lên,
Để có những tâm sự nặng nỗi niềm nghề nghiệp trong thơ văn của mình, Trương Thị Mầu đã gửi gắm ước mơ xanh từ ngày còn là sinh viên trường y cùng thày bạn, trên giảng đường. khi thực tập va cả buổi đầu cuộc đời bác sĩ của mình.
Chẳng thể nào quên ca mổ đầu tiên
Thiếu thuốc mê, thiếu người phụ mổ
Bệnh nhân đau đứt đoạn từng hơi thở
Qua khỏi rồi thầy thuốc khóc rồi...run.
Có một thời dịch dã liên miên
Thầy thuốc bệnh nhân sắt se nghèo đói
Mái nhà tranh ánh đèn dầu le lói
Lửa bập bùng xua lạnh lẽo đêm đông.
Dẫu có thế, đâu ngại khó ngại khổ, một khi đã thề cả cuộc đời theo nghề y nặng lời thể Hypocrat:
Ai nhớ ai quên một thời đã sống
Nước sông đục ngầu đánh phèn, lọc, lặng
Pha dịch truyền bằng muối biển đường ăn.
Mối tình đầu rồi cũng lãng quên
Cuộc sống ngặt nghèo lo âu toan tính,
Với nghề y tôi là người lính
Mỗi chặng qua rồi, tiếp tục hành quân.
(Ước mơ xanh)
Tôi  rất thích những tản văn bắt nguồn từ các chuyện thật trong công việc nghề y hàng ngày của Trương Thị Mầu, chân thực, ưu tư, cảm động và nặng nhân văn... (nhu Niềm vui có thật, Day dứt, Nhìn cái chết....). Trong tản văn Duy dứt, chị tâm sự rằng, hết thày công việc trong quá trình hành nghề y của mình, chị không nề hà gì, song vẫn thấy nản nhất là phải tư vấn hoặc tự tay giải quyết các ca “vỡ kế hoạch” (có thai ngoài ý muốn). Ngại và nản, không đơn thuần công việc chuyên môn, mà vì tính chất công việc, là do ý nghĩ đang làm cái chuyện “giết người có chủ đích” có sự thỏa thuận đôi bên, đối tương và bác sĩ hành nghê. Kết thúc tản văn, chị kể câu chuyện “Tối qua lại có một cô bé mới 22 tuổi chưa chồng, được mẹ đưa đến khám vì đau bụng, hai mẹ con cười nói ồn ào, khi SA mình phát hiện cô bé đã có thai 4 tháng, được thông báo cả 2 mẹ con tròn mắt ngạc nhiên, sau phút sững sờ người mẹ chửi con, người con cãi mẹ chuyện om xòm. Người mẹ hỏi là của thằng nào, người con bảo không nhớ chắc là do con say rượu. Thế đấy. Cô bé nằng nặc đòi bỏ thai, người mẹ nài nỉ. Mình thấy chán chường và mệt mỏi quá không buồn tư vấn hay giải thích gì nữa. Chỉ nói: nếu còn muốn sống thì đưa cô bé đến bệnh viện phụ sản ở đó người ta sẽ nói nên làm gì. Thấy mình quát to 2 mẹ con thôi cãi nhau lẳng lặng lên xe ra về. Một trận mưa rào đổ xuống, lòng mình ướt sũng như mưa!..”.
          Còn hơn sự day dút, ấy là “nhìn cái chết” mà chẳng thể làm gì, ngoài sự bất lực. “Nói đến cái chết thì ai cũng sợ, nhưng thực chất là sợ cái gì thì lại không rạch ròi được. Có lẽ là sự cô đơn, lạnh và không chia sẻ được cùng ai.Rồi thì trách nhiệm, bổn phận chưa hoàn thành, nào là nuối tiếc vân vân và vân vân. Nhưng cũng thật kỳ lạ phải nói là kỳ diệu mới phải, bài điếu văn nào thì người chết cũng tỏa sáng lung linh, những câu chữ tốt đẹp nhất giành ca ngợi người chết. Đặc biệt các nhà văn nhà thơ chỉ thật sự nổi tiếng khi đã chết rồi. Có những bản thảo khi còn sống đã gõ cửa khắp nơi chẳng ai buồn đăng khi chết rồi chợt thành cái rất hay ho. Nên cái chết nhìn về khía cạnh nào đó cũng mang lại điều kỳ diệu. Mọi người cũng nói nhiều đến việc sống hướng thiện chết bình thản. Nhưng có lẽ quan sát nhiều cái chết nhất là các bác sỹ khoa hồi sức cấp cứu còn gọi là khoa điều trị tích cực. Mình cũng không nhớ hết được đã cứu được bao nhiêu người khỏi tay thần chết nhưng cũng không nhớ hết được đã vuốt mắt đưa tiễn bao nhiêu người sang thế giới bên kia...”. Chị đã viết vậy trong tản văn “Nhìn cái chết”.  Có nhiều lần bất lực “nhìn cái chết” nhu vậy, bác sĩ Trương Thị Mầu mới thấy niềm vui khi cứu sống được bệnh nhân nó lớn lao thế nào. “Đã 5 ngày trôi qua kể từ khi cấp cứu thành công ca bệnh nhân TTĐ 50 tuổi bị ngừng tim ngừng thở mình vẫn không tin được là bệnh nhân có thể qua khỏi, sống được và tỉnh táo trở lại, thật kỳ diệu lắm thay. sáng 1/11/2013 phòng khám tiếp nhận bệnh nhân trong tình trạng ngừng thở, da vàng ệch, nghe không thấy nhịp tim, đồng tử giãn căng.... Bọn mình đã khẩn trương cấp cứu, chỉ trong vòng 1 phút tất cả các thao tác vừa bóp bóng trợ thở có o xy, ép tim ngoài lồng ngực, bơm trực tiếp Adrenalin vào buồng tim, các động tác nhịp nhàng chính xác và ăn ý, 2 phút sau tim đập trở lại, 5 phút sau sắc mặt dần hồng lên, đúng 15 phút sau bệnh nhân dã tự thở được, 30 phút sau các chỉ số sống đã tương đối ổn định,...”. Ở tản văn, “Niềm vui có thật”, nữ bác sĩ mở đầu bằng câu chuyện có thật tại bệnh viện mình phụ trách. Và chị kêt tiếp câu chuyện, khi bệnh nhân cần chuyển tiếp lên tuyến trên hỗ trợ sau cấp cứu ban đầu, đúng lúc bệnh viện thiếu phương tiện, chị đã dùng xe riêng của mình, và cũng chỉ dám hy vọng bênh nhân sống sót nhưng có thể sẽ phải sống cuộc đời thực vật phần đời còn lại, không ngở, bệnh nhân đã hồi phục sau mấy ngày điều trị tích cực. Niềm vui lan tỏa, chị tâm sự “Mình thấy vui quá chừng. Từ khi về hưu chỉ có chuyên tâm đọc sách và chữa bệnh mình thấy bàn tay mình như có hồn, trái tim mình hòa đồng với nỗi đau của người bệnh, mình thấy cuộc sống đáng yêu quá. Ai nói về hưu thì không vui. Niềm vui có thật và thật sự là vui!...
 
3. Dấu vấn văn hóa Mường,
Gái bản Mường, mấy từ ấy thật gần với dáng vẻ, cử chỉ và cách nói năng, ứng xử chân thành, mộc mạc của Trương Thị Mầu. Như cái cách người ta hay dẫn câu thơ của Hàn Mặc Tử “người thơ phong vận như thơ ấy”, Trương Thị Mầu là người mang chất Mường bẩm sinh, và chị cũng đã mang được nét văn hõa Mường vài thơ ca mình.  
Khác nhà thơ lớn tuổi cùng quê xứ Mường với mình là Ma Bích, Trương Thị Mầu chưa hẳn nhăm nhăm chủ trương thể hiện và bảo vệ bản sắc Mường một cách quyết liệt, song chất Mường sẵn có ở con người chị, nên biểu hiện trong thơ một cách vô thức và cả ý thức nữa. Là người xuất thân ở xứ Mường, nhưng công việc hàng ngày làm chị thoát ra khỏi xứ Mường của mình, thêm bản tính quàng giao, đã làm nên con người Trương Thị Mầu. Chất Mường không thật sâu đậm, nhưng cứ phảng phất đâu đó trong thơ chị, khiến người ta nhận ra và không thể quên được.
Chất Mường ở đây, chưa thật rạch ròi, song trước hết trong ngôn từ, cách diễn đạt tự thân mà có, rồi sau là ý thức tìm kiếm và chủ định biểu đạt, từ lời ăn tiếng nói đến phong tục tập quán vào thi ca...
          Bài thơ Ảo ảnh, Trương Thị Mầu kể chuyện tình Mường, song có lẽ, chị mượn cớ vậy để đánh thức người con gái Mường trong chính bản thân mình:
Tôi đi tìm em , cô gái Mường ơi
Đôi mắt nâu ẩn hiện sau vòm lá
Tìm về bến xưa nơi con đò già mơ ngủ
Đập nước đã dâng đầy sóng đuổi sóng lao xao.
Một em gái bản Mường chính hiệu “ em gái khéo tay/ đánh cồng, dệt lụa, vá may thêu thùa..” mà từ lúc còn nhỏ, rời bản đi học trường xa, nhưng đã vượt khó :Thương nhau từng bữa cơm nghèo/ Canh môn, rau sắn cheo leo bản Mường...” ước một ngày kia có kiến thức cao, giúp bản ích đời,...
Bài thơ Thượng du là một bài đậm nét Mường:
Nhớ em ngược lại Cành Nàng
Nhớ luồng Thiết Kế nhớ vàng Lũng Cao
Tìm em em ở nơi nao
Có thương chọn hộ cành Đào làng Son
Chọn thêm đôi vịt phố Đòn
Mùa Xuân trẩy hội tung còn Mường Khô
Nhớ hè cùng tắm thác Mơ
Lưng ong váy thắm bây giờ ở đâu.
Lung linh bóng nước soi cầu
Nhớ thuyền độc mộc nhớ câu phiền lòng
"Nhất Suội, nhì Cả, ba Long"
Nhớ người năm cũ gò lưng chống bè
Xưa rồi một bến sông quê
Bức tranh cổ tích theo về mai sau...
Và bài thơ Mường Ống cũng là một bài như vậy:
Ngoảnh mặt lên Mường trên
Thấy bà Da Dần phân năm phân tháng
Bà gánh xường đi bán
Qua Mường Ống đứt quai
Qua Mường Ai đứt gánh
Để gái Mường trên giỏi xường
Trai Mường dưới giỏi mo...
Về Mường Ống một lần đi anh
Cùng em tìm lại vết tích cây Chu đá
Có còn không những lá Chu đồng
Trên đồi Lai Li Lai Láng
Mây trắng ngút ngàn Pù Luông xanh...”
Kể lể vậy, cũng chỉ để nuốn khoe xứ Mường quê mình”
Chỉ muốn anh cảm nhận
Có một xứ Mường trăm mến ngàn thương...”
Còn trong bài thơ “Phố huyện”, Trương Thị Mầu ý thúc trước sư nhạt phai chất Mường trong hiện thực đời sống xã hội khi mà làng bản Mường mình đổi thay trong cơn lốc đô thị hóa, diện mạo thì “nửa làng nửa phố”, còn con người thì “nửa tỉnh nửa quê”: “Cô kia gái bản chưa chồng/ Nay đi trên phố tay bồng nách mang/ Con đường phố rộng thênh thang/ Có còn nhớ bản nhớ làng suối xa?” Liệu có còn không cái tình cái nghĩa, và cách ứng xử chan hòa gần gũi mộc mạc của dân tộc mình, khi mà cố niu giữ: “Sau nhà vẫn bụi trầu cay/ Trước hiên vẫn cái điếu cày cây cau/ Mưu sinh còn lắm cơ cầu/Vẫn không quên nếp trước sau của làng”?
Thương nhất, bài thơ Bà ơi, lá rụng về nguôn. là lời tạ lỗi trước mộ bà, vì mình chẳng thể níu giữ Mường lại cho bà,
Trời mênh mang nước mênh mông
Ngổn ngang con với cánh đồng tuổi thơ
Vẫn dòng sông của ngày xưa
Nấm mồ đằng đãi nắng mưa của bà
Tưởng như còn đó chưa xa
Bà đang  đánh chuyện Nàng Nga Nàng Ờm
Lom khom thổi cái nùn rơm
Nướng ngô lùi sắn đồ cơm xứ Mường
Lưng còng vác nước ống bương
Bờ sông dốc đứng con đường tuột trơn.
Khói hương tỏa bóng chập chờn
Con như một kẻ vô ơn với bà...:”
 
Chỉ cần để ý tên các tập thơ của Trương Thị Mầu thôi, trong 5 tập đã xuất bản, thì có đến 3 tập (Bóng núi, Mùa dậy sấm và Níu bóng nhà sàn) biểu hiện ý thức bảo tồn không gian văn hóa dân tộc của chị. Nếu như thời mới làm thơ (Bóng núi, Mùa dậy sấm), dấu ấn văn hóa Mường còn chưa sâu đậm và ít nhiều mang tính vô thức, thì đến Níu bóng nhà sàn, tâm thức hướng về cội nguồn dân tộc và nỗi nềm một ngày kia, bản sắc văn hóa Mường trong cộng đồng dần phai nhạt, đã dồn tụ, biều hiện thành ý tú, câu chữ, thông điệp... Trước tiên là ký ức tuổi thơ ở bàn: “Trải bao nắng sớm chiều tà/ Đất còn in dấu chân ta thuở nào /Khúc này xúc hến mò nga/ oBờ kia nhặt lá ép vào trang thơ...” (Dòng sông tuổi thơ); Rồi đến thứ văn hóa vật thể là cái nhà sàn Mường ở bản từng mấy đời gia đình chung sống nay sắp bị phá bỏ để xay cái nhà lầu kiểu phố: “Trưa vóng Đông cha ngồi đan lưới/ Chiều vóng Ngang mế ngồi dệt cửi,/ Đèn con vịt thơm thơm dầu bưởi/ Tiếng thoi đều đều, tiếng mế nhẹ êm/ Bà Dạ Dần hiện trong giấc ngủ hằng đêm....”(Níu bóng nhà sàn). Rồi trách cứ các em sống ở bản mà không giữ nối căn nhà sàn của cha mẹ để lai “Giận các em sao lại bán nhà sàn/ Xây nhà hai tầng dưới chân núi Khú/ Ngày khánh thành đông hơn ngày họp họ/ Buồn một mình ký ức dở từng trang..: Cố mà không giữ được, níu cũng chẳng thể, thì chỉ còn tự xoa dịu, an ủi lòng mình bằng nỗi nhớ mà thôi ”Tôi lớn lên giữa chiều rộng chiều dài/ Biển Bắc trời Nam, biển người, ngơ ngác/ Như con nai lạc rừng xao xác/ Níu bóng nhà xưa tôi nhớ lối quay về...” (Níu bóng nhà sàn)....
Tìm kiếm, nhặt nhạnh trong thơ Trương Thị Mầu, còn khá nhiều câu chữ, ý tứ mang chất Mường, nhưng chị không phải là người nệ cổ, cứ khư khư níu giữ, hay đau đáu nỗi niềm về chất Mường phôi pha trong đời sống xã hội hiện đại. Trương Thị Mầu là người có kiến thức và trải đời, nên đã biết thoát ra, vươn đến những giá trị khác từ sự phát triển mang tính tất yếu.
Có những điều bình thường giản dị, song có khi người ta phải đi gần hết cõi con người mới nhận ra, Trương Thị Mầu cũng vậy.
“Nhưng chắc chắn ta chính là sự sống
Con của mẹ mình cháu của ông ta
Là cha mẹ của con mình sinh ra
Là cụ kỵ của đời đời cháu chắt
Không thể khác chẳng bao giờ kết thúc.
Cội nguồn ơi xin một chốn đi về...” (Điều bất tử)
          Hay như, trong các bài Nghỉ hưuNgười đàn bà sáu mươi tuổi, Trương Thi Mầu ngộ ra rằng:
          Ồ thảnh thơi
Qua chặng đường khó nhọc
Buồn gì đâu
Có ai hát khải hoàn... ...
Từng chặng một
Cứ mải mê leo núi
Chiếu nghỉ dài
Thôi thả sức nghỉ chân.
Sau lưng mình
Khép lại những phù vân. (Nghỉ hưu)
 
“Người đàn bà sáu mươi tuổi tư duy bằng trực giác
Thấy rõ ràng cái điều xưa học mãi  không hiểu,
Trong vô thức có một ước mơ cưa quậy
Một con đường như lộ dần nét vẽ
Một niềm tin dồn nén sáu mươi năm
Một hiện sinh tự nó đã nảy mầm.
Người đàn bà sáu mươi lại quẩy gánh lên vai
bước tiếp..” (Người đàn bà sáu mươi tuổi)
 
Điều ấy, khiến chị khác với nhà thơ Ma Bích, một nhà thơ của bản làng đậm đặc chất Mường. Và cùng với Ma Bích, Trương Thị Mầu đã thêm tiếng nói Mường, góp phần đưa chất Mường trong thi ca vượt ra khỏi vùng núi Bá Thước, Thanh Hóa, làm nên sự phong phú nghệ thuật của các dân tộc thiểu số Việt Nam. ./. 
 

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( II ) - 27.08.2021 16:33:13
Mấy dòng tiễn đưa Nguyễn Huy Thiệp
theo cánh hạc về trời
 
  Trong số những bức chân dung nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, tôi ấn tượng nhất một bức ảnh, không rõ ai chụp. Nguyễn Huy Thiệp cười hết miệng, mắt tít lại, gương mặt rạng ngời, xóa đi hết nét khắc khổ pha chút kiêu bạc thường ngày, nét hiếm thấy ở ông !?...

          Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp rời cõi tạm vào chiều ngày 20.3.2021, đúng cái ngày thế giới chọn là ngày HẠNH PHÚC. Mạng xã hội, báo chí đưa tin rầm rộ. Sau cơn đột quỵ vào cuối năm 2019, rồi những ngày ông nằm cấp cứu ở A9 Bạch Mai, cũng là những ngày cả thế giới náo loạn bởi sự xuất hiện bất ngờ của virus Corona tại Vũ Hán mà sau đó người ta đặt cho cái tên COVID, nhanh chóng lây lan cực nhanh khắp địa cầu, người ta những cầu mong cho ông hồi phục song vẫn nghĩ ngày ông ra đi mãi mãi chỉ được tinh bằng ngày bằng tháng,... Vậy mà ông cầm cự cả năm trời, ra đi sau cả người vợ tào khang sướng khổ một đời cùng ông, vốn khỏe mạnh và luôn chăm sóc ông chu đáo,
Tang lễ nhà văn Nguyễn Huy Thiệp được cử hành vào sáng ngày 24.3 (nhằm ngày 12 tháng 2 âm lịch) tại nhà tang lễ quốc gia số 5 Trần Thánh Tông (Hà Nội). Cánh chuyên bán vòng hoa ngay cổng nhà tang lễ kháo nhau, đám tang ông nhà văn gì nổi tiếng lắm, tha hồ mà bắn vòng hoa đây. Nhưng thực tế, đám tang Nguyễn Huy Thiệp không đông lắm, khác hẳn sự đông đúc chen chúc đám hiếu cha mẹ các quan chức hay doanh nghiệp lớn bởi ở đấy người đến viếng thi nhau thể hiện mình vì có mùi cầu lụy, nhờ vả trước sau. Còn tang lễ Nguyễn Huy Thiệp, chỉ có người thân, họ hàng, bạn hữu văn chương, người hâm mộ và cánh báo chí đưa tin, mặc dù có vòng hoa gửi viếng của ngài Thủ tướng Chính phù và vài ba quan chức cao cấp....
Tôi và mấy bạn văn chương tháp tùng nhà thơ Trần Đăng Khoa, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, Tổng biên tập Tạp chí Nhà văn & cuộc sống vào viếng Nguyễn Huy Thiệp. Bức ảnh ông được treo trong tang lễ nghiêm cẩn, khác với các chân dung thưởng thấy, và gương mặt thi hài ông sau hơn một năm cầm cự chống chọi với cái chết cũng khác đi nhiều với thần thái suy tư khắc khổ trước đây. Điếu văn được nhà văn Nguyễn Quang Thiều, Chủ tịch Hội viết và đọc trong lễ truy điệu Nguyễn Huy Thiệp cũng đã gây xúc động và ấn tượng mạnh, nhằm tôn vinh cho cả người chết và người sống...
Có một điều, tôi để ý, nơi sân chờ nhà tang lễ, các nhà văn, nhà thơ già trẻ các thế hệ đủ cả. Mọi người gặp nhau, tay bắt mặt mừng có, khen nhau vượng khỏe có, hay rì rầm buồn buồn chuyện nọ chuyên kia có. Một ai đó bảo, cứ nhìn thầy mặt nhau, điểm tên, được bắt tay nhau thế này là mừng rồi. Cuộc đời vô thường lắm, biết đâu nay mai trời gọi tên ai đó... Ngẫm cũng phải, tuổi ngoại thất thập. văn chương tai hoa đến đâu thì cũng hết tuyết cả rồi, như than để ngoài mưa cả thôi. Còn sống trên cõi đời này, khỏe mạnh an vui là nhất, văn chương hay dở mà làm gì ?... Thế giới mạng giờ khác xưa lắm, đi đâu, làm gì, như đi lễ chùa, đi du lịch, hội họp, ăn nhậu, tụ bạ, cưới hỏi, đều chụp ảnh, check-in nuôi Phây cái đã, mà khi đi đám ma người ta cũng vậy. Thế nên, ở đám tang Nguyễn Huy Thiệp, các văn nghệ sĩ nhà ta cũng tranh thủ thăm hỏi, chụp ảnh chẹck-in rôm rả, chứ mấy ai quan tâm đến người nằm xuống... Nghĩ cùng là chuyện thường, chằng đấng trách,...
Trở về sau đám tang nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, tôi rẽ vào uống trà tán gẫu với người bạn thân Gia Hoang chuyên bán thuộc Tây ở chợ Giời. Người bạn cùng lớp đại học với tôi này là người yêu văn chương chữ nghĩa. Giừ hành nghề bán thuốc Tây, nhưng trong lúc rảnh rỗi, rất chịu khó đọc sách báo. Người ở thời đại công nghệ 4.0 bây giờ mà ngày ngày đro kính, thâm chí dùng cả kính lúp trợ giúp, chúi mặt vào sách báo như ngươi bạn tôi đây là hiếm có. Kiến văn của anh bạn Gia Hoàng rất khá. Phàm cái gì thuộc về lịch sử và văn chương,bất kể thơ phú, văn xuôi như truyện ngấn, tiểu thuyết, tản văn, bút ký, chân dung văn học hay phê bình tiểu luận, đọc tuốt, là để thưởng thức và bồi bổ kiến thức bản thân thôi. Gia Hoang cũng là bạn đọc hâm mộ nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Chúng tôi đã từng cùng nhau bình phẩm mỗi truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp mỗi khi nó được đăng tải trên báo chí những năm qua. Giờ đây, chúng tôi lại nói về Nguyễn Huy Thiệp và những tác phẩm của ông. Hai đứa tôi, cùng nhau nhắt ra, gom lại xem Nguyễn Huy Thiệp có bao nhiêu truyện ngắn thuộc hàng thượng thặng. Kể đến những cái tên: Không có vua, Huyền thoại phố phường, Tướng về hưu, Con gái thủy thần, Những người thợ xẻ, Bài học nông thôn, Thương nhớ đồng quê, Muối của rừng, Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết, Chảy đi sông ơi, Trương Chi, Nguyễn Thụ Lộ, Mưa Nhã nam, Sang sông, Giọt máu, Chút thoáng Xuân Hương, Đưa sáo qua sông, Hạc vừa bay vừa kêu tháng thốt,... Độ hai mươi truyện xuất sắc. Có lẽ thế thôi, cũng nên?
Phê bình văn học của Nguyễn Huy Thiệp, đáng kể có Giăng lưới bắt chim. Trò chuyện với hoa thủy tiên. Còn tiểu thuyết của ông, thú thực tôi không thích,... Cái kịch Mổ nhà văn, tuy ám chỉ những ai đó, nhưng quả là rất thú vị. bởi ở đấy vừa thâm thúy, vừa bùng nổ, phun trào của sự nín nhịn, kim nén lâu ngày...
Chợt anh bạn Gia Hoang hỏi tôi: "Vậy văn xuôi Việt Nam hiện đại, ông thích ai nhất?". Câu hỏi đột ngột, nhưng tôi trả lời tắp lự: "Trước có Nam Cao, sau là Nguyễn Huy Thiệp.", Tôi nói vậy, không có ý xếp trên dưới mà đơn thuần chỉ theo trình tự thời gian xuất hiện của hai nhà văn tài danh này nà thôi. Tôi không coi ai hơn ai, họ ngang bằng nhau, mỗi người mỗi vẻ mỗi hay riêng. Bái phục tài hai vị nhưng đọc Nguyễn Huy Thiệp hấp dẫn hơn,...
Rồi tôi và anh bạn Gia Hoàng lại cùng nhau kể tên các cây bút văn xuôi hiện đại xứ ta mà theo cách thẩm của chúng tôi, họ ít nhiều có những tác phẩm để đời, như Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Vũ Bằng, Kim Lân, Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Đỗ Chu, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khắc Trường, Nguyên Ngọc, Lê Minh Khuê, Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài và Trần Đăng Khoa...
Tạm dừng ở đấy chờ kể tiếp !...
 
Hà Nội, 25.3.2021
 

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( II ) - 18.09.2021 11:43:46
Thân phận con người,
 
Những ngày Hà Nội thực hiện giãn cách xã hội khiến mùa hè 2021 như kéo dài vô tận và bầu không thêm oi nồng.  Tâm trạng đầy lo âu phấp phỏng, Hàng ngày, tin tức liên quan đến dịch Covid 19 ở Việt Nam và các nước trên thế giới dày đặc. Số lượng người mắc, và con số tử vong gia tăng làm ngươi ta cảm nhận sư bất an rõ hơn. Giờ mới thấy, số phận con người ta mỏng manh lam sao!...
Việc riêng chuing đều làm ở nhà. Ra đường thì phiền hà ngay từ đầu ngõ với những thủ tục hàn chính, những giấy phép con, quy định miệng khiến chẳng ao muốn bước chân ra khỏi của. Mỗi ngày, loa pường léo nhéo quy định này, văn bản nọ, hướng dẫn kia, chỉ gây ức chế và gia tăng cảm giác bất an mà thôi. Ngồi nhà, nhàn cư vi ngó mạng.lại càng thêm căng đầu bởi nhưng thông tin bòng bong chẳng có gì kiểm chừng. Xem ti vi, ngoài những tin tức liên quan đến dịch bệnh, còn lại là những sản phẩm cũ mang dùng lại, hoặc tái chế cho mới... Nhạt phep và nhàm chán.
May mà, có hai phim truyền hình dài tập, của cùng một vị đạo diên, Lưu Trọng Ninh là Thương nhớ ở aiCát đỏ khả dĩ hon cả. Cùng là phim chiếu lại nhưng đáng xem. Các ca khúc sử dụng trong phi, cũng khá đắc đại (Chuyện của cát, Ghen, Giấc mơ trưa trong Cáy đỏ Tình ca, Tửu ca trong Thương nhớ ở ai).
Ở đây, chuyện về thân phận con người được khắc họa ở nhiều góc độ. Sự lạc hâu và chiến tranh đã làm con người ta đau khổ lắm rồi. Vậy mà, sao người ta cứ hành hạ, dày vò, xát muối vào lòng nhau vì đủ thức lý do, hủ tục, sự đố kỵ, lòng yêu ghét cực đoan... Tất cả đỏ hết lên đàu con người khiến thân phận con người vốn  bất ổn lại thêm phần đầu đọa, tủi hổ. Cảm giác, người ta cứ phải làm cho nhau đâu đớn mới hả nỗi ueei ghét trong lòng mình,...
Dẫu sao, những ngày dịch dã tù túng này, xem và suy ngẫm, cũng ngộ ta nhiều điều,...
 
 

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( II ) - 04.10.2021 09:55:47
Văn sĩ làng
Truyện ngắn


Cả làng, cả xã hội gọi y như thế. Mà tự thân; y cũng ngầm kiêu hãnh với cái danh hiệu văn sĩ. Tên cúng cơm của y là Nguyễn Văn Sĩ. Bình thường ra thì cái tên đó có khác gì với cơ man người Việt có họ và tên đệm là Nguyễn Văn. Song với y thì khác, y đã nhiều lần nhẩn nha cắt nghĩa cái tên của mình rằng Văn Sĩ là kẻ sĩ văn chương, và như thế cả tên y có hàm ý là kẻ sĩ văn chương của họ Nguyễn. Đã có lần y bảo rằng: “Theo cách phân chia dân chúng thành Tứ dân như xưa là sĩ, nông, công, thương thì đây vốn thuộc dòng sĩ”. Người làng thấy y nhận vậy cũng cho rằng có lý, bởi trước đây, ông nội y có biết chút chữ nghĩa nên giữ chức trưởng bạ, tức là quản lý ruộng đất của làng mấy năm. Nhưng mới thế thôi thì cũng chưa đủ gọi y là văn sĩ, mà còn bởi y đã từng có bài đăng báo và y cũng đã từng tuyên bố hùng hồn sau những cơn say khướt là y sẽ dấn thân vào sự nghiệp viết lách cho đến tận lúc tan thành bụi cát. Qủa là y đã có bài đăng báo, không phải một lần mà nhiều lần. Cơn cớ gì dẫn dắt y dính vào cái nghiệp cứ tự dày vò tinh thần và thân xác này? Số là thế này, trước đây y học hết cấp hai rồi đi thanh niên xung phong. Cái ý tưởng trai thời loạn của y không thành bởi vì y bị lé mắt phải nên người ta không lấy y vào bộ đội.  Mấy năm sau y trở về với vết thương phần mềm nên không được hưởng chế độ gì. Dù sao thì y cũng có chút công lao, địa phương xem xét cho y giữ chân kế toán đội sản xuất. Được vài vụ thì y mắc tội chữa sổ sách để tham ô mấy tạ thóc nên bị bãi miễn. Thế là y chẳng còn nghề gì ngoài việc theo đít trâu. Trong tứ dân thì nông, y đang làm nhưng lại không muốn làm; còn công thì y không biết tí gì; thương thì y không có vốn và không có gan; vậy chỉ còn cách là y làm sĩ. Một lần, tình cờ một mảnh báo cũ nát gói miến do vợ y mang từ chợ huyện lọt vào tay y, y xem và thấy ở đó một bài viết về tổ thanh niên xung phong gan dạ san lấp hố bom giữ vững giao thông thời chiến tranh. Xem rồi, y nghĩ, cứ như mô tả thì hồi ấy y an nhàn hơn họ nhiều, song viết ra như thế thì không mấy khó, y có thể bịa ra những câu chuyện tương tự, thậm chí còn gay go và ác liệt hơn cũng được. Ý nghĩ ấy nung nấu y, và rồi sau mấy đem chong đèn dầu thức viết đến gần sáng, bài báo bảy trang viết tay trên giấy học trò, kể về một tổ đội thanh niên xung phong, trong đó có y, đã dũng cảm quên mình giữ vững huyết mạch giao thông và tuyến lửa, đã hình thành. Y sướng điên lên, tự thưởng cho mình một cốc rượu tự nấu nhắm với ổi xanh. Vừa nhắm y vừa nhẩn nha đọc lại. Y phát hiện ra chữ mình xấu như gà trống đói mái bới, nên chép lại. Nhưng rồi cũng không ổn. Y đành chia sẻ niềm vui với vợ y để đọc cho vợ chép hộ. Mấy đêm liền, khi mấy đứa con y đã ngủ, vợ chồng y đọc đọc chép chép và hú hí với nhau trong niềm hoan lạc cuồng dại. Bài gửi đi theo đường bưu điện, nhưng rồi nhà y không có báo để theo dõi xem có được đăng hay không. Nghe vợ mách nước, cứ vài ba ngày y lại lai vãng đến nhà cậu bí thư Đoàn thôn, nói là đọc báo nhờ. Thực ra y chả cần biết đến các thông tin trên báo, mà chỉ để dò xem báo có đăng bài của mình không. Và một hôm y sửng sốt không tin vào mắt mình nữa. Rõ ràng cái tên Văn Sĩ to tướng trên một bài báo. Tim y thót lại, mặt y tái đi. Hay là một Văn Sĩ nào khác? Nhưng không, tên bài báo cũng hệt tên bài của y. Thôi đúng rồi. Y đọc lướt nhanh nội dung bài thấy đúng là của mình, thế mà y vẫn còn không tin là bài mình được đăng. Xem đi xem lại và cuối cùng là y tin. Một niềm sung sướng, kiêu hãnh trào dâng trong huyết quản khiến y chỉ thiếu nước nhảy cẫng lên mà gào thét “Ôi làng nước ơi, tôi đã thành nhà báo, nhà văn rồi!”. Cậu bí thư Đoàn thôn thấy y chăm chú đọc, buột miệng khen: “Dân trí bà con làng mình còn thấp quá, ngay cả đám trẻ cũng vậy. Gía ai cũng được như anh Sĩ thì mấy mà dân làng mình bằng thành thị… Mà này, anh Sĩ. Số báo này có một bài viết về tổ đội thanh niên xung phong thời chiến tranh hay lắm. Anh đọc chưa? Tôi định kỳ họp này sẽ mang bài ấy ra đọc, bình và để mọi người phấn đấu noi theo!... À, hình như tác giả bài báo ấy trùng với anh thì phải?!”. Đến nước này thì niềm kiêu hãnh của y trào lên như sóng vỡ bờ, y nói hụt hơi: “Bài ấy do tôi viết đấy”. Rồi y phóng cái nhìn đắc thắng về phía khuôn mặt đầy ngạc nhiên và cái miệng há hốc của cậu bí thư đoàn thôn.Y bắt đầu nổi tiếng ở làng từ đấy. Người ta kháo nhau, một đồn mười, mười thành trăm. Được dịp, y bắt đầu khoe mẽ rằng: “Làng này không biết đấy thôi, chứ tôi viết báo, viết văn từ lâu rồi. Thỉng thoảng tôi vắng nhà lên Hà Nội để gặp gỡ các tòa soạn báo và các nhà báo, các nhà văn nổi tiếng ở trung ương”. Cũng có không ít người bảo: “Thằng cha ấy khoác lác chứ nhà báo, nhà văn gì nó. Học không hay, cày không biết, cái ngữ ấy có hót phân trâu cũng không nổi”. Còn một ông giáo làng về hưu thì cứ hễ ai nhắc đến tên y trước mặt ông, ông đều gật gù với vẻ mặt đầy bí hiểm: “Cậu ấy cũng được đấy chứ. Mà cậu ta có thành nhà báo, nhà văn thì cũng có gì lạ. Làng mình được thơm lây… Có điều này… Tướng cậu ấy cao gầy, khô cứng như chiếc bút chì đen kí hiệu HH ấy. Không có hậu. Chỉ e rằng, sau này…!”. Với riêng y, để xứng danh với danh hiệu mà mọi người tự phong cho y, y lao vào viết. Đêm nào y cũng đỏ đèn, vò đầu bứt tai để viết. Có khi đêm trước viết còn dở dang, sáng hôm sau dù có buổi trâu y cũng bỏ mặc không chịu ra đồng, kệ vợ y có ra rả thế nào đi chăng nữa. Vợ y người thấp lùn, béo tròn vò đầu kêu khổ, dậm chân bành bạch và lăn lộn làm mình làm mẩy chán chê, rồi tự động dậy, đi tìm người cày thuê. Mụ đâu có hiểu, với y bây giờ viết là điều hệ trọng nhất. Mà đã là nhà báo, văn sĩ thì ai lại còn cày với cuốc nữa cơ chứ.Nổi tiếng chưa được bao lâu thì y bắt đầu phải gánh chịu hậu quả của sự nổi tiếng đó. Ở làng, hễ ai đó nghe đài, hoặc đọc báo, thấy ở đó có người, có cảnh tương tự, na ná với người và chuyện ở trong làng, là họ lại đồn nhau: “Đúng là thằng cha văn sĩ dởm làng mình viết rồi. A… nó mang chuyện làng, chuyện gầm giường, xó bếp nhà người ta ra mà viết báo, viết chuyện để ăn tiền. Quân ba que xỏ lá thật!”. Đã có dăm ba cuộc chửi rủa cạnh khóe, hoặc áp đảo tại gia của người làng với nhà y. Nhưng nói chung, y đều khôn khéo hóa giải được, tránh để xô xát, đổ máu. Sau những cuộc như thế, y lại phải gánh chịu những cơn thịnh nộ của mụ vợ y. Thật là họa vô đơn chí. Y tức lắm, âm thầm nghĩ cách đối phó. Y biết chắc chắn những thứ đó không phải do y viết ra, song y phải gánh chịu hậu quả. Đã thế, y sẽ viết, lấy chuyện làng chuyện nước quê mình mà viết, chỉ cần bịa thêm cho khác đi tí ti là được. Y dùng bút danh cho các bài viết đó, đại loại như: Điếu Cày, Khoai Ngứa, Kiến Càng, chẳng hạn… Một loạt những mẩu chuyện châm biếm lấy từ chuyện ở làng của y được các báo đài ở trung ương sử dụng. Chỉ có điều, để họ gửi tiền nhuận bút về nhà thì y dễ bị lộ. Đành phải ra tận tòa soạn lấy nhuận bút vậy. Thế là lâu lâu, y lại cưỡi chiếc xe đạp cọc cạch ra thành phố. Mỗi lần đi như vậy, y đều trù tính trước, khoản nhận bút y sẽ chia ra làm ba phần, một để thuốc nước mời các ông ở tòa soạn, phần đưa về cho mụ vợ để gây thanh thế cho mình và cũng là để xoa dịu mụ, phần nữa y cất giữ, tích góp, biết đâu đấy lại có lúc đủ để mua một chiếc xe Simson tàng. Chẳng lẽ lại cứ xe đạp rách đến các tòa soạn mãi, nó so xúi quá, mất thể diện quá.Được một thời gian dài trót lọt, y không bị vướng vào một vụ rầy rà, to tiếng nào. Vợ y thấy yên chuyện nên cũng không lèo nhèo gì. Cho đến một lần, nhóm thầu điện ở làng tăng giá điện vô tội vạ. Y tức lắm. Bà con trong làng cũng thắc mắc. Y nghĩ, không làm gì được thì cũng phải chửi khéo cho tụi nó một trận. Thế là y bèn viết một mẩu chuyện xỏ xiên đám thầu điện. Y ví von họ như những kẻ vô tri vô giác, người ngợm như cứt sắt, ăn bớt bao nhiêu điện mà không chết. Y yên tâm gửi bài đi vì trong chuyện, y đã cẩn thận viết bằng cái chuyện ấy xảy ra ở tận thôn X, xã Y, huyện Z kia, lại ký bằng bút danh. Mẩu truyện đó được in, y nghe ngóng không thấy động tĩnh gì, nên càng yên chí. Song ngẫm nghĩ thì y lại thấy tức. Định xỏ xiên bọn nó nhưng chúng lại không hề biết thì khác nào đấm bị bông, khác nào rượu đổ hang chuột. Đùng một cái, đoàn kiểm tra điện từ tỉnh đột ngột kiểm tra, phát hiện tổ thầu điện này dùng mẹo ăn cắp điện ngoài công tơ. Lập biên bản. Tổ điện thôn bị xử phạt, cả làng thì bị cắt điện hàng tháng trời. Bà con tức quá chửi om lên. Mấy tay thầu điện, ăn cắp điện lợi lộc chẳng bao nhiêu, lại bị phát hiện, tiền mất tật mang nên ức lắm. Chúng ngồi lại với nhau, truy xem chuyện bại lộ từ đâu. Rốt cuộc chúng đều nhất trí cho rằng chính y là người viết báo, hoặc viết đơn tố giác. Thế là mấy tay gậy gộc kéo đến nhà y. Lúc đó y đang vừa hút thuốc lào vặt, vừa ngẫm nghĩ. Sự việc đột ngột quá khiến y bàng hoàng, vừa sợ vừa ức. Y vớ cái cuốc chim lao ra đứng thế thủ. Tuy có vũ khí tùy thân trong tay nhưng quả là y không muốn sử dụng đến nó chút nào. Văn sĩ thì vũ khí phải là cây bút chứ đâu phải là cuốc chim. Vì thế, y thế thủ nhưng luôn miệng phân bua. Mấy tay kia vẫn hung hăng. Được cái, vợ y lăn xả ra chắn trước mặt y, vừa chửi mấy tay kia vừa kêu làng nước. Hung hãn là thế nhưng mấy tay kia cũng phải kinh. Y có vũ khí mà đứng sau lưng vợ, trong hoàn cảnh nực cười ấy thế mà y cũng còn đủ thời gian hình dung ra cái cảnh vợ y hệt như gà mái mẹ xòe cánh che cho gà con trước lũ diều hâu. Thật phúc bảy mươi đời cho nhà y, vừa lúc đó, ông phó chủ tịch xã kiêm trưởng công an phóng xe máy ngang qua. Thấy huyên náo, với bản tính nghề nghiệp và tinh thần cảnh giác cao độ, ông ta dừng xe, chưa biết phải trái ra sao, lên miệng quát mấy tiếng thị uy. Mấy tay thầu điện thấy không có lợi bèn bảo nhau rút. Y được giải thoát. Được thể, y liến thoắng thanh minh với ông phó chủ tịch, tưởng ông ta bênh vực mình. Y sững người khi ông ta buông một câu: “Cậu cũng nên bớt cái miệng đi. Từ nay về sau bỏ cái tính thóc mách, xỏ xiên đi nhé. Không hay hớm gì đâu. Đừng để chuyện tương tự xảy ra, tôi không phải ăn lương để bảo vệ cho nhà cậu đâu nhớ”. Ông ta khinh khỉnh nổ xe máy, phóng đi. Y bực bội quay vào nhà, đá thúng đụng nia, nghĩ bụng, cha này nó sợ mình moi chuyện tham ô ra viết đây, nên, đe mình trước. Cho đến khi vợ y quát lên: “Sao ban nãy không anh hùng anh trưởng đi mà núp sau váy vợ, giờ còn lèm bèm ra điều ta đây. Đồ nhát như thỏ đế!”. Y cụt hứng, im bặt.Sau đận ấy, y nhụt chí, bỏ bẵng đến hàng dăm tháng không viết lách gì cả. Nhưng mà cái nghiệp văn chương nó tai quái làm sao, nó làm cho hết thảy những ai đã trót dại dính vào nó thì khó mà giãy ra nổi. Đến bậc cao thủ, “mục hạ vô nhân” còn khó huống hồ như y, thứ tép riu quèn. Y càng cố tình thôi thì người y càng ngứa ngáy, bứt rứt không chịu nổi. Một lần, y thả bộ vu vơ, ngang qua nhà ông giáo về hưu, thấy ông đang chăm tỉa mấy khóm cúc đại đóa và chậu trà bạch, y cao hứng đùa: “Hôm nào em mang lễ vật sang cậy nhờ ông giáo bày cho kĩ thuật Bonsai”. Ông giáo phá lên cười, bảo: “ Cậu vào đây, ta uống trà ướp hoa nhài, đàm đạo chuyện thế sự, âu còn ích hơn”. Khi hai người đối ẩm, ông giáo bảo: “Ở làng này, tôi thấy cậu là người có chút chữ nghĩa… Nhưng mà chữ nghĩa cũng có dăm bảy đường. Đến như ông lang Đạt ở làng trên, nho y lý số nhất vùng mà gia cảnh lại éo le. Thôi thì ta cứ một vừa hai phải, để phúc cho con cháu. Văn chương chữ nghĩa thật cao sang song cũng thật nghiệt ngã. Ấy vì thế mà trước đây tôi có tí toe ngâm vịnh thi ca nhưng khi ngẫm thấy sợ, nên mới thôi!... Mà này, dạo này cậu viết lách ra sao?”. Nghe ông giáo nói y cũng thấy tởn, bèn chối: “Ấy ông giáo hỏi thế, tôi có văn chương gì đâu. Chẳng qua là giải buồn, nho nhoe kiếm câu chuyện làm quà, vậy mà đã gặp bao nhiêu phiền hà”. Ông giáo cười ra chiều độ lượng: “Tôi biết cậu giấu tài… Viết được làm con người ta nó sang trọng lên, còn chuyện phiền nhiễu thì thế gian tránh sao khỏi. Làng văn ta xưa có cụ Cao Bá Quát rồi đến ông Nam Cao gặp bao rắc rối vì văn chương, còn ở bên Tàu thì có cụ Lỗ Tấn là gương tày liếp… Nhưng mà văn chương nó phải vậy, cứ phải rung chuyển thì mới đáng là văn chương chứ!”. Ông giáo cười ngậm ngùi khiến y lặng người, nổi hết da gà. Lúc tiễn y về, ông giáo bảo y: “Thi thoảng cậu lại chơi nhà… Ta lại đàm đạo. Cũng thú lắm… Thoang thoảng hoa nhài thơm lâu, cậu ạ!”.Sau lần ấy, y lấy lại dũng khí và phong độ. Nhưng chết nỗi chuẩn bị được tinh thần rồi, y lại không biết viết cái gì. Chẳng lẽ văn sĩ chỉ quanh năm chuyện con cà con kê, xỏ xiên người này người nọ. Viết gì bây giờ nhỉ? Y bí quá. Không ngờ, vợ y lại chính là người khơi nguồn cho y. Thị bô bô kể với y chuyện một cụ cao niên ở làng trên, đã có cháu gọi bằng cụ rồi, thế mà còn đi chim chuột bà góa nạ dòng, bị con cháu biết được, nhiếc móc cho, phẫn uất bèn uống thuốc sâu, nhưng may người nhà biết nên ngăn chặn kịp thời. Nghe rồi, y vỗ đùi, reo lên: “A… Phải rồi! Phải rồi!... Dân làng này hãy chờ đấy”. Vợ y tưởng rằng y khoái trá với cái chuyện ấy lắm bèn đe: “Này! Đừng có mà lớ xớ với con nào nhớ. Đây mà biết thì đây cứ mà xẻo…”. Y giật mình, rồi sau đó hết lời giải thích cho thị hiểu là y chỉ viết về những chuyện đó thôi. Thế mà mãi y không nghĩ ra, ở trên đời này, cái chuyện tình tang, chuyện trai trên gái dưới thì bao giờ cũng sẵn, mà lại li kì, hấp dẫn nữa. Xưa nay, từ vua chúa đến dân đen đều thích cái khoản ấy. Ngay đến y, xấu xí đen đủi là thế, vớ được cô vợ sạch mắt và hết lòng vì chồng con, nhưng cứ ra khỏi nhà, mắt đã tia ngang tia dọc cấm có bỏ sót người đàn bà nào. Và thế là y viết. Trong làng trong xã, cái chuyện ấy vô thiên lủng, viết đến già cũng không hết. Mà lại đơn giản, dễ dàng nữa chứ. Cứ người thật, việc thật, chỉ cần thay đổi tên họ, bịa địa điểm, thêm mắm muối chút ít là ngon lành, bởi tự thân những chuyện ấy đã thừa sức kích thích trí tò mò, lòng hiếu kì của người ta rồi. Quả nhiên là không sai. Hàng loạt báo đăng các mẩu chuyện của y. Bây giờ thì y khôn rồi. Qua những lần bị phiền nhiễu, thực tế đã dạy cho y sự cảnh giác cao độ. Cảnh giác với mọi người, cảnh giác với chính vợ y, nhất là những mẩu chuyện tình tang. Y giấu vợ biệt những chuyện ấy. Y chẳng dại gì để những thứ đó lọt vào tay thị, biết đâu thị lại ghen bóng ghen gió với các nhân vật thì mệt lắm. Viết như thế riết một hồi, tự dưng y thấy y cũng là một gã đàn ông có giá, chí ít thì ở cái vùng quê chiêm trũng này, y đáng là một đấng anh hào. Y không còn thấy mình xấu trai nữa, bởi đàn ông ăn nhau ở vẻ đẹp trí tuệ kia mà. Trái với hồi thanh niên, y luôn mang mặc cảm ế vợ, thì nay y thấy mình là đối tượng cho đám gái trẻ trong làng ước ao, thèm muốn. Và y nhiễm cái thói tán tỉnh từ khi nào chẳng rõ. Một lần, y đổ trâu cày, ngồi nghỉ ở quán cây gạo giữa đồng, chợt trời mưa rào, cô con gái lớn của ông giáo làng về hưu chạy vào trú mưa. Cô ngót ba chục tuổi, được người được nết, nhưng không hiểu sao lại muộn chồng. Ngoài trời mưa to, trong quán lại chỉ có hai người. Cô gái có vẻ e thẹn, khép nép vào góc quán. Lén quan sát cô, y thấy thương thương và y tìm cách bắt chuyện: “Gái nông thôn mà như cô thế kia thì thành thị có còn lâu mới bằng”. Cô nhìn y ngường ngượng: “Thế mà ế đấy”. Y cười: “Bọn con trai làng này có mắt cũng như mù. Giai nhân ở đây mà cứ đi tìm ở đâu cơ chứ. Giá mà…”. Y bỏ dở câu nói, ngẩn ngơ. Cô nhấm nhẳng: “Anh quá khen, nhìn cú lại ngỡ chim công”. Y được thể, nhìn chằm chằm, tán: “Cô không chê… hay là để tôi làm mối?”. Cô cười nhoẳn: “Thôi, xin cảm ơn anh… Tôi chẳng thiết gì, người tài ba như anh thì làng này hết rồi!”. Nói rồi cô vác cuốc bỏ ra về trong khi trời vẫn mưa dày hạt. Y gọi với theo, lòng chộn rộn, và lần đầu nhìn mưa, y thấy cô đơn…Rồi y viết một câu chuyện, nhân vật chính là cô gái quê nhan sắc muộn chồng, mọi người không ai biết, chỉ đoán già đoán non nhưng thực ra chỉ vì người tình trong mộng của cô đã có vợ con, người ấy là một chàng thợ cày, chơi sáo tài tử, có tâm hồn nghệ sĩ hệt như chàng Trương Chi. Y nâng niu, ấp ủ câu chuyện đó, và rồi y cũng gửi cho báo…Sẽ chẳng có gì nói thêm về tay văn sĩ làng quèn như y, nếu một ngày kia không xảy ra chuyện động trời. Một lần đi làm đồng về, vợ y chu chéo ngay từ ngoài cổng. Thị xô cửa vào nhà, xông thẳng đến trước mặt y, dí tờ báo, gầm lên: “Trời ơi là trời, sao số kiếp tôi lại khổ thế này, vớ phải thằng Sở Khanh mạt hạng. Bà hỏi mày xem cái con nào ở trong này. Bà cứ là bà chém! Bà cứ là bà xẻo!... Rõ là cái quân mèo mả gà đồng gặp nhau chửa!...”. Thị rúi y ngã nhào xuống đất, rồi vùng chạy xuống bếp. Y hiểu rõ cơ sự, lồm cồm bò dậy, chạy tháo thân ra cổng. Thị rượt theo, tay lăm lăm con dao nhọn vót nan tre sắc lẻm, luôn miệng đe: “Bà mà bắt được mày thì bà xẻo, bà xẻo quách cái của nợ ấy vứt đi cho chó nó nhai!”. Cả làng bị phen náo loạn. Mọi người đổ ra xem, cười đùa, khích bác, chế giễu… Lúc ấy thì y mặc tất cả, bởi điều quan trọng với y là chạy mau cho thoát, và sau đó là sẽ trở về nhà như thế nào. Y không còn tâm trí đâu nghĩ ngợi này nọ. Y cũng chẳng biết rằng, bọn thầu điện chơi xỏ y, tìm tờ báo đưa cho vợ y xem, rồi kích động thị. Sau đận ấy, người làng cứ thêu dệt thêm ra. Còn y thì mỗi khi nhớ lại thấy ớn xương sống. Y chẳng buồn viết lách gì nữa, song tự sâu trong tâm khảm, y vẫn nuối tiếc mộng văn chương, vì thế mà y sinh chứng mất ngủ, thỉng thoảng lại lẩm bẩm trong miệng gì đấy. Cô con gái lớn ông giáo làng lấy chồng tận thị xã hẳn hoi. Với ông giáo thì hễ ai đó nhắc đến tên y với biệt danh văn sĩ làng, ông lại rền rĩ: “Người xưa nói cấm có sai mà, lập thân tối hạ thị văn chương”!?...
R
<bài viết được chỉnh sửa lúc 12.10.2021 21:35:30 bởi Ct.Ly >

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( II ) - 14.10.2021 17:10:32
Thân phận,
 
 
                                                                                           Truyện ngắn               
 
                                                                               “Lưu linh! Lưu linh,
                                                           Lý Bạch! Lý Bạch!
                                                           Say có danh gì mà truyền lưu?”
                                                                             (Đặng Huy Trứ)
Thoạt đầu người ta nghe thấy tiếng rú, sau là những tiếng gào thét, rồi mới đến tiếng khóc thảm thương. Lúc ấy trời đã nhá nhem, các thành viên của từng gia đình ở cái xóm lao động này hầu như đã về đủ cả, nên nghe thấy vậy, mọi người đùn ra từ những lỗ cửa toen hoẻn, đứng chật ngõ, nháo nhác hỏi lẫn nhau xem chuyện gì xảy ra. Người ta tập trung vào nơi phát ra những tiếng gào rú khóc lóc. Thì ra ở nhà thằng Quấy. Anh chàng đạp xích lô, người trong xóm, mặt đỏ phừng, miệng sặc hơi men gạt đám đông xông vào nhà Quấy, rồi quay trở ra ngay, nói oang oang: “Thằng Quấy chết rồi. Chẳng biết chết từ bao giờ. Vợ nó đi đâu mới về, mở cửa vào nhà thì thấy nó nửa nằm nửa ngồi trên sàn nhà, đầu nghếch lên thành giường. Vợ nó tưởng nó say rượu như mọi ngày, lay gọi thì thấy người cứng nhắc lạnh giá, mới biết là chết”. Thế là cả xóm lại nhao nhao. Người ta tranh nhau nói. Một bà bảo: “Thảo nào, cả ngày hôm nay tôi không thấy mặt nó. Mọi hôm, đêm có say rượu thì ngày sau muộn lắm cũng chỉ chừng mười giờ là nó bò dậy, mở cửa ra bắc ghế ngồi sưởi nắng. Đằng này…”. Một bà khác không chịu thua: “Thì mới trưa hôm qua hay hôm kia gì đó, tôi thấy thằng Quấy ngồi uống rượu với mấy quả táo, tôi còn đùa bảo nó là bớt uống rượu đi, để dành tiền mà xây nhà lầu… Thế mà bây giờ nó đã là người thiên cổ!”. Tôi hiểu là bà hàng xóm đùa Quấy như thế bởi mấy tháng nay có một ông làm giám đốc công ty mua lô đất ở giữa xóm lao động này xây thành ngôi biệt thự bốn tầng theo kiểu nửa cổ nửa kim. Rồi người này, người kia đua nhau kể lể những chuyện xung quanh thằng Quấy. Riêng tôi, trước đó mấy ngày là chủ nhật, tôi còn thấy Quấy chơi cờ tướng với một cậu hàng xóm, thấy hắn gặp thế cờ bí, tôi bèn mách hắn mấy nước và sau đó hắn chuyển bại thành thắng, và khi đó Quấy còn bảo tôi: “Em không ngờ bác chơi cờ khá thế”. Trong khi mọi người còn đang bàn tán thì cảnh sát khu vực đến, chẳng hiểu ai đó đã nhanh nhẹn gọi điện báo. Đúng rồi, chết đột tử tại nhà không ai biết thì phải báo các nhà chức trách khám nghiệm tử thi xem có phải án mạng gì không. Biết đâu lại chẳng phải là kẻ trộm vào nhà cướp của giết người, hoặc chuyện thù oán, chuyện tình duyên trắc trở…? Khi xác Quấy được đưa đi rồi, mọi người còn bàn tán một hồi rồi ai nấy rút về nhà mình và trong nhà lại tiếp tục bàn quanh chuyện cái chết của Quấy…
Đêm đó, bên nhà Quấy đông chật họ hàng. Còn cả xóm, hình như mọi người cũng mất ngủ? Đoán vậy bởi tôi nằm mãi không ngủ được, và dường như cố tình ngủ thì mắt cứ chong chong. Hình dáng Quấy lúc chết nửa nằm nửa ngồi, rồi những hình ảnh, những câu nói thường ngày trước đây của Quấy cứ hiện ra trong suy nghĩ của tôi lộn xộn…
Cách đây chừng ba năm có lẻ, gia đình Quấy từ nơi khác dọn đến ở xóm lao động này. Nghe đâu, bố mẹ Quấy có mảnh đất khá to ở ngoại ô. Thời đất đai rẻ mạt thì chỉ cấy rau muống, nhưng khi đất đai có giá, bố mẹ Quấy bán bớt đi lấy tiền chia cho mỗi con một ít để chúng tự lo mua đất làm nhà theo ý mình. Và Quấy đã mua một căn nhà cấp bốn ở xóm lao động này. Nhà Quấy dọn đến ở dễ đến nửa tháng mà cả xóm không ai biết là có Quấy bởi người ta chỉ thấy một người đàn bà với một bé gái ra vào hàng ngày và thế là họ nghĩ nhà này chỉ có mẹ góa con côi. Nhưng rồi một hôm, tôi thấy người đàn bà ấy thập thò ngoài cửa thì hỏi: “Chị hỏi gì?”. Cô ta nói: “Em nhờ bác xem hộ xem cái ti vi nhà em làm sao mà không lên hình”. Tôi liền theo cô ta, bước chân vào nhà tối om nên chẳng thấy gì. Cô ta bật điện thoại và tôi mầy mò một lát thì phát hiện được cái ti vi bị tuột dây ăng ten. Khi đã lên hình rồi, tôi hỏi cô ta: “Đàn ông đàn ang nhà này đi đâu cả rồi”. Cô ta nói to cười cười rằng: “Bác ơi nhà này có đàn ông thì cũng coi như không ấy mà. Đây, đàn ông nhà này đây, ở ngay sau lưng bác đấy”. Nghe vậy tôi nghoảnh lại và bây giờ tôi mới nhìn rõ một chiếc giường kê phía trong bỏ màn sùm sụp là một người đàn ông, không phải vậy, đúng ra là một hình nhân, lặng thinh và nhìn tôi chòng chọc. Ngạc nhiên nhưng tôi vẫn khẽ gật đầu chào, song hình như anh ta chả phản ứng gì với cái gật đầu của tôi. Người đó là Quấy. Lúc ấy, Quấy vừa qua một cơn thập tử nhất sinh. Lâu lâu sau đó, Quấy khỏe lên đôi chút và hắn bắt đầu đi lại được. Dần dà, cả xóm biết chuyện là Quấy nghiện rượu nặng và nghe đâu nghiện từ khi còn chưa thành người lớn. Bình thường mỗi ngày Quấy phải đủ ba cữ, sáng, trưa, tối và mỗi cữ ít ra cũng phải chai ba. Quấy ngày một khỏe thêm, nhưng gọi là khỏe vậy thôi, chứ người Quấy vẫn chỉ là bộ khung, hai chân như xe điếu, gò má nhô cao, miệng dẩu ra. Người vậy nhưng miệng lưỡi có vẻ hoạt lắm. Theo lời Quấy thì hồi trai trẻ hắn khỏe mạnh và đẹp trai lắm, lại có nghề cơ khí trong tay; nhưng rồi cơ sở hắn làm sa sút, hắn nghỉ ở nhà không việc, lại thêm tật nghiện rượu và cứ thế hắn nhậu tì tì ngày này qua ngày khác, năm này sang năm khác mặc vợ làm, mặc chuyện con học hành thế nào không cần biết. Rượu đã nhấn chìm hắn!...
Có một dạo, Quấy có vẻ đỏ da thắm thịt, hắn đi lại lăng xăng ngoài đường trong ngõ. Rồi hắn lại còn ăn diện, đèo vợ con bằng xe đạp đi chơi đây đó vào ngày chủ nhật. Thấy vậy, mọi người khen: “Vợ chồng nhà này hạnh phúc nhỉ!”. Vợ Quấy cười như mếu, còn Quấy thì dẻo quẻo: “Phải nói là cứ như đôi chim quyên chứ”. Gần nhà Quấy có một cặp vợ chồng trung tuổi, họ sống với nhau có vẻ yêu thương nhau lắm, những ngày nghỉ, người chồng ngồi múc từng gáo nước bồ kết cho vợ gội đầu. Những lúc như thế, Quấy bắc ghế ngồi cửa chứng kiến từng động thái của cặp vợ chồng này và đùa: “Kiếp này thì em chịu, nhưng chờ kiếp sau, em sẽ sống đầm ấm như hai bác… Nhìn cảnh hai bác, em thấy thèm!”. Vợ chồng nhà kia đùa lại: “Thì ai cấm. Bây giờ chỉ cần chú bớt rượu đi là cô chú cũng thế được, thậm chí còn hơn nữa”. Hắn cười phá lên: “Trời ơi! Không kịp nữa rồi! Hai bác không biết đấy thôi, em đã xí được mấy thước ở Văn Điển rồi”. Thấy vậy, vợ hắn bảo: “Sao lại không kịp? Kịp hay không là ở mình, nếu muốn thì vẫn kịp. Còn muốn đi Văn Điển ư?...”
“Đi được thì đã phúc cho cái thân tôi”. Mấy người cùng cười. Đùa hay không thì không rõ nhưng nghe ra thì cũng bi hài lắm. Lúc ấy, tình cờ nghe được, tôi cũng không khỏi bật cười!
Rồi sau đó, đến những ngày quẫn chí của hắn. Hễ chiều là hắn mò đi, uống ở quán xá nào không rõ, nhưng khi về đến nhà thì say mèm. Hôm thì bạn rượu đưa hắn về, hôm thì về đến ngõ ngã rúi rụi, hàng xóm nhìn thấy rìu về. Có lần, tôi thấy hắn say quá ngã xấp mặt xuống vũng nước, lồm cồm bò dậy, lại ngã, lại bò dậy. Mấy nhà ở quanh đấy cứ nhìn mà cười rũ. Tôi phải gọi vợ hắn ra rìu hắn về. Vợ hắn cứ rền rĩ: “Khổ cho tôi không!”. Nhiều đêm hắn say li bì, vợ hắn đi làm ca về gọi cửa mãi hắn không tỉnh để mở. Rồi có hôm, hắn đi uống đến đêm mới về, gọi cửa nhưng vợ hắn kiên quyết không mở cửa thế là hai vợ chồng, kẻ trong người ngoài chửi cãi nhau như hát hay làm cả xóm mất ngủ. Lại có những đêm hắn không ngủ được, cũng không có chỗ để đi, hắn bật cát-xét, những băng nhạc ẽo ợt sướt mướt, những băng cải lương mùi mẫn. Hàng xóm láng giềng đều tức, nhà nào nhà nấy lủng bủng nhưng chẳng ai nói ra, bởi không ai muốn dây với hắn. Đời ai đi chấp những thằng Chí Phèo. Thằng Quấy tuy không rạch mặt ăn vạ, song nó say, nó cho rằng đời nó chẳng còn gì, nó chửi vung lên cho thì dại mặt à. Dưới con mắt của bà con trong xóm lao động này, thằng Quấy là hiện thân của sự bệ rạc, cỏ ráy xã hội. Ai cũng bảo: “Cái ngữ ấy chết đi không ai thương. Chỉ thương con vợ trông sạch sẽ, hiền lành, chăm chỉ là thế mà vớ phải thằng chồng cặn bã thì khổ quá”…
Tưởng đời thằng Quấy cứ lặng lẽ trôi đi và chìm hẳn trong u mê như thế, nhưng không, hắn đã có một quãng đời chót không đến nỗi uổng phí. Chuyện là thế này: Trước đó ít lâu, có ông giám đốc mua đất trong xóm xây nhà lầu.
Một toán thợ xây mấy chục người ùn ùn kéo đến. Rồi kế đó là gạch, cát, xi măng, sắt thép bề bộn. Quấy ta hễ lúc say, lúc ngủ thì thôi, hắn bắc ghế ngồi cửa xem người ta làm, thỉnh thoảng nói góp một câu. Ngoài rượu, Quấy còn có thú hút thuốc lào, mặc dù sau mỗi lần hút, hắn lại ôm ngực ho sù sụ, mà đám thợ lại có cái điếu cày rất kêu, thế là dần dà hắn quen hết cả đám thợ. Những lúc họ nghỉ giải lao, hắn cùng ngồi với họ, chén nước, điếu thuốc hoặc tranh thủ làm ván cờ. Hắn vui lắm, trong những câu chuyện phiếm như thế, người ta thấy hắn nói năng, đưa đẩy rất có duyên.
Hắn kể chuyện tiếu lâm. Và hắn nói đạo lý. Đúng thế. Một thằng cùn, thằng càn quấy vào loại “đệ nhất thiên hạ” bỗng nói toàn giọng đạo lý. Ấy là chuyện lạ.
Thường là buổi tối, cánh thợ vào nhà tôi xem nhờ ti vi. Theo cánh thợ, lần đầu tiên hắn bước chân vào nhà tôi. Và hắn đánh tiếng: “Em đến nhà bác là tôm đến nhà rồng mặc dù bác không mời. Em biết là em không đáng để bác mời và dưới con mắt bác em chỉ là đồ bỏ đi. Đúng thế. Nhưng chẳng lẽ cả đời không bao giờ bác thèm nói chuyện với đồ bỏ đi à!”. Tôi cười bảo hắn: “Cậu cứ vào. Không việc gì phải rào trước đón sau và cũng không cần phải hạ mình như thế”. Hắn hớn hở: “Như thế là bác hiểu em. Bác đã đánh cho hai chữ đại xá”. Hắn nhìn quanh một lát rồi reo lên: “Ôi nhà bác có nhiều sách quá. Bác làm gì và lấy đâu thời giờ để ngốn hết từng kia sách? Lại toàn là những quyển dày cộp. Giá mà em có nó nhỉ… thì em đâu đến nỗi thân tàn ma dại thế này!”. Tôi bảo: “Thế bây giờ cậu có muốn đọc những sách đó không?”. Hắn cười và xua tay: “Không, không… đầu óc em làm sao hiểu được những ý tưởng cao siêu trong những cuốn sách kia. Nếu có thể, bác cho em mượn mấy tờ báo xanh xanh đỏ đỏ kia em xem để giết thời gian thôi”. Và trong một lần sang mượn sách, hắn lần tay trên các gáy sách rồi rút ra một quyển. Hắn đọc to tên sách và tên tác giả. Rồi ngạc nhiên: “Bác viết sách này à? Đúng là bác thật. Tên bác rành rành đây này”. Tôi mủm mỉm: “Nếu đúng thì sao?”. Hắn so người lại: “Thôi chết! Mấy năm trời sống bên cạnh văn nghệ sĩ mà không biết. Hẳn bác nhìn cảnh vợ chồng em sống với nhau buồn cười lắm nhỉ. Ôi, thật là xấu hổ…”. Và sau đó hắn còn tuôn ra một bài diễn văn dài hổ lốn các thứ đạo lý ở đời vào với nhau.
Cánh thợ xây hay đi lại nhà hắn. Hắn vui vẻ, sống chan hòa và vì thế hắn ít cãi nhau với vợ. Vợ hắn cũng thấy nhẹ người. Một hôm, tình cờ gặp tôi, vợ hắn bảo: “Dạo này em nhẹ cả người, nhà em bớt la lối vô lý đi nhiều”. Tôi cười: “Ừ, Quấy nó vui vì có người trò chuyện. Vì người ta không coi nó là người thừa. Vì nó xem sách báo…Mà này, Quấy nó nói năng khéo léo ra trò”. Vợ hắn nở mặt khoe: “Vâng! Khéo lắm. Nhất là những lúc…”. Vợ hắn bỏ dở câu nói đỏ mặt.
Một hôm, tôi thấy Quấy ngồi uống rượu một mình, mặt lầm lì. Tôi đùa: “Này, vẫn chưa đủ bộ à?”. Hắn bảo: “Không!…Bác này, em muốn hỏi bác điều này, xem xử thế nào cho phải?”. Nhận thấy vẻ nghiêm túc trên mặt hắn, tôi hỏi: “Việc gì? Có nghiêm trọng lắm không?”. Hắn há miệng mãi không thành lời: “Chuyện vặt ấy mà…Bác này, dạo này bác có thấy mụ vợ em nó xí xớn không? Trước mặt mấy tay thợ xây mà nó cứ đi đi lại lại, uốn a uốn éo. Lại còn son phấn, ăn diện nữa chứ”. Tôi gạt đi: “Cậu cứ ru rú ở nhà. Xã hội bây giờ ngươi ta ăn mặc đẹp thế cả. Cậu hẹp hòi đấy!”. Hắn vẫn không chịu: “Đằng này còn thì thì thầm thầm với nhau”. Tôi vặn: “Với ai?”. Hắn cấm cảu: “Thằng cha thợ cả ấy”. Tôi chuyển sang bông đùa: “Chắc không có gì đâu! Còn cậu, bớt rượu cho đỏ da thắm thịt thêm rồi đẻ lấy một thằng cu nối dõi tông đường chứ!”. Hắn vui lên ngay: “Đúng thế. Em cũng đang tính vậy. Bác xem này, cánh tay em cũng săn đấy chứ”. Vừa nói hắn vừa co tay cho tôi xem. Thực lòng, nhìn cánh tay cẳng cà toàn xương với da nổi lên những đường tĩnh mạch xanh xám, tôi không giấu nổi vẻ thất vọng, song vẫn gắng đùa: “Chắc lắm. Vật tay với nhau không khéo tôi thua cậu cũng nên”. Quấy nghe vậy phấn khởi lắm: “Bác này, em thấy sao những năm tháng qua mình lại phung phí thời gian, sức lực mà sống vô nghĩa thế nhỉ. Hôm nọ, em bảo cả nhà em nữa rằng từ nay vợ chồng mình đừng cãi nhau nữa, hàng xóm đây có nhiều trí thức lắm, lại có cả văn nghệ sĩ nữa, người ta cười cho”. Tôi cười cười: “Mọi người bình thường cả thôi, nhưng mà cậu nghĩ thế là phải”. Hắn ngần ngừ: “Nhưng mà…hằng ngày em chẳng có việc gì để làm. Em thèm rượu. Cố uống cho thật say. Say rồi li bì đi. Lúc tỉnh tỉnh lại thấy trống rỗng và vô nghĩa…Thế là lại muốn say. Cứ cái vòng luẩn quẩn thế mãi… Bác bảo, đời em còn gì nữa đâu. Em biết là em chẳng còn được ở với các bác, các anh em xóm này lâu nữa đâu”. Tôi mắng: “Bậy nào! Người hay nói đến cái chết sẽ là người thọ nhất”. Hắn cười như mếu: “Bác cứ động viên em!”. Tôi vỗ vai hắn: “Cậu lo không có việc gì để làm phải không? Tỉ như thế này, hằng ngày cậu đọc sách báo chút ít, luyện tập thân thể, cứ lấy mục đích là có sức khỏe để đẻ con trai đi! Thế nhé, bắt đầu từ hôm nay!”. Hắn vui: “Vâng! Em xin nghe lời bác!...”.
Sau lần ấy, tôi đi công tác một chuyến dài. Khi về đến nhà thì khung cảnh xóm lao động nhà tôi đã khác. Biệt thự của ông giám đốc đã xây xong, đám thợ xây đi nơi khác hết cả. Các gia đình lại khép kín biệt lập như cũ. Trừ những lúc xe rác đến thì mọi người mới túa ra với xô đựng rác trên tay và người ta tranh thủ lúc ấy nói với nhau, trêu đùa nhau đôi ba câu. Tôi để ý, ít thấy Quấy ra ngồi ngoài cửa uống rượu hoặc hóng chuyện nữa. Mọi người đều sấp ngửa từ mờ sáng đến tối mịt, ai đâu có thời giờ mà chuyện gẫu nữa. Chẳng hiểu Quấy có còn uống đều đều như cũ không? Cho đến khi xảy ra cái chết của Quấy tại gia không ai biết…
Mọi chuyện nhanh chóng được làm sáng tỏ. Sau khi khám nghiệm tử thi, người ta kết luận là cái chết của Quấy do chính những căn bệnh tiềm tàng trong người hắn bấy lâu gây ra. Nghe đâu như là tim gan, phèo phổi hắn mục ruỗng hết. Chất rượu tuôn chảy trong huyết mạch hắn và vi trùng là những kẻ đồng mưu sát hại Quấy. Cả xóm thở phào nhẹ người vì cái chết của hắn không liên can đến ai và hắn cũng không còn ở trên đời để quấy rối làm phiền mọi người. Buổi đưa đám hắn, người ta đi đông lắm. Lúc sống có không ưa nhau thì nay bỏ hết nghĩa tử là nghĩa tận mà! Người ta bảo nhau rằng hắn cũng đủ mùi đời rồi, chỉ tiếc cho hắn là chưa có con trai nối dõi. Lại có người bảo là cần gì con trai, có con trai để sau cũng rượu chè như bố thì vứt.
Sau khi Quấy chết, người trong xóm cảm thấy thiêu thiếu cái gì đó. Hắn sống như thừa mà hắn chết thì thấy thiếu. Lạ thế! Ngẫm mãi tôi hiểu ra thế này, lúc hắn sống gây phiền cho mọi người, và khi ấy, người trong xóm có cái cớ để kêu ca, phàn nàn với nhau, kể lể với nhau về hắn, thậm chí giễu cợt, xỏ xiên hắn rồi nói với nhau. Nay hắn không còn, chẳng ai làm phiền ai và cũng không ai nhờ vả gì nhau. Thế là mọi người đều cố thủ trong cái lô cốt của gia đình mình.
Dạo này, người trong xóm thấy vợ Quấy ăn diện lắm. Thị vui vẻ dần sau cái đại tang. Chẳng hiểu thị có buồn phiền thật không? Nghe đâu thị rao bán nhà, chuyển đi sống nơi khác. Rất có thể, sẽ lại có một ông giám đốc nào mua và sau đấy xây lên một ngôi biệt thự. Người ta sẽ nhanh chóng quên đi rằng trước đây trên mảnh đất ấy có một thằng cha tên Quấy nghiện ngập chìm đắm!...
Khi hắn còn sống, có một lần nghe hắn rao giảng về đạo lý ở đời, tôi đã cười và đùa hắn rằng: “Cậu nói hay lắm. Thế nào tôi cũng sẽ viết một cái gì đấy về cậu”. Hắn sáng mắt lên: “Ôi, thế thì tuyệt quá! Bác hứa nhé, thế nào cũng viết truyện về em. Thế thì em yên tâm rồi. Em những tưởng đời em chỉ toàn vô nghĩa, bỏ đi. Bây giờ được bác viết thì em có ra đi, cũng có nghĩa là em vẫn còn ở với cái đời này. Đọc truyện của bác viết về em, người có cười, thậm chí có chửi rủa cái thằng em thì em cũng sướng!...”.
Tôi viết truyện này là thực hiện ý nguyện và giữ đúng lời hứa với Quấy. Cũng là nén nhang cho Quấy!...
 
Đã mang vào thư viện
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.10.2021 17:23:02 bởi Ct.Ly >

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( II ) - 17.10.2021 17:00:04
Ơi cái thời chị đẹp
Truyện ngắn
Bẵng đi hàng mấy năm trời, tôi mới lại có dịp về thăm quê. Tôi tranh thủ đi hỏi thăm hàng xóm láng giềng và bà con họ hàng. Một buổi tối đến chơi nhà chú họ, tôi ngồi uống nước chè với cậu con trưởng của người chú. Cậu ta đang chăm chú nghe tôi nói chuyện thủ đô, chuyện thời sự quốc tế, chợt quát hỏi thằng em khi ấy vừa đi từ trong buồng ra:   - Này, tay mày cầm cái gì thế kia? Thằng em lúng túng, một tay giấu đằng sau lưng. - Có gì đâu, em… - Gạo phải không? Mày lấy trộm gạo để đi đến ổ Luyến à? Nói rồi anh xông ngay đến tước lấy cái bọc mà cậu em đang giấu đằng sau. Cái gói bung ra làm gạo bắn tung tóe. Khi cậu em đi rồi, thấy tôi tỏ vẻ ngạc nhiên, cậu anh giải thích:  - Anh có hiểu là nó mang gạo đi đâu không? - Chắc là… bán lấy tiền tiêu hoặc cùng lắm tích tiền mua sắm quần áo, tệ hơn nữa là cờ bạc, rượu chè. - Không, anh nhầm rồi - Cậu ấy cười khẩy - để chơi gái đấy.  - Chơi gái? Tôi hỏi lại bởi ngạc nhiên thật sự. Lúc trước nghe cậu anh nói đến “ổ Luyến” thì tôi nghĩ ngay đến một ổ rượu chè, cờ bạc nào đó, chứ không thể nghĩ đến là “ổ điếm”. Ở nông thôn, đi với gái điếm lại trả công bằng gạo, thật là một chuyện lạ. Điều đó kích thích lòng tò mò nghề nghiệp của tôi. Một suy nghĩ chợt xuất hiện, có thể viết một bài báo, hoặc một phóng sự chẳng hạn. Tôi bèn xoay vào cậu anh: - Này, thế chủ ổ điếm đó tên Luyến à? - Chủ gì đâu. Có độc mình mụ Luyến, con riêng của bà cả Ái.  - Chị Luyến à? Thế là chẳng còn đợi tôi hỏi, cậu anh thông thốc kể cho tôi nghe hàng loạt chuyện xung quanh ổ điếm làng này…
*
     *         *
Tình họ hàng, chị Luyến có họ xa với tôi, kiểu họ bắc cầu “bắn đại bác không tới”. Tuy nhiên, ngày nhỏ chị khá gần gũi với gia đình nhà tôi và tôi luôn kính trọng chị. Ngày ấy, những năm sáu mươi, tôi còn đang học cấp một, chị ấy đã hết cấp hai. Chị học cùng lớp với chị Thúy của tôi. Lúc ấy, tuy còn bé nhưng tôi cũng biết được rằng chị Luyến rất đẹp. Có thể nói, ngày đó, không những chị đẹp nhất làng mà còn nhất xã, thậm chí nhất huyện không chừng. Chị Thúy tôi cũng đẹp nhưng là vẻ đẹp thùy mị, nết na, còn chị Luyến thì ngược lại, đẹp một cách quyến rũ, lẳng lơ. Tôi nhớ, lúc bấy giờ là những năm chiến tranh phá hoại của Mỹ rất dữ dội. Làng tôi cách Hà Nội chỉ vài chục cây số lại làng quê cổ nên có rất nhiều trường đại học sơ tán về. Các chàng sinh viên phát hiện ngay ra những cô gái quê có nhan sắc để bâu quanh tán tỉnh. Chị Luyến được các chàng chú ý nhất và xoay quanh như chong chóng. Chàng tặng thơ, chàng tặng sách, chàng rủ đi xem… Chị nhận lời với tất cả. Có lần, tôi được nghe một chàng trong số đó, từng bị chị Luyến cho ra rìa, đến tán tỉnh chị Thúy tôi và kể lại rằng chị Luyến đã chơi trội bằng cách xin theo học ngoại ngữ cùng với lớp sinh viên và đã từng diện chiếc áo len đỏ chói đi từ cửa lớp phía gần bục giảng với dáng vẻ kiêu hãnh xuống hàng ghế cuối lớp trước hàng trăm con mắt nửa thèm muốn thán phục, nửa chê trách khích bác của đám sinh viên. Chị Luyến không những đẹp mà học cũng rất giỏi. Cánh thanh niên trong thôn và cả đám sinh viên đều cho là chị hâm hâm. Chị có hâm hay không thì chẳng biết song rõ ràng chị là đối tượng khao khát của đám con trai và đàm tiếu của nữ giới, kể cả các nàng sinh viên vốn được tiếng là cao giá… Bây giờ tôi mới hiểu rõ là người ta muốn, người ta giành giật không được, hoặc người ta kém hơn thì sinh dèm pha, chứ thực ra chị cũng không đến nỗi nào. Có chăng bởi chị đẹp quá, đẹp một cách khêu gợi làm ngứa ngáy và gai mắt mọi người.   Thế rồi, đùng một cái, chị Luyến lấy chồng. Chồng chị không phải là một trong số những người mê chị mà là một anh chàng hiền lành người làng nhưng đi thoát ly. Những năm bấy giờ, thoát ly là niềm mơ ước của biết bao trai gái nông thôn. Anh ta tên Ngọc. Chẳng hiểu vì tật bẩm sinh hay bệnh ngoài da mà cứ đến độ hanh hao thì da anh lại mốc lên, cho nên ở làng, anh ta có biệt hiệu là Ngọc “mốc”. Ngọc là con độc nhất của một bần nông. Bố Ngọc là cốt cán trong năm giảm tô cải cách. Gia đình được chia quả thực. Bố mẹ Ngọc lại căn cơ nên lúc đó nhà Ngọc được tiếng là khá giả nhất làng. Cũng không hiểu vì sao chị Luyến lấy Ngọc “mốc”. Lấy Ngọc, chị Luyến được tiếng là có chồng làm cán bộ thoát ly, bố mẹ chồng lại thuộc diện nhà ngói, sân gạch, cây mít. Đối với đám con gái làng, có lẽ được như vậy là toại nguyện lắm rồi, song với chị Luyến thì tôi nghĩ là không. Về chuyện chị Luyến lấy Ngọc “mốc” thì người làng có đồn rằng, bà cả Ái, mẹ chị - một người đàn bà có nhan sắc sớm lận đận chuyện tình duyên, góa chồng, đi bước nữa với ông làng Triển, vì cuộc đời quá long đong nên ngẫm mình tủi thân mà bắt con gái sớm lấy chồng cho yên phận. Cũng nghe đâu là chị Luyến định cự tuyệt thì bà Ái đe tự tử, thế là chị đành cam lòng. Ngọc “mốc” công tác xa, tháng đảo qua nhà một vài lần, song chị Luyến nào được sống tự do, mà luôn phải ghép mình trong vòng kiềm tỏa chặt chẽ khắt khe của bố mẹ chồng. Thế rồi chị Luyến xin đi học lớp sơ cấp sư phạm của tỉnh. Mãn khóa học, chị Luyến nhận nhiệm sở trường cấp một của xã và cũng là ngày chị ở cữ đứa con trai đầu lòng. Thằng bé chẳng có nét gì của bố. Cánh giáo viên ở trường xì xào rằng đứa bé không phải là con của Ngọc “mốc” mà của một ông thầy dạy ở trường sư phạm tỉnh. Tuy vậy, mọi chuyện vẫn bình thường bởi Ngọc “mốc” rất quí đứa bé. Cuộc đời chị có lẽ như thế trôi đi, nếu như không có chuyện một buổi người ta ấn vào tay chị bức điện tín báo tin chồng chị bị cảm và mất đột ngột ở cơ quan. Chồng chị được đưa về chôn cất ở quê. Nhìn cảnh chị khóc lóc thảm thiết trước linh cữu chồng, ai dám bảo là chị không yêu chồng. Chẳng biết người làng nghĩ gì, song riêng tôi thì nghĩ có lẽ chị cám cảnh thân phận mình thì nhiều hơn. Mãn tang chồng, chị Luyến trở về với vẻ cởi mở vốn có của mình. Chị cười đùa nhiều hơn, mắt nhìn đong đưa hơn. Gái một con đầy đặn, mặn mà. Lại khối kẻ nhòm ngó, tán tỉnh… Một thời gian, người làng đồn đại về mối quan hệ kỳ quái giữa chị với ông bố chồng. Người ta bảo là ông bố chồng chị “giữ gian cho con trai ở dưới suối vàng”. Còn ở trường học, mọi người lại thì thầm về việc ông hiệu trưởng “chỉ quí có mỗi mình cô Luyến”. Thật chẳng biết tin vào đâu. Mà thực ra, người ta cần gì phải tin hay không. Miệng thế gian ngoan miễn có chuyện để nói là được.  Chị Luyến lại gây ra một chuyện bất ngờ nữa. Chị xin thôi việc ở cơ quan, mang con bỏ lên mạn ngược với người chị gái. Thế là làng hết chuyện để mà đàm tiếu. Hơn một năm sau, chị Luyến về thăm quê, đi kèm là một chàng trai cao to mang sắp phục công an. Theo lời giới thiệu của chị, người ta biết được ở trên đó, chị xin vào dạy một trường cấp một và chàng trai đi cùng là chồng mới cưới của chị. Anh ta người dân tộc thiểu số, là trai tơ, gặp chị là si mê ngay và đòi cưới bằng được mặc dù biết chị đã qua một đời chồng và có con riêng. Đợt về thăm quê ấy chính là tuần trăng mật của đôi uyên ương. Trời lạnh, chị Luyến diện quần âu, mặc chiếc áo len cổ lọ màu hoàng yến, tay dắt con, đi cùng chồng từ đầu làng đến cuối làng thăm thú hết nhà nọ đến nhà kia. Vẻ hãnh diện và vẻ đẹp rực rỡ kết hợp hài hòa trên con người chị. Người làng chứng kiến cảnh ấy, kẻ khen thực lòng “cô Luyến thế mà may. Dạo này cô ấy trẻ đẹp quá”; kẻ lại dè bỉu “Đồ đĩ thõa. Rồi xem được mấy nả”… Riêng mình, khi ấy đang học cấp hai nói theo kiểu ngươi lớn là “hỉ mũi còn chưa sạch”, tôi thấy chị đẹp quá chừng và tôi vừa mừng, vừa thương cho chị, xen chút ghen tỵ, ước ao sau này mình cũng lấy được một người vợ xinh đẹp và quyến rũ như vậy.  Cuộc đời thật lắm điều chẳng ngờ. Tưởng vợ chồng chị sẽ yên ấm. Ai dè, mấy năm sau lần về quê thăm ấy, chị Luyến lại dắt con về làng. Lần này không có anh chồng đi cùng. Dù cố tình che đi nhưng chị Luyến không sao dấu nổi những vết thâm tím trên khuôn mặt mình, chắc là dấu vết của những trận đòn. Theo bà Ái rêu rao trong làng thì anh chồng chị vốn tính hay ghen, lại cục, hễ bắt gặp vợ mình đi cùng hoặc nói chuyện với người đàn ông nào là xông đến gây sự, rồi về nhà đè vợ ra mà thượng cẳng chân hạ cẳng tay. Không chịu nổi những trận đòn ghen, chị Luyến đã mang con bỏ về làng và cũng chằng buồn ra tòa ly dị. Bà Ái ví thân phận con gái mình như nàng Kiều.  Chị Luyến ở hẳn quê. Chị xin đi dạy cấp một nhưng người ta không nhận lại nữa. Làng cũng đã chia xong ruộng khoáng nên chị không xin được ruộng để làm. Bà cả Ái thương con bèn xẻ bớt vài sào ruộng trong định suất của mình cho con sinh sống.  Một thời gian dài sau khi tốt nghiệp đại học, tôi nhận công tác xa, lâu lâu mới có dịp về quê. Hỏi thăm, tôi được biết chị Luyến không lấy ai nữa. Mà có lẽ cũng không ai dám lấy mặc dù vẫn không ít kẻ thèm muốn thân xác chị. Chị xin xã được mấy chục thước đất dựng một căn nhà nhỏ ở góc sân kho hợp tác xã lâu ngày bỏ không để rêu mọc và làm ruộng nuôi con. Chị có mua thêm ít nước mắm, dầu thắp bán lẻ cho mọi người những lúc nhỡ nhàng. Thôi thế cũng được, tôi thầm nghĩ. Nào ngờ, nay lại đến bước đường này…!
*
     *         *
Một buổi trước kỳ nghỉ kết thúc, tôi gọi thằng con thứ của ông chú để hỏi thêm về chuyện chị Luyến. Nghe xong, nó cười và bảo tôi: - Anh cứ đùa dai. Ở ngoài đó thiếu gì gái đẹp mà phải tìm đến mụ gái già nhà quê này làm gì? - Dào ơi, ông anh lại khéo che đậy. Thôi được, để viết báo hay để làm gì thì cũng mặc, thằng em xin chiều. Nó kể và bày cách cho tôi tiếp cận. Rồi nó bông đùa một cách đểu giả:  - Bọn trai làng từ trung tuần đến choai choai bất cứ ai mụ ta cũng đều tiếp cả. Mụ ta dễ dãi lắm mà. Có tiền thì trả tiền không có tiền thì trả bằng gạo thóc. Hiện vật là được. Không có thì chịu đến lần sau trả một thể. Anh có tin rằng đã có đứa sau khi hành sự, trả mụ bằng bọc mắm tôm không? Ha, ha… - Nó cười - Mụ Luyến mà vớ được anh, dân thủ đô, phóng Cub vèo vèo, bẫm phải biết. Chúc anh một buổi tối sung sướng. Ôkê! Theo chỉ dẫn, tôi tìm đến ổ Luyến. Căn nhà gạch bé nhỏ xây vữa không trát, nép dưới bụi tre bên góc sân kho lở lói. Tôi gõ cửa rụt rè. Tiếng chị Luyến uể oải nhưng tôi vẫn nhận rõ: - Cứ đẩy cửa mà vào.  Tôi lách mình vào nhà và vội vã khép ngay cửa lại. Chị Luyến mặc bộ đò hoa mỏng, nằm chân co chân duỗi trên giường xem tiểu thuyết. Thấy tôi, chị buông sách hỏi: - Anh cần gì? Hình như anh không phải là người ở đây? - Vâng. Tôi… tôi gặp chị. - Gặp tôi à? Vậy thì anh uống nước đi. Có chè pha sẵn rồi đấy. Nếu không muốn uống thì nằm ngay xuống đây với tôi.  Chao ơi, trơ tráo và chai lỳ đến thế là cùng, tôi cay đắng nghĩ. Thấy tôi cúi đầu, chị khiêu khích: - Hay anh không mang tiền? Nếu không sĩ thì chịu cũng được. Anh nằm xuống đây đi, tôi đang mệt, không muốn ngồi dậy đâu.  - Chị Luyến, chị không nhận ra tôi sao? Tôi cố kìm mình để không quát lên. Chị Luyến nhỏm dậy, nhìn tôi trân trân rồi nhếch mép, cái nhếch mép nửa cười khẩy, nửa như mếu: - Đã đến thế này, thì quen biết làm gì… Nhưng thôi, cậu là Nguyên. Cậu tưởng cậu đi xa mà tôi không còn nhận ra nữa sao? Chắc nghe nói về tôi rồi chứ gì? Thảo nào cậu cũng biết đường đến đây! Tôi hiểu ra rồi… Mọi thằng đàn ông đến đây đều xông ngay vào tôi mà cấu xé, còn cậu… Tôi biết cậu đến không vì lý do đực cái mà để lý thuyết, dạy đạo đức, chứ gì? Tôi thêm phần lúng túng bởi sự đáo để đến quyết liệt và tàn nhẫn của chị, song dù sao cũng còn dễ chịu hơn.  - Tôi là nhà báo, chị hiểu cho… - A, thế thì còn tệ hơn! Cậu viết bài đăng báo lấy nhuận bút. Cậu kiếm tiền bằng cách phỉ báng tôi. Cậu cút đi! Tôi không tiếp những người đạo đức giả như cậu. Bọn đàn ông trong làng đến đây, tuy toàn một lũ cục mịch, ngu ngốc, háo sắc và đểu giả ra mặt, nhưng như thế còn hơn bởi dù sao họ cũng thành thực, chứ không như loại lắm chữ như cậu! Chị Luyến rít lên. Tự nhiên, tôi không còn cảm thấy lúng túng nữa mà trong người tôi bừng lên một sự giận dữ. Rồi tôi chùng người xuống. Tự ngồi xuống bàn, tôi rót nước cho mình và đưa cho chị một chén. Châm thuốc hút. Chị Luyến cầm chén nước trên tay, không uống mà cũng không đặt xuống. Im lặng hồi lâu, tôi nhìn sang thì thấy đầu chị cúi gục xuống, vai khẽ rung từng đợt. Chị khóc. Tôi định chào chị và ra về thì chị Luyến lên tiếng: - Cậu đến đây mà không sợ xấu hổ với người làng à? Ngộ nhỡ bây giờ có ai đến, người ta sẽ biết mặt cậu… - Không. Nhưng chị đối xử với tôi còn tệ hơn với đám khách làng chơi của chị, vậy tôi đành về thôi.  - Cậu Nguyên - tôi tự giận mình đấy thôi. Tôi đâu có ngờ mình lại đến nông nỗi này. Lúc tôi mới về làng, còn khó khăn, mấy tay cán bộ xã bốc giàu lên, học đòi thiên hạ, thèm của chua tìm đến tán tỉnh tôi. Tôi cự tuyệt thì họ dọa sẽ gây khó khăn mà đuổi tôi ra khỏi làng. Còn như, tôi chấp nhận thì họ sẽ tạo điều kiện cấp đất làm nhà cho tôi và mấy sào ruộng khoán. Cực chẳng đã, cậu ơi. Lâu thành quen, tôi nghĩ thế cũng nhàn. Bây giờ thì cả làng khinh bỉ tôi, cả mẹ tôi, con tôi… Cái đám đàn ông cũng vậy, họ vừa thèm khát, lại vừa khinh bỉ tôi. Đến nước này, cuộc đời quăng vật, còn gì để mà danh giá, gìn giữ nữa cậu! Đã điều tiếng thì dù mình có thế nào cũng vẫn điều tiếng. Nhiều lúc mệt mỏi, chán nản, tôi muốn chết quách cho xong. Nhưng rồi lại nghĩ đến con… Muốn bỏ nghề, từ chối thì họ lại chửi “Đĩ còn giữ giá”. Thôi thì mặc thây cái cuộc đời này, cũng đáng bỏ đi lâu rồi… - Thế con trai chị đâu? - Cứ tối đến thì nó bỏ đi. Đến nửa đêm mới về, thậm chí cũng không về, bởi nó biết tôi thường có khách. Hồi nhỏ, nó còn chịu được, sau lớn lên một chút, nó hầm hè với khách. Lớn lên nữa nó hiểu, và nhất là sau mấy lần bị tôi mắng, nó bèn nghĩ ra cách ấy. Có khi đến mấy ngày nó chẳng nói với tôi một câu nào.  Ngắm kỹ chị Luyến, tôi thấy chị phai tàn đi nhiều. Chị đã ngoài bốn mươi rồi, qua hai lần đò, bây giờ lại thế này thì còn gì là người nữa. Tôi nén tiếng thở dài. Chợt chị hỏi: - Nghe đâu, Thúy cũng sống ở ngoài đó? - Vâng, gia đình chị ấy cũng tạm ổn.  - Tôi có một đề nghị thế này. Ra ngoài ấy, cậu muốn viết gì thì tùy cậu nhưng không được để đúng tên tôi. Và nhất là, không được nói bất cứ điều gì cậu biết về tôi với Thúy. Chị Luyến lại tức tưởi. Tôi lặng nhìn. Rồi móc túi tiền đặt khẽ lên bàn, lách cửa ra ngoài. Trời đêm đầy vẻ rầu rĩ. Tôi đi giữa những tiếng chó sủa rấm rẳng. Mà tôi để tiền lại làm gì nhỉ. Tiền bạc nghĩa lý gì? Lại một sự ngu ngốc. Nào có ai cần tôi thương vay khóc mướn đâu!... Tháng 9/1992
 

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( II ) - 29.10.2021 16:47:46
Én xuân  
Truyện ngấn
 
Đầu xuân, Duy đi công tác lên biên giới phía Bắc. Anh cùng vài ba phóng viên trẻ của các tờ báo bạn được một ngành chức năng tổ chức đi thực địa khảo sát tình hình cai nghiện thuốc phiện ở vùng rừng núi. Đến thị xã Cao Bằng, đoàn dừng lại lâu hơn bởi đây là trọng điểm của chuyến đi. 
Mấy hôm đầu đến các điểm cai nghiện tập trung, tiếp xúc với những con nghiện phần lớn đều ở độ tuổi trên dưới đôi mươi và khi hỏi chuyện, họ đều xem như chuyện hút xách là nhu cầu tự nhiên thì anh không khỏi rùng mình. Đến như anh, chỉ mắc mỗi tật nghiện thuốc lá, anh đã gặp bao nhiêu điều phiền nhiễu, nào vợ con kêu anh là “bếp than tổ ong khói um”, nào ngồi làm việc phòng máy lạnh mỗi khi hút thuốc lại phải ra ngoài hành lang, rồi lúc yếu người vừa hút vừa ho sù sụ… Sau đó, theo sự hướng dẫn của cán bộ chuyên trách sở tại, đoàn của Duy xuống các cụm dân cư ở vùng ngoại ô thị xã xem xét việc cai nghiện tại cộng đồng. Mọi người dừng trước một căn nhà mái bằng nhỏ và xinh xắn. Người cán bộ sở tại giới thiệu rằng chủ nhà là một người vừa cai nghiện đã dứt cơn, hiện đang ở trong thời kỳ phục hồi sức khỏe. Chủ nhà mới ngoài hai mươi chút ít. Anh ta pha trà mời mọi người. Theo thói quen nghề nghiệp, không đợi làm xong các thủ tục xã giao ban đầu, Duy bấm nút chiếc máy ghi âm nhỏ và hỏi chuyện luôn bởi anh hiểu như thế câu chuyện sẽ thoải mái hơn, hiệu quả hơn. Trong lúc anh hỏi chuyện, mấy cậu phóng viên trẻ tản đi quanh nhà. Thì ra, họ đang hỏi chuyện cô vợ chủ nhà ở buồng trong. Lúc anh bước vào thì liền đó, mấy ánh đèn flash nhoáng lên. Anh nhẩm bụng, mấy cậu này ranh mãnh thật. Trong lúc anh chồng mải nói chuyện với anh, các cậu đã tìm được cô vợ, thuyết phục cô để chụp mấy pô ảnh cảnh cô đang cho con bú, tạo ra một xen tuyệt vời về chủ điểm hạnh phúc gia đình. Xong việc, cô vợ trẻ bế đứa con mới sinh được ba bốn tháng bước ra chào tiễn khách. Duy hơi sững người. Người mẹ trẻ này có khuôn mặt khá xinh xắn, đôi mắt to thoảng chút u buồn trước tuổi và mái tóc đen dày, xoăn tự nhiên để dài đến eo lưng, được tết thành chiếc đuôi sam nặng trĩu. Từ gương mặt, ánh nhìn đến dáng vóc cô đều gợi lên trong Duy về một thiếu phụ mà anh đã tình cờ gặp gỡ cũng tại thị xã địa đầu này từ mười lăm năm trước. Cô gái hôm nay và thiếu phụ năm trước giống nhau đến lạ lùng. Chẳng lẽ, hai người là mẹ con của nhau? Có thể lắm chứ. Ngày ấy, người thiếu phụ cũng có một đứa con gái chừng năm, sáu tuổi, và bây giờ cũng bằng chừng này. Duy định hỏi cô gái một vài câu, song anh chợt nhận ra, cho đến lúc này anh cũng không biết tên thiếu phụ năm trước tên là gì…
 
     *
     * *
           gày ấy anh còn rất trẻ, tốt nghiệp Tổng hợp văn xong là anh chuyển sang bộ đội. Đơn vị của anh đóng ở Ba Bể. Một lần hành quân dã ngoại và luyện tập tìm địa hình, cả đơn vị từ nơi đóng quân ngược lên thị xã Cao Bằng. Đường đi gieo neo hiểm trở. Gần tới thị xã thì trời đã tối. Đêm mùa đông sập xuống nhanh chóng, sương giăng mờ mịt. Toàn đơn vị được lệnh tản ra và mỗi người tự tìm nơi nghỉ đêm trong dân. Lúc đầu anh hơi lo vì nghĩ rằng không biết mình có tìm được nhà nào xin ngủ nhờ hay không, hay là đành ngủ ngoài phố vậy. Chợt anh nhớ ra, cùng khóa học với anh có một cậu người thị xã này, anh sẽ tìm nhà cậu ta để ngủ nhờ. Nhưng rồi anh tìm mãi không thấy, bởi anh chỉ nhớ mang máng tên phố, vả lại việc tìm nhà lúc đêm hôm ở cái thị xã miền núi sau chiến tranh này thật chẳng khác gì việc tìm kim đáy bể. Anh mệt mỏi quẳng ba lô và bệt ngay xuống đất vừa thở vừa nghĩ. Già nửa thị xã mất điện tối om om. Ánh mắt anh bắt gặp ánh đèn dầu hỏa le lói lọt qua khe cửa của một căn nhà phía trên cao cách nơi anh ngồi không xa. Anh nhẩm bụng, đánh bạo tìm đến ngôi nhà đó xin ngủ nhờ. Quả quyết vậy, anh đeo ba lô lên vai mò đường đi. Rẽ phải rồi rẽ trái mấy lần, anh tìm được tới chân bậc đá. Lại lần sờ tay, leo một hồi theo các bậc đá, anh mới tới sân nhà. Anh đứng thở giây lát, trấn tĩnh và khẽ gõ cửa. Không thấy tiếng người, thưa anh lại gõ. Lần này, anh nghe tiếng phụ nữ hỏi ra: “Còn biết đường mà về nhà à?”. Anh hiểu là người trong nhà nhầm anh với một ai đó, song anh cũng không biết nói thế nào, bèn gõ cửa thêm. Người phụ nữ cất tiếng nửa giận dữ, nửa ấm ức: “Sao anh không đi hẳn đi… Đi khuất mắt cho mẹ con tôi được yên”. Trong nhà, người phụ nữ vỡ tiếng khóc. Anh định lên tiếng cải chính nhưng tự nhiên nghẹn lại. Từ lâu lắm rồi, khi anh còn bé, đã có lần anh thấy mẹ anh khóc như vậy, đó là lần bố anh thua bạc hết cả số tiền mấy mẹ con anh dành dụm để sắm Tết và mua quần áo mới cho anh và lũ em. Anh cay cay nới sống mũi. Người phụ nữ đã bớt khóc, chỉ còn tiếng thổn thức khe khẽ. Anh ghé vào khe cửa nói nhỏ: “Chắc chị nhầm tôi với anh nhà… Tôi là bộ đội, đi hành quân, lỡ độ đường, xin gia đình cho nghỉ nhờ qua đêm”. Người phụ nữ trong nhà hốt hoảng: “Ấy chết… Tôi nhầm, tôi xin lỗi”. Im lặng một chút, chị ta bảo: “Tôi không dám cho anh nghỉ nhờ đâu. Đàn ông vắng nhà… Không được… Ngộ nhỡ!...”. Anh lắp bắp: “Tôi là bộ đội thật mà!... Còn như, chị thấy phiền thì tôi đi vậy… Không sao cả. Tôi sẽ tìm được nhà khác cho ngủ nhờ”. Ngần ngừ một lát, anh chào: “Thôi tôi di nhé”. Anh quay người, lần tìm bậc đá trở xuống. Chợt sau lưng anh, tiếng chị ta gọi: “Anh gì ơi! Đừng đi nữa… Anh vào nhà đi, thế nào tôi cũng thu xếp được mà”. Anh định đi để không làm phiền chị ta nhưng nghe tiếng gọi thân thiết quá chừng, anh đành quay lên. Người phụ nữ đã mở tung cửa, tay chị cầm đèn soi cho anh bước vào. 
Sau những câu xã giao, chị lấy nước cho anh rửa mặt, rồi pha nước cho anh uống. Chị hỏi anh đã ăn chưa, anh từ chối nhưng chị vẫn ép anh ăn một bát cơm nếp sắn. Vừa ăn, anh vừa ngầm quan sát, căn nhà tuy nhỏ nhưng gọn ghẽ. Nhìn chiếc bàn con kê góc nhà, trên để mấy quyển sách và tập giáo án, anh hiểu chị là giáo viên. Đứa con gái của chị thấy người lạ cứ nem nép bên mẹ, thỉng thoảng lại khẽ nhõng nhẽo điều gì đó làm mẹ nó gạt đi. Anh hỏi chuyện và đùa với nó nhưng nó chỉ nhìn anh không nói gì. Mọi việc xong xuôi, hai người ngồi bên ngọn đèn và chẳng biết nói chuyện gi cả. Lúc này anh mới có điều kiện ngắm kỹ, chị còn khá trẻ và có lẽ chỉ cỡ tuổi anh hoặc nhỉnh hơn đôi chút. Chị có khuôn mặt vẻ phúc hậu. Nhìn chị, anh nghĩ sao người trông phúc hậu lại sớm vất vả vậy. Anh hiểu người chồng của chị chắc mắc mớ chuyện gì đó và đã bỏ nhà đi đâu một thời gian vì thế mới có chuyện nhầm lẫn ban đầu. Anh nhìn đồng hồ tay, đã gần nửa đêm rồi, chẳng nhẽ cứ ngồi mãi thế này, anh bèn giục chị đi ngủ. Cả nhà chỉ có một chiếc giường to, chị áy náy vì chưa biết để anh ngủ đâu thì anh đã lôi từ ba lô ra chiếc võng và tìm nơi để mắc. Chiếc võng của anh mắc song song với chiếc giường nơi mẹ con chị nằm và chỉ cách nhau một tầm với. Sau khi anh ngả lưng xuống võng, chị mới hãm nhỏ ngọn đèn dầu, đặt lên bàn và vào màn nằm với con. Anh không ngủ được, nghĩ về cảnh ngộ của mình lúc nãy và bật cười khẽ. Chị cũng không ngủ được bèn hỏi sang: “Anh cười gì thế? Chắc cười chuyện tôi nhầm anh với nhà tôi lúc nãy?”. Anh lại cười: “Ồ không, tôi đang nghĩ là nếu như chồng chị về nhà lúc này thì sẽ thế nào nhỉ?”. Chị không trả lời, lát sau khẽ thở dài. Anh biết mình vô duyên nhỡ lời. Song quả nếu như chồng chị ta về nhà đêm nay thì chuyện gì sẽ xảy ra? Lại nghen tuông, nhầm lẫn chưa biết chừng đánh nhau cũng nên. Nghĩ rồi anh thấy lo lo. Chợt chị lên tiếng: “Anh nói quả có lý… Anh cũng chưa ngủ, hay ta nói chuyện gì đi, tôi không ngủ được”. Anh đồng ý, chị bảo: “Anh nói thế làm tôi làm tôi sinh lo. Ngộ nhỡ nhà tôi về, thật khó mà giải thích. Tình ngay lý gian…”. Anh hỏi: “Vậy anh ấy đi đâu bấy lâu nay?”. Chị lại thở dài: “Nói ra sợ anh chê cười. Xấu chàng thì hổ ai… Nhưng mà tôi cũng không có ý định giấu anh làm gì cả. Có lẽ, lúc này nói ra được với anh, không phải cầu lấy chút cảm thông của anh, mà lòng tôi nhẹ đi được chút nào chăng?”. Và chị kể. 
Chị là người Kinh ở dưới xuôi theo gia đình đến đây lập nghiệp từ khi chị còn bé. Chị học trung cấp sư phạm và được điều động về một xã vùng ven thị xã dạy cấp một. Chồng chị bây giờ là người Tày gốc xã đó nhưng ra thị xã làm công nhân. Anh ta to khỏe, đẹp trai và tính tình rất thực thà. Hai người gặp nhau và yêu nhau. Lúc đầu chị còn ngần ngại nhưng anh ta si mê chị và bỏ bê cả việc làm để suốt ngày bám theo chị. Hai người thành hôn rồi thì chị mới biết là anh ta có tật nghiện thuốc phiện. Những ngày đầu, chị khuyên can, anh có bớt hút nhưng không bỏ được. Chị nghĩ, dần dà rồi sẽ giúp anh bỏ hẳn. Và năm tháng cứ thế đi qua. Đứa con ra đời. Chị trút tình thương vào đứa con và thầm hi vọng, vì hạnh phúc gia đình chồng chị sẽ dứt được nghiện ngập. Tiền lương của hai vợ chồng chỉ tùng tiệm đủ để sống, thế nhưng phải chi thêm vào khoản nghiện hút của chồng nên sinh túng thiếu. Anh ta thề sẽ quyết chí làm giàu. Một thời gian sau, anh ta đem về nhà khá nhiều tiền và xây căn nhà này. Chị hỏi thì anh ta chỉ cho biết là có buôn bán thêm. Và một lần, do tình cờ, chị biết chồng chị tham gia vào một nhóm buôn thuốc phiện lậu. Gia đình sinh lục đục, rạn nứt. Anh ta bỏ việc, suốt ngày đi đâu đó, hút xách và lâu lâu lại làm một chuyến thuốc kiếm tiền để hút. Và đến lúc ấy, anh ta đã bỏ nhà đi lâu hơn một tháng rồi…
Chị kể mà rân rấn nưới mắt. Anh cảm thông nhưng không biết khuyên giải thế nào. Vả lại, lúc ấy có khuyên thì cũng chẳng khác nào khía sâu thêm nỗi buồn phiền cay đắng của chị. Chợt trong nhà đèn dầu tù mù, anh nhìn nơi hốc tường góc nhà có một vật gì trắng xám mông mốc, anh bèn hỏi để lảng chuyện khác, để chị quên chuyện buồn. Chị bảo: “Tổ chim én đấy”. Anh ngạc nhiên thực sự: “Chim én. Sao chim én lại làm tổ trong nhà thế nhỉ? Tôi không tin!”. Chị cãi lại: “Thật mà. Có một đôi én làm tổ ở đó đã ba năm nay rồi. Năm nào cũng vậy, cứ đông về là chúng bay đến phương nam, đến độ cuối đông, xuân sắp về là chúng lại quay về đây. Chúng đúng hẹn lắm. Có lẽ chỉ ít ngày nữa là chúng trở về… Đôi chim quyến luyến, ríu rít nhau lắm!”. Anh chẳng biết nói gì, miệng lưỡi của chàng cử nhân văn khoa như cứng lại. Một lúc lâu anh mới thốt lên: “Thiên nhiên thật là kỳ diệu”. Chị đáp theo: “Vâng… Sao mình là người mà không bằng được chim!”. Nghe chị, anh rưng rưng. Chị bảo: “Thôi ta ngủ đi. Ngày mai chắc anh còn phải hành quân… Còn tôi cũng phải lo bao nhiêu là việc”. Nói rồi chị trở mình quay mặt vào trong. Im lặng. Anh lén đưa mắt nhìn sang, chỉ thấy qua bức màn, mái tóc dày quăn của chị xòa trên gối, đường cong từ bờ vai chạy xuống eo, vòng lên hông và thuôn về phía chân thật mềm mại. Anh lẩm bẩm trong miệng: “Con người thật là kỳ diệu”…
Đã nghe tiếng chị thở đều đều. Anh nằm ngửa trên võng, nhìn mông lung lên trần nhà. Một tình cảm vừa thương xót, cảm thông, vừa rạo rực khát khao dâng lên trong lòng. Anh đặt hai tay lên ngực mình nén xuống, nhè nhẹ, nhè nhẹ,… Và anh ngủ lúc nào không biết. 
Anh và chị nắm tay nhau chạy trên bờ sông. Bạt ngàn những dâu. Dâu lúc lỉu quả. Những quả dâu to và chín mọng. Anh vít một cây dâu to, hái lấy mấy quả dâu chín. Anh xòe lòng bàn tay nhón từng quả đưa vào miệng chị. Chị vừa nhai vừa trêu đùa anh. Nước dâu ứa ra bên khóe miệng chị tím xịm. Anh ghé môi khẽ liếm chút nước dâu trên khóe miệng chị và thấy ngọt ở đầu lưỡi. Chị vùng ra, chạy ào xuống mép nước, anh vùng đuổi theo. Chị lội xuống nước và khi anh ào tới nơi thì chị chụm hai tay té nước vào mặt anh. Anh nhao xuống, chị quay người lội ra giữa dòng nhưng nước sâu không lội được. Chị chới với và anh nhoài người ra ôm chặt lấy chị. Anh xốc chị lên. Tóc chị ướt đẫm, quần áo dán vào người. Khuôn ngực nở hô cao của chị chạm vào ngực anh. Và anh ôm ghì lấy chị… Anh thấy mình bồng bềnh, khoan khoái…
Và anh mở mắt. Vật anh nhìn thấy đầu tiên là tổ chim én nơi góc nhà. Anh bần thần giây lát nghĩ xem mình đang ở đâu. Anh hiểu ra. Anh khẽ cười. Chợt anh nhớ là chị đang ngủ ở chiếc giường bên cạnh võng của anh, bèn nhìn sang. Chị đã không còn nằm ở đó, chỉ còn đứa bé gái con chị. Anh nhìn qua khe cửa ra sân, trời đã rạng. Anh ngồi dậy và ra khỏi võng. Nhìn quanh quất, cửa trước vẫn chốt trong. Thì ra căn nhà còn có cửa hậu. Anh khẽ đẩy, cánh cửa hậu mở ra và anh bước xuống mảnh sân sau con con. Trước tầm mắt của anh là dòng sông. Đúng là sông Bằng rồi. Dòng sông mùa cạn nước thu lại thành một dải manh mảnh. Hai bên bờ cũng toàn là dâu. Những cây dâu thân cao gày khẳng khiu, loáng thoáng búp lá nõn. Anh nhìn kỹ nhưng chẳng thấy có trái dâu nào như giấc mơ đêm qua. Anh ngơ ngần chẳng hiểu chị chủ nhà đi đâu. Và anh ngửi thấy mùi khói bếp, rồi mùi ngô nướng thơm thơm. Anh nghĩ, chị ấy đây rồi. Và anh đi về phía căn bếp nhỏ, ở góc sân sau. Đến bên cửa bếp, anh dừng lại nhìn vào. Chị đang ghé đầu thổi lửa. Những bắp ngô hồng lên trên than. Không quay lại, chị hỏi nhỏ: “Anh đã dậy rồi đấy à?”. Anh thấy vui vui trong lòng và bông lơn: “Ồ, tôi ngủ say quá. Sợ không biết có ngáy làm chị mất ngủ không?”. Chị cũng tươi tỉnh: “Không đâu… Chắc anh mơ thấy điều gì hay lắm… Buổi sớm tôi dậy nhóm lửa, đi ngang qua võng thấy anh khẽ cười trong giấc ngủ… Anh thật hạnh phúc!”. Chị cười. Anh cảm thấy thế. Anh nói: “Tôi mơ thấy…”. Chỉ chút nữa là anh bật ra câu nói: “Mơ thấy chị”, nhưng anh kịp dừng lại, và anh vội chữa: “Mơ thấy đôi chim én trở về”. Và thật kỳ lạ thay, tai anh nghe vẳng đâu đó tiếng chim chíp chiu… 
Chị tiễn anh. Trong ba lô của anh có mấy bắp ngô nướng. Anh đi chậm rãi từng bậc đá. Xuống tới chân dốc vườn. Anh quay nhìn lên. Chị vẫn đứng ở nơi đầu dốc. Và cách chị chút ít là cây đào lổ trổ đôi ba nụ phớt hồng. Anh nhìn chị trân trân. Chị đưa bàn tay lên ngang bờ vai khẽ vẫy. Anh thấy mình phấn khích, bắc tay làm loa với lên: “Đôi chim én sẽ trở về…!”. Anh nhìn chị lần cuối và quay lưng bước đi, miệng lẩm bẩm: “Đôi én xuân sẽ trở về. Trở về…!”.
Đã từng ấy năm rồi. Anh không biết đôi chim én có trở về đúng hẹn hay không? Ừ mà không biết có phải đúng đó là tổ chim én thật không, hay chị chỉ bịa ra thế để lúc ấy có chuyện mà nói, để chị tạm quên đi cảnh ngộ hiện tại của mình, tự xoa dịu lòng mình, và để anh hiểu là chị vẫn sống rất lạc quan?
Với anh, cái đêm ấy thật đặc biệt mà cũng lại bình dị. Thực ra, chỉ là chuyện của một chàng lính thư sinh lỡ độ đường ngủ nhờ nhà một thiếu phụ có cảnh ngộ éo le. Cái đêm ấy sẽ chẳng là gì nếu như không có câu chuyện về đôi chim én đi trú đông cứ đến độ xuân sang lại ríu rít trở về chốn cũ; nếu như không có giấc mơ về bãi dâu ven sông, và cảm giác va chạm da thịt; nếu như không có những bắp ngô nướng thơm lừng mà chị nướng vội để nhét vào ba lô của anh; và nếu như không có cây đào lác đác trổ hoa nơi đầu dốc ngõ vườn… Anh ra đi mang theo trong lòng niềm hứng khởi về cuộc sống. Còn chị, chị sẽ lập tức phải trở về với đời sống thực tại gia đình có người chồng nghiện ngập… Gía như anh không tới, không xóc vào cái đời sống bế tắc của gia đình chị thì có phải chị cứ cam tâm sống như vậy, chịu đựng như vậy một cách bình thản không! Liệu sự xuất hiện của anh có đem đến cho chị một liều thuốc phiện hay không? Hút một lần rồi để không bao giờ có nữa. Đấy là anh cứ tự huyễn hoặc vậy, chứ có thể với chị, câu chuyện đêm ấy chỉ là một cơn giớ từ sông Bằng thoảng qua. Thậm chí, có khi chị còn buồn cười vì đã làm cho anh tin một cái tổ tò vò vớ vẩn nào đó là tổ chim én, tin rằng đôi én xuân là một sự kỳ diệu của trời đất!...
Duy cứ tự lục vấn mình như vậy. Suốt dọc đường từ Cao Bằng trở về Hà Nội, anh luôn bị ám ảnh rằng người mẹ trẻ anh vừa gặp là cô bé con thiếu phụ năm nào. Nếu đúng, thì trời đất thật trớ trêu. Nhưng dẫu sao, anh chồng trẻ của ngày hôm nay đã biết nhấn phanh đúng lúc trên cái dốc trượt thăm thẳm của sự đam mê bệnh hoạn. 
Một cú xóc nảy người. Xe đang phóng nhanh vượt qua chiếc ổ trâu giữa đường không kịp giảm tốc độ. Mấy cậu phóng viên trẻ đang ngủ gà ngủ vịt bừng tỉnh hét lên, rồi sau đó câu chuyện giữa họ lại râm ran. Anh nhìn ra bên ngoài, một cây đào phai chơ vơ bên mỏm đá rìa đường, hoa nở bung, cánh phớt hồng rắc tơi bời trong tiết muộn…
 


 
  
  Đã mang vào thư viện
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.03.2022 15:41:45 bởi Ct.Ly >

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( II ) - 02.12.2021 17:43:24
 
Vĩ nhân nằm bàn
TRUYỆN NGẮN
         Họ có ba người. Thắng, Phó tiến sĩ vật lý học ở Liên Xô về, hiện công tác ở một Viện nghiên cứu. Hữu, cán bộ nghiên cứu văn học cổ. Và Kiên, nhà báo. Họ cùng chạc độ tuổi “Tam thập nhị lập”. Ba người quen nhau trong một cua học tiếng Pháp buổi tối. Buổi học đầu tiên, hoàn toàn do ngẫu nhiên mà họ ngồi cùng bàn với nhau. Rồi hứng lên, họ rủ nhau vào quán trà ngay trong sân trường làm một chầu thuốc nước. Đến lúc trả tiền thì cả ba đều tranh trả, song cô bán hàng trẻ đẹp cũng rất am hiểu tính khí của đám trí thức nghèo vốn hay sĩ diện, nên đã nhận tiền của cả ba chàng, tính tiền cho từng người, rồi trả lại tiền thừa cẩn thận, với mỗi chàng đều kèm theo một nụ cười tình tứ khiến ba chàng đều ngượng nhưng rất đẹp lòng.
Sau đó dần dà họ hiểu nhau hơn. Cả ba đều có một điểm giống nhau là cùng Celibataire. Nhưng đến với tiếng Pháp thì họ lại có những động cơ khác nhau. Với Thắng, tuy nói thạo tiếng Nga như tiếng mẹ đẻ, song nhu cầu cấp thiết thêm một ngoại ngữ khác nhất là trong thời buổi bùng nổ về thông tin này thì không phải là thừa, nhưng lại chê tiếng Anh là bị “thương mại hóa”.  Còn Hữu, ngoài chút vốn liếng về tiếng Hán, một thứ ngôn ngữ cổ có chữ tượng hình, khi cần có thể tra cứu tạm các văn bản, thư tịch cổ, chàng mơ ước dịch được một số tác phẩm văn học từ nguyên bản tiếng Pháp. Riêng với Kiên, chàng nhà báo lang thang, kiết xác mang trong mình một chút mộng mơ thi sĩ thì thích tiếng Pháp bởi chàng cho đó là thứ ngôn ngữ nhẹ nhàng, tinh tế, để nói với người tình. Tuy nhiên, có một lý do giống nhau mà cả ba đều nghĩ đến song không ai nói ra, nhưng thâm tâm họ đều hiểu nhau, đó là tìm đến với lớp ngoại ngữ buổi tối - vốn nổi tiếng là để “nên vợ nên chồng”, với ít nhiều hy vọng tìm thấy tại đây người bạn đời.
Thoạt đầu, Kiên theo địa chỉ mà Hữu ghi lại cho anh tìm đến thăm Hữu. Đó là một chiều chủ nhật. Tới nơi, Kiên mới biết đó là cơ quan. Bác gác cổng già tốt bụng chỉ dẫn cẩn thận cho anh. Kiên lần theo hành lang tối om, sực mùi ẩm mốc đến một căn phòng khuất hẳn phía trong. Ánh điện vàng vọt hắt ra khe cửa nên vừa hé mắt nhìn vào Kiên đã nhận ra Hữu đang nằm ngửa trên hai chiếc bàn buyrô ghép lại với nhau, đọc sách.
Bonjour monsieur - Kiên đẩy cửa chào to.
- A… Cơn gió lành nào đã đưa người đến đây? Hữu cũng reo to không kém
- Này, thế chủ nhật là cậu không đi chơi đâu à? Cứ nằm đây mãi rất có thể người cậu bị bốc mùi như tịch cổ mất.
- Thì cậu bảo đi đâu bây giờ? Thế còn cậu?
- Thì cậu thấy đấy, ít ra tớ cũng đã hòa mình vào dòng người trên phố, tìm đến đây thăm dinh cơ của cậu.
- Của đếch gì tớ. Của thiên hạ mà tớ là ông chủ bất đắc dĩ và còn có phần vô trách nhiệm nữa chứ.
- Thôi mời ông chủ xuống tiếp khách cho, cứ ngự mãi trên long sàng như thế thật bất lịch sự đấy.
Trong lúc Hữu chạy ra ngoài quán mua chè, Kiên đi lại quanh quẩn trong phòng và mắt anh bắt gặp mấy chiếc xoong con và bát đũa giấu dưới gầm tủ. Hữu về, pha chè. Kiên móc túi lấy ra bao Hêrô đã hút dở.
- Sang nhỉ? Hữu khen.
- Sang chứ! Có điều là của thiên hạ. Mình làm nghề chống tiêu cực nên thỉng thoảng có vị khách đến hỏi điều này điều nọ… và khi đứng lên ra về, bao giờ họ cũng cố tình quên không cầm theo thuốc. Lúc đầu mình nhắc nhưng thấy chẳng vị nào chịu nhận lại, sau đó thành quen, mình cũng mặc kệ.
- Này, tớ hỏi nhé, Hữu vòng vo - Thấy tớ thế này cậu có ngạc nhiên không?
- Không. Đến cổng là mình hình dung ra ngay, bởi mình cũng chẳng khác gì cậu là bao.
- Có nghĩa là…
- Nằm bàn.
- Tớ lại cứ nghĩ cậu có nhà.
- Thì mình có ở trong Toilette đâu. Phòng làm việc của mình lạ lắm. Đó là hai khối tam giác ghép lại với nhau. Mình kiếm được chiếc bàn rộng, kê vào một góc, chăng bên ngoài chiếc riđô. Sang đáo để. Hôm nào cậu đến sẽ rõ.
- Mà này, tớ cũng nghĩ là Thắng chịu chung số phận như ta.
- Không đâu, cơ quan hắn sang lắm, và lại hắn là phó tiến sĩ, ai nỡ để vậy.
Và rồi trước khi chia tay nhau, họ hẹn chủ nhật tuần tới sẽ người ngựa ngậm tăm đến thăm Thắng. Ai thua cuộc sẽ phải chịu đãi một chầu bánh rán.
Y hẹn, hai người đạp xe ra rìa thành phố. Cơ quan Thắng nhìn bề ngoài vẻ bề thế, bên trong có khu tập thể kiểu nhà ngói mái tạm. Kiên khấp khởi mừng nghĩ mình sẽ thắng cuộc nên xông vào trước. Chợt nhác thấy Thắng mặc bộ pi-ja-ma đi vào một phòng trong dãy nhà đó.
- Này Hữu, cậu nhìn cho kỹ xem, đúng là chàng Thắng kia.
Quả đúng là Thắng. Thấy bạn, Thắng tay bắt mặt mừng. Liếc vào bên trong thấy bóng dáng phụ nữ. Kiên ngạc nhiên:
- Cậu lấy vợ hồi nào vậy?
- Đâu có - Thắng ngẩn người - Chợt hiểu ra - Thôi rồi, các cậu bé cái nhầm. Chị đây cùng phòng làm việc với mình, chồng chị là sĩ quan quân đội nên thường xuyên vắng nhà…
Hữu ghé sát Thắng đùa nhỏ:
- Vì vậy tổ chức phân công cậu thường xuyên đến nhà động viên?
- Bậy nào - Thắng cười rất tươi - Tớ đến thường xuyên nhưng không có trách nhiệm động viên mà để gửi tiền nhờ đi chợ giúp.
- Chao ơi, chàng phó tiến sĩ nhà ta quả là “gà công nghiệp” trước biến động của thị trường.
Thế rồi, cả ba kéo nhau vào một chiếc quán ngay gần cổng cơ quan. Hữu gọi một chai rượu. Thắng chạy đi mua thêm mấy chiếc bánh đa to tướng. Cuộc vui bắt đầu. Bác gái chủ quán tốt bụng thương tình, vét vại cho một đĩa dưa muối chua và bát tương ớt, làm bữa tiệc thêm phần thịnh soạn. Khi đã ngà ngà. Hữu gật gù dáng vẻ triết gia:
- Tớ nghĩ kỹ rồi các cậu ạ. Cứ như bọn mình đây lại hóa hay. Các cậu cứ nghĩ mà xem, biết đâu rồi chúng mình lại chẳng thành những vĩ nhân cũng nên? Trong bọn mình, không đứa nào dốt. Đúng không?
- Đúng vậy! Thắng gật gù đồng tình.
- Thế thì vì cớ gì mà chúng mình không thành các vĩ nhân nhỉ? Này nhé, không vướng víu vợ con, có chí, có học, còn thời gian thì… vô khối. Tớ vẽ cho các cậu thấy cảnh sống của giới trí thức thành phố: Sáng ngủ dậy ăn quà rồi vội vã đến cơ quan; chiều về đi uống bia hoặc không thì về nhà xem báo chờ vợ nấu cơm; buổi tối xem ti vi hoặc bảo cho con học, và ngủ. Một vòng khép kín. Cứ thế vòng nọ chồng lên vòng kia. Mấy mà hết đời người. Hà… chúng ta thì không!
- Xem ra cũng có lý đấy, song e rằng chúng ta mắc bệnh vĩ cuồng cũng nên - Thắng chọc thêm vào.
- Chúng ta sẽ trở thành các vĩ nhân - Kiên tủm tỉm - Các vĩ nhân nằm bàn.
- Đúng vậy. các vĩ nhân nằm bàn. Muôn năm! Hữu kêu to.
Tiếng kêu của Hữu làm cháu nhỏ của bà chủ quán tỉnh ngủ, khóc inh ỏi. Bữa tiệc đến đó là chấm dứt.
 
                                                *
                                            *       *
Các buổi học sau đó vẫn diễn ra đều đặn một tuần ba tối. Đến gần cuối cua học thì Thắng hay tách ra đi lẻ và ít tham gia vào các cuộc tán gẫu có hơi men. Với nhạy cảm, Kiên đoán Thắng đã tìm được bạn gái. Dự đoán không nhầm. Trong thời gian chờ trường mở tiếp cua B, Thắng báo tin cưới vợ. Vợ chưa cưới của Thắng là một cô gái học lớp tiếng Anh bên cạnh, con gia đình cán bộ khá giả, có vẻ vì cứng tuổi và cũng không lấy gì xuân sắc cho lắm, hoặc giả vì duyên số, nên gặp Thắng là bén luôn. Kiên và Hữu đều đến dự đám cưới. Đám cưới to, tổ chức theo đúng bộ lệ thành phố, nghe đâu phần lớn là do bên nhà gái bỏ ra, khách nhà Thắng mấy người lèo tèo từ quê ra, cung cách rụt rè. Lúc về, Hữu hỏi Kiên:
- Chắc nhà gái bỏ tiền ra tậu một chàng rể phó tiến sĩ lấy tiếng.
- Chỉ nói lung tung - Kiên ngăn - Bây giờ còn đâu kiểu lấy tiếng.
- Tớ thì tớ nhất địng không lấy vợ nhà giàu - Hữu nói - Suất gầm trạn ngán lắm.
- Con gái nhà giàu nó thèm vào lấy cậu - Kiên đánh lảng - Thế là một vĩ nhân phá thế độc thân.
Sau khi cưới vợ, Thắng bỏ dở cua ngoại ngữ. Hữu học hành bữa đực bữa cái, chỉ có Kiên là nghiêm chỉnh. Cua B vừa kết thúc thì Hữu cũng báo tin lấy vợ. Không ngạc nhiên song Kiên vờ hỏi:
- Cậu không đùa đấy chứ?
- Một trong ba việc quan trọng của đời người, không thể đùa. Mặt Hữu có vẻ nghiêm trang khác vẻ hài hước thường ngày.
- Vĩ nhân cũng cần có vợ à?
- Mình nghĩ kĩ rồi - Hữu nhoẻn cười - Một vĩ nhân mà không có vợ thì chỉ là vĩ nhân một nửa.
- Cũng lại một suất gầm trạn chứ?
- Ô… Non pas - Hữu kêu lên - Vợ mình là một thím bộ đội mới thoát cảnh chân lấm tay bùn vài năm nay. Cũng gần như nằm bàn tại đơn vị. Một thím khác cùng phòng đã nhanh chân lấy chồng trước nên chiếc giường duy nhất biến thành giường cưới của họ.
- Hỏi thật nhé, rồi vợ chồng cậu sẽ… ngủ với nhau ở đâu?
- Còn ở đâu nữa! Ở trên bàn.
          - Ha, ha… Kiên bật cười - và rồi các vĩ nhân con cũng lần lượt chào đời ở trên bàn. Tuyệt thật!
          Đám cưới của Hữu được tổ chức nhanh chóng. Theo Hữu thì cưới vợ thì phải cưới liền tay, để lâu sẽ sinh mất nhuệ khí. Tổ chức theo kiểu mít tinh hô khẩu hiệu, ông chính trị viên đơn vị vợ Hữu vẫn giữ cung cách cũ, nghĩa là tràng giang đại hải, căn dặn cô dâu chú rể vui duyên mới không quên nhiệm vụ hết già nửa thời gian. Tan, Hữu tiễn bạn:
          - Cưới mình mà sao cậu rầu rầu thế nào ấy?
          - À… Mình thương cho các cậu và cám cảnh mình. Cậu thử về soi gương xem, mặt cậu đâu khác gì mặt mình.
          - Thế thật… - Hữu bần thần - Sao không thấy Thắng nhỉ?
          - Chắc hắn bận. Nghe đâu dạo này hắn cùng bố vợ áp phe gì đấy.
          Thời gian sau, nhóm ba người gần như tan bởi họ ít có dịp gặp nhau. Riêng Kiên, ngoài công việc cơ quan anh tâm niệm làm một cái gì đấy, song rồi cũng vẩn vơ không làm được việc gì. Vẫn son rỗi, những lúc buồn anh muốn ghé nhà bạn tâm sự song lại sợ bạn mất việc. Ai cũng có gia đình của họ với biết bao sự lo toan. Một hôm, Kiên tình cờ gặp Hữu và hai người lại kéo nhau vào quán. Hữu thông báo hai tin quan trọng. Thứ nhất,vợ đã có thai; và thứ hai, sắp được cơ quan phân nhà cho, tuy hơn chục mét vuông thôi nhưng ở ngay phía sau cơ quan.
          - Cả hai tin đều đáng mừng - Kiên thành thực vui với bạn.
          Họ thay nước chè băng rượu trắng lạc rang. Nửa chừng cuộc vui, Hữu thông báo là vợ Thắng đẻ con gái nhưng hiện gia đình không được bình thường.
          - Sao? Cãi nhau? Ngoại tình? Hay sắp ly dị?
          - Non pas - Hữu khẽ nhăn mặt - cảnh gầm trạn bức bối, chật chội lắm.
          - Bố vợ Thắng làm to. Nhà cửa rộng rãi lắm cơ mà.
          - Cậu thật chẳng xứng đáng làm nhà báo tý nào. Là mình muốn nói đến sự bức bối, chật chội về tinh thần ấy.
          Thấy Kiên thừ người ra. Hữu bảo:
          - Mình đã lường trước rồi, sự đài các rởm của kẻ trọc phú là khó chịu lắm.
          - Thôi, cậu ạ, buồn mà làm gì, âu cũng là số phận.
          - Số phận? Hữu đay lại - Tự mình quyết định tất cả. Như mình đây, quyết thế nào là làm thế ấy, không phụ thuộc vào ai.
          Không khí trầm hẳn xuống. Nhưng mà ai quan tâm đến họ làm gì. Là những kẻ đa sầu, đa cảm, vui đấy và họ cũng buồn ngay đấy.
 
                                                *
                                            *       *
          Bẵng đi dễ chừng hơn nửa năm sau, Kiên mới có dịp gặp Thắng. Bề ngoài, Thắng béo và chững chạc hơn. Thắng hồ hởi bắt tay và rồi trách bạn không đến thăm gia đình mình.
          - Thì cậu biết đấy, mình thường xuyên phải đi công tác xa, còn Hữu bận việc gia đình. Chắc vợ nó sắp đẻ.
          - Mình biết cả rồi - Thắng buồn - các cậu ngại đến cũng phải. Nghe Thắng thở dài, nhìn mặt bạn ngẩn ra, lúc này Kiên mới nhận thấy vẻ chán chường của bạn. Kiên cũng khẽ thở dài cảm thông. Chợt Thắng sôi nổi:
          - Cậu biết chuyện Hữu mua đất làm nhà không?
          - Sao? Nó được phân nhà rồi cơ mà! Kiên ngạc nhiên.
          - Thì lúc đầu mình cũng biết như vậy, nhưng sáng nay mình gặp một anh cùng cơ quan Hữu ở thư viện, hỏi thăm thì biết nó nhường căn hộ ấy cho người khác, rồi tự bỏ tiền mua đất, làm nhà. Điên thật.
          - Đúng thế thì quả là điên. Nhưng vợ chồng hắn làm gì ra tiền mà bày trò mua đất làm nhà cho khổ. Hai bên gia đình cũng nghèo lấy đâu ra giúp đỡ cơ chứ?
          Đến cơ quan Hữu, hai người được chỉ dẫn đường đến nhà Hữu mới làm trong làng Gỉang Võ. Họ lại tức tốc đến luôn. Hữu có nhà. Vợ Hữu đã sinh con và trong thời gian nghỉ đẻ. Gọi là nhà, lại đổ mái bằng hẳn hoi, song tất cả chỉ chừng dăm mét vuông là cùng. Cửa sổ lại bé tí tẹo, chẳng theo một khuôn mẫu nào cả. Ngắm nghía kĩ, Thắng buông lời nhận xét:
          - Vợ cậu là lính nên nhà thiết kế theo kiểu lô cốt.
          - Cậu nhường nhà thật đấy à, Hữu? Kiên sốt ruột hỏi tuột.
          - Đúng đấy.
          - Nghe hắn thủng thẳng chỉ thêm tức, Kiên à - Thắng nổi cáu - Mình đã bảo là điên mà. Thời buổi này lấy đâu ra lòng tốt thế.
          Hữu kéo hai người ra đầu nhà, nơi có kê một tấm dát giường đã trải chiếu trên đống gạch, mái giấy dầu vảy ra che mưa nắng. Đó là chỗ làm việc của Hữu. Tập thơ văn Lý Trần và mấy văn bản Hán tự vứt lổng chổng trên đó. Hữu giãi bày. Thực ra là Hữu rất vui khi biết được phân nhà, song trong cùng cơ quan có một anh tên Tầm, vợ con ở cả quê, lại mắc chứng ho lao, cũng phải nằm bàn, chẳng nhẽ để anh ta mãi như vậy sao? Mới lại, vợ chồng Hữu còn trẻ khỏe, có khả năng làm nhà. Tiền thiếu có thể vay chỗ này, giật tạm chỗ nọ, mà bên đơn vị vợ Hữu hứa bán cho ít vôi cát giá rẻ. Thế là Hữu nhường. Anh chàng Tầm này còn nói là giành giụm được ít tiền sẽ cho vợ chồng Hữu mượn làm nhà khi nào có thì trả.
          - Dù thế nào đi chăng nữa thì cũng vẫn là điên - Thắng kết luận.
          - Điên thật - Hữu buồn - Mình vay tiền chàng Tầm ta nào có cho vay, được nhà xong anh ta chuồn luôn. Thiếu gạch, mình cũng ăn cắp. Các cậu có biết không, gần đây có một công trình tập thể đang xây dựng. Mấy tay chắc là chủ công trình lén đến chở đi mấy ô tô gạch, tức quá mình nghĩ tội gì mà không lấy. Nhưng mỗi lần chỉ được có mấy viên.
          - Ha, ha… vĩ nhân mà cũng ăn trộm à? Kiên cười trêu.
          - Đêm hôm giá lạnh, mặc quần đùi ra rìa ao lấy trộm gạch, khi ngủ lại phải tính toán thiếu đủ vay mượn ra sao, nhưng hôm sau đến cơ quan thấy tay Tầm bô lô ba la vui vẻ, thế quái nào rồi mình lại rủ hắn vào quán các cậu ạ.
          - Cậu xứng đáng là vĩ nhân. Trái tim vàng và tình yêu thương nhân loại bao la - Thắng gật gù cười.
          - Buồn cho nhân tình thế thái - Kiên thêm vào.
          Đứa con Hữu vừa mới sinh, khóc. Vợ Hữu gọi. Cuộc hàn huyên buộc phải giải tán.
 
                                                *
                                            *       *
          Một năm sau.
          Cả ba người vẫn giữ được tình bạn với nhau, mỗi người đều bận bịu với công việc của mình, song thi thoảng họ vẫn thu xếp để gặp nhau, thông tin cho nhau những điều cần thiết.
          Thắng vẫn sống tại gia đình bên vợ. Kinh tế có khá hơn chút ít nhờ cơ quan vợ là cơ quan buôn bán nên có chút màu mè. Trong thời buổi chạy đua về kinh tế, người ta cũng bắt đầu làm quen với việc sử dụng chất xám và làm tăng giá trị của nó lên, song chỉ với các ngành khoa học ứng dụng. Cái bằng phó tiến sĩ về vật lý nguyên tử của Thắng không ai cần đến. Mấy chục ngàn tiền lương Thắng lĩnh hàng tháng chỉ đủ để ngày ngày trả tiền gửi xe đạp tại thư viện, ăn qua loa chiếc bánh mỳ buổi trưa và một tháng mua được vài quyển sách bán hạ giá. Được cái vợ Thắng tốt bụng không bao giờ lèo nhèo Thắng về chuyện tiền nong. Bố mẹ vợ Thắng càng giàu lên lại càng hay va chạm, làm không khí gia đình luôn trong tình trạng nặng nề. Vì thế kể cả ngày chủ nhật Thắng vẫn thích đến thư viện hơn là ở nhà. Thắng nuôi hy vọng trở lại Liên Xô làm luận án tiến sĩ.
          Hữu đã xây xong nhà ba buồng. Với phương châm “Kiến tha lâu cũng đầy tổ”, vợ chồng Hữu thực sự là những “Ngu công dời núi”. Lâu lâu, Hữu lại có một bài điểm sách đăng trên báo để bạn bè biết là Hữu vẫn tồn tại, và nữa là làm những người cùng đơn vị với vợ Hữu phải lè lưỡi bái phục, khen ngợi hết lời. Vợ Hữu cũng lấy đó làm mát mặt về chồng, làm cớ để quên đi nỗi băn khoăn về đồng lương ít ỏi mà mỗi tháng Hữu nộp cho vợ. Chỉ buồn là khi công trình nhà cửa vừa xong thì Hữu phát bệnh thần kinh tọa, hơn tháng châm cứu tại ngoại bệnh mới bớt nhưng giờ đạp xe đi lâu thì người mỏi nhừ. Có lẽ cũng đáng buồn nữa là khoản nợ Hữu vay mua đất làm nhà vẫn còn đó chưa biết lúc nào mới trả xong. Chủ nợ thỉng thoảng nhắc nhở đôi câu làm vợ chồng Hữu khó nghĩ. Mỗi khi bạn bè chúc mừng làm được nhà mới Hữu đều giữ vẻ mặt trung tính.
          Với Kiên, anh luôn bị cảm giác là mình đang chuồi ra khỏi cuộc đời đè nặng. Bạn bè anh, ai cũng có gia đình riêng của họ rồi, còn anh cứ vất vơ vất vưởng, ngày mấy bữa cơm bụi. Theo con đường của Hữu thì Kiên không đủ sức, còn theo kiểu Thắng thì anh lại e sợ, cái gì cũng có giá của nó. Kiên quay về với công việc, song anh cũng chẳng thích thú gì những chuyến đi triền miên các bữa tiệc hiếu hỷ đầy bia rượu và ngồn ngộn thức ăn. Công việc và công việc, Kiên nhủ mình như vậy, nhưng trái tim khao khát yêu thương của anh vẫn luôn thôi thúc anh. Có thể viết ra những dòng về tình yêu và hôn nhân hay, song thực hiên, nghĩa là phải sống đích thực với đời thì anh thấy mệt mỏi quá. Những người quen biết chẳng hiểu vô tình hay hữu ý đôi khi nói nhỏ với nhau rằng “dạo này nó hâm hâm rồi”, hoặc “có lẽ thằng cha ấy ái nam ái nữ cũng nên”, người thiện chí hơn thì “thời buổi khó khăn vật giá leo thang một thân như cậu chẳng phải nuôi ai như thế là sướng”… Những lúc như thế, Kiên hoặc lờ đi như không biết, hoặc chua thêm vào, lấy mình ra bông phèng cho vui.
          Hữu và Thắng đều nhiệt tình và sốt sắng trong việc mối lái tìm vợ cho Kiên. Thắng giới thiệu một người cùng cơ quan với vợ mình đã cứng tuổi, còn Hữu lại giới thiệu ngay chính cô em vợ mình còn trẻ măng và xuề xòa “lấy nó đi, không có nhà mình cho mượn một ngăn lô cốt mà ở tạm”. Do bất đồng quan điểm, Hữu và Thắng lại tranh luận với nhau rằng lấy vợ già hay trẻ thì hơn. Tuy nhiên cả hai đều đồng tình với nhau rằng “muốn vĩ nhân gì thì vĩ nhân cũng phải lấy vợ cái đã”, rằng “vĩ nhân bây giờ hiện đại lắm, ở nhà đầy đủ tiện nghi, đi lại bằng xe du lịch, chứ không phải như vĩ nhân xưa sống trong lều cỏ nơi rừng rú, trên đỉnh núi cao”. Nghe có lý. Trước sự thuyết phục của các bạn, Kiên hứa sẽ nhanh chóng lấy vợ. Hứa thì hứa, song lúc đêm về, nằm vắt tay lên trán, Kiên lại tự hỏi: “Lấy ai? Ai lấy?”.
          Những lúc vui, có hơi men, hứng lên, họ chẳng đùa nhau là những vĩ nhân đó sao! Nghĩ mà buồn cười, cũng buồn rơi nước mắt.
          Ừ đã là vĩ nhân, dù là vĩ nhân nằm bàn cũng không có việc gì là không làm nổi!
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.11.2022 16:23:58 bởi tamvanvov >

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( II ) - 08.01.2022 15:19:36
Vòng đá Ngũ hành sơn
Truyện ngắn
Từ miền Tây, Tâm lên thành phố Hồ Chí Minh đi phép ra Hà Nội. Anh đi nhờ xe của cơ quan người anh họ đưa đoàn văn nghệ đi hội diễn toàn ngành. Xe khởi hành quá sớm, đến thị trấn Hố Nai trời mới sáng. Lúc này, người anh mới giới thiệu Tâm với cả đoàn. Mọi người vui vẻ bắt tay anh, người sau cùng là một cô gái xinh xắn, dễ thương, gọn gàng trong bộ đồ thể thao, tuổi chưa đến đôi mươi. Cô chìa bàn tay thon thả cho Tâm và khẽ nghiêng mình:
- Mai Quyên rất vui mừng được làm quen với anh!
Đi cùng với đoàn văn nghệ, ngoài Tâm ra còn có ông Trần, một nhạc sĩ già từng nổi tiếng bởi những ca khúc trữ tình đượm màu sắc dân ca của nhiều vùng quê. Dọc đường đi, Tâm hoặc chúi đầu vào tập truyện của nhà văn Pháp Andre Maurois hoặc trao đổi với nhạc sĩ Trần. Mai Quyên ngồi băng ghế bên cạnh anh. Cô luôn miệng khẽ hát một vài ca khúc nước ngoài, thỉnh thoảng lén quan sát anh, và khi Tâm chợt nhìn sang thì cô vội lảng nhìn ra ngoài đường, nói lảng câu gì đó, đại loại như “Ủa, trên cây kia có một chú chim”, hoặc “cây gì kia nhìn lạ hoắc”. Cô hay trêu mấy cô bạn diễn viên, đôi khi lại chun chiếc mũi thanh tú mà nũng nịu với nhạc sĩ Trần “Chú ơi, hát bài gì cho tụi con nghe đi”. Cô bé như một chú chim vành khuyên hiếu động và ngộ nghĩnh, Tâm thầm nghĩ. Thế nhưng, sau cái bắt tay làm quen lúc đầu, cô không có cử chỉ dùng sợi tóc ngoáy mũi Tâm khi anh ngủ quên trên xe thì anh cũng chẳng dám đùa với cô bằng những lời thân mật.
Đoàn ra đến Đà Nẵng vào một ngày mùa đông mưa rét làm thành phố xám xịt và ẩm ướt. Theo lịch trình, đoàn sẽ nghỉ ở Đà Nẵng chừng một tuần để tập dượt và duyệt lại chương trình dự thi. Tâm và nhạc sĩ Trần vì đi nhờ nên sốt ruột song cũng đành chờ. Những ngày này, nhạc sĩ Trần ở lì khách sạn, đi ra đi vào, lúc buồn ông lại tợp suông hớp rượu lấy hứng và ôm đàn hát say sưa các bài hát của mình. Tâm giết thời gian bằng mấy cuốn truyện, bằng những câu chuyện linh tinh với nhạc sĩ Trần, bằng sự lang thang trong thành phố lạ, thảng có lúc anh tạt vào phòng tập xem họ biểu diễn.
Một ngày đẹp trời, mọi người đi chơi phố hết. Tâm hơi mệt nên anh ở lại khách sạn. Đọc sách chán, anh vớ cây ghi ta chơi vài bản quen thuộc. Vừa hết bản “Thư gửi Elyse” của Bet-thô-ven thì anh nghe tiếng gõ cửa. Cửa mở ra, Mai Quyên đứng trước mắt anh, trên tay là chiếc ấm pha trà:
- Bên anh còn nước nóng cho em xin chút xíu.
Tâm thoáng ngạc nhiên, anh mời cô vào phòng. Cô khép nép ngồi xuống ghế xa lông, phụng phịu:
- Em hổng có nơi đi. Mấy anh chị qua lại đây nhiều lần, lắm bạn, nay bỏ em đi chơi hết trọi. Tức thiệt!
- Thì anh em mình nói chuyện cũng vui chứ sao - Tâm tủm tỉm.
- A… - Cô reo lên - Anh chơi ghi ta đi. Vừa rồi em nghe hay lắm đó.
Từ chối không được, Tâm đành chơi bản “Adelita” của Tarrega, bài tủ của anh thật điêu luyện rồi quả quyết buông đàn. Cô nài anh chơi tiếp. Tâm lảng:
- Đi xa, Mai Quyên có nhớ nhà không?
- Có chớ, nhớ ba má, nhớ các em, nhớ thành phố.
- Và nhớ người yêu nữa chứ?
- Hổng đâu ghen.
- Sao thế? Hay chưa có? Mai Quyên còn nhỏ mà!
- Còn nhỏ - Cô trề môi - Có anh Tâm nhỏ thì có.
- Thế rồi, cô kể chuyện về người yêu của mình. Cậu ta học trên cô một lớp. Hết phổ thông, cậu ta không thi đại học mà vào bộ đội nói là “rèn luyện phẩm chất”. Thấy Tâm cười, cô tròn mắt rồi cười theo:
- Thiệt đó? Với ảnh em vừa ghét vừa thương. Còn anh Tâm?
- À, anh thì… Tâm lung túng bởi sự phản công - Trước có, giờ thì không. Được chưa nào?
- Hổng tin.
- Tùy em.
Vừa lúc đó thì nhạc sĩ Trần bước vào:
- Xin lỗi hai bạn trẻ.
Nhìn Tâm, mắt ông hấp háy cười vẻ trẻ trung sau cặp kính cận. Ông lục túi tìm thuốc lá rồi đi ngay. Trước khi khép cửa phòng lại, ông tinh nghịch buông một câu tiếng Pháp:
- C’est très bien. Més voeux de bonhéur (Rất tuyệt. Chúc hạnh phúc)
Nhạc sĩ Trần đi khỏi, Mai Quyên cũng xin phép trở về phòng mình. Cô bỏ quên chiếc ấm trà và Tâm hiểu chẳng qua cô lấy cớ xin nước nóng để bắt chuyện với anh.
Ngày tiếp theo lại là một ngày đẹp trời. Gió bắc thổi. Nắng chan hòa. Mọi người náo nức chuẩn bị cho chuyến đi Ngũ Hành Sơn.
Xe đậu dưới chân núi. Bậc đá quanh co dẫn mọi người lên chùa Linh Ứng phảng phất mùi hương trầm. Tâm và Mai Quyên đứng bên nhau trên đỉnh Vọng Hải Đài nhìn ra xa, biển hiện lên xanh thẳm với dẫy Sơn Trà nhấp nhô. Mắt cô sáng lên. Đến cửa động Huyền Không cô so vai e sợ. Mọi người xuống hết, chỉ còn Tâm. Cô quơ tay chạm phải tay anh liền nắm chặt lấy, kêu khẽ:
- Ôi, tối quá, hổng thấy đường.
- Cứ nắm chặt tay anh - Tâm hân hoan - Anh sẽ đưa em đến bất cứ nơi đâu dù là thiên đường hay địa ngục.
- Xạo hoài - Cô nũng nịu.
Khi hai người xuống tới lòng động thì mọi người đã tản ra các góc. Sau giây phút ngây ngất vì được nắm cổ tay tròn trịa, mềm mại của Mai Quyên, Tâm hứng khởi dắt cô đi thăm thú. Anh thao thao kể về sự tích của từng hòn núi, anh còn đọc cả bài thơ của Bảng nhãn Phan Qúy viết từ thuở xưa ca ngợi Ngũ Hành Sơn khiến cô tròn mắt thán phục. Tâm xòe tay hứng dưới núm vú Cô Tiên và kì lạ thay một giọt nước trong vắt rớt xuống đúng lòng bàn tay.
- Ôi sữa tiên - Mai Quyên kêu lên sung sướng - Cô cúi đầu thè lưỡi khẽ liếm giọt nước trong lòng tay anh và ngước nhìn anh đầy vẻ hạnh phúc.
Tâm bàng hoàng trước cái nhìn nửa ngây thơ, nửa mời gọi quyến rũ ấy. Cô khẽ lay vai anh:
- Kìa anh Tâm, mua một chiếc vòng đá tặng người yêu đi!
- Người yêu nào đâu. Anh đã nói là không có rồi mà.
Cô nhìn anh, che miệng cười thành tiếng. Thực lòng, khi nhìn những vòng tay, vòng cổ, khuyên tai bằng đá xinh xắn màu bích ngọc, da cam, thủy mặc, Tâm đã nẩy ra ý định mua tặng Yến, người yêu của anh, nhưng vì đã trót nói dối Mai Quyên nên anh đành thôi. Nói dối Mai Quyên anh cũng chẳng nhằm lợi dụng cô, mà anh chỉ nghĩ đơn giản là hành trình đường dài với một cô gái trẻ đẹp lại quấn quýt lấy mình thì nói có người yêu rồi thật quả vô duyên. Yến là em ruột Quân, người bạn học cùng phổ thông với anh, hiện cô đang học đại học năm cuối. Tâm mơ màng nghe những giọt nước tý tách nhỏ từ thạch nhũ xuống lòng hang, chợt Mai Quyên nắm tay anh kéo đi:
- Anh nghĩ gì đó? Làm thơ hả? Anh Tâm mơ mộng thiệt. Đi anh mọi người đã lên hết rồi.
Tâm để mặc cho Mai Quyên dắt đi. Lên khỏi động, chợt anh nẩy ra một ý định và anh vờ dừng lại, kêu lên:
- Thôi chết, anh đánh rơi chiếc khăn mùi xoa trong đó rồi.
- Vậy hả? Em đợi, anh quay xuống lấy đi.
Tâm đâm bổ xuống. Tối om mà anh cứ nhảy đại hai ba bậc một. Anh hỏi giá, không mặc cả, trả tiền và chọn lấy một chiếc màu thủy mặc có những đường vân rất đẹp, gói vào một tờ giấy có hai lần bông lót bảo vệ do cô bé bán hàng đưa cho, cẩn thận cất vào túi áo, rồi lại hai ba bậc một đâm bổ lên. Mai Quyên ngồi đợi dưới gốc cây và cô khe khẽ hát.
- Thấy không, anh? - Cô sốt sắng.
- Thấy. Nó rơi ngay chỗ thạch nhũ hình bàn tay Phật.
Anh móc túi lấy chiếc khăn đưa cho cô xem. Nhìn gương mặt cô hồn nhiên, anh thầm nghĩ “cô bé không biết gì”.
Ở bãi biển, cánh đàn ông uống rượu với mực nướng và dưa chuột hộp. Hôm nay ngày biển động nên bãi biển vắng tanh. Trận bóng đá được tổ chức ngay trên bãi. Hai cô bạn Diệu Huyền và Kiều Hương nằm phơi nắng, chỉ mình Mai Quyên tắm. Cô mặc bộ đồ tắm hai mảnh màu đỏ sẫm, mái tóc để xòa cho gió thổi. Cô ném quả bóng cao su ra xa rồi nhoài người theo ngọn sóng bắt lấy. Vừa chơi bóng, Tâm ngầm đưa mắt quan sát cô gái, chiêm ngưỡng tấm thân xinh đẹp, trắng ngần. Với bộ đồ tắm màu đỏ, cô uyển chuyển linh động như một tia nắng. Khi Tâm đi một đường bóng lắt léo đến gần cửa gôn, làm động tác giả lừa thủ môn đối phương và tạt nhẹ bóng vào cầu môn trống ghi bàn, anh nghe rõ tiếng Mai Quyên reo lên. Cô gái có tên Diệu Huyền kêu to với mọi người:
- Anh Tâm cẩn thận nghen, Mai Quyên mê anh rồi đó!
Mọi người cười ồ. Người anh họ của Tâm trêu:
- Nếu chú ghi thêm được bàn nữa, anh sẽ thay mặt cơ quan gả Mai Quyên cho chú.
Mai Quyên giơ hai bàn tay bé nhỏ lên vờ đe rồi cô ném quả bóng cao su về phía hai người bạn gái.
*
* *
Chỉ còn một ngày nữa là đoàn lại lên đường ra Hà Nội. Tối ấy, Tâm thẩn thơ ra vườn hoa gần khách sạn. Anh tìm một ghế kín đáo ngắm người qua lại. Ngoài cảng, một con tàu nào đó lên hồi còi tạm biệt. Mới chỉ một tuần trước đây, thành phố này đối với anh thật xa lạ. Giờ thì khác, chia tay anh sẽ rất nhớ. Một cô gái đi ngang trước mắt, Tâm nhận ra và tim anh nhói lên:
- Mai Quyên!
Cô gái dừng lại đưa mắt quanh quất tìm. Thật kỳ lạ, anh vừa nghĩ đến cô thì cô xuất hiện. Khi thấy anh, cô mừng quýnh. Cô ngồi xuống, sát bên anh, nũng nịu:
- Anh đi đâu vậy?
- Thì em thấy đó. Anh thơ thẩn cho đỡ buồn. Còn em?
- Mọi người đều đi hết trọi. Họ tạm biệt bồ mà. Còn em… Em tạm biệt thành phố, tạm biệt những kỷ niệm đẹp.
- Mai Quyên mơ mộng quá?
- Đâu bằng anh.
- Á này, em hát hay lắm đó? Tâm khen thực lòng.
- Thiệt hông? Thiệt hả anh? Cô hỏi dồn, mắt long lanh.
- “Dù trái tim em không trao anh được. Một chút hương tràm cho ta bên nhau”, Tâm lấy giọng hát một đoạn bài “Hương tràm”, bài hát mà Mai Quyên sẽ hát dự thi.
- Ôi anh Tâm!
- Nếu em không được thấy cây tràm, được bơi xuồng giữa rừng tràm vào mùa trổ bông và hít thở hương thơm của nó - Tâm mơ mộng - thì khi đó em sẽ hát hay hơn, truyền cảm hơn.
Mai Quyên nhìn anh chăm chăm, mặt hồng lên niềm hứng khởi. Còn Tâm, ngồi sát bên cô, mùi nước hoa, hương vị dịu ngọt và quyến rũ toát ra từ tấm thân trẻ trung, hừng hực sức sống của cô cộng với vẻ huyền ảo của trời đêm làm anh ngây ngất. Bất giác, anh cầm bàn tay cô đưa lên môi hôn, và chỉ đợi có thế, cô nép vào lòng anh. Hai môi hôn rạo rực tìm nhau, gắn chặt vào nhau đến tê dại. Những cái hôn kéo dài đến ngạt thở, khiến đầu óc quay cuồng. Tâm thoảng nghĩ đến Yến, anh khẽ ngửa đầu ra nhưng thấy cô mắt vẫn nhắm nghiền và đôi môi đờ đẫn thì anh lại mụ đi. Xúc cảm mạnh hơn anh. Đến khi anh cảm thấy cô khẽ rùng mình và má anh chạm phải tóc cô lành lạnh, anh mới biết là sương xuống đã nhiều.
- Ta về thôi em, kẻo khuya lạnh.
- Về sao anh? Cô thảng thốt.
- Ta phải về thôi…
Khi đã nằm yên trên giường ngủ, Tâm tự hỏi mình. Rõ ràng chưa thể có một hình bóng nào thay thế nổi chỗ của Yến trong tâm trí anh. Xa Yến, anh luôn nhớ cô, hướng về cô, nhưng sao chỉ vừa mới quen biết Mai Quyên, anh đã cảm thấy hạnh phúc bởi những phút giây ngắn ngủi được ở bên cô gái bé bỏng ấy?
*
* *
Ra đến Hà Nội, Tâm chia tay mọi người. Anh hứa với Mai Quyên là sẽ đến dự buổi biểu diễn của cô. Cô rất vui. Hình như nỗi buồn của sự chia ly chẳng hề bén mảng cô.
Về nhà được một ngày bất chấp lời khuyên của mẹ nghỉ ngơi cho đỡ mệt, Tâm lấy xe đến nhà Yến. Trên đường đến, anh gặp Quân và được bạn anh cho biết là Yến vừa mới ăn hỏi, chờ thi tốt nghiệp xong thì cưới. Chồng chưa cưới của Yến vốn cùng học phổ thông với cô và là con một ông to, người có khả năng bảo trợ cho cô công tác ở Hà Nội. Thấy Tâm buồn sụp xuống, Quân chia sẻ, cảm thông:
- Lạ thật! Mình cũng nghĩ là cậu và cái Yến nhà mình yêu nhau lắm mà. Thôi cũng là duyên số. Tình yêu, sao rắc rối quá chừng. Như mình đây, mình giành tất cả tình yêu cho hội họa. Khi nào thấy cần và đủ điều kiện, mình sẽ lấy vợ. Đơn giản thế thôi. Còn cậu, đừng buồn mà làm gì! Sẽ có một cô gái nào đó đẹp hơn, tốt hơn Yến đến với cậu. Cuộc đời công bằng lắm! Cậu định đi đâu bây giờ?
- À, mình chuyển hộ một món quà - Tâm nói dối vì anh không muốn đến nhà Quân nữa.
- Thế này nhé - Quân bắt chặt tay anh - giờ mình có hẹn đi vẽ với tụi bạn - chủ nhật này thế nào cũng đến mình. Hai đứa ta sẽ hàn huyên nói chuyện đời. Mặc kệ cái Yến với thằng chồng chưa cưới của nó.
Tâm trở về nhà, đầu óc rối bời. Anh uống một ly nước lạnh đến tê buốt cả răng và nằm vật ra giường thở dài sườn sượt. Mẹ gặng hỏi, anh chỉ ầm ừ cho qua chuyện. Phải đối mặt với thất vọng của mình anh cũng hiểu ra tình yêu cũng vô cùng nghiêm túc và không được phép lấy nó ra làm trò bỡn. Anh có quyền gì căm tức Yến khi mà chính anh đang yêu cô vẫn đi với một cô gái khác!
Chợt nhớ đến chiếc vòng tay bằng đá núi Ngũ Hành anh mua về tặng Yến, anh vùng dậy mở túi du lịch lôi ra chiếc hộp đựng. Không hiểu vì sao khi đến nhà Yến anh đã quên không lấy nó mang theo? Khi lật lần bông lót lên, Tâm sững người bởi sự hiển nhiên đến kì lạ của định mệnh thật khó lí giải, chiếc vòng tay bằng đá màu thủy mặc bị vỡ làm ba mảnh. Tâm nhón tay cầm lên từng mảnh, ngắm nghía rồi bỏ vào lòng bàn tay xóc xóc. Ba mảnh vòng khẽ chạm vào nhau lanh canh, rồi rời riêng từng mảnh. Tâm mỉm cười chua chát. Chợt anh thấy hiện ra trước mắt mình tấm thân thon thả với bộ đồ tắm đỏ sẫm dập dềnh theo làn sóng biển và môi anh như phảng phất vị mặn nồng của những chiếc hôn…..
1987 - 1991

 

Đã mang vào thư viện

 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.03.2022 15:45:01 bởi Ct.Ly >

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( II ) - 20.02.2022 11:40:43
Quà tặng ở chợ hoa
( Truyện ngắn )

Vận lững thững đạp xe trên phố. Anh có cái thú được đạp xe thật chậm vào chiều tất niên để nhìn ngắm mọi người bận rộn mua sắm chuẩn bị đón xuân. Và sau đó anh sẽ vào chơi chợ hoa. Đã từ nhiều năm nay, anh vẫn duy trì được ý thích này. Cả cơ quan, duy chỉ có mình anh là vợ con sống ở quê, nên bao giờ anh em cũng nhường cho anh trực trước Tết. Anh sẽ đáp chuyến tàu đêm tất niên trở về nhà đúng lúc giao thừa. Trời mua phùn lây phây từ mấy ngày trước làm đường phố lầy lội, nhất là lối vào chợ Hoa. Năm nay, có vẻ như chợ đông hơn năm trước, nó được mở rộng thêm ra mấy ngách phố bên cạnh. Ngay lối vào là những hàng hoa giấy, hoa lụa đủ màu sắc, kiểu loại. Vận tiếp tục đi sâu vào trong và anh bắt gặp cả thế giới của loài cúc, cẩm chướng, thược dược, violet, đồng tiền. Mưa phùn vẫn rắc như rây bột làm những cánh hoa trĩu nặng, bởi những hạt mưa nhỏ li ti đậu xuống như nạm cườm cánh hoa. Nước mưa đọng trên lá cây nhỏ thánh thót xuống đầu, xuống quần áo mọi người. Người Hà Nội bao giờ cũng mang dáng vẻ hào hoa của riêng mình. Mưa như vậy mà chẳng mấy người mũ nón, hay che ô gì cả. Họ cứ để đầu trần như vậy, lại còn quần áo là lượt mà mua sắm dưới màn mưa xuân. Vận đến dãy bán đào, mời chào luôn miệng. Một anh chàng có vẻ lém lỉnh, nháy mắt với Vận: - Ông anh mua cho thằng em cành đào này đi. Cành này hoa hết ý. Em lấy rẻ ông anh thôi. - Cành này hoa nở hết rồi, ít nụ, nhanh tàn lắm. Vận chưa biết trả lời ra sao thì có tiếng phụ nữ nói ngay sau lưng anh. - Này bà chị, việc gì đến bà - chàng bán đào nói vẻ gây sự. - Đây là anh trai tôi. Đàn ông không biết. Tôi mua hộ anh ấy. Lúc này Vận mới quan sát người đàn bà vừa trả lời thay anh. Chị chạc tuổi bốn nhăm, đẹp và đầy vẻ kiêu sa. Chị mặc áo dài màu vàng, dắt theo một bé gái chừng mười tuổi. Chị nhìn anh cười cười vẻ thiện cảm. Anh ngượng ngùng nhưng vẫn khẽ gật đầu thầm cảm ơn chị, rồi đi sâu hơn vào giữa chợ.  Từ lúc ấy, hình ảnh người đàn bà này cứ lởn vởn trong đầu anh. Có nét gì đó quen quen. Anh cố nghĩ nhưng không thể nhớ ra. Vận chẳng còn để tâm vào chuyện mua đào nữa. Anh đi đến cuối chợ nhưng không chọn được cành nào. Anh quay trở lại và anh lại nhìn thấy hai mẹ con người đàn bà. Chị ta có vẻ như đang tìm ai. Cháu bé cầm trên tay một cành đào nho nhỏ nhưng dáng và nụ hoa rất đẹp. Anh định tránh mặt thì chị đã nhìn thấy anh, chị mừng rỡ dắt con len đến chỗ anh đứng.

- Anh vẫn chưa tìm được cành đào nào ưng ý sao? Chị chủ động. - Ồ, vâng,… Chưa chị ạ. - Con chào bác đi. Rồi nói điều mẹ vừa dặn con - Chị nói với đứa con. - Cháu chào bác ạ! - Con bé e thẹn, ngước nhìn mẹ. Chị nhìn nó khuyến khích. Con bé hai tay giơ cành đào lên đưa cho anh và nói chậm rãi từng tiếng một: - Mẹ con cháu xin tặng bác cành đào này ạ! Vận chưa hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Anh lúng túng: - Xin lỗi… Tôi không nhớ chị là ai, với lại không biết lý do, tôi không dám nhận đâu. - Vâng! Tôi quên… Đúng anh công tác ở tòa án quận…? - Đúng vậy. Sao chị biết? - Tôi nhớ anh… Còn anh không nhớ tôi cũng phải thôi. Anh xử án cho biết bao người. Còn tôi… - Chị cười thành tiếng - cả đời, ra trước tòa một lần là quá đủ. Có lẽ chúng ta đi ngoài nói chuyện cho tiện. Anh cứ nhận cành đào cho mẹ con tôi vui. Tôi sẽ nói rõ lý do ngay thôi. *                       *        * Khi chiến tranh gần kết thúc, Vận trở về với mấy vết thương trên mình. Anh học nốt đại học dở dang trước đây, rồi được ưu tiên về nhận công tác ở một tòa án quận. Vụ ly hôn của vợ chồng Hà, tên người đàn bà, là vụ đầu tiên trong cuộc đời “cầm cán cân công lý” của anh. Vận tìm hiểu kỹ lưỡng, thì ra sự rạn nứt trong quan hệ vợ chồng họ bắt nguồn từ sự ghen tuông của người chồng. Anh chồng là kỹ sư cơ khí, còn Hà là diễn viên sân khấu. Hà phải theo đoàn đi lưu diễn đây đó, rồi cô phải đóng vợ chồng, yêu đương với người này, người nọ. Anh chồng vốn hay ghen, cộng thêm sự đùa cợt của bạn bè cùng cơ quan “Má văn công, mông bộ đội”. Anh chồng nghi ngờ vợ rồi sinh to tiếng, bắt vợ phải bỏ nghề. Vợ kiên quyết không chịu. Cứ thế, tình trạng ngày càng xấu đi đến mức cả hai đi đến quyết định ly hôn. Vận thấy tiếc cho vợ chồng họ, và anh thương đứa bé gái, con họ khi ấy mới chừng năm sáu tuổi. Ly hôn rồi, mỗi người có thể tìm lại được hạnh phúc, song đứa trẻ thì không. Sống với ai, đứa trẻ cũng phải chịu sự ghẻ lạnh khi người thứ ba xuất hiện. Anh đã từng nghĩ, sao người lớn lại ích kỷ làm vậy. Suốt đời, họ chỉ chạy theo khát vọng của riêng mình…
Anh thì không. Vận vào bộ đội. Khi chưa đi B, thỉng thoảng anh tạt về nhà thăm mẹ. Rồi một lần, mẹ anh bảo là có cô giáo Thuận mới về dạy ở trường làng. Vì trường ở cạnh nhà anh, nên thỉng thoảng cô giáo vào chơi và giúp mẹ anh đôi việc lặt vặt lúc tắt lửa tối đèn. Mẹ khen cô giáo được người được nết và tỏ ý nhắm cô giáo cho anh. Rồi Vận gặp cô giáo và hai người nói với nhau đôi ba câu chuyện, thấy qui quí nhau. Rồi nữa, lần về thăm nhà khi đi B, anh cưới cô giáo Thuận. Họ lấy nhau mà có yêu đương gì đâu. Còn người ta yêu nhau đằm thắm, thế mà khi ở với nhau thì chưa chi đã sứt mẻ. Hay tại anh cứ xa nhà suốt, và vì thế vợ chồng anh ít va chạm, hoặc thể anh là con người cũ kỹ, cổ điển?... Không phải anh không biết yêu. Lấy vợ rồi nhưng anh vẫn có lần yêu, song anh phải nén lại tất cả… vì con… Và có lẽ anh sợ tai tiếng. Khi xử vụ ly hôn của Hà, anh đã gà cho con bé nói trước tòa rằng nó muốn ở với cả bố và mẹ. Mượn cớ ấy, anh phân giải rồi cuối cùng họ xin rút đơn, về ở lại với nhau. Lúc đầu, anh vui mừng vì nghĩ là mình đã giúp ích cho gia đình họ đoàn tụ. Lâu rồi, anh sinh băn khoăn. Biết đâu, vợ chồng họ lại xô xát và không chịu đựng nổi nhau, đứa con còn khổ hơn?...*                      *       * - Vậy mà ngày ấy tôi cứ lo… - Chắc anh lo chúng tôi lại bỏ nhau, bởi tính ghen tuông con người ta đâu có dễ bỏ - Hà khẽ cười - Anh thấy đấy chúng tôi còn có thêm một cháu trai sau, và con bé út đây là “vỡ kế hoạch” đấy. - Anh ấy nhà chị vẫn ghen chứ? - Vâng, vẫn vậy… - Điều đó chứng tỏ anh ấy quá yêu chị!... - Yêu… quả là thế, nhưng nhiều khi cũng khó chịu lắm. Song có điều là… - Hà lại cười - … sau lần ấy, tôi có khôn hơn, không để cái gì đi quá đà…” “Già néo, đứt dây” mà anh, các cụ ta xưa đã dạy thế.   - Tôi nói thế này, có thể chị cho là văn vẻ - tự nhiên Vận cảm thấy cần thổ lộ với Hà suy nghĩ của mình - Từ ngày ấy, cứ sau khi xử xong một vụ ly hôn, tôi cảm thấy rỗng người, bởi sự có lý đến thành vô lý của chuyện hôn nhân và hạnh phúc. Chị có hiểu tôi không?... - Anh là một người đa cảm - Hà nói - Người đa cảm thường chẳng sung sướng gì đâu. Có điều… Hà bỏ dở chừng câu nói, và chẳng bao giờ anh đoán được chị định nói gì.


Đêm tất niên ấy, Vận về ăn tết với gia đình trong nỗi bâng khuâng khác thường. Con tàu xuyên đi trong đêm mù mịt. Bên ngoài gió bấc đang gầm rít. Vận nhìn rõ những đốm lửa hồng loang loáng lướt qua bên cửa sổ tàu. Mỗi đốm lửa hồng đó là một gia đình. Có lẽ họ đang quây quần chờ đón giao thừa. Vợ con anh lúc này chắc đang nhắc đến anh. Khác mọi năm, anh đem về cả một cành đào. Thế nào vợ anh cũng xuýt xoa tiếc tiền bởi cô ấy vốn tằn tiện. Anh có cần phải giải thích cho vợ nghe không nhỉ? Bỗng tiếng pháo ở một làng ven đường rộ lên. Rồi như truyền, pháo rộn lên bốn bề. Tiếng còi tàu gần về đến ga bị ngợm đi trong tiếng pháo. Người kiểm soát viên già bước vào toa, ông xoa xoa hai tay vào nhau cho đỡ cóng, vui vẻ nói to cùng mọi người. - Giao thừa rồi đấy! Chúc cho một năm mới tốt lành. Hà hà… Giờ này chắc thằng cu út nhà tôi đang đốt pháo. Sáng nay lúc tôi đi nó bảo: “Đúng giao thừa, con sẽ đốt một bánh pháo thật đặc biệt, xem bố đi trên tàu có nhận ra pháo nhà ta không”.
 

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( II ) - 12.03.2022 10:08:42
Tượng vệ nữ với chiếc bàn tính
Truyện ngắn
 
Nàng đến với cuộc đời Vĩnh nhanh và mạnh như một cơn gió lốc. Cách đây hơn ba năm, khi còn là sinh viên mỹ thuật, Vĩnh đã gặp nàng lần đầu tiên. Giờ học hình họa, người mẫu là một cô gái mà mới thoạt nhìn, mọi người ngỡ là trẻ con. Với riêng Vĩnh thì ngoài tranh ảnh, đó là lần đầu tiên anh nhìn thấy đàn bà khỏa thân. Anh từng được nghe bạn bè trong trường học trên anh kháo nhau về chuyện học họa với người mẫu khỏa thân, và anh đã hồi hộp chờ cái ngày đó đến gần. Hôm ấy, phải đến mấy phút ngỡ ngàng, anh mới bắt đầu làm việc được. Sự thanh mảnh trên đường nét thân thể, vẻ măng tơ trên khuôn mặt của cô gái làm mẫu khiến anh xót xa tự hỏi: “Không hiểu thân phận cô bé như thế nào mà mới từng ấy tuổi đầu, cô đã phải dấn thân vào cái nghề, mà theo định kiến xã hội ta, không hơn gì nghề làm điếm?”. Hết buổi học, đám sinh viên nam giới tụm lại thành từng nhóm, bàn tán, đùa cợt nhau, làm đám sinh viên nữ nổi xung lên. Còn Vĩnh thì sao? Anh lặng lẽ đi ra chỗ gửi xe đạp để về. Mấy cậu bạn thấy vậy, trêu anh: “Ê, ê… Vĩnh. Mày cảm cô bé người mẫu rồi phải không?”; “Trông kìa chúng mày, tay thằng Vĩnh vẫn còn run run…”.Sau lần ấy, Vĩnh còn học hình họa qua bao nhiêu người mẫu khác, trẻ có, già có, đàn ông và đàn bà cũng lắm. Nhưng ấn tượng về vẻ đẹp thiên phú của nữ giới để lại cho anh mạnh nhất là lần đầu ấy. Nghề nghiệp đã tạo cho Vĩnh sự mạnh bạo dầy dạn khi phải tiếp cận với hình mẫu và thân thể thật của nữ giới. Anh mất đi sự run rẩy giới tính, thay vào đó là những xúc cảm thẩm mỹ và sự sáng tạo. Thỉng thoảng, Vĩnh chợt nhớ đến cô bé người mẫu ngày nào và khi ấy anh lại tự mỉm cười giễu cợt mình.Tốt nghiệp trường mỹ thuật, Vĩnh xin việc nhưng vẫn chưa cơ quan nào nhận anh cả. Thời buổi kinh tế thị trường, chẳng ai người ta muốn nhận anh. Bố Vĩnh mất sớm, mẹ anh yếu sức và vì thế cơ quan cho về nghỉ chế độ mất sức, đứa em gái anh mới đang học phổ thông trung học, kinh tế gia đình eo hẹp. Để giúp mẹ và em, từ khi còn học, Vĩnh đã phải nhờ bạn bè mai mối làm thêm. Anh làm những bức tượng phiên bản của các tác phẩm điêu khắc nổi tiếng thế giới như Đavit, Vệ nữ Mi lô, Mùa xuân vĩnh cửu… Thế rồi Vĩnh gặp lại cô bé người mẫu.Trong lúc lơ cơ chờ xin việc, một lần đám bạn bè cùng lớp con nhà giàu rủ Vĩnh đến sàn nhảy của câu lạc bộ ban đêm. Vĩnh không biết nhảy. Anh ngồi nhấm nháp bia. Chợt anh chú ý đến một cô gái nhảy mà theo anh phỏng đoán thì cô là gái nhảy thường xuyên của khách sạn này. Hết một điệu, cô rời người bạn đi cùng với anh, tiến lại phía bàn anh ngồi hỏi nhỏ:- Sao anh không ra nhảy? Em mời anh một điệu có được không?- Tôi không biết nhảy - Vĩnh ngượng nghịu.- Ồ, không biết nhảy? Anh chỉ đùa. Không nhảy thì anh đến đây làm gì?- Thật mà… Bạn bè cứ nài nên tôi đến.- Vậy thì em uống với anh một li bia nhé. Anh ngồi một mình, thấy buồn thế nào ấy.Miệng nói, tay cô cầm hộp bia trên bàn bật nắp một cách tự nhiên. Phải đến lúc này, Vĩnh mới có điều kiện nhìn kỹ cô gái. Nét quen quen. Mình đã từng gặp cô ta chưa nhì? Và ngay lúc ấy, đầu anh chợt lóe lên. Đúng rồi, cô gái này chính là cô bé người mẫu hình họa ngày nào. Tim anh nhói lên, và anh hồi hộp. Anh nhấp liền mấy ngụm bia để lấy lại vẻ bình tĩnh. Nhận thấy vẻ khác lạ trên mặt anh, cô gái hỏi:- Anh làm sao thế?- Không, không sao cả… Có điều là tôi nhận ra, chúng ta đã từng quen nhau.- Ồ, vui thật… Quen nhau - Cô gái cười rất to - Chắc là anh nói dối không biết nhảy. Em đoán là anh nhảy rất giỏi và thường hay đi nhảy. Có khi anh đã từng nhảy với em vài ba lần rồi cũng nên. Ngoài sàn nhảy này, em còn hay lui tới vài ba sàn nhảy khác. Toàn loại nổi tiếng nhé.- Không phải thế đâu, nhầm rồi cô bạn ạ - Vĩnh bình tĩnh - Chúng ta gặp nhau trong một hoàn cảnh khác. Mà cô không nhớ được cũng phải, bởi… - Vĩnh ngập ngừng - Lúc ấy cô ở trong trạng thái thoát tục… à, nói thế cô không hiểu, cô ở trong tình trạng nguyên thủy… Và có biết bao nhiêu cặp mắt hau háu chiếu vào thân thể cô.- À… Thế thì em nhớ ra rồi. Chắc anh từng là sinh viên trường mỹ thuật.- Đúng thế. Quả là trí nhớ của cô không tồi. Lúc đó, tôi ngồi ở ghế dưới và cũng có một cặp mắt…Cô gái bật cười to trước câu đùa của Vĩnh. Cô bật bia, rót đầy hai cốc, cầm đưa lên cho Vĩnh một và giữ lại cho mình một:
- Nào, chúng ta chạm ly, chúc mừng cho cuộc hội ngộ của những kẻ tri âm, tri kỷ. Trăm phần trăm nhé.Sau li bia, đầu bốc lên bừng bừng, miệng lưỡi Vĩnh thêm phần hoạt bát:- Hơi tò mò một chút nhưng nếu không nhầm thì cô đã thôi không làm người mẫu nữa?- Vâng… Làm nghề ấy cũng không sung sướng gì. Vạn bất đắc dĩ.- Nhưng cô đã cống hiến cho nghệ thuật. Còn hơn cái nghề…Vĩnh định nói là nghề gái nhảy nhưng anh kịp kìm lại.- Gái nhảy chứ gì. Vâng, cũng lại vận bất đắt dĩ… Nhưng dẫu sao, với nghề này em còn có tiền. Chứ với cái nghề làm người mẫu cho các anh, em nghèo xác xơ. Em chẳng hiểu nghệ thuật của các anh như thế nào, nên chẳng việc gì em phải hi sinh thân mình mà cống hiến cho nó.
- Nhưng cô sẽ còn mãi với thời gian ngay cả khi, xin lỗi, thân xác cô tan rũa vào đất.- Đúng. Anh luôn đúng, cả khi với những lời nói cao sang này. Song em xin hỏi anh, với nghề này, anh có kiếm được tiền không?- À… Vĩnh lúng túng - Hiện thời thì chưa, nhưng sau chắc là…- Không chắc là gì cả. Em biết, hiện anh không dư dật lắm. Nhìn bề ngoài của anh em đoán ra. Anh ơi, làm nghệ thuật chân chính thì chẳng bao giờ ra tiền bạc cả đâu. Cái này thì em rõ hơn anh. Nhưng thôi, nghe em nói này. Gặp lại anh, em thấy rất quý anh. Em muốn giúp anh kiếm tiền. Anh yên tâm là kiếm tiền bằng chính sức lao động của anh chứ không phải là phi pháp đâu. Anh cứ việc ôm mộng làm nghệ thuật nhưng trước tiên phải có tiền cái đã. Lấy ngắn nuôi dài mà.Cô nói một thôi làm Vĩnh không kịp chen vào. Song anh cũng kịp nhận ra cái mớ lý sự của cô lờ mờ nhưng lại vô cùng rõ ràng và ít nhiều đúng với thực trạng của anh hiện nay. Tuy nhiên với bản tính tự chủ của đàn ông, Vĩnh vẫn cố cưỡng lại khi bị đàn bà dắt mũi:- Nhưng tôi không cần tiền. Tôi…- Không nhưng gì hết. Em biết anh đang cần tiền. Tối mai anh lại đến đây. Không cần phải đi với bạn bè. Đúng tám giờ tối em đợi anh ở cửa. Em có tiền, em sẽ đãi anh. Và em… sẽ dạy cho anh nhảy - Cô cười - Điều quan trọng hơn, em sẽ giới thiệu cho anh mối làm ăn. À quên, anh tên gì nhỉ?- Tôi là Vĩnh - Anh cũng bật cười.- Còn em là Thùy Trang, gái nhảy siêu hạng. Thôi nhé, em phải ra nhảy đây.Cô đứng lên mạnh mẽ và dứt khoát, song lại bước đi rất nhẹ nhàng về phía sàn nhảy, kiểu đi của loài mèo cái.
*              
Sau đêm băn khoăn mất ngủ, tối hôm sau Vĩnh đến đúng hẹn. Thùy Trang đã đứng đợi anh ở cửa. Hôm ấy, hai người có điều kiện ngồi lâu với nhau và qua chuyện trò, hiểu thêm về nhau. Vĩnh đã đặt câu hỏi mà ngày nào anh tự hỏi mình, đó là việc vì sao Thùy Trang đi làm mẫu vẽ khỏa thân. Cô đã cho anh biết, cô mồ côi cha từ nhỏ, mẹ đi bước nữa, cô phải đến ở cùng nhà người chồng sau của mẹ. Đến năm học cấp ba, cô phổng phao và xinh xắn lên. Người cha dượng đã có lần định giở trò bỉ ổi với cô. Thế là cô bỏ nhà đi lang thang, rồi cô gặp một tay cò mồi và hắn đã giới thiệu cô vào làm người mẫu hội họa. Tưởng như thế là yên thân nhưng rồi một lần, tay cò mồi đã cưỡng bức cô và chiếm đoạt cô. Cô bỏ nghề, theo mấy người quen đi buôn vặt vãnh. Có chút lưng vốn, cô nuôi chí làm giàu đi buôn Bắc Nam, nhưng rồi một lần cô mang hàng cấm nên bị bắt và bị tịch thu hết. May mà không phải ngồi tù. Cô lại lang thang vất vưởng nhờ vả người quen, bạn bè. Và rồi, theo chúng bạn, cô mon men đến sàn nhảy. Ở đây, tài nhảy của cô nảy sinh và cô trở thành “ngôi sao siêu hạng” trong làng gái nhảy. Mỗi tối đi nhảy, cô có thể kiếm được vài ba trăm ngàn đồng. Và lẽ dĩ nhiên, cô không nghèo nữa, song phải chung chạ không ít với đàn ông. Sau những đêm đi nhảy về, cô rã rời và cô độc. Những lúc như thế cô chỉ muốn khóc…Nghe chuyện, Vĩnh thấy xót xa cho thân phận cô. Mới từng ấy tuổi đầu mà cô đã trải qua bao nhiêu là sự đời. Anh cũng nghèo nhưng anh còn có mẹ, có em gái, còn được học hành dẫu chưa thành tài song cũng là tạm đủ với xã hội. Vĩnh rung động trước cuộc đời trắc trở của Thùy Trang. Phải chăng, anh đã trúng mũi tên của thần Qui-pi-đôn, hay theo kiểu nói của người Anh là It was love at first sight, có nghĩa là tiếng sét ái tình?Những ngày sau đó, Thùy Trang đưa một số người đến nhà anh để đặt anh làm tượng, kiểu mô phỏng tác phầm điêu khắc nổi tiếng mà anh từng làm quen, đại loại vẫn là những Vệ nữ Mi lô, Mùa xuân vĩnh cửu… Bây giờ, giàu sang là người ta sính mốt đặt tượng mô phỏng các tác phầm nổi tiếng thế giới trong nhà để trang trí. Thây kệ họ, miễn là mình có việc làm và kiếm được tiền giúp mẹ và em.Sau nhiều lần Thùy Trang đưa khách đến nhà anh, cảm thấy sự thân mật của anh với cô, mẹ anh đã hỏi anh về mối quan hệ này. Vĩnh nói chỉ là bạn thì mẹ anh không tin. Không dấu mẹ, vĩnh kể sơ lược về cuộc đời của Thùy Trang. Mẹ anh nghe và khuyên anh hãy cảnh giác với cô, tuy mẹ không cấm anh quan hệ. Còn em gái anh, nó có vẻ lạnh nhạt với cô, hình như linh cảm của nữ giới mách bảo cho nó rằng Thùy Trang là một người không bình thường. Thế là cả mẹ và em gái đều không ủng hộ mối quan hệ của anh với cô. Nhưng dẫu sao, Thùy Trang luôn tốt với anh và điều quan trọng hơn nữa là cô đã chiếm được tình cảm của anh.
*               
Một lần, Thùy Trang phóng xe máy đến nhà anh. Chưa bước chân vào, cô đã hào hứng:
- Anh gác việc lại. Đi với em ngay bây giờ. Em vừa tìm được cho anh một mối rất sộp.
- Nhưng em phải giải thích sơ sơ cho anh biết thì anh mới đi.- Được rồi! Đại loại thế này. Có một thằng cha hay đến sàn nhảy chỗ em làm. Hắn có vợ con ở quê, làm chủ thầu xây dựng, giờ phất lên, bỏ tiền xây một khách sạn mini. Hắn muốn có một bức tượng bằng bê tông thật to cũng Vệ nữ gì đó như anh vẫn làm để đặt ngay cửa khách sạn. Thật là bọn rởm đời rửng mỡ. Nhưng mà thây kệ họ. Miễn là anh có việc làm và có thu nhập. Món này hời đó. Xong việc, anh sẽ được một khoản tiền lớn giúp mẹ và em. Anh đồng ý chứ?
Quả là cô nói đúng. Vì mẹ và em, anh sẵn sàng làm mọi thứ miễn không phải là phạm tội. Song như thế này có phải làm phạm tội với nghệ thuật không? Khi anh còn phân vân thì Thùy Trang mạnh bạo nắm tay anh lôi ra khỏi cửa và cô ra lệnh cho anh ngồi lên đằng sau và nổ máy xe. Tay chủ thầu tiếp Thùy Trang và anh rất lịch sự. Bia hei-ne-ken ướp lạnh nhắm với mực nướng. Hắn đặt yêu cầu là anh làm cho hắn một bức tượng kiểu vệ nữ nhưng bàn tay của vệ nữ cầm một chiếc bàn tính cổ.- Tại sao lại như vậy? Tôi chưa thấy ai làm như thế bao giờ - Anh ngạc nhiên phản đối.- Nhưng tôi lại cần. Còn anh thì cần… Hắn bỏ lửng câu nói mà mỉm cười ra hiệu bằng mấy ngón tay đếm đếm.Máu sĩ của anh nổi lên và anh định vùng đứng dậy bỏ về nhưng Thùy Trang kịp thời ngăn anh lại. Tay chủ thầu xuề xòa:- Anh đừng nóng thế! Có gì anh em ta bàn nhau thêm, phải không cô Thùy Trang xinh đẹp.Cuối cùng thì cuộc ngã giá cũng xong. Anh nhận một phần ba khoản tiền công như tiền đặt cọc. Dọc đường về, anh cứ ca cẩm, còn Thùy Trang chỉ cười. Những tiếng cười ròn tan, thoải mái đầy vẻ từng trải. Sau buổi ấy, anh hùng hục làm. Để công việc nhanh chóng, anh gọi thêm mấy tay đàn em học sau đến phụ giúp. Còn Thùy Trang biệt đi đến nửa tháng trời, mới thấy cô đảo qua nhà anh xem anh làm đến đâu. Bức tượng đất ban đầu anh làm giống cô. Anh cố hình dung, cố khơi gợi lại trí nhớ để làm sống lại hình bóng của cô như lần đầu anh thấy. Những xúc cảm yêu thương, xót xa cho thân phận cô hiện nay trào dâng và nó giúp anh nhiều việc trong việc tái hiện này. Khi tạo hình chiếc bàn tính cổ trong tay bức tượng anh không khỏi suy nghĩ về sự kỳ quái của bọn trọc phú mới. Chiếc bàn tính từ thời tiền sử trên tay một vệ nữ. Phải chăng khi đẻ ra ý tưởng kỳ quái này, hắn ta muốn nói đến sự toan tính của nữ giới? Còn Vĩnh, anh không nghĩ thế. Anh cho rằng đàn ông toan tính hơn, cơ mưu hơn và mọi sự xấu xa đều bắt nguồn từ đàn ông. Người đàn bà bao giờ cũng tốt hơn, khổ hơn và đáng yêu hơn.Khuôn mẫu làm xong, chỉ còn khâu cuối cùng là đổ bê tông nhưng mãi không thấy Thùy Trang trở lại. Sốt ruột, Vĩnh tìm đến sàn nhảy nơi cô thường làm nhưng cũng không thấy đâu. Anh hỏi người bảo vệ thì được biết là cách đó chừng nửa tháng cô có lui tới chút ít rồi biến đi đâu đó cùng với một người bạn nhảy đứng tuổi ăn mặc sang trọng nhưng vẫn có vẻ quê, còn đã một tuần nay thì không thấy cô đến nữa. Vĩnh đã phần nào đoán ra sự việc, anh hộc tốc đạp xe đến biệt thự mini của tay chủ thầu xây dựng, người đã đặt anh làm bức tượng vệ nữ cầm chiếc bàn tính. Bấm chuông mãi mới thấy người hầu ra mở cổng. Vĩnh bày tỏ ý muốn gặp ông chủ thì người hầu nói rằng ông chủ không thể tiếp khách lúc này được bởi ông đang sửa soạn đi đâu đó. Anh nói dối là cần gấp để bàn với ông chủ một áp phe mới béo bở. Cuối cùng người hầu để cho anh vào. Vĩnh ngồi đợi ở ghế ngoài hiên chờ người hầu vào báo chủ. Vô tình, mắt anh hướng vào nơi mà tay chủ từng nói với anh sẽ đặt bức tượng. Chao ôi, ở đây sẽ mọc lên một biểu tượng về sự toan tính của đàn bà!. Cửa phòng khách chợt mở, tay chủ thầu đi ra trong bộ veston đắt tiền. Hắn chìa tay:- Xin chào anh. Đáng tiếc là lúc này tôi rất bận. Xin anh để cho lúc khác, chúng ta sẽ có nhiều thời gian để đàm luận.- Không mất nhiều thời gian đâu. Tôi đến để hỏi xem tôi đã có thể đổ tượng được chưa, khuôn mẫu đã làm xong.
- A… Tôi biết - Hắn cười - Tôi còn biết anh đến đây vì một lý do khác nữa. Đúng không nào, anh bạn trẻ yêu quí? Quả là cô Thùy Trang đang ở đây. Cô ấy dọn đến đây sống với tôi một tuần nay. Và chỉ cần một tuần là đủ thời gian tôi nhận ra cô ấy chính là một Vệ nữ. Một Vệ nữ tuyệt vời, sống động nồng nàn chứ không vô hồn băng giá như bức tượng bê tông anh sắp dựng cho tôi. Tôi không cần bức tượng ấy nữa. Anh cứ giữ lấy một phần ba tiền cọc trước. Và đây, xin được thù lao thêm một khoản nho nhỏ. Hắn móc túi lấy một xấp tiền đưa cho anh.- Không. Tôi không cần - Vĩnh như nghẹn lại.- Lấy hay không là tùy anh - Hắn cười - Tôi biết mà, nghệ sĩ các anh không sống bằng tiền. Xin chào nhé, bây giờ tôi phải lên gác đón Thùy Trang, cô ấy đang còn trang điểm, chúng tôi đi dự sinh nhật một người bạn làm ăn của tôi. Bai nhé!Hắn bỏ mặc Vĩnh đấy quay vào nhà. Máu bốc lên đầu bừng bừng, Vĩnh dắt xe ra cổng đạp liên miên chẳng biết về đâu. Nhưng rồi anh cũng tĩnh tâm được. Thì ra cô nàng lừa anh. Mà có lừa đâu nhỉ, bởi cô luôn giúp anh kiếm tiền đấy thôi. Còn việc cô đến sống với thằng cha trọc phú thô lỗ thì đâu có phải là lỗi với anh. Vừa đạp xe, Vĩnh vừa kết tội Thùy Trang rồi chính anh cãi lại mình để bênh vực cho cô.Đến lối rẽ vào cổng khu tập thể nhà mình, mải nghĩ, chút nữa anh đâm xe vào một chiếc xích lô cũng đang lao tới. Anh còn chưa kịp hết bàng hoàng thì một cô gái từ xích lô nhảy xuống:- Anh Vĩnh!Người gọi anh chính là Thùy Trang. Cô mặc chiếc váy màu vàng lộng lẫy.- Ra là cô. Cô còn đến đây làm gì - Vĩnh tức giận.
- Anh Vĩnh. Hãy nghe em nói - Giọng Thùy Trang như khóc.- Vậy à? Còn gì cô nói nốt đi. Tôi không có thời gian - Vĩnh đã phần nào dịu đi và anh nói dỗi. - Em thật có lỗi với anh. Đáng lẽ ra em không nên quen với anh để rồi làm khổ anh. Nhưng em lại muốn giúp anh kiếm tiền đỡ mẹ và em. Em biết, sống với thằng cha ấy em cũng không sung sướng và lâu bền đâu, bởi hắn rởm đời và thô lỗ. Nhưng anh biết đấy, thân em cũng có ra gì đâu. Thôi thì “ngưu tầm ngưu” vậy. Em không xứng với anh đâu, bởi em biết là anh đã đem lòng yêu thương em. Chính vì lẽ đó mà em quyết định đến ở với hắn. Em muốn đẩy anh ra xa em. Mặc dù trong lòng mình, em luôn ước ao có được một người bạn đời như anh. Với em, anh thành có lỗi khi anh trong sáng quá, tốt quá và giỏi giang quá. Tất cả là thế đấy. Hãy tin em và tha thứ cho em.Nước mắt cô ràn rụa. Vĩnh cũng rưng rưng. Người anh trùng xuống. Anh những muốn đặt bàn tay lên vai cô để nói những lời yêu thương, an ủi song không hiểu sao anh không thể làm được.- Anh đã tha lỗi cho em rồi. Thế là em an tâm. Em có một khoản tiền dành dụm được. Anh cầm lấy để mà sống rồi làm những tác phẩm nghệ thuật chân chính như anh từng ao ước. Xin vĩnh biệt anh!Thùy Trang ấn vào tay anh gói tiền và cô nhảy lên xích lô giục đạp mau đi. Vĩnh bàng hoàng và đến khi anh nhận ra bọc tiền trong tay mình thì chiếc xích lô chở cô đã khuất vào một ngõ phố.Vĩnh dắt xe về nhà mình. Đến trước cửa nhà, anh đứng sững nhìn lên chiếc khuôn bức tượng vệ nữ với chiếc bàn tính. Tim anh nhói lên. Anh buông tay để chiếc xe đạp đổ kềnh rồi xông đến vớ lấy một khúc gỗ đập liên hồi vào phần khuôn chiếc bàn tính. Ai dám bảo là đàn bà toan tính? Sẽ không bao giờ có một bức tượng như vậy!Vĩnh sẽ làm một bức tượng Vệ nữ khác. Vệ nữ Thùy Trang của anh. Đó sẽ là tác phẩm nghệ thuật chân chính đầu tiên của anh. Và như vậy, nàng đã nhập vào đời anh.
Hà Nội 5/1993 

r
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.04.2022 01:03:38 bởi Ct.Ly >

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( II ) - 13.04.2022 17:22:05
Bức tranh để lại
Truyệun ngắn.

Bảo gã là một người tốt bụng ư? Phải. Phần đông những người cùng cơ quan và những người quen biết gã đều công nhận như vậy. Ở vào thời buổi này, việc thống nhất công nhận thế quả là khó, song không hiểu sao với riêng gã mọi người đều có chung nhận định như vậy. Có lẽ, bởi gã không hại ai, không bon chen đố kỵ với ai, và hễ ai nhờ việc gì gã cũng sốt sắng giúp đỡ mặc dù nhiều khi gã chẳng nên cơm cháo gì. Mọi người trong cơ quan hay lấy gã ra để mà đàm luận trong lúc nhàn rỗi. Tỉ như người ta hỏi nhau rằng gã ham muốn gì, gã sống vì mục đích gì. Chịu thôi. Nghĩ rằng gã sống vì tiền? Không đúng. Gã không ham hố chuyện kiếm tiền, và khi kiếm được gã cũng tiêu vung tiêu vẩy cho kỳ hết. Bảo gã sống ham địa vị chức tước. Cũng không đúng. Gã không màng chuyện đó, ở cơ quan nào gã cũng chỉ là thằng lính quèn. Vậy gã sống vì một sự nghiệp, một niềm đam mê nào đó chăng? Chẳng phải thế. Phàm những gì liên quan đến nghệ thuật gã đều biết tí chút, và gã cũng chẳng dại gì sống chết vì những thứ vô bổ đó. Vậy mục đích cuộc đời của gã là gì? Có một đôi lần, gã say mèm và gã hùng hổ tuyên bố rằng gã chỉ sống vì tình, vì “sự nghiệp giải phóng phụ nữ”. Song không ai tin. Nghe gã tuyên bố vậy, người ta chỉ cười, cái thằng cha hiền lành, nhát như thỏ đế, nói không nên câu, chỉ lung búng trong miệng thì đến ma nó cũng chẳng thèm, nói chi đến đàn bà. Gã làm việc ở một bảo tàng ngành. Gã tự hỏi, không hiểu vì sao người ta lại thành lập cái bảo tàng ngành ấy. Song gã lại biết ơn chuyện đó, bởi nhờ có nó mà gã thoát được cảnh lao động nặng nhọc. Gã vốn là công nhân. Gã lái tàu. Gã ngồi trên cái đầu tàu hơi nước to đen trùi trũi với chiếc lò than hồng và chiếc nồi súp-de nóng hầm hập, kéo đằng sau một dãy toa cũng đen xì như vậy. Hàng ngày, gã và chiếc đầu tàu của gã chạy đi chạy lại trên một cung đường quen thuộc, quen đến mức, cứ ngồi lên, vận hành một lát là gã ngủ khì, đến lúc tỉnh thì vừa là đến cái thời điểm gã phải nhấn lên một hồi còi dài. Cũng may cho gã là bao nhiêu năm ngủ khì trên tay lái nhưng tàu không gặp tai nạn trắc trở gì, nếu không thì gã đã ngồi tù mục xương từ lâu rồi. Khi trai trẻ, gã không lầm lì như bây giờ. Lúc ấy, gã thuộc diện nhanh chân nhẹ bước, mồm miệng đáo để. Gã biết khá nhiều trò lặt vặt, đại loại như hát hò, kẻ vẽ, trang trí hội họp, bởi thế, ông giám đốc xí nghiệp nhắc gã từ chân lái tàu về làm việc ở văn phòng. Rồi ông ta hứa sẽ cho gã đi học, và gã được đi học thật. Học xong, gã không muốn quay về chốn cũ nữa, vả lại, ông giám đốc cũ bị đẩy đi nơi khác nên cũng chẳng quan tâm đến gã ở hay đi, và thế là gã cầy cực xin được về cái bảo tàng ngành này. Làm việc ở đây tuy lương có ba cọc ba đồng song được cái nhàn rỗi. Điều chính là gã được về sống ở thành phố, niềm mơ ước từ thuở thiếu thời của gã.
     *                 * *
Cơ quan gã lúc nào cũng vắng như chùa bà đanh, ấy là nói những người vào ra liên hệ công tác, chứ còn cánh nhân viên thì lại đông nhung nhúc. Họ chẳng làm gì. Đi ra đi vào, ngắm vuốt, khen nhau có bộ quần áo đẹp, kiểu đầu lạ, và sau hàng giờ tán gẫu, mọi người kéo nhau đi chợ, rồi khi về lại rãi thai rãi thẻ ra bàn nhặt rau, làm thịt, mổ cá sẵn rồi quẳng vào chiếc tủ lạnh của cơ quan, chờ chiều mang về nhà. Thường là khi ấy, gã thu mình trên chiếc “buồng chim của gã”. Đó là một căn gác xép, bên dưới là nơi chứa bàn ghế hỏng. Gã nằm thẳng cẳng, nghĩ ngợi linh tinh và thỉnh thoảng lại ngồi dậy nhấp một ngụm chè suông. Cũng có lúc, gã như phát cuồng, gã trải bất kỳ thứ gì gã có, chẳng hạn như tờ giấy, mảnh gỗ, miếng vải trắng ra bàn và gã vẽ. Khi thì gã vẽ phong cảnh, lúc thì gã vẽ phố phường, rồi gã vẽ các con vật như bò, gà, chó, lợn, thỏ và cả cóc nữa. Có bức, gã vẽ một bầy cóc lổm ngổm những cóc, con ngồi, con nhảy, con đớp ruồi, có cả đôi cóc đang gièo nhau và gã chua vào bên dưới “cóc vườn địa đàng”.Mọi người biết chuyện gã hay vẽ tranh, một hôm cả cơ quan, từ bà nạ dòng bảnh chọe đến mấy cô gái măng tơ rủ nhau tìm lên cái “chuồng chim” của gã. Mọi người đòi xem tranh. Cực chẳng đã, gã đành phải lôi hết cái đống của nả ra cho mọi người thỏa mãn. Mọi người ồ lên bảo là gã vẽ giống như thật. Rồi người ta, kẻ xin bức này, người xin bức khác, cho đến hết, chỉ chừa ra mỗi bức “Cóc vườn địa đàng”. Có bà kêu lên: “Eo ơi, bẩn quá”, còn hai cô gái trẻ lại bấm nhau, rì rầm nho nhỏ: “Trông phồn thực quá”. Gã nghĩ bụng, ở đời toàn những thứ phồn thực cả, riêng chỉ có khoản lương hàng tháng gã lĩnh là còm cõi. Thấy lương gã thấp, cánh đàn bà ở cơ quan kêu hộ lên ông thủ trưởng. Ông ta hứa sẽ tăng lương cho gã, nhưng rồi bận họp hành, công cán đâu đó, ông ta quên luôn. Và gã cũng chẳng bao giờ nhắc lại chuyện đó. Đám đàn bà trong cơ quan thấy gã đụt vậy cũng sinh chán. Gã còn nghe họ bảo nhau: “Như cái của nợ này thì có mỡ đến miệng cũng chẳng biết đớp”. Gã chỉ cười thầm.
     *                 * *
Gã biết, mọi người coi gã không phải là đàn ông. Gã từng là đàn ông, thậm chí là đàn ông mạnh mẽ. Cuộc đời lái tàu của gã, gã tiếp xúc với biết bao loại đàn bà. Những người đàn bà buôn lậu, những đàn bà giang hồ, những đàn bà trốn chúa lộn chồng đã từng nhảy lên đầu tàu hoặc rúc vào toa đen trên chuyến tàu của gã. Họ trả công cho gã không phải bằng tiền mà bằng cái vốn có của họ. Gã chán chết. Song có một chuyện thì gã không chán, gã nhớ, gã khát khao. Ấy là vào cái thời điểm gã học xong, còn lơ cơ chưa biết xin việc làm ở đâu. Tình cờ, gã về quê và gặp lại anh bạn thuở thiếu thời. Anh bạn đang dạy học ở mãi phương Nam, nơi xứ dừa. Anh bạn rủ gã vào trong đó chơi, nếu thấy thích thì ở lại hẳn. Gã bùi tai nghe theo. Ở đó gã đã gặp một cô gái. Cô gái quê miệt sông nước phương Nam làm cho gã xao lòng. Gã nhớ lắm… Một lần cô gái rủ gã đi hái dừa. Vạt dừa nhà cô nằm mãi ở cồn đất nổi rìa sông. Hai người lên xuồng. Cô gái cầm bơi chèo đưa gã đi. Gã ngồi một đầu xuống, nhìn vào vồng ngực cô cứ trồi lên trồi xuống theo nhịp bơi chèo, gã nhẩm bụng nghĩ con gái miệt sông nước người nào cũng thắt đáy lưng ong, ngực nở, hông nở vì phải bơi chèo từ nhỏ. Đến lúc hái dừa, gã không biết trèo cây, đành phải đứng dưới. Cô gái leo thoăn thoắt, loáng cái đã tới ngọn. Cô bứt dừa quẳng xuống và gã bắt từng trái một. Gã nghĩ tới bức tranh dân gian “Hứng dừa”. Chỉ khác là gã đứng dưới còn cô gái ở trên cây. Gã ngửa mặt nhìn lên, đôi gót chân hồng hồng của cô gái, bắp chân rồi bắp vế trăng trắng trong ống quần rộng. Gã mải nhìn vào chỗ đó mà quên cả đỡ dừa, cô gái quen tay cứ bứt và lẳng xuống, thiếu chút nữa là gã vỡ đầu. Hái xong, cô gái ngồi thở, gã cứ nhìn cô mà tưởng tượng ra bắp chân bắp vế. Cô gái chặt dừa đưa cho gã uống. Gã uống một hơi rồi đứng lom khom đưa trả cô gái trái dừa. Gã nhìn sâu vào ngực áo bà ba cổ trễ của cô và gã đùa: “Hai trái dừa của em tròn quá”. Cô đỏ mặt bảo gã: “Anh Hai chớ đùa heng”. Gã hấp háy mắt nhại giọng cô: “Anh nói thiệt đó heng”. Đến lúc chuyển dừa xuống xuồng, không may gã trượt chân ngã ùm xuống kênh. Gã không biết bơi, tay gã chới với trên mặt nước. Cô gái nhảy ào xuống vực gã lên. Gã ngồi tựa vào thân cây dừa đổ bên bờ kênh vuốt nước trên mặt. Cô gái sợ quá cứ luống cuống trước mặt gã, lắp bắp hỏi xem gã có sao không. Gã hoàn hồn và đập ngay vào mắt gã là đôi vú căng mẩy dưới lần áo ướt của cô gái. Xúc cảm rực lên trong lòng gã. Gã vờ lả người tựa vào thân dừa. Cô gái vội vàng day day ngực gã, và mặt cô kề sát mặt gã. Gã đưa tay khẽ choàng lấy eo cô gái và bàn tay kỳ diệu của gã cứ lần lần vuốt ve. Khi cô gái mừng vì gã đã tỉnh thì cô lập tức sa vào nỗi đam mê mà gã tạo ra cho cô. Cô gái ôm ghì lấy gã, mắt nhắm nghiền, miệng rên khe khẽ. Khi ấy gã tỉnh táo, nhanh nhẹn hẳn lên, và gã từ từ bế cô lên, đặt cô nằm ngửa trên thân cây dừa đổ ven bờ kênh… Tối ấy, gã ngồi uống rượu cá lóc bông nướng chấm muối tiêu với cha cô gái bên đống lửa hun muỗi. Còn cô gái cứ lúi húi bên đống trái dừa, nâng lên đặt xuống mà chẳng ra làm việc gì cả. Gã hiểu tâm trạng cô gái, song câu chuyện với cha cô trong hơi men lấn áp đi. Gã bốc đồng nói những chuyện trên trời dưới bể đâu đâu.  Một tuần sau gã ra Bắc. Gã nhớ chuyện đã xảy ra với cô gái xứ dừa nhưng cũng chỉ xem như một kỷ niệm sâu sắc. Với đám phụ nữ cùng làm việc, gã thấy họ cứ như là những hình nhân mặc váy, bảnh chọe, biết quay cuồng trên chiếc đĩa hát nhựa. Gã chán họ và họ cũng chán gã.  Nhưng rồi người bạn của gã bỗng từ phương Nam ra, hỏi thăm người làng, biết gã làm việc ở đây và anh ta đã tìm đến. Gã biết được rằng, gã đã có một đứa con trai, con với cô gái xứ dừa. Cô gái có thai với gã rồi sinh con ngoài giá thú. Vì lỡ dở như vậy mà cô khó lấy chồng. Cô đành ở vậy nuôi con. Nghe người bạn kể chuyện, gã thấy như sụn người xuống…
     *                 * * Gã biến mất khỏi cơ quan. Không ai biết gã đi đâu. Gã cũng chẳng để lại mảnh giấy nào. Mọi người trong cơ quan xáo xác. Họ đồn đoán bảo rằng gã chán cảnh nhàn rỗi mốc thếch nơi gác xếp nên bỏ đi đào vàng. Lại có người bảo rằng một lần xem ti vi thấy công an một tỉnh mãi miền Trung nhắn tin tìm tung tích nạn nhân bị tai nạn giao thông, ảnh chụp người bị nạn hao hao giống gã. Thật chẳng biết thế nào. Hôm mọi người tổ chức lục tìm nơi gác xép “chuồng chim” của gã, chợt một ai đó xướng lên “Thằng cha này được lên lương chưa nhỉ?”. Tất cả cùng ớ người ra, rằng gã vẫn chưa được lên lương. Trong đống tranh vẽ trên đủ loại chất liệu, người ta vẫn thấy bức tranh “Cóc vườn địa đàng”. Hai cô gái trẻ trề môi dè bỉu: “Gớm ghiếc quá! Rõ một lũ cóc chết”. Còn bà nạ dòng lần trước chê là bẩn thì lại lẩm bẩm: “Nhìn kỹ thấy phồn thực thật”.  Mọi người bàn nhau nên đốt đi hay giữ lại. Cuối cùng cánh phụ nữ đi đến thống nhất là giữ lại bức tranh, mặc dù nó chẳng có giá trị gì và không hợp với bảo tàng ngành này, song xem nó như là kỷ vật của một người từng làm việc ở đây đã khuất…


tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( II ) - 03.05.2022 11:26:50
Con chó mực của bà tôi
Truyện ngắn
 
 
Con chó mực của bà tôi Ngày ấy, tôi đang học cấp hai. Tôi vui lắm khi thấy hoa phượng nở báo hiệu năm học chấm dứt. Theo lệ thường tôi sẽ được về quê nghỉ hè với bà ngoại; Thực lòng phải xa đám bạn bè trong phố tôi cũng hơi buồn. Song về với bà, tôi sẽ được thỏa sức ăn hoa quả, được đi thả diều với tụi trẻ trong làng và tha hồ vùng vẫy, bơi lội trên sông. Bà ngoại tôi sống một mình. Các cậu các dì tôi đều lập gia đình và làm việc ở xa. Đã nhiều lần, cậu tôi, người con trai duy nhất của bà ở Hà Nội về đón bà đi, nhưng bà nhất định không nghe. Bà bảo sinh ra ở đâu thì bà sẽ chết ở đó, rằng bà không muốn xa căn nhà đã bao năm trời gắn bó, một thân tần tảo nuôi con khôn lớn. Làng quê đối với bà thật gần gũi, thân thiết. Điều này, khi lớn lên tôi mới ý thức được, chứ bấy giờ tôi chỉ nghĩ đơn giản là bà quen sống ở nông thôn rộng rãi, thoáng mát nên không chịu được cảnh thành phố chật chội ồn ào và bụi bậm. Bà tôi già lắm rồi nhưng vẫn còn khỏe. Suốt ngày bà cặm cụi, lặng lẽ vun xới cây cối trong vườn. Sống thui thủi một mình nên khi thấy tôi về bà rất vui. Tôi về mấy ngày thì bà đi chợ Huyện mua một con chó nhỏ nhưng bụ bẫm, lông đen tuyền rất đẹp. Bà gọi nó là con chó Mực. Khi tôi chìa ngón tay nhứ nhứ miệng nó là nó khẽ thè lưỡi bé tí xíu có đốm đen mút mút như bú mẹ. Từ đấy lúc nào tôi cũng quấn quýt với con Mực. Buổi tối đầu tiên, khi đi ngủ, tôi định cho con Mực ngủ cùng, song bà không đồng ỳ. Bà bảo: - Cháu ạ, nuông chó chó liếm mặt. Chiều nó quá nó sẽ hư đi. Bà đuổi con Mực ra sân. Hình như nó còn nhớ mẹ và sợ bóng tối: suốt đêm nó kêu ăng ẳng kì cục cạy cửa. Nhưng bà đã đóng chặt cửa. Tôi nằm trong nhà không tài nào ngủ được. Thương con mực lắm song tôi không dám trái ý bà. Sáng ra, tôi ngủ dậy sớm hơn bà. Mở cửa, con Mực nằm ngủ ngay bên bậu cửa. Tuy ngủ nhưng người nó vẫn run bần bật, nhìn thật tội nghiệp. Vài ngày sau con Mực quen dần. Hễ thấy bà cháu tôi chuẩn bị đi ngủ là nó lẳng lặng ra ngoài. Thấy vậy, bà vui mừng bảo tôi: - Chó chịu nằm sương là quí lắm đấy. Rồi bà giảng giải thêm cho tôi biết là hễ thấy chó không sủa to mà chỉ hực lên và lùi dần vào nhà thì chắc chắn có người đang đi vào. Ban ngày tôi đi đâu là con Mực đi theo đấy. Khi tôi ngồi câu cá bên gốc cây sấu ven ao, con Mực cũng tới nằm cạnh. Cũng như tôi, mắt nó hau háu nhìn chiếc phao. Tôi giật được cá, nó nhẩy cẫng lên mừng rối rít. Có lần tôi giật non, vừa chấm bờ thì chú cá rô tuột khỏi lưỡi câu rạch ngay xuống mép ao, con Mực chồm tới, ngoạm ngay được chú cá. Buổi trưa nóng nực, tôi thường leo lên cây ổi, chọn cành chạc ba ngả xoài ra mặt ao nằm nhai ổi và đọc sách. Con Mực hiền lành nằm dưới gốc, gối đầu lên đôi dép của tôi mà ngủ. Thỉng thoảng nó mê ngủ rên ấm ứ trong cổ. Một hôm tôi cũng nằm như vậy mà mê mải đọc truyện, chợt nghe tiếng gà con kêu quang quác. Thì ra con mèo già nhà ai mắt xanh lè, mũi đỏ lựng chộp một chú gà con trong đàn gà của bà tôi. Tôi vội vàng tụt xuống. Thấy động, con Mực choàng dậy, nó ngơ ngác một lúc rồi nhận ra tình thế, bèn xông thẳng vào con mèo già còn to hơn cả nó. Con mèo vẫn không buông mồi, trước khi nhẩy lên bờ tường cao tít con mèo còn kịp tát mạnh vào đầu con Mực. Con Mực vừa đau, vừa tức, hậm hực sủa theo. Khi tôi xuống đến nơi thì con mèo đã kịp tha chú gà lẩn mất. Con Mực ư ử quấn lấy chân tôi như hờn giận, lại như trách móc sự chậm trễ của tôi. Vết cào của con mèo già hóa cáo rất sâu, máu rỉ ra ướt đẫm một bên má nó. Tôi phải xin chút thuốc lào ăn trầu của bà dịt vào vết cào. Thật là chó liền da, gà liền xương, mấy ngày sau vết đau lành hẳn. Nhưng từ đấy tôi và con Mực càng quấn nhau hơn. Những ngày đầu con Mực ăn rất khỏe. Cá câu được bao giờ tôi cũng dành phần cho nó. Sau khi ăn, bụng nó tròn căng như bụng ễnh ương. Đến cuối hè, tự nhiên con Mực biếng ăn hẳn đi. Một bữa nó chỉ nhỏ nhẻ vài miếng rồi lỉnh ra vườn nằm. Nó mất vẻ tinh ranh xông xáo thường ngày. Chắc là nó ốm. Một tuần như vậy, con Mực gầy hẳn đi, bụng thắt lại trông đến thiểu não. Anh Toàn, hàng xóm với bà tôi, là cán bộ thú y sang chơi thấy con Mực như vậy, anh nói: - Con chó của bà nó bị sán đấy. Bà kiếm lấy chút diêm sinh tán nhỏ trộn với cơm cho nó ăn là khỏi ngay thôi. Bà ậm ừ cho qua chuyện. Khi anh Toàn về rồi, bà gọi tôi lại, ghé tận tai tôi thầm thì vẻ quan trọng: - Cường này, mấy hôm nữa bà sẽ bán con Mực cho quán thịt chó lão Phệ ở cổng làng, lấy ít tiền thêm vào số tiền bán hoa quả trong vườn góp vào Hội bảo thọ. - Sao bà lại bán nó? Tôi sửng sốt. Bà tôi điềm nhiên bảo: - Nó có một tội rất nặng, cháu chưa biết đấy thôi. - Nó ăn vụng à bà? - Tôi ngạc nhiên. - Không phải. Bà khẽ ay ay mắt nhìn tôi vẻ bí mật rồi nói nhỏ và rất nhanh như sợ có người nghe trộm - Nó lê trôn. - Chó lên trôn là gì hả bà - Tôi không hiểu. Bà liền giảng giải cho tôi nghe thế nào là chó lê trôn và hàng loạt những tai họa kèm theo (có lẽ do bà tưởng tượng ra hoặc theo lời truyền tụng từ ngày xưa để lại). Rồi bà bỏ mặc tôi tần ngần bên con Mực mà vác cuốc ra vườn, miệng lẩm bẩm: - Gà gáy gở, chó lê trôn. Tai hại lắm. Tôi đâu có chịu ngay, năn nỉ xin bà tha cho con Mực, nhưng bà cứ lắc đầu. Vả lại bà nói, bà cần có tiền nộp cho Hội bảo thọ.  Một lần tôi hỏi bà: - Thế Hội bảo thọ là cái gì mà bà phải đóng tiền vào đấy?  - À… à. Có nói cháu cũng chẳng hiểu đâu. - Thì bà cứ nói đi, bà cứ làm như cháu còn bé lắm đấy - Giọng tôi hơi gắt. - Mày chả còn bé thì lớn với ai - Bà tôi nói. Nhưng rồi bà cũng kể cho tôi nghe về Hội bảo thọ. Không biết ở những nơi khác thì thế nào, chứ Hội bảo thọ ở quê tôi là hội của những người già họp lại với nhau để chuẩn bị sửa soạn cho cái chết của mình. Những người trong hội tự nguyện góp tiền vào bao nhiêu cũng được, tùy khả năng từng người. Số tiền đó, một phần gửi vào quỹ tiết kiệm, một phần giành để mở mang vườn cây ăn quả của các cụ, và được trích dần để mua quan tài, sửa lễ viếng gồm có câu đối, hương hoa, trầu cau, rượu cúng, mỗi khi trong Hội có người mất. Là sau này tôi mới hiểu tường tận như vậy chứ bấy giờ tôi chỉ biết lờ mờ.  - Bà ơi - Tôi ngạc nhiên thắc mắc - Cháu thấy ở xóm này khối nhà có sẵn quan tài để trong nhà. Hội không mua cho nhà họ à. Sang nhà mấy đứa bạn mới quen trong xóm chơi, tôi thường thấy những chiếc quan tài sơn đỏ chói kê ngay dưới bàn thờ. Bọn bạn bảo trong đó đựng đầy thóc đấy. Nghĩ sợ thật.  - Là vì người ta có con cháu lo sẵn cho. Họ không cần phải vào Hội - Bà tôi đăm chiêu nói: Tôi băn khoăn: - Thế bố mẹ cháu và các cậu các dì không mua được quan tài cho bà hay sao? - À… à… Bà ngập ngừng - Được chứ. Nhưng bà tự lo được. Bà buồn lắm. Tôi không dám hỏi thêm. Nhưng hôm sau bà bảo tôi là không bán con Mực nữa. Tôi nảy ra một ý định là chờ đến hôm giỗ ông ngoại mẹ, cậu và các dì tôi về, tôi sẽ xin tiền cho bà góp Hội.  Hôm giỗ ông ngoại mọi người về đủ. Đông vui lắm. Tôi cứ canh cánh lo không thực hiện được ý định của mình. Khi tôi nói ra, mẹ tôi và tất cả mọi người đều ồ lên. Có người khen tôi sáng ý, biết nghĩ xa. Rồi mọi người góp tiền, nhưng hình như bà tôi không muốn nhận số tiền do “sáng kiến” của tôi ấy. Mọi người năn nỉ ép mãi bà mới nhận một phần tiền rất nhỏ với vẻ miễn cưỡng. Tự nhiên tôi thấy giận bà. Tôi thấy bà phụ công tôi. Sao bà lại dại dột thế nhỉ.  Ngay sau hôm ấy, tôi theo mẹ về thành phố. Chia tay với con Mực, tôi vuốt ve nó mãi, còn nó thì ngước cặp mắt đen sáng ươn ướt nhìn tôi, miệng ư ử rên khẽ như nói lời tạm biệt. Tôi ra đi, lòng cảm thấy buồn. Chẳng ai nhận ra điều ấy, ngoài bà tôi. Tuy bà không nói gì nhưng dáng vẻ bà buồn lắm.  Đến cuối mùa thu năm ấy, trường tôi tổ chức đi thăm di tích lịch sử Côn Sơn. Tôi và cả hai đứa bạn thân là Thành, Phương cùng tham dự. Trên đường về, chiếc xe buýt chở bọn tôi dừng ngay trên phố huyện gần nhà bà ngoại tôi. Thời gian nghỉ khá lâu, tôi bèn rủ Thành, Phương vào nhà bà ngoại tôi chơi nhân thể khoe với hai đứa vườn cây ăn quả um tùm và con chó Mực khôn ngoan của bà. Hồi đầu năm học, tôi đã bao lần khoe với chúng nó về con Mực với những chiến công oanh liệt của nó (Lẽ dĩ nhiên là tôi có phóng đại thêm cho ly kỳ). Lũ bạn tôi nhất là thằng Thành, cứ ao ước có một con chó khôn như thế. Ba chúng tôi hấp tấp bước vào cổng. Cửa nhà đóng. Sân gạch đầy lá rụng. Không thấy con Mực chạy ra và cũng không nghe thấy tiếng nó sủa.  - Bà ơi - Tôi hoang mang gọi. Bà lên tiếng và đi từ trong vườn ra. Thấy chúng tôi bà mừng quá: - Cháu về thăm bà đấy à? Vào đây, vào đây các cháu.  Bà giục luôn miệng, chân lật đật bước lên trên khoảng sân đã long gạch gần hết, phủ đầy rêu xanh và lá khô vàng. Gớm, lá rụng nhiều quá. Bà phải quét ngày hai lần mà vẫn không xuể. Được cái sẵn cái đun - Bà kể lể. Chúng tôi theo bà vào nhà, bà bê chiếc nồi đất cũ kỹ, đổ nước chè xanh ra mấy cái bát sứt mẻ. - Các cháu uống nước đi cho đỡ khát. Nước chè xanh mát lắm. - Con Mực đâu rồi hả bà - Không nén được, tôi hỏi. - Nó chết mất rồi cháu ạ - Giọng bà khàn khàn. - Sao lại chết. Hay bà lại bán nó rồi? Tôi gần như kêu lên. Bà tôi ngồi xuống chiếc tràng kỷ tre cũ kỹ ngả màu vàng xám đã gãy mất mấy nan, thừ người một lát rồi nói: - Sao cháu lại hỏi bà vậy hả Cường? Bà đã bảo với cháu là bà không bán nó rồi mà - Bà thở dài. Nó chết thật rồi. Nó chết vì nó chỉ muốn ở với bà thôi. Bà tôi lấy góc chiếc khăn quàng đầu khẽ chấm đuôi con mắt. Chúng tôi lúng túng.  - Cháu đi được ít lâu thì ông cụ Hồi, cái ông lão trồng sen cho xã vẫn thỉng thoảng cho cháu hoa sen ấy, cháu hẳn còn nhớ, đến lợp lại cho bà cái mái bếp. Thấy con Mực có tướng bắt chuột, ông lão cứ nằng nặc đòi bà nhường lại cho ông để cho ông huấn luyện nó săn chuột. Nể lời, bà cho không con Mực cho ông Hồi chứ có mua bán gì đâu, vả lại cháu còn nhớ cái ngày “điềm gở” làm bà còn chột dạ mãi. Bà già rồi hay lo mà cháu. Bẵng đi mấy hôm bà thấy con Mực mò về. Nó mừng rối rít. Bà bảo nó: “Ông lão xin mày rồi thì mày về nhà ông lão. Ông ấy cho mày ăn thì mày phải về ở nhà săn chuột cho ông nghe chưa”. Bà xua mãi nó mới chạy đi. Ông Hồi dặn bà là khi thấy con Mực về thì không cho nó ăn, và đánh mắng đuổi nó đi hộ ông. Ông lão dặn vậy chứ bà nỡ nào đánh mắng nó. Đôi khi nó vẫn lảng về thăm bà. Thấy gà lợn hàng xóm đến phá vườn, nó lại xông ra đuổi như hồi cháu còn đây ấy! Bà thương nó nên thỉng thoảng lại lỗi hứa với ông Hồi lấy cơm cho nó ăn, nhưng nó chẳng ăn bao nhiêu. Cứ như là nó chỉ sống bằng tình nghĩa ấy. Lâu lâu không thấy nó sang, bà đâm ra nhớ. Bà chiêu một ngụm nước chè, dụi dụi cặp mắt kèm nhèm kể tiếp: - Cho mãi tới cái đêm rằm tháng tám ấy. Gớm, mà bão to quá. Gió muốn bay cả nhà. Bà sợ quá đóng chặt cửa. Mãi tới sáng hôm sau bão ngớt bà mới dám mở cửa thì thấy con Mực nằm trên thềm ngay lối ra vào. Chẳng biết nó nằm đấy từ bao giờ, chắc thấy bão to nó lo cho bà nên mới chạy về. Người nó lạnh toát, lông ướt bết lại. Khi bà nhấc đầu nó lên thì nó hé con mắt ươn ướt nhìn bà. Thật tội nghiệp, nó trách bà đấy. Bà đốt lửa sưởi cho nó, nhưng nó yếu quá không hồi lại được. Đến chiều thì nó chết hẳn. Bà chôn nó dưới gốc sấu, chỗ nó thường hay nằm trước đây. - Tại bà tự nhiên lại đem nó đi cho cái ông Hồi nên nó mới chết - Tôi nói giọng trách móc.  Bà tôi ngồi thừ ra một lát, thở dài rồi đứng dậy: - Các cháu ngồi đây nhé. Bà ra vườn chặt mía và lấy bưởi cho ăn. Bà lật đật đi ra vườn. Dáng bà còng hẳn xuống. Căn nhà im ắng. Nghe rõ cả tiếng mọt nghiến gỗ kèn kẹt, tiếng bú rách đớp muỗi trong bóng tối tắc tắc. Khi sống con Mực đi về còn làm bà vui, nay nó chết rồi bà lại thui thủi một mình. Lát sau bà ôm vào một bó mía và mấy quả bưởi đã gọt vỏ, tách múi. Chúng tôi còn bụng dạ nào mà ăn nữa. Thành và Phương lén giục tôi vì lo xe chạy. Khi chúng tôi chào bà thì bà thẫn người tưởng chúng tôi giận bà vì chuyện con Mực nên mới bỏ đi sớm như vậy. Tôi phải phân bua mãi. Bà đưa chúng tôi ra tận cổng. Khi ô tô chạy qua bà vẫn còn đứng đấy. Đầu bà bạc trắng. Những sợi tóc bị gió thổi xòa xuống đôi gò má nhăn nheo và khuôn mặt khắc khổ của bà. Tôi nhoài hẳn người ra ngoài cửa xe gọi to:  - Bà ơi… - Đừng giận bà, Cường nhé. Khi nào nghỉ hè nhớ về chơi với bà nhé… Bà gọi với theo. Tiếng bà hút theo chiều xe chạy, bị kéo dài ra, đuối đi rồi mất hẳn. Tự nhiên tôi thấy cay cay nơi sống mũi. Mắt rân rấn nước. Tôi cứ nhìn mãi về phía sau, nơi bà đứng. Biết bao nhiêu người trong chúng ta có một làng quê và có một người bà để thương để nhớ. Cho đến bây giờ, khi đã trưởng thành đi đây đó, và chắc mãi sau này nữa tôi vẫn nhớ buổi chiều cuối thu năm ấy; Không ngờ đó là lần cuối cùng tôi gặp bà. Chưa kịp đến kỳ nghỉ hè tiếp theo để về thăm bà thì một hôm đi học về, tôi được biết mẹ tôi vừa vội vàng về quê vì được tin bà tôi mất. Bà bị cảm rồi đi đột ngột, không kịp dặn lại gì. Tôi ân hận vô cùng. Chắc là bà không biết là tôi không giận gì bà về chuyện con Mực. Không mấy ai lại gắn bó với làng quê như bà tôi. Mẹ, cậu và các dì tôi cho đó là do bà bị những định kiến xưa cũ đè nặng.  Nhưng buổi chiều hôm ấy, đứng trước mộ bà, tuy vẫn còn là một đứa bé, tôi bỗng chợt cảm thấy, dù chỉ lờ mờ thoảng qua thôi, cái sợi dây vô hình nhưng bền chặt ấy gắn con người với cội nguồn gốc rễ của mình. Giờ tôi mới cảm thấy rõ ràng là mẹ tôi, cậu tôi, các dì tôi và cả tôi nữa đều bắt nguồn từ người bà đã nằm sâu dưới mộ. Và bỗng tôi lại nhớ đến con chó Mực của bà tôi, con chó không bao giờ quên người chủ đầu tiên, con chó khi mưa bão đã chạy về nằm chịu chết trên thềm nhà cũ. Là giống vật mà sao nó lại như hiện thân của những quan hệ tình cảm bền chặt ở làng quê, nơi mà chúng tôi đã dứt áo ra đi. Nhưng đấy là sau này tôi mới hiểu ra như vậy. Còn lúc ấy, tôi chỉ biết cắm lên mộ bà tôi những thẻ hương mà tôi mang về từ thành phố và thầm khấn cho linh hồn bà siêu thoát…
 
Đã mang vào thư viện

<bài viết được chỉnh sửa lúc 06.05.2022 20:14:11 bởi Ct.Ly >

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( II ) - 21.05.2022 11:17:37
Chuyện buồn không muốn nhớ
 Truyện ngắn
Tôi vừa đi công tác về thì chị tôi đến tìm. Chị bảo tôi tối đó đến nhà chị vì mẹ tôi có chuyện cần bàn. Không rõ chuyện gì nên tôi lo lắng gặng hỏi thì chị hé mở: “Người ở quê ra thì thào với mẹ chuyện đất cát, nhà cửa gì đó, tôi chỉ nghe loáng thoáng”.Tôi thở phào, phần nào yên tâm. Tiễn chị về rồi, tôi thần người vì nỗi buồn ập đến. Điền thổ là chuyện của muôn đời, ngẫm thấy người xưa nói cấm sai câu nào. Quê tôi, làng Giải Oan, một làng cổ của vùng ngoại thành Thăng Long xưa. Nguyên cha tôi được ông tôi cưới vợ cho từ khi người mới mười ba tuổi và hơn cha tôi đến vài ba tuổi. Nhà có mấy mẫu ruộng nên cần có người trông nom, bà nội tôi chỉ phục dịch ông tôi và đám học trò cũng đủ nhược người. Người vợ đầu cha tôi vốn con nhà giàu của làng bên nên sớm biết làm ăn, chỉ phải tật hợm hĩnh, động tý lại cậy gia thế mình giàu có, chê bai, dè bỉu người khác. Tính khí làm vậy nên sinh thất lễ với bà tôi và bà liền đem chuyện nói với ông tôi. Ông buông sách, thở dài rồi bảo: “Con người ta sang hèn là ở cốt cách, tài cán chứ đâu phải ở miếng cơm, manh áo”. Còn cha tôi, sau khi cưới vợ liền ra Hà Nội học, thi thoảng mới về nhà. Vì ít tuổi, lại ham học, vả lại ông bà tôi sẵn lòng không quý mến con dâu nên bảy năm sau, cha tôi bỏ hẳn người vợ này.Sau này cha tôi có kể lại là lúc lâm chung, ông nội tôi vẫn nhớ chuyện người vợ đầu của cha tôi bỉ nghèo nên căn dặn cha tôi chớ lấy vợ con nhà giàu. Nhưng sự thể lại khác, người vợ kế tiếp của cha tôi (tức là mẹ già tôi) là con nhà giàu nhất trong vùng, được cái lúc ấy cha tôi đã học xong nghề kiến trúc, bắt đầu làm ăn phát đạt nên chẳng ngại mang tiếng tham của lấy vợ giàu. Mẹ già tôi là người biết điều, khi về làm dâu lại mang theo năm mẫu ruộng tốt làm của hồi môn, vì thế gia sản nhà tôi tăng nhanh. Sẵn tiền, sẵn nghề trong tay, cha tôi mua thêm đất của những nhà xung quanh, mở mang thổ cư rộng đến sáu sào, xây liền một biệt thư hai tầng với mười hai phòng theo kiểu nhà tám mái, sàn gác ghép toàn gỗ lim. Ngôi nhà to đến nỗi sau này người làng vẫn kháo nhau rằng hôm khánh thành ăn liền một trăm mâm cỗ không phải ngồi ngoài sân. Cách mạnh năm bốn nhăm cha tôi về quê và giữ chức chủ tịch Ủy ban hành chính đầu tiên của xã. Năm bốn sáu, toàn quốc kháng chiến, cha tôi tản cư lên Bắc Giang, mẹ già tôi lo tiếp tế, một lần không may, bà bị đắm đò, chết đuối. Rồi sau đó, cha tôi bị Pháp bắt, may mà người trốn thoát, trở về Hà Nội làm nghề thiết kế nhà cửa. Thời gian này, người gặp gỡ và lấy mẹ tôi. Mẹ tôi vốn buôn bán từ nhỏ, con gái thành thị không biết làm ruộng, song vì ở nhà quê nhiều ruộng, bà tôi già, chị Ngoan (con mẹ già tôi) chưa lớn, nên dù không muốn, mẹ tôi vẫn thường xuyên về quê trông nom nhà cửa, ruộng vườn. Mấy năm ấy, mùa màng thất bát, tô thu được chẳng đáng là bao, bên nội nhà tôi đông người nhưng toàn nhà nghèo, làm giúp thì ít mà tìm cách bớt xén, bòn rút lại nhiều. Năm năm hai, giặc Pháp chiếm làng tôi khi rút đi đã chôn mìn giật nổ tung ngôi biệt thự của cha tôi. Cha tôi về quê, nhặt nhạnh gạch vỡ, cho xây lại một ngôi nhà ngói năm gian. Mãi đến hòa bình lập lại, mẹ tôi mới mang hai chị tôi về quê ở hẳn. Cả gia sản ấy của cha tôi chỉ tồn tại đến cải cách ruộng đất. 
 *Đến nhà người chị, tôi thấy mẹ tôi ra vào nghe chừng sốt ruột. Để tôi uống xong chén nước, mẹ tôi vào chuyện ngay: - Mai anh phải về quê xem chuyện nhà cửa ra sao?- Để thư thả không được sao, mẹ?- Không - Mẹ tôi cương quyết - Hôm qua, anh rể anh ở quê ra bảo hoặc mẹ, hoặc anh phải về quê ngay dứt khoát chuyện nhà cửa. Nghe đâu phức tạp đấy. Thấy tôi im lặng, mẹ nói tiếp: - Mẹ ra đây ở với chúng mày, nhà cửa ở quê bỏ không ai trông nom. Nhà Gạo cho vợ chồng nhà Di ở tạm, ý chừng muốn mua hay xin gì đó. Ở mãi không thấy mẹ nói gì, chúng nó xin đất xã làm nhà khác và chuyển đi rồi. Giờ thì cả nhà nó trách mình không bán. Nó có hỏi gì đâu. Tức vậy. Bây giờ chú Côi cũng đánh tiếng mua cho thằng con thứ hai ở.  - Ai mua thì mẹ cứ bán. Người nào trả giá cao là được. - Nói như anh, ai chẳng nói được - Mẹ trách tôi - Sự đời không giản đơn thế đâu con ạ. Để mẹ nói cho mà nghe, họ nội nhà anh còn đánh tiếng đòi để miếng đất ấy lại xây nhà thờ họ, chứ không được bán. - Nhưng mà có phải đất hương hỏa ông cha để lại đâu mà họ đòi - Tôi cãi - Nếu con không nhầm thì bố mẹ bỏ tiền ra mua khi nhà ta rời Hà Nội về quê. - Anh im đi, nghe mẹ. Anh tưởng mẹ không biết điều đó hay sao? Mẹ biết cả, biết tường tận là khác. Họ nghĩ sao, nói vậy, còn phần mình, mình phải có trách nhiệm giải thích cho họ hiểu. Chính vì thế mà mai anh phải về quê gấp. Và tôi chỉ còn biết thở dài nghe theo ý mẹ.  
 *Ngoài người chị gái con mẹ già và hai người chị con đẻ của mẹ, tôi còn một người chị nuôi. Chị người Thái Bình. Năm bốn nhăm, Nhật bắt dân nhổ lúa trồng đay, người đói khát bệnh tật chết đầy đường. Bà nội tôi đi chợ phiên đã nhặt được con bé chừng ba tuổi, quằn quại ôm bầu vú mẹ đã chết, bà nội tôi bèn bế mang về, bảo với mẹ gìa tôi: “Con người là quý hơn cả. Nghĩ con bé thương cho thân phận con người. Nhà mình của ăn của để, có thêm nó cũng chẳng vì thế mà nghèo đi, con Ngoan nhà mình đã có chị có em. Thôi thì ra tay tế độ, sau lấy phúc”. Mẹ già tôi bằng lòng ngay và vui vẻ hỏi: “Thế nó tên là gì”. Bà tôi chép miệng: “Nào ai biết. Cứ gọi nó là Gạo. Mong sao cho nó sau này chẳng thiếu ăn”.  Từ đó, chị Gạo là thành viên của gia đình tôi. Ngày bé, chị chẳng hề ốm đau, cứ lớn như củ khoai. Công việc chính của chị hàng ngày là rửa bát đũa và quét sân, quét lá vườn phơi khô. Lẽ dĩ nhiên, với cái cơ ngơi rộng đến mấy sào của gia đình tôi thì quét dọn cho sạch sẽ cũng đủ mệt người. Tuy chẳng học hành gì song đối với gia đình tôi, chị được đối xử như con cái trong nhà. Bà nội và mẹ già tôi đều là người hiền lành nên chị Gạo hầu như không bị đòn bao giờ, thực ra cũng đôi lúc bực mình thì chị Ngoan cốc cho vài cái, nhưng chỉ là lén bởi bà nội tôi cấm tiệt việc này. Chị Gạo cứ thế lớn lên trong gia đình tôi cho đến năm chị mười bốn tuổi, đó là năm cải cách ruộng đất.  Mẹ tôi bảo, nghe người ngoài kháo nhau sắp cải cách ruộng đất, chị Gạo vẫn thản nhiên. Rồi một tối chị không về ngủ, và chị đi liền ba hôm sau mới về nhà. Chị không chào bà và mẹ tôi vào thẳng buồng lấy mấy bộ quần áo, chiếc lược và mảnh gương bỏ vào tay nải rồi bỏ đi. Thấy lạ, mẹ tôi gặng: “Mày đi đâu đấy hả Gạo?”. Chị Gạo cấm cảu: “Đi đâu thì hỏi làm gì? Mà thôi, muốn biết thì đây nói cho mà biết. Đây đi với đội cải cách”. Mẹ tôi ngờ nghệch: “Thế không về nhà nữa à?”. Chị Gạo vằn mặt lên: “Ai ở với địa chủ bóc lột”. Rồi chị nguây nguẩy bỏ đi khiến mẹ tôi ngỡ ngàng, ê chề. Bà nội tôi nghe được, thản nhiên: “Phúc đức chẳng thấy đâu. Rõ phí cơm gạo”. Bà nội tôi bị quy là địa chủ. Cùng với bà, mẹ tôi cũng bị giam ở truồng trâu để Đội tra của. Đồ đạc trong nhà bị lấy đi hết, chỉ còn sót lại chiếc cối xay bột bị sứt một góc do nhà đổ dạo nào. Bà, mẹ và chị tôi nhiều hôm không có gạo ăn phải hát nhãn trong vườn ăn trừ bữa. Hôm đấu tố, chị Gạo lên đấu bà nội tôi và chị Ngoan. Riêng mẹ tôi thì bỏ qua, không hiểu vì sao. Sau này mẹ tôi bảo có lẽ chị Gạo thấy mẹ tôi hiền và đẹp, mà chị thì rất thích những người đàn bà đẹp. Bà nội tôi mất trong dịp này, có lẽ bởi tuổi già, sức yếu, tiếc gia sản và cộng thêm sự thiếu ăn, sự dày vò. Bố tôi vốn là người chí hiếu nhưng biết tin bà nội tôi mất chỉ thở dài chảy nước mắt không dám về. Đến khi bố tôi viết thư về mời Đội ra Hà Nội nhận tiền thoái tô, mẹ và các chị tôi được ra cùng. Tết năm ấy, khi mẹ tôi vẫn bị quản thúc ở quê, nhà tôi ăn một cái tết suông. Quá giao thừa, khi mẹ tôi vừa ru được các chị tôi ngủ thì chợt nghe có tiếng người gọi ngoài bờ tường. Mẹ tôi nghe ngóng và lòng đầy lo sợ. Thì ra chú Côi. Chú là người trong họ nội tộc, mồ côi cha mẹ từ khi còn nhỏ, chú tốt bụng và nhanh nhẹn, thường vẫn được bà nội tôi cưu mang bằng cách nhờ làm đôi ba việc đồng áng nhưng trả công rất hậu. Khi chú lớn, bà nội tôi lại dàn xếp cưới cho chú một người vợ vốn là con gái xứ khác, phiêu bạt đến làng tôi. Chú Côi lẻn trèo tường đưa cho mẹ tôi một chiếc bánh chưng và hai khoanh giò nạc rồi vội vã về luôn vì sợ nhỡ ai nhìn thấy lại nguy. Mẹ tôi đặt chiếc bánh và mấy khoanh giò lên bàn thờ, thắp hương khấn gia tiên và trời đất chứng giám mà nước mắt chảy ròng ròng, phần vì cám cảnh gia thế, phần cảm động trước lòng tốt của chú Côi. Chuyện này, mẹ tôi nhớ suốt đời. Hễ cứ năm hết, tết đến, sau khi cúng đêm ba mươi, thế nào mẹ tôi cũng bùi ngùi nhắc lại chuyện cũ. Mẹ bảo: “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Chị Ngoan lấy chồng, bán mảnh đất nhỏ được Đội trả lại sau cải cách để làm thổ cư. Chị Gạo cũng lấy chồng dịp đó. Chồng chị cũng là một người côi cút và cũng hoạt động với chị trong một tổ của Đội. Hai vợ chồng được chia đất, chia nhà.  Mãi bảy năm sau, chị Gạo lần tìm về quê, thì ra trong số gần chục anh chị em mà chị phiêu bạt khắp nơi còn sống mấy người. Biết chuyện em mình, người anh cả khuyên chị Gạo ra Hà Nội xin lỗi bố mẹ tôi. Khi thấy chị Gạo rơm rớm nước mắt hối lỗi, bố tôi bảo: “Giàu sang, phú quý là phù du, bọt biển. Ở đời chỉ còn lại tình người mà thôi”, rồi tha lỗi cho chị, và từ đó vợ chồng chị đi lại giỗ tết xem như con cái. Riêng chị Ngoan thì vẫn hậm hực mãi chưa chịu làm lành, bởi còn căm chuyện chị Gạo cầm đầu một lũ trẻ con bẫy chị lúc cải cách, bằng cách vẽ hình lá cờ dưới đất ngang cổng nhà, rồi đứng ngoài trêu tức chị Ngoan xông ra vô tình dẫm lên và vu tội. Chuyện cũ cũng qua đi! 
  *
  Tôi về quê, đến thẳng nhà chị gái lấy chồng ở quê. Thấy tôi về, vợ chồng chị tôi mừng lắm, song vẫn trách khéo: - Cậu cứ như người ở đâu đến, chẳng quan tâm gì đến nhà cửa cả. - Thì em cũng nghĩ đơn giản thôi - Tôi chống chế. - Đơn giản ư? Đến điên cả người lên đây. Mà cậu có ở nhà đâu nên chẳng phải nghe những lời trì móc. Rồi vì chồng chị tôi kể rằng sở dĩ chị Gạo cho con ra ở trông nhà cho mẹ tôi là hàm ý sau này sẽ xin đất nhà ấy, hoặc không thì mua rẻ, nhưng lại không muốn đánh tiếng. - Ai cần thì phải mua, kể cả vợ chồng chị - tôi khẳng định - Mẹ già rồi, phải có tiền tĩnh dưỡng tuổi già và lo chuyện hậu sự. Em thì còn bơ vơ, nằm bàn tại cơ quan chứ sung sướng gì đâu. Bây giờ, đâu còn nhà cửa, ruộng vườn bờ xôi ao mật như xưa mà bảo cho không. Ai cũng phải đổ mồ hôi, sôi nước mắt mới kiếm được miếng ăn, chứ bốc được của đâu.  - Anh chị cũng nghĩ như cậu nên mới bực. Cậu thử nghĩ xem, nhà Gạo cho con ra ở đó hơn năm, lợp lại mái rạ, vừa qua lại đánh tiếng “Nay mai cho các cháu ra xin lại mái rạ về đun”, như thế còn gì là tình nghĩa. Rồi vợ chồng chị tôi kể lể chuyện chú Côi muốn mua nhà, chuyện họ nhà tôi bàn nhau giữ lại mảnh đất ấy để xây nhà thờ họ.  Tôi phải lựa lời khuyên can. Khuyên người khác mà lòng tôi buồn bã. Tôi nhớ, khi chuyển từ Hà Nội về quê những năm đầu chiến tranh phá hoại, bố tôi bán đi chiếc xe đạp duy nhất của gia đình được hơn trăm bạc, chỉ dám trả cho ông chủ đất một trăm, còn bớt lại làm kế sinh nhai, số nợ đến mấy năm sau mới trả nổi. Tôi bảo vợ chồng chị: - Thôi bớt giận làm lành, Cứ để em và mẹ định liệu.
  *
    Cho đến bây giờ, tôi còn nhớ rõ khuôn mặt đầy buồn nản xen lễn vẻ lo âu của bố tôi lúc cả gia đình chuyển về quê ở hẳn. Xin thôi việc ở Bộ Kiến trúc, bố tôi được hưởng nửa năm lương. Không hiểu tính toán thế nào, bố tôi lần mò xuống Thanh Trì học nghề làm bánh cuốn. Đây là một nghề có thể làm khá giả một gia đình lao động bình thường, song đối với gia đình tôi thì là sự bất đắc dĩ trong lúc sa cơ lỡ lận. Những ngày bánh ế, hai chị tôi phải nghỉ học, đội thúng bánh đi vào các thôn xóm xung quanh rao bán, kể cả bán chịu không hy vọng đòi được tiền. Rồi nhà tôi lại xoay sang nghề làm bánh đa, cán mì sợi. Hơn sáu mươi tuổi đầu, bố tôi nghiến răng, mồ hôi ròng ròng quay chiếc vô lăng to tướng và đôi khi tôi cũng phải bám vào đó mà quay cứ như là người đánh đu. Ngày nhỏ, tôi là một cậu bé nhạy cảm, song lại thiệt thòi bởi thể chất yếu ớt. Tôi phải theo lũ trẻ trong làng đi chăn trâu để mỗi vụ gia đình có thêm chút ít công điểm. Đối với tôi việc này như một cực hình bởi tôi sợ đỉa và không biết bơi. Cứ nhìn những con đỉa no mòng máu bám lủng lẳng vào mình trâu là tôi lại sợ rởn gai ốc, song như thế còn chưa rung rợn bằng việc chứng kiến bọn trẻ con lấy ống rạ sắc lột đỉa làm máu đen bắn ra tung tóe. Mỗi khi trâu lội qua song là tôi sợ run người vì lo rằng nó sẽ ăn lúa của hợp tác xã và bị người ta quy vào tội phá hoại. Có một lần, trời mưa phùn gió bấc, nhìn tôi mặc chiếc áo mưa lụp sụp dắt trâu đi chăn, bố tôi động long thương xót, gọi tôi lại và người đi chăn thay. Trưa ấy về, mặt bố tôi lầm lì khiến mấy chị em tôi lo lắng nhưng không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Sau này tôi mới biết chuyện. Hôm ấy vì muốn trâu chóng no, bố tôi đã dắt cho ăn cỏ ở bờ lúa, thấy vậy, một bà trước đây vẫn làm công cho gia đình tôi đứng ở rìa làng, gọi réo rắt qua sông: “Đứa nào dắt trâu bờ lúa kia. Muốn sống thì dắt đi nơi khác, không biết thế là phá hoại hợp tác à?”. Từ đó, bố tôi dặn tôi rất kỹ là không được chăn trâu ở bờ lúa. Thế là sau này, hễ con trâu sứt mũi bướng bỉnh bơi qua song thì tôi chỉ còn thiếu nước khóc. Tôi đành phải nghĩ ra một cách, nhờ một đứa nào đó trong bọn trẻ chăn trâu bơi sang dắt hộ trâu về, bù vào đó, tôi phải kể cho chúng nghe một đoạn trong “Tam Quốc diễn nghĩa” hay “Tây Du ký”, “Thủy Hử”, được cái là những chuyện này tôi thuộc long như cháo chảy, chỗ nào quên tôi có bịa ra thì bọn chúng vẫn nghe mê li. Song bọn chúng cũng tinh quái, nhiều khi vòi tôi kể chuyện không được, chúng bèn lén lùa trâu của tôi xuống sông. Nhiều khi tức trào nước mắt, và tôi quyết tập bơi.  Những năm tháng tuổi thơ đầy lo âu và mặc cảm của tôi qua dần…
*
     Từ nhà chị, tôi đạp xe về nhà mình. Cảnh nhà hoang vắng, cỏ leo mèo lóc. Mái rạ trũng xuống từng mảng lớn. Chú Côi đang lúi húi dọn cỏ trong vườn. Thấy tôi, chú rất mừng. - Cháu về đấy à? Cơm nước gì chưa, để chú nấu? - Dạ, cháu ăn cơm nhà chị cháu rồi. - Mày chỉ vẽ chuyện, lần sau về quê, cứ đến thẳng nhà chú cơm nước rồi đi đâu hẵng đi - chú Côi trách nhẹ rồi thân mật trở lại - Cháu thấy đấy, vợ chồng nhà Gạo cho con ra ở một thời gian rồi dọn đi, nhà vườn bỏ toang hoang thế này. Nhìn cảnh, chú buồn quá. Mua hay không, thời gian rỗi rãi, chú quét dọn cho. - Cảm ơn chú - Tôi cảm động. - Cháu không ở nhà nên không hay chứ ở nhà, chú đến dọn dẹp thế này cũng nhiều chuyện lắm. Người thì bảo: “Công dã tràng”, kẻ lại dèm pha “Gìa rồi vẫn dại. Cái giống địa chủ nó lại lừa cho trắng mắt ra”. Còn chú thì nghĩ ở đời tình nghĩa là trên hết, phải không cháu? Vả lại, bụng chú luôn ngẫm là mình nhận người không nhầm. Thôi để chú rửa qua cái tay rồi chú cháu mình uống nước.  Tôi vào nhà, thắp hương lên bàn thờ gia tiên. Tôi đứng lặng hồi lâu, lúc ngoảnh lại thì chú Côi cũng đứng lặng ở đằng sau từ bao giờ, mắt chú đầy nước, khuôn mặt già nua khắc khổ ẩn chứa sự phúc hậu. Chú nói:  - Cứ nghĩ đến cái đận bà nội và bố cháu cứu chú khỏi chết đói năm Ất Dậu, chú lại thương cảm. Sao ở đời những người làm phúc thường hay long đong thế! Hai chú cháu tôi pha chè uống. Chú Côi cho biết là trong họ nội nhà tôi tranh luận nhau việc đòi nhà tôi để xây dựng nhà thờ họ, kẻ bảo nên, người bảo không, say rượu xuýt choảng nhau. Tôi hỏi: - Vậy mẹ con cháu bán, chú nghĩ sao? - Bán cũng được nhưng không nên, bởi sẽ phức tạp nhiều.  - Vậy chú khuyên cháu nên làm gì? - Chú thì nghĩ thế này, tuổi trẻ chúng mày có học, thích bay nhảy ra thành phố là lẽ đương nhiên không ai dám giữ, mà còn lấy đó làm hãnh diện, song gốc rễ mình ở nông thôn, nên có miếng đất, nếp nhà để nơi mà đi về. Như thế không là tốt sao, nhất là cháu giữ vai trò trưởng họ tộc. Thôi thì thế này, cháu sợ bỏ hoang thì nhà vườn nát ra chứ gì? Không phải bán cho ai cả. Cứ để đấy, chú trông nom cho.  - Nhưng chú định mua cho đứa thứ hai nhà chú ở cơ mà? - À… - chú Côi cười - Lúc đầu quả có vậy nhưng sau chú nghĩ lại rồi. - Người khác thì chưa chắc song chú thì mẹ con cháu bán. - Cảm ơn mẹ con cháu, cứ để đây chú trông nom cho. - Chú làm thế, mẹ con cháu khó nghĩ quá. - Có gì đâu, ra ngoài đó bảo với mẹ là chú Côi bàn vậy. Chú nói là mẹ cháu hiểu và bà ấy tin đấy! Tối tối chú lên đây ngủ, hương khói. Sau này cháu có làm ăn khá giả, lúc ấy hiến cho họ xây nhà thờ tổ cũng chưa muộn, phải thế không cháu?  Rồi chú Côi vội ra chợ mua ít lòng lợn và chai ba rượu. Hai chú cháu nhấm nháp, nhắc lại chuyện cũ. Thoảng có lúc cũng lặng đi trôi theo dòng thời gian với bao buồn vui, sướng khổ của kiếp người. Chiều hôm ấy tôi tạm biệt chú Côi, đi trên đường làng tôi nhác thấy chị Gạo và hình như chị cũng nhìn thấy tôi, song không hỏi mà vờ quay đi ngay. Phải xem đó là chuyện thường, như ngày nào bà và mẹ tôi đã trải.  Hà Nội, 1990-1992 
 
Đã mang vào thư viện
<bài viết được chỉnh sửa lúc 08.05.2023 17:03:59 bởi Thanh Vân >

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( II ) - 10.06.2022 17:45:16
Vườn xưa,
Tản văn của Nguyễn Chu Nhạc
 
Vườn xưa, ấy là cái vườn của gia đình tôi ở quê, thôn Khê, nằm bên  tả ngạn con sông Cái thuộc tỉnh Hưng Yên, cách thủ đô chừng vài chục cây số đường chim bay. Mảnh đất rộng chừng gần hai sào Bắc bộ, được bố mẹ tôi mua vào năm 1965, sau khi nhà tôi chuyển từ một căn hộ tại Ngõ Trúc Lạc, bên bở hồ Trúc Bạch, Hà Nội, về quê sinh sống theo chính sách thời chiến-giảm dân số ở thủ đô, khi xảy ra sự kiện Vịnh Bắc bộ mở đầu cho cuộc chiến bằng không quân của Mỹ ra miền Bắc. Sau này, được biết, cái chính sách "giảm dân số ở thủ đô" ấy chỉ thực hiện với đa phần gia đình có quê và thuộc diện "thành phần không trong sạch" theo chủ nghĩa lý lịch phổ biến vào thời ấy...
Về sống ở quê, quen dần, lại thấy được cái vẻ đẹp bình dị muôn thuở của thiên nhiên làng quê Việt mình. 
           Trên mảnh đất đầu làng ấy, bố mẹ tôi làm ngôi nhà 5 gian kiểu 3 gian 2 chái, tường đất vách rơm bùn, lợp rạ truyền thống ngàn đời của làng quê Bắc bộ. Cùng đó là căn nhà ngang gồm bếp, chuồng trâu, chuồng lợn và chỗ vệ sinh, cũng bằng chất liệu tre đất rơm bùn. Đất trống hai đầu hồi nhà thì một bên là chuồng gà, bên kia là đống rơm, đống rạ. Trước nhà, có mảnh sân hẹp lát gạch Bát Tràng cũ do mua lại. Vài cây cau vươn cao bên dưới có vài cây nhài và gốc lựu, mà quê tôi quen gọi là thừu lựu liền với sân gạch. Phần lớn đất phía ngoài sân để làm vườn tược trồng các loại rau theo kiểu tự túc, tự cấp. Các cây lưu niên có sẵn và được trồng thêm, loại ăn quả thì có na, mít, bưởi, chanh, hồng xiêm, ổi, nhãn và sấu. Góc vườn và sau nhà có mấy bụi chuối tây, tiêu đủ cả. Liền kề với vườn là miếng ao nhỏ hẹp có sẵn, được đào sâu thêm lấy đất đắp tường nhà và tường bao vườn. Gốc vườn nơi hay bị cớm nắng thì có ít dong giềng. Bốn xung quanh, giáp nhà hàng xóm và đường, ngõ làng là lũy tre, cùng dây mây gai là dăm cây ruối, cây màng dè, cây xoan và hoa dâm bụt, cùng khúc tần. Thế thôi, đã có hoa trái, rau cỏ ăn quanh năm rồi.
        Cuối Chạp hay sang Giêng, tùy tiết sớm muộn hàng năm, khai mùa là hoa chanh, hoa bưởi. Hoa bười nụ to, mùa sai hoa thì trĩu cả cành những nụ những hoa, cánh trắng nhụy vàng tinh khôi, thơm sực nức vườn nhà, Mẹ tôi hay hái hoa bười, chì vài ba chùm thôi, bày đĩa nhỏ đặt lên bàn thờ thắp hương. Thói quen này, là mẹ tôi học từ bà ngoại tôi. Bưởi sai hoa, nên ngắt bớt đi, để nhiều tự hoa cũng rụng rơi, bởi chỉ để vừa hoa thành quả thì cây mới đủ sức nuôi quả lớn. Nở cùng thời điểm, nhưng hoa chanh khác hẳn, khi nụ thì tím nhạt, lúc nở ra mới trắng ngà, hoa nhỏ và hương thơm dìu dịu. Thực lòng, tôi thích quan sát và mê hoa chanh hơn, vì tìm thấy ở đấy sự khiêm nhường mà vẫn tươi tắn sắc hương...
       Qua giêng hai, trời bắt đầu có dấu hiệu hè sang với những cơn giông chiều, đêm ì ầm tiếng sấm. Ấy là lúc cây lựu lấp ló nụ đỏ. Mỗi khi thấy hoa lựu, bố tôi hay ngân nga câu Kiều "Dưới trăng quyên đã gọi hè/Đầu tưởng lửa lựu lập lòe đâm bông"...Đây cũng là thời điểm cây nhà đua nụ hoa trắng. Nếu như lựu chỉ làm người ta ấn tượng với nụ hoa đỏ như ngọn đèn dầu hỏa thì hoa nhài lại trắng muốt thơm hương. Có lẽ vì quê tôi ít trồng hoa sen và thói quen sinh hoạt, bố tôi thích uống trà nhài hơn. Nên mỗi khi có hoa nhài, bố tôi thường dậy sớm, nhắt những bông nhài chớm nở còn đẫm sương mai, rồi tự ướp với trà, loại trà Thanh Hương giá ba hào hai xu một gói. Ngày ấy, uống trà cũng là một thú vui xa xỉ, và loại đắt tiền như Hồng Đào thì có nằm mơ, đơn giản vì không có tiền mua và có tiền cũng không mua được vì chỉ bán phân phối cho cán bộ thôi. Nhưng sau này, nghiện trà, tôi mới hiểu một thực tế và có thể xem như một đạo lý, ấy là trà ngon, tỷ như trà búp Thái Nguyên thì chỉ nên uống mộc, mới thấm được cái ngon của hương vị tự nhiên thổ ngơi của trà. Còn như trà ướp, dù là ướp gì, sen hay nhài hay loại hoa, hương liệu khác thì chỉ nên dùng trà loại nhì, loại ba mà thôi. Chính loại trà không phải là thượng thặng mới cần đến hương vị ngoại lai để tăng vị thơm ngon cho mình...
       Tháng ba, hoa gạo đỏ ối đầu làng, triền đê, nơi cổ quán, chùa chiền. Người chị gái lớn của tôi đi làm đồng về, nhặt theo mấy bông hoa gạo to tướng về bỏ lên mặt bể nước, vừa rửa chân tay nơi sân giếng, vừa khe khẽ hát "Mỗi khi qua rừng biên giới lại thấy hoa mộc miên. Mộc miên hoa ơi..."... Bỏ dở câu hát, chị bảo "Cái tên Mộc miên hay thế, mình lại gọi là hoa gạo... Có ăn được đâu cơ chứ...". Tôi nghe lời bái hát, lơ mơ hiểu là bài hát về tình hữu nghị hai nước Việt-Trung, chẳng mấy quan tâm nhưng tôi lại hình dung ra những cây hoa mộc miên đỏ ối nơi biên cương xanh ngút ngàn. Chỉ thế thôi, trong tôi đã nảy mầm nỗi khát khao được đi đây đó ... Rồi chị quay ra đố tôi "Em có biết ở miền Nam, Tây nguyên ấy, người ta gọi hoa gạo là gì không?" Hỏi rồi, chẳng đợi tôi trả lời, chị bảo: "Là hoa Pơ-lang đấy. Cái tên cũng thật hay...". Và chị lại hát bài hát về hoa Pơ-lang:"Tây nguyên ơi, hoa rừng bao nhiêu thứ, thứ hoa nào đẹp nhất rừng, Tây nguyên ơ ơi..." Tôi nghe chị hát mãi vẫn chưa thấy nhắc đến cái tên pơ-lang, nhưng tôi cũng không hỏi lại... Sau này lớn, tôi mới biết, chị gái tôi hát cho niềm mơ ước tuổi trăng tròn của chị, cho khát khao tình yêu đôi lứa thời lửa đạn, khi trai tráng làng quê ra trận hết cả, trong đó có chàng trai đã ngỏ lời yêu với chị, và không bao giờ trở về ... 
        Giờ cũng là lúc vườn nhà phủ một màu tím hoa xoan nở chạt ngọn cây. Lúc này, vẫn còn rơi rớt những trận gió mùa đông bắc, sân vườn ẩm ướt. Mỗi dịp vậy, mẹ tôi lắc đầu, ái ngại, bà thương bầy gà con cóm róm trong mưa lạnh, mắt lên mộng vì chứng cúm thời tiết, lò dò, ngơ ngác kiếm ăn mùa hoa xoan. Bầy gà con bị vậy, nhiều khi mất cả đàn, còn vài ba con sống sót là may. Mỗi khi gà bị cúm, bố tôi lại sai mấy chị em chúng tôi lấy tỏi giã chắt nước rỏ vào miệng cho chúng uống, rồi thóc đem ngâm với nước vôi trong cho gà ăn, mong cả đàn qua khỏi, còn có cái mà bán, có miếng mà ăn lúc giõ chạp. Cái mùa hoa xoan chẳng đem lại ích lợi gì, mùi hăng hắc , ngai ngái, ám ảnh, khó thoát, dù ngoài sân hay trong nhà, nhưng màu tím của nó trên vòm trời chiều thì rất chi ấn tượng.
         Đây cũng là lúc những mảnh đất trống lấm tấm lên mạ non. Tôi hay có cái trò câu công cống. Gọi là câu công cống hẳn nhiều người không hiểu là câu con gì. Thực ra, ấy là câu con sâu đất. Khi mặt đất se đi, quan sát kỹ sẽ thấy có những lỗ nhỏ như chôn kim lác đác đây đó. Tôi bứt những cọng mạ non, hoặc búp nõn tre, cắm xuống các lỗ đất chân kim ấy, khi thấy cọng mạ động đậy, ấy là chú sâu đất đang cắn mồi cọng mạ, bèn rút dần cọng mạ thật khẽ và khi gần lên mặt đất thì rút thật nhanh, kéo tuột con sâu lên, lấy sâu làm mồi bồi dưỡng cho bầy gà con đang bị ốm... 
       Mùa hạ sang, ấy là mùa của nhiều loài hoa vườn nhà. Trước hết là những loài hoa đỏ, như râm bụt, dong giềng. Hoa râm bụt thì chỉ có sắc, không hương, phá gam đỏ điểm tô cho bờ rào xanh, bởi khúc tần và dây tơ hồng vàng, còn hoa dong giềng không những sắc đẹp, nếu ai biết nó thì còn ăn được. Chẳng hiểu ai dạy, tôi đã biết tút lấy búp hoa trong cùng, mút chút dịch từ lõi búp, có vị ngọt là lạ. Thật thú vị. Biết chẳng béo bổ là mấy, nhưng lại có cảm giác của con ong đi tìm mật. Còn xương rồng nữa, những bụi xương rồng hàng rào hay trên mặt tường vườn rau cũng dày hoa. Mặc dù xương rồng là loại cây chịu khô hạn vô địch, nhưng mùa hạ mưa nhiều, xương rồng cũng mở màng hơn và vì thế sắc hoa đỏ hay vàng của nó cũng tươi tắn hơn, làm con người ta cũng thấy hưng phấn hơn lên...
         Chưa hết, chỉ riêng một cây sấu ven ao ngay lối cổng vào lấm tấm hoa, lẫn vào vòm lá xanh khiến người ta khó thấy. Và nó chỉ hiển hiện khi dưới gốc cây dát một thảm màu trắng ngà vàng,... Ấy là khi hoa sấu rụng, người ta mới biết đến sự có mặt của nó...
        Tiết cuối hạ, khi những đầm sen ngoài đồng đã vãn, mảnh ao nhỏ lại tím sịm hoa bèo Nhật Bản, làm góc vườn nhà đầy sinh khí. Loài hoa chẳng mấy ai để ý nên nó cứ vô tư hớn hở, như chỉ thể hiện sự có mặt cùa mình mà thôi. Song sự có mặt của nó làm cho mảnh ao nhỏ quanh năm cớm nắng bởi bóng tre và những cây lưu niên khác, bừng tươi tỉnh, nhất là mỗi chiều tà trời nổi cơn giông nổi, theo đó là những hạt mưa to lộp độp trên lá bèo. Dây mướp ven ao, được bắc dàn lán ra mặt ao đầy hoa vàng và bóng hoa in hình trên mặt nước, khiên đám rô ron tưởng nhầm, lao xao đớp bóng hoa, cho đến khi những bông hoa mướp đực héo rụng xuống, ấy là lúc bày cá con lau chau tranh ăn, quấy nước ao sủi bọt khí. Đám rau muống nước cũng chẳng chịu thua nở đầy hoa tím, kéo sang cả thu. Hình ảnh ấy in đậm trong tôi, để một ngày nào đó, bật ra mấy câu thơ nhớ quê "Quê nhà dường đã vào thu/ Hình như có tiếng chim gù đâu đây/ Ao vườn hoa tím nở đầy/ Có con săn sắt động dây muống chiều"...
         Rồi bỗng một ngày, khi len lỏi vào hàng rào vườn nhà để tìm ngắt những quả ruối chín vàng mọng bỏ vào miệng ăn, bỗng nhiên cẩm nhận một mùi hương là lạ. Hương gì nhỉ? Tự hỏi mà chẳng thể trả lời. Mùi hương ấy như có lại như không. Mỗi làn gió thổi, mùi hương lại dậy lên, từ sáng đến trưa, rồi chiều, càng rõ dần, và mùi hương ấy hiển hiện, như mùi chuối chín, hay dứa chín. Ở quanh quất đâu đây thôi. Bố tôi bảo: "Hoa dứa dại đấy. Cứ tìm đi, khắc thấy". Tôi căng mũi lần tìm, như chú khuyển vàng đánh mùi... Đây rồi, giữa bụi mây gai xen kẽ dứa dại hàng rào, từ nách lá, một bông hoa vàng nhạt nhô lên. Mùi hương lạ từ đấy tỏa ra, sực nức. Ai đã từng một lần ngửi hương hoa dứa dại sẽ chẳng thể nào quên, vì nó không lẫn với bất kỳ thứ hương nào khác. Tôi mách bố, ông bảo:''Dứa dại ít khi nở hoa, nên ai tìm thấy hoa dứa dại là may mắn lắm đấy". Chẳng biết thật hư, nhưng từ khi tìm thấy hoa dứa dại, tôi luôn chờ đón sự may mắn kỳ diệu nào đó sẽ đến với mình!...
         Mùa hạ qua đi. Tiết thu sang, sấu chín, lộp độp rụng mỗi khi trời chuyển gió. Bưởi cũng già quả, nhưng ăn vẫn còn he, phải đợi đến tiết Trung thu quả mới đủ nước vào ngọt. Đây cũng là thời kỳ oi nước lên. Lúc này, vườn nhà hầu như vắng màu hoa. Ấy là lúc, những bông hoa xương rồng nhỏ xíu vẫn kiên trì, túc tắc nở, đem lại chút màu sắc cho vườn. Khi ấy, mới thấy thương thấy quý loài cây hoa này làm sao!... 
           Ở tít trên cao, hoa cau nào ai biết. Chỉ những chú chim sẻ mùa hè là hay ríu rít, lách chách, chí chóe trên nách bẹ cau, để thòi ra những sợi rơm khô từ tổ của mình. Rồi một sáng, phảng phất đâu đây chút hương dịu nhẹ. Gì thế nhỉ? Lúc múc nước, chợt thấy mặt nước bể lấm tấm hoa cau. Mãi sau này, tồi hiểu, ấy là dấu hiệu  của tiết heo may, khi một thần đồng thơ đã viết những câu thơ "Nửa đêm nghe ếch học bài/ Lưa thưa vài hạt mưa ngoài hàng cây/ Nghe trời trở gió heo may/ Sáng ra vại nước rụng đầy hoa cau". Hay và tinh tế làm sao...
         Nhà tôi, có đào giếng khơi, bên giếng là bể nước. Bố tôi cầu kỳ để một chậu quỳnh. Ngay chân bể chứa nước là khóm giao. Bố tôi bảo: "Cây quỳnh phải có cành giao mới hợp". Ông mang câu thơ Kiều ra diễn giải, rằng chàng Kim Trọng gặp Thúy Kiều trong truyện của Nguyễn Du thì trời đất, quang cảnh cũng đều giao hòa, quấn quýt "một vùng như thể cây quỳnh cành giao"... Hàng năm, vào tiết cuối thu, may mắn thì khóm quỳnh đơm hoa. Từ lúc thấy quỳnh nhú nụ, bố tôi giao cho tôi theo dõi hàng ngày. Mỗi ngày, nụ quỳnh một lớn và nhú cao hơn. Hồi hộp lắm, mỗi khi chờ xem quỳnh nở. Hoa quỳnh thật lạ, chỉ nở vào đêm, và thường đêm có trăng sáng. Vì thế, cụ Nguyễn Du mới hạ bút: "Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên...". Ban chiều, quỳnh còn chúm chím, đầu nụ nứt hé lộ chút cánh trắng, tôi mừng lắm vội báo tin cho bố tôi. Tối ấy, xong công việc, sau bữa cơm tối, bố tôi cho bày chiếc bàn học của tôi và mấy chiếc ghế ra sân. Ngoài ấm trà, có chút hoa quả vườn nhà và mấy cái kẹo lạc. Cả nhà quây quần chờ xem quỳnh nở. Cho đỡ sốt ruột, bố tôi kể chuyện, những Tây Du Ký, Thủy Hử, Hồng Lâu Mộng... mấy chị em tôi mải nghe, quên cả hoa. Cho đến lúc bố tôi đột ngột dừng kể khi chuyện vào độ hấp dẫn nhất, chúng tôi còn ngơ ngác chưa hiểu sao lại vậy, thì bố tôi cười bảo: "Quỳnh nở rồi kìa! Mình xem quỳnh cow mà". Chúng tôi mời ở người. Quỳnh nở thật, cánh trắng nhị vàng nhạt, mỏng manh, tinh khiết và hương dịu nhẹ. Lúc ấy, nhớ tới câu thơ Kiều, tôi để ý, thấy cả một vòm trời bát ngát ánh trăng, dòng Ngân Hà mềm mại lấp lánh, vắt ngang bầu trời. Tôi ngợp đi và đêm ấy không tài nào ngủ được, không biết là do hưng phấn, hay do uống chén trà? Không ngủ, tôi nghĩ miên man, và chợt phát hiện thấy mình đổi khác... Tôi mơ màng nghĩ đến mấy đứa bạn gái đang tuổi phổng phao, ngực nhu nhú mầm...
         Quỳnh của mùa thu đã nở. Cả năm chờ đợi, duy có một lần, là lúc này đây. Nhanh lắm, đêm nở, sáng ra ánh trời, mọi sự huyền diệu ban đêm bay đi đâu hết. Quỳnh đã héo dần. Nhìn những cánh hoa quỳnh ỉu xìu trong nắng hanh, tư lự, tự hỏi lòng, sao loài hoa năm nở một lần, hiếm hoi, lại nhanh úa tàn làm vậy? Và tôi chợt sáng ra trong ý nghĩ, cũng như giấc mơ đêm qua ấy, bao hồi hộp bay bổng tuyệt vời của chút tình cảm luyến ái le lói, len lỏi, đầy hưng phấn đã vụt tan biến khi mình bừng tình dậy lúc ban mai. Vậy thì quỳnh chỉ là giấc mộng đêm thu mà thôi. Cũng như sau này, cuộc đời ban cho tôi bông quỳnh khác, nhưng rồi, vẫn như ngày thơ dại, mải nghe chuyện bố tôi kể, tôi lặn ngụp giữa những rối ren thị phi chuyện đời, nhãng đi và xảy mất phút bừng nở của quỳnh, để lúc tỉnh ra thì hoa không còn tươi nguyên nữa. Lại nhớ đến một bài thơ đời Đường của Đỗ Thu Nương "Khuyến quân mạc tích kim lũ y/ Khuyến quân tích thủ thiếu niên thì/ Hoa khai kham chiết trực tu chiết/ Mạc đãi vô hoa không chiết chi"... Thì ra, có một đạo lý, trời đất tạo hóa không cho phép sự tuyệt diệu dài lâu và vững bền, mà chỉ đến trong một chớp mắt, cho người ta cơ hội nắm bắt, còn ra, chỉ như ảo ảnh, lý tưởng về sự hoàn mỹ vĩnh hằng, để cho con người ta ý thức về sự gian khó, để khao khát sống, khao khát vươn lên, mà chẳng biết bao giờ đạt được !?...
          Những trận gió mùa đông bắc đầu tiên khe khẽ về vào lúc chiều hôm hay mãi nửa đêm. Cây vườn xào xạc. lắc cắc, rào rào những hạt mưa mau thưa, chợt có chợt không. Chỉ những ai tỉnh ngủ mới nhận biết được. Hoặc trong cơm mộng mị, thấy mưa rơi ở xứ mộng mơ xa lơ xa lắc nào đó. Sáng ra, rùng mình se lạnh, mới biết mùa đông đã bén mảng... Những loài cây mùa đông lác đác rụng lá. Mấy cây bàng ngoài bến sông cũng đã ngả màu lá sậm, chờ một ngày đỏ lựng. Chiều chiều, mẹ tôi hay quét lá vườn, mang về phơi để bếp đun dần. Phần lá vụn và rác rưởi còn lại, không đun được thì hun đống đốt thành đống rấm, khói lên thơm nồng, quện với sương chiều muộn phất phơ lên giời, tạo lên một quang cảnh hư ảo trời đất lẫn vào nhau ... Ngày bé, mỗi sâm sẩm tối, trong làn gió lạnh buốt, tôi mơ hồ thấy hồn tổ tiên nương bóng khói đống rấm mà về thăm con cháu... Liên tưởng, ớn mình, nhưng quả thực tôi không mấy sợ...
          Những tưởng, mùa đông thì chẳng mấy hoa. Song không, đây là thời điểm đám rau giữa vườn về già lại đơm sắc màu. Nổi bật, là những cây rau cải xanh, để già lấy hạt làm giống mùa sau, bừng lên sắc hoa vàng tươi rói. Hoa cải vàng rung rinh trong gió bắc khiến cả khu vườn mùa đông ngỡ ảm đạm lại tươi tắn phấp phới sắc màu, đủ sức lôi cuốn loài côn trùng hút mật đỡ lòng lúc ngày đông tháng giá... Và tôi lại thấy mẹ tôi cất giọng buồn buồn câu ca dao "Gió đưa cây cải về giời/ Rau răm ở lại chịu đời đắng cay". Sao lại thể nhỉ? Tôi chẳng dám hỏi mẹ nữa, nhưng cứ âm âm trong suy nghĩ câu ca dao buồn ấy. Sau này, biết ăn rau cải sống, rồi ăn món mù-tạt làm từ dầu cải, thấy vị cay nồng xộc thẳng vào mũi lên tận óc, lại nghĩ, còn hơn cả vị đắng của rau răm ấy chứ? Thật chẵng rõ người xưa hàm ý gì qua câu ca dao ấy?...
         Chưa hết, có một loài hoa gần như không mấy ai để ý, chính là hoa thì là. Nhà trồng vạt thì là, để khi thi thoảng nấu riêu cá, hoặc khi xào khoai tây với tóp mỡ, gia vị thì là làm dậy mùi món ăn. Dùng không nhiều nhưng lai rai cả năm. Bỗng một ngày thì là già cũng trổ hoa, màu vàng nhạt, thả chút hương ngai ngái là lạ. Sắc hoa thì là gần gam màu nhưng không lẫn vào hoa cải. khiến mảnh vườn mùa đông bừng sáng và ấm áp hẳn lên. Rìa rãnh nước chảy còn có hàng hương nhu, cuối năm lấy để đun nước tắm tất niên. Hoa hương nhu gam sẫm, thui thủi nở và tàn chẳng ai hay, bởi giá trị hương thơm cúa nó vào hết thân và lá rồi... Sự có mặt của loài hoa này chì mang ý nghĩa vòng tuần hoàn sinh tồn mà thôi...
          Cuối đông, gần tết Nguyên đán, xen kẽ giữa những trận gió bấc rét là những ngày tiết trời ấm lên, gió nồm đưa hơi ẩm từ biển vào, mỗi sáng sớm và chiều muộn hay sương mù, rồi quá mù thành mưa, lất phất mưa phùn. Mẹ tôi hay dùng thành ngữ "quá mù ra mưa" để chỉ những gì đi quá giới hạn chấp nhận của nó trong cuộc sống... Vậy là tiết xuân vừa chớm. Những khoảng đất trống trong vườn, xen với rau cỏ, để ý thấy những cụm cây dại, hoa nhỏ trắng xanh, chẳng biết gọi tên là gì. Tôi hỏi mẹ, thì bà bảo là hoa tầm xuân và ngân nga câu ca dao "Trèo lên cây bưởi hái hoa, bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân. Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc, em đi lấy chồng chẳng tiếc lắm sao?"... Sau này, tôi có tra cứu, hỏi han này nọ, nhằm kiếm tìm loài hoa tên tầm xuân, thì được mặc định cho cây trường xuân, là loại hoa hồng dây leo hàng rào, và giống này có nguồn gốc nước ngoài. Ngẫm nghĩ, thấy không phải vậy. cây hoa tầm xuân trong ca dao kia quyết không phải là loại trường xuân-hồng dây này. Tôi nghí, chiểu theo ca dao, dân gian. tầm xuân chỉ loại hoa cỏ dại nở hoang ruộng vườn vào lúc có mưa xuân, mà xưa kia các cô gái quê hay hái vào cái tuổi mộng mơ mới lớn, chớm biết yêu, nên tục gọi là tầm xuân mà thôi. Đơn giản vậy, mà cũng có vẻ phù hợp với văn cảnh câu ca dao "bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân" chứ?... 
        Mảnh vườn xưa, quanh năm bốn mùa hoa trái ấy không còn nguyên nữa. Sau khi bố tôi mất, mấy chị em chúng tôi, người về nhà chồng, người ra thành phố công tác. Tôi cũng hành phương Nam gần chục năm trời. Mẹ tôi theo ra thành phố chăm con cho chị gái tôi, bà nhượng nửa mảnh đất cho người bà con họ hàng. Phần còn lại bỏ hoang, ngôi nhà tranh tre tường đất xưa sinh dột nát, rồi bị phá bỏ đi. Gần đây, mấy chị em tôi hùn nhau, xây trên phần đất còn lại một ngôi thờ tự, trồng ít cây, hoa cho ấm bụi, đẹp nhà, nhưng chẳng thể như xưa... 
         Tôi nhớ lắm mảnh vườn xưa thương mến, trong ký ức bộn bề cuộc sống hiện tại. Nơi mà hàng năm, qua bốn mùa hoa trái, bố mẹ chỉ bảo, tôi đã nhận ra và dần thấu hiểu những triết lý nhân sinh. Và điều đó, đã dẫn dắt tôi ngang dọc đường đời... 
 
 

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( II ) - 26.06.2022 17:53:36
SÂN ĐÌNH ĐÊM TRĂNG LU
Truyện ngắn
 
Khi chị bày tỏ ý định trở lại quê thì con gái chị giãy nảy. Thực ra, chị cũng muốn ở lại chơi với con, với hai đứa cháu lâu lâu một chút, song chị cứ nóng lòng, lo không biết ở nhà vợ chồng thằng con trai đồng áng, xây nhà cửa ra sao. Thấy chị thần người, con gái chị dấn tới, giọng hờn mát: - Mẹ bao giờ mà chẳng coi con trai hơn con gái… Con nói thật nhé, nó có phải là máu mủ ruột già của mẹ đâu!- Con ơi!... - Chị buồn rầu – Con đừng tị với em. Con là chị, lại được học hành, đi đây đó…còn em nó ở nhà chân lấm tay bùn, vất vả quanh năm mới đủ ăn. Giờ nó có vợ rồi nhưng còn vụng dại lắm. Bao giờ xây xong nhà cho vợ chồng em nó, bấy giờ mẹ mới yên tâm… và vào đây ở hẳn với con. Được chưa nào?- Nào đâu con tị nạnh với em. Chẳng qua là con thấy mẹ vất vả quá… Mẹ đã ngoài năm mươi rồi. Mẹ cả đời vất vả. Nhà con bây giờ không giàu có nhưng cũng tạm ổn, con muốn được nuôi mẹ… Muốn mẹ được nhàn hạ những năm cuối…Con gái chị bỏ dở chừng câu nói, xụt xịt khóc. Chị cũng rân rấn nước mắt. Ừ mà chị đã ngoài năm mươi rồi, đã là bà ngoại, bà nội của mấy đứa cháu rồi… Chị lau nước mắt, gắng giọng vui vẻ:- Thôi được, mẹ sẽ ở thêm nửa tháng nữa… Sang năm lo xong mọi việc cho vợ chồng em con…- Con xin mẹ… Mẹ nhớ đấy nhé!- Dào ơi… - chị cười trách yêu con - Bằng từng ấy tuổi đầu mà còn làm nũng mẹ.- Thì con có mấy khi được làm nũng mẹ đâu!… Hai mẹ con vui vẻ trở lại. Thế nhưng cũng chỉ được một lúc khi hai vợ chồng con gái chị đi làm, mấy đứa trẻ đi học cả, còn lại một mình ở nhà chị lại thấy buồn. Chị chẳng có việc gì để làm. Nhà cửa sạch bóng, đồ đạc sang trọng và toàn những thứ lạ mắt, đến nhìn lâu chị cũng còn thấy ngại nữa là sờ mó vào. Việc cơm nước, bếp núc chị cũng không phải động tay. Chị cứ nghĩ, giá lúc này mình đang ở quê thì được bao nhiêu là việc. Chị hết đứng lại ngồi, ra vào vẩn vơ. Nhà con chị ở ngay gần hồ Xuân Hương. Chị nhìn sang bên kia hồ, những con đường uốn khúc, những rặng thông xanh mờ, người đi lại thưa thớt. Ngắm cảnh, nhìn người chị chỉ thấy nơi đây hiu quạnh quá. Thế mà con chị bảo rằng người tứ xứ, cả người nước ngoài phải mất tiền đến đây thăm thú. Chị thì chẳng bao giờ lại phí tiền vào những việc vô bổ như vậy. Chị nhẩm tính, tiền con gái gửi ra cho chị để chị vào tận đây thăm nó, rồi lại về, giá chị không phải đi, thêm vào cho thằng út làm nhà thì hay biết mấy. Chị không quen rảnh rang. Chị là con người của công việc. Xa nhà thế này, chị buồn chân buồn tay, chị nhớ nao lòng mùi khói bếp rơm rạ, nhớ ngọn gió sông ngái dại lúc chiều hôm. Phải, chỉ nửa tháng nữa thôi, chị sẽ trở lại với đồng quê, với sân đình, bến nước…
*
Ngoạn góa chồng từ năm mới ngoài hai mươi tuổi. Hồi còn con gái, chị xinh đẹp nổi tiếng một vùng. Gia đình bên chồng Ngoạn là gia đình phú nông, nhưng dần sa sút. Sau khi đứa con gái đầu lòng ra đời chừng một năm thì bệnh lao của chồng Ngoạn thêm nặng. Chồng của Ngoạn vốn tạng thư sinh, chưa phải làm nặng bao giờ, khi gia cảnh khó khăn, thêm chứng bệnh hiểm nghèo nên sớm qua đời. Ngoạn một thân nuôi con côi cút, bà mẹ chồng khó tính, lắm chuyện, vì thế chị quanh năm suốt tháng chúi mũi vào làm. Khi con Khuyên, con gái chị đến tuổi đi học, Ngoạn còn chưa đến tuổi ba mươi. Trong làng ngoài xã, có vài ba đám nhờ người đánh tiếng, mối mai. Những lúc ấy, bà mẹ chồng nằm võng, đưa đẩy à ơi trống không “Trời mưa bong bóng phập phồng…”. Ngoạn nghe suốt ruột bảo: “Bà đừng lo. Con không đi lấy chồng đâu… Mới lại, bà chẳng bảo con là có tướng sát chồng. Con lấy ai lại khổ cho người ấy à…”. Bà mẹ chồng chủng chẳng: “Trai năm thê bảy thiếp. Gái chính chuyên một chồng. Chồng chết, có nứng thì lấy dải khoai ngứa mà xát rồi gãi”. Ngoạn giận lắm nhưng cố nín nhịn. Thực lòng, chị cũng không muốn đi bước nữa. Đời người đàn bà, một lần đò đã khổ. Không may sa sảy, lần thứ hai biết đâu mà lường. Với ý nghĩ ấy, Ngoạn sống lầm lụi, lấy việc làm lụng nuôi con làm khuây. Những năm chiến tranh, trai làng kéo nhau ra mặt trận hết. Có những lứa, vừa tốt nghiệp cấp hai, tuổi mười sáu, mười bảy, khám nghĩa vụ quân sự xong là đi luôn, mặt còn chưa kịp sần, tiếng còn chưa kịp vỡ. Ở lại làng toàn đám trung niên, già lão, khoặc không thì cũng thuộc diện đui mù, mẻ sứt. Trong số trai làng ở lại có Minh, vì sức yếu , lại nhà con một nên được tạm hoãn. Minh học hết cấp ba rồi vào học trung cấp y. Những ngày chủ nhật, hoặc dịp nghỉ hè về nhà, Minh ra đồng làm giúp mẹ. Minh không mấy thạo công việc đồng áng. Mảnh ruộng phần trăm của nhà Minh lại liền bờ với của nhà Ngoạn. Có hôm chị làm cỏ bên ruộng nhà mình, nhìn sang bên, chị thấy ái ngại, thương thương. Minh điển trai, nhút nhát. So với trong làng, Minh thuộc diện có học hơn cả. Minh mồ côi bố, mẹ quanh năm ốm yếu, mấy chị gái lấy chồng xa. Nhà neo người nên Minh phải làm, song thực Minh vẫn không phải là con người của đồng ruộng, bởi chị có cảm giác Minh làm đấy nhưng đầu óc nghĩ đi đẩu đi đâu. Những lần như thế, chị làm nhanh cho xong phần việc nhà rồi làm hộ Minh. Chị làm chăm chú, còn Minh lại vẩn vơ, ngắm chị làm. Một vài lần đầu bắt gặp Minh nhìn mình chăm chú, chị ngỡ ngàng. Sau thấy Minh như để ý đến mình, chị bảo: “Cậu làm đi chứ. Phải biết tự mình làm tất cả công việc nhà nông, mặc dù tôi biết cậu không thích… Nhưng ở đời, đâu phải việc gì thích mới làm, và không thích thì không làm”. Minh bảo: “Chị nói phải!... Mà này, sao chị không đi bước nữa? Con bé đã lớn rồi mà… với lại chị còn trẻ, xinh đẹp nữa!”. Chị đỏ mặt: “Tôi không thích…”. Minh nói: “Nhưng mà có người thích!”. Chị nhìn Minh rồi thở dài: “Cậu còn quá trẻ… Mà thôi làm đi kẻo muộn. Tôi còn phải về, ở nhà có bao nhiêu việc đang đợi”.  Làng chị có chiếc đình cổ. Xưa là nơi thờ Thành hoàng làng và là nơi hội họp giải quyết các công việc chung của làng. Sau cải cách, các đồ tế lễ bị người ta vứt bỏ, hoặc thất tán đâu hết. Đình biến thành lớp vỡ lòng, còn sân đình thì biến thành sân kho hợp tác xã. Đình quay lưng vào làng, hướng mặt tiền ra sông. Dưới sân đình là bậc tam cấp dẫn xuống chiếc cầu gạch to, rêu xanh, lở lói. Hai bên cầu sông là hai cây đa cổ thụ gốc to mấy người ôm. Tán đa râm mát một vùng sông, những nhánh rễ phụ buông tua tủa. Cứ tầm chiều chiều, người làng ra tắm giặt đông đặc. Những đêm hạ oi nồng, người lớn, trẻ con, đàn ông, đàn bà mang chiếu ra sân đình ngủ.  Một tối mùa hè. Làng xóm có đội chèo của huyện về biểu diễn. Sau một dạo máy bay bom đạn, bình yên tạm trở lại và làng mới lại có chèo. Đội chèo của huyện diễn vở “Kim Nham”. Mọi người lũ lượt ra xem. Lúc chập tối, Ngoạn có ra ngó ngàng một chút rồi về. Chị không xem bởi chị thuộc lòng vở diễn. Mẹ chồng và con gái chị đi xem cả. Một mình chị trần ra xay lúa, rồi sàng sảy, giã gạo. Đêm diễn tan cũng là lúc chị xong mọi công việc. Lo cho con ngủ, chị cầm manh chiếu lững thững ra đình. Sân đình gạch xếp ngổn ngang. Xen kẽ giữa những đám gạch, người ta trải chiếu ngủ la liệt. S au một ngày làm mệt nhọc, tối lại được xem văn công thỏa thuê, mọi người ngủ như chết. Mùi rơm rạ lên men, mùi mồ hôi người quện vào nhau khiến chị rực người lên. Chị muốn tắm làm sao. Trải mảnh chiếu xuống dưới gốc đa vệ sông, chị bỏ áo ngoài và cứ quần chùng như thế lội xuống nước. Nước đến đầu gối, đến ngang hông, rồi đến thắt lưng. Nước đến đâu chị cảm thấy khoan khoái đến đó. Kỳ cọ một lát, chị vẫn chưa thỏa. Nhìn trời, trăng hạ tuần mới lên. Chị muốn bơi. Chị ngầm cởi bỏ quần dài, vắt thành cầu gạch, và chị bơi. Sang tới bờ bên kia, chị leo lên bờ, ngồi bệt xuống cỏ, nhìn ra cánh đồng. Đêm tĩnh lặng. Cỏ chọc vào da thịt làm chị thấy dễ chịu. Chị ngả người xuống cỏ, ngửa mặt nhìn trời. Ánh trăng vừa lên yếu ớt làm chị vừa lòng. Chị sợ những đêm trăng sáng. Không hiểu vì sao chị lại sợ những đêm trăng vằng vặc. Hình như chị cảm thấy rằng trăng sáng quá sẽ soi tỏ lòng chị và như vậy, những dục vọng không còn nơi ẩn nấp. Chị mới ba mươi. Đã gần chục năm chị không biết mùi đàn ông. Hồi mới lấy chồng, chồng chị ốm yếu nên dù có con chị vẫn chưa thỏa sức bao giờ. Vì cái gì và vì ai mà chị đã kìm nén lòng mình từng ấy năm? Ừ mà khôn ngoan như cái cô Súy Vân đấy, giả dại đâu có được… Đời con người ta, khôn dại, dại khôn, biết đâu mà lường. Sức lực chị dư thừa. Chị làm quần quật mà sức lực vẫn cứ ứ tràn. Chị trằn mình, lăn lóc trên cỏ, rấm rứt. Chị xấp người, tì hai đầu ngực rắn chắc xuống cỏ, miệng cạp một miếng cỏ thật to, ấm ứ trong cổ. Chị lại vùng dậy, lao xuống sông, sải tay bơi điên cuồng về bờ làng. Chị cứ bơi như thế, đến khi đầu gối va vào bậc gạch ngầm chị mới chững người lại. Chị đứng thẳng lên, quên cả chiếc quần ướt vắt ngang cầu sông, chị đi lên chỗ để chiếu tìm quần áo khô. Chị chút nữa va phải một người. Chị bật kêu khẽ trong cổ: “Ai?”. “Tôi… Tôi đây mà!”. Chị đã bớt hoảng: “Cậu đấy à?... Ra đây từ bao giờ? Cậu rình xem tôi…”. “Tôi tình cờ… À không… tôi ngưỡng mộ chị!”. Câu nói làm rung động đáy lòng chị, nhưng chị cố nén, vờ nghiêm: “Cậu tránh ra cho tôi mặc quần áo”. Minh kiên quyết: “Không… Tôi sẽ không đi đâu cả”. Chị dằn giọng: “Tôi kêu bây giờ!”. Minh: “Kêu lên đi! Kêu lên cho cả làng biết thằng Minh nó si mê tôi… Kìa kêu đi chứ!”. Chị mềm giọng: “Thôi đi!”. Minh lên giọng: “Chị không kêu thì tôi sẽ kêu!”. Chị hốt hoảng: “Đừng mà!... Nhưng mà cậu muốn gì”. Minh lắp bắp: “Tôi yêu… yêu…”. Và hai người quấn vào nhau lúc nào không rõ. Chị phó mặc. Chị chẳng từng khao khát, chờ đợi những phút giây như thế này sao. Trời đất với chị lúc này đều là nhỏ. Mà chị cần chi trời đất. Chị chỉ còn biết niềm sung sướng đến tột đỉnh… Minh lắp bắp những câu gì chị nghe không rõ, chị cũng không biết rằng trăng lu bởi cơn mưa giông kéo đến từ lúc nào, cho đến khi những giọt mưa chạy lộp bộp trên tán đa… Sân đình nhốn nháo, người ta cuốn chiếu chạy mưa. Mấy ngày sau, chị để ý nhưng không hề thấy Minh ở trong làng cũng như ở ngoài đồng. Đêm ấy trở về nhà, chị không ngủ, nghĩ lại tất cả. Chị không hối hận nhưng thấy lo lo. Thâm tâm chị nửa muốn gặp lại, nửa tránh mặt Minh. Suốt mấy ngày liền chị vật vờ, chân tay như chân tay mượn. Ra đồng, không thấy cái dáng lòng khòng của Minh, chị bồn chồn. Rồi chuyện gì sẽ xảy ra đây? “Chị Ngoạn!”. Đang cắt cỏ bờ, chị giật mình bởi tiếng gọi. Minh đứng gần ngay chỗ chị. Chị há miệng mà không thành lời. “Tôi sắp phải đi xa rồi”. “Đi đâu?”. Chị hỏi như hụt hơi. “Tôi đã tốt nghiệp… Trở lại trường nhận công tác… Tất cả con trai trong khóa vào quân đội hết… Người ta nói, chiến trường đang cần quân y”. “Bao giờ đi”. “Hai ngày nữa… Ở nhà, mẹ tôi yếu, các chị tôi lấy chồng xa, việc đồng áng có gì chị giúp hộ”. Chị gật đầu, nhìn Minh không biết nói gì. Con người ấy, mới mấy ngày trước còn xa lạ với chị, nhưng bây giờ… dù một lần cũng nên nghĩa. Chị ứa nước mắt. “Chị ân hận vì chuyện ấy?...”. “Không… nhưng dẫu sao cậu cũng là người thân… Ở ngoài ấy, nhỡ ra làm sao…”. Minh bần thần một lát: “Tôi đi rồi tôi lại về… Nếu lúc ấy chị không chê tôi là trẻ thì…”. “Thôi cậu đừng nói nữa. Cậu cứ đi đi, ở nhà việc gì giúp được tôi sẽ giúp. Chỉ sợ…”. Chị định nói nhưng không nói được, rằng lúc ấy chị đã già mất rồi, rằng cậu ta trai trẻ như thế, lại đi ra ngoài, như con cọp tai quệt vào lá rừng là quên hết.  Minh nhập ngũ âm thầm, không người đưa tiễn, chỉ có người nhà của Minh, bởi Minh không đi theo đoàn như trai làng. Chị muốn tiễn Minh lắm nhưng không dám. Sáng ấy chị ra đồng từ mờ sương. Chị không làm gì, cứ ngóng lên đường cái quan, nhưng trong màn sương mờ mịt, chị nào thấy ai. Ngoạn có linh cảm mơ hồ là chị đã mang một mầm sống trong lòng và linh cảm ấy đã thành sự thật. Chị sợ hãi. Hàng tuần liền chị mất ngủ. Chị bị dằn vặt bởi suy nghĩ tẩy bỏ cái thai. Và rồi sự quyết liệt trỗi dậy, chị phải giữ mầm sống đó bằng mọi giá. Giữ cho người đi xa, biết đâu, đấy là giọt máu cuối cùng của Minh!... Giữ cho chính chị, bởi có nó, thì dù có phải đắng cay đi chăng nữa, chị cũng có lý do để mà tồn tại, tồn tại không tẻ nhạt, nhàm chán, mòn mỏi. Và nữa, giữ cho cả cuộc đời này. Nhưng để giữ được, chị phải biệt khỏi cái làng này ít nhất hàng năm trời. Đến lúc ấy, tự nhiên chị trở nên không ngoan, mưu mẹo khác với bản tính vốn có của chị. Lấy lý do lên mạn ngược với người anh cả, kiếm tiền về chữa lại ngôi nhà, chị đã thuyết phục được bà mẹ chồng khó tính trông con Khuyên ở nhà đi học. Và chị đã phải bụng mang dạ chửa, làm lụng quần quật để có tiền. Đứa con ra đời là một bé trai. Chị mừng lắm. Chị nghĩ chẳng may Minh có ngã xuống thì cũng có đứa con nối dõi. Hơn một năm, chị về làng, mang theo đứa bé và một số tiền gom góp được. Chị nói với mẹ chồng, với bà con xóm làng rằng chị xin được một đứa con hoang ở mạn ngược làm con nuôi, và có như vậy, chị mới không đi bước nữa, ở vậy nuôi con, nuôi mẹ chồng. Làng xóm, có người tin, người không tin xì xào sau lưng, rồi mọi chuyện cũng yên thấm. Bây giờ, với Ngoạn, chị chỉ còn một mục đích là nuôi hai đứa con khôn lớn, còn Minh có trở về, chị cũng không biết sẽ đối xử với Minh thế nào, và có nên cho Minh biết rằng cậu ta có một đứa con trai hay không. Đặt tên thằng bé là Tâm, chị muốn nói với lòng mình rằng chị không hề ân hận với việc đã sinh ra nó, và nó chính là cái tâm của chị với Minh.  Giấy báo tử Minh về xã trước ngày chiến tranh kết thúc ít lâu. Dù đã lường trước nhưng chị vẫn bàng hoàng khi biết tin. Đêm đó, ngủ bên cu Tâm, chị ôm diết nó vào lòng. Nước mắt chị chảy ướt tóc nó. Nó vô tư cuộn trong lòng chị ngủ ngon lành. Chị thì thầm nói với nó: “Con ơi, con mất cha rồi!...”.  Ngày làm lễ truy điệu Minh, bà con thôn xóm tập trung đông lắm. Ngoạn đưa thằng Tâm ra theo. Bà mẹ và mấy chị của Minh khóc lóc sầu thảm. Mọi người dự lễ tang, ai cũng nước mắt vòng quanh. Chị dắt con, thắp hương cho Minh. Đáng ra, trên mái đầu thơ bé kia phải có một vòng tang trắng. Vong linh của Minh hãy tha thứ cho chị và con. Chị không thể nào khác được. Tan lễ, chị theo đưa mẹ Minh về nhà. Chị đặt một tay lên vai bà cụ vuốt nhè nhẹ: “Bà ơi, rồi thời gian sẽ đền bù cho bà!”. Bà cụ chắc chỉ nghĩ là chị an ủi. Ngay từ lúc đó, chị đã nung nấu một ý nghĩ là đến thời gian nào đó thích hợp, chị sẽ trả đứa cháu cho bà nội của nó… *       *      * Thời gian đi sao mà nhanh. Chưa kịp làm gì đã hai mươi năm rồi. Chị Ngoạn xuân sắc ngày nào đã thành bà. Thằng cu Tâm đã trưởng thành, lập gia đình. Mộ của Minh được quy tập về nghĩa trang của xã. Bà mẹ Minh yếu lắm rồi, không biết có qua nổi mùa đông này. Chị nghĩ, đây là thời điểm thích hợp nhất. Vào thăm con gái lần này, chị vừa thể theo yêu cầu của con là vào xem tình hình để chuyển vào ở hẳn với con, mặt khác chị thăm dò thái độ của con, lựa lời nói với nó câu chuyện mà chị đã giấu con hơn hai chục năm qua. Phải nói ra điều đó, chị thấy khó khăn làm sao. Còn khó hơn cái ngày chị biết mình mang thai với Minh. Chị sẽ bị mang tiếng với xóm làng. Lâu nay, chị được người ta gán cho cái danh hiệu thủ tiết thờ chồng, nuôi con ăn học thành tài. Thế nhưng, chị không thể để bà cụ mẹ của Minh trước khi từ giã cõi đời không biết rằng mình còn có đứa cháu đích tôn… Để làm được việc này, chị phải chấp nhận tất cả. Chị cũng đã già rồi, chị không sợ tiếng. Vả lại, chị có làm điều gì thất đức đâu. Cái chính là chị phải nhận được sự cảm thông ở con gái mình. Và điều đó, cho đến tận lúc này chị vẫn chưa làm được.  Chiều Đà Lạt sập xuống rất nhanh. Chị nhẩm tính xem lúc này ở nhà, vợ chồng thằng Tâm đã làm được đến đâu. Khi cơ ngơi xong, chị sẽ nói cho Tâm biết và chị sẽ dắt nó đến trả tận tay cho bà cụ. Không biết dự tính của chị có kịp. Chị chỉ e, nhỡ ra bà cụ nằm xuống. Chiếc lá khô trên cành thì biết lúc nào lìa. Chị cầu trời phật cho bà cụ sống thêm chút nữa để mà nhận cháu. Chính vì thế mà chị sốt ruột, muốn về ngay. Ý nghĩ làm chị thêm quyết tâm. Ngay đêm nay, ngủ với con gái, chị sẽ nói hết. Nếu cần, chị sẽ cầu xin nó. Nhưng chị hiểu lòng con chị. Nó là đứa sống tình cảm, biết nghĩ.  Chị thấy lòng thanh thản. Thanh thản như chưa hề xảy ra chuyện gì. Ngoài kia, tiếng vó ngựa gõ lóc cóc, nghe vui vui. Tự nhiên, chị cảm thấy phảng phất đâu đó hương vị đồng quê. 
1991
 
r
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.07.2022 23:12:49 bởi Ct.Ly >

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( II ) - 29.06.2022 17:16:42
Anh & Nhỏ,
Truyện ngắn
 
          Anh gọi cô là Nhỏ thay cho cái tên dài tới 4 âm tiết, với tổng cộng những 13 chữ cái, cộng thêm một mớ dấu nữa mới đủ nghĩa. Công bằng mà nói, cái tên hay, khá điệu và đầy nữ tính. Nhưng khi đọc bằng mắt và ngẫm nghĩ, thấy có gì đó truân chuyên và đa đoan ?...
 
          Anh biết đến Nhỏ, chừng gần chục năm nay, Khi ấy, chưa có Facebook thông dụng và tiện lợi như bây giờ, internet ở xứ ta cũng mới phát triển. Giới văn chương, báo chí biết đến vài ba mạng xã hội từ xứ người vượt biên giới ảo vào xứ ta trú ngụ. Để đọc, để tham gia lập trang riêng, rồi viết bài đăng lên đó không phải chuyện dễ dàng. Ngoài chút hiểu biết về công nghệ thông tin để vào mạng thì chưa đủ, mà phải là người có kiến thức, có chữ nghĩa và năng khiếu viết lách mới dám chơi…
          Anh không giỏi công nghệ thông tin, song là dân viết lách, nên có người bạn động viên, lập sẵn trang riêng cho trên một mạng xã hội, và gấn như bắt ép sử dụng. Do diều kiện công việc, anh phải đi làm việc ở một nơi xa nhà hang ngàn cây số. Thời gian rảnh rỗi sau giờ làm chính thì chẳng biết làm gì, cờ bạc không màng, nhậu nhẹt không thích, nên vào mạng đọc và viết lý thú hơn.
          Vào đấy, anh nhanh chóng quen biết nhiều người, trong đó có Nhỏ. Tiếng là quen biết, những mạng ảo, có gặp nhau ngoài đời đâu và rõ. Cư dân ở đấy có tên, có tuổi những phần lớn là bút danh, nghệ danh, nick name chứ mấy ai tên thật. Giao lưu với nhau qua mạng, nếu không có ảnh thì cũng đâu có tường mặt nhau,
          Khi Nhỏ xuất hiện ở đây, thì anh đã là cư dân cũ rồi, và cũng ít nhiều có máu mặt. Anh lập tức chú ý đến Nhỏ bởi những cảm nhận khá ấn tượng trên trang của anh và những người khác khá. Hơn nữa, khi sang chào hỏi bên trang nhà Nó, đọc bài viết, thấy rõ là người có chữ nghĩa, có cá tính và đầy nữ tính. Điều đó còn thể hiện cả cách lấy tên cho trang cá nhân… Hơn nữa, không như phần đồng mọi người, nhất là nữ giới, thích trưng ảnh của mình lên, Nhỏ chưa một lần lộ diện mạo, dung nhan của mình...
          Vậy là Nhỏ hấp dẫn sự chú ý của anh là thế, có thể, trước hết, từ sự bí ẩn của cô chăng?
          Cuộc đời Nhỏ dần mở ra trước mắt anh là vậy, bắt đầu từ những dòng cảm nhận, những bài viết,… Theo ngày tháng là những email, thưa mau, ngắn dài và tiếp đó là những tin nhắn, những cuộc điện thoại vào ban trưa, hay chiều tối…
         Và một lần, anh có chuyến đi dài vào phương Nam, một nơi gần chỗ Nhỏ đang sinh sống. Một cái hẹn, gặp mặt nếu có thể…
         Và rồi, anh và Nhỏ, sau mấy cuộc gọi chỉ dẫn đường, hai người đã ngồi với nhau, anh café, Nhỏ sinh tố ở một quán café ngõ, cách nơi Nhỏ làm việc không xa. Thời gian cho cuộc gặp gỡ chỉ có một giờ đồng hồ, bởi Nhỏ phải đi đón con, còn anh phải trở về thành phố tham dự một buổi tiệc quan trọng không thể vắng mặt.
         Một giờ đồng hồ qua nhanh lắm. Cho đến nay, anh không thể nhớ là hai người đã nói với nhau những gì, chỉ biết, có lúc cả hai như tranh nhau nói, lại có lúc im lặng như thể không ai muốn nói. Nhỏ là người nói nhiều hơn … Anh buột miệng bảo: “Nói vừa đủ thôi em ạ… Cũng như người viết Blog ấy, hay khi ghi cảm nhận, chỉ cần ngắn gọn thôi, bởi một nhẽ, càng ngắn gọn càng dễ gợi…”. Nhỏ đang nói, bỗng dừng bặt, chết lặng, sau đó dường ngộ ra điều gì, khẽ gật đầu “Vâng ạ”… Khi buột miếng nói với Nhỏ điều ấy, anh quyên mất rằng, chính anh bị cô hấp dẫn, là từ sự bí ẩn của mình. Nghĩ vậy, anh tủm tỉm cười, khiến Nhỏ càng lúng túng hơn... Và rồi, sau đó, dường như chỉ mỗi mình anh nói. Nhỏ thì lúc nhìn snh nói kiểu tương tác, lúc thì khẽ cúi đầu, mân mê vòng cườm ở cổ tay... Có lúc cả hai lặng thinh, nhìn ra cổng quán nơi các cặp trai gái dắt nhau ra vào phía vườn sau của quán. Anh nhìn Nhỏ như dò hỏi, Nhỏ lấp lửng “À... cà phê vườn... mà anh”.  Lát sau, anh có việc phải đi ra phía sau của vườn, mới hiểu ý Nhỏ, khi thấy khuất hẳn sau lưng quán là mấy lô nhỏ che lửng bằng lá dừa cho từng cặp đôi cà phê riêng với nhau. Và dĩ nhiên, lô nào có khách vào thì đâu chỉ cà phê, họ đang ôm diết lấy nhau. Khi quay lại bàn cà phê, tự nhiên anh đỏ mặt, tránh không nhìn thẳng vào mắt Nhỏ. Còn Nhỏ dường như đoán được vì sao, chỉ mủm mỉm cười miệng...
          Cả hai đều nhìn đồng hồ tay, vì cạn giờ, mỗi bên phải đi lo việc của mình. Anh ngỏ ý với Nhỏ được chụp ảnh cô. Nhỏ gập đầu, và thế là anh lựa khuôn hình chụp được mấy kiểu. Mạnh dạn dấn tới, anh lại ngỏ ý chụp chung với Nhỏ. Không biết nhở ai, đành nhờ chị chủ quán bấm giùm. Chị ta dường như quá quen việc này, lại còn đạo diễn hình rồi bấm nhoay nhoáy liền mấy kiểu...
          Tiễn anh ra ngõ. Xe đón anh cũng vừa tới nơi. Chào nhau, một cái bắt tay vừa đủ độ ấm áp, thân thiện và nghe chừng có chút gì đó lưu luyến...
         Sau lần gặp đó, anh và Nhỏ có sự thân tình hơn trước. Dù cuộc gặp gỡ chỉ hơn giờ đồng hồ, cũng làm cho cả hai hiểu nhau hơn. Thường là, sự quen biết khi chưa gắp mặt nhau và sau khi gặp gỡ, đối diện rồi, chỉ có thể dẫn đến hai tình trạng, ấy là, hoặc như hai ion cùng dấu đảy nhau ra xa, hoặc nữa, như đôi ion khác dấu hút vào nhau...
          Chỉ biết là, những ngày sau đó, anh và Nhỏ, vẫn là xem trang cá nhân, ghi cảm nhận về bài biết của nhau nhưng có gì đó mà mỗi người đều đọc được ẩn ý trong từng con chữ bình thường. Rồi nữa, những email và các cuộc đàm thoại vào những giỡ nghỉ ban trưa, mau hơn, dài hơn trước đây ... Và rồi, cái gì phải đến cũng đã đến... Cuộc sống của Nhỏ cứ dần hiện hữu qua từng con chữ, từng câu đàm thoại... Trạng thái tình cảm của hai người với nhau như trờ chơi trốn tìm, rình rập, hồi hộp, phập phồng sau mỗi email hay mỗi lần đàm thoại... Cuộc sống và công việc của anh, thì chẳng cần khai, Nhỏ cũng biết cả, đơn giản, chỉ qua các bài viết và hình ảnh mà anh trưng trên blog của anh, cùng nhưng lời của bạn bè anh. Nhỏ không những biết, thậm chí tường tận. Với Nhỏ, anh cũng không muốn giấu gì cô, bởi là thừa, và như vậy, anh dễ dàng lựa chọn cách ứng xử sao cho phải đạo... Nhỏ thì khác, cô là cả một kho tàng bí ẩn với tất cả bạn bè nơi không gian ảo... Chẳng ai biết Nhỏ là ai, mọi thứ về cô chỉ là dò đoán. Riêng anh, nhờ có cuộc gặp gỡ ấy, dù là ngắn ngủi, song đủ để anh mở chốt hé mở cánh cửa cuộc sống thực tại và quá khứ của cô... 

@@@
Anh,
12:30 rồi đấy!
Hôm nay anh có gọi điện cho em không? Em vẫn mong chờ giọng nói quen thuộc của anh, nhưng hình như em bối rối, em không biết sẽ nói với anh điều gì, nói tiếp những gì, hay chỉ thụ động trả lời những câu hỏi của anh rồi im lặng, ngơ ngác ...? Em không biết phải làm gì cho đúng nữa, nếu muốn bảo em an nhiên, hãy xem anh như một người bạn lớn thì tại sao anh còn viết tiếp bài thơ về biển? Hay em ngộ nhận, tình cảm ấy không phải dành cho em? hay thơ chỉ là thơ thôi, như anh vẫn giải thích với em - anh là người cầm bút, và anh sáng tạo.
Em muốn viết cho anh nhiều lắm, em muốn kể cho anh nghe một câu chuyện buồn nằm sau chiếc phong bì nhưng rồi em lại ngần ngừ - có nên không? Em cảm giác sau mỗi lần nghe em kể, anh lại muốn quay đi như thể để em được yên. Anh sợ khuấy động cuộc sống của em, hay anh sợ nếu anh đến với em, anh sẽ làm em buồn đau thêm ...?
Bây giờ là 12:46. Có lẽ anh không gọi điện nữa rồi ... Anh là một "Tiên sinh", như cái tên người ta hay gọi anh, song thôi vậy, em sẽ để anh tự quyết định. Em không muốn bày tỏ thêm vì em biết anh hiểu ...
 
...Anh,
Đã lâu lắm em mới được nghe lại tiếng cười của anh - tiếng cười vừa độ lượng khoan hòa, vừa tràn đầy tình cảm.
Anh có biết lần đầu tiên gặp em, anh cũng cười y như thế sau khi bảo em "viết cảm nhận ngắn thôi, cái gì bí ẩn thì gợi". Em đã nhớ hoài cách cười ấy - em nói cách cười chứ không chỉ tiếng cười đâu nhé! Cái cách anh bật cười làm em ngay tức khắc thấy mình bé nhỏ, thấy mình bị bối rối, thấy mình khờ khạo và muốn được chở che ...
Hôm nay em vui sau khi nói chuyện với anh. Em luôn mong có những dịp được nói như thế đó, rất cởi mở và tự nhiên, thoải mái ... Em cũng không biết nữa, khi anh nói chuyện, anh hoàn toàn nghiêm túc, anh không có một câu tình cảm nào chen vào mà em cứ cảm thấy như sau những giây phút nói rất nhiều, rất nhiệt tình - cái kiểu chợt dừng lại và bật cười của anh giống như muốn nói "Ngốc à, giờ thì em hiểu chưa?" và nếu đang ở cạnh anh, em có cảm giác anh sẽ vòng tay ôm em thật chặt ... Em có tưởng tượng quá xa không nhỉ?
Lúc này em thấy gần anh hơn, và ấm áp
 
 ... Anh
Sao anh cứ vội vàng, cuống quýt khi nói chuyện với em vậy? Thật ra chỉ cần anh nói một câu thôi, em rất muốn nghe anh nói một câu thật dịu dàng "Anh Nhớ Em", chứ không cần anh nói nhiều mà vội đến thế. Khó nói quá ư, anh?
Vội nói, vội chào ...
Em nhớ anh nhiều lắm, anh có biết không? Em hay vào xem lại email, nhìn những dòng chữ ngắn ngủi của anh thấy sao mà ngắn như phút giây mình gặp nhau ấy. Tối qua, em xem lại mấy tấm hình chụp cùng anh lần nữa, lòng buồn quá, cứ hỏi mình: "Tại sao lại quan tâm tới người này chứ?", "Lẽ nào cứ âm thầm khóc rồi khi gặp anh lại bảo rằng em chỉ cần anh làm một người bạn lớn của em?"
Anh nhìn em đi, nhìn vào mắt em và nói với em "Anh không yêu em. Anh chỉ muốn làm người bạn lớn của em thôi". Nếu anh nói đúng như lòng anh, em sẽ biết mình phải làm gì ...
 
... Anh
Em bắt đầu những dòng chữ đầu tiên  - những dòng chữ em không thể nào mang vào email vì nó có quá nhiều thương nhớ!
Anh biết không, hôm qua em đã nhìn thấu tình cảm của anh dẫu chỉ qua một hơi thở ngập ngừng, khi em nhấc máy - anh gọi tên em - anh đã líu lưỡi, anh nói vấp ... Ôi anh! Vậy mà anh cứ nói như thể anh đang rất điềm nhiên - em cười mà nước mắt cứ tự do rơi , ướt nhoè trang sách ...
 
Anh,
        ... Hôm nay em sẽ kể anh nghe - tất cả - về em.
       ... Gia đình em giàu có, ba em làm chủ xưởng sản xuất, chế biến và khai thác gỗ ở một vùng Tây nguyên. Em sống như cô chủ nhỏ trong sự yêu thương của gia đình. Năm em 16 tuổi vừa đậu đại học thì ba em bị bạn bè lừa, toàn bộ tài sản tan nát, nhà cũng phải bán. Phẫn uất quá, ba thổ huyết, một tháng sau thì mất - để lại cho mẹ em một khoản nợ khủng khiếp. Mẹ bán hết những gì có thể, bán cả đất đai bà ngoại cho trả được một phần. Sau đó mấy mẹ con dọn về căn nhà cũ trước là nhà kho của ông bà nội xin ở tạm. Từ đó, em vừa đi học, vừa đi làm thêm, nhiều loại công việc như phụ rửa bát cho nhà hàng, dạy kèm, làm hoa giấy, đan thêu may móc, vẽ tranh, viết truyện, dịch thuật ... Ngày đó nghèo nhưng mà vui, thấy mình sống cũng được. Em có người yêu, anh ấy hơn em 7 tuổi, quen nhau từ khi em học lớp 10, anh ấy học năm cuối đại học ở cùng thành phố. Bọn em yêu và chờ nhau cho đến khi em chuẩn bị tốt nghiệp đại học, tình yêu rất trong sáng, giữ gìn. Trước khi nhà anh ấy đến xin chạm ngõ có mấy hôm, anh ấy theo đám bạn đi picnic về vườn mận không xa. Buổi chiều về, trời mưa, nghe nói cả đám bạn đang đắt xe lên đèo (đi xe đạp) thì có chiếc xe "đốt" chở rau chạy phía trước mất thắng. Cứ thế, xe lao vào anh ấy. Cả người anh ấy dập nát hết cả ...
        ... 20 tuổi, em tốt nghiệp đại học. Nhờ một người bạn ngày xưa mang ơn cưu mang của ba em, giờ thấy sau khi ba em mất gia đình khó khăn nên họ bỏ ít tiền xin cho em đi dạy ở một trường vùng sâu của tỉnh. Thế là em vào nghề đi dạy ngay năm đó.
          Cũng tưởng là may mắn vì mới ra trường đã xin được việc làm. Nhưng rồi đi dạy em mới biết, những dịp hội hè, ăn nhậu, tiếp đón thanh tra này nọ của mấy ông ở phòng, ở sở, giáo viên trẻ bọn em đều bị kêu đi "chơi". Nhưng thực ra em thấy họ coi các cô giáo trẻ như món đồ chơi, tha hồ sàm sỡ, ăn nói bậy bạ, ép uống rượu, không cho rời bàn tiệc sớm. Cô nào bỏ về sẽ bị gọi lên văn phòng hiệu trưởng, vừa đe dọa, vừa dỗ ngay. Em khá xinh so với các cô giáo khác về đợt đó, hát múa đều được, lại có tí hiểu biết nên là đối tượng bị "chiếu cố" đặc biệt. Không chấp nhận nỗi chuyện tồi tệ đó, em phản ứng, trốn không đi cùng. Sau vài lần dọa không được thì bị ghét. Nhiều giáo viên cũng ghét vì em dạy tốt, vì em xinh, vì được phụ huynh quý, hiệu trưởng ghét vì nói không nghe lời. Hiệu trưởng nói, không muốn đi chơi thì "của riêng" của hiệu trưởng, sau này còn thi công chức, lâu dài còn làm tập sự, vào biên chế ... Cuối cùng không ép được nên em bắt đầu bị cô lập. Hiệu trưởng chưa làm gì em nhưng bất kỳ ai chơi với em ông ta cũng gây khó khăn, kỷ luật ...
         Lúc đó, em hoang mang lắm, vì nếu bỏ việc thì ai nuôi em trai kế vừa vào đại học, mẹ lại đau ốm, em út thì nhỏ quá. Lúc đó, có một giáo viên khác đang là đảng viên trẻ - người đó đứng lên chống đối ông hiệu trưởng, bảo vệ em. Rồi người đó nói yêu em, muốn lo cho em và cùng em gánh vác gia đình, nuôi em trai em ăn học, người đó âm thầm trả viện phí cho mẹ em, đóng học phí cho em trai em, lên nhà em giúp đóng lại cái cửa, làm lại cái rào ... Xúc động, hàm ơn, lại thêm bị bức bách, em không yêu nhưng vẫn chấp nhận tình cảm của người ấy và một năm sau thì làm đám cưới, khi em vừa 24 tuổi đời...
          Trong khi đó, hiệu trưởng giận đùng đùng và bắt đầu gây chuyện. Ông ta tố cáo, vu khống chồng em, mượn tay công an xã bắt anh ấy vào đồn vì lúc họp chi bộ, chồng em lên tiếng tố cáo chuyện tham lam ... tóm lại, lúc đó lung tung hết cả. Nhưng mọi việc hơi êm cho đến hè - lúc đó em cưới được mấy tháng - bọn em về Bắc chơi. Ở trong này, ông ta thay đổi hoàn toàn hồ sơ tập sự của em, ép tổ trưởngchuyên môn ghi nhận xét khác. Khi bọn em đi Bắc về thì bố mẹ chồng đưa cho em một tờ giấy - tờ Quyết định buộc thôi việc vì không hoàn thành tập sự. Thêm vào đó, ông ta bảo một cô giáo khác lên tiếng vu cáo em có vấn đề đạo đức vì đã làm đám cưới mà có người đàn ông khác vào trường đòi tìm gặp, nhận trước đây em là vợ người đó ... Việc một người vào trường làm ầm lên là có thật, nhưng việc này là do ông hiệu trưởng bày trò, sắp đặt ra vậy, thêm vào đó, ông ta còn bóng gió nói đến chuyện hồi xưa chưa lấy chồng, em từng phải đi uống rượu với ông ấy ...
          Mới đầu chồng em còn không nghe, nhưng ngày nào đến trường cũng bị nghe đàm tiếu vậy, mà em thì bị thôi việc rồi, đâu có biết mà cải chính. Cuối cùng anh ấy ghen tuông, nghi ngờ, lại biết ngày xưa em từng có người yêu nên càng lúc càng xa em, thêm bố mẹ chồng bị khích bác về nói ra vô ... thế là anh ấy quay lại dò xét em, căn vặn em có thế không ... Bị dồn vào chân tường, em chẳng còn đường nào khác, nên quyết định không ở cùng anh ấy nữa.
          Thế là em dọn ra riêng và bắt đầu việc  kêu oan. Cứ từng cấp một ... em cay đắng đi kêu oan, dù bị chà đạp, bị thay đổi hồ sơ kêu oan, bị đe dọa này nọ... Cùng cực, vẫn kiên trì kêu oan, suốt 4 năm trời ròng rã, cho đến khi đoàn thanh tra chính phủ về tỉnh nhà giải quyết tình trạng khiếu tố tồn đọng, và may thay, em thắng kiện. Danh dự, việc làm được phục hồi, nhưng trong tim em, những gì tốt đẹp về nghề nghiệp chết cả rồi. Tình yêu dành cho chồng chưa kịp bén cũng chết theo. Ngày nhận lại hồ sơ, giấy tờ và quyết định đi làm lại, chồng em và gia đình chồng tìm đến em để xin lỗi và mong em quay về, nhưng hết rồi, em thấy trống rỗng. Đêm đó em mua thuốc, nhiều thuốc lắm. Em uống và nhẹ nhàng nằm xuống. Cũng không biết sao mẹ em nóng ruột, vùng trong đêm đón xe ôm một mình về tới chỗ em ở mới phát hiện em uống thuốc. Chả biết bằng cách nào mẹ em đưa em đến bệnh viện,. Em lại sống, nhưng sức khoẻ yếu lắm, hay bị ngất và chảy máu mũi, máu miệng thường xuyên. Đầu hay đau khi quá sức, nếu khóc nhiều mắt em sẽ mù tạm thời.
        Mấy ngày đó, chồng em van xin tha thứ đủ mọi cách, mẹ em lại nói vun vào - bà lại bảo em khi em ra ngoài, anh ấy vẫn chăm sóc em trai em, thỉnh thoảng vẫn gửi tiền cho nó ăn học chứ không đến nỗi bạc như em tưởng. Không hiểu sao, em lại xiêu lòng ... Em về lại và cuối năm đó em có cháu trai đầu lòng. Nhưng em sai lầm, không còn yêu mà ở cùng thì khổ lắm. Mỗi khi anh ấy gần gụi, em lại nghĩ đến đoạn em phải một mình chịu oan, em không còn chút xúc cảm nào hết. Anh ấy cũng bị ức chế, cuối cùng không cảm hoá nổi vợ, anh ấy cưỡng bức. Địa ngục mới hình thành. Em đau đớn về tinh thần, về thể xác nhưng bây giờ em có con, nhưng nó còn bé quá thì làm sao đây? ... Một cuộc sống đồng sàng dị mộng bắt đầu. Chồng em cũng tìm cách hành hạ em cho bỏ tức bực trong lòng, rồi anh ấy lại ghen, lại ghen ... mọi dịp lễ tết, sinh nhật em anh ấy đều biến thành địa ngục và kết thúc bao giờ cũng là...
         Em hận cuộc sống, em mất hết niềm tin, em chỉ còn sống vì con trai. Nghĩ là thôi thì vì con ... nhưng trời xui đất khiến thế nào em lại gặp một người đàn ông khác. Và em yêu người đó, người đó cũng yêu em - và hiểu - anh ấy dần dần xoá bỏ mặc cảm cho em, khuyên em viết lách trở lại, nghe nhạc, chơi đàn, học yêu bản thân mình, anh ấy hướng cho em học tiếng Hoa để còn học cao học ... Anh ấy không hề lợi dụng em - anh ấy cư xử với em như anh bây giờ vậy. Vì thế em yêu, nhưng em bị dằn vặt bởi mặc cảm mình là người vợ không ra gì, mình yêu người khác khi vẫn có chồng bên cạnh. Cuối cùng chuyện gì đến cũng đến, sau hôm quyết định đi chơi riêng cùng người đó - lần đầu tiên và duy nhất -  tối đó em nói hết với chồng em là em đã đi đâu, làm gì, em đã thực lòng yêu người khác, em không thể yêu anh ấy. Em không thể sống với mặc cảm lừa dối được. Em xin được ly dị và mang con trai đi. Mang cháu đi coi như tạ lỗi chứ không phải để tìm đến với người đàn ông em yêu. Chồng em như điên lên, anh ấy muốn giết em ... anh ấy lồng lên như con thú rồi hồng hộc bỏ đi đòi tìm "người kia". Nhưng em không ngờ, một tuần sau anh ấy về nhà, thay đổi hoàn toàn thái độ, anh ấy gọi em lại nói chuyện và đồng ý cho em mang con đi. Chỉ bắt em hứa không li dị và để anh ấy thỉnh thoảng đến thăm con, và phải giữ họ của anh ấy cho cháu bé. Toàn bộ tiền bạc có được anh ấy gửi cho cháu hết ... Thế là em đi khỏi vùng đất mà em gắn bó từ nhỏ và nhất mực yêu quý này, đền lại ân tình ấy, em không gặp người em yêu lần nào nữa. Em về Sài gòn, rồi về đây sinh sống và tìm việc làm đến tận giờ.
        ... Em yên ổn được vài năm, rồi chồng em bỏ việc trên ấy, về dưới này  xin việc, vừa làm vừa ôn cao học, thỉnh thoảng từ Sài gòn về thăm đây con ... Anh ấy thỉnh thoảng ở lại nhà chơi với cháu. Cháu vui và quấn bố nên em không thể chối từ. Rồi anh ấy ở nhiều hơn, em không muốn anh ấy chấm chẳng vậy để đòi về lại. Anh ấy làm sổ đăng ký tạm trú có tên cả 3 người, thế là nghiễm nhiên anh ấy có quyền về nhà vì em chưa li dị. Và rồi, anh ấy lại bắt đầu đời hỏi em việc làm vợ như xưa ... tất cả những chuyện này em làm sao nói với anh cơ chứ”...
         ... Hôm vừa rồi, sau buổi triển lãm em về nhà, người em đau ốm kiệt sức nhưng anh ấy đến, tối đó anh ấy ép em xuống bàn uống nước, tay phải em chụp được cái ly, nhưng anh ấy dằn lại nên tay phải em đập hoàn toàn vào ly, vỡ tan tành, mảng thuỷ tinh găm nát bàn tay phải của em, máu chảy thành vũng trên sàn nhà. Còn anh ấy đứng xỉ vả, nói anh ấy ghét cái kiểu kiêu hãnh của em, ghét cách em làm ra tiền không cần anh ấy, ghét cả cái cách em "ỷ có chút nhan sắc" nên không coi ai ra gì ... Cuối cùng anh ấy nói anh ấy sẽ chính thức ly dị, nhưng anh ấy sẽ hủy hoại em, anh ấy sẽ dành quyền nuôi con vì nhà anh ấy giàu, nếu pháp luật không cho thì anh ấy cũng bắt con trai đem theo, là để "cho nhà cô thích sống thế nào thì sống"
         ... Đấy, một tuần nay, em khóc nhiều, khủng hoảng đến mức ý định chết cứ luẩn quẩn trong đầu, nhưng nhìn thấy con trai em lại không thể chết được. Hôm rồi, em cầm điện thoại lên tính gọi cho anh cả chục lần rồi lại thôi vì anh đang làm nhiều chuyện quan trọng quá. Gọi anh thì em làm khổ anh chứ ích gì ... Cả tuần qua, em đến trường đón con mà không biết nên đưa con về nhà hay mang con đi trốn. Em sợ mất con hơn hết thảy ... Rồi em đi đến các phòng luật sư xin tư vấn, đi hết cả vùng này để nghe họ nói gì ... Tất cả đều có chung lời khuyên nếu em muốn giữ lại con thì phải nhẫn nhục, phải chịu đựng chồng cho đến khi sự căm giận trong lòng anh ấy qua đi, ý định mang con đi thôi không còn nữa. Phải dựa vào thời gian vì bây giờ dù em thích hay không anh ấy vẫn tự ly dị em được, ra toà sẽ làm em suy sụp, đau đớn vì sẽ phải nghe nhưng lời đôi co này nọ, con em phải tổn thương vì cháu phải bị chứng kiến bố mẹ ra toà, bị lựa chọn ở với ai, chưa kể đến tình trạng nguy hiểm khác có thể bất cứ lúc nào ... Em làm sao đây, sẽ sống thế nào đây? Em chưa biết, nhưng em sẽ vì con. anh à.
         ... Vậy đó. Anh đã biết hết về em. Đừng viết, đừng gọi hay gửi gì cho em vì em sẽ gặp nguy hiểm. Thôi hãy coi như em không có thực, chỉ là một người chơi blog như bao người khác thôi. Em không thể an nhiên như tiêu chí em mơng muốn nữa rồi ...
        ... Lúc này em thèm được nghe tiếng anh hỏi thăm, nhưng mà ... Em viết email này ở trường, từ ngày mai nghỉ hè em không lên trường nữa, cũng không có điều kiện viết email cho anh đâu. Em cũng không được phép vào Blog nhiều nữa, nhưng  em sẽ cố gắng gửi cái gì đó để anh biết em khỏe. Thế thôi anh nhé. Em yêu anh.
 
         Anh
         Lâu nay anh có khoẻ không?
Em đang ở nhà, bật máy lạnh 16 độ, trùm chăn bông đọc cuốn sách anh tặng hôm chúng mình gặp gỡ ... Cùng tính viết Email cho anh mấy lần nhưng ... khó viết quá. Lại bỏ lơ ...
Chuyện của em chưa biết thế nào. Như đang ở vùng nước lặng.
... Hôm viết thư cho anh xong, em thấy tuyệt vọng quá. Hôm đó, thật ra trong túi sách em đã chuẩn bị đầy đủ cho một chuyến đi xa. Cả tuần, em đã âm thầm chuyển hết tiền tiết kiệm vào tài khoản cho con trai và làm ủy nhiệm cho cháu. Em cũng đã gặp các phòng tư vấn Luật để biết chắc mình sẽ có ưu thế gì ra tòa ly hôn, phải làm gì khi muốn giữ cháu ... Em cũng đã nói chuyện riêng với ban giám hiệu nơi em đang làm việc, đủ để họ hiểu và cảm thông, giúp đỡ nếu thấy em đột ngột vắng mặt. Em cũng thử  xin việc ở một nơi thật xa và đã được nhận việc ... Tóm lại, trong một tuần, em đã làm tất cả để quyết giành cho được con mình. Việc cuối cùng em làm là viết thư cho anh. Định rằng nếu tình hình xấu ngoài tầm kiểm soát, thì thôi coi như đó là thư cuối cùng ...
Sau khi gửi email cho anh, em lên một ngôi chùa quen, ngồi một lúc - em hay lên đó khi phiền muộn - ngồi suy nghĩ mọi thứ. Suy nghĩ đến ván cờ cá ngựa em đã viết ấy, liệu lần này mình có biết chơi cờ không? Mình đi nước cờ tiến hay lùi ...
         ... Anh,
         Thật ra, em nghĩ phụ nữ dù có làm đến bà tướng mà không giữ được gia đình hạnh phúc thì đừng tự nhận, tự nghĩ mình thành đạt, thành công, thành danh ... Bởi suy cho cùng, với phụ nữ - gia đình là trên hết. Mình có cách sống hiện đại, mình hòa nhập với xã hội, mình mong được đóng góp sức mình là chính đáng, nhưng dù gì phụ nữ cũng là "người giữ lửa" trong gia đình. Nhìn lại mình, rõ ràng là em Thất Bại. Vì sao, thì có nhiều lý do, nhưng thành thật, em chưa biết cách sống dung hòa vì em "chấp nhận" chứ không chịu "tha thứ". Em chỉ "hiểu" mà không "thấu", "mở lòng" mà không biết "bao dung"...
         ... Anh, em nghĩ nếu ai cũng sợ mất, ai cũng cố tranh giành phần hơn, quyết ăn thua, quyết đạp đổ thì hậu quả ấy không phải em mà con em mới là người phải gánh nhiều nhất. Anh ấy đã không chịu thua, em cũng cố co kéo thì làm sao đây? Nếu em thắng cuộc, liệu em có ở một bên mà giữ con cả đời?... Nếu em thua, em có sống nổi không? nếu em oán giận - và tìm cái chết như cách để trừng phạt anh ấy ?thì con em sẽ bị ám ảnh cả đời ... Em có nên buông tay không? Em có chịu làm người xuống nước trước không? em có chịu làm người đi bước cờ lùi không? Em muốn vì em nghĩ đến con, nhưng nghĩ thì được mà làm thì khó lắm... Cá tính bướng bỉnh, ngang ngạnh của em, sự bảo thủ, ngoan cố của em và hơn hết, suy nghĩ "mình không sai, tại sao phải ... " làm em muốn điên lên...
         ... Em đã có lần đưa con em đi ăn chè ở mọt quán mà nó thics, lựa lời hỏi nó, nếu bố phải đi làm xa con ở với ai,?... Cháu hồn nhiên bảo thích ở với mẹ vì mẹ nấu cơm ngon lắm, mẹ lại cho xem ti vi thoải mái khi mẹ dịch sách, mẹ lại cho ăn chè và dạy tiếng Anh, ở với bố không thích vì bố toàn bắt học bài, bố hay kiểm tra vở, hay mắng, ở với bố toàn phải ăn cơm quán nhưng bây giờ thì ăn xong rồi về nhà đá bóng với bố vì hai bố con hẹn nhau rồi ... Em bật khóc. Em hiểu, mình phải vì cuộc sống của cháu thôi, phải dẹp bỏ cái tôi của mình.... Em đã xin nghỉ không lương một thời gian, ở nhà chăm sóc, chơi và dạy học cho con. Em hỏi han, nói chuyện với chồng, em bàn chuyện làm sinh nhật cho con. Em đi dự lễ tổng kết năm học với cả hai bố con. Em nấu ăn, chăm sóc nhà cửa, dọn dẹp, và tuyệt đối không mang công việc riêng ra làm khi có mặt anh ấy, em ít lên mạng - hạn chế vào Blog, rảnh thì viết và thăm hỏi vài người bạn thân thiết hay quan tâm đến em như anh thôi ... Em làm tất cả những gì có thể để cho con có những ngày vui thật vui. Em không nói gì với chồng về chuyện ly hôn nữa. Em để anh ấy tự quyết định. Em không hơn thua, không tranh cãi, không đổ lỗi nhưng thể hiện sự dứt khoát trong cuộc sống riêng tư để anh ấyhiểu hàn gắn vợ chồng sau bao nhiêu tổn thương là không thể vì em không sống dối lòng được, nhưng hãy biết trân trọng nhau, biết tin nhau và phải hiểu dù con có ở với ai thì người còn lại cũng không phải là người "bị mất của", để con luôn có cả bố lẫn mẹ dù cháu sẽ thường xuyên chỉ ở với một người. Anh, em đang cố hết sức để có được kết quả như em mong đợi. Em không biết sắp tới mọi thứ đi đến đâu nhưng em hy vọng anh ấy thấy được sự chân thành của em.
          Có những lúc ngồi một mình, em nhớ anh khủng khiếp. Em muốn gọi điện thoại cho anh lắm nhưng rồi lại thôi vì em hiểu những gì anh viết. Em cũng viết bài nhiều, nhưng bài viết buồn, u uất quá nên em lại bỏ hết vì nghĩ nếu anh đọc những bài viết ấy, anh còn buồn hơn. Anh mong em vui vẻ, bình yên chứ mong gì thấy em dằn vặt thế này ... Bây giờ khó mà nói là em bình thường, em vui nhưng đúng là em cảm thấy đỡ bi quan, tâm lý cũng ổn hơn rồi anh ạ. Anh có thể viết email cho em bất cứ lúc nào anh thấy muốn viết hay thấy cần chia sẻ ... Hy vọng tất cả rồi sẽ tốt đẹp hơn!
 
         Anh
          Em không bao giờ cho phép mình chạy vòng quanh mình như con mèo đuổi theo cái đuôi của nó. Chỉ cần em biết người khác không thích mình, em tự rút lui ngay lập tức. Nhược điểm lớn nhất của em đấy - Tự trọng và tự ti luôn song hành nên thành tự tôn, tự ngạo... có người từng chân thành khuyên em sống mềm đi, đừng rạch ròi trắng đen nhiều quá, cứ nhắm mắt vào khi mỏi mệt, cứ coi như không nghe, không biết để giữ lại cho mình sự tự tại, cứ tin bình yên dù biết chưa bình yên, biết trong bình yên còn nhiều giả tạo, thì giữ được cũng hơn là mất hết ... nhưng em toàn để mình mất hết ... lần nào cũng vậy, chẳng rút được bài học nào ...
 
@@@
 
          Quá khứ của Nhỏ đã hiện ra trước mắt anh rõ ràng, mạch lạc, dù cô chỉ vắt tắt, Hình như, các điểm nhấn, những khúc quanh trong cuộc đời mình, Nhỏ đã cho anh biết cả. Điều ấy, chứng tỏ cô tin anh tuyệt đối, bởi lúc ấy, ngoài cậu con trai dứt ruột sinh ra của mình, anh là người cô coi là điểm tựa để mình không sụp đổ, để còn có cái cớ tồn tại trong cuộc đời này.,, Cũng nhờ Nhỏ nói ra, anh mới biết và nhớ lại câu chuyện của một cô giáo ở tỉnh nọ, sau mấy năm kiên trì khiếu nại nỗi oan sai của mình, cuối cùng đã thắng kiện cả một cơ quan quản lý nhà nước mà một dạo báo chí viết nhiều. Ngày ấy, anh đã theo dõi tin tức này, và kết quả của việc minh oan cho cô từng được công luận xem là điển hình cho việc giải quyết đơn thư khiếu tố và nỗi hàm oan kéo dài. Và anh đã khớp được tên thật của Nhỏ với tên nhân vật chính trong vụ hàm oan đó. 
        Sau đận ấy, bằng đi đến vài năm, anh và Nhỏ tuyệt nhiên không có một liên hệ nào thêm. Trang cá nhân của Nhỏ không đóng, nhưng không có thêm một bài viết nào nữa. và Nhỏ cũng không ghi cảm nhận ở bất kỳ blog bạn bè nào khác. Không email, không điện thoại. Anh thì công việc ngập đầu, đây đó suốt, song vẫn cố gắng viết bài mới, đặng duy trì hoạt động của blog cá nhân, nhưng thiếu vắng dấu hiệu của Nhỏ, blog như vắng đi một nửa. Anh vẫn nhớ đến Nhỏ, nhưng thực lòng, anh muôn cô hàn gắn rạn nứt gia đình, lành vết thương lòng, yên vui cùng chồng con. Anh dặn lòng vậy và đã giữ được như thế, song điều đó, không có nghĩa là anh thôi tìm dấu vết thông tin về Nhỏ. Rồi một ngày, rỗi rãi, anh lang tháng trên mạng, tình cở bắt gặp một trang blog mang chủ đề gia đình. Anh xem thêm, cách cấu trúc, trang trí blog và hành văn, theo suy đoán, đùng là Nhỏ. Đọc kỹ các bài viết của trang này, anh tin chắc là của Nhỏ, còn dấu hiệu cho thấy, cô đã suy nghĩ khá nhiều về hạnh phúc gia đình. Vậy là, với Nhỏ, chiều hướng đã yên hàn? Anh mừng cho Nhỏ, những cũng ít nhiều chạnh lòng. Rất có thể, hình bóng của anh đã phai mờ trong trái tim cô, vì thế, vài năm qua cô như người biệt tăm. Thế cũng là tốt, anh có thể không phải bận lòng về cô nữa...
          Rồi một ngày, trang blog của anh bỗng có hai blogger mới đến ghi cảm nhận. Đến trước là blogger lấy tên trang của mình bằng tiếng Anh, nữ tính và lời ghi cẩn trọng, lạnh lùng. Sau chút là blogger có trang cá nhân tên dài dòng hoa mỹ, xác định giới tình nam, lời ghi lộ rõ sự giả làm thân và thiếu thật lòng... Học được cái ứng ứng xử trên mạng sau vài ba sự cố ngày đầu, với bất kỳ blogger mới nào, anh cũng đón nhận trân trọng, nhưng có ý nghe ngóng xem sao... Lâu lâu giở lại blog chủ đề gia đình nọ, anh không tìm thấy nữa. Việc blog này biến mất, xuất hiện blog mới ghé trang của anh ghi cảm nhận, khiến anh nghi ngờ, sâu chuỗi, so sánh, và nhanh chóng nhận định, cùng một chủ nhân, và điều ấy, có nghĩa là Nhỏ đóng của blog kia, mở ra blog này... Và rồi, sau một thời gian ngắn, anh phát hiện ra, blogger nam tính mới ghé thăm xã giao vài ba lần rồi nhãng đi, chỉ xuất hiện ở trang của anh, khi blogger tiếng Anh đến ghi cảm nhận, và lời lẽ của chàng này lạnh tanh với anh, cạnh khóe với blogger tiếng Anh... Vì xác nhận blogger Tiếng Anh là Nhỏ, nên cảm nhận và suy đoán, rất có thể, blogger nam tính kia là chống của Nhỏ?... Vậy là, lại có chuyện không yên rồi...
          Quả nhiên, bỗng một lần, đang trong chuyến công tác phương Nam, buổi tối, anh đang quán xá bia bột với anh em đồng nghiệp thì điện thoại reo. Anh nghe máy,  vừa alo thì một giọng nam cưng cứng, Bắc đá Nam, mắng liền: “Ông bỏ ngay cái kiểu làm thơ tán gái đi nhé. Tôi biết ông là ai rồi đấy...”, rằng thế nọ thế kia một hồi, khiến anh ngạc nhiên, ớ người vì bất ngờ, chẳng biết nói sao. Khi anh ý thức được hỏi anh ta là ai, thì người này tắt máy luôn... Anh quay lại bàn nhậu với bạn bè, mà đầu óc cứ ong ong với những lời mắng vốn của người lạ vừa nãy... Ngẫm nghĩ, mình đăng thơ mình trên trang cá nhân của mình thì chết ai đâu nhỉ? Nhưng rồi, anh nhanh chóng nhận định, có lẽ do hiểu lầm nào đó mà dẫn đến sự nghen tuông chăng?
          Những tưởng vậy rồi thôi. Chỉ ít lâu sau, một buổi chiểu anh đang chơi thể thao bạn bè thì anh có điện thoại. Nhận ra số máy của người này, anh ra ngoài bấm máy và chủ động át anh ta, rằng nếu anh ta còn quấy rồi, sẽ báo lực lượng chức năng xử lý anh ta. Có lẽ anh ta bất ngờ, nên đe dọa vài câu rồi vội tắt máy ngay. Anh lưu số máy này với câu hỏi Ai, nhưng rồi sau đó không còn cuộc gọi nào nữa... Tuy nhiên, không còn cuộc quấy rồi bằng điện thoại, anh lại bị người đàn ông lạ kia quấy rối trên mạng. Người này, đã mấy lần cóp thơ từ trang của anh, mang dán vào phần cảm nhận trên trang của blogger tiếng Anh. Không những thế, người này còn theo dõi phần cảm nhận của anh trên trang của một số người khác, kích động họ này nọ với ý định để họ gây chiến với anh. May mà, phần đông những người ấy đều quen biết và hiểu anh, từng giao du với anh trong đời thật, nên chẳng một ai mắc mưu người đó. Chán rồi thôi. Người đó bỏ bê blog của mình, nhưng dường như không muốn phiền phức, blog tiếng Anh cũng đóng cửa, mất tăm trên không gian mạng... Thực lòng, anh khá bực bội bởi sự quấy rồi này, tuy nhiên, anh nghĩ người này là chông Nhỏ, và anh ta biết vợ mình có tình cảm với anh và anh cũng trân trọng tình cảm đó, nên cho rằng sự rạn nứt của gia đình mình có phần nguyên nhân từ đấy. Còn anh, trân quý tình cảm của Nhỏ, nhưng không thể làm gì khác để đáp lại, nên vẫn mong cô trở lại với gia đình cô. Nhẫn nhịn anh ta, cũng là cách không gây thêm rắc rối, để họ về với nhau. Và mọi sự cũng  qua đi,...
          Dễ chừng nửa năm sau, một lần anh check mail, anh thấy thư của Nhỏ. Anh mừng lắm, vội xem. Nhỏ kể vắt tắt chuyện của chuyện của mình mấy năm qua. Thì ra, Nhỏ đã hoàn tất thủ tục ly hôn rồi, và điều cô mong muốn là quyền nuôi con cũng được toại nguyện. Anh không ngờ là Nhỏ quyết tâm thoát ra khỏi cuộc hôn nhân đến vậy, khi mà anh vẫn tưởng là họ về lại với nhau. Tin ấy làm anh buồn vui lẫn lộn. Đàn bà tuổi này, lập lại gia đình không dễ, mà sống nuôi con một mình cũng cực lắm thay... Vậy là, anh và Nhỏ lại thỉnh thoảng gửi email cho nhau, khi cần thì điện thoại, cả hai đều giữ sự tôn trọng, chuẩn mực. Song, anh nhận thấy, có một Nhỏ khác hẳn cô Nhỏ của mấy năm về trước với nhiều đam mê nhiệt huyết trong sách bút, ẩm thực và tình cảm, thay vào đó là sự diềm tĩnh, cẩn trọng và mạnh mẽ nhưng ẩn chứa sự mệt mỏi, gắng gượng để khỏi sụp đổ... Anh hiểu tình trạng áy, và nếu như đặt mình vào hoàn cảnh của Nhỏ, chắc gì anh được vậy, có thể sẽ suy sụp hơn nhiều...
          Và rồi, không lâu, Nhỏ đã vượt lên hoàn cảnh. Cô vốn đã quen với sự tự lập nên biết cách lấy lại cân bằng cuộc sống của mình. Nhỏ vấn sống chính bằng nghề giảng dạy của mình, cô vẫn viết đều, cộng tác với nhiều trang điện tử về ẩm thực và sách vở, không hẳn vì đam mê như trước đây, viết để chơi, để thỏa mãn mình và giao lưu với bạn bè, mà coi đó như một việc làm nghiêm túc, để có thêm thu nhập, đặng trang trải cuộc sống nuôi con một mình,...
          Cò lần, vui chuyện, anh hỏi Nhỏ, rằng cô có biết việc, một người nào đó mà anh cho là chồng cô, đã quấy rối anh không? Nhỏ rất ngạc nhiên và hoàn toàn không biết. Nhưng rồi, Nhỏ nhanh chóng, tìm ra được người ấy. Đó là một người quen cũ của Nhỏ, và anh này cũng bị đổ vỡ gia đình, khi biết hoàn cảnh của cô, đã tiếp cận Nhỏ với ý định thành thân sau khi cô ly hôn. Nhỏ cũng nhận rằng, cô cũng đã trân trọng tình cảm và thành ý của người đó, nhìn nhận một cách nghiêm túc việc tái hôn giữa hai người. Nhỏ bảo rằng, việc cô cắt đút mọi liên lạc với anh mấy năm qua, có nguyên nhân ở việc cô gắng thử hàn gắn rạn nứt gia đình, và còn vì cô xem xét việc tái hôn cùng người đàn ông nọ, nên không muốn để bất cứ mối quan hệ tình cảm, xã hội nào xen vào. Nhưng rồi, Nhỏ đã không thể chấp nhận được người đàn ông này để gắn bó lâu dài của phần đời còn lại...
          Thực tình, anh chẳng biết khuyên giải hay giãi bày gì cả, chỉ lặng lẽ chia sẻ cùng cô. Nhỏ có cuộc sống của cô, với mơ ước đến một ngày nào đó, có căn nhà riêng của mình, cùng những thứ vui nho nhỏ, sách bút, ẩm thực, hoa lá, và những người bạn chân thành để chia sẻ buồn vui...
         Anh thì cũng bận rộn với công việc yêu thích của mình, và hơn hết, ấy là trách nhiệm với gia định.
          Đã có lần, anh ngỏ ý tìm gặp lại Nhỏ, song cô từ chối, và hẹn khi nào thích hợp. Nhỏ bảo, cô tin là có duyên thì gặp lại. Thôi đành, vạn sự tùy duyên, như người đời vẫn nói.
         Anh không dám hỏi và Nhỏ cũng chẳng nói ra, nên anh không biết đời sống riêng tư của cô đã có gì chuyển biến chưa? Riêng mình, anh hiểu, Nhỏ vẫn hiển hiện trong ý nghĩ của anh hàng ngày, và hình bóng cô, lúc đậm lúc mờ, nhưng luôn phảng phất đâu đó trong các sáng tác của anh. Anh nhớ cô nhiều lắm. Và giờ đây, anh hối tiếc, ngày ấy, ngoài những lời an ủi, động viên, vun vào để cô quay đầu, hàn gắn hạnh phúc gia đình, thì anh chẳng làm được điều gí khác cả. Anh chỉ lo làm tròn vai trò “người anh lớn” của Nhỏ, và đã e ngại tình cảm mãnh liệt của cô dành cho anh...
         Giờ thì anh biết, trong lòng anh có hình bóng của Nhỏ, và kể từ ngày đầu làm quen với nhau, cô đã luôn có chỗ trong ý nghĩ của anh rồi.
          Và anh, anh có còn chỗ trong trái tim cô ?... ./.
 
 
  R
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.07.2022 23:15:06 bởi Ct.Ly >

tamvanvov
  • Số bài : 788
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 26.08.2009
Re:VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( II ) - 24.07.2022 18:27:20
Ngày giỗ trận
Truyện ngắn

           Ngày giỗ trận của làng. Nhiều năm nay, cứ vào ngày này, ông Quận bao giờ cũng có cảm giác bồn chồn, không yên. Đã có lần, ông cố thử trốn bỏ khỏi cảm giác ấy nhưng càng trốn lại càng bồn chồn hơn. Thôi đành đeo đẳng với nó. Mà nghĩ cho cùng, ông không có lỗi gì với cái chết của mấy chục đồng đội, người thân trong làng từ hơn nửa thế kỷ trước, thì nay không việc gì phải lo sợ, chối bỏ cả. Cứ để lòng trang trải với nỗi đau đời. Trong mấy chục du kích xã hi sinh ngày ấy, có Chấn là em ruột ông. Trước đây năm nào cũng vậy, vào ngày giỗ trận, xã cho mổ lợn cấp cho các gia đình có người hi sinh làm giỗ. Thời kỳ còn khó khăn, chí ít mỗi nhà cũng được nửa cân. Nay thời kinh tế thị trường, chợ làng bé tí mà cũng có vài ba phản thịt lợn bán, song xã vẫn giữ lệ dùng quỹ mua lợn mổ cấp không cho các nhà làm giỗ. Năm tháng đã khỏa lấp dần nỗi đau thương, nên giờ đây, vào ngày này không khí làng xóm tấp nập như có hội, mặc nhiên với lớp người cao tuổi từng trải qua thời ấy như ông Quận thì ký ức dường như vẫn nguyên nỗi uất hẹn kinh hoàng… Ngày giỗ em trai, ông Quận bao giờ cũng làm to, trước hết bởi nhà đông con nhiều cháu, vả lại, lúc hi sinh, em trai ông còn măng tơ chưa vợ con gì, nên khi giỗ, ông Quận muốn con cháu sum vầy đông đủ như để nhắc nhở mọi người trong nhà nhớ lấy người đã khuất, và biết đâu đấy, em trai ông có về chứng giám thì cũng được an ủi phần nào! Sáng sớm, ông Quận lọ mọ đun nước mưa trong chiếc ấm đất, pha trà xong mới đánh thức Phấn, người con trai trưởng dậy cùng uống. Khi hai cha con đối ẩm, ông thủng thẳng: - Anh đã muốn nghỉ chưa? - Có lẽ thầy không biết… ý trên vẫn muốn con làm thêm khóa nữa, vì quen việc mà… Nhưng thôi… có lẽ cũng nên biết điều, con nghĩ là vậy. Thế là hợp quy luật… Mới lại cũng sáu chục rồi, con thấy mệt mỏi… Gía như ngày xưa đã khao lão cả làng - Phấn cười nhẹ. - Anh nghĩ thế cũng phải. Có dễ đến ba chục năm nay, kể từ khi anh thay thầy làm phó chủ tịch kiêm trưởng công an xã rồi đấy nhỉ? - Khẽ vuốt chòm râu bạc trắng, ông thở dài - Dưng mà… Thấy không đủ năng lực thì nghỉ, chứ tôi không đồng ý với việc anh muốn an nhàn cái thân mà thoái lui đâu. Đến như tôi đây, ngoài tám mươi, lại là thương binh mà tôi còn không thấy mệt nữa mà… - Thầy ơi! - Phấn kêu lên - Thời thầy khác, khi ấy cả nước một lòng… Bây giờ kinh tế thị trường, trăm thứ bà rằn, ngoài sức tưởng tượng… Vậy mà con vẫn cho là không khó. Con lo là lo đến thời thằng Cẩn nhà mình, nó làm cảnh sát phòng chống ma túy… Ngộ nhỡ ra… sểnh một cái là mất người như chơi đấy thầy ạ! - Ờ, anh lo là đúng… Liệu hôm nay nó có nhớ mà về không nhỉ?... Chết thật, tôi lẫn cẫn rồi, cảnh sát chính quy như nó đâu phải giống tôi và anh, sớm tối lên Ủy ban giải quyết ù một cái cho xong rồi về việc nhà. - Nó về đấy. Chiều qua, nó điện về Ủy ban cho con nói là sẽ về, cùng với hai đứa bạn trong đội nữa… Thôi con lên Ủy ban bận chút việc, cỗ bàn con dặn nhà con cả rồi. Gần trưa con về. Phấn nổ máy chiếc Cub 70 phóng ra cổng, ông Quận nhìn làn khói xe lan nhẹ trong sân, lẩm bẩm: “Thật khác cái thời mình…”. Thủng thẳng mồi thuốc lào vào chiếc điếu bát, rít một hơi dở chừng, phả khói mù mịt, ông Quận tựa lưng vào tràng kỷ khoan khoái, mơ màng… Khi ấy, ông mới gần hai mươi tuổi. Cả hai anh em, Quận và Chấn đều tham gia du kích. Vì nhanh nhẹn, tháo vát nên Quận được xếp vào tổ trinh sát. Chấn ở tổ chiến đấu. Thu đông năm đó, chỉ thị ở trên về nhận định tình hình địch sẽ đánh to, lấn ra ngoài vùng Tề, nên các địa bàn nằm dọc trục đường số 5 phải hết sức cảnh giác. Quận được giao nhiệm vụ lẫn cùng những người đi chợ phiên lên thị trấn, nhận tin từ một cơ sở của ta được cài vào bộ phận thư ký đánh máy hành chính quận. Cơ sở báo thấy địch rục rịch chuẩn bị vũ khí, chắc sẽ có càn nhưng chúng bí mật nên chưa rõ địa bàn nào. Đến phiên chợ sau, mờ sớm, khi mới đến bờ sông khúc giáp đường cái quan, qua làn sương mù dày đặc, Quận linh cảm thấy có gì đó không bình thường như mọi ngày. Quả nhiên, đi dấn thêm chút nữa, Quận phát hiện thấy xe thiết giáp địch hộ tống bộ binh tiến vào, bèn lộn thật nhanh về làng. Cuộc chiến đấu không cân sức diễn ra giữa một bên được trang bị thiết giáp, bộ binh vũ khí đến tận răng với một bên là những người nông dân chất phác vũ khí thô sơ. Gần trưa, thấy không thể cầm cự được nữa, đội du kích mở một đường máu cho bà con dân làng thoát an toàn ra vùng đồng nước lầy thụt. Số còn lại ẩn vào hệ thống hầm bí mật, bỏ trận địa cho địch chiếm. Quận bị thương vào chân, được hai đồng đội băng bó, dìu vào một hầm. Chấn cùng hơn chục người khác, trong đó có đồng chí chỉ huy du kích ẩn trong chiếc hầm chính. Đấy là một chiếc hầm liên hoàn, chạy ngầm suốt chân lũy tre dọc bờ ao, có hệ thống thông hơi giấu kín dưới những bụi cây dại bên mép nước, và cửa hậu thoát hẳn ra bìa làng phía sau, đặc biệt, cửa hầm hiểm đến mức phải leo lên một cây tre đực lần vào giữa bụi, tụt xuống mới tới cửa hầm. Với chiếc hầm chủ kiên cố và hiểm này, bộ chỉ huy du kích từng vượt qua nhiều cuộc càn quét. Nằm trong hầm của mình, Quận cứ nôn nao, cồn cào trong dạ, linh tính báo chuyện không lành xảy ra. Thông thường, theo mật định nội bộ, bao giờ hầm chủ có tín hiệu báo an thì khi đó các hầm khác mới được lên. Áng chừng trời đã tối một lúc lâu, vẫn không thấy tín hiệu báo an, sốt ruột quá, một người cùng hầm với Quận trổ lên, thấy yên bình bèn cùng nhau lần mò trong đêm tối ra khỏi hầm. Đêm đen đặc, bầu không gian làng xóm tĩnh lặng ghê người. Chỉ ngửi thấy mùi khét lẹt của đồ vật cháy, và cả mùi tanh nồng hình như của máu người. Ba người đánh liều mò đến nơi hầm chủ, thấy tan hoang cả, người thì chẳng thấy bóng dáng một ai. Đi đâu cả hay hi sinh hết rồi? Ta không thấy mà địch cũng không nốt. Thất thểu dìu nhau ra cầu gạch bờ sông trước cửa đình để rửa ráy, thì trời ơi, chân vấp đá, vào những gì như xác người. Thôi chết, mọi người hi sinh cả rồi…! Một người lần mò vào một căn nhà gần đấy còn âm ỉ cháy, tìm nùn rơm mang ra soi. Trời ơi, ngổn ngang toàn những xác người.  Tại sao hầm bí mật bị lộ? Câu hỏi ấy lẩn quẩn trong đầu hơn chục đội viên trú trong những hầm lẻ còn sống? Mặc dù có em trai là Chấn bị địch bắt giết song Quận vẫn nằm trong diện bị nghi ngờ. Còn có hai người khác cùng bị đặt trong diện tình nghi đó là Đôn, người nằm trong bộ phận thư ký Quận và Kiện, một đội viên du kích thuộc nhóm yểm trợ bà con rút khỏi làng hôm ấy, bị thương rớt lại. Ai trong số ba người, hay một ai khác ngoài ba người này đã tiết lộ bí mật của hệ thống hầm ngầm? Hoặc giả định tinh vi lần mò tìm ra? Không có bằng chứng để khẳng định cho ngần ấy giả thiết. Sự việc cứ dần chìm trong im lặng đớn đau. Cho đến sau hòa bình lập lại, trong đống hồ sơ địch bỏ lại tại quận thành chính, người ta tình cờ thấy được bản tường trình của viên đội người Pháp, kẻ chỉ huy trận càn năm ấy, trong đó có nhắc đến tên một đội viên du kích bị trúng thương là Kiện đã tiết lộ vị trí hầm bí mật. Vì văn bản viết bằng tiếng Pháp, độ tin cậy đến đâu thì chưa rõ, vả lại đất nước đã yên hàn, nên người làng có ồn lên một dạo trút căm giận vào Kiện, nhưng rồi sự việc không được làm sáng tỏ thêm, và cứ thế dần chìm đi. Chỉ hàng năm, vào ngày giỗ trận, mọi người mới có dịp nhắc lại chuyện đau lòng trước. Vào dịp này, lời ra tiếng vào của người làng như đóng đinh Kiện vào cột đình, còn Quận và Đôn như được minh oan. Đôn không sống ở quê, ra làm viên chức ở Hà Nội, Quận không thoát ly lên huyện, tỉnh mà ở xã làm cán bộ, giữ chức Phó chủ tịch kiêm Trưởng công an xã, Kiện làm ruộng như bao bà con nông dân khác. Những ngày đầu đương chức, một trong những công việc được trên giao là sàng lọc các đối tượng nghi vấn. Thế nhưng, tại sao khi ấy Quận không dấn tới, làm cho rõ vụ việc này? Thực lòng, Quận đắn đo rất nhiều. Đêm đêm, nằm vắt tay lên trán mà ngẫm nghĩ, Quận thấy tốt nhất là cứ để cho sự việc dừng ở mức ấy là đủ. Ai như thế nào thì làng xóm, bà con cũng nhận diện được cả rồi. Ba người, Đôn, Kiện và Quận cùng một họ Vũ, Đôn ở chi trưởng, còn Kiện và Quận cùng chi hai. Anh em cùng một tổ tiên, hàng năm còn ngồi chung mâm với nhau trong ngày giỗ tổ, vậy chặt chân chặt tay nhau mà làm gì? Vả lại, người chết cũng không sống lại được nữa? Bới tung ra cho thanh niên bạch nhật, cho rõ mặt nhân gian mà làm gì. Chốn làng quê tù túng dễ nảy sinh thù hằn thâm căn cố đế, truyền kiếp lắm. Biết rồi để mà căm giận, thù hằn phỏng ích chi? Chuyện ở đời đâu có phải hễ tức giận là mang nhau ra tùng xẻo cho hả. Thà cứ để người có tội tự dằn vặt, tự sám hối tội lỗi mình gây ra khi biết xã hội mới vẫn đối xử tốt với mình, rồi tự điều chỉnh hành vi của mình hướng thiện thì còn tốt hơn nhiều cái việc trả thù kia. Rồi nữa, ngộ nhỡ đâu, đầu chẳng trúng lại phải tai, cấp trên nghi ngờ chính bản thân mình thì đúng là mình dại dột tự chuốc vạ vào thân… Mặc dù tự biết lòng mình trong sạch, song không dễ mổ bụng phơi tim mình ra cho bàn dân thiên hạ biết mình trong sạch. Thôi thì chuyện thế nào cứ để nguyên thế. Trên đời này đâu ai sống hai lần, vì thế mình sống không những đừng để tiếng xấu cho con cháu, còn phải tích thiện cho đời sau nữa chứ! Nghĩ sao làm vậy, Quận tưởng chuyện đó rồi sẽ chìm vào quá khứ, nhưng chiến tranh lại nổ ra, Đôn mang cả gia đình từ thành phố về quê sinh sống, làm nhà trên mảnh vườn đất hương hỏa. Khi gia đình Đôn vừa đặt chân về đến làng thì không hiểu tin từ đâu, cả làng đã đồn ùm lên rằng Đôn là diện cán bộ lưu dung nên Nhà nước không tin dùng. Đôn con nhỏ, hai vợ chồng lại không thạo việc nông trang vì thế đời sống chật vật lắm. Ngày gia đình Đôn cất nhà, trong họ ngoài làng bảo nhau mang đến người cây tre, nhà bó rạ, gom góp dựng được căn nhà tường đất vách rơm ba gian hai chái, dẫu chưa khang trang song cũng không đến nỗi nào. Chính Quận chọn cây tre to nhất trong bè tre ngâm nhà mình mang đến và tự tay mình đặt nóc. Với cử chỉ ấy, Quận vừa muốn chứng tỏ tình nghĩa họ hàng làng xóm, vừa ngụ ý với xóm làng rằng chính quyền xã không ghét bỏ, không đối xử tệ gì với gia đình Đôn. Đấy là cho dư luận, chứ thâm tâm, Quận còn ngầm ý với Đôn rằng, tôi với ông, chúng ta biết với nhau là cả hai không có tội lỗi gì, có chăng là cả ở tay Kiện kia. Ruộng hợp tác, hai vợ chồng Đôn không thạo nghề nông nên được tính gộp làm một lao động chính, Quận nói đôi câu để chủ nhiệm hợp tác chiếu cố cho gia đình Đôn chăn nửa trâu, vừa có việc cho mấy đứa trẻ lại có thêm chút công điểm. Không ngờ nhà Đôn biết nghề tráng bánh đa, bánh cuốn, giờ làm thêm đổi thóc gạo trong xã nên cuộc sống cũng tùng tiệm. Còn nhà Kiện, đông con nhiều cháu, công việc đồng áng chạy băng băng, thêm nữa Kiện tháo vát buôn bán nhì nhằng vì thế kinh tế gia đình thuộc diện sung túc trong làng hồi ấy. Thực ra, với Đôn hay Kiện, Quận hiểu là họ đã sống già đời người, có khổ ải cũng chẳng hề hấn gì, song còn lũ trẻ, tai tiếng vậy rồi tương lai chúng sẽ ra sao đây? Nếu như còn đương chức, Quận sẽ có cách của mình để sao cho vẫn chấp hành chính sách mà ít thiệt nhất đến lũ trẻ. Những năm tháng ấy, trẻ con nông thôn có học hành mấy đâu. Hễ là con trai, nhu nhú lớn là nhập ngũ gần hết. Biết yếu thế, hai đứa con trai lớn của nhà Kiện hết cấp hai đều xung phong nhập ngũ. Không hiểu vì lý do gì, cả hai đều ở chiến trường A suốt những năm chiến tranh ác liệt, rồi sau đó phục viên, lập gia đình ngay nơi đóng quân chứ không về quê. Sau hơn chục năm giữ chức trưởng công an xã, Quận chuyển sang làm công tác Mặt trận. Người kế nhiệm Quận không phải ai khác, chính là Phấn, anh con trai trưởng của ông, từng là bộ đội trinh sát bị thương rồi phục viên. Khác với cha mình, người từng trải, giàu kinh nghiệm nên giải quyết công việc gì cũng cân nhắc lý tình kĩ càng, Phấn lạnh lùng, nguyên tắc và hết sức quyết đoán. Câu cửa miệng của Phấn là “Ý trên thế này, nay tôi…”. Đôi khi Phấn cũng hỏi ý kiến cha mình việc này chuyện nọ, song hỏi chỉ để tham khảo, chứ bao giờ Phấn cũng tuân thủ nguyên tắc của mình. Thực ra, hiểu con không ai bằng cha, ông Quận biết tính khí con mình, nên lặng thầm theo dõi công việc của Phấn, hễ thấy chuyện gì Phấn cứng nhắc, quá tay thì chẳng đợi hỏi ý kiến, ông cũng can thiệp đôi câu với hy vọng Phấn nghĩ lại, nhất là những việc liên quan đến hai nhà Đôn và Kiện. Nhưng cũng không ít lần, Phấn bảo cha rằng: “Thầy nói con xin nghe, chứ việc này trên quyết rồi, khi tham khảo ý kiến tập thể lãnh đạo xã cũng đồng tình, chẳng qua con chỉ là người thừa hành…”. Từ lúc còn đương chức, ông Quận để ý thấy hai nhà có cách ứng xử khác nhau hẳn. Nhà Kiện bao giờ cũng mềm mỏng, đưa đẩy dẻo quẹo, hay mượn cớ đến chơi nhà ông hoặc săn đón khi nhà ông có việc gì đó. Còn nhà Đôn, trái ngược hẳn, họ luôn giữ thái độ đúng mực, bình thản, không thân mà cũng chẳng sơ. Song có lẽ bản tính cương trực, đôi khi thấy thôn xóm có chuyện gì không phải, ông Đôn không nén được, để lộ thái độ bất bình, và như thế, dưới con mắt của các vị lãnh đạo xã, thật bất lợi cho ông. Thâm tâm, ông Quận hiểu, thậm chí thầm cảm phục ông Đôn, thẳng thắn, không xun xoe, lươn lẹo như nhà Kiện, song đôi khi ông không khỏi tự ái vì thái độ cương trực không cần thiết của ông Đôn. Sau này, hai nhà vẫn vậy. Không những thế, nhà Kiện càng tỏ rõ thái độ cầu thân với Phấn, và với ông trước sau, dẫu sao ông ta còn kiêng dè tý chút. Mỗi lần đến nhà ông định nhờ vả gì Phấn, ông ta chỉ dăm câu ba điều với ông cho phải phép rồi luôn miệng xơn xớt: “Anh Phấn ạ, chú có ý kiến thế này, anh xem liệu có được không rồi chỉ bảo giùm cho chú nhá…”. Ông Quận nghe ngứa tai, khó chịu nhưng hễ ông hậm hẹ định chêm ngang thì Phấn lạnh lùng bảo: “Thầy để con làm việc chứ!”. Lúc ấy ông Kiện lại giả đò: “Ấy ấy, anh nên nghe lời bác… Thời chúng tôi, bác ấy là xuất chúng nhất xã, thậm chí nhất hàng tổng đấy!”. Ông Quận nghẹn họng vì cả hai… Có tiếng xe máy nổ ầm ầm ngoài cổng rồi liền đó hai chiếc xe phân khối lớn to kềnh xịch ngay sân. Biết cháu về, ông Quận rời tràng kỷ ra thềm: “Các cháu về sớm nhỉ? Ờ thế hôm nay không phải là chủ nhật mà trên cũng cho về à?”. Cẩn dựng xe, đi lại xăng xái trong sân: “Ông biết không, tụi cháu vừa lập công phá một đường dây buôn ma túy lớn. Lãnh đạo thưởng cho vài ngày phép. Đây là hai anh bạn cùng đội với cháu. Thế thầy cháu đi đâu rồi hả ông?”. Ông Quận bắt tay hai cậu bạn của cháu mời vào nhà, bảo cháu “Thầy anh lên xã có chút việc… Làng quê ấy mà, toàn những việc không tên. Thời các cháu sướng thật, mọi việc đều phân minh rõ ràng, chứ cái thời ông với thầy anh thì… chao ơi mới phức tạp làm sao! Người ở quê, không trong họ ngoài làng thì cũng dây mơ rễ má với nhau. Mình dễ dãi qua chuyện thì sợ không hoàn thành nhiệm vụ, mà chặt chẽ, nguyên tắc một chút thì người ta lại đổ tiếng ác cho. Bảo là bệnh nghề nghiệp, nhìn anh em họ hàng cũng ra địch…”. Ông Quận nhăn mặt, cười móm mém. Một cậu bạn của Cẩn đáp lời: “Ông ơi, nhìn bề ngoài thì vậy thôi chứ bên trong cũng phức tạp, khó khăn lắm đấy ạ. Ở thời ông, khó trong quan hệ ứng xử nhưng ít cạm bẫy. Còn thời bọn cháu bây giờ tuy không khó đường ứng xử song cạm bẫy lại giăng mắc khắp nơi. Mà đâu phải chỉ có địch nó bẫy mình, còn có cả chuyện người mình bẫy nhau, thế mới khó lường, khó tránh chứ”. Nghe ông và bạn tranh luận, Cẩn bảo: “Cháu nghĩ là không nên so sánh. Mỗi thời có cái khó của nó, ông ạ”. Ông Quận bần thần: “Ờ ờ… phải rồi… Đấy, đến ngay như người được giao nhiệm vụ chống ma túy lại đi buôn bán ma túy thì biết làm sao! Thôi thì… rốt cuộc đều ở chữ tâm mà ra cả!”. Cẩn bảo: “Ông ơi, đợi chốc bố cháu về rồi nhà mình, ba thế hệ sẽ lại đàm luận. Còn bây giờ, tụi cháu tranh thủ ra mộ thắp nén nhanh cho ông trẻ Chấn và các liệt sĩ ở nghĩa trang xã mình, ông ạ”. Ba đứa phóng xe đi rồi, ông Quận còn thẫn thờ một lát rồi mới xuống nhà ngang xem việc chuẩn bị cỗ bàn. Trở lên nhà xem, ông mồi thuốc rít một hơn thuốc lào nhưng chớm rít đã ho sặc sụa. Ông tự biết sức khỏe mình kém lắm rồi. Hút thuốc lào mà không thấy ngon là sức tàn lực kém, chẳng mấy nữa mà gần đất xa trời. Vì thế, hễ cứ có dịp là ông muốn nói với con, cháu đôi điều mà ông cho là cần, dù biết rằng có thể chúng sẽ cho mình là cổ hủ.  Đấy là những năm chiến tranh, miền Bắc chịu hết đợt bom này đến đợt bom khác. Chiến trường miền Nam thì hút người như đất nẻ hút nước ngòi. Làng quê còn lại toàn người già, trẻ em và phụ nữ. Lúa đồng hợp tác thì năng suất thấp, động mưa bão là ngập úng lên mộng mạ ráo. Người bì bõm gặt hớt về, đập ra đánh đũng sân kho như cái ướt. Danh sách chia thóc dài dằng dặc, mỗi lao động chính chỉ được vài chục cân mà tên hộ đọc lên mới quá nửa đã hết thóc. Thật hạt thóc quý hơn hạt vàng, mà người ta phòng cơ tích cốc chứ mấy ai nghĩ đến chuyện tích vàng. Thóc gom góc còn phải gửi ra chiến trường, bởi quân không thể thiếu một người, thóc không thể thiếu một cân. Vậy mà khi ấy, nhà ông Đôn lại làm nghề tráng bánh đa gạo. Gạo đã là một xa xỉ phẩm, nhưng gạo bánh tráng lại phải là thứ gạo quê ngon thơm chứ gạo mậu dịch ẩm vón mất mùi không thể làm được. Nhiều lần thấy Phấn phàn nàn rằng, bộ đội ở chiến trường gạo hẩm còn thiếu ăn thế mà ở hậu phương lại dùng gạo ngon làm bánh là vừa thiếu đạo lý, lại vừa vi phạm chính sách lương thực, ông đã gạt đi là: “Người ta làm vậy thì gạo đã đi đâu mà mất. Chẳng qua chỉ du di đi một tý. Anh thấy đấy, ở làng này, khi nhà có giỗ tết, hoặc người ốm đau mới mang vài lạng thóc đi đổi về nấu bát canh bánh đa cho dễ nuốt, chứ buôn bán gì đâu mà bảo là vi phạm chính sách lương thực. Không sợ nói oan cho người ta mà mang tội à?”. Nghe bố nói vậy, Phấn chỉ ầm ừ cho qua chuyện. Bị cấm làm bánh đa, nhà ông Đôn mất kế sinh nhai, bèn chuyển sang nghề cán mì sợi. Bột mì do nước ngoài viện trợ, vì để kho lâu ngày bắt ẩm vón cục và đầy mối mọt. Không chế biến thành sợi mì mà cứ nắm lên bằng chiếc vung con một luộc chín ăn thì thật khó nuốt trôi. Nhưng rồi, lấy lý do kinh doanh trốn thuế, một hôm, Phấn cùng tốp dân quân xã ập vào nhà ông Đôn lúc nửa đêm, đọc lệnh khám nhà, bắt khênh đi chiếc máy cán mì và mấy bao tải mì sợi để văn phòng Ủy ban xã. Hôm sau, ông Đôn đến nhà Phấn gọi là có mấy lời. Phấn nghe rồi bảo: “Đấy là tôi còn nể nang, chứ đêm qua, tôi biết chắc chắn, hai đứa con gái ông còn giấu một bao mì dưới chăn bông chúng nằm trong buồng. Chẳng lẽ tôi bắt lật chăn…”. Ông Đôn bảo: “Đến vậy thì…”. Ông bỏ dở chừng, thở dài chào cha con ông Quận và Phấn về. Chứng kiến tất cả, ông Quận cám cảnh cho ông bạn già, đợi cho ông Đôn ra ngõ mới bảo Phấn: “Anh đừng quá quắt vậy. Nên một vừa hai phải thôi, sống còn phải để phúc đức cho con cái nữa chứ… Ngày trước tôi không tệ như thế cũng nghĩ là để phúc cho anh đấy… Mà ngẫm ra thì người ta cũng đâu làm gì nên tội. Tôi thấy ông ấy già ngần ấy tuổi đầu vẫn phải cởi trần mồ hôi mồ kê nhễ nhại ngày ngày kẽo kẹt chiếc bánh xe nặng chịch, đèo thêm thằng bé con gầy xanh đu cả người vào mới chuyển nổi bánh xe. Đời thủa nhà ai kinh doanh lại đi làm như thế! Anh phải có mắt chứ?...”. Phấn thủng thẳng: “Con cũng đâu có ý này nọ… nhưng mà huyện chỉ thị xuống, con chỉ biết thừa hành…”. Ông không chịu, gặng: “Anh không báo thì trên huyện đâu biết… Mà huyện hiểu sai, nếu có lòng anh còn có thể nói gỡ hộ cho người ta kia, phải vậy không?”. Phấn cắm cảu: “Con chịu… Thầy thương xót thì thầy đi mà nói hộ người ta… Anh em bạn bè cùng thời với thầy người ta tiến bộ làm đầy cả trên huyện trên tỉnh đấy… Thầy có lòng thì cũng nên nói thêm đôi câu cho con được nhờ…”. Ông sững người: “A… anh… Được lắm… Mà thôi, tôi già rồi, về đuổi gà vườn rồi… Nếu nói được thì anh nên tin tôi sẽ cầu để tỉnh huyện người ta nâng đỡ anh trước đã… rồi mới đi gỡ tội cho người khác!...”. Chưa hết. Sau đận ấy, nhà ông Đôn còn bị một phen lao đao nữa. Số là, lúc ấy ở bên Tàu người ta làm cách mạng văn hóa. Chuyện trời đất nước người thì liên quan gì đến mình, mà giả sử có gì đi chăng nữa thì cũng ở trung tâm thành phố đâu đâu chứ nhất quyết không phải ở cái xó làng chiêm trũng hẻo lánh này. Ấy vậy mà giông bão lại đổ xuống nhà ông Đôn. Chuyện đó bắt đầu từ một chàng sinh viên theo trường sơ tán về địa phương. Sinh viên ở nhờ nhà dân nên anh chàng này có cơ hội đến chơi nhà ông Đôn, mượn tiếng là chuyện trò chữ nghĩa với ông nhưng kỳ thực là để tán tỉnh mấy cô con gái nhà ông. Rồi một hôm, làng xóm tự nhiên thấy anh ta đi cùng với Phấn và một vài người lạ mặt vào nhà ông Đôn. Anh chàng cam đoan rằng nhà ông Đôn có tài liệu cấm. Và rồi hình như có một cuộc khám xét gì đó trong nhà ông Đôn. Ít giờ sau, người ta thấy Phấn cùng những người kia ra khỏi nhà ông Đôn, vẻ không vui, vừa đi vừa bàn tán gì đó với nhau. Những người tò mò trong xóm rì rầm với nhau rằng, cuộc khám nhà rốt cuộc vỡ lẽ ra, nhà ông Đôn chẳng có tài liệu cấm gì cả, chẳng qua có ít tờ tranh xanh đỏ cũ nhàu về Giang Thanh và các vở kịch gì gì đó của bà ta từ những cuốn họa báo nhà ông đặt qua bưu điện, trước là để xem, sau cho trẻ lấy bọc sách vở mà thôi.  Sau lần ấy, ông Quận nghe ngóng nhưng không căn vặn gì con, song Phấn lại chủ động: “Có thể là cậu sinh viên nhầm, nhưng rõ ràng là có hệ thống. Thầy cứ nghĩ mà xem, tại sao mọi chuyện cứ chỉ xảy ra với nhà ông ấy, mà không phải nhà nào khác. Tiện đây con cũng nói thật, con định điều tra lại vụ hầm bí mật ngày trước. Con cảm giác, tội chưa hẳn chỉ ở ông Kiện như mọi người vẫn nghĩ đâu… Việc này thầy phải giúp con một tay… ngày ấy thầy chả chứng kiến là gì…?”. Ông Quận cứ rẩm riu, cái số ông Đôn đến là long đong. Chịu định kiến là một nhẽ, từ định kiếm kéo theo bao nhiêu chuyện khác tai hại. Đứa con gái của ông ta đủ điểm đỗ đại học, giấy báo gọi nhập học về làng, bị cậu bưu xã giữ lại ngầm đưa cho Phấn, ỉm đi luôn. Thế là con bé thiệt thòi lỡ cơ hội học lên. Chuyện này ông Quận biết lắm nhưng song chẳng giúp gì được. Một bên là bạn già, là họ hàng với nhau, nhưng bên kia lại là con mà nó viện cớ thi hành công vụ, biết đứng về phía nào đây? Thôi đành như điếc, như không biết gì cả lại hơn. Hiểu nhà ông Đôn bị oan, nên lòng ông không yên… Phấn phóng xe về, hỏi ông: “Trẻ con kháo nhau bảo là thằng Cẩn về cùng bạn nó, chúng đi đâu hết cả rồi, thầy?”. Ông thủng thẳng: “Nó là đứa biết nghĩ đấy… Cả mấy đứa ra nghĩa trang trước là thắp hương các liệt sĩ, sau cho ông trẻ Chấn. Mừng cho anh, cho tôi vì nó sẽ nên người”. Phấn nhìn quanh quất thấy nhà trên chỉ có hai cha con liền bảo: “Giữa con với nó, con cảm thấy thầy không thật công bằng. Là cha nó, con không tỵ nạnh gì với nó, song vì thầy cứ hay lấy con với nó ra mà so sánh, nên… Hai thế hệ, cả thầy nữa là ba thế hệ, mỗi thời mỗi khác… So sánh e khập khiễng…!”. Vừa lúc ấy thì có tiếng xe máy, Cẩn và hai người bạn về.   Buổi trưa, nhà đông khách, ông Quận ngồi tiếp các cụ cao niên, còn Phấn tiếp đồng sự cán bộ xã thôn, Cẩn và bạn mình còn mải ngắm vườn cây cảnh của ông nên ăn sau. Khi khách đã vãng, Phấn đến ngồi với con. Cẩn thưa: “Thầy ngồi đây để con mời cả ông nữa cho vui. Nhà mình mấy khi ba cha con ông cháu cùng ngồi với nhau đâu”. Ông Quận nghe vậy, mắng yêu cháu: “Cha bố anh… Đợt nào anh về mà ông với thầy anh không tiếp anh chu đáo nào?”. Cẩn cười: “Ông ơi, ban nãy hai bạn cháu tuy chỉ mới tiếp chuyện ông đôi câu đã thích lắm, bảo muốn được thưa chuyện cùng ông để ông dạy bảo cho đôi điều”. Ông Quận cười đắc ý: “Chuyện thì được chứ dạy thì lão già này đâu dám. Sức cùng, lực kiệt, trí cạn cả rồi!”. Khi ông Quận xếp chân vòng tròn ngồi xóc cái chiếu lên, Cẩn rót hai chén rượu cung kính dâng ông và cha rồi mới rót chút ít cho mình và hai bạn, nói: “Công an khi làm nhiệm vụ không được rượu bia, nhưng hôm nay là ngày giỗ… Nào xin mời năm chiến sĩ công an… Gọi là có chút men đưa cay cho vui chuyện… Nói chữ nghĩa thì… mạn phép ông và thầy, thế này là Tam thế hệ, nhất chiếu, đàm thế sự”. Ông Quận cười khà: “Cái thằng này học ai… mà sinh tật sính chữ nghĩa ra thế. Phấn cười khẩy: “Nho nhoe chữ nghĩa là nó học ở ông chứ còn đâu? Ông chẳng từng bảo, con hơn cha nhà có phúc. Nó chữ nghĩa hơn con, ông phải lấy làm mừng chứ!?”. Cẩn cười xòa: “Thôi nào… ông với thầy lại nghiêm chỉnh hơn cả họp Ủy ban rồi”. Một anh bạn của Cẩn chen vào: “Thưa ông và bác, cháu nghe chuyện Cẩn kể thì trộm nghĩ, nhà ta đây là một gia đình truyền thống mẫu mực. Cả ba thế hệ đều nối tiếp nhau phục vụ trong ngành ta. Thật hiếm có đấy ạ”. Ông Quận gật gù: “Cháu ơi, đúng ra thì chỉ có hai cha con nhà nó thôi, chứ như ông đây, ở vào cái thời ấy, mang tiếng là người giữ trật tự an ninh chứ thực ra có làm việc gì to lớn, hệ trọng đâu… Nói các cháu bỏ qua, chứ già này toàn chỉ bắt rượu lậu của mấy bà buôn vặt đựng bằng bong bóng trâu thôi”. Ông Quận cười sảng khoái khiến mọi người cười theo, làm không khí mâm cơm nồng ấm, thân mật. Tuy nhiên, không khí vui vẻ không được lâu, bởi Phấn trở lại sự nghiêm chỉnh vốn có của mình khi bảo: “Nói có hai cháu đây, ở nhà này, chỉ có bác là người chịu tiếng nhiều nhất. Nào là khó tính, khắt khe, hẹp hòi… Thôi thì đủ thứ. Mà đâu chẳng phải làng xóm người ta xì xào rồi đổ tiếng cho thế nọ thế kia, ngay như em Cẩn và cả ông cụ thân sinh bác đây cũng chưa hẳn đã hiểu để cảm thông cho bác. Gì cũng có hoàn cảnh riêng của nó… - Phấn nhìn xa xôi, như nói với chính mình: “Ở vào thời điểm ấy, nhất cử nhất động đều hướng ra chiến trường, mà địch thì lại nham hiểm chống phá ta nhiều mặt… thêm nữa, nghiệp vụ của công an xã như bác đây còn hạn hẹp lắm… Thế nên tránh sao khỏi những sai sót, ấu trĩ… Ngẫm lại, trình độ thấp mà lại quá tâm huyết với công việc, mới sinh ra tâm lý thà bắt nhầm còn hơn bỏ sót, còn hơn không hoàn thành nhiệm vụ được giao… Nghĩ mà thấy buồn”. Ông Quận cảm thông, trầm ngâm: “Sai lầm thì ai mà chẳng có. Chỉ không làm gì mới không sai lầm. Mỗi hoàn cảnh, mỗi tâm tính thì mỗi cái sai. Anh có sai lầm vì anh nhiệt tình đến xơ cứng. Thầy cũng có cái sai của mình, vì đặt cái tình cao hơn cái lý. Rồi đến thời của Cẩn và hai cháu đây, ai dám bảo chắc chắn cả cuộc đời công tác của lớp trẻ này sẽ không có sai phạm gì? Bể sâu mấy, núi cao mấy cũng đo được, nhưng lòng người khó dò… Mà đã sai thì… sai một ly nó đi một dặm kia!... Nhưng mà thôi, không chủ quan song cũng đừng bi quan, phải không các cháu?!”. Ông Quận hớp một chút rượu, cười gây không khí. Cẩn nhìn ông, nhìn bố mình, đỡ lời: “Nói sai lầm thì có vẻ to tát quá. Thực ra, con biết ông và thầy đều đã làm tốt công việc của mình. Trừ chuyện… - Cẩn ngập ngừng: Nhân đây, mạn phép ông và thầy, xin được nói thẳng ra… vì con nghĩ công khai ra được mọi chuyện sẽ nhẹ đi… Chuyện nhà ông Đôn, con thấy bị đối xử không công bằng. Khi ấy tuy còn nhỏ nhưng con cũng đã ít nhiều hiểu được chuyện gì xảy ra. Gia đình bên ấy người ta sống nề nếp, đúng mực. Và nếu đúng như lời ông từng kể thì họ không có lỗi gì, phải không ạ?... Con lấy làm mừng và lòng nhẹ nhàng vì các anh chị bên nhà ông Đôn rốt cuộc cũng suôn sẻ cả. Thầy đã cố tình giữ giấy gọi vào đại học của con gái bác ấy nhưng rồi chị ấy vẫn học hành thành tài, trở thành một nhà nông học giỏi, tác giả của mấy giống lúa mới, góp phần đưa năng suất cây trồng lên cao cho bà con nông dân… Rồi cũng chính thầy, ký giấy không đồng ý cho con trai bác ấy vào Đảng, nhưng đâu phải vì thế mà anh ấy không trở thành một chuyên gia y tế đầu ngành như bây giờ. Thầy nghĩ vì sao nào? Vì trước hết họ trong sạch và nỗ lực; vì Đảng ta biết trọng dụng nười có tài đức, nhìn xa trông rộng và quan trọng hơn là biết tin tưởng vào con người!... Như con đây, với sự công tác cống hiến của ông và thầy, phải nói rằng, con bước vào đời với sự đảm bảo hơn vàng, thế nhưng nếu như con không nỗ lực bản thân để tiến bộ mà lại tha hóa biến chất thì thử hỏi, cái lý lịch đỏ chói của con có cứu được con không?. Cẩn ngừng lời trong sự xúc động mạnh. Mọi người nín lặng hồi lâu. Một người bạn của Cẩn phá vỡ: “Thưa ông và bác… suy nghĩ vừa rồi của Cẩn có thể nói cũng là suy nghĩ của chúng cháu đây, hay nói rộng hơn là thế hệ chúng cháu. Ai có trách nhiệm của người ấy, không dựa dẫm vào ai và cũng không đổ lỗi cho ai. Ông và bác cứ ngẫm mà xem, những người được giao canh giữ an ninh trật tự xã hội và quốc gia mà lại không làm tốt nghĩa vụ, trách nhiệm công dân thì làm sao đứng vững để hoàn thành trọng trách được giao phó?!”. Ông Quận rưng rưng: “Mừng lắm… Mừng lắm!... Bọn trẻ suy nghĩ vậy, thật mừng lắm thay… Anh Phấn thấy chưa, cánh trẻ đáng tin cậy lắm… Mà không tin vào họ thì còn ai nữa… Thời đại tiến nhanh như vũ như bão thế, phải không các cháu?!”. Phấn nghe cha và con nói, vẻ đồng tình: “Có lẽ vậy… Gía ngày ấy, ông Kiện không lo che chắn cho con cháu mình, mà chuyên tâm dạy dỗ thì đâu có chuyện ngày nay mấy đứa hư hỏng… Thế mới biết, thời gian là thử thách khắc nghiệt nhất!...”. Ông Quận thở dài: “Con cháu ai không nên người thì cũng đều là chuyện đáng buồn cả… Nhưng như vậy mới công bằng!...”. Ông Quận thấy lòng mình thanh thản lạ. Ông ngồi đấy, trước mâm cỗ, con và cháu mà như phiêu diêu ở nơi nào. Trong số mấy người, ông Đôn, ông Kiện đã về với thiên cổ, nằm kề nhau nơi nghĩa địa làng từ lâu rồi, chỉ còn mỗi ông, cứ như là tiếc nuối mà ở mãi nơi trần ai. Chắc chẳng còn bao lâu nữa… Ờ mà đời người cứ bảo có chuyện luân hồi quả kiếp, song ông không tin. Mỗi cuộc đời, của ai, người nấy phải chịu trách nhiệm về những hành vi của mình chứ, kể cả lúc còn sống và cả khi đã mất đi rồi. Có vậy mới là công bằng chứ?!... Nhưng giá mà ông lại được gặp lại hai người bạn già của mình ở dưới kia thì kể cũng ngộ… Nhân tình thế thái… có ối chuyện để nói với nhau!...

Thay đổi trang: < 123 > >> | Trang 3 của 4 trang, bài viết từ 61 đến 90 trên tổng số 104 bài trong đề mục