Re:VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( II )
-
28.06.2024 17:11:15
Ađam & phần còn lại của thế giới
1. Cứ mỗi khi Hoàn buộc miệng ngâm nga một câu thơ mà y tình cờ đọc được rồi thích, là thế nào cũng có ít nhất một trong số năm người đàn bà cùng văn phòng với y bảo: “Hâm vừa chứ! Này lấy vợ đi. Đầu ba, đít to rồi đấy. Kẻo lại…”. Đại loại những câu tương tự như vậy. Nghe rồi, hoặc y cụt hứng, mặt sầm sì, hoặc y nổi hứng bỡn cợt lại.Chẳng hiểu trời xu đất khiến làm sao, Hoàn lọt vào cái văn phòng có sáu người cả thẩy, thì mỗi mình y cùng chủng với Ađam. Và thế rồi, từ nói đùa, năm người đàn bà “còn lại của thế giới” gán cho y biệt hiệu Ađam. Hoàn Ađam. Xét về tuối tác y đứng hàng thứ tư. Nhiều khi rỗi rãi, y thu mình ngồi im ở cái xó của y suy nghĩ lan man về mọi người, mọi chuyện, và lẩn thẩn xếp các sự kiện theo nhận xét của y vào trong bộ nhớ, hệt như người ta hay trình bày các thư mục theo file rồi kích chuột vào save ở máy vi tính. Một công việc nhàm chán.Người đầu tiên là chị Nguyệt, tuổi ngoài năm mươi, được người, có nét phúc hậu, con gái Hà Nội gốc. Sống với ông chồng hơn chị hàng chục tuổi, đã về hưu, hai đứa con, một gái, một trai đi học đại học và lấy người nước ngoài, định cư ở Pháp và Úc.Người thứ hai, chị Thoa, ngoại tứ tuần, da dẻ hồng hào, mắt nhanh, nụ cười tươi thắm, dễ tính. Có chồng là giám đốc một công ty kinh doanh, đi nước ngoài như đi chợ. Chỉ có một con trai đang đại học.Người thứ ba là Thủy, trưởng phòng, hơn y vài tuổi, hòa nhã, chu đáo trong ứng xử song khá kín đáo, khó hiểu. Có chồng là Vụ trưởng, anh này trẻ, nổi tiếng hào hoa, và còn là một tay nhiếp ảnh tài tử có hạng. Họ có hai con gái.Người thứ tư có cái tên kép rất điệu - Thu Liễu. Trái với tên cô có thân hình cao to lừng lững như cầu thủ bóng chuyền, nét mặt khá xinh, và không mất vẻ nữ tính. Kém y vài tuổi song Thu Liễu lấy chồng sớm, có một con gái thì góa chồng.Người thứ năm, cô út của phòng, con một ông Cục trưởng thuộc Bộ nhà. Không vào được đại học, bố đem vào học trường văn thư lưu trữ, rồi giải quyết luôn đầu ra theo lối ta về ta tắm ao ta. Về cơ quan mấy năm đã giải quyết xong cái bằng đại học tại chức. Tuy không giỏi giang, bù lại, Kiều Linh khá nhanh nhẹn, tháo vát trong ứng xử, giỏi vi tính, sành nhạc và bập bõm tiếng Anh.Có lần phòng liên hoan, y quá chén, bảo: “Hôm nào rảnh… tôi sẽ soạn lý lịch trích ngang quý bà quý cô, trên vi tính hẳn hoi… dán ngay cửa phòng, dưới cái biển hiệu “phòng thư viện tư liệu”. Mọi người cười, chị Thoa hỏi sỗ: “Này… thế còn cậu để đâu? Xin lỗi… Để cho chó nó ị à?...”. Y cười to, chợt im bặt. Mặt trịnh trọng: “Tôi sẽ soạn riêng cho mình một bản, chỉ không đầy dòng: “Hoàn Ađam- kẻ nô lệ của phần còn lại thế giới”…2. Buổi sáng đến cơ quan, vừa đẩy cửa phòng, y đã thấy chị Thoa đang tráng ấm pha trà, thấy y, hỏi liền:- Ađam, đã biết tin gì về nhà bà Nguyệt chưa?- Sao? Có chuyện gì vậy? - Y thoáng ngạc nhiên, rồi chuyển ngay sang vẻ tưng tửng, hơi giễu cợt thường ngày - Không cháy nhà, chết người chứ?- Nỡm ạ!... chị Thoa cười - Nào, có muốn nghe không thì người ta nói cho mà nghe.- Thưa quý bà! - Y khẽ cúi người điệu đàng - Tôi xin nghe.- Này… - chị Thoa thì thào như sợ người ngoài nghe - Con gái bà Nguyệt vừa ở nước ngoài về đấy… mang theo một thằng cu con lai mắt xanh, tóc vàng, xinh ơi là xinh… Mình có con trai lớn rồi mà nhìn thằng cu con yêu yêu là, lại thấy thèm…- Thèm thì đẻ… bà thử liều, bỏ quách cái lão giám đốc cả ghen đi, làm me Tây… Người có dáng mợ như bà, cười khẽ một cái ối trai tơ theo!...- Nỡm! Đừng có mà xui trẻ con ăn cứt gà sáp - Chị Thoa đong đưa.Vừa lúc ấy cửa phòng xạch mở. Chị Nguyệt hiện ra với bó hồng vàng trên tay. Chị Thoa reo lên. Chị Nguyệt đưa hoa cho Thoa bảo:- Thoa cắm hộ mình. Con bé bán hoa ngay gần nhà mời khéo quá, thấy hoa đẹp lại rẻ, mua lên phòng.- Này bà… nói thật đi - Chị Thoa thăm dò - Hoa mừng lên chức bà ngoại phải không?- Không đâu!... Cháu nó mang con về thăm ông bà… chuyện bình thường ấy mà… Hôm nào, mình cho cháu lên phòng, gọi là lễ ra mắt các bà trẻ, ông trẻ.Cả ba người cùng cười bởi câu đùa của chị Nguyệt. Để ý, y thấy chị Nguyệt không vui, và hình như không muốn nói tiếp chuyện ấy nữa, bèn bấm nhẹ vào tay chị Thoa làm hiệu.Rồi tất cả mọi người trong phòng đều biết, song ý tứ không ai hỏi thêm. Mà thời nay, chuyện ấy cũng có gì đáng nói đâu. Chẳng qua, cánh đàn bà hay rỗi hơi.Với chị Nguyệt, cuộc đời cho đến lúc này, ít ra cũng có thể gọi là toại nguyện, nhất là người không mấy tài năng và tham vọng, được người được nết như chị. Là con nhà buôn bán khá giả ở Hà Nội, lấy chồng khi chưa đầy hai mươi tuổi, về làm dâu một nhà khá giả khác theo lời hứa gả bán của hai người cha. Anh chồng lẻo khẻo, yểu tướng, mà chị thì đẹp rờ rỡ, đầy sức sống. Được hai năm thì anh ta củ ngoẻo. Thế là chị Nguyệt góa chồng ngay từ khi còn thanh xuân, chưa con cái gì, lại bị mẹ chồng đổ tiếng ác là người có tướng sát chồng. Chị về ở với bố mẹ đẻ. Chị Nguyệt xin vào làm Nhà nước, ở văn phòng của một cơ quan văn nghệ mỹ thuật. Ở cơ quan này, cánh cán bộ quản lý phần lớn nghiêm túc, trái lại đám nhân viên thì đều chứa trong mình máu văn nghệ sĩ, thích phiêu bạt, bông đùa, thành ra trong sinh hoạt cơ quan tự dưng chia làm hai phái. Chị Nguyệt xinh đẹp, trẻ trung trở thành người ở giữa, làm trung gian hòa giải. Đẹp, nhẹ nhàng, chu đáo song không kém phần nghiêm nghị khi cần thiết. Chị Nguyệt tuy là đối tượng cho nhiều người dòm ngó, nhưng không một ai dám bỡn cợt, quá trớn. Khi ấy, ông Toản, chồng chị bây giờ là phó văn phòng, tuy hơn chị nhiều tuổi nhưng vẫn là trai tơ. Ông ta người quê, từng tham gia trận Điện Biên Phủ. Nghe đâu, hồi còn nhỏ ở nhà, đã bị bố mẹ bắt lấy vợ tảo hôn lúc mới mười ba tuổi. Tiếng là một đời vợ nhưng coi như không. Chị Nguyệt biết anh phó văn phòng để ý mình, nhưng không nghĩ là sẽ lấy anh ta. Một người khô khốc, tính chi tiết, tỷ mỷ và mặt luôn cau có như thế không thể làm chồng chị. Là cấp dưới, lại phụ nữ chị vẫn nhẹ nhàng ân cần, không lả lơi lợi dụng và cũng không làm mếch lòng, sao cho anh ta đủ hiểu rằng tôi không tình ý gì với anh.Cuộc đời chị không biết sẽ đi đến đâu, sẽ lấy ai, nếu như không có một người thứ ba xen vào. Ấy là một chàng sinh viên mỹ thuật thực tập. Không hiểu anh chàng thực tập được những gì ở cái văn phòng bàn giấy, nơi diễn ra các cuộc tán gẫu, những đàm luận về gia đình và xã hội không đầu không cuối, chẳng có chút gì dính dáng đến nghệ thuật ấy, nếu như anh ta không gặp được người đàn bà, mà sau này si mê, đã tự nhận là Vệ nữ của lòng tôi. Còn chị Nguyệt, ngay từ buổi đầu gặp mặt anh chàng, chị đã cảm nhận được sự si mê trong ánh nhìn của anh ta. Và không hiểu sao, thường ngày với mấy anh cán bộ quá thừa nghiêm trang, với tư cách nhân viên nghệ sĩ ba hoa chích chòe hễ mở miệng là tán, chị thấy dửng dưng, thậm chí cười thầm giễu cợt, thì với chàng sinh viên mỹ thuật, chị lại xao xuyến. Biết anh chàng để mắt đến mình, tự dưng chị hay mủm mỉm, hoặc đứng lên đi lại nhẹ nhàng uyển chuyển, như thể là khoe dáng, khoe mẽ. Những lúc một mình nghĩ lại, chị cũng thấy buồn cười là tại sao mình đi đỏm dáng với một cậu sinh viên non choẹt, kém mình những bốn tuổi. Ừ, nhưng mà mình đã già đâu, mới hai mấy tuổi đầu, chỉ tại cái tiếng gái góa, dở dang…Thế là chị Nguyệt có một quãng thời gian vừa hạnh phúc, vừa cơ khổ. Chị như một con thuyền không lái trôi giữa đôi bờ, bên tả là ông phó văn phòng nghiêm nghị và cẩn thận, ân cần, còn phía hữu là chàng sinh viên mỹ thuật đẹp trai, hào hoa và thêm phần quai - quái. Cuộc đời con người ta, nhất là người đàn bà, không ai dòm ngó đến cũng khổ, và nhiều người để ý tán tỉnh cũng cực. Mỗi buổi sáng, chị vừa muốn đến cơ quan, vừa ngài ngại. Còn ban đêm, hễ cứ đặt lưng nằm là đầu óc tràn ngập những ám ảnh, mộng mị.Một lần, chàng sinh viên mỹ thuật nhân lúc văn phòng vắng người, bảo chị: “Tôi đã ngắm chị nhiều ngày…”. Chị đỏ mặt: “Chắc thấy tôi xấu như ma lem?...”. Anh chàng hài hước: “Vâng, xấu như Thần Vệ Nữ… Chị Nguyệt này, tôi thấy chị có nhiều nét của Vệ Nữ… Tôi muốn chị ngồi mẫu cho tôi vẽ vài buổi… Tôi sẽ tạo ra một Vệ Nữ Á Đông, không, đúng ra là một Vệ Nữ Made in Việt Nam chính hiệu. Nói dại miệng… mai sau chị có thành một bà lão chín mươi, thịt xương có thành cát bụi thì bóng dáng chị vẫn tồn tại vĩnh cửu với thời gian… Ôi, cuộc đời con người ta mới ngắn ngủi làm sao, chỉ như bóng câu qua cửa sổ, lại toàn những toan tính, mưu mô vụn vặt, chỉ có di hài, bóng ảnh của mình mới là vĩnh cửu…”. Anh chàng nói như nhập đồng, và không hiểu sao chị đã rung động, đã bị những lời có cánh ấy chinh phục, lôi kéo để đồng ý đến ngồi mẫu cho anh ta.Chủ nhật, chị đến nhà chàng sinh viên mỹ thuật. Anh chàng vui lắm, cứ lấn quấn quanh chị như cậu bé con, hết vấp chân lại đụng tay đánh đổ vật này, vật nọ. Anh ta sống với một người mẹ và cô em gái tật nguyền. Cả hai đan len để có thêm thu nhập. Chị ngồi mẫu để anh ta nặn tượng. Buổi trưa, bà mẹ già sẽ sàng mời con trai và người mẫu ăn cơm. Nhìn mâm cơm đạm bạc, chị nổi máu nội trợ, chạy ù đi mua thêm thức ăn, trổ tài nấu nướng. Bữa cơm thành ra thịnh soạn ngon lành. Anh chàng cảm động, cô em gái thì luôn miệng suýt xoa khen ngon, còn bà mẹ nhìn chị ra chiều âu yếm. Buổi chiều, chị ngồi mẫu trong tâm trạng viên mãn bởi mình đã mang lại được niềm vui cho người khác. Trời chạng vạng, chị nhìn ánh tà dương ngoài cửa sổ mà lòng hiu buồn nghĩ đến một ngày nào đó, mình về làm chủ gia đình này, hàng ngày chăm sóc các thành viên. Vừa lúc ấy thì anh chàng đổ sụp trước mặt chị, lắp bắp những lời yêu thương, cầu xin được lấy chị, rằng mẹ và em gái mình quý mến chị, rằng… Chị đã xúc động mạnh. Chí ít là lúc ấy, chị thấy mình thành Đấng Cứu Thế, sẵn sàng hy sinh mình để đem lại niềm vui cuộc sống tất thẩy nhân loại, chứ không chỉ riêng cho ba sinh linh yếu ớt của gia đình này. Chị từ bỏ thế ngồi mẫu định vươn dậy thành người khổng lồ và đỡ chàng trai yếu đuối lên mà cưu mang, thì đúng lúc ấy, chàng trai như một mãnh hổ, chồm lên vồ lấy chị, xiết chặt, hôn ngấu nghiến. Và chị, Đấng Cứu Thế chợt nhận ra, mình cũng chỉ là kẻ trần mắt thịt, chỉ là người đàn bà đa đoan khốn khổ không cứu nổi mình. Chị ra khỏi căn phòng - xưởng họa của anh với tư thế của một kẻ bỏ chạy, khiến bà mẹ và cô em gái tật nguyền của anh ta ngỡ ngàng…Trở về nhà, chị thấy căn phòng riêng của mình khép hờ, sáng đèn. Mẹ chị ngồi ở phòng khách thủng thẳng: “Có anh gì, nói là thủ trưởng của con… anh ta đến từ chiều… Mẹ có nói chuyện với anh ta… thấy anh là người đứng đắn, có tư cách… Anh ta nói là có câu chuyện gì đó cần phải nói với con ngay nên cố chờ. Mẹ mở cửa phòng con cho anh ta ngồi… Con đi đâu mất mặt cả ngày, bỏ cơm trưa… Mà sao mặt con tái nhợt thế kia!”…Chị đã vào phòng. Đối mặt với ông Toản và nghe ông phó văn phòng chậm rãi từng câu, khúc chiết, kể về việc ông ta biết chuyện chị đi ngồi mẫu, rằng thế nọ thế kia và nghe ông ta ngỏ lời cầu hôn. Mãi sau này, chị vẫn không hiểu nổi tâm trạng chị khi ấy thế nào, chỉ có điều này thì chị nhớ, mặc dù chẳng theo tín ngưỡng nào, nhưng lúc ấy chị đã cầu xin cả Đức Phật, lẫn Chúa Trời cứu rỗi chị… Chừng nửa năm sau cái ngày ấy, đám cưới giữa chị và ông phó văn phòng được tổ chức gọn nhẹ mà vẫn tưng bừng theo kiểu mít tinh hô khẩu hiệu tại hội trường cơ quan. Rồi cuộc sống bình lặng trong vất vả trôi qua, mỗi người chịu lún đi một tý, ông Toản vẫn nghiêm nghị nhưng bớt khó tính, chị Nguyệt bớt diện và chăm chút việc nhà. Để dễ bề công tác, tránh việc chồng làm thủ trưởng của vợ rồi lại mang tiếng “lệnh ông không bằng cồng bà”, ông Toản nhờ người giúp chuyển vợ sang bộ phận khác. Hai đứa con lần lượt ra đời, lăn lóc mà lớn, ngoan và học giỏi. Cái cuộc sống bình lặng ấy lại vô tình bị xới lên, chao động bởi một việc không đâu. Số là ông Toản trước khi về hưu đương chức cấp trưởng, có tay nhân viên xu nịnh vị phó sắp lên thay, nhân một lần đi dự cắt băng một triển lãm tranh tượng, về kháo um lên rằng, ở đấy có một bức tượng của nhà điêu khắc nổi tiếng nọ mà khuôn mặt giống hệt chị Nguyệt. Ông Toản nghe được ở cơ quan, tức lắm về trút hết bực dọc lên đầu vợ. Lời qua tiếng lại, việc bé xé ra to, ông Toản buộc miệng: “Này, tôi nói cho cô biết, con Nguyệt Thu chắc gì là con tôi… Có khi là con của thằng cha đã tạc tượng cô!?...”. Chị Nguyệt sửng sốt, cứng họng không biết nói gì. Chị như hóa đá, rồi lại tan như bùn vữa. Oan này đích thực là oan Thị Kính. Tự lòng mình chị biết, con Nguyệt Thu là con ai chứ. Suốt cả cuộc đời, chị cúc cung tận tụy, chăm sóc chồng con, giờ thành công cốc, lại còn chịu tiếng trăng hoa, không hiểu ông Toản mới sinh nghĩ vậy, hay ngấm ngầm từ bao giờ. Chị Nguyệt không quen thói lăng loàn, bù lu bù loa, nên kể từ đó, chị sống im lặng, vẫn chu đáo với chồng, song luôn giữ sự cách biệt. Chị không thể tha thứ. Ở công sở chị vui vẻ hào hiệp là thế, nhưng hễ về đến nhà chị thành một con người khác. Con Nguyệt Thu không biết điều đó, và thằng em nó cũng không biết. Vợ chồng chị biết điều chỉnh để các con yên ấm, không bợn chút nào về cha mẹ. Con Nguyệt Thu sang Pháp học mỹ thuật, ngỏ ý xin bố mẹ cho lấy chồng Tây, chị đồng ý và ông Toản cũng không phản đối. Thằng cu em du học ở Úc, xong đại học ở thêm nghiên cứu làm luận án tiến sĩ, chị cũng chấp nhận. Và không chấp nhận cũng không được. Lớp trẻ bây giờ nghĩ khác. Ông Toản sống trong sự hối lỗi. Người ta bảo xảy chân còn đỡ được, chứ xảy miệng thì coi như hết…Từ ngày về phòng này, cứ nghe lỏm nghe hớt chuyện râu ria của cánh đàn bà, xâu chuỗi lại, y có được câu chuyện có đầu, có đuôi, có suy nghĩ và ý tưởng về những gì chị Nguyệt trải qua. Sau những ngày đám phụ nữ trong phòng đàm luận nhân chuyện con Nguyệt Thu mang đứa con lai về chơi, y được biết thêm, trước đấy không lâu, nhà mỹ thuật nổi niếng nọ - chàng sinh viên mỹ thuật năm nào vừa mở một triển lãm tranh tượng tại Paris. Nguyệt Thu mê mỹ thuật và theo nghề đó nên có đến dự. Nó còn chụp hàng lô ảnh, trong đó có cả bức tượng Venus in Vietnam, đây là cách gọi quen miệng về bức tượng Vệ nữ của giới hội họa mỹ thuật. Nó khoe bộ ảnh với mẹ một cách vô tình, còn hết lời ca ngợi tài năng của ông ta. Chiều con chị lật lướt, không dám dừng lâu ở bức ảnh chụp bức tượng Vệ nữ, khen chiếu lệ. Ông Toản ngồi uống nước ở bàn trà, rít thuốc phả khói lơ đãng như không quan tâm đến xung quanh. Thế nhưng chị Nguyệt biết, câu chuyện giữa hai mẹ con sẽ không một lời, một cử chỉ nào lọt khỏi ông…Hôm chị Nguyệt đưa thằng cu con lai Tây đến phòng, mọi người trầm trồ, sờ nắn người nó như một thực thể lạ ngoài hành tinh. Thằng bé bạo dạn, nói mấy câu tiếng Việt ngô ngọng mới học xổi, chen lẫn những câu tiếng Pháp mà bà nó và mọi người đều không hiểu. Lúc mọi người bớt vồ vập, y mới nhìn nó, khuyến khích nó lại gần, hỏi chuyện bằng mấy câu tiếng Pháp bồi. Nó toét miệng cười rồi sà ngay vào bên máy vi tính, nhoay nhoáy ngón tay gọi ra ngay một chương trình trò chơi, quên hết mọi chuyện. Nhân lúc chị Nguyệt chạy quanh mấy phòng bên cạnh, chị Thoa bảo:- Thằng cu xinh và dễ yêu quá… nhưng mà cứ thế nào ấy nhi?- Thế nào là thế nào? - Kiều Linh vênh mặt - Bà Thoa cổ hủ bỏ đời… Chứ xê-ri đời mới như bọn này cứ là Tout de suite!. Nói trước nhá, cháu đang định chài một thằng Tây Thụy Sĩ mà cháu mới gặp và quen trong chuyến đi pic-nic hôm nọ. Nếu thành công, cháu dẫn về đây giới thiệu… Mợ nào mà ì xèo là cháu tung hê liền, phá nát cái phòng này cho coi! - A… con ranh này, mày định dọa chúng tao phỏng? Chị Thoa ré lên - Họa là chúng mày hám tiền của tụi nó, chứ nó hôi như tổ cú… còn cái của nợ… thì có gì hơn mình.Chị Thoa cười hi hí. Khiến Thủy từ nãy chỉ mủm mỉm theo dõi cũng lây chuyện, đùa:- Cái Linh, mày đừng tin bà Thoa… Bà ấy miệng thế thôi chứ bụng chắc thèm lắm. Đến chị mày đây, có hai con gái rồi, giá bây giờ tao được một thằng cu như vậy thì phải biết!...- Thủy ơi… việc gì phải cầu phải ước - Chị Thoa tấn công lại - Chỉ cần về bắt nọn cái tay nhiếp ảnh gia phong lưu đa tình nhà mày thôi cũng đi ra rồi… Hắn có là gửi hàng tá con trai nhờ thiên hạ nuôi giúp. Thích thì rước một đứa về mà nuôi sau này nó hương khói.Mỗi người thêm một vài câu. Cười ré lên một lượt, làm thằng cu lai Tây giật mình bỏ màn hình vi tính ngơ ngác tưởng người ta nói gì đến nó. Vừa lúc ấy, Thu Liễu xổ vào phòng:- Ôi ôi… Mọi người vui vẻ gì thế? Cho tôi vui với nào. Đang bực hết cả mình đây. Chợt nhận ra thằng bé lai đang lúi cúi trước máy vi tính, Thu Liễu tròn mắt, ố á…3. ở trong phòng, Thu Liễu như người trên trời rơi xuống. Thoắt ẩn thoắt hiện, vừa nghe tiếng nói ông ổng đấy chút sau có việc tìm cô đã lặn mất tăm. Việc Thu Liễu hay bỏ văn phòng đi việc riêng lúc đầu làm Thủy khó chịu lắm, nhưng sau mỗi người thêm vào một câu, Thủy mới xuôi. Thực ra, hàng ngày có mặt đông đủ ở phòng nhưng việc thì ít, ngày nào cũng giống ngày nào, chỉ cần vài ba người cũng an nhàn chán, lương lại ba cọc ba đồng, ai có tài cán gì, ăn bớt thời gian Nhà Nước để kiếm thêm thôi thì cũng làm ngơ. Có lần, chị Nguyệt, với tư cách là người cao tuổi nhất phòng tâm sự với Thủy: “Ở phòng mình thì mình già sắp về hưu rồi không nói làm gì. Thoa với Thủy thì chồng đều có địa vị xã hội, kinh tế gia đình khá giả. Còn cậu Hoàn với con Kiều Linh, một thân một mình bay nhảy không lo nghĩ gì. Chỉ có mỗi cái Liễu, góa chồng, nuôi con một mình. Thôi thì mọi người trong phòng làm cố mỗi người một tý, cho nó rộng chân kiếm thêm con nuôi… Với lại, ra ngoài giao tiếp rộng biết đâu có thằng nào nó để mắt tới mà nên vợ nên chồng, chứ cứ ru rú ở phòng thì có mà chết già à?... Em ơi, em đủ đầy nên không thấu đấy thôi, chứ cảnh mẹ góa con côi cực lắm!... Chị đã từng thế nên chị hiểu…”. Thủy nghe chị Nguyệt thở dài, động lòng. Mọi người cũng không ai thắc mắc gì. Thu Liễu lấy chồng sớm. Hai đứa học cùng lớp phổ thông, chơi thân với nhau, rồi lại cùng vào đại học. Vừa tốt nghiệp xong là cưới. Và may mắn, chưa đầy năm mẹ đã đầy tháng con. Những năm tháng đầu tuy khó khăn về kinh tế, nhưng gia đình đầm ấm, Thu Liễu chịu khó và tỏ ra có tài buôn bán. Tuy không có vốn, chỉ là buôn bán vặt, song cô chịu khó xoay xở, nên cũng tùng tiệm. Tay chồng chăm chỉ đèn sách nuôi chí làm luận án Phó tiến sĩ. Và rồi cơ hội đã đến, Đoan, chồng cô đi Nga làm nghiên cứu sinh. Luận án Phó tiến sĩ ngành xã hội học xuất sắc. Ông thầy hướng dẫn người Nga khuyên phát triển thêm lên thành luận án Tiến sĩ. Đoan ở lại thêm. Lại hai năm miệt mài đèn sách và bảo vệ thành công, lấy bằng tiến sĩ. Thật bõ công ngày trước vợ luôn chân luôn tay buôn bán thêm lấy tiền nuôi chồng dùi mài kinh sử, bõ công những đêm dài đằng đẵng đẫm nước mắt ôm gối chờ chồng. Cái ngày chồng vinh qui bái tổ, ngày cảnh vợ chồng đoàn viên trong vinh quang - “võng anh đi trước, võng nàng theo sau”. Giấc mơ của Thu Liễu sắp thành sự thật. Chồng điện về báo tin, Thu Liễu lên phòng không giấu nổi niềm vui kể hết cho mọi người. Chỉ ngày một, ngày hai nữa thôi…Đùng một cái, Đoan lại điện về báo tin, hoãn ngày về nước theo dự định bởi còn sang Đức chơi một chuyến cho bõ công đi Châu Âu. Thu Liễu buồn xịu, nhưng cô vẫn hy vọng, đã đợi được năm năm, huống chi thêm một vài tháng nữa. Nhưng rồi một tháng, hai tháng, nửa năm trôi qua, Đoan vẫn không về. Và thay vào đó là những bức thư giải thích này nọ. Rồi thư cũng thưa dần. Cho đến một hôm, Thu Liễu vừa bước vào phòng đã mếu máo. Cả phòng đổ xô đến, hỏi dồn dập xem chuyện gì xảy ra. Thấy mọi người quan tâm, cô òa khóc nức nở vừa khóc vừa nói. Nghe rồi mọi người cũng hiểu ra rằng, Đoan, chồng của Thu Liễu sang Đức chơi, ở lại buôn bán và sống với một phụ nữ nào đó, không về nữa. Khóc một hồi cho thỏa, Thu Liễu ngồi bần thần lẩm bẩm một mình: “Đời ai học hết chữ ngờ… Bạn bè gì nó… Sao nó lại khốn nạn như thế… Cướp trắng chồng của bạn… ngày xưa, nó toàn nói với mình những lời đạo đức, giáo huấn… Đúng là cái quân miệng Nam mô, bụng bồ dao găm…”.Những ngày sau đó, dần dà mọi người biết được sự thật câu chuyện qua lời kể của Thu Liễu. Khi Đoan cùng mấy người bạn sang Đức chơi, nhân một lần đi mua sắm quà định mang về cho vợ con, tình cờ gặp lại Diệu, người bạn gái cũ của cả hai vợ chồng họ, đang làm chủ một cửa hiệu buôn bán. Lúc đầu là niềm vui, bạn bè cũ lâu ngày gặp nhau ở xứ người. Sau đó là đi lại thăm nhau, rồi tình duyên bén. Diệu khuyên Đoan ở lại cùng cô ta làm ăn, và còn dọa anh chàng rằng, nếu về nước thì cái bằng tiến sĩ xã hội học của anh không đáng hai xu, rằng miếng ăn đút vào miệng còn thiếu, ai hơi đâu mà nghĩ đến xã hội học. Thoạt đầu, Đoan còn chưa quyết, dùng dằng chuyện ở về, sau vì Diệu tấn công sát sạt, dùng thân xác ra để quyến rũ, thế là anh chàng kỵ sĩ kính trắng, quen được vợ hầu, lộ rõ cái chất kỵ sĩ rởm của mình, ngã nhào khỏi ngựa, cam tâm làm kẻ phụ giúp bán hàng ban ngày và con đực ban đêm cho cô ta. Bao nhiêu sách vở, tài liệu về xã hội học được chuyển thành giấy gói hàng. Ở nhà, qua thư từ của Đoan, Thu Liễu không biết gì về chuyện ấy, cho đến khi một người họ hàng của cô cũng là dân lao động xuất khẩu ở Đức về nước, kể lại cho, cô mới biết.Sau những ngày chấn động, suy sụp tinh thần. Thu Liễu bình tĩnh lại và nuôi ý định đi Đức một chuyến. Cô bảo là không phải sang đấy để đánh nghen, để giành lại chồng, bởi cái con người ấy là đáng bỏ đi, mà là sang để cho rõ mặt quân bội bạc và kẻ phản bạn, tỏ rõ cái thế của người chính nguyên. Ý định này, Thu Liễu ngỏ trước tiên với Kiều Linh. Linh bảo: “Em chưa có chồng nên không hiểu thế nào cho phải. Còn theo ý riêng em, cái lão trí thức dỏm ấy có đáng gì. Đá phắt đi cho nhẹ bụng. Trên cõi đời này thiếu gì người đáng mặt đàn ông!... Mà ngay ở phòng mình đây cũng có… Ađam đấy”. Kiều Linh đưa mắt về phía y và hai đứa cười rúc rích với nhau. Y đang tư lự trong góc của mình, nghe lọt nhưng làm ngơ không biết, chỉ nhẩm bụng: “Được rồi, cứ để xem…”.Chuyện ấy, Kiều Linh kể bô bô cho chị Thoa và chị Nguyệt nghe. Chị Thoa toang toác: “Theo tôi, đi hay không đều được. Sang đấy, tỏ mặt anh thư, dạy cho chúng nó một bài học… còn như không, thì phải biết quên, coi như chúng không có ở trên đời… Xin lỗi, nhẹ đũng quần!”. Chị Nguyệt cười. Kiều Linh hô: “Hoan hô mợ Thoa. Thế mới đáng mặt phụ nữ Việt Nam chứ”… Còn bõ Nguyệt lắc đầu: “Tao chịu mày!... Này, thật lòng mình muốn khuyên nó đừng đi, chỉ tổ tốn tiền, mất thời gian để mua lấy cái bực mình mà thôi”. Kiều Linh vờ làm quan tòa, gõ cái cục chặn giấy xuống mặt bàn: “Ý kiến đó nghe lọt tai, tòa chấp thuận… Thế còn anh, hỡi Ađam?!... Y từ nãy vẫn mủm mỉm cười nghe mọi người nói chuyện, khi nghe Linh chuyển giọng trên, y đứng phắt lên, phảy tay: “Bảo nó quên ngay cái bọn mèo mả, gà đồng ấy đi. Nếu còn thích lấy chồng… thì đây sẽ duyệt!”. Và y vênh mặt lên rất kiểu cách. Chị Thoa ré lên: “A ha… thật đáng mặt anh hùng”. Kiều Linh gân cổ: “Đúng rồi! Anh có mẽ đẻ con trai đấy. Để em bảo chị Liễu. Tuần sau chọn ngày tốt cưới liền”. Chị Nguyệt hết khùng khục, lại gật gù…Đấy, đại loại những chuyện phiếm trong phòng như thế đã giúp Thu Liễu dần nguôi ngoai. Có lẽ, anh chàng tiến sĩ ngành xã hội học ấy sẽ chẳng còn gây ra một vụ xì-căng-đan nào đáng để các thành viên trong phòng quan tâm.Nhưng rồi, lại đùng một cái nữa. Thu Liễu mếu máo báo tin cho cả phòng biết, tay chồng cũ của cô ở bên Đức vừa mới chết. Trong chuyện làm ăn buôn bán của Diệu, người vợ mới của anh ta có gì đó mờ ám không song phẳng, bọn họ đòi nợ và thanh toán lẫn nhau, tay tiến sĩ xã hội học bị vạ lây. Thiêu xác để lọ tro, chờ ngày đưa về nước, vì gia đình anh ta muốn vậy, còn cô vợ mới thì chỉ muốn tống khứ cái lọ chết tiệt ấy đi sớm ngày nào tốt ngày ấy.Những ngày này, Thu Liễu buồn lắm. Cái buồn hiếm thấy ở cô, ngay cả khi bị chồng phụ tình cô cũng không buồn đến thế. Quan sát bộ dạng, chị Thoa phán: “Giời ạ… Con Liễu nó vẫn còn yêu cái tay kia”. Chị Nguyệt trầm ngâm: “Dẫu sao cũng tình nghĩa vợ chồng, ngần ấy năm đầu gối tay ấp, có một mụn con với nhau”. Còn Thủy thì cau có: “Tôi cũng lạ… cái Liễu thương gì con người bạc tình bạc nghĩa ấy chứ. Bao nhiêu năm ky cóp nuôi nó ăn học thành tài, đến khi công thành danh toại nó lại đi bưng bô cho kẻ khác. Những người như thế, có mà…”. Chị Nguyệt chua xót: “Em ơi, đời con người biết thế nào… có ai nắm tay từ sáng đến tối được đâu…”. Kiều Linh nói như hét lên: “Các cụ khốt ơi, sao cứ ca mãi sáu câu vọng cổ thế! Phụ tình thì tình phụ. Quên đi mà lấy chồng… Nào, ngài Ađam có duyệt bà Liễu không thì khẳng định đi một tiếng… Nếu không, tôi sẽ giới thiệu một thằng Tây, lúc ấy thì đừng có thèm rỏ rãi nhá…”.Chuyện ấy qua đi. Thu Liễu lấy lại niềm vui, sống hào hứng và sôi nổi. Cô vẫn bôn ba xuống đường làm thương mại như ngày trước nhưng bây giờ ở trình độ cao hơn. Thay vì buôn bán nhỏ kiếm lời, nay cô buôn nước bọt, môi giới, quảng cáo gì đấy. Suốt ngày cô nhông nhông trên chiếc xe Spacy. Còn lúc ngồi làm việc tại phòng thì liên lạc điện thoại gọi tới, rồi điện thoại di động, máy nhắn tin tít liên tục, nhiều khi cô rối lên chộp lung tung không biết tít ở máy nào. Mỗi lần thế, chị Thoa lại cười trêu: “Liễu ơi, mày cứ tít ở đâu ấy. Sao không tít ở phòng?”. Thu Liễu cười típ, bảo: “Ở phòng mình, em cũng tít đấy chứ. Nhưng mà… phần còn lại của thế giới không suy suyển. Chẳng lẽ, em lại bầy cả ra trước mặt, mời à?... Liễu cười rung người, khiến chiếc ghế lò xo không chịu nổi tụt hẫng xuống, cô mất đà chút nữa ngã bổ chửng. Y bị trêu tức, lẩm bẩm: “Cho đáng đời! Đúng là khủng long quật đuôi”. Rồi y kể một chuyện, rằng lúc còn sinh viên, y đọc nhiều sách và sáng láng lắm. Một lần y đi thực tập, đến một thành phố công nghiệp, y ăn ở tập thể cùng công nhân xí nghiệp. Một bữa, y xếp hàng đưa phiếu lấy suất ăn cơm của mình, khi vừa giơ tờ phiếu ra thì y thấy một cánh tay thò từ trên cao xuống ngáng trước mặt, y tức quá lầm bầm rủa kẻ chen ngang, chợt y thấy gáy mình bị vật gì đó chèn, thoạt đầu tưng tức rồi âm ấm nong nóng. Y ngoảnh lại nhìn, mắt lướt từ đôi bàn chân đi trong giày vải xanh to tướng, đến hai chân lừng lững như cột đình, rồi lên cao nữa đến “đôi gò bồng đảo” - hai cục vừa chèn vào gáy y, và cuối cùng là gương mặt đàn bà thản nhiên. Y cứng họng, chờ lấy suất cơm của mình mang ra bàn ăn. Người chen ngang là cô vận động viên bóng chuyền của xí nghiệp cao những ngót hai mét. Y bảo là từ khi y bị chèn vào gáy, trí nhớ y giảm sút rõ rệt. Nghe chuyện y kể, mọi người cười rũ, còn Thu Liễu thì giãy đành đạch: “Khỉ gió cái nhà anh này. Anh mà nói thêm câu nữa, tôi sẽ kích chuột xếp anh đứng thứ năm trong hàng, cho bọn đàn ông các người nổ tung biến đi khỏi màn hình như trò chơi Lines. Nói cho mà biết, đây không thèm tính điểm đâu nhé. Đây chỉ muốn những kẻ vô tích sự như… biến mất khỏi địa cầu”.Thu Liễu là người có sức sống mãnh liệt, kể cả nhu cầu tình cảm. Cô không hề có ý định ở vậy nuôi con, chết già để lấy cái bằng tiết hạnh khả phong. Một lần, Thu Liễu đưa một cậu đến ra mắt phòng, lúc chàng ta đi khỏi, ý kiến mỗi người đưa ra một kiểu. Thủy bảo: “Cậu ta trông có vẻ nho nhã. Chỉ tội hơi yểu tướng”. Chị Thoa bổ sung: “Đúng đấy… cậu ta mà đi với cái Liễu, nói xin lỗi, tớ cứ mường tượng đến cái cảnh hai chú bọ ngựa đi tơ, đang dở dang thì con cái đã ngoạm mất đầu con đực, xơi một cách hỉ hả”. Mọi người phá lên cười làm Thu Liễu đỏ mặt. Kiều Linh chen ngang: “Này các dì các mợ ơi, anh chàng trông như cái giá áo, đã thế, cạp quần lại đeo một chùm chìa khóa tướng, còn nặng hơn cả người. Bà Liễu mà rước cái của nợ ấy về thì hàng ngày cứ là phải cõng hắn đi rửa chân, kể cả đi… Còn hắn đi đâu thì hắn sẽ xích bà bằng chục cái khóa bố!”. Kiều Linh ngửa người ra mà cười, cười đến sặc nước bọt. Chị Nguyệt bảo: “Chúng mày thì ai cũng chê, nhất là cái con Linh kia, ác khẩu vừa chứ… Rồi có ngày đến cái thân mày!”… Linh thôi cười, mặt nghiêm chỉnh: “U ơi, lo con bò trắng răng. Con ấy à, sống được là phải thật khỏe, còn khi đã dặt 6 dẹo, thì… hoặc là dăm chục viên thuốc ngủ êm ru, hoặc là lên nóc cao ốc nhảy dù…”. Chị Thoa choe chóe: “Phỉ phui cái miệng lưỡi mày”.Những chuyện xung quanh hôn nhân, tình yêu của Thu Liễu bi hài lắm. Y biết cả, biết mong muốn của mọi người trong phòng gán ghép Thu Liễu cho y. Với Thu Liễu, yêu y thì chắc là không, song có lẽ cô ta cũng có cảm tình, và trong cảnh ngộ góa trẻ hiện nay thì có thành đôi cô ta chắc không từ chối. Còn y, cám cảnh cho cô ta lắm, song có lẽ y ngại cái tính xông pha của cô, thêm nữa, dù sao y cũng là trai tân. Có lần chị Nguyệt đã kể chuyện mình, song là để bóng gió y, rằng khi trước, sở dĩ chị đồng ý lấy ông chồng bây giờ là bởi ông ta chân thành, quyết tâm và sẵn sàng bất chấp mọi chuyện. Khi ấy, cơ quan bạn bè cũng từng trêu đùa ông ta rằng: “Trai tơ lấy phải nạ lòng. Như nước mắm thối chấm lòng lợn thiu”.Trong số những người đàn bà ở phòng, chỉ có Thủy là có vè không ủng hộ chuyện này. Có lẽ bởi bản tính kín đáo, cẩn thận vốn có, bởi sự tận tụy cho gia đình đến quên cả mình của Thủy?4. Không hiểu từ bao giờ, cánh đàn bà gán cho vị trưởng phòng của mình nhãn hiệu người đàn bà của gia đình. Thực ra, đã là đàn bà thì ai mà chẳng vì gia đình. Không phải ngẫu nhiên mà người xưa đòi hỏi người đàn bà phải có tứ đức - công, dung, ngôn, . Những lúc cả phòng nói chuyện, bình phẩm nghiêm túc về những giá trị truyền thống ở phụ nữ thời nay, Thủy đã viện dẫn ra như vậy, lôi cả Khổng Tử, Mạnh Tử vào cuộc. Trước lý luận mang tính kinh viện, ai cũng gật gù tán thành, song với cuộc sống hôm nay, thì đằng sau nó luôn có một chữ nhưng…Ừ, giá trên đời này không có chữ nhưng thì có lẽ mọi chuyện đều xuôi chèo mái mát, đều êm thấm cả, chẳng phải thời nay mà thời xưa cũng thế. Nhưng thôi, đấy là chuyện về sau… chuyện gia đình nhà Thủy, hơn một lần, chị Nguyệt công khai khen trước đám đông. Chị phân tích, này nhé, vợ mảnh mai, hiền thục, chu đáo, hết lòng vì chồng con; còn chồng, to cao, đẹp trai, có chí tiến thủ, có chức tước, lại thêm phần hào hoa phong nhã, thử hỏi mấy người hơn? Còn như hai con gái thì thời nay, quan điểm hiện đại, con nào cũng là con, miễn học giỏi, hiếu thảo và sau này thành đạt. Nghe chị Nguyệt phân tích, mọi người ngẫm nghĩ, thấy có lý, gật gù tán thành song trong thâm tâm, dường như ai cũng cảm thấy ở cái gia đình ấy còn thiêu thiếu một cái gì đấy, không rõ hình hài, khó gọi thành tên. Thủy nghe mọi người tán thưởng, miệng chối, nhưng thái độ thì có vẻ mãn nguyện. Y nhớ, có lần trong phòng chỉ có hai người, chị Thoa đã kể cho y nghe chuyện nên vợ nên chồng của Thủy. Ngày ấy, Thủy là con gái Hà Nội gốc, nhưng học xong đại học, được phân công về một bảo tàng tỉnh. Còn Vinh, chồng Thủy xuất thân nông thôn song lại may mắn công tác ở một cơ quan trung ương. Trong một chuyến đi công tác, Vinh đi thăm bảo tàng tỉnh, tình cờ gặp cô hướng dẫn viên xinh xắn, ăn nói có duyên, sinh mến. Từ mến thành thầm nhớ. Hễ có dịp về công tác tỉnh ấy là anh chàng thế nào cũng mò đến bảo tàng để được gặp, được ngắm và hỏi chuyện cô hướng dẫn viên. Lâu thành quen, thành yêu, rồi lấy nhau. Sau khi có đứa con đầu, Vinh tìm mọi cách chuyển vợ về Hà Nội. Hợp lý hóa gia đình, vợ chồng con cái hằng ngày bên nhau, tưởng gia đình ngày đêm đầm ấm, ai ngờ mâu thuẫn lại nảy sinh. Trước đây, vợ chồng xa nhau, tháng vài ba lần chồng từ Hà Nội về tỉnh thăm vợ, lâu lâu đôi ba tháng vợ theo chồng lên Hà Nội chơi kết hợp thăm bố mẹ, cặp vợ chồng thấy quý những ngày giờ ở bên nhau, lần nào cũng ngỡ như tuần trăng mật, bao nét đẹp đều bộc lộ, nết xấu bị xuê xoa. Khi ở gần nhau, những nhớ mong khắc khoải, khát khao đam mê về nhau không còn, thêm nữa, đời sống kinh tế, tinh thần hạn hẹp, bao nhiêu nết xấu ngày một ngày hai phơi ra hết, thế là sinh chuyện. Thế nhưng, những va chạm sinh hoạt hàng ngày không đáng kể, cái lớn hơn là sự mâu thuẫn, nghi kỵ lẫn nhau. Thủy không thật đẹp, song điệu bộ nói năng tươi tắn dễ gây được sự cảm mến từ phía người đối thoại, nên trong quan hệ với người cùng cơ quan, với người ở cơ quan khác, Thủy thường được họ quan tâm, chầm bập. Vinh khó chịu với điều đó, về nhà hay cáu bẳn với vợ. Mặc dù Thủy bị động trong các mối quan hệ và nhiều lần giải thích cho chồng nghe, nhưng mỗi lần như thế, không những anh ta có thể hiểu và thông cảm, thì ngược lại Vinh càng thêm bực tức. Có lần, chị Thoa bảo Thủy: “Thủy ơi, mày hạnh phúc thật đấy, luôn được chồng yêu”. Chị Nguyệt nghe rồi cười, từng trải bảo: “Chưa chắc đâu, mấy cô ơi. Cánh đàn ông nó ích kỷ lắm. Có khi đầu óc nó mơ tưởng đến bóng hồng nào khác, nhưng lại muốn vợ phải thủy chung, tận tình với mình. Nó bực, nó ghen, nhiều khi chỉ là để xác định quyền sở hữu”. Thủy nghe, nghệt mặt: “Ừ nhỉ! Sao trước không nghĩ ra”. Thủy cười gượng, cái cười khiến khuôn mặt trăng mười sáu của cô thành trăng mười chín. Y nghe đám phụ nữ bình phẩm, ngứa miệng thêm vào với mục đích cơi chuyện, trêu tức: “Khốn nỗi, mấy chục năm trước, khi chưa có luật hôn nhân gia đình mới, đàn ông thoải mái vợ hai, vợ ba. Nay cắt suất của người ta, đàn ông mới thành vụng trộm. Ngày trước, nhiều khi bà cả đi hỏi vợ lẽ cho chồng ấy chứ…”. Quả nhiên, cánh đàn bà mắc mưu, nhảy lên hết: “Thế thì còn đâu là nam nữ bình quyền. Đây nói cho mà biết nhớ… Ông ăn chả thì bà ăn nem!”. Chị Thoa nói như hét, mặt vênh lên, mắt long lanh. Còn Thủy nhăn nhó: “Vì có những tay đàn ông một mình dăm bảy suất… thế nên… mới có kẻ bốn mươi cái xuân xanh vẫn lẻ bóng, đơn chiếc…”. Y biết Thủy kháy y, định phản công, nhưng chợt y nhận thấy mặt Thủy đột nhiên thay đổi, buồn xịu. Có lẽ, chỉ mình y hiểu tại sao Thủy thay đổi nhanh chóng như vậy. Thủy cám cảnh mình. Trêu người chẳng bõ phận mình là thế. Bề ngoài hàng ngày, không mấy người hiểu hết nỗi đau, sự ám ảnh và sức chịu đựng của Thủy. Số là, sau đứa con thứ hai, Thủy mất đi sự mỡ màng duyên dáng của “gái một con trông mòn con mắt”. Thêm nữa sự bận bịu chăm sóc chồng con chu đáo, tuổi tác ngày một nhiều và cách ăn mặc cũng giản đơn nên từ lâu, Vinh chồng Thủy, chàng Vụ trưởng trẻ tuổi bắt đầu những cuộc săn bóng hồng. Thoạt đầu từ cái cớ chụp ảnh, rồi nữa là những gỉ gì gi… Vinh vốn là tay ảnh nghiệp dư từ trẻ. Anh ta say mê nhiếp ảnh và ít nhiều gặt hái được thành công, một vài bức được giải thưởng trong nước và cả quốc tế, cũng đã từng mở triển lãm ảnh chung với vài người bạn. Dăm ba năm nay khi xã hội có phong trào người đẹp, người mẫu thời trang, từ người hay chụp ảnh phong cảnh, Vinh thích thú chuyển sang chụp ảnh người mẫu. Người nhẫn nhịn như Thủy mà còn nhiều phen nổi giận vì cái thú chụp ảnh người mẫu, ca sĩ của chồng. Vinh chơi ảnh nghiệp dư, nên không có studio riêng, song anh ta có bạn bè làm ảnh chuyên nghiệp và cả tá những tay ảnh cần phải làm quen, phải xun xoe anh ta vì muốn cầu thân để nhờ vả. Vinh chơi ảnh người đẹp như một đam mê mới, đam mê đó không mang đến cho anh ta danh vọng nghề nghiệp và tiền bạc cũng không nốt, thậm chí còn thâm thủng. Hàng tháng, Vinh phải tính toán từng khoản tiền thêm nếm ngoài lương mà trước đây anh từng nâng niu đưa thêm cho vợ với niềm hạnh phúc trân trọng, thì nay để vào quỹ đen, sử dụng là ảnh phí, chiêu đãi phí. Với Vinh, chụp ảnh với các đối tượng này, anh ta thỏa mãn được cái thú ngắm nghía người đẹp ở mọi góc độ, được cầm nắm chân tay các cô khi sửa tư thế, và cũng có thể được… nhiều hơn nữa.Tất cả những việc ấy, trước sau Thủy đều biết, và ít nhiều chấp nhận. Hồi mới chuyển về phòng này, trong những câu chuyện phiếm hàng ngày, cánh phụ nữ người này kẻ nọ đều kêu ca chuyện chồng con, chuyện bên nhà chồng, thì riêng Thủy, động nói đến là khen và chưa bao giờ ai nghe thấy Thủy phàn nàn. Đến mức chị Thoa người hay kêu ca bên nhà chồng nhất, bực mình nói kháy: “Với cái Thủy ý à, thì đến con mèo, con chó bên nhà chồng nó cũng đẹp, cũng tốt”. Vì câu nói ấy mà chị Thoa và Thủy giận nhau đến nửa tháng trời. Sau đấy, dù có làm lành, hai người sinh bằng mặt không bằng lòng, khác hẳn cái hồi thân nhau chị chị em em, con chấy cắn đôi. Cũng có lẽ vì thế, mặc dù tính bộc tuệch, tốt bụng, song thói quen đàn bà khiến chị Thoa hay để ý chuyện gia đình nhà Thủy. Lúc vợ chồng Thủy còn nồng thắm, chứ chưa chủng chẳng như sau này. Vinh vốn tính hay ghen, đã có lần Vinh không kìm được mình, đã đánh Thủy một cái tát, khi Thủy đi làm về muộn lại đi nhờ xe người đàn ông khác đến tận cửa nhà. Chuyện này, chị Thoa đã thầm thào kể cho y nghe, bảo với y là cùng theo dõi để xem từ đó trở đi, Thủy còn mở miệng là khen chồng và gia đình nhà chồng nữa không. May mà y là người kín đáo, không hé chuyện cho người nào nữa, chứ không thì rầy rà to…Với Thủy, thế là thành há miệng mắc quai. Chồng sinh chuyện sinh tật gì, cay đắng, âm thầm, cắn răng, nuốt nước mắt mà chịu một mình. Là người tinh ý, tinh khôn, hình như Vinh biết được điều đó, anh ta cứ ngày một lấn tới, còn Thủy thì cứ nhất nhất tuân thủ một điều nhịn là chín điều lành, lùi mãi, yếu thế… Có một dạo, cả phòng thấy Thủy sầu não, đến cơ quan vật vờ như xác không hồn, thường ngồi im ở bàn của mình chẳng nói năng gì, động ai hỏi đến là giật mình như ngủ mê sực tỉnh, công việc thì nhớ nhớ quên quên. Cánh đàn bà thầm thào hỏi nhau, chịu không biết chuyện gì, song tất cả phỏng đoán nhất định là gia đình Thủy có chuyện chẳng lành. Lại dò hỏi y, y cũng lắc đầu nốt, Thủy có buổi đến văn phòng chốc lát đầu giờ rồi đi đâu mất tăm đến quá trưa sang chiều mới về phòng, bộ dạng thất thểu, mệt mỏi. Chị Nguyệt săn sóc, dò hỏi: “ !”. Thủy giật mình, lắc đầu quầy quậy kêu không việc gì. Một dạo lâu như thế, Thủy dộc đi, mắt trũng sâu, thâm quầng kiểu người thiếu ngủ. Thu Liễu phỏng đoán: “Hay là chị ấy bị bệnh hiểm nghèo nên giấu?”. Chị Thoa gắt: “Nhưng bệnh hiểm nghèo là bệnh gì mới được chứ?”. Thu Liễu thì thầm: “Ung thư?... hay là… HIV chẳng hạn… Này nghe đâu ông Vinh nhà bà ấy dạo này trăng hoa lắm thì phải… ừ mà biết đâu đấy, anh ta chơi bời ở đâu, tha bệnh về nhà… đổ cho vợ?”. Nghe đến đây, chị Thoa bỗng mắt sáng lên, và a một tiếng kéo dài, vỗ đùi đánh đét, như ngày xưa Ac-si-mét phát hiện ra định luật mới.Cái điều khiến chị Thoa cảm thấy như ông Ac-si-mét xưa kia phát hiện định luật mới dần dà được rỉ tai người nọ người kia và đến tai y có lẽ là người cuối cùng? Chuyện là thế này, mọi người nghi Vinh, chồng Thủy có một đứa con riêng. Xuất xứ của điều bí mật này bắt đầu từ chồng chị Thoa. Số là Kim - chồng chị Thoa có lần hỏi vợ mình tìm hiểu xem trong cơ quan vợ có vị nào chồng tên Vinh không. Chị Thoa bảo có, nhưng giấu không nói rõ đấy chính là chồng Thủy. Thế là Kim kể rằng, có một cô kế toán trong công ty của anh ta, nhà ở cùng ngõ với một cô gái người tỉnh lẻ, nghe đâu đã tốt nghiệp một ngành gì đó về văn hóa. Cô gái tỉnh lẻ này thuê nhà ở đấy, với một đứa con trai chừng vài ba tuổi gì đấy. Chỉ có hai mẹ con sống với nhau, khi hàng xóm xì xào về chuyện chồng con, có lần cô gái đã khoe với cô kế toán về hoàn cảnh của mình, vợ anh ta thì ở cơ quan nọ. Vì không thể bỏ mẹ con cô, nên anh ta đã phải thuê nhà cho hai mẹ con ở. Chuyện nọ dọ chuyện kia, vì thế mọi người mới nghi ngờ Vinh - chồng Thủy có con riêng với người khác và lén vợ thuê nhà cho người tình và đứa con riêng của mình sống. Nghi thì vẫn nghi, song nhìn dáng vẻ của Thủy, mọi người nghĩ có thể chuyện đó là thật. Nhưng lúc vắng mặt Thủy, cả phòng bàn luận tự do, chị Nguyệt bảo: “Khổ thân nó, gia đình như thế, tưởng hạnh phúc. Ai ngờ!...”. Chị Thoa gạt phắt: “Bà này cổ hủ quá, gì thì gì, mình vẫn là chính thất, đố tay Vinh dám ngo ngoe. Nó vụng trộm kệ nó, cái Thủy có hai con gái, bây giờ bỗng nhiên có thêm thằng cu, tay Vinh có người nối dõi tông đường, chắc từ nay hết lăng nhăng… cứ là è cổ mà nuôi những… hai vợ, ba con”. Mọi người cười rộ lên nhưng rồi lắng ngay. Câu nói đùa của chị Thoa chỉ khuấy động giây lát, bởi hình như ai cũng ngẫm nghĩ về thân phận người đàn bà sao khổ thế, nghĩ chuyện người rồi lại ngẫm thân phận mình.Nhưng đấy là chuyện của hai năm trước, bây giờ thì khác hẳn. Vợ chồng Thủy đổi nhà thành đất ở ngoại ô, xây biệt thự theo kiểu tây có tầng trệt làm gara và nhà kho hẳn hoi. Nhà bốn người đều có phòng riêng. Vợ chồng Thủy ngoài phòng ngủ chung thì mỗi người lại có một phòng để làm việc riêng của mình với đầy đủ tiện nghi đến mức nếu có chiến tranh lạnh thì mỗi vị hoàn toàn có thể lấy đó làm lô cốt cố thủ lâu dài. Mỗi phòng ấy đều có cửa thông ra hành lang bao cả tòa nhà. Hôm mọi người đến dự tân gia, nhân lúc Vinh chạy đâu đó, Thu Liễu bảo: “Chị Thủy ơi, nhà thiết kế kiểu này thì vợ chồng dễ xa nhau lắm. Em mất chồng vì nhẹ dạ cả tin. Giờ có đi bước nữa, em kiên quyết giữ chặt, có xây nhà thì sẽ không làm theo kiểu nhà chị”. Thủy cười độ lượng: “Ờ chị quen rồi… Đã qua cái thời tranh đấu với nhau rồi. Cũng sắp già cả mà!”. Nực cười, khuôn mặt rạng rỡ biểu lộ sự tự tin, điều hiếm thấy trước đây ở Thủy. Chị Thoa buột miệng: “Mất thì cũng đã mất rồi. Có sao đâu? Bây giờ, có các thêm tiền thì lão Vinh cũng đố dám bỏ… Mất toi cái nhà bạc tỷ ngay!”. Chị Nguyệt đưa tay che miệng xuỵt, bảo: “Cái Thoa chỉ được phũ miệng. Đây không phải là chỗ đùa quá như thế đâu”. Kiều Linh kêu lên: “Mợ ơi, mợ lúc nào cũng cẩn trọng, điều độ thế. Cuộc đời được mấy mươi năm… Mà này, các chị ơi, không khéo nhà này giờ giữ giam lẫn nhau, ông Vinh giữ chiều khóa cửa thoát hiểm của bà Thủy và ngược lại…”. Kiều Linh khoái chí cười khiến mọi người cười rộ lên. Thủy mắng yêu: “Cái con ranh này… Rồi còn cuộc đời người đấy ngươi ơi! Cười người hôm nay, ngày mai người cười…!”. Chị Thoa thấy Vinh vẫn vắng mặt, tranh thủ đùa: “Nhà rộng thế này, bỏ không tổ bụi… Thủy ơi, xem có phòng nào cho Ađam của bọn mình thuê một phòng”. Thủy tấn công lại: “Nhà chị cũng rộng chẳng kém nhà em, chị cho Ađam ở nhờ đi!”. Chị Thoa bị bất ngờ, ớ người: “Không được! Lão nhà tao…”. Y chen vào cắt ngang cuộc khẩu chiến giữa hai người: “Cái tay O-ten-lô dởm kiêm tỷ phú của nhà bà Thoa thì có các vàng đây cũng chả nhìn mặt nữa là ở gần lão. Họa có bà Thoa miệng hùm dạ sứa cam chịu sống cả đời…”. Chị Thoa a a một hồi rồi nín lặng, và dường như tất cả mọi người đều bất ngờ với câu nói sống sượng của y… 5. Điểm mặt đám đàn bà trong phòng, có thể nói chị Thoa là người dễ chịu hơn cả. Chị Nguyệt cẩn trọng và đúng mực, Thủy thu mình và có vẻ khôn khôn, Thu Liễu linh hoạt và bốc đồng, còn Kiều Linh thì luôn luôn Delux và tự nhận là xê-ri đời chót, chỉ có chị Thoa là xởi lởi, chu đáo, nhiệt tình với mọi người, mọi việc xong phải cái hơi bỗ bã nên nhiều khi mất lòng. Về hình thức, chị Thoa cũng sắc nước hơn tí chút. Là người bạo miệng, nói thẳng ý nghĩ của mình trong những cuộc chuyện phiếm quanh bàn trà văn phòng, và cũng không ngại mất lòng hay không, ấy thế mà chị Thoa lại ngậm miệng lảng tránh khi y buông lời giễu cợt Kim và đời sống vợ chồng chị. Cũng như Thủy, chị Thoa được nhiều người trong cơ quan cho là sung sướng, hạnh phúc hơn người. Chồng bảnh bao, hái ra tiền, con cái khỏe mạnh, ngoan ngoãn, công việc nhàn hạ, mưa không rát mặt, nắng không tới đầu, thử hỏi còn gì hơn nữa. Mới lại, trông dáng vẻ bên ngoài quý phái, trang phục đẹp nền nã như một mệnh phụ phu nhân, thêm nụ cười tươi tắn trên môi, ai nghĩ là chị Thoa khổ. Riêng chị Nguyệt, là người từng trải, có lần bảo nhỏ với y: “Người như cái Thoa, chỉ riêng cái nhìn vời vợi những lúc riêng một mình, đủ thấy là người khổ cái tâm. May mà, hoặc nó là người tự tin, hoặc giả vô tư nên chỉ thoáng qua ngoài khó thấy được”. Y cho là chị Nguyệt tinh ý, còn riêng y, từ ngày mới về cơ quan được một thời gian, y đã có ý nghĩ như vậy. Thêm nữa, nhìn cái miệng nói cười tươi và đằm thắm, với những khóe môi ham muốn đầy biểu cảm của chị Thoa, y hiểu đây là một con người chân tình nhưng cả đời khổ tâm về những chuyện tình cảm, vì lòng tốt của mình.Có lần, cả phòng đi vắng, chỉ có y và chị Thoa, mỗi người đều lúi húi với công việc của mình, chợt chị Thoa gọi: “Này… chị hỏi thật nhá… cậu đã có người yêu chưa?... Đã từng yêu bao giờ chưa?...”. Y ngạc nhiên, nhìn trân trân. Chị Thoa như khẽ cười, vẻ khuyến khích. Y bảo: “Chưa… nhưng đã từng có…”. “Thế à!... Người như cậu, khó gần và khó yêu… nhưng khi đã yêu thì khó dứt bỏ…”. Chị Thoa nói như nhà tâm lý. Y giễu: “Thật thế à… Vậy mà đây chẳng hiểu nổi mình…”. Chị Thoa nhìn thẳng vào mắt y: “Này… cũng hỏi rất thật lòng nhá… không thích thì không phải trả lời”. Y tỉnh queo: “Lẽ dĩ nhiên!”. Chị Thoa đỏ mặt, cười cười: “Thế cậu… đã bao giờ gần gũi đàn bà chưa?...”. Y thấy ngượng mồm nhưng không thể nói dối: “Rồi… nhưng mà không phải hoàn toàn như vậy…”. Chị Thoa: “Thế là thế nào?” “Hồi còn dạy học ở Tây Bắc, có một cô học trò chỉ kém có vài tuổi… nghĩa là đã lớn rồi… cô bé thích… Nhân một bận cô bé rủ đến thăm nhà một học sinh khác vào buổi tối… Đường rừng. Cô bé giả vờ ngã, mình đỡ, cô bé cứ ôm riết lấy mình, nói là yêu và đòi… Hoàn cảnh khi ấy… cũng xiêu lòng… tưởng mọi chuyện đã xảy ra nhưng rồi kìm được… có lẽ, phần vì nghĩ cô ta là học trò, vả lại không yêu… nhưng có lẽ hơn cả là nỗi sợ… Sợ dính vào cô bé mà để lại hậu quả, sợ cô bé là người dân tộc sau đó sẽ bắt lấy, sợ cả bùa ngải bùa yêu gì đó của họ… Tóm lại là vì sợ… Thế thôi!” “Không… với người yêu cơ”- Chị Thoa vẫn chưa chịu buông tha: “Không… là với người yêu cơ”. Thấy y không trả lời, chị Thoa dời bàn làm việc lại chỗ bàn trà, rót nước sôi vào ấm, chắt ra hai chén bảo: “Ra uống nước này”. Rồi không đợi, tự cầm lên một chén, uống xì xụp một mình, vừa uống vừa xuýt xoa vì nóng, như thể đang chết khát. Y ra ngồi đối diện, cũng cầm lên một chén, ngửa mặt lên trần: “Thế thì chưa”. Rồi cũng xì xụp uống. “Nếu như… có khi cũng chả dám… Ngữ ấy có mà vừa… vừa run”. Không nhìn nhau song y biết chị Thoa đỏ mặt, và y cũng đỏ bừng mặt, cố tình trai lơ: “Sao lại không dám… Đây sợ gì!...”. Bốn mắt gặp nhau, và y cảm thấy một bàn chân mềm mại ấm nóng chà nhẹ lên bàn chân mình nơi gầm bàn. Y gợn người rồi một cảm giác dễ chịu lan tỏa khắp mình. Chị Thoa đặt chiếc chén cạn xuống mặt kính hơi mạnh, nén thở dài, đứng bật dậy: “Thôi làm đi… kẻo chưa được việc gì đã trưa”. Vừa lúc ấy thì cửa phòng mở toang, Kiều Linh ùa vào, toét miệng trêu: “A, phòng chỉ có hai ông bà này với nhau thôi à. Đi đâu hết cả rồi? Này nhé, có tranh thủ tán tỉnh nhau không đấy mà anh ả mặt đều đỏ lựng lên thế kia?”. Chị Thoa cố làm cho tự nhiên: “Con ranh kia, không ai vu oan giá họa như mày… Tao già rồi, chứ có non mỡ như mày thì cái ngữ ấy cũng…”- nói để trấn áp Kiều Linh nhưng mắt lại liếc xéo về phía y. Cử chỉ ấy không qua mắt Kiều Linh, nó bèn tru lên: “Này… bà đừng có cả vú lấp miệng em nhớ. Đây nói cho mà biết, đây vừa bắt được quả tớm, mắt liếc đưa tình với trai lại còn bù lu bù loa, mồm năm miệng mười cãi trắng à? Không hối lộ đây cái gì thì đây không bỏ qua cho đâu”. Kiều Linh cười bả lả. Hai người đàn bà đùa nhau đủ thời gian cho y bình tĩnh lại, bèn xen vào lạnh tanh: “Mày chậm chân rồi em ơi. Sớm chút nữa là chụp được một cene đẹp hết chỗ nói”. Kể từ hôm đó, y nhìn chị Thoa bằng cái nhìn khác. Càng ngẫm càng thấy những nhận xét của chị Nguyệt về chị Thoa đúng. Cũng từ đấy, cách xưng hô giữa hai người có khác đi. Nếu trước đây, y với chị Thoa xưng hô chị em với nhau thì nay chỉ lúc đông người vẫn vậy, còn khi có hai người với nhau, chị Thoa chủ động xưng mình và y thì nói trống không. Tự thân, không hiểu vì sao. Mà cũng chẳng cần phải truy nguyên ra làm gì. Cái gì đến thì nó sẽ tự đến. Thế thôi. Song y thấy cuộc đời có vẻ như đáng yêu hơn, tuy chẳng dễ chịu hơn chút nào. Trái lại, phiền toái hơn.Sự phiền toái đầu tiên mà y cảm nhận được là cách xưng hô. Cái cách mình mình, tớ tớ lửng lơ con cá vàng những lúc riêng hai người với nhau lâu rồi cũng thành quen miệng, và điều ấy đôi khi làm cho cả hai lúng túng trước đông người, khó chị chị em em như trước đây. Điều này không lọt qua mắt đám người rỗi việc, trước tiên vẫn là con ranh Kiều Linh. Một lần, khi mọi người đang tán gẫu với nhau, bắt được một câu xưng hô hớ của chị với y, Kiều Linh cất giọng ngân nga: “Trai tơ vớ phải nạ dòng…”. Không ngờ câu ca mà Kiều Linh ấm ử đó lại làm động lòng hai người. Chị Nguyệt nghiêm mặt, phiếm chỉ: “Cuộc đời con người ta không ai nắm tay được từ sáng đến tối cả đâu!...”. Còn Thu Liễu thì lại tưởng Kiều Linh ám chỉ người bạn tình mới của mình, tuồn tuột khai: “Con ranh kia… Vểnh tai lên mà nghe đây, chị mày nói cho biết nhá… Lão bồ mới của tao cũng chẳng trong trắng, chính quyên cái con tườu gì, lão một vợ hai con ở quê nhưng chê quê mùa, li dị rồi… Đây thích thì yêu chơi, còn lấy hay không thì hẵng chờ đấy, còn lâu lắm em ơi!...”. Mọi người vừa ngạc nhiên vừa buồn cười, ồ cả lên, rồi xôn xao bàn tán nên không để ý Kiều Linh đánh trượt mục tiêu chính, không chịu, ngầm nhấm nháy với Thủy và đánh mắt về phía y và chị Thoa ám chỉ. Không biết Thủy có hiểu hay không song vẫn vô tình như không? Mọi động thái của Kiều Linh không qua nổi mắt y bởi ngay từ lúc Kiều Linh khai cuộc y đã hiểu nó nhằm vào chuyện riêng của y với chị Thoa rồi. Trong khi đó, chị Thoa vẫn vô tư, sôi nổi bàn chuyện bồ mới của Thu Liễu. Và nhân đà tát nước theo mưa, y cũng hùa theo nhằm át chuyện của mình. Kiều Linh tức quá, im bặt, bặm môi, rãy rãy hai chân, lẩm bẩm: “Coi như lần này hụt một keo. Chờ đấy!...”. Nói câu này, Kiều Linh nhắm thẳng vào y, cười nửa miệng…Chuyện lấy chồng của chị Thoa nghe đâu cũng buồn cười và ly kỳ lắm. Y nghe mọi người nói, nọ kia lâu ngày chắp nối lại, cũng đủ hình dung ra mọi chuyện. Số là, lúc đang học cấp hai, đúng vào thời điểm Mỹ bắt đầu đánh phá miền Bắc bằng không quân, Thoa phải sơ tán về quê mẹ. Đấy là một vùng quê chiêm trũng cách Hà Nội không xa lắm. Làng quê nằm men theo một con sông nhỏ, nên đám trẻ làng lớn bé trai bé gái đều biết bơi cả. Chiều chiều, Thoa hay theo đám trẻ con dì con cậu ra cầu sông tắm. Thoa nhát nước, thường mặc cả quần áo đứng ven ven chỗ nước nông đến đầu gối. Một lần, đám trẻ quê hò reo ê ê và té nước trêu Thoa chán, một đứa táo tợn lén lặn xuống mò vào nắm hai cổ chân Thoa lôi thật mạnh ra ngoài. Thoa bị bất ngờ mất đà té nhào ra xa, sặc nước rồi chìm nghỉm. Bọn trẻ không hiểu được trò đùa của mình, bị bất ngờ nên lung túng chẳng biết xử trí ra sao. Vừa lúc ấy thì một cậu bé từ trên cành cây đa chĩa ra trên mặt sông nhảy ùm xuống, bơi lại chỗ Thoa đang chìm. Cậu ta lặn xuống giây lát đã ngoi lên, nắm trong tay bím tóc của Thoa, mắm môi vừa bơi vừa lôi Thoa vào bờ. Thoa mới sặc nước nên vẫn tỉnh, chỉ sợ thôi. Lúc ấy, Thoa không đủ bình tĩnh để nhìn người đã cứu mình. Hôm sau, qua đám trẻ, Thoa mới biết cậu bé ấy tên là Kim, người xóm trên. Thoa định bụng tìm gặp Kim bằng được để nói lời biết ơn. Thì ra, Kim học ngay sau Thoa một lớp ở trường làng. Nhân một lần ra chơi, để ý thấy Kim đứng một mình ở góc sân trường và hình như cậu ta cũng đang lén nhìn mình, Thoa bạo dạn đi thẳng đến nơi. Cậu ta định lảng đi thì Thoa gọi giật lại. Kim đứng sững, mắt nhìn xuống đất và mặt đỏ bừng. Thoa nói lời cảm ơn và còn hỏi tuổi, anh em trong nhà. Cậu ta lúng túng trả lời như một tội nhân bị hỏi cung. Thoa cố nén để không bật cười. Không ngờ, bọn trẻ để ý từ bao giờ, ùa ra chế. Cậu ta nhân lúc lộn xộn lẩn mất, còn lại mình Thoa khẩu chiến với bọn trẻ, và như mọi lần cãi nhau khác, Thoa không bao giờ thua. Nếu cứ nhìn bề ngoài đen đủi bé chắt của Kim như thế, Thoa không ngờ cậu ta lại hơn mình đến hai tuổi. Chuyện ngày nhỏ đi học là vậy, mãi sau này, khi Thoa đã tốt nghiệp đại học và đi làm rồi, Thoa gặp lại Kim trong một tình thế ly kỳ cũng không kém. Lần đó, buổi tan tầm, Thoa về nhà, lúc vượt qua đoạn đường có chắn tàu thì chuông báo tàu đến réo vang. Thoa vội vàng luống cuống thế nào để bánh xe đạp quẹo ngang kẹt xuống rãnh đường sắt. Tiếng còi tàu hú và tiếng bánh sắt ba-ri-e càng làm cho Thoa cuống không thể lôi chiếc bánh xe kẹt lên được. Đúng lúc ấy thì có một thanh niên nhảy qua ba-ri-e chạy lại chỗ Thoa bình tĩnh lôi chiếc bánh xe kẹt lên. Cả hai người và chiếc xe đạp chỉ kịp nép vào sát bên thì đoàn tàu ngang qua. Khi còn chưa hết sợ, mặt Thoa lại tái dại đi khi nhận ra chiếc bánh trước bị kẹt vênh cong không thể nào đi được. Người thanh niên vác chiếc xe của Thoa và bảo Thoa dắt theo chiếc xe của anh ta lên hè phố. Với túi đồ nghề mang theo, anh ta ngả chiếc xe của Thoa ra chữa. Lúc này, hai người mới có thời gian hỏi han tên, địa chỉ của nhau và thế là nhận ra nhau. Riêng Thoa không ngờ cậu bé Kim bé choắt đen đủi và quê kệch ngày nào nay lại trở thành một chàng thanh niên chững chạc, cứng cỏi như vậy. Từ lúc nhận ra người quen và ân nhân cũ, Thoa nói chuyện ân cần hơn nhiều và cũng không hề giấu giếm sự duyên dáng xinh đẹp của mình. Kể từ đó, Thoa thường nghĩ đến Kim với tình cảm trìu mến. Rồi một hôm, hết buổi làm việc, khi Thoa dắt xe ra khỏi cổng cơ quan thì cô đột nhiên sững người nhận ra Kim bảnh bao trong trang phục áo trắng xơ-vin chống chiếc xe cuốc đợi bên ngoài. Biết chắc là Kim đợi mình, song Thoa làm dáng khẽ nghiêng đầu mỉm cười chào rồi dắt xe đi thẳng. Thoa chỉ dừng lại khi nghe tiếng Kim gọi tên mình thảng thốt, lạc giọng. Đấy là buổi đầu tiên hai người đi chơi với nhau.Chuyện nên vợ nên chồng của Thoa với Kim còn dài dòng lắm. Gia đình bên Thoa không đồng ý cho Thoa lấy Kim, Thoa đã phải viện cớ rằng tuy Kim là công nhân nhưng là người có chí hướng và hiện đang hàm thụ đại học. Rồi cả chuyện Kim là ân nhân của Thoa những hai lần… Lúc tỉ tê có hai mẹ con với nhau, mẹ Thoa hỏi thẳng Thoa có yêu Kim không. Thoa ngập ngừng không nói được, bởi tự lòng mình, Thoa chỉ quý Kim xen chút biết ơn và kính trọng hơn là yêu, song Thoa biết là Kim rất yêu mình. Mẹ Thoa bảo rằng, như thế là khổ, bởi không yêu lấy khổ một nhưng yêu mà không được yêu lại vẫn lấy thì khổ những mười. Thoa cười cho rằng như thế thì người khổ mười là Kim chứ không phải mình. Mẹ Thoa bảo không ủng hộ song cũng không phản đối, lấy nhau sau này sướng khổ thế nào ráng chịu. Thế là họ cưới nhau và có với nhau hai mặt con. Phải thừa nhận, chục năm đầu, tuy vật chất gia đình còn thiếu thốn song gia đình đầm ấm, Kim nhất mực chiều Thoa, thằng cu con kháu khỉnh, khỏe mạnh. Thoa chẳng đòi hỏi gì hơn nữa. Kim chăm chỉ và thăng tiến ở cơ quan, được cử đi học ở nước ngoài. Ba năm vắng chồng, nuôi con, dẫu không thấm gì so với những người đàn bà phải đợi chồng đi chiến trận, song Thoa cũng phải vất vả, nén chịu nhiều thứ. Có lẽ Thoa sợ nhất là để lại điều ong tiếng ve khi chồng về nước. Và rồi, giữ đến mấy cũng không tránh khỏi, cái điều Thoa sợ nhất ấy đã đến. Chủ ý giữ gìn, và cũng chẳng có kẻ nào đáng mặt làm Thoa để ý, song con người nó vậy, cái duyên cứ toát ra ngoài, lôi kéo kẻ khác tự tìm đến với mình. Có một tay nhạc sĩ dọn đến ở gần nhà Thoa, nhân một lần bắt gặp Thoa dắt thằng cu con ngoài ngõ, hắn bắt chuyện bảo rằng thằng bé có quý tướng, dẫu chẳng được như mẫu thân tống thái tổ ở bên tàu xưa một gánh hai vua, thì đây cũng cỡ cắp nách tiến sĩ. Thoa ngạc nhiên và ít nhiều cảm động trước lời phỉng nịnh của hắn, nói lại đôi câu. Được dịp, hắn nhẹ nhàng giới thiệu mình và khen rằng Thoa rất có nét, rằng hắn là dân nhạc chuyên nghiệp, rất dễ rung động trước cái đẹp và hễ có dịp như vậy là phải chớp ngay lấy, biết đâu đấy lại làm được một tác phẩm nghệ thuật để đời. Đến đấy thì Thoa sợ vì cảm giác được sự không an toàn khi quen biết con người này. Và một lần, vào chủ nhật, Thoa gửi hai con sang bà ngoại, dọn dẹp nhà cửa, lôi chăn màn ra máy nước công cộng để giặt. Trưa đó, có người gõ cửa, Thoa ra mở thì ra anh chàng nhạc sĩ nọ, và khi còn chưa hết ngạc nhiên thì anh ta chìa ra trước mặt Thoa một tờ giấy mà trên đó nhằng nhịt những ký xướng âm. Thoa lúng túng không biết xử trí ra sao, thì hắn ta chủ động bảo đấy là một bản tình ca viết tặng riêng Thoa, rằng ở trong đó có tiếng chim hót, tiếng lá rụng, tiếng vòi nước chảy và cả tiếng người mệnh phụ nén thở dài tiếc tuổi xuân đang trôi khỏi cuộc đời mình từng giây phút… Và hắn lấy giọng hát lên khe khẽ. Thoa hoảng quá nhận đại cho xong chuyện. Dù không mời anh ta vào nhà, tìm cách đuổi khéo, song Thoa thấy đẹp lòng vì mình được người khác ngưỡng mộ. Sau đó khổ nỗi là mỗi ngày đều nén lòng đến mấy, Thoa cũng không khỏi lôi bản tình ca trên giấy ra ngắm, và mỗi lần như vậy, hình bóng chàng nhạc sĩ đẹp trai để râu chòm, ăn mặc hơi lập dị cứ lảng bảng nơi tâm trí. Và cũng đến lúc ấy, Thoa mới phần nào cảm nhận lời khuyên trước đây của mẹ mình. Tự nhiên Thoa thấy chồng mình sao đơn giản là vậy, lúc nào Kim cũng chỉ nhăm nhăm công việc cơ quan, lo tiến thân lập nghiệp cho riêng mình mà ít chú ý đến sở thích, nhu cầu của vợ, còn khi chiều vợ cũng lại đơn điệu vô lối. Thực tình, khi đó Thoa chỉ cảm thấy như thế thôi chứ chưa đến mức ý thức được rằng những suy nghĩ đại loại như vậy bắt đầu cho sự lục đục trong đời sống gia đình sau này.Thoa cũng không ngờ Kim lại có máu ghen tuông đến quá quắt. Chẳng những Kim ghen với anh chàng nhạc sĩ kia, anh ta còn ghen với bất cứ người đàn ông nào dù là người quen cùng cơ quan, bạn cũ của Thoa, thậm chí cả cánh hàng xóm nếu thấy người đó nói chuyện với vợ mình. Lúc đầu Thoa còn cảm thông, cho là mình ít nhiều có lỗi trong chuyện ghen tuông đó, nên trong công chuyện nơi công sở, Thoa thường tỏ ra bênh vực chồng mỗi khi có ai đó chê bai Kim về việc ghen tuông. Chị Nguyệt là người tỏ ra thông cảm với Thoa nhất. Không ít lần chị Nguyệt bảo: “Thoa ơi, chị với em thật chẳng may, sao cuộc đời chúng mình lại dính vào mấy cái tay nghệ sĩ dở hơi ấy chứ. Cái tay họa sĩ ngày xưa mê chị thì có khác gì gã nhạc sĩ hâm mộ em sau này. Mà chị em mình có hư hỏng gì đâu cho cam. Nói thì mọi người bỏ quá cho là nhận vơ, chứ trời cho chút nhan sắc lại hành hạ đến quá tội. Chẳng lẽ cả cuộc đời cứ phải nhăn mặt làm xấu với cả thiên hạ để lấy tiếng à, mà sống bình thường như mọi người thì lại không được…”. Kiều Linh nghe thế phản đối ngay: “Mợ ơi, được như vậy mới gọi là có tý chút để mà sống, chứ cả đời nhạt nhẽo cùng chồng con thì khác nào chết không chôn. Người đời có câu ca Một ngày tựa mạn thuyền rồng. còn hơn chín tháng nằm trong thuyền chài đấy sao. Dù đám nghệ sĩ chẳng đáng mặt rồng rắn gì và cũng hèn bỏ xừ, song cũng là những kẻ khác người. Chịu ghen một tý, vừa được tiếng là chồng yêu, vừa ra điều ta đây đáng mặt quần hồng, chẳng kém cạnh ai”. Nghe chị Nguyệt và Kiều Linh đấu khẩu với nhau, y nghĩ bụng, cái con ranh con này ghê ra phết, rất mô-đéc mà lại vẫn có vẻ già dặn, từng trải. Y bèn thủng thẳng: “Gớm thật, xin lỗi các quý bà, quý cô, chứ ghen nó cũng có đến ba bảy đường cơ đấy. Này nhá, ghen vì yêu, ghen vì sĩ diện, và ghen chỉ là để xác định quyền sở hữu, rằng đó là của cải hàng hóa, rằng cái của nợ ấy có đáng vứt vào sọt rác thì tôi cũng đã phải bỏ tiền ra mua, đứa nào mà đụng vào là tôi đánh cho bỏ đời. E rằng, các đức ông chồng của quý vị ghen ở trường hợp thứ ba… đây!?”. Cánh đàn bà lặng đi vì bất ngờ, ít nhiều về sự xác đáng trong lý lẽ y đưa ra. Chị Nguyệt lên tiếng: “Em ơi, sao lúc nào em cũng lạnh lùng, rạch ròi ra làm vậy. Chị em chúng tôi không hẳn là không hiểu chút nào, nhưng mà… đôi khi cũng phải dối lòng, phải mù mờ, AQ đi một tý cho nó dễ sống…!”. Y thấm thía câu nói và thầm nghĩ, ừ mà sao mình lại ác khẩu làm vậy. Thu Liễu lầm bầm, trái hẳn với bản tính: “Chả trách… người như thế… ế xưng ế xỉa… đàn bà đứa nào mà vớ phải thì thật khốn nạn…!”. Nghe câu trách của Thu Liễu, y không thấy tức, mà lại nhẹ lòng… Mọi người hiểu và thương quý y thật…Trở lại chuyện chị Thoa. Kim, chồng chị thật là con người không ngoan. Bao năm trời bao cấp, tuy lương ba cọc ba đồng song Kim tranh thủ thời gian học hết bằng này đến bằng khác. Gặp thời đổi mới kinh tế, Kim xin ra khỏi biên chế Nhà nước, lập công ty riêng, kinh doanh làm ăn phát đạt, phất lên nhanh chóng. Giờ ở phòng thì nhà chị Thoa là giàu có nhất. Chị đi làm, chẳng qua cho đỡ buồn, cho có việc làm, nói như Kiều Linh thì “quyền cao nhất của con người là quyền được lao động và bà Thoa đáng được hưởng cái quyền đó”. Một lần Kiều Linh bảo: “Cái nhà bà Thoa này nghỉ quách đi mà lo trông nom nhà cửa, lo con cái học hành. Lão giám đốc công ty vô trách nhiệm không thời hạn nhà bà thiếu gì tiền”. Chị Thoa bảo: “Tao chả dại gì làm ô-sin cho cha con nhà nó. Đi làm tuy lương thấp, chí ít là tao cũng có cảm giác không phải là người thừa, không phụ thuộc vào ai cả. Với lại, tao quý chị em phòng mình và… Ađam cũng dễ thương đấy chứ?...”. Mọi người cười ồ cả lên, Kiều Linh châm chọc: “Ađam ơi, được người đẹp khen như thế, anh có phải nai lưng ra làm thân trâu ngựa giúp đỡ người đẹp cũng chớ có ca thán nhé, mà hổ tiếng người chỉ thiếu mỗi cái xương sườn”.Trong phòng, ai cũng cho là chị Thoa trông bên ngoài quí phái thế song khổ. Là khổ cái tâm thôi. Riêng Thủy bảo: “Khổ cái nỗi gì, mọi người cứ bênh bà Thoa, chứ tôi thấy bà ấy chẳng có gì mà khổ tâm cả. Ừ thì cứ cho rằng chồng ghen một tí đi, chẳng qua cũng là gia vị của cuộc đời, cho đỡ tẻ nhạt. Với lại, ở đời mấy ai tự nhận là mình sung sướng, hạnh phúc cả đâu! Có khi trong bụng tự mãn sướng hơn người, song vẻ ngoài cũng phải làm ra khô khổ một chút cho cùng cảnh ngộ với nhân loại chứ!?...”. Chị Nguyệt gật gù: “Thủy nói có lý lắm… Nhưng mà cái Thoa nó bận tâm thật đấy. Nó không phải là người tâm địa lắt léo, nên cũng không đến mức cố tình làm ra thế này, thế nọ… Cánh đàn ông, bình thường họ vị kỷ, và họ sẽ cố chấp hơn khi ghen tuông. Họ muốn được nhiều, càng nhiều càng tốt và không muốn bị mất bất cứ cái gì mà họ đang sở hữu, dù đó là của thừa… Mà cái Thoa lại không phải là đồ bỏ đi, phải thế không nào!?”. Mọi người cười ồ vì câu pha trò của chị Nguyệt. Thu Liễu bĩu môi bảo: “Cái nhà bà Thoa này cũng dớ dẩn lắm cơ. Tưởng đâu phòng mình chỉ có gái này là dại dột. Tôi kể chuyện này mọi người đừng cho là thóc mách, nói xấu sau lưng nhé!...”. Kiều Linh thêm vào: “Này, thế có cháy nhà, chết người, hay ngoại tình lâm ly không thì hãy kể”. Thu Liễu ấn tay vào trán Kiều Linh: “Không cháy nhà chết người song ngoại tình thì có đấy…”. Thu Liễu cười bí hiểm, làm Kiều Linh sốt ruột: “Này… có phải bà Thoa với… ấy… không?”. Y nghe vậy thoáng chột dạ. Chị Nguyệt vội vàng ngăn: “Này con Liễu kia, chuyện gì không rõ thì chớ có nói lung tung mà rồi không thành có, một thành mười mà tan của nát nhà người ta đấy”. Thu Liễu phảy tay, bô bô: “Cụ Khốt-ta-bit Nguyệt ơi! Tình thương yêu đồng loại của cụ hơi bị bao la đấy. Hơi đâu cụ lại cứ đi lo cho thiên hạ. Lo con bò trắng răng. Chuyện là như thế này…”. Thấy Thu Liễu hắng giọng, e hèm đến mấy bận chưa kể, Kiều Linh sốt ruột nghển cổ lên: “Kìa… Châu Mỹ đang ở trước mắt nhà người đấy!... Hỡi Cristophe Colombo, con của Chúa!”. Thu Liễu kể: “Chuyện ngoại tình thật đấy… nhưng không phải bà Thoa, mà là tay Kim nhà quê của bà ta… Cách đây ít lâu, bà Thoa nghe đâu biết được lão Kim bắt bồ với một cô bé là nhân viên thư ký hay kế toán gì đấy trong cái công ty vô trách nhiệm không thời hạn của lão. Lúc đầu bà Thoa không tin vì cho rằng cái nhan sắc U50 của mình vẫn đủ làm mê tơi lão chồng, mà bằng chứng là lão ta vẫn ghen tuông với bà ấy…”. Y chen ngang: “Đấy, tôi đã bảo rồi cơ mà, thằng cha ấy ghen là vì sĩ diện, vì cái quyền sở hữu…”. Kiều Linh dẩu mỏ: “Này, may cho nhà anh đấy! Rõ cái lão ấy mù dở, ghen cũng không biết đường ghen, ghen vớ ghen vẩn… chứ không thì tan xác cái nhà anh”. Thu Liễu cười phá lên một hồi rồi kể tiếp: “Thấy bà Thoa vẫn bình thường như không, bà chị gái mới hỏi thì bà Thoa bảo là có thật thì cũng chẳng ghen. Bà chị liền tư vấn, xui hãy giả vờ ghen, chí ít cũng làm cho tay Kim chột dạ và về sau không dám ghen với bà Thoa nữa. Bà Thoa nghe bùi tai, làm theo… nhưng khốn nỗi không biết làm thế nào. Bà chị lại xui bà Thoa theo dõi tay Kim làm sao bắt quả tang một lần đi với bồ, để có cớ sau này xử trí… Thế là một bận, bà Thoa lén theo dõi chồng và thấy tay Kim dừng xe ở một chỗ và hình như đang đợi ai đó. Bà Thoa cũng dừng xe cách đấy một quãng rình xem sao. Không ngờ, đúng lúc ấy bà Thoa phát hiện ra một người bạn gái quen từ thuở học phổ thông liền gọi. Hai người gặp lại nhau, tay bắt mặt mừng, líu ríu hỏi thăm chuyện của nhau, lúc chợt nhớ ra, mới nhìn lại thì tay Kim đã biến mất khỏi chỗ hẹn từ bao giờ chẳng rõ… Thế là cho đến tận bây giờ bà ấy vẫn không rõ là chồng mình có bồ bịch thật không. Rõ cả tẩm!...”. Mọi người phá lên cười. Tan cười, Thủy mới thủng thẳng: “Thế mọi người có biết chuyện ấy còn khẳng định một điều gì khác không, về phía bà Thoa?”. Chị Nguyệt mủm mỉm ra điều biết nhưng không muốn nói. Còn y thì làm thinh như không nghe thấy. Chỉ có Thu Liễu và Kiều Linh thi nhau đưa ra nhận định của mình. Chán chê, Thủy vẫn lắc đầu, bảo: “Chứng tỏ bà Thoa không yêu chồng… Không yêu thì không buồn ghen… Còn ai làm bà Thoa không yêu chồng thì hậu xét…”. Mọi người gật gù tán thưởng. Tự nhiên y thấy bải hoải cả người. Tình yêu, sự ghen tuông, lòng thù hận… rồi công danh, sự nghiệp, con cái… tất cả đều rối tinh rối mù, chẳng có ranh giới rõ ràng. Thoắt thế này, thoắt thế kia. Y cũng chẳng cảm thấy lo lắng về chuyện mọi người nghi ngờ chị Thoa có tình ý với y. Cuộc đời khốn khó, xáo trộn như thế, con người ta sống với nhau, yêu thương được nhau chút nào là quý hóa, là may mắn cho nhau chút đó. Hà cớ gì cứ phải so đo, câu nệ điều tiếng, để rồi dày vò nhau, hành tội lẫn nhau?...Chị Thoa dùng chân đẩy cửa phòng, hai tay hai túi xách nặng những đồ hàng sau khi chị lượn lờ khắp chợ cùng siêu thị, đã chấm dứt dòng suy tư miên man của y và giải tán đám chuyện gẫu. Ai về việc nấy, cặm cụi trên mặt bàn một cách vô hồn, trong khi ấy chị Thoa nóng quá, lê ghế ngồi gần quạt, kéo ống quần bò lên ngang bắp chân, để lộ đôi chân trắng mẫm, thông thốc kể như tháo khoán chuyện giá cả, chợ búa… Y ngồi gần bàn kiều linh nên nghe rõ tiếng cô ta lầm bầm trong miệng: “Cái nhà bà này rõ vô duyên”. Y nghĩ, có thể trong phòng này, ai đó ngầm ghen, chê chị Thoa thế này thế nọ, chẳng qua là thấy chị xinh đẹp, hồn nhiên, vô tư trong ứng xử hơn mình mà thôi. Riêng bản thân, y thấy người như chị Thoa dễ sống hơn ối người. Có thể là đôi lúc vô tâm một chút, song quả là, từ chị luôn toát lên sự quyến rũ, dễ chịu và một cái gì đó gần với tự nhiên…6. Trong phòng thì Kiều Linh trẻ tuổi nhất, lại con nhà khá giả nên có thể nói không biết khổ là gì. ở nhà với cha mẹ thì được chiều chuộng, thích gì được nấy, đi học được bạn bè tôn làm sư phụ với các trò nghịch ngợm tinh quái, học xong gia đình chạy cho vào cơ quan hành chính, nhàn hạ mát mặt mà lương bổng cũng không đến nỗi nào. Tuy vậy, Kiều Linh cũng không phải là loại người chỉ biết dựa dẫm, hoặc động tý lên mặt ta đây con nhà giàu có, trên tiền. Chính vì thế, trong công việc cũng như sinh hoạt ở cơ quan, chín người mười làng, khó lựa, song Kiều Linh vẫn được mọi người quý mến. Như thế đủ biết Kiều Linh sống ra sao.Trong cái gọi là Documents của y, File K.L có những dòng tóm tắt đại loại là: hình thức khá, tính tình xởi lởi, khá thẳng thắn, có vẻ thương người, ít nhiều có chí tiến thủ, đôi khi hơi bốc đồng, thậm chí có gì đó lập dị v.v… Những cuộc đấu khẩu tay đôi hay đông người, Kiều Linh thường tỏ ra nhanh trí, không ít lần chuyển bại thành thắng. Song việc gì cũng có mặt trái của nó, sự hiếu thắng của Kiều Linh đôi khi gây khó chịu cho người khác. Được cái, mọi người trong phòng đều xuề xòa, bỏ qua, duy chỉ có Thủy là khe khắt hơn, phần bởi tính cách, phần bởi cương vị trưởng phòng. Thủy bảo không hề ghét Kiều Linh song quả thực khó chấp nhận được tính cách hiện đại của Linh. Có lần chị Thoa bảo Thủy: “Bọn trẻ bây giờ thế cả đấy. Thằng cu nhà tôi cũng vậy, hễ về đến nhà, nó chui tọt vào phòng riêng đóng chặt cửa, bố mẹ cần gì gọi dăm bảy lần nó mới thưa. Đến bữa ăn, miễn cưỡng làm một tô tú hụ hổ lốn thức ăn bê vào phòng, phôn nghe nhạc cắm tai, tay nhoay nhoáy bấm chuột vi tính chơi điện tử, miệng vừa nhai vừa ấm ử hát. Biết làm sao được?!... Rồi đây, hai con bé nhà cậu lớn thêm tý nữa, chúng cũng thế cả thôi, Thủy ạ!”. Thủy trầm ngâm, vẻ đồng tình, rồi thở dài bảo: “Chẳng phải đợi lâu, bây giờ chúng nó cũng đã thế cả rồi… Chúng ta thành già lão, thủ cựu tuốt tuột. Thế mới biết thời thế chuyển xoay chẳng biết sao mà lường!...”. Y nghe mấy bà nạ dòng ngán ngẩm, thở ngắn than dài với nhau sau khi so sánh với bọn trẻ, bèn động viên thật lòng: “Các bà tự nhận là thủ cựu, nhưng dẫu sao các bà còn là phụ nữ, là giống cái, với nhan sắc của mình các bà vẫn có thể xoay chuyển cả vũ trụ… Chứ như cái thằng tôi đây, dở ông dở thằng, dở Ta dở Tây dở Tàu, tôi còn chẳng lo nữa là…”. Thủy bĩu môi: “Thảo dân chân đất mắt toét chúng tôi đâu lại dám phân bì với nhà hiền triết, nhà nọ nhà kia như cậu”. Chị Thoa xì một tiếng, liếc xéo sang y một cái sắc lẻm, cười cười, lẩm bẩm: “Rõ là… đồ…”. Y hiểu là chị Thoa tức, cố tình trêu y là đồ ái nam ái nữ, là bởi y cứ lưng chừng trong mọi chuyện, kể cả chuyện tình ái, thiếu tính quyết đoán, chất thích chiếm đoạt kiểu đàn ông. Kiều Linh tính bạo dạn, ít bạn trai, nhiều bạn gái. Cô ta có cả một hội bạn gái dăm bảy đứa. Lâu lâu chúng lại phôn cho nhau, rủ nhau đi mua sắm mỗi khi túi rủng rỉnh tiền. Những lúc hội của Kiều Linh đến phòng, chúng mang đến bầu không khí trẻ trung hiện đại. Cả phòng chỉ mỗi Thủy không thích, còn đâu đều vui lây. Chị Thoa và Thu Liễu như trẻ lại dăm bảy tuổi, chị Nguyệt vui cái vui của người lớn cảm thông và chút gì đó tiêng tiếc cho mình khi trẻ đã quá cẩn trọng, cổ hủ, còn giờ đây thì cái già đã xộc đến. Riêng y là giữ thái độ bình thản. Thâm tâm, y cũng không ưa gì những gì những trò ồn ào, bắng xắng, song cũng không vì thế mà y hẹp hòi đến mức không chấp nhận cách sống của người khác. Y hiểu, thực ra Kiều Linh đang sống bằng mẫu hình của thế hệ cô ta. Xã hội đang có những bước chuyển đáng kể. Những kiểu người như y và mấy bà nạ dòng ở đây và cả thế hệ trước nữa không mấy thích hợp với thời đại mới nếu như cứ cố chấp, cố tình lấy mình ra làm khuôn mẫu bắt thế hệ sau phải noi theo, trong khi bản thân mình chưa hề và cũng không có ý định điều chỉnh lối sống của mình. Mâu thuẫn và bi kịch là ở đấy. Không riêng ở công sở, mà ngay trong mỗi gia đình, mâu thuẫn thế hệ đều bộc lộ khá rõ. Nếu như ở công sở, chín người mười làng, hàng ngày gặp nhau tám tiếng, ai có công việc của người nấy, dễ bỏ qua cho nhau những gì thuộc về mâu thuẫn thế hệ thì ở gia đình, người ta lại thường cố chấp. Kiều Linh, ở cơ quan, ngày nào cũng kể bằng một chất giọng hoạt kê vài ba câu chuyện đấu khẩu giữa cô với “ông bà cụ thân sinh ra tôi”, một cách chỉ bố mẹ mình, mà ở đấy biểu hiện “sự mâu thuẫn giữa nền quân chủ chuyên chế với nền cộng hòa”. Sau những câu chuyện như vậy, nếu y có chêm lời tỏ ra không đồng quan điểm với cô ta là Kiều Linh xì miệng, buông ngay cái câu: “Anh rõ giống hệt bố em… từ quan điểm triết học đến cách dùng nước chấm. Cứ phải chém to kho mặn, là nước mắm nguyên chất không pha phách gì thêm… Chao ơi, cứng nhắc và khó chịu”. Câu nói cửa miệng ấy của Kiều Linh dành riêng cho y bao giờ cũng làm mọi người cười và kích hoạt ba bốn cái miệng đàn bà khác ngoác to cùng be lên, kể tội y. Vì đã quá quen nên ít khi cáu, thậm chí y cảm thấy khoái trá là đã chọc đúng cái tổ ong vò vẽ cho loạn xì ngậu cả lên còn mình thì chui vào bụi rậm tránh được mấy mẹ nạ dòng, riêng với Kiều Linh thì khó. Một khi đã tham chiến, cô ta bao giờ cũng hết mình, luôn chiếm thế thượng phong, có cách lôi tuột y ra mà đôi khi chỉ bằng một câu phiếm chỉ. Phàm đã là đàn ông đàn ang, thường không mấy sợ người khác, nhất là phụ nữ chê tài hèn sức mọn, là công không thành danh không toại, ấy nhưng, hễ bị động chạm gì đến tính nam, đến bản chất giống đực của mình là dễ nổi khùng lên. Kiều Linh đã bạo dạn đánh thẳng vào điểm yếu ấy của y ở mọi khía cạnh. Sau những lần như vậy, y nhẩm bụng hoặc lầm bầm ra miệng: “Con ranh… Ngươi cứ đợi đấy, rồi cuộc đời ngươi sẽ tàn phai bởi vớ phải một gã nhập nhằng tai quái, không ra hồn người!...”. Thực ra, kể cả khi bực mình, y rủa thế thôi chứ không bụng dạ nào ác ý với Kiều Linh. Song có một điều y không biết, thậm chí không hề ngờ tới…Kiều Linh tính cách mạnh mẽ. Tính cách ấy được cô ta giải thích bằng tử vi, rằng lá số của cô là dương nữ. Thôi thì, cha mẹ sinh con trời sinh tính. Mà đã là trời cho thì bắt phong trần phải phong trần, thậm chí gánh tội vạ cho cả gia đình, cả thiên hạ cũng phải chịu, có muốn khác đi cũng không được. Và theo Kiều Linh, tính cách mạnh, thậm chí cứ cho là giàu nam tính đi chăng nữa thì cũng là đặc trưng làm cho cô khác người, còn hơn là cứ nhàn nhạt. Rằng người nhàn nhạt, sống nhạt thếch thì chẳng thà không còn hơn. Hơn một lần Kiều Linh bày tỏ trước đông người. Y nghe, nhẩm bụng, ái chà, hiện sinh gớm nhỉ. Hẳn là con ranh này vớ đâu đấy được mớ tiểu thuyết của Sagan hay Jean Paul Sartre nghiền ngẫm, rồi tiêm nhiễm. Song cô em ơi, em mới biết một mà không biết mười. Cần gì phải Tây hả cô em? Các cụ mình ngày xưa cũng đâu kém cạnh gì khi bảo rằng Một ngày tựa mạn thuyền rồng… kia chứ? Lại còn thần tình hơn khi chẳng cần phải viết hàng ngàn trang mà chỉ khái quát qua một câu lục bát là xong. Nhưng rồi cũng phải bỏ để vươn tới các giá trị vĩnh hằng của con người. May mày không buột miệng nói ra, chứ không thế nào Kiều Linh cũng làm điệu bộ chắp tay lạy: “Thôi thôi… con vái cả nón, xin các ông các bà, làm ơn cho… có một câu nói xửa xừa xưa mà hết bà cụ Nguyệt lại đến ông cụ non này mang ra để răn dạy…”. Tiếng thế thôi, chứ thực ra lối sống của Kiều Linh không nhất quán, vừa ra vẻ hiện sinh đấy nhưng rồi lại hết sức cũ kỹ ngay, cả trong ăn mặc lẫn ứng xử. Chẳng hạn, buổi trưa, Thu Liễu hứng lên rủ cả phòng đi ăn món mì ống kiểu Ý thì Kiều Linh lại nằng nặc từ chối bảo là sáng nay đã nhận lời về nhà ăn trưa cùng bố mẹ rồi, nên không thể thay đổi được. Thu Liễu bảo: “Mày phôn một cú bảo ông bà khốt tự ăn với nhau. Một bữa không chết ai”. Kiều Linh vẫn một hai về Chị Thoa bực quá bảo: “Mày sợ không về thì mang tội bất hiếu hay sao?”. Riêng y tủm tỉm công kích: “Đã hiện sinh thì hiện sinh cho trót, đến sống chết cũng bất chấp chứ chuyện vặt này có đáng gì!”. Kiều Linh nguýt y một cái rõ dài, chào mọi người, dứt khoát khoác túi ra về. Thế là bữa mì ống kiểu Italy của Thu Liễu không thành, bởi sau một hồi lời qua tiếng lại với Kiều Linh thì nhuệ khí giảm đi một nửa. Lại đành điện thoại cơm hộp chán chết.Thực ra, chuyện tính cách của Kiều Linh này nọ chỉ được mọi người bàn luận khi ai đó trong phòng có va chạm gì đó với cô. Ai cũng hiểu Kiều Linh sắc lẻm nên chẳng dại dây vào mà có phen mất mặt. Biết thế, nhưng hễ động chạm đến chuyện chồng con của Kiều Linh là mọi người ngứa mồm, không nói thì kém miếng khó chịu. Hơn nữa, đây còn là đề tài không biết chán của mọi người mỗi khi Kiều Linh vắng mặt. Về chuyện này, chị Nguyệt bao giờ cũng tỏ ra độ lượng, bảo: “Nó xinh đẹp, thông minh, con nhà khá giả, sống không đến nỗi nào, vội gì… Cứ bình tĩnh như thế đỡ chọn nhầm”. Chị Thoa thì choe chóe: “Ôi dào… Cứ cành cao không tới, cành thấp chim ỉa… rồi dăm ba năm nữa lại không ế xưng ế xỉa ấy à?”. Thu Liễu lại hơi chợ búa: “Lấy đại đi. Sống không nổi thì bai bai. Đò nhanh biết đâu cũng kịp vài ba chuyến… Thú vị ra trò!”. Thủy thì luôn đắn đo theo bản tính của mình: “Nghĩ mà thấy tiêng tiếc… Nó được mọi bề như thế mà lại… họa là cánh đàn ông có mắt như mù mới không nhìn ra…”. Đến nước ấy thì y không thể không lên tiếng: “Các bà các mẹ ơi… đâu phải đàn ông không nhìn ra nó mà nó không nhìn ra đàn ông!”. Thu liễu trề môi: “Thế Ađam cũng bị nó phát hiện ra nửa nọ nửa kia à?”. Cả phòng lại được một trận cười chí chết. Y nhăn nhó, đành cười theo. Cười cho tới khi thấy khóe mắt mình nhòe ướt mới thôi. Mà ngẫm kỹ thấy thật bi hài. Thế giới này dường như có một cái gì đó đang chuyển biến lạ. Văn hóa thì kim cổ, đông tây, sắc tộc, tôn giáo khác nhau lẫn lộn và rồi dường như bị xâm lăng chung bởi một thứ văn minh vật chất. Còn con người ư? Trai thì buộc tóc đuôi ngựa, đeo khuyên đầy tai đầy mũi, son phấn dầu thơm đủ cả. Nữ thì tóc húi cao, trang phục từ quần áo đến giày mũ như trai, rượi mạnh nốc cả chai và thuốc lá rít phả khói mù mịt chẳng thua kém gì. Và cả hai cái chủng người này có chung một sở thích là thích nghe nhạc pop rock, luôn miệng nhai kẹo cao su. Sự nhập nhòa về văn hóa và giới tính này chẳng phải biểu hiện ở đâu xa, cứ nhìn đám bạn bè và đàn em của Kiều Linh thì rõ. Mà ngay ở cái phòng làm việc một nhúm người của y thôi cũng thấy được. Cái sự muộn vợ và tính lừng khừng của y được xem là chập mạch. Y thì không hay tán gẫu hoặc bộc bạch ý kiến, chứ Kiều Linh thì mồm năm miệng mười, khi cần biện hộ một điều gì đó, bất kể đúng sai đều có thể viện dẫn ra hàng lô xích xông những chuyện trên giời dưới bể để minh chứng. Chẳng hạn, về cái việc chậm chồng của mình, một bận nghe ai đó xa xôi, Kiều Linh bèn kể ngay câu chuyện về một người bạn thân của mình. Chuyện rằng, cô bạn gái nọ, nhà đông chị em gái và trong số đó có đến mấy người muộn chồng. Đến lượt mình, cô bạn gái của Kiều Linh định bụng sẽ lấy sớm khi có cơ hội. Duyên trời, ngay sau khi tốt nghiệp, đi làm tạm cho một văn phòng công ty, cô quen một chàng trai là khách hàng của công ty. Hai người có cảm tình với nhau, rồi là những hẹn hò đi uống giải khát, đến những bữa cơm trưa bình dân, và kết thúc là đám cưới sau hơn năm quen biết. May mắn chỉ trong vòng năm năm trời sinh hai đứa đủ nếp tẻ. Công việc của cả hai cũng suôn sẻ, thu nhập ổn định. Những tưởng thế là hạnh phúc, chỉ còn mỗi cái việc nuôi con cái phương trưởng là bồi đắp thêm cho hạnh phúc gia đình. Nào ngờ, sau những hào nhoáng của hạnh phúc, những đam mê thân xác, những lo toan vật chất, những bận rộn con cái, đến một lúc mọi cái đều lưng lửng thì mới sinh chuyện. Chợt một đêm nào đó, thức giấc, trong ánh đèn ngủ vàng vọt, cô gái nọ ngắm chồng ngủ, nhìn cái vẻ nằm co quắp, miệng he hé với vệt nước dãi đẫm đệm, cô thấy chồng mình nửa như một thằng bé con đã được mẹ nó cho tý no bụng và xoa đầu khen ngoan, nửa lại như một kẻ có gì đó vô vị, bạc nhược và hèn hèn là khác. Khi không có cặp mắt kính dày cộp mà trước đây mình nhìn ngỡ trí thức, nay thấy chồng hệt một gã nông phu dớ dẩn vì mất ruộng. Và ngoài cái sự lọ mọ mọi việc vặt vãnh trong nhà thì gã ta chẳng có chút chí tiến thủ nào cả… Cô gái nọ đâu biết, trong khi mình phát hiện ra chồng như vậy thì gã chồng đã có cái nhìn về mình khác hẳn trước đây. Trong ý nghĩ của gã chồng, cô gái nọ đã mất đi vể hiền thục, duyên dáng của một cô gái thành thị có học thức, thay vào đó là một bà la sát với chồng, nhưng hễ ra đến ngoài, dù là đi chợ mua mắm tép cá khô cũng son phấn bự mặt, còn trước mặt đàn ông thì luôn ra vẻ cừu non ngơ ngác dễ thương… “Đấy, hôn nhân kiểu ấy thì đây xin kiếu… Chồng gì, có mà chồng bát chồng đĩa…”. Kiều Linh kết luận như vậy để chấm dứt câu chuyện về gia đình người bạn gái mình, mà cũng xem như một tuyên ngôn cá nhân…Bẵng đi một thời gian dài, mọi người hầu như không ai nói gì đến chuyện hôn nhân của Kiều Linh nữa, bởi mỗi lần như vậy cô ta đều xù mình lên như lông nhím, với lại việc ấy sớm hay muộn cũng chẳng sống chết gì đến mình. Đã thế thì mặc xác. Thế rồi, cứ như là rỗi hơi, không nói thì sợ miệng lên da non, nên đám đàn bà trong phòng lại bắt đầu rỉ tai nhau rằng, hình như con bé ấy đồng tính thì phải. Cứ để ý mà xem, trong đám bạn gái đàm đúm với nó có đứa luôn ăn mặc giống hệt nó, hễ thấy Kiều Linh nói chuyện đến anh chàng nào là cô bạn kia khó chịu ra mặt. Không PD với nhau thì là cái gì? Từ khi phát hiện ra chuyện ấy, mọi người bắt đầu nhìn Kiều Linh bằng con mắt lạ. Có vẻ gì đó ghê ghê là khác, y nhận thấy như vậy. Ngẫm cũng chẳng có gì lạ. Y chậm lấy vợ mà mọi người cũng đổ cho tiếng lại cái nữa là. Chao ơi, cái thế giới này vừa hỗn mang vừa cỏn con làm sao! Muốn yên lành cũng chẳng có chỗ mà trốn. Đã có lúc, y nghĩ, hay là mình chơi trò khủng bố, tán ngay Kiều Linh, biết đâu nên duyên phận cũng là. Hai đứa mà lấy nhau là chó chết hết chuyện. Nghĩ rồi y lại tự giễu cợt mình. Con bé xinh xắn và trẻ thế, chắc gì nó ưng cái thằng gàn dở là mình. Mà lấy nó để rồi nó làm chồng à. Y tự viện ra đủ thứ chống lại mình. Tốt nhất, quên nhanh đi cho chóng tiến bộ. Song cái trò đời, một khi không nghĩ đến thì thôi, đã nghĩ đến rồi thì quên đi thật khó. Đã có những đêm trằn trọc không ngủ được, y thầm ao ước được ôm hôn tấm thân Kiều Linh hấp dẫn trong vòng tay. Những lúc như thế, tự nhiên y lại trách mình sao tới tận bây giờ mới phát hiện ra Kiều Linh đầy nữ tính nhỉ. Đã chẳng có lúc mình cũng nghĩ cô ta đồng tính là gì. Hay là chính bản thân y cũng là một kẻ đồng tính nên không phát hiện ra chất giống cái ở cô ta? Nghĩ đến thế thì y hoang mang. Nhưng rồi có một cái gì đấy tự thẳm sâu trỗi dậy chống lại. Rõ ràng y cũng là một con đực mạnh mẽ, bởi mỗi khi nhìn ngắm những cô gái nở nang, gợi cảm thì bản năng giống đực của y, như chú rắn ngóc cao đầu liên láo chực mổ. Hỡi ôi, trời chẳng chiều người, nên y và Kiều Linh ở cùng một chỗ, mà cứ như ở hai cực của tinh cầu, hễ thấy mặt nhau, mở miệng đôi câu là chọc ngoáy, công kích lẫn nhau… Bây giờ lại thêm chuyện cô ta đồng tính nữa. Thật nực cười… 7. Y tự thấy mình là một tay gàn dở, cố chấp. Người ta cũng bảo y thế. Lúc đầu y không tin, còn bây giờ y không nghi ngờ. Y tự thấy hình bóng và tính cách mình phản chiếu qua tính cách và thân phận mỗi thành viên trong phòng. Với chị Nguyệt, y là một cậu em út ngoan ngoãn song nhõng nhẽo quá so với độ tuổi già câng của mình. Với chị Thoa, y vừa như một cậu em khó tính, lại vừa như một tình nhân nửa nạc nửa mỡ. Với Thủy, y như là một kẻ hai mặt, bề ngoài tôn trọng song trong bụng coi thường. Với Thu Liễu, y vừa như ông anh cả gia trưởng lại như gã trai lơ sáo rỗng, trâng tráo. Còn với Kiều Linh, y vừa như kẻ chán đời lại giống như một con đực khát tình ẩn mình chờ cơ hội… Còn với chính mình, y là một kẻ bất mãn vặt và vô trách nhiệm. Bất mãn và vô trách nhiệm với quá khứ, hiện tại và tương lai y. Có kiến thức, ưa chiêm nghiệm, thiếu quyết đoán và sợ phiền toái, y sống vật vờ qua ngày đoạn tháng… Y tự tìm thấy khoái cảm, một thứ khoái cảm thiếu lành mạnh trong hình bóng y phản chiếu nơi mỗi người đàn bà xung quanh y. Nhấm nháp chút khoái cảm ấy, y tự thấy mình như Ađam ở cõi hỗn mang, và mỗi sự tham góp của y vào đời sống họ khiến y có cảm giác ban phát khi bẻ từng chiếc xương sườn mình để Đấng Tối Cao thổi linh hồn khai sinh họ vậy. Y chưa bao giờ nghĩ đến một gã đàn ông với lồng ngực không còn chiếc xương sườn nào thì tim phổi sẽ phơi bày ra sao? Ha ha ha…Một bữa nọ, y ốm dở song vẫn cố bò dậy lên đến cơ quan cho đỡ buồn. Ngạc nhiên khi đã muộn mà cửa phòng vẫn khóa. Một mảnh giấy, chữ chị Thoa to cộ nguệch ngoạc trỏng trơ trên mặt bàn của y: “Trưởng phòng bận việc nhà nghỉ. Cánh tớ lượn siêu thị đây. Ađam chịu khó gác chùa nhé. Ngoan ngoãn trưa sẽ được thưởng kẹo!”. Y thở dài, uể oải bật máy. Mở Documents, các File xương sườn loáng nhoáng hiện ra sau tiếng gõ bàn phím lách cách của y. Y lắc đầu, một lần, vài ba lần như không tin vào những gì mình đang cảm nhận. Chị Nguyệt mặt tươi tắn nhưng ánh nhìn lại ra chiều buồn buồn, miệng cười nụ cười thương mại. Chị Thoa đầy vẻ quyến rũ lẳng lơ, khẽ nheo mắt vẻ giễu cợt, này cậu em ơi, chị mới thử vờn mà cậu em đã nhũn chi chi, còn non nớt lắm bé con ạ. Còn Thủy thì vẻ mặt bình thản song cặp mắt vằn lên những tia hằn học, khó chịu, như đe, liệu hồn đấy thằng lỏi ma lanh, mày dám nhờn với tao, rồi có ngày tao sẽ trị mày đến nơi đến chốn. Thu Liễu thì dáng điệu chợ trời, cong cớn bảo, là tôi thấy anh không đến nỗi nào nên phóng sinh, chứ cái ngữ ấy tôi vừa chài vừa thải chỉ trong vòng tuần lễ. Và Kiều Linh thì nhìn y nửa đồng cảm nửa chê bai, rằng anh đừng tưởng mình cao đạo, ta đây dạy khôn người khác, chứ thực ra họ chỉ nhìn anh bằng nửa con mắt thôi. Lại còn vào hùa nghi ngờ tôi đồng tính. Còn cái thân anh nữa, anh biết chưa? Rõ đồ ngốc…Y thừ người. Ngả vào ghế, ngửa mặt nhìn trần nhà trân trối. Chưa bao giờ y có cảm giác phẫn nộ như vậy. Ra thế. Các người quá quắt lắm!... Ta sống với các người đâu đến nỗi nào? Không xem ta là đàn ông ư? Được rồi, để đấy… Hỡi những cái xương sườn kia! Ta sẽ chứng minh cho các người biết ta thế nào!...Y nhổm phắt dậy, nhoài người nhanh như cắt, tắt phụt công tắc điện máy vi tính. Màn hình tối đen. Lần đầu tiên y quyết liệt như thế…!
8. Hình như, cú tắt công tắc điện tắt vi tính đột ngột, thay vì đóng máy theo trình tự nhằm bảo vệ máy, đã vô tình kích hoạt cái hạt nhân liều arn giấu đâu đó trong con người y,...Y bỗng trở thành một con người khác. Người đầu tiên nhận ra sự thay đổi của y là chị Thoa.