VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( II )
Kẻ huyễn hoặc ( Truyện ngắn ) Người đẹp thì lấy người xinh Bao nhiêu người xấu dập dình lấy nhau (ca dao) Không hiểu từ bao giờ, câu ca dao đấy luôn hiện hữu trong suy nghĩ của y. Có lẽ từ khi y vừa lọt lòng mẹ? Cha là một người nghiện rượu, quanh năm tứ thời say. Khi mẹ y có thai y được dăm tháng thì cha y chết trong một đêm dông bão, vì quá say mà quỵ ngoài đường. Lúc mẹ y sinh y thì bà mụ vụng về đã nặn cho y một chiếc chân thọt. Phải chăng vì thế mẹ y cám cảnh cho y sau này mà cất lời ru bằng cái câu ca dao nửa khôi hài nửa bi thảm ấy! Y lớn lên trong mặc cảm của một kẻ tật nguyền. Y không có bạn. Khi bé, mẹ y đi làm đồng thường khóa cửa nhốt y trong nhà. Y lê la trên nền nhà kéo theo chiếc chân bé quắt không xương. Y đánh bạn với con quay gỗ và mấy hòn bi, đôi khi y chơi với cả chú cóc dưới gầm giường. Lớn lên chút nữa, y bắt đầu giúp đỡ mẹ y được chút việc vặt. Phải đến mười tuổi y mới đi học. Bọn trẻ cùng lứa hay trêu y. Y hiền lành không nói mà cũng chẳng phản kháng. Thường là lúc bị trêu, y ngước cặp mắt lên nhìn chăm chăm vào đối thủ và chẳng hiểu trong mắt y có gì mà đối thủ của y bỗng phải chờn. Những lúc ra chơi, những đứa mạnh chân, khỏe tay chạy nhảy, hò hét, còn y phải ngồi chầu rìa. Nhìn những đôi chân của chúng bạn chạy loang loáng theo quả bóng bưởi mà y thèm khát, y lén chùi những giọt nước mắt ứa ra song nào ai biết cho y. Các buổi chiều tan học, bọn bạn cùng lớp rủ nhau ra sông tắm, chúng cởi quần áo, vứt cặp sách thành một đống rồi bắt y ngồi trông. Chao ôi ước gì chân y lành lặn, y sẽ bơi, sẽ ngụp như một con rái cá, đố có đứa nào đuổi kịp… Y học hành cũng sáng dạ, nhưng rồi y cũng chỉ qua hết cấp hai. Mẹ y bảo: “Vô khối đứa chân tay lành lặn, học hết cấp ba cũng ở nhà theo đít trâu. Mày học thế là đủ rồi. Biết tí chữ để kẻ đời đừng khinh là dốt mà bắt nạt. Vả lại chân cẳng thế kia ai cho mày thành kĩ sư, bác sĩ. Ở nhà, lớn chút nữa tao hỏi vợ cho… Mà chắc gì…”. Mẹ y bỏ dở chừng câu nói như sợ y tủi thân. Mà thế thật, khi mẹ y nói cái câu “mà chắc gì…” bằng một giọng đay nghiến, y thấy đau nhói trong lồng ngực. Chân y thế, đứa con gái nào thèm đếm xỉa đến y cơ chứ. Rồi y sẽ ế vợ, sống với mẹ đến già, rồi mẹ y cũng chết, lúc ấy chỉ mình y sống thui thủi một mình cùng nỗi cô quạnh. Nghĩ thế, y lo sợ, bảo mẹ: “Mẹ đừng chết bỏ con lại một mình, nhé…”. Y khóc, lúc đầu rống lên, sau chỉ còn là những tiếng thổn thức. Mẹ y không nói gì, bỏ vào trong buồng nằm võng. Y thiu thiu ngủ, chợt y nghe đâu đó tiếng ai hát, ru rằng: “À ơi.. Người đẹp thì lấy người xinh… Bao nhiêu người xấu… á a… dập dình… dập dình… mà lấy nhau… à ơi…”. Y thấy đám cưới y cũng pháo nổ hẳn hoi. Cô dâu là con bé mặt rỗ và cũng thọt chân như y. Y dắt tay con bé đi giữa hai bên họ hàng. Y ghé miệng nói vài tai con bé: “Cô mình yêu tôi chứ?”. Con bé cười bẽn lẽn: “Em yêu mình đến lúc đầu bạc răng long”. Pháo nổ to quá, khiến y choàng tỉnh. Y bàng hoàng, rồi y hiểu ra là mình vừa mơ một giấc mơ thần tiên. Y nghỉ học ở nhà đi chăn trâu. Hợp tác xã thương tình cho nhà y giữ nửa trâu. Cứ cách một ngày, nhà y lại có một phiên trâu. Y dắt trâu đi chăn mang theo cả quang gánh, cắt đầy gánh cỏ để trưa mẹ y còn đón gánh về. Ngày tháng cứ thế trôi qua, đời y sẽ không có gì biến đổi nếu như không có chuyện tình cờ xảy ra. Đó là một lần y bắt gặp một cô gái, chừng cỡ tuổi y, ở xã bên và cũng bị tật nguyền thọt một chân như y. Y để ý quan sát khá lâu và sau nhiều lần trấn tĩnh y cất tiếng gọi: - Cô gì ơi! Không thấy cô gái trả lời. Y im lặng xấu hổ. Rồi y lại nghĩ là có lẽ vì hồi hộp nên giọng y lạc đi và nhỏ quá, chắc cô gái không nghe thấy. Và y lại đánh bạo gọi một lần nữa: - Cô gì ơi - Ngần ngừ một lát, y thêm - Có nghe tôi gọi không? Vẫn không có tiếng trả lời. Cô gái thọt lạ mặt vẫn lúi húi cắt cỏ. Một liều thì ba bảy cũng liều, y lần đến chỗ cô gái. Vì hấp tấp cái chân thọt khiến y bước hụt, sa xuống rìa bờ. Cô gái ngửng lên thấy y, vội bỏ đi. Cái chân của cô kéo theo bê bết bùn đất. Cô lẩn khá nhanh vào đám ruộng tốt bời. Y chững lại bắc hai tay lên miệng làm loa gọi to: - Cô gì, cô gì ơi. Đừng sợ. Đứng lại cho tôi nhờ một việc. Nghe thấy không? Tiếng y khản đặc và thảng thốt. Y nhìn theo, đầu cô gái lại nhấp nhô trong sóng lúa. Y lặng người, rồi quay lại chỗ cắt cỏ. Y nhặt chiếc liềm lên, mân mê. Y không thiết gì đến việc cắt cỏ. Lần đầu tiên trong đời trưa ấy, y đã không cắt đầy gánh cỏ, mẹ y ra, thấy y ngồi thẫn thờ bên gánh cỏ vơi quá nửa bèn tru tréo lên: “Sao thế? Chơi gì mà không cắt cho đầy hả cái quân…”. Y ngước cặp mắt đờ đẫn lên nhìn mẹ, khiến bà ta hốt hoảng: “Hay mày ốm”. Y cộc lốc: “Không”. Mẹ đưa tay sờ trán y: “Thôi đúng rồi, mày ốm to rồi con ạ. Ôi con tôi, khốn khổ chưa!”. Y gạt tay mẹ ra và chỉ thốt lên một lời: “Tương tư”. Mẹ y tròn mắt…. Đêm ấy về, y sốt li bì. Mẹ y đánh gió và nấu cháo cho y ăn. Lúc y tỉnh, mẹ y lần là hỏi chuyện gì xảy ra. Y nhất quyết không nói, chỉ ậm ừ cho qua chuyện. Mấy hôm sau khỏi, y lại ra chỗ cắt cỏ. Nhưng lần này, cô gái thọt không đến. Y thẫn thờ mãi. Lưỡi liềm giờ không còn bén ngọt nữa, bởi bàn tay y hờ hững. Vừa cắt, y vừa để ý xem cô gái có đến không… Trưa ấy, y không đợi mẹ y ra mà tự mình gánh cỏ về. Cái chân thọt khiến y vất vả, nhưng rồi y cũng tha được gánh cỏ về tới nhà, mồ hôi ướt đẫm người. Suốt một thời gian dài y không đi đâu ngoài khu vực ấy. Cỏ đã cụt lủn, song y cứ mài lưỡi liềm xuống bờ. Thời gian không phụ lòng y, một hôm, cô gái thọt lại đến. Lần này y khôn hơn. Không gọi, y lẳng lặng ép người xuống sát bờ ruộng lết đi từng tí một, đến gần sát phía sau mà cô gái vẫn không hề hay biết. Để chắn ăn, y gạt bỏ sự ngượng ngùng, y nhoài người và dùng cả hai tay nắm chặt lấy cô gái. Cô gái giật mình quẫy đạp, vùng vẫy tìm cách thoát ra, song bù cho cái chân tật nguyền, hai tay y khỏe mạnh rắn chắc. Y kẹp chặt lấy cô, cả hai vật lộn rồi lăn xuống ruộng. Đến khi nhận ra y thì cô gái có vẻ bớt sợ và cũng không còn sức để quẫy đạp như lúc đầu nữa. Vì mải vật lộn cô gái quên cả kêu cứu. Đến lúc ấy cô mới nhớ ra, cô há miệng định kêu to, song ánh mắt cô bắt gặp chiếc chân teo quắt của y thì miệng cô há to mãi không phát ra thành tiếng. Cuối cùng chỉ còn tiếng a a… Cuộc vật lộn chấm dứt, cả hai bỏ nhau ra ngồi thừ trên bờ, thở mệt nhọc và vuốt bùn nước đầy đầu tóc quần áo. Y bảo cô gái: - Cô tên gì? Còn tôi tên là Cõn, người làng Tàm. Tôi thế nào thì nhìn cô cũng biết rồi đấy. Khi nói chuyện y mới biết thêm là ngoài mặt rỗ, chân thọt, cô gái còn bị điếc. Sau lần ấy hai người thành quen nhau. Y được biết thêm cô gái có tên Thắm. Cái tên khá hay kia không những không bù đắp nổi mà còn mỉa mai thêm cho cái xấu về hình thể. Được cái là tính tình cô gái cũng không đến nỗi nào. Cảnh ngộ cô còn bi đát hơn y. Cô vốn là đứa trẻ sơ sinh bị bỏ hoang ở một xó lều chợ, một bà cụ không con cái, chỉ có hai vợ chồng già đã cám cảnh nhặt về nuôi. Đời y đã khốn khổ, đời Thắm còn khốn khổ hơn…. Nửa năm sau y và Thắm làm lễ cưới. Đám cưới không được như giấc mơ thuở nào của y, mà thực ra chỉ làm vài mâm cơm mời bà con ruột thịt đến chứng kiến. Hôm cưới y mẹ y khóc vì sung sướng còn y thì nói cười luôn miệng. Cưới được một năm thì vợ y sinh con trai. Tuyệt vời thay, thằng bé không hề thọt chân như cha mẹ nó. Tối hôm ấy bị mẹ đuổi ra, nhưng y lén chui vào giường vợ, y hôn hít vợ, lắp bắp nói với vợ những lời xúc động rằng cô đã sinh cho y một thằng bé tuyệt vời để nối dõi tông đường. Xã có ý định lập phố. Gọi là lập phố song thực ra chỉ là việc cắt ít diện tích cho dân làm nhà ở, ngã ba một con đường liên xã. Vì ông nội y có công nuôi giấu cách mạng xưa nên nhà y được cấp một trăm mét vuông đất. Y bàn với mẹ là vợ chồng y sẽ mở quán bán nước ở đó. Mẹ y đồng ý. Thế là từ thằng chăn trâu tật nguyền y thành ông chủ quán. Y ngồi giữ con, bán hàng, còn vợ y thì vẫn làm ruộng cùng với mẹ y và thỉng thoảng chạy chợ mua chút hàng cho y ngồi bán. Từ ngày bán quán da y trắng trẻo hơn. Quần áo mặc y cũng tươm tất hơn. Có chút tiền, y mua một cái đài. Hồi còn nhỏ y mê nghe dân ca, hát chèo lắm song hiềm nhà không có tiền nên y toàn phải ngồi rìa vườn nhà nghe trộm đài hàng xóm. Bán hàng rỗi rãi, y bèn lấy gỗ tự làm một cái đàn bầu, dây thép, ống bơ và cần tre. Y tập theo các điệu dân ca nghe được mà y thuộc. Dần dần y đánh càng hay lên và cây đàn bầu cũng được chữa lại cho đẹp hơn. Một đồn mười, mười đồn trăm, cả làng đều biết là y đánh đàn bầu. Hội diễn văn nghệ xã, y được làng mời ra đánh đàn bầu đệm đàn cho tốp nữ hát chèo. Y thích lắm và cũng hãnh diện lắm. Chừng nửa tháng trước ngày biểu diễn, y phải cùng đội chèo làng tập. Cứ tối tối y bắt vợ ôm con trông hàng để đi tập. Vợ y gàn, y gắt: “Biết gì đến nghệ thuật mà gàn. Tôi mà hoạt động nghệ thuật thì mẹ nó chỉ thêm danh giá chứ có mất gì đâu. Thôi, không nói lôi thôi”. Và y được toại nguyện. Trong đội chèo có cô Na mới mười bảy tuổi. Xinh nhất mà hát cũng hay nhất, thêm nữa là tính tình đong đưa, con mắt đa tình. Trước đây vì mặc cảm tật nguyền, y chẳng dám nhìn lâu vào đàn bà, kể cả nhìn trộm. nhưng từ khi có vợ, có con, y thấy mình cũng bình thường như mọi người. Cái chân tuy rếch một chút nhưng hề gì, bù vào đó, mặt mũi y cũng vào loại dễ coi, giờ y lại thêm tài đàn nữa. Các cụ xưa thường chả nói “Gái tham tài…” là gì. Đêm đêm sau buổi tập về nhà, khi ngủ y toàn mơ tường đến cô Na. Cái con bé, da thịt đến là thơm tho, tóc dài và đen, lại luôn gội hương nhu, đến là quyến rũ. Y thấy hình như cái chân thọt của vợ y ngày càng bé đi, da dẻ thì hôi xì, mặt hình như ngày càng thêm nhiều nốt rỗ. Có hôm, nửa đêm y ngồi dậy, ngắm kỹ vợ y ngủ say chảy cả nước dãi, ôm con nằm co quắp như con tôm mà thở dài. Các cô ở đội chèo cũng thính lắm. Thoáng cái là họ biết y phải lòng cô Na. Lúc đầu họ trêu y khi y vắng mặt, sau rồi họ trêu công khai. Họ mang cô Na gán vào cho y. Có cô bảo: “Anh Cõn mà đệm đàn bầu cho cái Na hát thì tuyệt phải biết!”. Nghe được câu đó, y hởi lòng hởi dạ. Còn cô Na , những lúc như thế, chỉ tủm tỉm cười, nhìn lướt trên đầu y không ra chiều đồng ý mà cũng không ra chiều phản đối. Có lẽ con bé nó cũng thích mình thật, chỉ làm bộ vậy thôi, y thầm nghĩ. Đêm hội diễn văn nghệ xã, y như chắp cánh. Y đệm đàn bầu cho tốp hát, rồi đệm cho mình cô Na hát, và y còn độc tấu. Anh chàng giới thiệu giọng như chèo bẻo “Sau đây là tiết mục độc tấu của nghệ sĩ đàn bầu Xuân Cõn”. Y nghe mà sướng mê đi. Và y đàn. Trước mắt y các gương mặt lướt qua loang loáng, người y bồng bềnh như trong mây, đầu y váng vất. Còn gì hơn nữa khi thằng Cõn tật nguyền xưa nay trở thành nghệ sĩ đàn bầu Văn Cõn. Y thấy cô Na hiện ra trước mắt y tình tứ, đong đưa… Chẳng hiểu sao rồi mẹ y, vợ y biết chuyện y mê cô Na. Mà có gì lạ, khi y đã trở thành nổi tiếng cả xã, cả huyện rồi cả nước ấy chứ. Từ đấy y không thiết gì đến quán nước nữa, phó thác toàn bộ cho vợ. Suốt ngày, suốt đêm y tập đàn. Nghệ sĩ thì sao cho ngón đàn phải điêu luyện. Lại còn tâm hồn nữa chứ. Đàn thì tập lâu cũng thạo, nhưng tâm hồn thì tập luyện thế nào để thành nghệ sĩ nhỉ? Y thấy bí quá. Đầu óc y chỉ toàn nghĩ đến con mắt, đến da thịt cô Na mà thôi. Cũng từ ngày cho mình là nghệ sĩ thì y sinh tật cáu gắt. Lẽ dĩ nhiên là cáu gắt với vợ. Hễ vợ y cho y ăn muộn là y cáu, y đang tập đàn, vợ nhờ rửa đít cho con y cũng cáu. Rồi có lần y tát vợ, tát đến nơi đến chốn chỉ vì cái tội vô tình va phải cây đàn bầu tự chế của y treo trên vách làm nó rơi xuống đất. Vừa tát, y vừa rít lên: “Đồ vô học. Đồ thường dân ngu độn. Quân tật…”. Đến đó thì y kịp ngừng lại. Y định rủa vợ là cái đồ tật nguyền, nhưng y chợt nhớ đến thân phận mình. Y ôm mặt khóc tu tu như trẻ con. Vợ y khóc mũi, khóc rãi, chợt thấy y còn khóc to hơn mình bèn nín bặt, bế con ra ngồi hàng. Khóc chán, y ngủ. Lúc đó vợ y thấy thương y lắm, bèn lấy khăn mặt ướt khẽ lau bộ mặt lấm lem cho y thì y choàng dậy, hất tay vợ ra không khiến. Và cứ chiều chiều, y uống rượu. Uống cho say rồi y ôm lấy đàn vừa đàn vừa khóc. Người làng thấy lạ, lúc đầu còn xem, sau quen dần. Hễ thấy cảnh như vậy, lại buông một câu: “Thằng điên”. Song cũng có người khen: “Nghệ sĩ đáo để”. Sau cái tát nên thân ấy, vợ y không dám phàn nàn gì nữa, sống thui thủi, mặc y muốn làm gì thì làm. Còn mẹ y thỉng thoảng từ trong làng ra bảo: “Nghệ sĩ gì đến lần mày. Chịu khó làm ăn cho vợ con nó nhờ mà cũng nhàn cái thân”. Y tức lắm, vằn mắt lên: “Bà biết cái gì. Bà không muốn tôi thành người à? Hay bà chỉ muốn tôi thành cái thằng nửa người, nửa ngợm như trước. Bà có biết bà có tội gì không? Tội là đã sinh tôi ra nửa người nửa ngợm đấy”. Mẹ y tức điên lên, giáng cho y một cái tát nảy đom đóm mắt “Rõ cái quân tật nguyền”, và bà bỏ về làng. Mẹ y về rồi, y trút hết cả căm tức lên đầu vợ y. Y say, y điên và y đánh. Đánh chán chê y mệt quá lăn đùng ra giữa nhà khóc, cào cấu, gặm đất. Vợ y cho con đi ngủ, bỏ mặc y nằm lăn lóc ở trên nền nhà. Cả đêm ấy y nghĩ gì, y sống ra sao, y không tài nào nhớ nổi. Chỉ biết rằng tầm gà gáy, y tỉnh dậy và bò lên giường thì chỉ thấy mỗi thằng bé con nằm ngủ. Vợ y đâu, y không biết. Y ôm con vào lòng ngủ tiếp. Trời sáng bạch, y trở dậy, theo thói quen hằng ngày hỏi: “Mẹ thằng cu đâu, đun nước sôi đổ phích đầy chưa? Không có tiếng trả lời, y bực bội quát: “Tai điếc sao gọi mãi không thưa”. Vẫn im lặng, y đi ra phía ngoài nghe ngóng. Bếp nguội lạnh. Chõng bán hàng còn nguyên xi. Chắc là vợ bỏ vào làng với mẹ, hoặc cùng lắm là bỏ về nhà mẹ nuôi. Ôi dào! Giận với dỗi, vẽ chuyện. Y tự tay làm tất cả. Thằng bé con dậy khóc gọi mẹ, y dỗ dành rồi cho nó ăn. Đến trưa, chiều rồi tối cũng không thấy vợ về, y cũng đâm sốt ruột, lầm bầm: “Đi đâu thì đi quách hẳn cho khuất mắt. Tao sẽ hỏi con bé Na làm vợ”. Vừa lúc ấy thì y nghe tiếng ai đó gọi. Y ló ra, một bà người làng hốt hoảng bảo y: “Thế chú không biết gì à? Rõ khốn khổ. Thím ấy đi đâu mà chết đuối ở ngoài sông kia kìa. Mấy người quăng chài, người ta quăng phải lôi xác lên để trên bờ sông ấy. Đưa con đây tôi bế cho, chạy mau ra ngoài ấy mà xem”. Y đứng lặng như trời trồng. Miệng há ra nhưng không thành lời, như ngày nào y gọi cô cắt cỏ thọt chân… Bây giờ ai có dịp đi qua cái ngã ba phố nơi có chiếc quán nước nhỏ dừng chân nghỉ, khách sẽ được anh chủ quán thọt chân tên Cõn tiếp khá niềm nở. Chủ quán nói năng vừa phải, có duyên, nhưng nếu để ý kỹ, khách sẽ thấy anh ta có một cái tật là thỉng thoảng lấy ngón tay móc vào dây đàn của một chiếc đàn bầu cũ nát, luôn để bên cạnh. Tiếng đàn vang lên đơn lẻ, chẳng ăn nhập vào cái gì. Khách lạ thì không biết, nhưng hễ là người trong làng thì chẳng ai lại không biết đến câu chuyện về nghệ sĩ đàn bầu Văn Cõi thọt chân và còn biết cả chuyện cô Na đã lấy chồng, có hai con, được chồng đưa ra ngoài thành phố sinh sống. Cứ vào lúc nhá nhem, dù quán vẫn còn khách, chủ quán sẽ nhã nhặn cáo lỗi, xin đóng cửa quán vì bận chút việc. Sau khi đã treo chiếc đàn bầu lên vách, đóng chặt cửa, chủ quán dắt thằng con trai, tập tễnh đi về phía bờ sông gần đó… R
<bài viết được chỉnh sửa lúc 10.01.2023 17:52:06 bởi Thanh Vân >
Đám mây che mát trôi qua Truyện ngắn Quang còn rất nhớ buổi đầu tiên gặp gỡ Vân, đám mây che mát trong cuộc đời anh. Hôm đó, do bực mình vì cậu bạn thân lỡ hẹn khi hứa đến đưa anh đi xem mặt một cô gái cùng cơ quan với cậu ta mà cậu ấy định mai mối cho anh, anh đến rạp chiếu bóng gần nhà nhất xem phim dù bất kể là phim gì. Khi anh vừa đến cửa rạp thì một tay phe vé chuyên nghiệp tuổi choai choai có bộ ria con kiến trông đểu đểu xán lại, ấn đôi vé vào tay anh, miệng liến thoắng: - Xem đi anh giai. Phim “Truyện tình cay nghiệt” hay hết ý. Không xem cũng thiệt. - Biết rồi - Quang vờ thông thạo. - Anh giai mua cả đôi chứ? Năm chục nôn đủ - Tay phe hất hàm rất trịch thượng - Thế nàng đâu? - Sao đắt thế? Mà tôi chỉ có một mình? - Sao trên trời. Anh giai trông kẻng thế này mà chỉ đi một mình thôi à? Hắn cười khẩy rất đểu giả - Ờ mà anh giai có tướng sát gái lắm. Có mà cả tá em theo, vạc đi cũng không hết. Muốn xem thì phải bao cả. Vậy thôi. Đắt à? Vớ vẩn. Hắn giật phắt đôi vé trong tay Quang và bỏ đi. Vừa lúc đó thì một ả nhỡ nhừng, áo mút mỏng, quần ngủ hoa, nửa dắt tay, nửa kéo một cô gái khác, chỉ thoáng qua Quang cũng đoán được khoảng hơn ba chục tuổi, xộc đến: - Này bồ, có khách đây. Tay con trai lập tức vui vẻ lại, hắn xông đến nắm tay Quang lôi lại dẻo quẹo: - Tìm được bạn cho anh giai rồi đây. Ta với mình tuy hai mà một. Thôi, ông anh bà chị chịu khó đi xem với nhau vậy. Quang bực mình định giật tay ra song vì quyết chí đi xem, vả lại anh thấy lạ nên để yên xem sao. Người phụ nữ nhìn anh lặng thinh. Và sau đó anh không thể nhớ nổi cuộc mặc cả diễn ra thế nào, chỉ biết sau đó anh nắm chặt trong tay đôi vé cùng cô gái đi vào rạp. Cặp phe tiễn hai người đến tận cửa. Chúng cười cợt và dặn với theo: - Ông anh bà chị tình củ với nhau nhé. Chúc hạnh phúc. Bai. Rõ thật là tình bơ vơ gặp tình đơn côi. Vào hẳn trong rạp Quang như vẫn còn nghe tiếng đùa cợt của bọn chúng. Anh cau mặt bực tức. Bực với ai? Anh? Bọn phe? Hay cô gái? Anh đi thật nhanh bứt hẳn khỏi cô gái song cô cũng thản thiên bước theo anh như cái bóng của chính anh. Người soát vé bấm đèn pin chỉ chỗ cho họ. Thật khốn khổ cho hai người khi phải len qua những dãy ghế chật cứng người và phải nghe những tiếng càu nhàu, thậm chí nguyền rủa vì hai người dẫm phải chân hoặc che lấp mắt họ. Hai người ngồi xuống ghế của mình và lặng lẽ xem. Từ lúc gặp cô ta Quang không hề nghe cô nói lấy một câu kể cả khi đồng ý mua vé chung với anh cô cũng chỉ khẽ gật đầu. Quang ngồi xem nhưng anh bồn chồn không yên. Nhiều lúc anh kín đáo liếc nhìn sang cô gái song cô hầu như không quan tâm đến anh. Cô ngồi ngay ngắn như một bức tượng hai bàn tay đặt hờ trên thành ghế. Cô ta là ai nhỉ? Liệu có nghĩ vơ vẩn như mình không? Cứ thể gần suốt buổi Quang băn khoăn. Gần cuối phim khi chiếu cảnh cô gái trốn chồng chưa cưới chạy theo người tình trên một chiếc tàu thủy; sau đêm ái ân, người tình bỏ rơi cô, cô hối hận định quay về thì người chồng chưa cưới xuất hiện, anh ta kết liễu đời cô bằng một viên đạn, cô từ từ khuỵu xuống vươn đôi tay lên bầu trời cao thăm thẳm, thì cô gái ngồi bên Quang bật tiếng thở dài. Anh rợn người vì tiếng thở dài của cô gái như hơi thở chút của kẻ sắp chết. Khi đèn bật sáng Quang liếc sang ngỡ bắt gặp một khuôn mặt đầm đìa nước mắt - nhưng cô vẫn thản thiên như không. Điều đó khiến anh khó chịu. Cô gái đi trước anh, cố ý tách xa sao không để người anh chạm vào cô - dù trong cảnh chen chúc. Tới cửa rạp, mọi người ùn lại Quang đứng gần như áp sát vào cô đến lúc này anh mới nhận thấy vẻ xúc động của cô. Xuống tới đường, cô ngoảnh lại nhìn thẳng vào mắt anh, chìa tay bắt: - Xin tạm biệt anh - Hơi thoáng ngập ngừng, cô tiếp - Tôi là vân. - Còn tôi… tôi là Quang. Cử chỉ thân mật đến suồng sã trái ngược với vẻ kín đáo ban đầu của cô làm Quang bất ngờ, lúng túng, anh luống cuống đưa cả hai tay ra nắm chặt lấy bàn tay cô đang chìa ra. Bàn tay cô hơi thô ráp so với dáng người chắc lẳn gọn gàng nhưng ấm áp. Quang cảm nhận những mạch máu nơi tay cô rân rân trong tay anh. Ngượng ngùng vì nắm tay cô gái quá lâu anh vội buông ra. Cô gái quay ngoắt người đi và bước quả quyết tới chỗ gửi xe. Quang tần ngần nhìn theo tự nhiên anh thấy mình vô lý. Anh lững thững ra về. Phía trước mắt anh là ngôi sao hôm đang mờ dần và bị che lấp bởi một đám mây đen nham nhở trôi đến như một kẻ hung đồ. Quang không muốn về nhà ngay, anh lang thang trên đường và nghĩ về cô gái tên Vân. Song đi trên quãng đường anh và Thu Phương - người yêu cũ của anh đã nhiều lần kề vai đi bên nhau, thì ký ức về mối tình đó lại cồn lên như sóng. Mùa hè cuối cùng của đời học sinh Quang đã yêu Thu Phương, cô bé cùng phố với anh và học sau anh một lớp có khuôn mặt dễ thương và nhiều nốt ruồi nhỏ trên đỉnh mũi là tăng thêm vẻ tinh nghịch thơ ngây. Trên đường đi học anh thường xuyên gặp cô đi một mình và bao giờ cô cũng đang ăn gì đấy. Khi nhìn thấy nhau cô thường khẽ nguýt một cái tỏ vẻ bất cần rồi lúc lắc người để hai bím tóc đuôi sam nặng trĩu có buộc nơ như đôi bướm quậy tung tăng trên lưng. Một chủ nhật Quang đến trường thăm bác bảo vệ ốm, khi đang bước vội vàng trên khoảng sân trường rợp mát thì Quang nghe tiếng con gái gọi: - Anh gì ơi… Quang ngơ ngác nhìn quanh. Sân trường vắng lặng chỉ có mấy chú chim sẻ đuổi nhau chí chóe. - Đây cơ mà anh. Quang nhận ra tiếng gọi phát ra từ một góc sân trường liền đi tới. Thu Phương ngồi vắt vẻo trên cành cây. Chẳng hiểu lúc lắc thế nào mà đuôi tóc cô bé mắc vào cành cây khiến cô không sao gỡ được. Thấy Quang đến cô vừa sung sướng vừa bẽn lẽn. - Anh làm ơn gỡ hộ em… - Cô làm gì ở trên ấy - Quang vờ như không biết. - Em… Em đọc sách. - Đọc sách? Lại ở tận trên ấy. Con gái gì mà leo trèo gớm thế. Chắc cô cầm tinh con khỉ? - Vâng, đúng thế đấy ạ! Mẹ em bảo vậy mà. Đến thế là cùng. Quang trèo lên gỡ tóc và đỡ cô bé xuống. - Lần sau không được leo trèo nữa nghe - Quang căn dặn vẻ đàn anh. - Vâng, em không dám - cô nói khẽ rồi bỗng phá lên cười tinh nghịch khiến Quang phát cáu. Song tiếng cười của cô đã lôi cuốn Quang cười theo. Và hôm ấy sau khi thăm bác bảo vệ, hai người về cùng nhau. Đó là buổi bắt đầu cho một mối tình dang dở của Quang và nó đeo đuổi, dằn vặt anh gần nửa đời người. * * * Sáng chủ nhật tuần sau, Quang đến rạp chiếu bóng mà anh đã tình cờ gặp Vân từ sáng sớm. Anh xếp hàng mua hai vé. Suốt buổi chiều anh phấp phỏm hết nhìn đồng hồ lại nhìn bóng nắng đợi tối. Anh đến cửa rạp rất sớm. Bọn phe vé túm lấy anh mời chào nhưng anh khinh bỉ thọc tay vào túi không thèm trả lời. Hễ nhác thấy có bóng con gái đi tới là anh lại căng mắt nhìn xem có phải Vân không và tim thì thót lại. Rồi anh lại tự riễu mình vớ vẩn. Mà ngớ ngẩn thật vì hai người có hẹn gì nhau đâu. Chỉ còn vài phút nữa là đến giờ chiếu, khi mà anh đã mất hi vọng thì anh nhìn thấy Vân đi tới. Anh chóng mặt mà không kịp suy nghĩ, anh lao đến nắm tay cô lôi đi: - A… Vân. Vào xem phim với tôi. - À ra anh. Tôi… tôi… - Đi đi. Quang vừa nói vừa kéo cô đi. Khi ngồi yên chỗ anh mới kịp thở. Trời lạnh mà mồ hôi anh toát ra đầy người. - Anh thật là kỳ quặc - Vân trách nhẹ. - Là tôi - Quang hơi lúng túng rồi anh giải thích bừa - Tôi và anh bạn đi xem nhưng khi đến đây thì ở nhà anh ấy có chuyện đột xuất nên người nhà tìm về còn lại mình tôi… May quá gặp lại Vân. Mà vân đi đâu qua đây nhỉ? Đến lượt Vân lúng túng vì cô không ngờ Quang lại hỏi thế. Miệng cô mấp máy mãi mới thành tiếng: - Ồ, tôi đến nhà một người bạn cùng xí nghiệp. Cũng chẳng có việc gì quan trọng cả. Chuyện phiếm thôi mà. Buổi chiếu phim bắt đầu. Cả hai người cùng im lặng bởi họ hiểu nhau là đã nói dối song đôi bên đều cảm thấy hài lòng trước những lời nói dối đó. Ai dám bảo là nói dối đều xấu xa? Lúc tan phim, Vân hỏi như đọc được suy nghĩ của Quang: - Sao anh biết tôi đến mà chờ? - Cũng chẳng hiểu sao - Quang hiểu bây giờ không phải là lúc nói dối còn tác dụng - Tự trong tôi cảm thấy thế nào Vân cũng đến. Thế thôi. Còn vân? - À… - Cô cười - Tôi cũng nghĩ là thế nào anh cũng chờ tôi. Tôi định không đến đây nhưng người cứ bồn chồn không yên. Lần đầu tiên Quang thấy cô cười. Nụ cười của cô thật khó tả. Thấy không khí vui vẻ Quang mạnh bạo hơn: - Như vậy là cả hai chúng ta đều không thờ ơ với nhau, phải thế không Vân? - Anh khôn lắm - Vân nói thay cho câu trả lời - Dẫu sao chúng ta cũng là chỗ quen biết. Chủ nhật sau, nếu anh không bận tôi mời anh xem phim cũng ở đây. - Ồ, tôi đồng ý. Quang cố kìm mình để không reo to lên. Và hai người chia tay nhau. Tối chủ nhật tiếp đó, Quang đến đúng hẹn. Vân đã đến trước đợi anh và cô tỏ ra vồn vã hơn. Phim không hay. Quang đánh bạo rủ cô đi dạo chơi, Vân đồng ý. Đến lúc ấy khi được kề vai đi bên cô - thong thả hít thở không khí trong lành của trời đêm, Quang mới có điều kiện ngắm kỹ Vân. Quang nhận thấy cô nhiều nét quyến rũ hơn khi nhìn thoáng qua. Và đặc biệt là đôi mắt to đen, sâu thẳm và buồn rười rượi. Anh đã nhiều lần nghe mẹ nói rằng những người có đôi mắt như thế là tốt nết song bao giờ cuộc đời cũng long đong lận đận. * * * Quê em ở một vùng chiêm trũng Thái Bình nằm ven con sông Luộc. Tuổi nhỏ chăn trâu cắt cỏ em đã mơ ước được ra sống ở thành phố. Không hiểu sao vầng sáng điện của thành phố lại hấp dẫn em đến thế, và em cũng cứ lao vào vùng sang ấy như một con thiêu thân lao vào ngọn lửa. Học giỏi, thật giỏi chỉ có mục đích ấy mới giúp em thoát khỏi cảnh quê mùa chiêm trũng. Nhưng thật rủi ro em không đỗ vào cấp ba. Song nhất định em phải vào thành phố bằng mọi giá. Thế là em đi. Đường vào thành phố của em phải vòng qua Trường Sơn, qua bom đạn, qua những năm tháng sốt rét rừng đến rụng tóc và mất cả những biểu hiện sinh lý bình thường của phụ nữ. Sau hòa bình em được về thành phố và được ưu tiên đi học một lớp kế toán ngắn hạn. Chao ôi, lúc đó em vô cùng sung sướng. Em cảm thấy mình trẻ lại như tuổi mười lăm. Tóc em lại dài, lại xanh và má em lại hồng. Em biết mình đẹp. Em luôn ý thức điều đó. Chính vì thế suốt những năm tháng chiến tranh, phải sống giữa những khát khao cháy bỏng của đồng đội, nơi mà cái sống và cái chết chỉ cách nhau gang tấc, con người ta dễ tặc lưỡi buông thả miễn sao có được giây phút ấm lòng, em vẫn giữ được sự trinh tiết của mình. Thế nhưng em lại dễ dàng hiến dâng sự bừng nở con gái của mình cho chàng trai thành phố đầu tiên mà em yêu. Đó là người thầy dạy lớp kế toán của em, một chàng trai thư sinh lịch thiệp. Và em đã phải trả giá đắt cho niềm hạnh phúc ban đầu đó. Khi biết em có thai hắn bảo “Tôi không thể bỏ vợ, bỏ con để lấy cô. Cô phải lựa chọn một trong hai điều sau đây, hoặc sinh một đứa con không cha để ôm lấy sự ô nhục, hoặc tẩy rửa nhẹ nhàng cái thai đó đi và trở thành một cô gái trinh tiết?”. Rồi hắn đưa cho em một nắm thuốc. Em ném nắm thuốc vào bộ mặt đểu giả của hắn, còn hắn chỉ khẽ nhếch mép cười rồi thủng thẳng quay đi. Song hắn nói đúng. Chỉ bằng những cách hắn bày ra em mới trốn chạy được sự thật cay đắng ấy. Về nhà em dốc hết lọ thuốc sốt rét vẫn dành dụm; phần thưởng của những năm chiến tranh, uống điên cuồng như thể trả thù một cái gì đó vô định. Không hiểu tại sao em lại không chết sau hàng tháng nằm viện. Em trở về với tấm lòng tan nát đến vô tri vô giác. Tưởng rồi sẽ bứt hẳn khỏi những cám dỗ của cuộc đời, nhưng rồi em lại tình cờ gặp anh, và lại khao khát muốn trao gửi thân phận cho anh… Vân đã nói như thế với anh trong cái đêm hai người ngồi với nhau dưới gốc liễu công viên thành phố. Cô thú nhận đã có thai với anh và cô khóc. Cứ ngỡ như nước mắt của cả thế giới ba phần tư là nước mắt kia dồn tụ lại chảy thành một dòng sông khai sinh ra hết thảy mọi cay đắng và hạnh phúc trên đời. Và anh thành con thuyền không buồm không lái quay cuồng trong dòng sông ấy. Vân bảo: “Nếu anh khinh thường em, không yêu em và từ bỏ em thì em cũng sẵn sàng chấp nhận. Thậm chí em sẽ bỏ đi một vùng nào đó để khuất mắt anh song em không bao giờ từ bỏ đứa con mà em đã đoạt được của anh, đã phải trả bằng mọi giá cho cuộc đời để giành giật lấy”. Quang chỉ còn biết lắp bắp những lời yêu thương như lần đầu được nói. Vân lại nói: “Em biết mà, mới lần đầu gập anh em đã linh cảm thấy anh là người tốt. Em ngu quá phải không anh? Đáng trách nữa vì em đã nghi ngờ tình yêu của anh. Chao ơi em sung sướng quá, hạnh phúc quá. Bây giờ thì em có thể chết được rồi”. Vân còn nói lộn xộn nhiều nữa mà anh không sao nắm bắt nổi, anh chỉ thốt lên được một câu: “Dại nào. Bây giờ là lúc chúng mình đáng sống hơn cả” và ôm riết Vân vào lòng như sợ ai giật mất. Vân dỗi yêu: “Em chết đây, em đi đây”. Suốt đêm ấy anh bồn chồn không ngủ được, chờ trời sáng. Khi anh vừa dắt xe ra cổng thì có một thanh niên phóng xe máy đến, mặt hốt hoảng hỏi: - Anh có phải là Quang không? - Đúng rồi, cậu cần gì? Sau thoáng ngỡ ngàng, anh thầm cảnh giác vì ngỡ đó là kẻ bội bạc trước đây của Vân. - Tôi là em chị Vân. Đêm qua chị ấy bị tai nạn. Xe cán. Nặng lắm. Hiện chị ấy đang cấp cứu trong bệnh viện, không biết có qua được không. Lúc gần sáng chị ấy có tỉnh, nhắc đến tên và địa chỉ của anh rồi lại ngất đi. Anh đi ngay với tôi đến bệnh viện. Quang buông chiếc xe đạp đổ rầm xuống cổng vội vàng ngồi lên xen cậu em Vân. Chiếc xe máy lao đi, Quang chỉ thoáng nghe tiếng mẹ anh từ trong nhà hỏi với ra. Quang đến không kịp, Vân chết. Anh như hóa đá. Mấy ngày sau anh biết thêm về tai nạn của Vân. Một bà lao công chứng kiến tai nạn đêm ấy kể cho anh nghe. Vân đạp xe như thể chỉ có mình cô ấy trên đời. Ba chiếc xe máy phóng như điên từ một ngõ vắng lao ra, một chiếc xô vào Vân và chồm qua người cô. Bọn kia bỏ chạy luôn. Bà lao công vực cô lên xích lô làm phúc đưa cô đến bệnh viện. Vì đêm tối và bất ngờ nên bà không hề biết gì thêm về thủ phạm. Xem như Vân chết vì một trò chơi ngẫu nhiên và tàn nhẫn của cuộc đời. Riêng Quang, anh cứ nghĩ rằng Vân chết là do lỗi của anh. Đêm ấy anh không tiễn cô về như mọi khi. Nhưng thực ra đâu phải là anh không muốn tiễn, Vân bảo để cô đi một mình. Cô muốn được một mình lắng nghe nhịp đập của trái tim, một mình lắng nghe bước chân hạnh phúc đang nhón bước đến với mình. Thật kỳ lạ. Vân là một người kỳ lạ. Kỳ lạ đến tận lúc chết. Phải chăng vì cô ấy tốt quá, bao dung quá, lại luôn nhận phần thiệt thòi về mình trong trò chơi khắc nghiệt của định mệnh? Cô là đám mây kỳ ảo trôi lướt qua cuộc đời anh, nhanh quá, anh không làm sao theo kịp. Ngoài bốn chục tuổi, chưa vợ, mọi người cho Quang là lập dị. Kệ họ, hơi đâu mà lý giải. Hạnh phúc phóng tay với kẻ này lại dè xẻn với người kia. Biết lấy thước gì mà đo để định mức thế nào cho đủ! r
<bài viết được chỉnh sửa lúc 10.01.2023 18:05:51 bởi Thanh Vân >
TÌM TÁC GIẢ MỘT BỨC ẢNH
Tản văn
Trước tiên, phải xin lỗi tác giả bức ảnh này (Hoa gạo), bởi tôi không rõ nguồn gốc và tác giả bức ảnh này là ai, để xin phép khi đăng lại nó trong bài viết này.... Số là, từ vài ba năm nay, mỗi mùa hoa gạo tháng ba, trên mạng xã hội xuất hiện rất nhiều ảnh gạo, một loài hoa được xem như biểu tượng cho tiết đoạn lúc chuyển mùa cuối xuân sang hạ, và là loài hoa linh hồn của đồng quê làng mạc xứ Việt mình. Trong vô vàn các bức ảnh cũ, mới thi thoảng tôi lại bắt gặp bức ảnh hoa gạo này. Tôi để ý, tìm xem nguồn gốc và tác giả bức ảnh là là ai, song đều không thấy ghi rõ. Vậy nên cho đến giờ phút này, vẫn chưa biết ai là người bấm máy chụp bức ảnh hoa gạo này.... Mặc dù, còn lâu mới đến mùa hoa gạo, nhưng tôi chợt nghĩ, cần phải tìm xem tác giả bức ảnh đó là ai? Bởi mới hôm trước, tôi lại thấy nó xuất hiện trong một bài viết ở một Nhóm nọ. Nhưng sao tôi lại muốn đi tìm tác giả bức ảnh này,? Đơn giản, bởi cây gạo trong bức ảnh này là chụp cây gạo làng tôi-làng Thanh Khê, xã Minh Hải, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên. Nhìm bóng dáng cây gạo đặc biệt quang cảnh xung quanh, cho phép tôi nhận diện ra cây gạo làng quê mình. Mấy năm trước, trong khi đăng một bài viết về hoa gạo tháng ba, tôi đăng ảnh những cây gạo trổ đầy hoa đỏ mà tôi chụp được ở đó đây, thì có một người quen đã mách và gửi cho tôi bức ảnh này, kèm theo lời nhắn "cây gạo làng Thanh Khê đây ạ" (tên làng quê tôi). Tôi xem và nhận ra ngay cây gạo làng mình thật. Tôi có hỏi lại ai là tác giả bức ảnh đó thì họ bảo là cũng không rõ, chỉ thấy ở trên mạng, nhận ra nó và lưu giữ lại thôi chứ không rõ nguồn gốc từ đâu và của ai. Nhìn kỹ, chân ảnh bên phải có chữ viết gì đấy nhưng mờ và quá nhỏ nên không đọc được. Chẳng rõ đấy có phải là chú thích và tên tác giả không? Vì không rõ nguồn nên tôi cũng chỉ lưu giữ xem như đây là một hình ảnh về làng quê mình và định bụng sẽ tim xem người chụp bức ảnh này là ai. Sở dĩ, tôi nhận ra ngay cây gạo làng quê mình, bởi từ gần 60 năm trước, tôi dã biết nó. Số là, vào mùa đông năm 1964, khi cuộc chiến tranh chống chống MỸ bắn phá miền Bắc, thực hiện chính sách thời chiến, giảm dân số ở thủ đô Hà Nội, cả gia đình tôi đã chuyển từ ngôi nhà ở 50A Trúc Lạc, phố Phó Đức Chính, phường Trúc Bạch, quận Ba Đình về quê gốc (làng Thanh Khê, xã Minh Hải, huyện Văn Lâm, tỉnh Hải Hưng, sau là Hưng Yên) sinh sống. Nhà tôi được HTX nông nghiệp cấp cho một sào ruộng diện đất 5%, ở cánh đồng làng chỉ cách cây gạo này chừng dăm chục mét. Thê nên, mỗi khi theo cha mẹ và các chị ra làm đồng, tôi đều nhìn thấy ngôi cổ quan có cây gạo này, với vẻ e sợ, bởi người ta vẫn bảo là "cây gạo nào cũng có ma" (thì Thần cây Đa, ma cây Gạo mà). Nói rõ thêm, đây là cây gạo ngay sau lưng Quán Táo, ngôi quán giữa đồng duy nhất của làng tôi. Còn chức năng của quán đồng vùng Bắc Bộ thì xin không nói lại ở đây. Khi ấy, tôi mới 7.8 tuổi thôi nên sợ ma cây gọa Quán Táo là đương nhiên. 10 năm đi học ở quê, rồi cũng phải chăn trâu, cắt cỏ, làm vài việc đồng áng, nên Quán Táo và bóng dáng cây gạo này trở nên gần gũi thân thiết với tôi, bởi đó là nơi nghỉ chân tránh nắng mưa nỗi khi ra đồng. Bọn trẻ con chúng tôi thường chơi ô ăn quan, rải ranh trong quán, rồi nhặt hoa gạo rụng chơi mỗi tháng ba về,... 5 năm học đại học, thi thoảng hoặc kỳ nghỉ hè ở quê, tôi vẫn giúp mẹ tôi chút việc đồng nên cũng hay ngang qua Quán Táo và cây gạo già này. Tôi nhớ, cũng đã từng hỏi han người làng xem cây gạo do ai trồng, có từ bao giờ, thì cũng chẳng ai rõ, chỉ chung chung này nọ cho qua thôi. Mười năm trở lại đây, gia đình tôi dựng ngôi thờ tự trên mảnh vườn quê, nên hàng năm đều dăm ba bận về quê công việc, giỗ chạp này nọ. Mỗi khi ngang qua Quán Táo có cây gạo già này, tôi đều chụp ảnh. Chụp các góc nhìn khác nhau nên thuộc quang cảnh xung quanh ngôi cổ quán và cây gạo. Tiếc là không gặp đúng mùa hoa gạo nên cho đến nat tôu vẫn chưa có bức ảnh nào chụp cây gạo làng mình mùa hoa đỏ. Hình ảnh bà cụ đi dưới tán hoa đỏ với thảm hoa gạo rụng đầy lối đi này hẳn cũng là người làng tôi. Qua bức ảnh, chẳng thể nhận diện người trong ảnh là ai ở làng mình. Bởi với tôi, hoàn cảnh chẳng khác gì người xưa, Hạ Tri Chương (nhà thơ thời Đường) đã nó hộ tâm trạng chung khi viết trong bài tứ tuyệt HỒI HƯƠNG NGẪU THƯ: "Thiếu tiểu ly gia lão đại hồi/ Hương âm vô cải mấn mao tồi/ Nhi đồng tương kiến bất tương thức/ Tiếu vấn khách tòng hà xứ lai." Dịch nghĩa :'Lúc còn nhỏ rời quê ra đi, khi đã già mới trở lại/ Chất giọng quê còn chưa mấy đổi mà tóc đã bạc trắng cả rồi/ Trẻ con ở làng trông thấy mình nào biết mình là ai/ Chúng cười hỏi, rằng khách từ nơi đâu đến đây". Thiển nghĩ, tác giải bức này rất có thề người làng tôi, hay người mấy làng lân cận, mà cũng có thể là dân chơi ảnh tài tử, hoặc giả tay máy chuyên nghiệp nào đó ? P?S: Hôm nay (11/12) lướt Fb tình cờ lại nhìn thấy một bức ảnh khác chụp cây gạo Quán Táo làng Thanh Khe (góc chụp cảnh toàn, thấy rõ cả quán Táo và dòng sông chay qua trước cửa quán). Ảnh cũng không ghi tên tác giả, chỉ nói là lấy trên Fb thôi. Rất có thể dây là bức bức ảnh cùng một người chụp với bức kia. Thôi cứ tạm gắn ảnh lưu vào đây đã. Sẽ tìm hiểu sau.
MINH TRIẾT CỦA DÒNG SÔNG Truyện ngắn @@@
Ngày trước có một cậu bé. Đến tuổi đi học, lần đầu tiên cậu biết được mình đã được sinh ra như thế nào, qua lời kể của người cha. Rằng khi ấy, cậu đã có tới sáu người chị gái, mẹ cậu lại mang thai, lần này thì cả cha lẫn mẹ đều chung một niềm tin mãnh liệt là đứa con thứ bảy sinh ra sẽ là trai. Hôm mẹ chuyển dạ sinh cậu, cha đưa mẹ đến một nhà hộ sinh nằm trên phố bờ đê, đường đi ngang qua một rạp chiếu bóng ngoài trời, khi ấy bắt đầu buổi chiếu bộ phim có tên là Cầu Phúc.Lòng người cha khấp khởi, càng vững thêm niềm tin, có người nối dõi tông đường. Cậu bé được sinh ra từ sự giao hòa giữa khí trời và đất, từ niềm tin của cha và lòng nhân hậu của mẹ. Cậu đâu biết rằng, khi biết tin có con trai, người cha mừng tủi đến nghẹn ngào. Ông lững thững bách bộ, lặng ra đứng trên đê bờ sông Cái lộng gió, mắt dõi vào lòng sông.Trời đêm không rõ gì, nhưng ông biết, phía dưới chân kia, dòng sông đang lũ mùa thu cuồn cuộn trút mình vào biển cả. Ông nghĩ về cội nguồn tổ tiên nông dân thuần phác của mình, về sự khao khát vươn tới ánh sáng tri thức của cả một dòng họ, để có những ông Nghè, ông Cống, ông Tú, và đến thế hệ ông là những ông Ký, ông Phán. Danh vọng và phú quý ư ? Nó đến rồi đi như gió thổi trên thinh không, như nước chảy hoài… Và tự nhiên, người cha nghĩ, mình cùng đứa con trai nối dõi của mình sẽ trở về nơi xuất phát của tổ tiên, sống cuộc sống nông phu chất phác ở chốn thôn dã… Người cha thì thầm với dòng sông trước mặt, với cái chốn thị thành đô hội này, mà một thời ông đã tung hoành, như thế ! … Chiến tranh, bom đạn ngút trời. Bảy tuổi, cậu bé theo cha mẹ về quê sinh sống. Trí óc non nớt khiến cậu tưởng chuyến đi dài không biết ngày trở lại ấy, như bao lần cậu từng theo các chị về nghỉ hè ở quê thăm bà ngoại. Những tháng năm chăn trâu cắt cỏ, mò cua bắt ốc với đám trẻ làng, cậu hiểu thế nào là nắng hè le lưỡi chó, là nước ruộng mùa đông chết cóng cá rô. Những lúc ấy, cậu bé luôn có một ước mơ nho nhỏ song cháy bỏng, đó là lại được bớt tiền mẹ cho xem phim để mua thịt bò khô, ô mai mơ, rồi chờ xem phim tháo khoán, hoặc xem bằng cách leo lên bờ đê nhòm qua lưới mắt cáo của cái bãi chiếu phim ngoài trời, mà xem, như hồi còn ở phố. Ngày ấy, những bộ phim "Tôn Ngộ Không đại náo thiên cung ", "Tôn Ngộ Không ba lần đánh Bạch Cốt Tinh", đã vô tình khơi dậy trong hồn cậu ước mơ bay bổng. Sau này, nghĩ lại thấy buồn cười, song quả là khi đó, nó lại nung nấu tâm trí cậu, thúc giục và nâng đỡ cậu vượt qua hết thảy !... Người cha, trước lúc mất, thì thào đứt đoạn bảo con trai : " Ta đã làm đúng lời hứa… là đưa con…về với cội nguồn xuất phát… của tổ tiên…Đúng hay sai…ta không biết…Bây giờ con đã lớn…con tự quyết định lấy đường đi của mình…Hãy tha lỗi cho ta… những gì ta đã làm cho con…nếu con thấy là …không phải ?!...". Cậu đã khóc, và đó chính là những giọt nước mắt từ giã tuổi thơ, rửa trôi hết bao hờn giận trẻ con… Nước mắt ràn rụa, cậu lặng lẽ nhìn người cha chìm dần vào cõi hư vô… Đường đời vòng trôn thúng, bôn ba khắp nơi, đến khi trở về sống ở chốn sinh thành, thì cậu đã là người đàn ông đứng tuổi, tứ thập bất hoặc. Bao đam mê khao khát thuở nào chỉ còn một nửa, nhìn lạc thú không đến nỗi thèm khát, song cũng chưa tới độ tĩnh tại để bỏ qua… Cái sự dở dở ương ương ấy, có khi lại là nguyên nhân cho biểu hiện của lối sống vật vờ, vô trách nhiệm ?… Cho đến một hôm, tình cờ đi trên phố bờ đê, sực tỉnh nghĩ, sao mình không thử xem lại cái số nhà 29, nơi ngày trước là nhà hộ sinh tư nhân mà mình đã sinh ra ở đó ( giờ đây còn in dấu vết trong tờ giấy khai sinh ), nay có còn không ? Nhả tay ga, chầm chậm nhẩm đếm, 37, 35, 33…ồ đây rồi…29- Cà phê giải khát Nhĩ Hà. Mùi cà phê thơm lựng, mùi sữa ngầy ngậy, mùi quả tươi ngai ngái. Ngang qua rồi, còn ngoái đầu nhìn lại, tâm trạng bâng lâng, tay lái lạng đi, suýt quệt phải chiếc xe máy chạy ngược chiều. " Mắt mù à ? Muốn đi Văn Điển thì bảo với ông mày một tiếng…nhớ"- Cậu thanh niên choai choai phanh kít xe, phùng mồm trợn mắt quát. " Xin lỗi…xin lỗi. Tôi sơ ý ". Xám mặt, toát mồ hôi, nhăm nhăm tập trung tay lái. Đổ dốc…à, còn nhớ trước mặt là bãi chiếu bóng ngoài trời ngày xưa… Lại sừng sững một tòa cao ốc, dễ đến mấy chục tầng. Ngửa mặt ngắm nhìn, lẩm bẩm đếm số tầng. " Chú ơi, đi xe như thế nguy hiểm lắm…Sao chú không đỗ hẳn xuống, mà lại…?". " Cảm ơn ". Thiếu nữ mặc áo dài trắng, đạp xe mini lướt qua, nhắc nhở. Ngẩn người nhìn theo, cô gái khẽ quay đầu mỉm cười. Ồ đúng ra vẫn là một cô bé… Bỗng thấy lòng khoan dung. Nảy ý định, quành xe dọc phố bờ sông. Gửi xe, leo tận lên bờ cỏ. Nhìn chênh chếch ra sông. Bờ bên kia là làng mạc xanh bóng tre. Lũ mùa thu cuồn cuộn nước nâu đỏ. Rẩm riu nghĩ, dòng nước kia từ đâu đến và chảy về đâu ? Từ nguồn, ra biển, thì rõ rồi. Vòng tuần hoàn của nước chính là sự minh triết. Cũng thế, con người nảy sinh, mơ ước, trôi dạt, định hướng, tìm đường, lẩn quẩn nơi ngã ba, ngã tư, dòng xoáy, và đó là cơ hội, lựa chọn hoặc bị xô đảy, lại trôi chảy…lại mơ ước và khát khao mới… Ờ, hôm nào mình phải về quê. Đã lâu rồi không viếng mộ cha mẹ… Rồi ra, mình sẽ làm… mình sẽ…Và mấy đứa con mình lại cũng sẽ làm…sẽ…sẽ…sẽ… R
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.01.2023 01:22:07 bởi Ct.Ly >
NGẪU HỨNG MÙA ÔNG ĐỒ RA PHỐ (TẢN VĂN) @@@
Bản thân, tôi có thú vui là tập và sưu tầm thư pháp Hán Nôm. Thế nên, từ nhiều năm nay, khi thư pháp Hán Nôm trở lại đời sống đương đại thì tôi đã bắt đầu thú vui này. Nhớ lại, khoảng đầu những năm 2000, khi ông đồ Lam Sơn Hồng Thanh bày bàn viết thư pháp ở hè phố đầu dốc Bà Triệu, Hà Nội thì tôi đã có thư pháp của ông. Khi ấy, dân tình bắt đầu biết đến mấy nhà thư pháp tên tuổi ở Hà Thành như cụ Nguyễn Văn Bách ở ngõ Tràng Tiền, cụ Lê Xuân Hòa người gốc xứ Thanh, trẻ tuổi thì có Việt Tàu-Lê Quốc Việt v.v... Kể từ đấy, tôi bắt đầu thú chơi của nình, và cho đến nay, đã có mấy chục bức thư pháp của ta và cả của Tàu. Độ mươi năm nay, thư pháp ở xứ ta nở rộ, nên cứ mỗi năm tết đến, các ông đồ lại ra phố cho chữ thiên hạ. Dăm năm nay, tôi giao lưu với nhà thư pháp Thạch Sơn-Nguyễn Tường Khải, rồi làm quen với các nhà thư pháp khác như Hoàng Chính, Đỗ Tụ, Trúc Lam-Hồ Sỹ Trung, ông đồ Ninh Bình-Hoàng Dũng, và gần đây là Nguyễn Đức Lợi,... Mỗi người, mỗi tài hoa,... Nhớ năm ngoài, do dịch Covid nên Hội chữ xuân Văn Miếu không mở, nhiều ông đồ vắng bóng. Mấy con phố xung quanh Văn Miếu lác đac dăm ông đồ viết chữ nhưng người cho chữ và xin chữ cũng vắng lắm. Khi ấy, tôi đã tức sự nên bài thơ NGẪU HỨNG MÙA ĐÔNG ĐỒ RA PHỐ. Mừng xuân nay, Hội chữ lại mở, bàn dân thiên hạ tha hồ mà vui xuân chơi hội chữ. Nay đăng lbài thơ này để nhớ về một thời dịch bệnh hoành hành, để thêm quý thêm yêu cuộc sống thanh bình, và cũng là biết quý trọng một thú chơi tao nhã của dân mình !... ### Đã vài xuân vằng bóng những ông Đồ thời nay Văn Miếu buồn lá rụng, Hồ Văn lắng mây bay, Nhớ ông đồ Hoàng Chính, vung tay thảo bức Lan, rung râu chòm Đỗ Tụ phất nên sóng Trường giang. Nhớ bạn văn Tường Khải, khoắng bút thảo nét Hành, lại khéo tay thể Sấu, nét gày Tống Huy Tông Bác Trúc Lam xứ Huế, nổi tiếng họa mẫu đơn, mấy năm trau dồi chữ, đợi ngày ra Thăng Long, Anh bạn trẻ Hoàng Dũng xưng Ông đồ Ninh Bình chàng Việt Tàu lập dị thảo thơ và chép kinh,... Mấy mùa qua dịch dã, đành múa bút xó nhà, chữ online lên mạng, cũng đi khắp gần xa, Mùa xuân nay càng nhớ, Lê Xuân Hòa xứ Thanh Tràng Tiền Nguyễn Văn Bách. và Lam Sơn Hồng Thanh,... Những cụ đồ một thuở cho chữ mỗi mùa xuân, giờ vân du cõi hạc,
NGÀY ẤY DÂU XANH Truyện ngắn
Bác bảo vệ cơ quan điện thoại lên phòng nói rằng tôi xuống ngay cổng thường trực có khách đang đợi. Vốn nhiều khách và đã quen với việc này rồi, tôi nấn ná gõ mấy chữ thêm mấy dòng cho hết mạch suy nghĩ rồi mới buông máy xuống cổng thường trực. Thấy tôi bước vào, hai khách - một nam, một nữ đứng dậy nhìn tôi chằm chằm. Tôi cũng nhìn họ vì đoán đó là khách cần gặp mình. Cả hai, tôi không quen mặt. Cô khách tuổi trạc ba mươi, người gầy gò, thấy tôi, mắt ánh lên, cố nén để không reo lên: “Kìa… Anh Huân! Ôi anh chả già tý nào cả…”. Tôi vẫn chưa nhận ra người đàn bà vừa gọi tên mình và còn khen mình trẻ là ai, nên đành cứ ầm à trong miệng. Người đàn bà dường như bắt gặp vẻ dò hỏi trong mắt tôi, mặt ỉu xịu: “Thế ra, anh vẫn chưa nhận ra em là ai à?”. Tôi hết đường bèn thú thật: “Qủa là tôi vẫn chưa nhận ra… chị… anh… là”. Lấy lại vẻ bình thản, cô ta bảo: “Em là Lụa, em gái anh Lĩnh. Hẳn bây giờ thì anh nhớ rồi chứ?”. Tôi reo lên: “Lụa đấy à! Sao bây giờ trông em khác thế. Gầy đi bao nhiêu…”. Lụa cười: “Và già nữa phải không anh. Em giới thiệu với anh, đây là Trí, chồng em… Còn đây là anh Huân, như em đã có lần kể với anh”. Lụa quờ tay, nắm tay chồng kéo lại gần tôi. * Mười lăm năm trước, tôi và Lĩnh anh trai của Lụa cùng tốt nghiệp đại học một khóa với nhau. Cả hai đều được phân công vào Nam công tác. Hôm lên trường nhận quyết định, Lĩnh rủ tôi: “Về nhà tao chơi đi. Vùng quê tao đẹp lắm. Người có máu thi sĩ như mày chắc mê ngay” . Nghe Lĩnh rủ bùi tai, và vốn sẵn máu phiêu lưu, vả lại trước khi vào đồng bằng Nam Bộ cũng cần chút nhàn tản để khắc sâu hình ảnh đồng quê châu thổ sông Hồng vào tâm khảm, tôi đồng ý ngay. Thế là hai đứa hai chiếc Phượng Hoàng, đạp như bay về quê Lĩnh. Đấy là một làng quê nằm ven bờ sông Đáy, chuyên nghề tằm tang từ cổ xưa. Mẹ Lĩnh là công nhân trại tằm, nên cả gia đình sống ngay tại căn hộ tập thể của trại liền giáp với bờ sông. Về đến nhà thì trời đã tối. Cả nhà đã ăn cơm xong. Lĩnh phụng phịu kêu đói. Bà mẹ cuống quýt lo việc cơm nước cho hai đứa, còn ông bố ngồi lên bàn nước, thủng thẳng đôi câu giọng Huế và hút thuốc lào vặt, mỗi lần hút lại sặc sụa ho từng hồi dài đến là sốt ruột. Lĩnh cứ đi ra đi vào, luôn miệng khi thì nũng nịu mẹ, lúc thì cằn nhằn bố. Lĩnh hỏi: “Thế cái Lụa đâu?”. Mẹ Lĩnh: “Cơm xong là nó lấy xe đi luôn, nói là vào làng ngủ với bà”. Bố Lĩnh ca thán: “Chẳng biết có đậu đại học không. Trượt rồi ở nhà làm gì?”. Mẹ Lĩnh: “Ôi dào, ông thì chỉ… Trượt thì sang năm thi nữa. Cùng lắm thì ở nhà chăn tằm”. Lĩnh tỉnh bơ: “Lấy chồng, đẻ con là xong”. Mẹ Lĩnh mắng: “Bậy nào”. Vì đạp xe mệt, hai đứa chúng tôi ngủ như chết. Ngủ sâu nên tỉnh sớm. Trời tờ mờ sáng. Nằm im nghe không gian. Tiếng gà gáy, tiếng chó sủa rấm rẳng từ trong làng vọng ra. Lĩnh vẫn ngủ say. Mẹ Lĩnh đã trở dậy từ bao giờ, lúi húi bên bếp chuẩn bị bữa sáng cho cả nhà. Chợt tôi nghe tiếng hát, giọng con gái còn non: “Dòng sông Đáy quê em, sông trăng hay sông lụa. Nong kén vàng như lúa…”. Mẹ Lĩnh: “Lụa ơi, vô ý thế con. Mới sớm ra mà ông ổng”. Cô bé Lụa dựng xe đạp, nói to: “Con hát để đánh thức anh Lĩnh dậy. Anh Lĩnh về tối qua phải không mẹ?”. Mẹ Lĩnh thì thào: “Ừ… có cả bạn anh ấy nữa”. Cô bé: “Chết thật!... Con vô ý quá”. Rồi hai mẹ con thì thầm với nhau. Tôi vờ ngủ say, không dám cựa quậy gì. Hình như Lụa nhóm chân ra sân. Lát sau đã lại nghe tiếng cô hát ở phía nhà tắm: “Dòng sông quê anh, dòng sông quê em. Sóng xanh như mắt trẻ. Sao giống nhau đến thế…”. Bữa ăn sáng, tôi giáp mặt Lụa. Tuổi già mười sáu là cùng. Da trắng bụ, mặt không xinh nhưng ưa nhìn và có vẻ thông minh. Mắt to đen ánh lên vẻ tinh nghịch. Lụa ngồi đầu nồi, xới đưa tôi bát cơm nếp sắn đầy ú ụ. Thấy thế, bà mẹ kêu lên: “Xới vơi vơi thôi chứ con… Sợ người ta đòi nồi à?”. Lụa cười hồn nhiên: “Con biết… Nhưng mà con sợ anh Huân làm khách ăn có một bát rồi lại đói”. Bà mẹ nói như thanh minh hộ con gái rượu: “Em nó có lớn nhưng không có khôn. Hãy còn vô ý vô tứ lắm. Có gì không phải anh bỏ quá cho nghe”. Tôi lúng túng đỏ mặt chẳng biết nói gì. Lĩnh bảo em: “Lụa thạo việc chăn tằm, giới thiệu cho anh Huân nhé”. Lụa cười: “Chỉ sợ anh Huân không thích”. Lụa đưa tôi vào nhà tằm, líu ríu giới thiệu cho tôi nhưng nào tôi có tâm trí đâu mà nghe. Tôi mải nhìn bàn tay em rắc dâu cho tằm ăn. Đám công nhân nữ cùng đội với mẹ Lụa, tuổi ngoài đôi mươi thôi, nhí nhéo trêu: “Lụa ơi, người yêu đấy à”. “Trông đẹp trai đấy”. Có cô táo bạo hơn: “Lụa ơi, nhường cho chị đi. Em còn trẻ, khối đứa theo, chị già rồi, đang sợ ế đây. Chị lạy em đấy!”. Trêu đùa Lụa rồi các cô cười rúc rich. Tôi ngay như trời trồng. Còn Lụa, lúc đầu có lung túng nhưng rồi cô bé xoay chuyển tình thế: “Ai lại nhường người yêu bao giờ. Mới lại, anh Lĩnh em, đẹp trai đấy chứ. Có chị nào chấm không, để em về bảo với mẹ em cho”. Ra khỏi nhà tằm, tôi bảo: “Các chị ấy miệng lưỡi mới khiếp chứ! Mà em cũng đáo để”. Lụa cười, nghiêng nghiêng mặt: “Em không làm thế anh có mà chết với các chị ấy” - Lụa đỏ mặt, cúi đầu: “Em xin lỗi anh… vì đã vơ vào”. Thấy Lụa như vậy, tự nhiên tôi mạnh dạn bạo hẳn lên và tung ra một câu lửng lơ: “Biết đâu đấy…”. Buổi chiều, hai bố con Lĩnh lôi cưa đục ra chữa lại mấy cái ghế và chiếc bàn long chân. Lụa gọi tôi ra một góc thì thào: “Anh vào làng với em đi”. Đang loanh quanh không biết làm gì, được Lụa rủ tôi hân hoan đồng ý ngay. Tôi đèo Lụa và trên đường đi, cô bé nói là vào làng thăm bà: “Bà ngoại em dạo này yếu lắm. Cậu em đón ra thành phố bà không chịu. Mẹ em bảo về ở với nhà em cũng không nghe. Bà em nói là bà sống chết ở mảnh đất nhà để hàng ngày hương khói cho ông ngoại em”. Chúng tôi phải dắt xe ngoằn ngoèo qua mấy cái ngõ nhỏ lát gạch nghiêng long lở. Căn nhà bà ngoại Lụa lấp dưới lũy tre và lút đi bởi vườn dong giềng trổ đầy hoa đỏ. Chiếc sân gạch Bát Tràng tãi đầy lá tre khô. Lụa lên tiếng gọi mấy lần mới nghe thấy bà cụ trả lời đâu dưới bếp. Lụa giải thích: “Bà em nặng tai. Anh có nói gì thì nói to nhé”. Chúng tôi vào bếp, thấy bà cụ lưng còng gập đang đun gì trong chiếc nồi đồng điếu nhỏ. Lụa mở vung: “Sao bà luộc khoai? Bà còn chưa khỏi ốm cơ mà. Thôi khoai để chúng cháu ăn cho. Giờ bà để cháu nấu cho bà nồi cháo”. Lụa mở túi xách lấy gói đỗ xanh cà sẵn bắc nồi nấu cháo. Bà cụ mời tôi lên nhà, run run rót ấm nước vối ủ ra mời tôi. Tôi ngồi nói chuyện cùng bà cụ. Câu được câu mất song tôi cũng hiểu thêm về gia cảnh nhà Lụa. Bố Lụa người gốc Huế, tập kết ra Bắc rồi lấy mẹ Lụa người làng tằm đây. Thống nhất rồi, về thăm quê và muốn đưa cả gia đình vào trong ấy, nhưng bà vợ thì dùng dằng chưa quyết bởi không đành để bà cụ lại một mình trong khi bà cụ nhất định không chịu ra thành phố với con trai. Dường như bà cụ mất rồi mọi chuyện mới tiếp nối, mà người già thì như trái chín cây, biết ngày giờ, tháng năm nào rụng. Lát sau Lụa bưng cháo lên. Bà cụ ăn cháo và chợt nhớ ra hỏi: “Thế anh gì đây là… gì với cháu?”. Lụa cười hồn nhiên: “Bà ơi, anh ấy là bạn học với anh Lĩnh cháu”. Trời ngả chiều, tôi và Lụa chào bà cụ ra về. Lụa còn nấn ná căn dặn bà cụ mãi. Lụa thở dài: “Em lo cho bà em lắm. Em muốn được theo học ngành y nhưng năm nay có lẽ trượt mất”. Trên đường bờ sông, mấy đứa trẻ chăn trâu chơi dưới bãi dâu ven sông trêu: “Ê kìa… đôi một xe… ê ê”. Tôi loạng choạng suýt đâm xe xuống vệ sông, may mà Lụa nhảy xuống kịp thời nắm pooc-ba-ga kéo lại. Tôi rủ Lĩnh ra sông tắm, nhưng công việc còn chưa xong, Lĩnh bảo: “Mày dân phố, thấy sông thì thích, chứ tao ở quê chỉ thấy nước sông đục và bẩn bỏ sừ ấy. Mày tắm một mình đi, nhưng mà có biết bơi không đấy? Nhớ đừng làm mồi cho cá nhé”. Tôi ra sông một mình. Bỏ quần áo dài dưới gốc đa trên cầu gạch bên sông. Mùa này nước sông không to, tôi mạnh bạo bơi ra giữa dòng lặn ngụp, rồi nằm ngửa trên nước mà nhìn trời. Dâu đôi bờ lá vàng, lá xanh. Đôi con diều giấy chấp chới trên không. Khói chiều từ những nếp nhà kề bên sông lên thơm nồng. Trời chạng vạng. Sớm mai tôi sẽ rời nơi này về thành phố và chuẩn bị cho một chuyến đi xa… Chợt nghe có tiếng khoát nước nơi cầu sông, tôi đánh mắt nhìn vào. Thì ra Lụa với đôi thùng gánh nước, chắc là tưới cây. Tôi nghĩ, cô bé siêng năng thật. Rồi tôi lại lan man, hay là cô bé biết mình tắm nên kiếm cớ ra vậy. Nhớ đến những câu trêu đùa, hoặc câu hỏi vô tình của mọi người về mối quan hệ của tôi với Lụa, tôi cười thầm và thấy khoai khoái. Cô bé còn trẻ con mà. Tôi thì có gì già đâu, nhưng tôi lại thèm sự trẻ trung, tham vọng nhưng đầy lo âu của cô bé. Lụa vẫn gánh nước, một chuyến, rồi hai chuyến, ba chuyến… Vừa lan man tôi vừa nhẩm đếm. Đột nhiên có tiếng đập nước mạnh. Tôi lật người nhìn vào cầu sông. Thì ra Lụa bị ngã, không hiểu do trượt chân hay tuột thùng. Tôi hốt hoảng bơi vào. Đến nơi thì Lụa đã nhoai lên được, ngồi xuống bậc cầu. “Em làm sao thế? Có việc gì không?” - Tôi dồn hỏi. Lụa còn chưa trấn tĩnh lại: “Không việc gì đâu. Cầu trơn quá”. Tôi khuyên: “Em đừng gánh nữa Lụa à”. Nhưng bất chấp, Lụa vẫn múc đầy hai thùng nước và móc vào quang gánh. Tôi nổi máu anh hùng: “Hay để anh gánh về cho”. Lụa cười: “Anh không gánh được đâu. Em lạ gì…Cũng như anh Lĩnh em vậy. Trông kìa, cái bả vai lưỡi hái của anh thì chỉ đặt thanh củi lên cũng đau rồi”. Lụa quả quyết cất gánh lên vai và bước từng bước cẩn thận lên từng bậc gạch. Tôi đứng nửa người dưới nước nhìn lên. Lúc bình thường, nhìn Lụa trong bộ quần áo rộng tưởng cô bé còn trẻ con lắm. Bây giờ, quần áo ướt bết vào người, cơ thể Lụa hiện lên mồn một những đường cong mềm mại, cho tôi cái cảm giác Lụa đã là một thiếu nữ thực sự đầy sức sống. Tôi nhìn theo đăm đắm và chợt thấy người mình nóng dần lên… Tối ấy, nhà thịt gà làm bữa tươi. Tôi cũng nhấp chút rượu cùng hai bố con Lĩnh. Sau bữa cơm, cả nhà quay quần quanh bàn nước. Có tý men lên Lĩnh hưng phấn. Bình thường cậu ta ít nói nhưng lúc ấy lại nổi hứng tìm cây ghi ta cũ kỹ vừa đàn vừa hát. Lúc đầu, Lụa chỉ ngồi nghe và rúc rích với mẹ, sau hát theo. Vui nữa, Lụa còn bảo Lĩnh đàn hết bài này đến bài khác cho Lụa hát. Giọng Lụa không hay nhưng được cái không phô nhạc. Tôi không thuộc bài hát nào song cũng võ vẽ đôi câu nên bị không khí vui tươi cuốn hút và lẩm nhẩm theo. Đang vui thì nhà có khách. Đúng ra là một cậu bé trạc tuổi Lụa, cùng vừa tốt nghiệp phổ thông với Lụa. Cậu ta gầy gò, khuôn mặt trắng xanh dài dài và bị choán hết bởi cặp kính dày như đít chai. Cậu ta rụt rè ngồi xuống ghế, lóng ngóng đón chén nước từ tay bố Lụa nhưng lại làm rớt, nước đổ lênh láng ra bàn, may mà không vỡ chén. Cậu ta lắp bắp xin lỗi mãi. Khi Lụa thôi hát để tiếp cận cậu thì cậu ta lại đưa hai tay lên xua xua: “Kệ mình… Lụa cứ hát với các anh cho vui”. Lụa đắn đo rồi mặc cậu bạn lại giục Lĩnh đàn hát tiếp. Để ý quan sát, tôi thấy cậu bé cứ ngọ nguậy như ngồi phải gai. Hai tay cậy đan vào nhau, xoắc xó sốt ruột. Tôi chủ động nhắc Lụa: “Thôi em ạ, xem bạn cần gì không”. Lụa hỏi: “Ấy sang chơi hay còn có việc gì nữa. À chút quên không giới thiệu. Đây là anh Huân, bạn học với nhà Lĩnh mình. Các anh ấy sắp vào tận miền Nam. Còn đây là Trọng, bạn học phổ thông với em. Học toán giỏi lắm và có ước mơ trở thành nhà phát minh”. Cậu bạn được giới thiệu lấy làm hãnh diện, mặt hân hoan bảo: “Mình kém lắm. Lụa nói thế các anh ấy cười cho”. Trước khi chào ra về, cậu ta rủ: “Mai mình với Lụa lên huyện xem điểm thi đại học đi. Mình nghe nói có kết quả rồi đấy. Nghe đâu khối người đỗ”. Lụa cười buồn: “Chắc là có cậu. Tớ chẳng đi đâu. Tớ tự biết trượt rồi”. Câu nói của Lụa nhắc mọi người trở về với thực tế. Lụa tiễn chân bạn ra ngoài. Cả nhà im lặng không ai nói gì. Mẹ Lụa thở than: “Học tài thi phận”. Lụa quay trở vào, kêu to: “Mẹ ơi, trời mưa. Lúc chiều con quên không nhắc bà hễ trời mưa đừng có ra ngoài đi tiểu mà ngã chết. Đêm hôm thế này, sân lại trơn. Hôm nào con phải nạo hết rêu đi mới được. Đến là khổ”. Lĩnh thủng thẳng: “Mới tí tuổi đầu mà việc gì cũng lo, lúc nào cũng kêu khổ, rồi sau nó vận vào thân đấy, nghe chưa em”. Lụa vênh mặt: “Kệ em”. Đêm ấy, hình như cả nhà mất ngủ. Và chắc chắn, mỗi người đều có lý do riêng để mà mất ngủ. Trời vẫn mưa. Tôi lo ngày mai đi sớm đường trơn. Được xem tằm ăn lá dâu rồi nên lúc ấy tôi nghe tiếng mưa, hiểu vì sao người nhạc sĩ họ viết “tiếng mưa như tiếng tằm ăn”. Và tôi thiếp đi… Hôm sau, tôi và Lĩnh đi sớm. Mẹ Lĩnh lục đục chuẩn bị các thứ. Lĩnh cằn nhằn: “Con lên trường giải quyết giấy tờ mấy hôm rồi về, chứ có đi ngay đâu mà mẹ chuẩn bị lắm thứ thế”. Lụa cũng trở dậy, lặng lẽ chẳng nói gì. Lụa cầm đèn soi đưa tôi và Lĩnh ra tận bờ sông. Đến chỗ cây đa đầu sông, cô dừng lại, đưa bàn tay về phía tôi: “Chắc anh Huân ít có dịp trở lại đây. Thôi chúc anh đi chân cứng, đá mềm!”. Lụa không còn là trẻ con nữa rồi. Đúng thế, và cũng chỉ từ chiều qua thôi. Tôi nhìn Lụa, cảm động, nắm bàn tay cô và từ từ siết chặt…Hai thằng đạp xe đi. Trời vẫn tối đen còn chưa rõ đường. Hết bờ sông gập ghềnh, chúng tôi xuyên qua những làng những xóm. Đi đến đâu, để lại sau lưng tiếng chó sủa dây truyền… * Vào Nam, tôi và Lĩnh, mỗi người sống ở một vùng. Gần hai năm sau chúng tôi mới gặp lại nhau. Lĩnh cho biết, năm ấy Lụa trượt đại học nhưng năm sau lại đỗ thủ khoa. Bà ngoại Lĩnh đã mất và cả nhà chuyển về sống ở quê nội. Lụa học đại học ở Huế. Lại bẵng đi, cho đến khi chuyển hẳn về Hà Nội. Trước khi ra, tôi thăm khắp lượt bạn bè để chào tạm biệt và tôi gặp lại Lĩnh. Lĩnh già đi nhiều, đã lấy vợ, có con, uống rươu khá và thêm tật hút thuốc nặng. Tôi hỏi về Lụa thì Lĩnh bảo là sắp tốt nghiệp đại học. Lĩnh gợi ý: “Nếu cậu cần gặp nó, tớ cho địa chỉ, lên Sài Gòn, trước khi lên tàu cậu điện cho nó. Nó sẽ ra ga Huế đón gặp ở đó”. Tôi thấy hay và đã làm theo. Quả là tôi muốn biết Lụa thay đổi ra sao. Tàu đến Huế, đỗ nửa tiếng. Tôi xuống sân ga tìm, nhưng mãi chẳng thấy đâu. Hay là tôi không nhận ra Lụa nữa. Gần hết giờ, nhà ga thông báo tàu sắp chạy, tôi nhìn quanh một lượt và thất vọng bước lên bậc tàu. Vừa lúc ấy, tôi nghe tiếng gọi: “Anh Huân ơi!”. Quay lại, thôi đúng là Lụa rồi. Cô lớn vổng lên, chững chạc và cũng xinh ra nhiều. Tàu chuyển bánh. Tôi đứng ở bậc lên xuống nói chuyện với, còn Lụa thì bước gằn theo nhịp tàu nhanh dần. Lụa bảo: “Ôi tiếc quá, em đi thực tập về, nhận được điện muộn quá, vội nhờ người chở xe máy ra đây… Từ ngày vào đây, em chưa ra thăm quê ngoại. Nếu có dịp ra ngoài ấy, anh em mình cùng về đó nhé”. Tôi chỉ nghe mà chẳng nói được gì. Từ đó đến nay gần chục năm trời. Lụa lấy chồng, có con và chắc cũng thành đạt trong công việc, bởi thế bây giờ cả hai vợ chồng dắt nhau ra Thủ đô học thêm để lấy cái bằng thạc sĩ. Cũng như tôi, đâu ngờ mình lại chuyển sang làm báo chuyên nghiệp. Cuộc đời nhào luyện và làm cho con người ta cứng cỏi hơn lên. Nhưng Ông Xanh quái ác chẳng cho không ai cái gì bao giờ. Cho sự từng trải, thành đạt thì lại lấy đi tuổi trẻ, sự hồn nhiên vô tư. Cuộc gặp mặt sau từng ấy năm lại bình thường làm sao. Bao nhiêu là đổi thay mà ai nấy cũng chỉ nói đôi câu là hết chuyện. Người lớn chỉ làm ăn, toan tính thôi chứ cần gì chuyện. Trong câu chuyện với hai vợ chồng Lụa, tôi sơ ý buột ra một câu khi thấy chồng Lụa to béo, còn Lụa thì gầy quắt đi: “Anh bạn, ăn hết của vợ hay sao mà để vợ gầy thế!”. Dù là nói đùa thì vẫn là nhỡ lời. Chồng Lụa cười mà miệng méo đi. Tôi biết chàng ta phật ý. Tôi dặn hai vợ chồng Lụa quay lại vào buổi khác để mời xuống thăm nhà tôi. Nhưng chờ mãi, hết thời gian vợ chồng Lụa học ở Hà Nội mà không thấy họ quay lại. Có lẽ chồng Lụa bực mình với tôi về câu nói đùa nhỡ lời, còn Lụa thì giận vì lúc gặp lại, tôi đã không còn nhớ Lụa là ai. Mà cũng có thể Lụa chẳng còn chuyện gì để mà nói. Lúc đó thì tôi quên. Còn bây giờ, tôi biết chắc là mình sẽ không quên, rằng ngày xưa ấy bên dòng sông Đáy, ở một làng tằm, dâu xanh… Tháng 10/95 R
<bài viết được chỉnh sửa lúc 08.03.2023 06:01:42 bởi Ct.Ly >
ĐI TÌM THI PHÁP THƠ TRẦN ĐĂNG KHOA ChÂN DUNG VĂN HỌC Thực ra, từ hơn chục năm trước, tôi đã ý thức muốn tìm hiểu phương pháp sáng tác thơ Trần Đăng Khoa. Trong một bài viết về thơ Trần Đăng Khoa thời kỳ ông du học ở Liên Xô, tôi đã bàn thêm về thơ ông thời kỳ ông còn nhỏ tuổi đi học ở quê (tập thơ Góc sân và khoảng trời cùng một số trường ca khác). Bài viết đăng báo và sau được tôi tập hợp vào tập sách chân dung văn học của tôi có tên Trời đất thu hay lòng ta thu (NXB Dân trí, 2016). Ở đấy, tôi đã đưa ra nhận định, không có thơ Trần Đăng Khoa thiếu nhi, mà chỉ có thơ Trần Đăng Khoa sáng tác khi tác giả ở lứa tuổi thiếu nhi. Điều này khẳng định, những bài thơ được Trần Đăng Khoa sáng tác từ khi tác giả sáu, bảy tuổi ngày ấy, không phải là thơ thiếu nhi theo đúng nghĩa, thiếu nhi nghĩ sao viết vậy, phù hợp với lứa tuổi của mình, mà là những bài thơ mang sức vóc và suy nghĩ của người đã trưởng thành, dù ở lứa tuổi nhỏ, về các sự kiện, vấn đề lớn, thậm chí mang tính thời đại... Điều đó, cũng có nghĩa, thơ Trần Đăng Khoa, dù ở lứa tuổi nào, cũng đều nhất quán về ý nghĩa tư tưởng và phương pháp sáng tác... Tôi cũng đã nghĩ về phương pháp sáng tác thơ của Trần Đăng Khoa từ lâu rồi, nhưng chỉ lờ mờ rằng thế này, thế nọ... Là bạn thân với Trần Đăng Khoa từ thời học trò, sau lại đồng nghiệp báo chí cùng cơ quan, nên mỗi khi xuất bản tác phẩm mới, hay tái bản tập thơ cũ, ông đều tặng sách tôi. Mươi năm trở lại đây, mỗi khi ký tặng sách, Trần Đăng Khoa đều thân mật bảo: “Ông về đọc kỹ hộ tôi cái, xem còn những bài nào đọc được...thì đánh dấu vào đấy và cho tôi biết nhé...Tôi muốn xem, sau ngần ấy năm, bài nào còn sống được đến bây giờ?”. Tôi đọc lại và cũng đánh dấu khá nhiều bài, nhưng chưa nói lại với ông... Cho đến một lần, đâu năm 2015 thì phải, Trần Đăng Khoa tái bản Tuyển thơ khá dày. Khi ký sách tặng tôi, ông quen miệng lại dặn tôi đọc kỹ và chọn những bài còn thấy được cho ông. Tội nhận lời chiếu lệ cho xong, cất vào cặp. Ngày hôm sau, tôi phải dự một hội thảo lớn ở trung ương theo thành phần được triệu tập. Nửa buổi ngồi nghe các báo cáo, tham luận viết sẵn được các diễn giả đọc oang oang trên hội trường, tôi ngán ngẩm, lục cặp thấy tuyển thơ của Trần Đăng Khoa bèn lôi ra đọc. Một ý nghĩ lóe lên trong đầu, rồi theo đó mọi sự sáng rõ. Tôi đọc ngấu nghiến Tuyển thơ Trần Đăng Khoa. Vẫn đó những bài thơ cũ, mà nhiều bài ông làm từ khi còn ở tuổi thiếu nhi, tôi thuộc nằm lòng, vậy mà giờ như mới. Là bởi, tôi bỗng nhận thấy ở đấy dạng thức mà trước đó tôi chưa từng nghĩ tới. Giờ thì rõ mồn một, từng chữ từng câu, từng ý. Thậm chí, tôi còn hình dung, mường tượng trong đầu, khi sáng tác bài thơ này bài thơ nọ thì Trần Đăng Khoa nghĩ gì, làm như thế nào... Tôi lấy bút, đánh dấu bài, gạch chân, viết chua ra bên lề nhận định của mình, sợ sẽ quên đi mất. Hết ngày dự hội nghị hôm ấy, tôi đã cơ bản làm xong cái việc mà tôi cho là khá lớn khiến tôi suy nghĩ nhiều năm qua... Có thể nói, phương pháp sáng tác thơ của Trần Đăng Khoa thuộc dạng thức quan hệ sau: Động-Tĩnh, Thực-Ảo, thủ pháp hoán vị, lối đồng dao, ví von so sánh, phép nhân cách hóa, tạo dựng không gian cho mỗi bài thơ và cuối cùng là có những câu thơ cất cánh. Còn theo phương pháp khoa học, hầu hết các bài thơ của Trần Đăng Khoa đều theo phép quy nạp, hoặc diễn dịch, hoặc cùng lúc cả hai. Tùy bài mà tác giả dùng cách này, hay cách kia, hoặc dùng cả hai cách trong một bài. Ngay trong bài thơ đầu tiên, Con bướm vàng, ta thấy ngay mối quan hệ thực - áo rất rõ: “Con bướm vàng/ Con bướm vàng/ bay nhẹ nhàng/ trên bờ cỏ/ em thích quá/ em đuổi theo/ nó vỗ cánh/ vút lên cao/ em nhìn theo/ con bướm vàng/ con bướm vàng”. Ở đây, những câu thơ đầu là tả thực, thì mấy câu kết “em nhìn theo/ con bướm vàng/ con bướm vàng” đã là ảo rồi. Nhờ mấy câu kết này, bài thơ chuyển thành hư ảo, không sa kể lể tầm thường. Nó là chuyện về con bướm đấy. Cũng là chuyện về tuổi thơ. Tuổi thơ đến rồi đi. Có nhìn theo, đuổi theo, cũng không níu được. Không vươn tới được. Nó là chuyện của Khoa, cũng là chuyện của tất cả mọi người. Cái tuổi thơ thực đấy mà ảo đấy. Mỗi khi đọc bài thơ này, tôi lại liên tưởng đến một bài thơ khác của Trung Quốc. Chuyện rằng, vua Càn Long nhà Thanh trong một lần du xuân vãng cảnh cùng quần thần, thấy những cánh hoa đào mỏng manh rơi rụng tơi bời xuống cỏ xanh rồi bị gió cuốn bay đi mất, đã tức cảnh làm thơ “Một cánh/ hai cảnh/ rồi ba cánh/ bốn cánh/ năm cánh/ sáu, bảy cánh/ rơi xuống cỏ xanh/ bay mất tăm...”. Trong khi cả đám quần thần tung hô khen hay thì một đại quan thưa rằng: “Thơ của bệ hạ giống như đám dân chài lưới ở quê thần cùng hò nhau kéo lưới vậy...”. Cả đám quần thần thất kinh và vua Càn Long thì cụt hứng tỏ vẻ bực tức thì vị quan ấy thẽ thọt: “Mấy câu thơ đầu, đếm một hai ba bốn năm sáu bảy ấy thì giống hệt dân chài quê thần đếm hò dồn sức kéo lưới,... nhưng hai câu kết rơi xuống cỏ xanh/ bay mất tăm thì thật thần kỳ, khiến cả bài thơ không những thoát khỏi hệ đếm tầm thường thô tục, mà còn làm bài thơ thanh thoát, hư ảo, chẳng khác gì chắp cánh cho bài thơ bay vút lên”. Lúc ấy, vua tôi cùng òa lên vui sướng. Người làm thơ tài tình thay, song người bình còn tài tình hơn. Bài thơ Chiếc ngõ nhỏ, là một bài thơ rõ nét quan hệ Động-Tĩnh. Gần như bài thơ là sự kể chuyện, tác giả vẽ lên các bức tranh tĩnh vật, nhưng chỉ vài câu thơ, mở đầu “Chiếc ngõ nhỏ/ thở trong đêm/ ông trăng lên/ cười trong lá”. Đấy là những câu thơ trực diện tả cái ngõ cụ thể. Rồi sau đó là cả cuộc kháng chiến cứu nước đi qua cái ngõ nhỏ này. Người vá đường, Người đẩy xe. Bộ đội hành quân. Xe tăng, xe kéo pháo. Cả nước lên đường ra trận. và câu kết, rất bất ngờ: “Chiếc ngõ nhỏ/ ở lại nhà”, chỉ có cái ngõ ở lại. Hai câu kết, với 6 chữ rất mong manh, mà nâng được cả bài thơ dậy. Bài thơ Gà con liếp nhiếp cũng theo phép thực-ảo. Ảo mà lại không ảo. Tác giả tả cảnh đàn gà con ngoài sân lây lội, mải tìm sâu, trời mưa phùn ướt cánh, ướt đầu…Đấy là điều hiển nhiên. Chả có gì đáng bàn. Thậm chí còn có câu tự nhiên, thật thà dễ dãi theo kiểu nhà quê “Mưa mỗi lúc một to sau rồi đâm ra tạnh” Nếu chỉ vậy thì đơn thuần là một bài văn tả cảnh thực, kiểu học trò, lũ gà mải bắt sâu đến quên rũ lông, lại thêm một câu thật thà hiển nhiên: “Nhưng nắng to chú vẫn khô đầu”. nhưng tài tình thay, tất cả những câu chữ hiển nhiên để chuẩn bị cho câu kết: “Đôi mắt tròn trong như hai giọt nước/ hai giọt nước không bao giờ khô được” thì bài thơ như được phù phép, hồn cốt, ảo diệu và rất bất ngờ, ám ảnh. Ám ảnh mà lại hồn nhiên. Bài thơ Chọc ếch là một bài thơ ngắn nhưng có đủ quan hệ động-tĩnh, thực - ảo, lại hóm hỉnh mà cũng đầy bất ngờ: “Giỏ không thoắt đã đựng đầy tiếng kêu/ râm ran suốt cả buổi chiều/ Tiện mồm em cũng hát theo một bài.” Hay như bài thơ Trăng sáng sân nhà em, một bài thơ mà Trần Đăng Khoa đã thú nhận với nhà thơ Vũ Quần Phương là bài thơ ông không thể nào viết lại được. Ở đây ta thấy rõ quan hệ động-tĩnh, thực-ảo. Tác giả chỉ đặc tả trăng. Không tả trực tiếp trăng như bài Trăng ơi từ đâu đến. Mà lấy cây vườn, như chuối và cau, con vật như chim và sâu. Cau cao, chuối thấp, tương tự chim trên cây, sâu dưới đất. Vẫn là chuyện cao và thấp. Và cái sân là trung tâm. Không có người. Vậy mà thành vũ hội thiên nhiên. Câu thơ đảo đi đảo lại, lặp đi lặp lại mà không trùng. Trăng lồng lộng ngự trị, ôm trùm cả trời đất. Chỉ có là người ở nông thôn, thấm đẵm cảnh sắc văn hóa thôn quê mới khắc họa được một bức tranh sinh động như vậy. Vừa thực vừa ảo. Vừa động vừa tĩnh. Đúng là một bài thơ rất khó viết mà viết nhẹ nhàng như xoay quân đomino. Rất tài tình! Bài thơ Nửa đêm tỉnh giấc cũng là một bài thơ điển hình dạng thức Động-Tĩnh, Thực-Ảo. Mỗi khổ thơ là một bức tranh, nhưng chúng chỉ là tranh tĩnh vật nếu như không có những câu thơ chuyển trạng thái như: “nghe tiếng sương đọng mật”, “há miệng đòi uống sương”, “loáng vỡ ánh trăng vàng”, và đặc biết câu kết “Một tiếng gì không rõ/ xôn xao cả đất trời”. Đó là hai câu hay nhất trong bài. Trần Đăng Khoa thường dụng công ở câu kết. Nó như chân đế, giá đỡ, có sức nâng cả bài thơ dậy. Hay nữa, bài thơ Bên sông Kinh Thầy, dạng thức Động-Tĩnh, Thực-Ảo cũng rất rõ. Cả bài là quang cảnh làng quê ven sông với cây cối lúa ngô, nhà cửa, bác chài buông câu trong bóng chiều , cá nhảy, sinh động đấy, song cũng chẳng là gì nếu thiếu hai câu kết, khiến người ta phải suy nghĩ “Ôi cánh buồm nhỏ bé/ Biết bay về nơi đâu?”... Bài thơ Đêm Côn Sơn, ngưới ta nói và khen nhiều câu thơ “Ngoài thềm rơi cái lá đa/ Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng”. Đành rằng thế, đã tinh tế lắm rồi, nhưng chưa đủ, vẫn là câu thơ tả chân. Song “Ngang trời kêu một tiếng chuông/ Rừng xưa nổi gió, suối tuôn ào ào” thì Thực đã thành Ảo rồi, và bầu không ảo diệu ấy bao trùm tạo nên sự linh thiêng như hồn Nguyễn Trãi hiện về. Để rồi trở lại trạng thái thực với câu kết “Ngoài kia nòng pháo ướt đầm sương khuya...”. Thực đấy mà vẫn như ảo. Câu thơ kéo xưa về thực tại, lại có không khí thời đại. Theo tôi, đây là bài thơ toàn bích về nghệ thuật chuyển trạng thái động-tĩnh, thực-ảo và thêm nữa có câu thơ cất cánh. Bài thơ Đồng chiều cũng là một bài toàn bích điển hình của dạng thức này: “Mặt trời chìm cuối đồng xa/ Sương lên mờ mịt như là khói bay/ Đất trời cách một gang mây/ Và tôi liền với luống cày tỏa hương”. Chỉ bốn câu lục bát thôi mà cảnh vật, con người, với sắc màu, hương vị, trạng thái tan hòa vào nhau, tôn nhau lên rồi lan tỏa mênh mang, thực đấy mà ảo đấy. Đó là sự ảo diệu của đồng quê, làng mạc! Thêm nữa, bài thơ Đồng quê, thực ảo xen lẫn, đan cài như người đan lóng mốt, làm nên một quang cảnh làng quê rất mộng mị: “Làng quê lúa gặt xong rồi/ Mây hong trên gốc rạ phơi trắng đồng/ Chiều lên lặng ngắt bầu không/ Trâu ai no cỏ thả rông bên trời/ Hơi thu đã chạm mặt người/ Bạch đàn đôi ngọn đứng soi xanh đầm/ Luống cày còn thở sủi tăm/ Sương buông cho đống hoang nằm chiêm bao/ Có con châu chấu phương nào/ Bâng khuâng nhớ lúa đậu vào vai em”. Thơ lục bát cặp đôi, nếu câu sáu thực thì câu tám ảo, và câu sáu ảo thì câu tám lại thực. Cứ vậy, liên tiếp, không thể bỏ một từ nào. Đọc xong, muốn đọc lại, đọc một hồi, mụ mị người, như lạc lối không biết đường ra. Riêng mình, tôi từng ao ước viết được bài thơ như thế!... Còn nhiều lắm bài thơ thuộc dạng thức này, như: Góc sân và khoảng trời, Tiếng chim kêu, Ò ó o, Chớm thu, Tiếng chim chích chòe, Tiếng võng kêu, Trăng ơi từ đâu đến, Mưa, Hoa dại, Ghi ở ao nhà, Trong sương sớm, Mưa xuân, Con mắt, Cơn dông, Hoa bưởi ...v.v... Và những bài thơ sau này ở thời kỳ trưởng thành, khi nhà thơ tham gia chiến trường Campuchia, đi Trường Sa và cả những bài thơ viết ở nước Nga, (Về làng, Hoa xương rồng, Thơ tình người lính biển, Ghi ở đảo chìm, Trăng Matxcơva, Qua Borodino, Qua Suzdan, Đêm Nga, Chiều Riazan, Matxcova, mùa đông năm 1990, Uống rượu với người bạn Nga, Hoa Lư, Thưởng trà, Không đề, Trái đất quay, Với bạn, Đỉnh núi, Ở nghĩa trang Văn Điển, Gửi bác Trần Nhuận Minh v.v…). Hay mới đây, bài thơ ngắn mới nhất của Trần Đăng Khoa đăng báo Văn nghệ số tết Nhâm Dần 2022: Về quê: “Mẹ cha thành nỗi nhớ thương/ Anh em nằm lại chiến trường thẳm xa/ Bây giờ bầu bạn cùng ta/ Chỉ còn một mảnh trăng tà ngoài hiên” cũng thuộc dạng thức này. Chỉ vỏn vẻn 4 câu thôi mà nhà thơ nói được hành trạng các mối quan hệ lớn của gia đình và xã hội, cha mẹ, anh em bạn bè, đồng đội như hàng thế kỷ trôi qua. Có một điều không khó nhận thấy, nhất quán và xuyên suốt toàn bộ thơ ca Trần Đăng Khoa, dạng thức Động-tĩnh, Thực Ảo là dạng thức chủ đạo làm nên không gian thơ ông. Cũng giống như truyện ngắn, tiểu thuyết, nói chung mỗi bài thơ phải có một không gian để nó tồn tại. Trần Đăng Khoa là người rất giỏi trong nghệ thuật tạo dựng không gian truyện. Ông đã thể hiện tài năng này trong tiểu thuyết Đảo chìm. (Tiểu luận“Đảo chìm, nghệ thuật tạo dựng không gian truyện”,- NCN) Thế nên, ngay từ buổi đầu sáng tác, mỗi bài thơ của Trần Đăng Khoa đều sống trong một không gian của riêng mình mà tác giả tạo cho nó. Và trong không gian ấy, tác giả tha hồ kể chuyện, vẽ vời bằng ngôn từ với màu sắc, thanh âm, nhịp điệu phù hợp. Điều này cũng lý giải, tại sao, ta bắt gặp vô vàn những bài thơ của người này người nọ, khi nghe đọc bằng âm thấy rổn rảng, leng keng đấy, nhưng tãi ra thành chữ trên mặt giấy, đọc bằng mắt thì phẳng lì, dẹt mỏng nhạt nhẽo, chẳng đọng lại chút gì, là bởi nó không có không gian sống, mà không có chỗ sống thì bài thơ chỉ là đám xác chữ, không hồn vía, như xác chết vậy. Trần Đăng Khoa thì khác, bài nào của ông cũng có không gian tồn tại. Hầu như, mỗi bài thơ không đơn thuần xuất phát từ cảm xúc nhất thời mà ở đấy, Trần Đăng Khoa như kể một câu chuyện, như có cốt truyện vậy, hoặc nói một điều gì đó ý thức rõ ràng, nên ngôn ngữ, nhạc điệu là thơ nhưng không gian của truyện. Với nghệ thuật ngôn từ và tạo dựng không gian sống như vậy, người ta thấy được các nhân vật trữ tình, con vật, đồ vật cây cối trong thơ Trần Đăng Khoa đều có thân phận... Thơ Trần Đăng Khoa vừa đằm vừa gợi, đằm bởi chất truyện, gợi bởi ý tứ, ngôn từ của thơ. Theo tôi, đấy cũng là lý do để các bài thơ của Trần Đăng Khoa sống mãi cùng thời gian. Bởi vậy, không phải ngẫu nhiên mà những bài thơ ông viết từ năm, sáu mươi năm trước đến nay vẫn được bạn đọc yêu quý đón nhận... Bằng chứng là các tác phẩm thơ ca của Trần Đăng Khoa liên tục được tái bản và vẫn bán rất chạy... Thi pháp ngôn ngữ thơ trong không gian của truyện ít gặp ở Việt Nam, Điểm lại, xưa có các cụ Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, thời hiện đại có nhà thơ Tố Hữu với một số bài thơ cụ thể (Tiếng hát Sông Hương, Con cá chột nưa, Việt Bắc, Bầm ơi, Mẹ Tơm, Sáng tháng Năm, Nước non ngàn dặm ,...), nhà thơ Hoàng Cầm với Bên kia sông Đuống, và nhà thơ Hữu Loan với Màu tím hoa sim, Đèo Cả; sau nữa, ít nhiều, là nhà thơ Trần Nhuận Minh. Lẽ dĩ nhiên, Trần Đăng Khoa là nhà thơ tiêu biểu, điển hình của thi pháp này, gần như toàn bộ, xuyên suốt sự nghiệp thơ ca của mình, từ bài thơ ngắn đến trường ca dài. Tôi nghĩ, thế giới thi ca Trần Đăng Khoa hiện thưc mà ảo diệu và làm nên điều kỳ diệu này, chính là thi pháp “ngôn ngữ thơ trong không gian truyện”. * Nhân cánh hóa, thủ pháp hoán vị, lối đồng dao cũng là phương pháp được nhà thơ Trần Đăng Khoa sử dụng thường xuyên. Bài thơ Côn Sơn là bài điển hình về thủ pháp hoán vị: “Sáng đứng đỉnh Côn Sơn/ Hương đồng thơm trong túi/ Chiều xay thóc góc nhà/ Tóc lại bay gió núi”. Ở đây, nếu đứng trên đỉnh núi mà tóc bay gió núi và xay thóc góc nhà mà hương đồng thơm trong túi thì bài thơ hết sức bình thường, thậm chí là tầm thường. Thủ pháp hoán vị đã tạo nên khác lạ và nó đem đến sự thú vị, khiến người ta mặc sức liên tưởng... Hay đâu, trong bài thơ Tiếng chim chích chòe, nhà thơ cũng sử dụng thủ pháp hoán vị này, khi viết “Cánh đồng vui reo/ Gió đồng rộng rãi”. Đúng ra, phải là cánh đồng rộng rãi/ gió đồng vui reo, nhưng viết vậy thì quá bình thường, thậm chí là tầm thường. Ở đậy, sự hoán đổi tạo ra hiệu ứng lạ nên thú vị làm sao. Cũng như một câu thơ trong bài thơ viết về Mạc Thị Bười: Nắng chiêm chín rực đôi bờ phi lao. Nếu Lúa chiêm chín rực… thì câu thơ lười quá. Ở đây ta thấy được sự linh diệu của thủ pháp hoán dụ của thơ Trần Đăng Khoa có vai trò quan trọng như thế nào. Cũng vậy, lối đồng dao, vận dụng ca dao, tục ngữ, ví von, so sánh và phép nhân cách hóa, khá phổ biến trong thơ Trần Đăng Khoa. Hầu như mọi cảnh vật được tả trong thơ đều được nhân cách hóa, biến những vật vô tri vôs giác mang tính cách của con người, nhờ thế mà tác giả mặc sức kể chuyện, đối thoại, gán ghép, xoay vần, sắp đặt, cực kỳ sinh động. Ở đây, con người dường như là nhân vật phụ, song lại là nhân vật chính ẩn mình điều khiển... (Con chim hay hót, Máy cày xình xịch, Đám ma bác giun, Đánh tam cúc, Con trâu đen lông mượt, Đánh thức trầu, Tiếng trống làng, Nói chuyện với con gà mái, Sao không về vàng ơi, vv ). Bài thơ Kể cho bé nghe là bài điển hình về phép sử dụng lối đồng dao, bắt đầu bắt cuối để quay trở lại, thú vị, hóm hỉnh, dễ thuộc dễ nhớ: “Hay nói ầm ĩ/ là con vịt bầu/ hay hỏi đâu đâu/ là con chó vện/... Ríu ran cành khế/ là cậu chích chòe/ hay mua xập xòe/ là cô chim trĩ.” Bài thơ này, mãi về sau, Trần Đăng Khoa có cắt bớt, sửa lại đôi chút như văn bản hiện nay, cho hợp thời cuộc, nhưng vẫn giữ phong vị cũ... Bài thơ Em kể chuyện này, lại là bài điển hình về vận dụng tục ngữ. Người Việt mình có câu tục ngữ “Ghét như xúc đất đổ đi”, Trần Đăng Khoa đã vận dụng rất tài để viết nên những câu thơ “Giặc Mỹ bị bắn rơi xuống cánh đồng làng ta/ các chú dân quân dong nó đi xa/ còn lại dấu chân nó in trên cát/ những dấu chân/ trông vào nhức mắt/ các bạn đã đào đổ xuống ao sâu”, sau khi kể chuyện máy bay Mỹ rơi, phi công Mỹ nhảy dù xuống cánh đồng làng bị dân làng vây bắt. Đây cũng là đoạn thơ có sức nặng nhất trong bài thơ khá dài này. Bài thơ Em dâng cô một vòng hoa, câu thơ “Trăng suông sáng cả đêm rằm/ Nhịp cầu vá vội ầm ầm xe qua” là một câu thơ tài tình. Câu sáu là câu thơ vận dụng ca dao thì câu tám lại là một câu thơ tả thực thời chiến tranh. Để tránh máy bay Mỹ ném bom phá hoại, người ta đã biết cách lợi dụng đêm trăng suông để sửa chữa cầu đường cho xe qua. Những đêm trăng suông như thế, người làm đường không cần phải đèn đuốc vẫn đủ ánh sáng để làm việc mà máy bay Mỹ trên cao cũng thể phát hiện được mục tiêu bên dười mà đánh phá. Cái quan trọng, hai câu thơ này đã làm bài thơ có tính thời sự, lại kết gắn chuyện cũ thời anh hùng Mạc Thị Bưởi chống Pháp với chuyện thời nay chống chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ. Ở bài thơ Hạt gạo làng ta, có câu thơ ví von so sánh rất độc đáo, ấy là “Những năm băng đạn/ vàng như lúa đồng”, nhà thơ đã ví von băng đạn pháo súng bắn máy bay Mỹ với bông lúa chín vàng trên đồng làng, vừa so sánh về hình thể, màu sắc, và so sánh cả về ý nghĩa, một bên là vũ khí biểu hiện của chiến tranh, hủy diệt, chết chóc, một bên là lúa gạo biểu hiện của hòa bình, sự sống, ấm no... Nhân đây, tôi cũng nói giùm nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhằm cải chính lời thơ bị hát sai trong ca khúc cùng tên được nhạc sĩ Trần Viết Bính phổ nhạc. Cả bài thơ gốc và lời thơ trong ca khúc Hạt gạo làng ta đều chính xác là “Những năm băng đạn/ vàng như lúa đồng,” nhưng mấy năm gần đây, không hiểu sao, các ca sĩ biểu diễn đều hát sai lời thơ ấy thành “Những năm bom đạn/ vàng như lúa đồng”. Ai đời lại đi ví bom đạn với lúa đồng cơ chứ. Thật đáng tiếc. Mong là các ca sĩ lưu tâm hát đúng lời thơ trong ca khúc này cho cả nhà thơ và nhạc sĩ nhờ ! * Những câu thơ cất cánh và phép quy nạp, diễn dịch Những câu thơ cất cánh chỉ là cách nói, biểu thị một thực trạng phổ biến và xuyên suốt toàn bộ thơ Trần Đăng Khoa. Ấy là, hầu như bài thơ nào của Trần Đăng Khoa, dù giọng điệu kể chuyện, thì ít nhất cũng có một vài câu, hoặc có khổ thơ, xuất thần, như chắp cánh cho cả bài sống động hắn, bài thơ như vỗ cánh mà bay lên, thoát khỏi sự tầm thường. Tôi nghĩ, cái tài tình của nhà thơ là ở đấy... Ví như, bài thơ Tiếng chim kêu, sau cái sự kể bom đạn làm cây cối, tổ chim tan tác, chim chết này nọ, bài thơ chốt lại: “Tiếng chim như lửa cháy/ đốt lòng ta không nguôi”, tạo nên dư âm, ám ảnh, nghĩ ngợi,... Hay như, bài thơ Ò ó o, cũng là sự kể lể, nếu như không có cái kết: “Ôi bốn bề/ bát ngát/ tiếng gà/ Ò ó o...Ò ó o…” thì bài thơ dễ bị chuội đi, chẳng để lại gì. Bài thơ Mưa cũng vậy, mấy câu kết “Bố em đi cày về/ đội sấm/ đội chớp/ đội cả trời mưa” đã làm nên sức đằm mà vẫn gợi của bài thơ. Hình ảnh người nông dân chống chọi với thiên nhiên mới thật sự lẫm liệt. Bài thơ Tiếng chim chích chòe, phần đầu bài thơ là những gì tác giả thấy bằng mắt, có tả khéo đến đâu thì cũng chẳng có gì đề bàn, nhưng bài thơ kết lại bằng mấy câu “Nòng pháo bỗng nhiên dừng lại/ bao nhiêu cái mũ lắng nghe/ xa xa từ một ngọn tre/ tiếng chim chích chòe/ đang hót” thì không chỉ bằng mắt bằng tai nữa, mà là cái sự cảm, nên có sức gợi. Đặc biệt câu thơ giản đơn như không mà lại rất tài: “Bao nhiêu cái mũ lắng nghe”….... Bài thơ Thôn xóm vào mùa, sẽ chỉ là một bài tả quang cảnh làng xóm vào mùa gặt đơn thuần, nếu như thiếu đi hai câu thơ ví von đầy sức liên tưởng “Thóc nở bung như sao/ Nhuộm vàng cả trời cao”. Hay nữa, bài thơ Thả diều, ở đấy, tác giả tả quang cảnh và cả cách thức chơi diều như thế nào, mà người ta có thể học được cách thả diều. Như vậy thôi, cũng thú vị đấy, nhưng bài thơ sẽ nhẹ hều nếu như không có câu kết: “Dây diều em cắm/ bên bờ hố bom...”. Chưa đầy chục từ, nhưng nó cái cái chốt ghim cả bài thơ không làm nó bay đi mất,... Bài thơ Buổi sáng sân nhà em, câu thơ: “Bố em xách chiếc điếu cày/ Mẹ em tát nước nắng đầy trong khau” là câu thơ chìa khóa mở ra cả bài. Bài thơ Em lớn lên rồi, câu thơ: “Nhìn trời, trời bớt xa xăm/ nhìn mây, mây cách ngang tầm cánh tay” là linh hồn cho cả bài. Bài thơ Trận địa bỏ không, sẽ nhẹ tênh, chẳng có gì, nếu thiếu câu thơ ví von tài tình này “Em nhìn đáy nước trong veo/ Máy bay một mảnh cắm xiêu vỏ hà/ Thảo nào các chú đã xa / Thằng giặc chẳng giám bay qua nơi này”. Bài thơ Cánh đồng làng Điền Trì, câu thơ kết “Ái chà, con cà cuống/Bỏ ngay vào ống bơ” ngỡ là câu reo lên một cách hồn nhiên vô tình, nhưng không, là có dụng ý. Cả bài thơ là quang cảnh cánh đồng với những người làm đồng qua ngôn ngữ tả thực, thì câu kết vừa thể hiện sự có mặt của chủ thể, vừa làm cho bài thơ như cựa quậy, sống động hẳn lên, v.v... Ở bài thơ Gửi bạn Chi Lê, câu thơ “Ao trường vẫn nở hoa sen/ bờ tre vẫn chú dế mèn vuốt râu” giản dị, tinh tế mà làm nên một vóc dáng, khí thế Việt Nam, tạo sức nặng cho bài thơ. Nhất là trong chiến tranh khốc liệt. Hay ở bài thơ Mẹ ốm, câu thơ “Nắng mưa từ những ngày xưa/ lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan” vừa gợi lại có sức khái quát cao. Rồi bài thơ Tiếng võng kêu, chỉ mấy câu “Ba gian nhà nhỏ/ đầy tiếng võng kêu” bài thơ rất gợi. Tôi nghĩ, mấy câu thơ ấy, sẽ khiến con người ta mang theo tiếng võng đến suốt đời... Rất nhiều, rất nhiều những câu thơ như thế trong toàn bộ thơ ca của Trần Đăng Khoa, từ nhỏ đến trưởng thành và cho đến tận bây giờ. Nhưng câu thơ ấy, đặt trong văn cảnh từng bài thơ, nó như một luận điểm trong phép quy nạp, hoặc diễn dịch theo logic khoa học. Đây cũng chính là một điểm cơ bản trong thi pháp thơ Trần Đăng Khoa. Từ những cái cụ thể được mô tả, trình bày trong bài thơ, rốt cuộc, cô đọng, chốt lại ở phần kết như thế. Ở một số bài thơ, câu thơ-luận điểm được nêu ngay ở đầu bài, để sau đó tác giả diễn giải những điều gan ruột. Nếu như trong các bài thơ lẻ, Trần Đăng Khoa chưa hẳn ý thức về phép quy nap, hay diễn dịch trong sáng tác của mình, thì ở một tác phẩm dài hơi khác, trường ca Khúc hát người anh hùng, Trần Đăng Khoa lại rất ý thức và nhất quán trong quá trình sáng tạo của mình. Toàn bộ trường ca này, thơ thể tự do, giọng điệu kể chuyện, tùy từng chương, từng khúc, sử dụng phép quy nạp hay diễn dịch, thì mỗi khổ thơ lục bát là sự chắt lọc, chốt lại, giàu sức liên tưởng, khiến người ta phải suy ngẫm, vừa là mối liên kết các đoạn, các chương với nhau tạo nên một chỉnh thể thống nhất. Mỗi khổ thơ ấy như cọc tiêu, tiếp nối, giăng hàng, làm thay đổi tiết tấu từ giọng điệu kể nhanh làm chậm lại, bớt nhàm, mà lắng đọng, suy ngẫm,... Ví như, một số khúc tôi dẫn ra đây “Đất hát rằng: Từ đây, từ tiếng chim này/ Làng quê đẫm máu hẹn ngày vượt lên/ Máu người như ngọn lửa thiêng/ Ngàn năm sau vẫn cháy trên sắc cờ”. “Sự lặng im hát rằng: Lặng im của một nhát dao/ Chém vào đá, giữa trời cao đất dày/ Hỡi ai hát với cỏ cây/ Hồn kêu thành gió những ngày bão giông” “Lúa hát rằng: Quê tôi-những cánh rừng hoang/ Chính trong cơn bão đại ngàn-tôi sinh/ Nuôi tôi trong bếp nhà gianh/ Ủ là một chấm-thổi thành biển khơi” “Mái nhà gianh hát rằng: Ước mơ từ thuở ông cha/ Bao năm Đất Nước nghĩ ra Ngọn Cờ/ Con đường đi đến Tự Do/Một mình mà chẳng bao giờ lẻ loi”. “Đêm hát rằng: ... Người ta đến lúc hiểm nghèo/ Hoặc vằng sáng. Hoặc heo hút tàn” “Cái cánh cửa hát rằng: Ngày mai cô sẽ hy sinh/ Một mình mình sống một mình đêm nay/ Một mình với mọi vơi đầy/ Mọi buồn vui, mọi tháng ngày-một đêm” “Cái bậc cửa hát rằng: Ngày mai lửa sẽ thiêu đồn/ Tôi còn nền cũ thì còn mọc lên/ Cái còn thì vẫn còn nguyên/ Cái tan thì tưởng vững bền cũng tan” “Chiến dịch lớn hát rằng: Một lần gió nổi bên sông/ Mà xanh lại sắc trời trong ngàn đời/ Mỗi khi vật đổi, sao dời/ Lại nghe trong đất máu người ngân vang” Thiết tưởng, cái kết cho Khúc hát người anh hùng, ở khúc vô cùng, chằng cần chi phải triết lý đao to búa lớn, chỉ giản dị, gần gũi, thân thương như thế này: “Mái gianh ơi hỡi mái gianh/ Ngấm bao mưa nắng mà thành quê hương/ Bóng cau vẫn ngả ngang vườn/ Lá tre gió vẫn thổi vương ngõ ngoài...”, Quả là, mỗi khúc hát như nêu ra một chân lý hiển nhiên ở đời. Quan trọng, những khúc hát ấy đều là những câu thơ hay, chắp cánh cho trường ca Khúc hát người anh hùng bay lên mang theo cả sức nặng của nó. Ấy cũng là cái tài riêng của Trần Đăng Khoa. * Nhà thơ Trần Đăng Khoa là một người giỏi dùng từ và rất cẩn trọng về câu chữ. Ông biên tập, sửa câu chữ, sửa thơ cho ai thì người đó đều nể phục. Cho đến giờ, nhiều bài thơ làm từ ngày nhỏ, giờ ông vẫn sửa lại khi tìm được từ hay hơn. Ông sẵn sàng cắt bỏ cả đoạn, cả khổ thơ nếu thấy dở, thấy ấu trĩ. Hầu như, mỗi lần tái bản, bạn đọc có thể tìm thấy ở văn bản mới nhất có những từ, những câu khác với văn bản cũ,... Thú vị, tôi nhiều lần nghe Trần Đăng Khoa đọc vanh vách nhiều bài thơ được ông làm từ thiếu thời, mà không có trong bất kỳ tập thơ nào của ông. Đọc rồi ông toét miệng cười tự chê: “Dở và ngô nghê nhỉ”. Ông bảo, ngày ấy, đã dám vứt đi hàng loạt bài mà tự cho là dở, để có tập “Góc sân và khoảng trời” như vậy. Ở tập thơ này, giờ đây, mạnh tay thì cũng có thể bỏ đi một số bài, và ông cũng đã bỏ trong tập tinh tuyển mới đây, có bài từng được một nhà thơ lớn đánh giá cao, ông cũng loại bỏ, hoặc lược bớt thì mới đạt tới độ tinh túy, nhưng mà, cái gì cũng có tính lịch sử của nó, không thể tùy tiện được,.. * Là bạn học với Trần Đăng Khoa, cùng Trần Đăng Khoa làm thơ ở thời ấu thơ, lại cũng chơi với ông khi về già tôi muốn kể thêm vài chuyện ngoài lề mà không phải ai cũng biết. Trần Đăng Khoa là một người khá đặc biệt. Ông có khả năng ứng tác thơ. Điều này hình thành từ khi còn nhỏ. Do nhiều người không tin, hoặc cũng có thể tò mò, người ta hay ra đề cho ông làm. Yêu cầu viết gì, ông viết cái đó. Rất nhanh. Có bài thành kiệt tác, có mặt trong các tuyển tập. Ông viết theo yêu cầu hay tự nguyện sáng tác đều như nhau. Đây cũng là cái tài của ông, quả thật cũng là hiếm có. Ngày ấy. nhiều người, nhất là các nhà quản lý văn nghệ, các nhà thơ, nhà văn nổi tiếng, các nhà báo ở trung ương chưa hẳn tin Trần Đăng Khoa có tài làm thơ thật, nên họ về tận nhà, mục sở thị bằng cách ra đề tài này nọ rồi bắt Khoa ứng tác tại chỗ nhằm thử tài cậu bé. Đề tài thử tài thơ cậu bé vô cùng phong phú, từ cây cối, đồ vật, con vật, tình huống này nọ, bất kể cái gì cũng được mang ra làm đề tài. Thực tế, có nhiều bài thơ Khoa ứng tác đáp ứng hoặc viết theo đặt hàng của báo này, báo nọ, ông nọ bà kia mà thành. Ví như, các bài Vuờn em, Sao không về Vàng ơi, Cái sân, Cây dừa... là những bài như thế. Rồi sau này là cả tập Chân dung & Đối thoại, rồi Đảo chìm, Hầu chuyện Thượng đế cũng vậy. Đấy là chưa kể, nhà thơ Trần Đăng Khoa có hàng trăm bài thơ đùa ứng tác, kiểu xuất khẩu thành thi, khá hóm hỉnh, hài hước... Đầu năm 1975, khi học chung với nhau ở Lớp bồi dưỡng học sinh giỏi văn lớp 10 (hệ 10/10) của tỉnh Hải Hưng, tham dự kỳ thi học sinh giỏi môn Văn toàn miền Bắc (trước giải phóng miền Nam), tôi lần đầu chứng kiến tài ứng tác của Trần Đăng Khoa khi nhóm học sinh chúng tôi trêu đùa nhau, ra đầu đề và bắt Khoa ứng tác tại chỗ. Chỉ vài phút, Khoa đọc ngay một bài thơ tả quang cảnh lúc trời sắp mưa, mà khi ghép các chữ cái đầu câu đúng y với yêu cầu đề ra, mà thơ hay, hóm hỉnh, tinh nghịch kiểu học trò. Tôi còn thuộc bài thơ ấy, nhưng xin phép không chép ra đây. Vì bài này chứa nhiều bí mật nội bộ của hóm nhất quỷ nhì ma chúng tôi. Sau này, tôi còn chứng kiến nhiều lần Trần Đăng Khoa ứng tác trêu đùa, bông lơn người này kẻ nọ trong những lúc trà dư tửu hậu, phiếm đàm nơi công sở. Biết đâu, đến một ngày đẹp trời nào đó, ông nổi hứng gom lại thành tập, kể cũng thú vị đấy, khéo còn bán chạy hơn cả Góc sân và khoảng trời, Chân dung và Đối thoại. Tôi chỉ xin dẫn một bài. Đài TNVN họp cộng tác viên ở Bình Định. Các phóng viên nữ Sơn La uống rượu như cọn. Các em đề nghị nhà thơ Nguyễn Thanh Mừng làm thơ tặng. Mừng nhờ Khoa cứu nguy. Khoa viết ngay vào giấy ăn bài thơ về rượu, chếnh choáng ngay từ câu đầu đến câu cuối. Đúng là ma men, dù Khoa không biết uống tượu: Biển và trời Bình Định/ Sóng sánh màu Sơn La/ Ngổn ngang bao ngọn núi/ Ngả nghiêng trong xó nhà/ Ánh trăng vàng Ghềnh Ráng/ Tan trên đỉnh Chót Pài/ Chỉ còn thần với thánh/ Bồng bềnh dưới đít chai/ Thế là bao đau khổ/ Chẳng còn là khổ đau/ Kìa biển trời chếnh choáng/ Ngắm chúng mình …uống nhau. Viết ngay tắp lự mà viết được như thế là tài lắm chứ. Trẻ con thần đồng. Già nua thần lão. Thì cũng vẫn Khoa cả thôi!
ƠI NHỮNG CÁNH ĐỒNG LÀNG, ( Tản văn ) Những năm tuổi thơ sống ở quê, ấn tượng in đậm trong tôi ngoài những tên làng, tên xóm, những sân động, cây đa, bến nước, dòng sông, còn có những cánh đồng với bao tên gọi vừa đúng về ngữ nghĩa vừa nôm na mộc mạc và buồn cười đến nao lòng.
Làng nằm như con trăn trườn uốn khúc theo dòng sông. Cánh đồng bờ sông bên kia đối diện với làng cao vời vợi những con ngòi đổ dốc về phía bờ sông. Mặt đồng chia ra, cứ vài ba thửa lại làm thành một cấp. Người làng gọi là đồng Dộc, hay đồng Vực. Sở dĩ gọi vậy vì hễ có mưa thì hết mưa, nước theo những con ngòi dốc tuột hết xuống lòng sông, đồng không bao giờ úng ngập. Còn như đứng trên mặt đồng nhìn xuống lòng sông thấy mặt nước sâu hoắm mãi phía dưới khiến người yếu bóng vía có cảm giác đang đứng bên bờ vực thẳm mà chóng mặt. Hỡi ôi, lúc ngày hè nắng hạn, tát nước từ sông lên tới ruộng phải ba bốn cấp gàu sòng gàu giai, thêm nữa ngòi khô háo hút nước, cực nhọc ơi là cực nhọc, bát nước lên ruộng đổi bát mồ hôi.
Cánh đồng nằm xa hơn, phía ngoài đám ruộng bờ xôi ao mật rìa làng là đồng Ao. Tên gọi thế bởi rải rác mặt đồng có ba bốn ao đầm to, đều từ xa xưa. Các ao đầm này là rốn nước mùa lũ, nguồn nước mùa hạn. Vài ba năm, người làng lại có niềm vui tát cá ao đầm mùa cạn, vui vì lại đúng vào dịp giỗ tết. Khi ấy mới hiểu câu dân gian “Nay tát đầm, mai giỗ hậu” sâu xa thế nào!
Từ xa nhìn về, làng được bao bọc bởi những cánh đồng trông như hình chiếc làn. Có một khu đồng thòi ra dáng cong cong, hẹp vanh, và nó có tên đồng Quai. Ruộng thẻo nhưng không thể bỏ, bởi làn không quai thì khác nào chiếc thúng rách đựng đồ đồng nát nơi xó buồng muỗi.
Xa hơn khu đồng Ao là đồng Dạ (hay Rạ không phân biệt). Sở dĩ gọi vậy là bởi chỉ làm được một vụ lúa. Lúa chín vào mùa nước, người làng dùng hái hớt lấy ngọn cỏ, bỏ lại gốc dạ ngập trong nước, vì rạ ấy có cố vớt lấy phơi khô lợp mái bếp thì cũng chỉ hơn năm là đã mủn. Cả cánh đồng đầy gốc rạ bời bời, cánh đồng là nơi trú ngụ của các họ nhà chim, cò diệc, dẽ giun, bồ nông, rồi cua ếch, ba ba… Xâm xẩm tối, là lúc người làng lần sờ kiếm miếng tươi cho bữa cơm gia đình. Những bóng người nhấp nhô ẩn hiện trong bóng tối nhập nhoạng bao phủ cánh đồng. Dạ cũng có nghĩa là đêm tối. Xa hơn đồng Dạ là một cánh đồng mang tên Nợ. Qủa thật đây là món nợ của người làng từ thuở lập làng. Đồng Nợ quanh năm ngập nước kể cả mùa hanh khô. Các bậc lão nông tri điền bảo rằng, chưa thấy mặt đồng Nợ khô bao giờ. Cấy chay bừa chùi là thường tình, nước ngập ngang bụng người bụng trâu, cả hai ì ạch nhích từng bước, xong buổi bừa lên bờ thì chân người thâm những vết miệng đỉa, còn bụng trâu đeo đầy những chú đỉa no máu căng mọng. Ấy là lúc đám trẻ chăn trâu tinh nghịch trả thù, dùng cọng rạ trước sắc lẻm cứa dọc thân lũ đỉa. Đồng Nợ là xứ xở của các loài thủy sinh. Cũng là nơi dân làng kiếm miếng tươi. Đã là nợ thì không thể bỏ mà mãi vẫn không trả xong…
Sau này, thủy nông nội đồng, tấc đất tấc vàng, dẫu là Dộc, Ao, Quai hay là Dạ, Nợ gì thì cũng quay vòng hai ba vụ. Đồng đất và người đều chóng mặt với những giống lúa, giống hoa màu… Với mỗi người dân thì ký ức về những cánh đồng làng không bao giờ phai nhạt bởi những tên đồng vẫn còn đó.
Giờ điều đáng lo và đáng buồn lại là chuyện người nông dân bỏ ruộng, chỉ làm một vụ cho có mà thôi, trai gái hóng làm công ty, rồi kéo nhau ra phố nhặt rác, buôn bán vặt chê nghề nông,...
Còn với riêng tôi, đứa con nuôi lưu lạc của làng nơi đô thị, đã có một thời chăn trâu, cắt cỏ trên những cánh đồng làng, đã từng “mải mê đuổi một cánh diều/ củ khoai nướng để cả chiều thành tro” (thơ Đồng Đức Bốn) thì những cánh đồng ấy là nơi nuôi dưỡng ước mơ nho nhỏ của tôi!...
Vườn xưa, Tản văn của Nguyễn Chu Nhạc Vườn xưa, ấy là cái vườn của gia đình tôi ở quê, thôn Khê, nằm bên tả ngạn con sông Cái thuộc tỉnh Hưng Yên, cách thủ đô chừng vài chục cây số đường chim bay. Mảnh đất rộng chừng gần hai sào Bắc bộ, được bố mẹ tôi mua vào năm 1965, sau khi nhà tôi chuyển từ một căn hộ tại Ngõ Trúc Lạc, bên bở hồ Trúc Bạch, Hà Nội, về quê sinh sống theo chính sách thời chiến-giảm dân số ở thủ đô, khi xảy ra sự kiện Vịnh Bắc bộ mở đầu cho cuộc chiến bằng không quân của Mỹ ra miền Bắc. Sau này, được biết, cái chính sách "giảm dân số ở thủ đô" ấy chỉ thực hiện với đa phần gia đình có quê và thuộc diện "thành phần không trong sạch" theo chủ nghĩa lý lịch phổ biến vào thời ấy... Về sống ở quê, quen dần, lại thấy được cái vẻ đẹp bình dị muôn thuở của thiên nhiên làng quê Việt mình. Trên mảnh đất đầu làng ấy, bố mẹ tôi làm ngôi nhà 5 gian kiểu 3 gian 2 chái, tường đất vách rơm bùn, lợp rạ truyền thống ngàn đời của làng quê Bắc bộ. Cùng đó là căn nhà ngang gồm bếp, chuồng trâu, chuồng lợn và chỗ vệ sinh, cũng bằng chất liệu tre đất rơm bùn. Đất trống hai đầu hồi nhà thì một bên là chuồng gà, bên kia là đống rơm, đống rạ. Trước nhà, có mảnh sân hẹp lát gạch Bát Tràng cũ do mua lại. Vài cây cau vươn cao bên dưới có vài cây nhài và gốc lựu, mà quê tôi quen gọi là thừu lựu liền với sân gạch. Phần lớn đất phía ngoài sân để làm vườn tược trồng các loại rau theo kiểu tự túc, tự cấp. Các cây lưu niên có sẵn và được trồng thêm, loại ăn quả thì có na, mít, bưởi, chanh, hồng xiêm, ổi, nhãn và sấu. Góc vườn và sau nhà có mấy bụi chuối tây, tiêu đủ cả. Liền kề với vườn là miếng ao nhỏ hẹp có sẵn, được đào sâu thêm lấy đất đắp tường nhà và tường bao vườn. Gốc vườn nơi hay bị cớm nắng thì có ít dong giềng. Bốn xung quanh, giáp nhà hàng xóm và đường, ngõ làng là lũy tre, cùng dây mây gai là dăm cây ruối, cây màng dè, cây xoan và hoa dâm bụt, cùng khúc tần. Thế thôi, đã có hoa trái, rau cỏ ăn quanh năm rồi. Cuối Chạp hay sang Giêng, tùy tiết sớm muộn hàng năm, khai mùa là hoa chanh, hoa bưởi. Hoa bười nụ to, mùa sai hoa thì trĩu cả cành những nụ những hoa, cánh trắng nhụy vàng tinh khôi, thơm sực nức vườn nhà, Mẹ tôi hay hái hoa bười, chì vài ba chùm thôi, bày đĩa nhỏ đặt lên bàn thờ thắp hương. Thói quen này, là mẹ tôi học từ bà ngoại tôi. Bưởi sai hoa, nên ngắt bớt đi, để nhiều tự hoa cũng rụng rơi, bởi chỉ để vừa hoa thành quả thì cây mới đủ sức nuôi quả lớn. Nở cùng thời điểm, nhưng hoa chanh khác hẳn, khi nụ thì tím nhạt, lúc nở ra mới trắng ngà, hoa nhỏ và hương thơm dìu dịu. Thực lòng, tôi thích quan sát và mê hoa chanh hơn, vì tìm thấy ở đấy sự khiêm nhường mà vẫn tươi tắn sắc hương... Qua giêng hai, trời bắt đầu có dấu hiệu hè sang với những cơn giông chiều, đêm ì ầm tiếng sấm. Ấy là lúc cây lựu lấp ló nụ đỏ. Mỗi khi thấy hoa lựu, bố tôi hay ngân nga câu Kiều "Dưới trăng quyên đã gọi hè/Đầu tưởng lửa lựu lập lòe đâm bông"...Đây cũng là thời điểm cây nhà đua nụ hoa trắng. Nếu như lựu chỉ làm người ta ấn tượng với nụ hoa đỏ như ngọn đèn dầu hỏa thì hoa nhài lại trắng muốt thơm hương. Có lẽ vì quê tôi ít trồng hoa sen và thói quen sinh hoạt, bố tôi thích uống trà nhài hơn. Nên mỗi khi có hoa nhài, bố tôi thường dậy sớm, nhắt những bông nhài chớm nở còn đẫm sương mai, rồi tự ướp với trà, loại trà Thanh Hương giá ba hào hai xu một gói. Ngày ấy, uống trà cũng là một thú vui xa xỉ, và loại đắt tiền như Hồng Đào thì có nằm mơ, đơn giản vì không có tiền mua và có tiền cũng không mua được vì chỉ bán phân phối cho cán bộ thôi. Nhưng sau này, nghiện trà, tôi mới hiểu một thực tế và có thể xem như một đạo lý, ấy là trà ngon, tỷ như trà búp Thái Nguyên thì chỉ nên uống mộc, mới thấm được cái ngon của hương vị tự nhiên thổ ngơi của trà. Còn như trà ướp, dù là ướp gì, sen hay nhài hay loại hoa, hương liệu khác thì chỉ nên dùng trà loại nhì, loại ba mà thôi. Chính loại trà không phải là thượng thặng mới cần đến hương vị ngoại lai để tăng vị thơm ngon cho mình... Tháng ba, hoa gạo đỏ ối đầu làng, triền đê, nơi cổ quán, chùa chiền. Người chị gái lớn của tôi đi làm đồng về, nhặt theo mấy bông hoa gạo to tướng về bỏ lên mặt bể nước, vừa rửa chân tay nơi sân giếng, vừa khe khẽ hát "Mỗi khi qua rừng biên giới lại thấy hoa mộc miên. Mộc miên hoa ơi..."... Bỏ dở câu hát, chị bảo "Cái tên Mộc miên hay thế, mình lại gọi là hoa gạo... Có ăn được đâu cơ chứ...". Tôi nghe lời bái hát, lơ mơ hiểu là bài hát về tình hữu nghị hai nước Việt-Trung, chẳng mấy quan tâm nhưng tôi lại hình dung ra những cây hoa mộc miên đỏ ối nơi biên cương xanh ngút ngàn. Chỉ thế thôi, trong tôi đã nảy mầm nỗi khát khao được đi đây đó ... Rồi chị quay ra đố tôi "Em có biết ở miền Nam, Tây nguyên ấy, người ta gọi hoa gạo là gì không?" Hỏi rồi, chẳng đợi tôi trả lời, chị bảo: "Là hoa Pơ-lang đấy. Cái tên cũng thật hay...". Và chị lại hát bài hát về hoa Pơ-lang:"Tây nguyên ơi, hoa rừng bao nhiêu thứ, thứ hoa nào đẹp nhất rừng, Tây nguyên ơ ơi..." Tôi nghe chị hát mãi vẫn chưa thấy nhắc đến cái tên pơ-lang, nhưng tôi cũng không hỏi lại... Sau này lớn, tôi mới biết, chị gái tôi hát cho niềm mơ ước tuổi trăng tròn của chị, cho khát khao tình yêu đôi lứa thời lửa đạn, khi trai tráng làng quê ra trận hết cả, trong đó có chàng trai đã ngỏ lời yêu với chị, và không bao giờ trở về ... Giờ cũng là lúc vườn nhà phủ một màu tím hoa xoan nở chạt ngọn cây. Lúc này, vẫn còn rơi rớt những trận gió mùa đông bắc, sân vườn ẩm ướt. Mỗi dịp vậy, mẹ tôi lắc đầu, ái ngại, bà thương bầy gà con cóm róm trong mưa lạnh, mắt lên mộng vì chứng cúm thời tiết, lò dò, ngơ ngác kiếm ăn mùa hoa xoan. Bầy gà con bị vậy, nhiều khi mất cả đàn, còn vài ba con sống sót là may. Mỗi khi gà bị cúm, bố tôi lại sai mấy chị em chúng tôi lấy tỏi giã chắt nước rỏ vào miệng cho chúng uống, rồi thóc đem ngâm với nước vôi trong cho gà ăn, mong cả đàn qua khỏi, còn có cái mà bán, có miếng mà ăn lúc giõ chạp. Cái mùa hoa xoan chẳng đem lại ích lợi gì, mùi hăng hắc , ngai ngái, ám ảnh, khó thoát, dù ngoài sân hay trong nhà, nhưng màu tím của nó trên vòm trời chiều thì rất chi ấn tượng. Đây cũng là lúc những mảnh đất trống lấm tấm lên mạ non. Tôi hay có cái trò câu công cống. Gọi là câu công cống hẳn nhiều người không hiểu là câu con gì. Thực ra, ấy là câu con sâu đất. Khi mặt đất se đi, quan sát kỹ sẽ thấy có những lỗ nhỏ như chôn kim lác đác đây đó. Tôi bứt những cọng mạ non, hoặc búp nõn tre, cắm xuống các lỗ đất chân kim ấy, khi thấy cọng mạ động đậy, ấy là chú sâu đất đang cắn mồi cọng mạ, bèn rút dần cọng mạ thật khẽ và khi gần lên mặt đất thì rút thật nhanh, kéo tuột con sâu lên, lấy sâu làm mồi bồi dưỡng cho bầy gà con đang bị ốm... Mùa hạ sang, ấy là mùa của nhiều loài hoa vườn nhà. Trước hết là những loài hoa đỏ, như râm bụt, dong giềng. Hoa râm bụt thì chỉ có sắc, không hương, phá gam đỏ điểm tô cho bờ rào xanh, bởi khúc tần và dây tơ hồng vàng, còn hoa dong giềng không những sắc đẹp, nếu ai biết nó thì còn ăn được. Chẳng hiểu ai dạy, tôi đã biết tút lấy búp hoa trong cùng, mút chút dịch từ lõi búp, có vị ngọt là lạ. Thật thú vị. Biết chẳng béo bổ là mấy, nhưng lại có cảm giác của con ong đi tìm mật. Còn xương rồng nữa, những bụi xương rồng hàng rào hay trên mặt tường vườn rau cũng dày hoa. Mặc dù xương rồng là loại cây chịu khô hạn vô địch, nhưng mùa hạ mưa nhiều, xương rồng cũng mở màng hơn và vì thế sắc hoa đỏ hay vàng của nó cũng tươi tắn hơn, làm con người ta cũng thấy hưng phấn hơn lên... Chưa hết, chỉ riêng một cây sấu ven ao ngay lối cổng vào lấm tấm hoa, lẫn vào vòm lá xanh khiến người ta khó thấy. Và nó chỉ hiển hiện khi dưới gốc cây dát một thảm màu trắng ngà vàng,... Ấy là khi hoa sấu rụng, người ta mới biết đến sự có mặt của nó... Tiết cuối hạ, khi những đầm sen ngoài đồng đã vãn, mảnh ao nhỏ lại tím sịm hoa bèo Nhật Bản, làm góc vườn nhà đầy sinh khí. Loài hoa chẳng mấy ai để ý nên nó cứ vô tư hớn hở, như chỉ thể hiện sự có mặt cùa mình mà thôi. Song sự có mặt của nó làm cho mảnh ao nhỏ quanh năm cớm nắng bởi bóng tre và những cây lưu niên khác, bừng tươi tỉnh, nhất là mỗi chiều tà trời nổi cơn giông nổi, theo đó là những hạt mưa to lộp độp trên lá bèo. Dây mướp ven ao, được bắc dàn lán ra mặt ao đầy hoa vàng và bóng hoa in hình trên mặt nước, khiên đám rô ron tưởng nhầm, lao xao đớp bóng hoa, cho đến khi những bông hoa mướp đực héo rụng xuống, ấy là lúc bày cá con lau chau tranh ăn, quấy nước ao sủi bọt khí. Đám rau muống nước cũng chẳng chịu thua nở đầy hoa tím, kéo sang cả thu. Hình ảnh ấy in đậm trong tôi, để một ngày nào đó, bật ra mấy câu thơ nhớ quê "Quê nhà dường đã vào thu/ Hình như có tiếng chim gù đâu đây/ Ao vườn hoa tím nở đầy/ Có con săn sắt động dây muống chiều"... Rồi bỗng một ngày, khi len lỏi vào hàng rào vườn nhà để tìm ngắt những quả ruối chín vàng mọng bỏ vào miệng ăn, bỗng nhiên cẩm nhận một mùi hương là lạ. Hương gì nhỉ? Tự hỏi mà chẳng thể trả lời. Mùi hương ấy như có lại như không. Mỗi làn gió thổi, mùi hương lại dậy lên, từ sáng đến trưa, rồi chiều, càng rõ dần, và mùi hương ấy hiển hiện, như mùi chuối chín, hay dứa chín. Ở quanh quất đâu đây thôi. Bố tôi bảo: "Hoa dứa dại đấy. Cứ tìm đi, khắc thấy". Tôi căng mũi lần tìm, như chú khuyển vàng đánh mùi... Đây rồi, giữa bụi mây gai xen kẽ dứa dại hàng rào, từ nách lá, một bông hoa vàng nhạt nhô lên. Mùi hương lạ từ đấy tỏa ra, sực nức. Ai đã từng một lần ngửi hương hoa dứa dại sẽ chẳng thể nào quên, vì nó không lẫn với bất kỳ thứ hương nào khác. Tôi mách bố, ông bảo:''Dứa dại ít khi nở hoa, nên ai tìm thấy hoa dứa dại là may mắn lắm đấy". Chẳng biết thật hư, nhưng từ khi tìm thấy hoa dứa dại, tôi luôn chờ đón sự may mắn kỳ diệu nào đó sẽ đến với mình!... Mùa hạ qua đi. Tiết thu sang, sấu chín, lộp độp rụng mỗi khi trời chuyển gió. Bưởi cũng già quả, nhưng ăn vẫn còn he, phải đợi đến tiết Trung thu quả mới đủ nước vào ngọt. Đây cũng là thời kỳ oi nước lên. Lúc này, vườn nhà hầu như vắng màu hoa. Ấy là lúc, những bông hoa xương rồng nhỏ xíu vẫn kiên trì, túc tắc nở, đem lại chút màu sắc cho vườn. Khi ấy, mới thấy thương thấy quý loài cây hoa này làm sao!... Ở tít trên cao, hoa cau nào ai biết. Chỉ những chú chim sẻ mùa hè là hay ríu rít, lách chách, chí chóe trên nách bẹ cau, để thòi ra những sợi rơm khô từ tổ của mình. Rồi một sáng, phảng phất đâu đây chút hương dịu nhẹ. Gì thế nhỉ? Lúc múc nước, chợt thấy mặt nước bể lấm tấm hoa cau. Mãi sau này, tồi hiểu, ấy là dấu hiệu của tiết heo may, khi một thần đồng thơ đã viết những câu thơ "Nửa đêm nghe ếch học bài/ Lưa thưa vài hạt mưa ngoài hàng cây/ Nghe trời trở gió heo may/ Sáng ra vại nước rụng đầy hoa cau". Hay và tinh tế làm sao... Nhà tôi, có đào giếng khơi, bên giếng là bể nước. Bố tôi cầu kỳ để một chậu quỳnh. Ngay chân bể chứa nước là khóm giao. Bố tôi bảo: "Cây quỳnh phải có cành giao mới hợp". Ông mang câu thơ Kiều ra diễn giải, rằng chàng Kim Trọng gặp Thúy Kiều trong truyện của Nguyễn Du thì trời đất, quang cảnh cũng đều giao hòa, quấn quýt "một vùng như thể cây quỳnh cành giao"... Hàng năm, vào tiết cuối thu, may mắn thì khóm quỳnh đơm hoa. Từ lúc thấy quỳnh nhú nụ, bố tôi giao cho tôi theo dõi hàng ngày. Mỗi ngày, nụ quỳnh một lớn và nhú cao hơn. Hồi hộp lắm, mỗi khi chờ xem quỳnh nở. Hoa quỳnh thật lạ, chỉ nở vào đêm, và thường đêm có trăng sáng. Vì thế, cụ Nguyễn Du mới hạ bút: "Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên...". Ban chiều, quỳnh còn chúm chím, đầu nụ nứt hé lộ chút cánh trắng, tôi mừng lắm vội báo tin cho bố tôi. Tối ấy, xong công việc, sau bữa cơm tối, bố tôi cho bày chiếc bàn học của tôi và mấy chiếc ghế ra sân. Ngoài ấm trà, có chút hoa quả vườn nhà và mấy cái kẹo lạc. Cả nhà quây quần chờ xem quỳnh nở. Cho đỡ sốt ruột, bố tôi kể chuyện, những Tây Du Ký, Thủy Hử, Hồng Lâu Mộng... mấy chị em tôi mải nghe, quên cả hoa. Cho đến lúc bố tôi đột ngột dừng kể khi chuyện vào độ hấp dẫn nhất, chúng tôi còn ngơ ngác chưa hiểu sao lại vậy, thì bố tôi cười bảo: "Quỳnh nở rồi kìa! Mình xem quỳnh cow mà". Chúng tôi mời ở người. Quỳnh nở thật, cánh trắng nhị vàng nhạt, mỏng manh, tinh khiết và hương dịu nhẹ. Lúc ấy, nhớ tới câu thơ Kiều, tôi để ý, thấy cả một vòm trời bát ngát ánh trăng, dòng Ngân Hà mềm mại lấp lánh, vắt ngang bầu trời. Tôi ngợp đi và đêm ấy không tài nào ngủ được, không biết là do hưng phấn, hay do uống chén trà? Không ngủ, tôi nghĩ miên man, và chợt phát hiện thấy mình đổi khác... Tôi mơ màng nghĩ đến mấy đứa bạn gái đang tuổi phổng phao, ngực nhu nhú mầm... Quỳnh của mùa thu đã nở. Cả năm chờ đợi, duy có một lần, là lúc này đây. Nhanh lắm, đêm nở, sáng ra ánh trời, mọi sự huyền diệu ban đêm bay đi đâu hết. Quỳnh đã héo dần. Nhìn những cánh hoa quỳnh ỉu xìu trong nắng hanh, tư lự, tự hỏi lòng, sao loài hoa năm nở một lần, hiếm hoi, lại nhanh úa tàn làm vậy? Và tôi chợt sáng ra trong ý nghĩ, cũng như giấc mơ đêm qua ấy, bao hồi hộp bay bổng tuyệt vời của chút tình cảm luyến ái le lói, len lỏi, đầy hưng phấn đã vụt tan biến khi mình bừng tình dậy lúc ban mai. Vậy thì quỳnh chỉ là giấc mộng đêm thu mà thôi. Cũng như sau này, cuộc đời ban cho tôi bông quỳnh khác, nhưng rồi, vẫn như ngày thơ dại, mải nghe chuyện bố tôi kể, tôi lặn ngụp giữa những rối ren thị phi chuyện đời, nhãng đi và xảy mất phút bừng nở của quỳnh, để lúc tỉnh ra thì hoa không còn tươi nguyên nữa. Lại nhớ đến một bài thơ đời Đường của Đỗ Thu Nương "Khuyến quân mạc tích kim lũ y/ Khuyến quân tích thủ thiếu niên thì/ Hoa khai kham chiết trực tu chiết/ Mạc đãi vô hoa không chiết chi"... Thì ra, có một đạo lý, trời đất tạo hóa không cho phép sự tuyệt diệu dài lâu và vững bền, mà chỉ đến trong một chớp mắt, cho người ta cơ hội nắm bắt, còn ra, chỉ như ảo ảnh, lý tưởng về sự hoàn mỹ vĩnh hằng, để cho con người ta ý thức về sự gian khó, để khao khát sống, khao khát vươn lên, mà chẳng biết bao giờ đạt được !?... Những trận gió mùa đông bắc đầu tiên khe khẽ về vào lúc chiều hôm hay mãi nửa đêm. Cây vườn xào xạc. lắc cắc, rào rào những hạt mưa mau thưa, chợt có chợt không. Chỉ những ai tỉnh ngủ mới nhận biết được. Hoặc trong cơm mộng mị, thấy mưa rơi ở xứ mộng mơ xa lơ xa lắc nào đó. Sáng ra, rùng mình se lạnh, mới biết mùa đông đã bén mảng... Những loài cây mùa đông lác đác rụng lá. Mấy cây bàng ngoài bến sông cũng đã ngả màu lá sậm, chờ một ngày đỏ lựng. Chiều chiều, mẹ tôi hay quét lá vườn, mang về phơi để bếp đun dần. Phần lá vụn và rác rưởi còn lại, không đun được thì hun đống đốt thành đống rấm, khói lên thơm nồng, quện với sương chiều muộn phất phơ lên giời, tạo lên một quang cảnh hư ảo trời đất lẫn vào nhau ... Ngày bé, mỗi sâm sẩm tối, trong làn gió lạnh buốt, tôi mơ hồ thấy hồn tổ tiên nương bóng khói đống rấm mà về thăm con cháu... Liên tưởng, ớn mình, nhưng quả thực tôi không mấy sợ... Những tưởng, mùa đông thì chẳng mấy hoa. Song không, đây là thời điểm đám rau giữa vườn về già lại đơm sắc màu. Nổi bật, là những cây rau cải xanh, để già lấy hạt làm giống mùa sau, bừng lên sắc hoa vàng tươi rói. Hoa cải vàng rung rinh trong gió bắc khiến cả khu vườn mùa đông ngỡ ảm đạm lại tươi tắn phấp phới sắc màu, đủ sức lôi cuốn loài côn trùng hút mật đỡ lòng lúc ngày đông tháng giá... Và tôi lại thấy mẹ tôi cất giọng buồn buồn câu ca dao "Gió đưa cây cải về giời/ Rau răm ở lại chịu đời đắng cay". Sao lại thể nhỉ? Tôi chẳng dám hỏi mẹ nữa, nhưng cứ âm âm trong suy nghĩ câu ca dao buồn ấy. Sau này, biết ăn rau cải sống, rồi ăn món mù-tạt làm từ dầu cải, thấy vị cay nồng xộc thẳng vào mũi lên tận óc, lại nghĩ, còn hơn cả vị đắng của rau răm ấy chứ? Thật chẵng rõ người xưa hàm ý gì qua câu ca dao ấy?... Chưa hết, có một loài hoa gần như không mấy ai để ý, chính là hoa thì là. Nhà trồng vạt thì là, để khi thi thoảng nấu riêu cá, hoặc khi xào khoai tây với tóp mỡ, gia vị thì là làm dậy mùi món ăn. Dùng không nhiều nhưng lai rai cả năm. Bỗng một ngày thì là già cũng trổ hoa, màu vàng nhạt, thả chút hương ngai ngái là lạ. Sắc hoa thì là gần gam màu nhưng không lẫn vào hoa cải. khiến mảnh vườn mùa đông bừng sáng và ấm áp hẳn lên. Rìa rãnh nước chảy còn có hàng hương nhu, cuối năm lấy để đun nước tắm tất niên. Hoa hương nhu gam sẫm, thui thủi nở và tàn chẳng ai hay, bởi giá trị hương thơm cúa nó vào hết thân và lá rồi... Sự có mặt của loài hoa này chì mang ý nghĩa vòng tuần hoàn sinh tồn mà thôi... Cuối đông, gần tết Nguyên đán, xen kẽ giữa những trận gió bấc rét là những ngày tiết trời ấm lên, gió nồm đưa hơi ẩm từ biển vào, mỗi sáng sớm và chiều muộn hay sương mù, rồi quá mù thành mưa, lất phất mưa phùn. Mẹ tôi hay dùng thành ngữ "quá mù ra mưa" để chỉ những gì đi quá giới hạn chấp nhận của nó trong cuộc sống... Vậy là tiết xuân vừa chớm. Những khoảng đất trống trong vườn, xen với rau cỏ, để ý thấy những cụm cây dại, hoa nhỏ trắng xanh, chẳng biết gọi tên là gì. Tôi hỏi mẹ, thì bà bảo là hoa tầm xuân và ngân nga câu ca dao "Trèo lên cây bưởi hái hoa, bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân. Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc, em đi lấy chồng chẳng tiếc lắm sao?"... Sau này, tôi có tra cứu, hỏi han này nọ, nhằm kiếm tìm loài hoa tên tầm xuân, thì được mặc định cho cây trường xuân, là loại hoa hồng dây leo hàng rào, và giống này có nguồn gốc nước ngoài. Ngẫm nghĩ, thấy không phải vậy. cây hoa tầm xuân trong ca dao kia quyết không phải là loại trường xuân-hồng dây này. Tôi nghí, chiểu theo ca dao, dân gian. tầm xuân chỉ loại hoa cỏ dại nở hoang ruộng vườn vào lúc có mưa xuân, mà xưa kia các cô gái quê hay hái vào cái tuổi mộng mơ mới lớn, chớm biết yêu, nên tục gọi là tầm xuân mà thôi. Đơn giản vậy, mà cũng có vẻ phù hợp với văn cảnh câu ca dao "bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân" chứ?... Mảnh vườn xưa, quanh năm bốn mùa hoa trái ấy không còn nguyên nữa. Sau khi bố tôi mất, mấy chị em chúng tôi, người về nhà chồng, người ra thành phố công tác. Tôi cũng hành phương Nam gần chục năm trời. Mẹ tôi theo ra thành phố chăm con cho chị gái tôi, bà nhượng nửa mảnh đất cho người bà con họ hàng. Phần còn lại bỏ hoang, ngôi nhà tranh tre tường đất xưa sinh dột nát, rồi bị phá bỏ đi. Gần đây, mấy chị em tôi hùn nhau, xây trên phần đất còn lại một ngôi thờ tự, trồng ít cây, hoa cho ấm bụi, đẹp nhà, nhưng chẳng thể như xưa... Tôi nhớ lắm mảnh vườn xưa thương mến, trong ký ức bộn bề cuộc sống hiện tại. Nơi mà hàng năm, qua bốn mùa hoa trái, bố mẹ chỉ bảo, tôi đã nhận ra và dần thấu hiểu những triết lý nhân sinh. Và điều đó, đã dẫn dắt tôi ngang dọc đường đời... R
<bài viết được chỉnh sửa lúc 25.06.2024 05:47:23 bởi Ct.Ly >
ĐẢO CHÌM CỦA TRẦN ĐĂNG KHOA
CHUYỆN NGOÀI TRUYỆN
NGUYỄN CHU NHẠC
Phi lộ: Những chuyện tôi kể sau đây, bắt đầu từ chuyện trên một trang mạng xã hội, Blog Tiếng Việt (blogtiengviet.net) vào đầu năm 2011. Khi ấy, tôi (Nguyễn Chu Nhạc, tác giả bài viết này) lập trang cá nhân trên BlogTiếng Việt có tên Ngẫm & Viết. Bài đăng đều đều với phần cảm nhận (comment) của nhiều cư dân mạng. Chẳng có gì đáng nói, đến một ngày (27/2/2011), tôi đăng bài nói về một bài thơ ứng tác của nhà thơ Trần Đăng Khoa thời học trò có tên “Sắp mưa” theo thể Đường luật, thất ngôn bát cú. Người cảm nhận đông lắm, khen chê đủ kiểu, trong đó có ý kiến khía vào chuyện bài thơ này luật bằng trắc chưa thật chỉnh. Ý chê là đúng. Trong rất nhiều ý kiến ấy, tôi thực sự chú ý đến Bạn đọc (chỉ người không phải là blogger, tức là không lập trang cá nhân với tư cách là bloger) có tên Trần Trọng Trí. Xin trích nguyên văn: “Bình luận từ: Trần Trọng Trí [Bạn đọc] [link=mailto:28.02.11@20:32]28.02.11@20:32[/link]/ Tôi đã về hưu mấy năm nay, giờ làm thợ cắt tóc. Nghe con cháu út nhà tôi bảo trong quán lá Lễ Nhạc nhà Chu có cuộc hội thảo về Trần Đăng Khoa rất hay, tôi bèn ra quán Nét ghé chơi. Thấy đúng là hay thật. Tôi đồng ý với ông Nhạc. Đây là thơ tếu, cốt ghép mấy câu bỡn bạn. Nội dung chính là những chữ đầu ghép lại, vần điệu, niêm luật có thể búa xua. Vì thế chẳng nên mang luật thơ ra bàn. Tôi là dân Nga học (Tôi học thuyền trưởng ở Ô-Đe-sa, Nga, cùng Ngô Tự Lập), từng có thơ in trên báo Hải quân nhân dân và báo Văn Nghệ. Tôi cũng rất yêu thơ Đường, nhưng cũng ngấy thơ Đường vì sự gò bó của niêm luật, đối thanh, đối ý. Nhưng thơ Đường sang ta nó mới hủ nho như thế, chứ bản thân những nhà thơ lớn đời Đường như Lý Bạch, Đỗ Phủ họ cũng thoát ra khỏi cái lề luật hà khắc của nó và mới thành đỉnh cao thi ca nhân loại. Tôi cũng có mấy kỷ niệm với Thần Đồng - Tất nhiên Thần đồng bây giờ người ta mới gọi, chứ ngày xưa, chúng tôi chỉ gọi gã là Cua Đồng. Gã có tặng tôi hai bài thơ ứng tác. (Tức là thơ đọc ngay tắp lự). Bài thứ nhất rất dài, nhưng tôi chỉ nhớ được bốn câu kết: "Thuyền trưởng ơi, tiếc là không có rượu/ Ta đã uống đâu mà, sao biển cả đã say/ Để sóng lớn chồm lên muôn ngọn núi/ Nâng tầu ta đi canh giữ nước non này". Chúng tôi sướng những câu thơ ấy lắm. Rất sảng khoái và rất lính. Tôi còn đố Khoa làm một bài thơ đái trên biển. Cứ sõng thẳng từ trên boong xuống biển. Không ngờ cha Cua Đồng đã biến một việc rất thô tục thành một bài thơ trữ tình mà cánh lính biển tàu HQ05 từ lính đến quan đều thuộc ngay và nhớ đến tận bây giờ: "Anh biết giấu vào đâu giữa muôn trùng trời nước/ Nỗi nhớ em không một phút nào nguôi/ Nỗi nhớ trào dâng anh xả vào biển cả/ Nguồn yêu thương cuồn cuộn chảy dưới trời". Sướng. Bác Nhạc cho tui thăm gã Cua đồng, và nhắn giùm: Thuyền trưởng Trí vẫn nhớ Khoa, Mong Khoa sớm trở về với biển, hoặc đến Liễu Đề, Nam Đinh thì ghé Trí chơi.”. Thật bất ngờ và vui. Bởi từ ý kiến bày tỏ quan điểm về thi ca rất chi là hiện đại và tiến bộ, Trần Trọng Trí còn cho biết ông từng công tác, có mối quen biết cũ với nhà thơ Trần Đăng Khoa, đặc biệt là thơ ứng tác của Khoa đầy thú vị. Tôi khoe ông rằng nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng có trang cá nhân trên Blog này, có tên Lão Khoa, ông có thể vào đọc, tha hồ nhắn nhe nhau, đồng thời tôi cũng mách với Trần Đăng Khoa về chuyện thuyền Trường Trần Trọng Trí nhắn gửi. Nhà thơ nhớ ngay người quen cũ, lập tức trả lời: “Bình luận từ: Trần Đăng Khoa [Bạn đọc] · http://Blogtiengviet.net/Lao Khoa [link=mailto:01.03.11@10:48/]01.03.11@10:48/[/link] Vài hôm rồi quấy quả với mấy việc hệ trọng, bữa nay ghé vào quán lá nhà lão Chu, mới hay chốn đô hội này vui thật. Nhờ vậy, tôi mới gặp được nhiều bạn cũ, người quen cũ, có người đến ba chục năm nay không thấy mặt,... Tôi cũng bất ngờ khi gặp bác Trí thuyền trưởng. Bác này có cô con gái rất xinh tên là Hà. Bác gả hết cho chú lính này đến chú lính khác, đi đến đâu bác cũng được xưng tụng bố vợ. Khi nhận thư, cánh lính mới té ngửa: "Bố ơi, dạo này con ngoong lắm, không gác chân lên cổ mẹ, mí nữa đêm ngủ con không còn đái dầm nữa đâu bố ợ". Hóa ra tiểu thư công nương mới học lớp 1. Tôi đã kể chuyện này qua nhân vật Chính trị viên Thuận ở cuốn tiểu thuyết mini Đảo chìm. Cháu bây giờ chắc đã mấy con rồi. Bữa nào tôi với Chu Nhạc về Liễu Đề nhờ bác tân trang cho mái tóc nhé. Chúc các bác, các bạn luôn gặp điều lành.”... Từ bất ngờ này dẫn đến bất ngờ khác, một cựu lính hải quân, cấp dưới của thuyền trưởng Trần Trọng Trí đã nhận ra thủ trưởng cũ của mình: “Bình luận từ: Nguyễn Văn Tròn [Bạn đọc] [link=mailto:01.03.11@15:24]01.03.11@15:24[/link]/ Ối thủ trưởng Trí ơi! Em không ngờ lại gặp thủ trưởng ở đây. Em nghe bà chị em khen quán lá ông Nhạc, em vào xem người ta mổ thịt ông Khoa, hóa ra lại gặp thủ trưởng cũng tham gia tùng xẻo. Em dạo này mở quán thịt chó, cũng sống được Sếp ạ. Sếp thuộc thơ bác Khoa còn em lại khoái thơ Sếp. Mà thơ rất thiết thực. Sếp còn nhớ Sếp cáu um lên vì bọn thằng Lĩnh ỉa bậy không? Sếp viết thơ lên mảnh tôn cắm bên cạnh hố xí: "Ỉa thật đúng lỗ mới tài/ Ỉa trệch ra ngoài kỹ thuật không cao". Nhưng em thích nhất bài thơ Sếp tặng em. Hồi em kiếm được tấm vải dù cho con vợ mới cưới. Sếp viết hộ em: "Gửi tặng em yêu tấm vải dù/ Anh đi tìm kiếm xuýt mất cu/ Mìn vướng, bom gài, anh đéo sợ/ Một tay cuộn dù, tay bịt cu". Nghĩa là giữ cho em cả tinh thần và vật chất. Mất cái "cần tăng số" thì có đến hàng trăm mét dù, nó cũng bỏ. Em ôm trọn vẹn của nả về mà con vợ em nó vẫn đi theo thằng khác. Có giữ được quái đâu. Bây giờ em thay ba vợ rồi. Vợ em hiện là giáo viên dạy mẫu giáo, lương ít nhưng tử tế, có điều kiện nuôi con. Hôm nào em sẽ về quê thủ trưởng đấy.”... Điều thú vị nữa, trong phần cảm nhận của bài viết này, nhiều bậc văn-thi sĩ, nhà phê bình văn học và các bậc cao nhân đều vào bàn góp, nhất là kể những giai thoại về tài ứng tác của nhà thơ Trần Đăng Khoa như Nhật Tuấn, Vu Gia, Đỗ Hoàng, Vũ Cao Đàm,... và có cả những bạn thơ văn thuở thiếu thời của Trần Đăng Khoa là Chu Hống Quý, Nguyễn Việt An cũng nhảy vào đàm luận.... Và những câu chuyện ngoài truyện bắt đầu từ đây,... Đảo Chìm, chuyện ngoài truyện: Câu chuyện của thuyền trường Tàu HQ 05 Trường Sa, Trần Trọng Trí và những người lính thuộc cấp của mình một thời còn tiếp diễn. Song trước khi nói về tiểu thuyết ĐẢO CHÌM của nhà thơ Trần Đăng Khoa, cùng những chuyện ngoài truyện, tôi muốn kể thêm về vị thuyền trưởng tàu HQ 05, Trần Trọng Trí và những người lính ngày ấy của ông (Nguyễn Văn Tròn, Lê Văn Khánh v.v...), bởi đó là những nguyên mẫu mà nhà thơ Trần Đăng Khoa dựng thành các nhân vật chính trong cuốn sách của mình: Chính trị viên Thuận, Tư Xồm... Âu cũng là cách để bạn đọc biết thêm về các chuyện thực ngoài dời của các nhân vật tiểu thuyết, mà cụ thể ở đây là xứ ĐẢO CHÌM. Vẫn trong phần ghi cảm nhận bài viết của tôi về thơ ứng tác của Trần Đăng Khoa, một người lính hải quân khác xuất hiện khi anh chàng này được bạn mình-cựu thủy thủ Nguyễn Văn Tròn mách bảo: “Bình luận từ: LÊ VĂN KHÁNH [Bạn đọc] [link=mailto:02.03.11@10:51]02.03.11@10:51[/link] Ôi chồ chồ, thủ trưởng ơi, em là Khánh đây, Khánh cắt tóc và dạy thủ trưởng cắt tóc đó. Thằng Tròn điện cho em bảo vô xem thủ trưởng, lại bày cho em cách viết thư cho thủ trưởng. Em vào mấy hôm rồi, nhưng bữa ni mới biết cách viết thư. Em đọc thơ thiên hạ thấy thua thơ thủ trưởng hết. Em đọc thơ thủ trưởng, ai cũng thích. Vịnh cây khoai môn: Trên rừng sướng nhất cây khoai môn/ Củ nó luộc lên ăn rất ngon./ Cái bẹ nấu canh ăn cũng sướng/ Lá nó hao hao giống cái l...Vịnh Nồi hầm: Trắng trắng đen đen lại lùm lùm/ Cũng đai cũng ốc, cũng tùm lum./ Thịt gân nhét phứa vào trong ấy/ Một lúc rút ra nhũn nhùn nhùn. Vịnh cái tủ lạnh Sa-ra-top: Cắm vào run rảy toàn thân./ Rút ra nước chảy từ chân xuống sàn./ Hỡi người quân tử giàu sang./ Cắm vào xin chớ vội vàng rút ra. Nhưng em thích nhất bài thơ Sống ở đảo chìm, viết tặng ông Trần Đăng Khoa: Sống ở đảo khoái ơi là khoái./ Nó giúp ta đi đái rất gần./ Đái ở đầu, đái ở chân (Đầu đảo, chân đảo) /Đứng đâu đái đấy, đéo cần đi xa./ Chẳng như hồi sống ở nhà./ Muốn đái một bãi phải ra tận vườn. Hay. Thủ trưởng có thơ mới, bảo bác Nhạc đăng cho chúng em thưởng thức nhá”. Chưa hết, trong các cảm nhận vào bài viết của tôi, thầy trò Trí-Tròn còn đối đáp nhau nhiều: Bình luận từ: Trần Trọng Trí [Bạn đọc] [link=mailto:01.03.11@20:59/]01.03.11@20:59/[/link] Con cháu tôi lại khoe, có một bác đọc thơ ông, lại khen thơ ông hay hơn thơ ông Khoa. Tôi lại phải vào quán lá của bác Nhạc. Hóa ra là chú Tròn. Rất mừng chú có quán thịt chó. Mà dạo xưa chú có biết ăn thịt chó đâu nhỉ. Hôm Trường Sa giết con Ái Vân (tên con chó khoang - lính thường lấy tên ca sĩ họ thích đặt cho chó) để chiêu đãi tướng Cương, chú với ông Khoa không ăn. Chú còn nôn ọe. Bây giờ lại nghiện thịt chó à. Rất mừng chú có ba vợ. Anh một vợ đã mệt phờ. Bà cai ngục nhà anh cũng béo như ông Khoa, hơn 5 sọi rồi mà nước vẫn dâng như lũ sông Hồng. Chú Tròn ba vợ thì kém đếch gì cụ khốt đồ nho, nhân vật của bác Nhạc. Cái truyện ấy hay đấy (về truyện ngắn Ngày xưa ấy của Nguyễn Chu Nhạc). Vào đọc ngay. Tôi rất thích. Thích nhất là đoạn làm tình của đôi trẻ. Tôi bây giờ đọc bác Nhạc luôn luôn. Mặc dù mỗi lần vào quán bác Nhạc, tôi lại mất ngót chục ngàn. Mụ chủ còn đe tăng giá. Mụ vợ tôi cũng điên "Già còn đĩ. Vào xem mấy con để l…à". Tôi bảo, thì để đỡ tốn tiền, bà cởi cho tôi xem. Đấy, văn bác Nhạc được bà ấy ví với cái l.. Chuyến này khéo ông Khoa sẽ ghen vì văn ông Khoa không được đề cao như văn ông Nhạc. Tiếc là lâu rồi, tôi không gặp ông Khoa, chỉ thỉnh thoảng thấy ông ấy trên truyền hình. Béo quá. Ông ấy mà về làng, không khéo chết oan vì dân nó đánh, nghi là thằng tham nhũng. Hôm tôi qua Đài, đi với mấy ông cựu chiến binh bên Bộ Tổng tham mưu, có ông Đảng, Phó Chủ tịch Hội CCB đài tiếp rồi dẫn đi xem mấy nơi, qua phòng ông Khoa thì ông ấy đi vắng. Tôi vẫn làm thơ, tham gia câu lạc bộ thơ. Hôm vừa rồi có gửi bốn bài cho ông Bành Thông in trong tập Hương ngoại ô cùng với một triệu tiền mua sách. Thơ mà tôi tâm đắc, cánh cựu chiến binh quê tôi thích đều là thơ mách qué. Bác Nhạc có giám in thơ tôi không? Đại loại bài độc vận thế này: IẾC XIẾC: Tối qua đi xem xiếc/ Thấy rõ ràng từng chiếc/ Càng nhìn lại càng tiếc/ Không được đi đoàn xiếc/ Để được sờ từng chiếc/ Tiếc/ Iếc xiếc. Bữa nào vào Quảng Bình tôi sẽ đến thăm chú Tròn. Còn bác Khoa với bác Nhạc tôi gặp chắc không khó lắm. Bây giờ các bác ấy mở quán ảo rồi, tôi sẽ vào luôn”. “Nguyễn Văn Tròn [Bạn đọc] 02.03.11@10:24/ Thủ trưởng Trí. May có bác Nhạc làm liên lạc để em được gặp thủ trưởng. Em mở quán thịt chó, nhưng vẫn không biết ăn thịt chó. Điều đó chẳng quan trọng. Vợ và chú em vợ em tác nghiệp, còn em thu tiền với điều hành chúng. Quán của em ở thị trấn Ba Đồn, với bảng hiệu: Cày tơ Tròn lùn. Đông khách lắm. Thế cái bệnh lòi dom của thủ trưởng bây giờ thế nào? Thủ trưởng vẫn làm thơ quậy à? Em vừa thấy thủ trưởng quậy trên mạng bác Nhạc, nói cái vụ cối chày gì đó. Thủ trưởng cũng nên giữ mồm giữ miệng một chút, chả gì Sếp cũng Đại tá, lương tướng, xuýt nữa anh hùng. Mạng ấy toàn trí thức đọc cả đấy. Em xem thấy ù đầu. Thủ trưởng cũng phải cẩn thận trước bà xã. Bà ấy có thể không thích văn chương nhưng vì tò mò, tưởng ở đấy có l... gái trinh, mò vào, gặp thủ trưởng nói xấu vợ thì chết. Loạng quạng mụ có bồ lại tắm cho thủ trưởng một can xăng như vợ nhà báo Hoàng Hùng thì khốn. Đàn bà không tin được đâu. Gặp thằng mả mẹ nào nó khen đểu cho một câu là chổng phao câu lên, coi chồng như cứt chó ngay. Các cụ xưa không cho ngồi chung mâm, chỉ để ăn trong xó bếp kể cũng không oan. Em qua ba cối rồi, em biết. Tanh lắm. Thủ trưởng vẫn phải cẩn thận đấy. Lúc nào thăm thủ trưởng, em nói nhiều, bây giừ qua nhà ông Nhạc, anh em mình nói với nhau mà toàn thiên hạ nghe, cụt cả hứng. Thủ trưởng bảo trọng”. Trong cảm nhận này, Nguyễn Văn Tròn có nhắc đến một chuyện, ấy là cựu thuyền trưởng, đại ta Trần Trọng Trí xuýt được phong Anh hùng (danh hiệu AHLLVT). Về điều này, tôi tìm hiểu, được biết, khi xem xét hồ sơ để phong tặng danh hiệu cho Trần Trọng Trí thì có vấn đề về lí lịch nhân thân (nghe nói, ông vướng thành phần gia đình đia chủ trong CCRĐ, lại dính thêm chuyện mê tín dị đoan vì ông cụ thân sinh biết nghề thày cúng nên thi thoảng làng xóm có việc nhờ cúng giùm). Chẳng rõ hư thực ra sao? Hồn thơ lính trong cõi lòng vị cựu thuyền trường Trường Sa ngày nào như sống dây, khi tôi đăng bài thơ Xuân mưa. “Bình luận từ: Trần Trọng Trí [Bạn đọc] [link=mailto:01.03.11@21:45/]01.03.11@21:45/[/link] Vừa đọc bài thơ tứ tuyệt XUÂN MƯA của thi sĩ CHU NHẠC, tôi cũng nổi ngứa chim cò tặng Chu Thi sĩ mấy câu thơ Thiền:: XUÂN NẮNG/ Xuân sang, ta Sáu Tư rồi/ Vắt đâu ra mấy giọt trời được đây/Bà Xanh đã tốc váy mây/Ta cùng vợ vác cối chày ra phơi”. Tôi đề nghị chữa của ông hai từ “giọt trời”, thành “giọt giời”, ông tỏ ra khoái lắm. “Bình luận từ: Trần Trọng Trí [Bạn đọc] [link=mailto:03.03.11@21:58/]03.03.11@21:58/[/link] Ông Nhạc chữa cho tôi một chữ mà hay hơn đấy. Cao thủ. Mặc dù ý không thay đổi, nhưng chữ giời thì hợp hơn chữ trời. Tôi sẽ qua chú Tròn trong dịp tới. Chú giúp tôi mua vi tính, nhưng không cần tặng tôi, thằng con rể tôi nó cho. Thằng cu đang muốn kéo tôi về Yên Bái sống với vợ chồng nó. Tôi đang tính. Nghe có mấy đứa vừa báo tôi bên nhà ông Khoa có trò mới cũng vú vê búa sua. Tôi sang xem đã nhé”. Sau những ngày đầu đầy xúc động, cựu thuyền trưởng Trần Trọng Trí đã kiềm chế cảm xúc của mình, tỏ ra điềm tĩnh, sâu lắng, thì chàng cựu lính Nguyễn Văn Tròn vẫn tràn đầy năng lượng, như phát rồ, bắn liên thanh bằng những cảm nhận gây xốc: ”Bình luận từ: Nguyễn văn Tròn [Bạn đọc] [link=mailto:03.03.11@06:22/]03.03.11@06:22/[/link] Thủ trưởng Trí ơi!. Bây giờ chắc thủ trưởng đang ngủ, mà mấy con mẹ quán Nét cũng đang ngủ, thế mà em đã lẻn được vô nhà bác Nhạc rồi đấy. Em vô bằng cái máy tính con con của em. Rất tiện lợi. Giờ em quyết định thế này: Giữa tháng Ba này là ngày giỗ ông anh của em. Bác Nguyễn Văn Vuông, hy sinh thời chống Mỹ. Em mời thủ trưởng vô Quảng Bình. Tiện thể, ta quá giang mấy trăm cây đi Nghĩa trang Trường Sơn. Em sẽ tặng thủ trưởng cái vi tính xách tay và cái USB nối mạng, em bao thủ trưởng cước hàng tháng, để thủ trưởng đọc bác Khoa bác Nhạc và trăm thứ rất hay trên mạng. Còn báo nhạt toẹt. Cước chẳng đáng bao nhiêu đâu. Em thử rồi. Chỉ cần thủ trưởng không xem phim đồi trụy thì phí rẻ lắm. Em chỉ tiết kiệm mấy đĩa thịt chó là thủ trưởng chơi nhòe. Thủ trưởng nhắn cho em thằng Hanh, con Nhạn (Cái con ngày xưa thủ trưởng cứ xui em hôn nó rồi bóp vú ấy). Bây giờ chắc già khắm ra rồi. Rồi thằng Bình, thằng Việt, thằng Cải, thằng Khang, thằng Trường (Thằng Trường khỏe như trâu mà bị vợ cắm sừng, khổ thế. Em bảo thôi vứt đi, kiếm đứa khác. Đàn bà thiếu giống. Bác Khoa cứ ra rả tôn vinh chị em, cũng hâm lắm. Bác này rất thông minh, thông thái, nhưng thi thoảng cũng hâm đột xuất). Em thấy đàn bà chẳng sâu sắc thủy chung gì đâu, cù được vào nách là ngả được bàn đén luôn, từ con osin đến các mệnh phụ phu nhân, rồi cả hoa hậu nữa, sếp thấy có đứa nào ra hồn đâu. Đấy như vợ Hoàng Hùng đấy, có thể thiêu chồng chạy theo một thằng hạng tép, mà chưa chắc cái chày của nó đã tốt hơn chày của thằng Hùng. Đàn bà là vậy. Chắc nó rót vào tai mấy câu khen đểu là động cỡn liền. Đàn bà thường chỉ tiếc và đuổi theo những thằng đểu và thường coi khinh những thằng tử tế. Thủ trưởng nhớ báo cho em mấy thằng ấy nhé, còn thằng Khánh thì em liên lạc được rồi. Có vi tính em với thủ trưởng có thể thông thương mà không làm phiền bác Nhạc, bác Khoa nữa. Mà nếu thủ trưởng có bồ hẹn càng tiện lợi. Cánh công chức toàn thế đấy thủ trưởng ạ. Bồ bịch búa sua”. Hình như, cảm thấy ngại khi dùng ngôn ngữ đầy chất lính tráng, anh chàng Nguyễn Văn Tròn có vẻ khách khí. Tôi bèn thưa lại vì thực lòng muốn mọi người cứ tự nhiên như cũ: “Bình luận từ: nguyenchunhac [Blogger] [link=mailto:03.03.11@09:08/]03.03.11@09:08/[/link] Chủ nhân xin có lời nhắn với thuyền trưởng Trí, và các cựu binh Nguyễn Văn Tròn, Lê Văn Khánh v.v... Mọi người cứ giao lưu thoải mái, không có gì phiền đâu.
Rất vui được hầu trà thuốc điếu đóm, cả rượu thịt chó nữa, để bồi tiếp mọi người. Kính”. Việc giao lưu ảo trên mạng xã hội, nhất là khi vào trang cá nhân của tôi (Nguyễn Chu Nhạc) và Trần Đăng Khoa, rồi gặp các lính cựu Nguyễn Văn Tròn, Lê Văn Khánh.... khiến cựu thuyền trưởng Trần Trọng Trí bị hấp dẫn đến nỗi không cưỡng nổi, cho đến một hôm, ông thông báo với tôi và cộng đồng mạng Blog Tiếng Việt: ”Bình luận từ: Trần Trọng Trí [Bạn đọc] [link=mailto:06.03.11@21:26/]06.03.11@21:26/[/link] Tôi đã sắm máy tính cũ xách tay và cả USB, có thể vào các ông thường xuyên. Mụ vợ tui còn mê các ông hơn cả tui. Cảm ơn các ông đã giúp tui nhập thế giới hiện đại. Ngày mai tui đi Sài Lang Thành (ý chỉ Sài Gòn-Tp.Hồ CHí Minh ) nhưng vẫn đọc các ông đấy”. Với thông báo này, ông còn như ngầm nhắn với các cựu binh đàn em của mình (Tròn, Khánh....) rằng từ giờ họ có thể tha hồ chuyện trò với nhau mà không cần nhờ trang cá nhân của ai, không làm phiền người khác, rằng họ sẽ cùng nhau ôn lại ký ức, làm sống lại thời lính Đảo chìm, Trường Sa một thuở... Nhưng, khi còn chưa kịp chuyện Trường Sa thì có một cuộc đối thoại thơ khá thú vị giữa Trần Trọng Trí với nữ thi sĩ Chử Thu Hằng và Nguyễn Việt An (một người bạn học, bạn văn chương của Tôi và Trần Đăng Khoa từ thời học phổ thông, hiện sinh sống tại Tp. Hồ Chí Minh). Tôi không đưa vào bài viết này, song về phần mình, tôi nhận ra sự hóm hỉnh và thông minh, đầy tài hoa trong việc ứng biến thơ của Trần Trọng Trí, nên nhắn ông: “nguyenchunhac [Blogger] [link=mailto:24.03.11@10:59@]24.03.11@10:59@[/link] Bác Trí,/ Đọc lại những bài thơ vịnh của bác, gạt đi phần bông đùa, tếu táo, còn lại, thơ thật hay lắm đó...”. Quả thật, Trần Trọng Trí sắc lẻm như dao cau, mạnh bạo như mãnh thú khi bàn chuyện lính tráng, chuyện về đàn bà, tình yêu, tình dục. Có thể nói, ông là một trí thức, pha thêm chất lính, và trong người tồn dư tính láu cá nông dân… Ông là vậy, và những người lính biển thuộc cấp của ông, dường như nhiều năm sống gần ông, nên ít nhiều chịu ảnh hưởng từ ông, cũng lanh lợi và sắc lẻm không kém (Nguyễn Văn Tròn, Lê Văn Khánh,...). Cho đến ngày 26/3/2011, tôi đăng bài viết của mình có tên “Đảo Chìm, nghệ thuật tạo dựng không gian truyện” bàn về tiểu thuyết “Đảo Chìm” của nhà thơ của Trần Đăng Khoa thì mọi chuyện mới thật xôm trò. Rất nhiều người vào đọc và bình luận. Xin trích đăng một số cảm nhận để cùng tham khảo: Bình luận từ: Người qua đường [Bạn đọc] ( tức nhà văn Nhật Tuấn-NCN) [link=mailto:22.03.11@23:22/]22.03.11@23:22/[/link] “Tôi cũng đã đọc Đảo Chìm của Khoa, do ông Nguyễn Khải cho mượn. Đọc vì tò mò. Khoa viết chân dung văn học thì giỏi, nhưng văn xuôi chưa chắc, vì nó là một thể loại khác. Nhưng rồi đọc thì giật mình. Quả đây là một cuốn sách độc đáo. Kể vui vui, như chơi, nhưng ý tứ thâm hậu. Cái ý ngầm Khoa muốn nói, bạn đọc cũng đã nhận ra. Tôi cũng rất nể mấy vị cảm nhận. Sâu sắc và am tưởng. Khoa hạnh phúc hơn rất nhiều người viết khác, trong đó có cả tôi là có bạn đọc và có người chia sẻ. Nhận xét của Chu Nhạc rất mới, cũng là một phát hiện, mà không phải nhà nghiên cứu nào cũng nhìn ra. Ngay rất nhiều lời bàn, trong đó có không ít ý kiến đặc sắc, nhưng cũng không phải ai cũng có sự phát hiện như Chu Nhạc. Tiếc là viết vội, vì mới là cảm nhận, hứa hẹn đây sẽ là một tác phẩm phê bình hay. Tôi vẫn nói Chu Nhạc dồn tâm lực trí tuệ cho văn xuôi và phê bình, vì chú có tài, dấn lên là có sự nghiệp đặc sắc đấy”. Bình luận từ: Chử Thu Hằng (nhà thơ) [Blogger] [link=mailto:24.03.11@09:02/]24.03.11@09:02/[/link] “Chu Nhạc tiên sinh! Đảo chìm của anh Trần Đăng Khoa, Chử Thu Hằng chỉ lặng lẽ đọc vì không muốn "khen phò mã tốt áo"; nhưng đọc bài này của Tiên sinh, phải thốt lời thán phục. Thưởng văn phải như thế, rất riêng và chẳng cần phải nhiều lời. Cái Tầm của Tiên sinh đã làm cho Chử Thu Hằng nhiều lần phải ngưỡng mộ” Bình luận từ: Minh Tâm (PGS.TS,) [Bạn đọc] [link=mailto:24.03.11@18:20/]24.03.11@18:20/[/link] “Bài viết của ông Chu Nhạc rất hay. Tôi đã đọc Đảo Chìm mấy lần rồi. Tôi rất thích cuốn sách này, nhưng không thấy được rạch ròi như ông Chu Nhạc. Tôi là giảng viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I, cũng đã từng nghiên cứu thi pháp, bài viết của ông Nhạc là ứng dụng thi pháp rất nhuần nhuyễn. Tất nhiên, nếu ông mở rộng thêm thì sẽ rất hay”. Bình luận từ: Khách [Bạn đọc] [link=mailto:24.03.11@21:17/]24.03.11@21:17/[/link] “Từ một điểm nhìn cận cảnh, tác giả Trần Đăng Khoa (TĐK) đã xây dựng một không gian nghệ thuật thật đặc sắc: không gian hữu hạn - không gian vô hạn - không gian tâm tưởng. 3 loại không gian ấy có khi tách bạch nhưng có lúc lại đan cài, tạo nên một không gian nghệ thuật, hấp dẫn người đọc. Đó là thứ hiện thực lãng mạn, pha chút “Liêu trai“ Phương Đông. Phát hiện của anh rất hay! Em xin cóp bài này để tham khảo, phân tích thêm để bổ sung cho phần thực hành... Cảm ơn anh! Em rất hâm mộ TĐK, là người đang "gieo rắc" tác phẩm của anh ấy cho lũ trẻ. Giờ thì hâm mộ luôn cả người bình văn TĐK!” Bình luận từ: Vũ Trọng Trường [Bạn đọc] 26.03.11@03:47 / “Tôi đã đọc nhiều lần Đảo Chìm. Rất tâm đắc với lời bình của Chu Nhạc.... Lời bình của ông rất đanh,... Mấy hôm nay bọn họ đang gây sự ở Trường Sa bằng tuyên bố Biển Đông là của họ và cấm mọi hoạt động ở quần đảo này. Điều ông Khoa nói ở mấy dòng mở đầu đang thành hiện thực. Vì vậy càng thấy quý cuốn sách của Khoa và bài bình của ông Nhạc. Tôi sống ở Đức, rất xa đất nước nên càng biết ơn những trang viết của các ông để gần lại quê nhà.”. Còn nhiều lời bình khác của bạn đọc, trong nước, Việt kiều định cứ ở nước ngoài, một số nhà văn, nhà nghiên cứu văn học, nhân sĩ yêu nước bày tỏ sự quan tâm và ủng hộ chủ quyền biển đảo Việt Nam. Rồi PGS.TS Minh Tâm còn dẫn dụ, giới thiệu một bài viết khác bình cuốn Đảo Chìm (bài viết của nhà báo Nguyễn Lương Phán – VOV) để mọi ngươi cùng tham khảo thêm: “Bình luận từ: PGS. TS Minh Tâm [Bạn đọc] [link=mailto:26.03.11@23:13/]26.03.11@23:13/[/link] Nhân bài viết rất hay của Chu Nhạc về Đảo Chìm, tôi mò vào mạng xem thiên hạ nói gì về Đảo Chìm thì bắt gặp bài viết cũng rất công phu. Bài này không có tính thi pháp như Chu Nhạc nhưng được cái xúc cảm. Tôi cop về để bạn dọc tham khảo, càng thấy cái tài của Chu Nhạc trong việc dùng chữ...”. Vì bài viết đó khá dài nên không thể trích dẫn ra đây được. Thực lòng, khi được nhiều cao thủ làng văn đọc và bình khen, tôi cũng sinh ái ngại, tự hỏi, không biết bài phân tích của mình về tác phẩm Đảo Chìm của Trần Đăng Khoa có thật hay như người ta đã khen, song tôi nghĩ, chắc ít nhiều bổ ích cho bạn đọc ? Song có lẽ, cảm nhận khiến tôi suy nghĩ nhất, chính là của cựu thuyền trưởng Trần Trọng Trí, nguyên mẫu của nhân vật chính trị viên Thuận trong tiểu thuyết Đảo chìm: “Trần Trọng Trí [Bạn đọc] [link=mailto:19.03.11@22:14]19.03.11@22:14[/link] @ Nhà văn, nhà thơ Chu Nhạc. Bữa rày, ông Khoa đưa lại cái Đảo Chìm lên, tôi đọc lại và ngơ ngẩn suốt cả một chiều. Tôi vào mạng, tìm xem người ta bàn thế nào về cuốn sách này, thấy rôm rả lắm. Nhưng sách báo giấy thì chẳng có ai nhắc đến một dòng, cũng như văn chương Chu Nhạc vậy, ông có đến hơn chục cuốn sách rồi, bạn bè mạng bàn về ông rất hay, thế mà ngoài đời, nhiều người còn nhầm ông với người khác trùng tên mà viết nhạt toẹt... . Sáng nay, tôi và con gái qua Hà Nôi, có lên thăm ông Nhạc ông Khoa. Con bé (nhưng cũng là gái xề rồi), là nguyên mẫu, mà trong Đảo Chìm, ông Khoa gọi là Mộng Tương, nó cứ trách sao chú ấy ghét gì con mà đổi tên quê thế. Nhưng nó vẫn quý chú Khoa. Bữa nay chỉ mong được chụp ảnh với hai nhà thơ nổi tiếng, nhưng ông đi vắng, tôi lại cứ tưởng ông làm việc với Đoàn của Đức ở tầng 3. Nhưng không có. Ông Khoa cũng không đến cơ quan. Sáng mai tôi đi Lào thăm chú Tròn rồi chuyển gia đình về Yên Bái. Thôi già rồi thì theo con. Con gái tôi nó thích văn chương ông lắm. Nó bảo nó còn thích văn chú Nhạc hơn văn chú Khoa. Tôi nghĩ, có thể nó còn thù chú Khoa đã giễu nó trong Đảo Chìm. Chúc khỏe”. Đọc cảm nhận của Trần Trọng Trí, tôi cứ thẫn thờ với một linh cảm mơ hồ... Lại càng không ngờ, đấy có thể là những dòng cuối cùng ông để lại cho cộng đồng mạng Blog Tiếng Việt, và cũng là những dòng cuối cùng của ông trên cõi đời này... Bặt đi cả tháng trời, không thấy Trần Trọng Trí và các đàn em của ông (Tròn, Khánh) xuât hiện trên mạng. Tôi nghĩ, chắc mấy thấy trò gặp nhau, mảng vui sau bao ngày xa cách, nên có ý chờ đợi những câu chuyện của họ sau chuyến đi đầy vui thú này. Song không hiểu sao, sự vắng bóng của họ cứ khiến tôi phấp phỏng chẳng yên, và mơ hồ cảm thấy một điều gì đó không hay?... Quả nhiên, thật đột ngột, một buổi vào mạng Blog Tiếng Việt, tôi sững sờ không tin vào mắt mình khi đọc mấy dòng cảm nhận của người con gái ông, nguyên mẫu của Mộng Tương tiểu thư trong tiểu thuyết Đảo Chìm: “Bình luận từ: Trần Thu Hà [Bạn đọc] [link=mailto:23.04.11@23:24/]23.04.11@23:24/[/link] Chú Chu Nhạc kính mến! Cháu là Hà con gái bố Trần Trọng Trí. Bố cháu và chú Tròn đã mất vì tai nạn giao thông tại Thái Lan. Xe do chú Tròn lái. Chú Tròn mất tại chỗ. Còn bố cháu vào viện đến ngày thứ ba thì mất vì vết thưong quá nặng. Bố cháu mất đã nửa tháng rồi. Bố cháu rất quý chú và chú Khoa nên cháu báo để các chú biết. Nếu có gì đường đột mong chú tha lỗi. Cháu Hà”. Cả mạng Blog Tiếng Việt xôn xao, mọi người vào cảm nhận, bày tỏ sự thương tiếc ông và chia buồn với Trần Thu Hà cùng gia đình ông. Tôi chỉ trích ra đây vài ba cảm nhận...: “Trần Đăng Khoa [Bạn đọc] · http://Blogtiengviet.net/Lão Khoa 24.04.11@21:47@Trần Thu Hà.
Chú thực sự sửng sốt trước tin của bố cháu và chú Tròn, anh chàng Tư Xồm của chú. Sáng nay, chú đang ở Thái Bình thì chú Nhạc báo tin. Trước đó, chú cũng có một linh cảm không lành về bố cháu và chú Tròn. Trước đây, bố cháu và chú Tròn hay qua Xóm Lá và có những cảm nhận rất thú vị, vừa hóm, vừa thông minh, lại rất vui, đúng như tính bố cháu. Sự góp mặt của bố cháu và chú Tròn, làm Xóm lá sinh động hẳn. Thế rồi bẵng đi, không thấy bố cháu lại. Chú hỏi chú Nhạc. Chú Nhạc cũng chỉ nghĩ là bố cháu đi chơi rồi về. Chú Nhạc còn bàn với chú làm một chương trình truyền hình về bố cháu và chú Tròn. Chú cũng đã chuẩn bị. Vậy mà ai ngờ... Đây là một tổn thất không gì bù đắp được. Chú đau đớn chia sẻ nỗi đau thương này với mẹ cháu, chị em cháu. Lúc nào qua Hà Nội thì báo chú. Chú rất muốn được đón cháu như đón một người nhà thân thiết, xin chia sẻ nối đau này với cháu và gia đình”. Còn đây là cảm nhận của tôi: “nguyenchunhac [Bạn đọc] http://blogtiengviet.net/nguyenchunhac 24.04.11@07:23@ Trần Thu Hà/Trước hết, cho chú được chia buồn cùng cháu và gia đình, cùng bên gia đình chú Tròn. Chú rất đột ngột khi biêt tin này. Nhớ cách đây chừng hơn tháng. Bố cháu có tin cho chú là lên Hà Nội và vào thăm VOV nhưng chú lại đi công tác và chú Khoa cũng không đến cơ quan (vì ngày nghỉ). Bố cháu còn thông báo là đi Lào với Tròn chơi rồi về dọn nhà lên Yên Bái ở với gia đình nhà cháu. Vậy mà,... Chú và chú Khoa, và cả làng blog Tiếng Việt này, sẽ rất buồn vì bố cháu đã ra đi đột ngột. Mọi người sẽ không quên những dòng cảm nhận, những bài thơ sâu sắc và vui của bố cháu. Đối với Tròn cũng vậy. Có lẽ, chỉ có một an ủi duy nhất, bố cháu và chú Tròn, họ đã sống bên nhau những ngày gian khó ở Trường Sa, bây giờ họ lại đi cùng nhau. Có lẽ, họ luôn cần nhau, cháu ạ... Hà có thể cho chú hoặc chú Khoa biết điện thoại liên hệ, để khi có điều kiện, chú và chú Khoa cùng mọi người đến thắp cho bố cháu nén hương tưởng nhớ...”. Ngày 25/4/2011, tôi viết bài viết “Tưởng nhớ thuyền trưởng Trần Trọng Trí” trên trang cá nhân của mình. Hầu hết bạn bè trong Blog Tiếng Việt đều ghi cảm nhận, thương tiếc ông và người lính của ông, cựu thủy thủ Nguyễn Văn Tròn (Tròn Lùn), nhân vật Tư Xồm trong Đảo Chìm. Xin trích vài cảm nhận: Nhà thơ Bùi Thị Binh Bình luận từ: buithibinh [Blogger] 27.04.11@15:10/” ... Viết mấy vần thơ mộc mạc này tưởng nhớ đến Anh Trần trọng Trí và Anh Nguyễn Văn Tròn. “Đảo chìm” em mới đọc lần đầu/ Cái khóc, cái cười cứ quyện nhau/ Mong gặp Lão Khoa cùng nhân vật/ “Xóm lá mình mà … chắc chả lâu”/ Bao nhiêu cảm nhận của “hai Nhà”/ Đọc đi, đọc lại quá xót xa/ Ước muốn không thể thành sự thật/ Để được mời Anh: Một chén trà./ Anh mất rồi sao "Anh Thuận"ơi/ Tác phẩm “ Đảo Chìm” vẫn để đời/ Cái danh Trọng Trí còn mãi mãi/ Trong lòng bè bạn … khắp mọi nơi/ Cuộc đời như một chuyến rong chơi/ Thủ trưởng, nhân viên đã hẹn rồi/ Về nơi cực lạc đừng quên nhé/ Nghĩa tình “mạng ảo” chẳng xa xôi”. Ai những tưởng, gặp nhau ngoài đời nào có khó gì đâu, khi đã giao lưu mạng ảo, khi biết địa chỉ và cách nhau cũng không xa. Song không, như người đời vẫn bảo “vạn sự tùy duyên” hẳn không sai, trời không cho duyên gặp thì tưởng gặp nhau trong gang tấc, hóa vẫn không. Bằng chứng, Trần Trọng Trí đã hai lần đến cơ quan chúng tôi (Đài Tiếng nói Việt Nam), ở đây, ông gặp người này người nọ, nhưng cả hai lần, những người ông muốn gặp (Trần Đăng Khoa và tôi) thì cả hai chúng tôi đều công tác vắng. Kể cả vậy, ông vẫn tự tin là gặp nhau không khó, định bụng sau chuyến ông vào Quảng Bình thăm Tròn Lùn và các đồng đội khác và sang Lào chơi, thì ông Giời lại bắt ông đi luôn một mach, đi mãi sang thế giới khác.... Cái “những tưởng” ấy cũng có trong suy nghĩ của nhà văn Trần Hồng Giang, một người phải ngồi xe lăn, đi lại khó khăn, người cùng sống ở quê Nghĩa Hưng (Nam Định) với ông: “Bình luận từ: tranhonggiang [Blogger] [link=mailto:25.04.11@21:33/]25.04.11@21:33/[/link] Bất ngờ quá anh Nhạc ơi!. Em đọc "Đảo chìm" của anh Trần Đăng Khoa ngay từ lần xuất bản đầu tiên. Với lòng yêu mến và cảm phục những người lính đảo đến khôn cùng. Vậy nhưng đến vừa rồi qua blog của các anh thì em mới biết là bác Trí nguyên mẫu trong "Đảo chìm" là đồng hương Nghĩa Hưng với em. Biết được thông tin này, em đã rất vui mừng, em đã nhờ một người bạn ở thị trấn Liễu Đề, liên lạc với bác Trí để một lúc nào đó có thể gặp gỡ. Em hy vọng khi gặp được bác ấy thì sẽ viết một cái gì đó về một con người mà mình ngưỡng mộ. Thế mà... Cuộc đời này sao lại có những thực tế phũ phàng như thế chứ!”. Cả tôi và nhà thơ Trần Đăng Khoa đều nhắn trên trang của mình ở mạng Blog Tiếng Việt, mong một ngày nào đó Trần Thu Hà, cô con gái rượu của cựu thuyền trưởng Trần Trọng Trí đọc được, để lại lời nhắn, hay số điện thoại liên lạc, hay địa chỉ nhà cô để chúng tôi có manh mối tìm gặp. Song không, cho đến nay đã hơn chục năm trôi qua, hai chúng tôi vẫn không biết Trần Thu Hà hiện ở đâu. Chỉ có chút manh mối, ấy là trước khi đi Quảng Bình và Lào cùng Nguyễn Văn Tròn, Trần Trọng Trí đã hé lộ chút ít, ấy là dự dịnh của vợ chồng ông sẽ thu dọn rời Nghĩa Hưng lên Yên Bái sống chung với cô con gái rượu của họ. Thế nhưng, Yên Bái rộng bao la, ở đâu cụ thể nào ai biết. Hay chăng, thử về thị trấn Liễu Đề (Nghĩa Hưng, Nam Đinh) hỏi dò dân ở đấy xem gia đình ông, vị đại tá, cựu thuyền trưởng tàu HQ 05 Trưởng Sa, ông thợ cắt tóc phố huyện, còn sống ở đấy, hay đã chuyển đi đâu, có lên Yên bái không và cụ thể địa chỉ nhà, số điện thoại liên lạc?... May ra, hy vọng. Song thú thực, việc này thì giờ này chúng tôi vẫn chưa làm được,... Thật có lỗi với ông. Có nhiều đồ đoán về nguyên nhân vụ tai nạn ô tô của họ khi Tròn Lùn tự lái xe của mình đưa thủ trưởng cũ qua Lào sang Thái Lan chơi. Song cá nhân, tôi đã từng ngồi xe hơi đi trên đất Thái Lan nên biết luật giao thông của họ giống kiểu Anh, Hồng-kông, Nhật bản, khác phần lớn các quốc gia khác là ngược lại, đi trái về phải, do đó người lá xe tay lái thuận, nếu không quen sẽ nhãng quên lao sang làn đường ngược chiều. Đấy là suy luận vậy thôi. Có một sự thật, mạng Blog Tiếng Việt sau khi họ vắng bóng thì kém sôi động, trầm lắng hẳn đi, và mấy năm sau, do trục trặc kỹ thuật, nền tảng lưu trữ kém, các bloger bị mất bài, rời bỏ đi nơi khác. Blog Tiếng Việt vắng như chùa Bà Đanh. Giờ nền tảng kỹ thuật mạng này có khá lên, song không khí thì vắng lặng. Thời vàng son đã qua, khó bề cứu vãn. May mắn thay, phần bài viết và những cảm nhận liên quan đến cựu thuyền trưởng Trần Trọng Trí và cánh lính của ông vẫn còn, để giờ đây tôi có thể tra cứu, trích dẫn, lưu giữ,... Những gì họ để lại trên trang blog của tôi, thì đã trích nêu trong phần đầu bài viết này rồi, còn những gì trên trang cá nhân của nhà thơ Trần Đăng Khoa, hẳn là còn nhiều, nhưng trong cuốn sách Đảo Chìm - Trường Sa của mình, nhà thơ chỉ trích chút ít. Tôi cũng trích lại đây cảm nhận (comment) của Trần Trọng Trí, xem như cái cớ đề bàn thêm về ông và các đồng đội của ông: “Đã lâu rồi, tôi tưởng không còn nước mắt nữa. Lòng ngỡ chai lỳ. Tôi hay vào trang Blog Tiếng Việt chọc ghẹo mọi người cho vui. Nay đọc lại cuốn sách về Trường Sa, tôi đã khóc. Cảm ơn Trần Đăng Khoa. Con gái tôi, cháu Trần Thị Thu Hà mà ông Khoa gọi là Trần Thị Mộng Tương, nay đã 37 tuổi (thời điểm đó), có hai con gái. Cháu ngoại tôi đã học lớp 12, cháu đọc chuyện này, thoạt đầu cười, sau thì khóc. Nó không biết đấy là chuyện bác Khoa viết về ông nó, mẹ nó. Tôi tìm cuốn sách này mà không biết tìm ở đâu. Dẫu sao vẫn muốn có cuốn sách, hơn là mỗi khi đọc phải mở máy tính. Tôi lên Google và thấy thiên hạ bàn về cuốn sách này rất vui trên trang của nhà văn Xuân Đức... Tôi sẽ đến thăm ông Nhạc (Nguyễn Chu Nhạc-Đài Tiếng nói Việt nam), ông Khoa. Lâu rồi, không gặp”... Tâm thế trong cảm nhận này của Trần Trọng Trí, thực ra, cũng như những cảm nhận khác của ông trên trang blog của tôi, khác chăng ở một vài chi tiết riêng tư. Ờ vào thời điểm ấy, tôi đọc lại các cảm nhận của Trần Trọng Trí, nhận thấy ông đang ở trạng thái thăng hoa, mộng mị, sa lầy trong mớ hồi ức của mình. Những trang viết của chúng tôi và cảm xúc của mọi người, đặc biệt là các đồng đội cũ của ông, vô tình đánh thức mọi tế bào thần kinh trong con người vị đại tá (lương tướng), cựu sĩ quan, người hùng biển đảo một thời, đã về vườn, trong vai ông thợ cắt tóc phố huyện... Dòng ký ức và cả những ẩn ức một thời bùng phát, tuôn chảy như núi lửa phun trào, không biết bao giờ thôi. Trần Trọng Trí như người lên cơn sốt, đến mê sảng, không thể thoát ra, hay đúng hơn là không muốn thoát ra khỏi cơn mê giăng mắc, bủa vây tâm trí ông... Tôi xin lỗi đã kể hơi dài về Thuyền trưởng Trí, bởi ông là một nhân vật chính của cuốn Đảo chìm, chúng ta cũng nên biết kỹ về ông ở ngoài đời thực. Sở dĩ, ngày ấy, Thày trò Trí -Tròn nổi bật như nhân vật trung tâm của mạng xã hội Blog Tiếng Việt, là bởi họ gắn với một chủ đề nóng bỏng, ấy là cuộc chiến bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam mà phần lớn người dân xứ ta đều quan tâm; khi mà, họ là nguyên mẫu các nhân vật chính trong tiểu thuyết Đảo Chìm của nhà thơ Trần Đăng Khoa. Trường Sa, Hoàng Sa và rộng ra là Biển Đông chưa bao giờ vơi nóng, bởi nguyên nhân chính là quan điểm, thái độ và cách ứng xử của nước lớn không phù hợp với luật pháp quốc tế về chủ quyên biển đảo trong các nước khu vực, nói chung. Sự tham góp của họ (cựu thuyền trưởng Trần Trọng Trí và các cựu thủy thủ Nguyễn Văn Tròn, Lê Văn Khánh...), cùng tác giả cuốn sách-nhà thơ Trần Đăng Khoa và rất nhiều các bậc nhân sĩ, nhà văn, nhà nghiên cứu văn học, người lính, bạn đọc nói chung với các câu chuyện thật ngoài đời liên quan dến cuốn sách, vô hình chung đã biến tác phẩm Đảo Chìm như một sân khấu lớn, đại cảnh, lớp lang chính phụ, đầy bi hài,... Ta cùng thử hình dung, Đảo Chìm như một tác phẩm Sân khấu thì sẽ thế nào nhỉ? Song trước khi nhìn tiểu thuyết Đảo Chìm như một Sân khấu lớn, xin trở lại với không gian tiểu thuyết mà tôi đã nhận thức và nêu ra trong bài viết có tên Đảo Chìm, nghệ thuật tạo dựng không gian truyện. Ở đó, tôi phát hiện sự tài tình của tác giả trong việc tạo dựng nên ba không gian đồng thời để kể câu chuyện của mình. Ấy là không gian hữu hạn. bao gồm “cái lều bạt” chung chiêng trên thềm san hô, là con tàu loanh quanh trong khu vực của mình, được xem là hòn đảo nổi; ấy còn là không gian vô hạn với mênh mông trời nước, lúc hiền dịu mộng mơ, lúc lặng thinh bí hiểm, lúc cuồng điên dữ dội đầy bất trắc; và nữa, một không gian tâm tưởng chỉ tồn tại trong ý nghĩ của mỗi nhân vật. Ba không gian ấy khi tách bạch, khi xâm lấn nhau, khi đồng dạng phối cảnh,... Và trong bối cảnh như vậy, tất thảy nhân vật, con người (từ chàng lính quèn đến vị Tư lệnh), con vật (chim biển, cá mập, con lợn), vật dụng (lều bạt, tư trang quần áo, cuốc xẻng, lưới câu, vũ khi, con tàu...) đều sống động, có hồn, suy nghĩ, hành xử theo logic của mình.... Chính nhờ tạo dựng một không gian nghệ thuật như vậy nên mọi ý nghĩ, hành động, tính cách nhân vật, tình huống, tình tiết truyện (có khi phi lý) đều chấp nhận được và trở nên có lý có tình,... Một sự hỗn mang như mê sảng. Chim biển, cá mập thì như người, như ma quái, con lợn cũng như người, lại như yêu tinh; còn con người thì “nhanh chóng mất hơi người”, có lúc như chim, như cá, lại có khi như lợn, như người nguyên thủy (nhân vật Hai Ùm hay cởi truồng)... và có khi chỉ là “một chiếc linh hồn nhỏ” (phần kết, Hai Ùm chết, hồn như nhập vào một con chim biển khổng lồ, dáng gù gù trong lều bạt, khiến đồng đội vừa mừng vừa sợ tưởng anh sống lại).... Và cũng chính việc tạo dựng nên một không gian nghệ thuật như vậy, mà tác phẩm Đảo Chìm không giống hiện sinh kiều phương Tây, cũng chẳng “hiện thực huyền ảo” kiểu Mỹ-la-tinh, mà nó là hiện thực lãng mạn pha chút “Liêu trai” phương Đông... Giờ thì ta cùng nhìn nhận Đào Chìm ở phương diện sân khấu với các màn chính kịch, màn phụ theo lớp lang của nó. Dĩ nhiên, người chính trị viên tên Thuận, các thủy thủ tên gọi Hai Ùm, Tư Xồm cùng các đồng ngũ của mình trên con tàu HQ và trên đảo, thêm vị Tư lênh binh chủng nữa, đều là những nhân vật chính. Tác giả cuốn sách, nhà thơ Trần Đăng Khoa là người dẫn chuyện. Vậy là đủ vai? Không. Còn thiếu một vai, ấy là vai Hề, con lợn An-ta-ra-mê-na. Chớ quên, chỉ là vai phụ thôi, nhưng vai diễn này vô cùng quan trọng Thiết nghĩ, hãy khoan bàn về con lợn An-ta-ra-mê-na với tư cách vai Hề, trước hết, xem vai trò của Hề trong sân khấu truyền thống ra sao? Với góc nhìn từ vai Hề ở sân khấu chèo (có thể mở rộng cho vai Hề trên sân khấu truyền thống nói chung), nói đến vai Hề, người ta thường nghĩ đến một nhân vật luôn mang lại tiếng cười cho người xem. Dù chỉ là một vai diễn mang tính chất phụ họa cho những lớp bối cảnh chính, nhưng không thể phủ nhận tầm quan trọng và đặc biệt là cái hồn của vai diễn, bởi trong tiếng cười chính là sự sâu lắng, phản ánh rõ nét nhất cuộc sống qua tạo hình đặc biệt của một vai diễn trên sân khấu. Khái niệm là vậy, giờ ta thử lấy lăng kính Hề sân khấu soi chiếu vào con lợn An-ta-ra-mê-na trong Đảo Chìm xem sao? Con lợn tinh ranh, bắng nhắng, hay làm trò cho lính cười. Ả ta (lợn cái) được mọi người quan tâm, cho diện váy áo mớ ba mớ bảy lòe loẹt trong khi các chàng lính mình thì trần như nhộng đóng mỗi chiếc quần cộc, thậm chí chẳng mặc gì; đến thứ quý nhất là nước ngọt thì tiêu chuẩn hàng ngày của ả ta cũng gấp đôi của lính. Bi hài nhất, là mỗi khi đến chu kỳ động dục, ả ta tăng động, ngoe nguẩy chìa bộ phận giống cái ướt nhẹp đỏ hỏn của mình vào mặt đám lính thủy... Chẳng thế mà, từng có một nữ nhà văn tầm cỡ, trong một lần mạn đàm với nhà thơ Trần Đăng Khoa đã bày tỏ ý định táo bạo, rằng nếu cô ấy là tác giả thì sẽ đảy chi tiết này đến tận cùng (nghĩa là cho đám lính thủy trong cơn khát thèm đàn bà lâu ngày, không kiềm chế nổi bản thể, làm cái chuyện đực cái với nàng lợn An-ta-ra-mê-na). Tất nhiên nhà thơ rất tỉnh táo, chẳng bao giờ nghe ai đó “xui dại” như thế. Ông chỉ bảo, ý nghĩ của người đời kinh thật. Song quả thật, nhà thơ Trần Đăng Khoa ít nhiều cũng băn khoăn về số phần của vai Hề này, từng tự hỏi, mình có nên chỉnh sửa đôi chút phần kết của tác phẩm Đảo Chìm, khi có độc giả bày tỏ thắc mắc, rằng liệu tác giả có bỏ quên con lợn An-ta-na-mê-ra hay không, mà cuối truyện chẳng thấy nó đâu,... Vậy thì nó biến đi đâu mất, số phận nó ra sao sau cái chết của Hai Ùm? Tôi nghĩ, bạn đọc đòi hỏi không sai, song cũng không cần phải giải quyết chi cả, bởi nó là vai Hề cơ mà. Hề chỉ là vai phụ, Hề xuất hiện để kết nối và sâu chuỗi các phần chính kịch với nhau thành một chỉnh thể lo-gic, xét về cấu trúc; còn về biểu hiện thì sự ra mắt của Hề là để làm trò, gây cười, dù là cười vui vẻ sảng khoái, cười chảy nước mắt, hay cười để nuốt nỗi buồn đau vào tận đáy lòng,...và hơn nữa, thâm chí để nói những điều mà tác giả không thể nói được trong vai trò người dẫn chuyện, mà cũng không thể gửi gắm vào các nhân vật chính kịch. Hoàn thành các việc này, là Hề tròn vai, hết chuyện, cần chi đẩy số phận vai phụ đến tận cùng. Lẽ di nhiên, trong câu chuyện và văn cảnh cụ thể, Hề ta có số phận thì cũng hay. Ở đây, còn bởi, cái kết của tác phẩm Đảo Chìm rất đắt, rất đắc địa rồi, đó là cái chết của nhân vật Hai Ùm, ám ảnh và lay động tâm can, lay động trời biển. Chẳng ai có thể quên nổi, hình ảnh con chim biển khổng lồ đứng trước cửa lều bạt dáng gù gù hệt Hai Ùm vì như hồn chàng lính thủy này nhập vào, khiến đồng đội vửa sợ vừa mừng tưởng anh sống lại ... Một cái kết bi tráng, cô đọng, giàu biểu đạt như đúc tượng vậy, thử hỏi còn có gì tuyệt hơn, cần chi mà phải bàn thêm về số phận con lợn Hề cho dài dòng văn tư. Ta cùng đọc lại vài dòng kết này để thấm nỗi bi tráng: “Thế là lại thêm một người lính nữa chết ở Đảo Chìm, người đó tại sao không phải tôi, mà lại là Hai, con cá kình của đảo? Cầu mong trước khi nước khép mặt, Hai được thấy cánh chim hải âu. (Ở đây, tôi xin được mở ngoặc, bởi đó là chi tiết rất đắt. Hải Âu thường chỉ bay ở ven bờ, cách đất liền chừng hơn trăm cây số. Ngoài đại dương không có Hải Âu. Vì thế với lính biển, Hải Âu là tín hiệu báo đất liên. Và trước đó Trần Đăng Khoa cũng đã bàn về cái chết dữ dội của những người lính biển. Dù chết vẫn không được yên. Dẫu chỉ còn một mảnh xương tàn thì mảnh xương đó vẫn đêm ngày phải vật lộn với sóng gió. Cho nên, chi tiết ước gì trước khi nước khép mặt Hai được nhìn thấy bóng chim Hải Âu, ấy là niềm ước vọng mong manh có thể mảnh xương của mình sẽ được sóng đẩy vào đất liên). Tôi bỗng thấy chóng mặt. Chính trị viên Thuận vội chạy tới đỡ lấy vai tôi. Tôi níu tay Tư. Còn Tư ôm lấy cột lều. Sóng vẫn hắt qua mấy khung giường sắt, phủ lên đầu chúng tôi từng đợt nước mặn chất. Lần đầu tiên, tôi mới hiểu vì sao nước biển lại mặn đến thế. Và có lẽ không ở đâu nước biển mặn như ở Đảo Chìm. Mặn như máu...”. Hàm súc, ấn tượng như một triết lý, dư ba, mà gợi mở ra vô tận,... Nhân đây, bạn đọc nên biết một bí mật về ả lợn Hề An-ta-ra-mê-na này. Thực tế, ngày ấy, ngoài Trường Sa, đặc biệt là Đảo Chìm, chẳng có một chú lợn nào cả. Tác giả, nhà thơ Trần Đăng Khoa đã hư cấu, tạo nên một ả lợn bắng nhắng vui nhộn làm trò cười cho lính, trên cơ sở một con chó khoang có thật. Theo cánh lính Trường Sa commen kể lại, và theo dõi cuộc trò chuyện trên mạng xã hội Blog Tiếng Việt (đã trích ở phần trước) giữa nhà thơ Trần Đăng Khoa với cựu thuyền trưởng Trần Trọng Trí (nguyên mẫu nhân vật chính trị viên Thuận) cùng các cựu lính thủy Nguyễn Văn Tròn, (nguyên mẫu Tư Xồm), Lê Văn Khánh, thì lúc ấy ở đảo, họ có nuôi một con chó khoang được goi tên Ái Vân (cánh lính đảo thích lấy tên của một nữ ca sĩ xinh đẹp nổi tiếng một thời đặt tên cho con chó của họ. Đây là sự trân trọng yêu mến thực sự của cánh lính đảo, chứ không phải giễu cợt hay thóa mạ), và rồi trong lần đón tiếp vị Tư lệnh binh chủng thị sát đảo, họ đã lấy cớ thiết đãi ông rồi làm thịt. Và nếu như, chỉ có thế thôi thì quả là “chó chết hết chuyện”, nên nhà thơ đã rất sáng tạo khi chế ra một ả lợn tên gọi An-ta-ra-mê-na quyền năng như phù thủy, tinh ranh như yêu tinh, hoạt náo vui nhộn như tên Hề sân khấu. Chó khôn và tình nghĩa là đương nhiên (“khuyển mã chi tình”), nhưng lợn khôn mới khó và lạ chứ (người đời vẫn quen bảo “ngu như lợn”mà). Ấy vậy, ả lợn An-ta-ra-mê-na này lại tinh khôn đến bất ngờ, có cá tính hẳn hoi, và như thế nó xứng đáng là một “nhân vật đặc biệt”. Bí mật của vai Hề này là thế đó. Và theo tôi, ả lơn này không những góp phần tạo bầu không khí sinh động cho câu chuyện của những người lính biển, đồng thời nó cũng đóng vai trò quan trọng làm nên chất uy-mua và bi tráng cho cả thiên truyện. Có điều này, mỗi khi nghĩ về tiểu thuyết Đảo Chìm của Trần Đăng Khoa, tôi lại nghĩ đến hai tiểu thuyết ngắn khác, đó là “Ông già và biển cả” của Ernest Hemingway và “Trên mảnh đất người đời” của Anatoli Stepanovich Ivanov. Theo tôi, ba tiểu thuyết ngắn này ít nhiều có độ tương đồng, về số lượng từ, về độ hàm súc của ngôn ngữ và tính biểu đạt hình tượng. Nếu như, ở “Ông già và biển cả” người ta thấy được sự cô đơn của con người giữa thiên nhiên và dù con người có cố gắng đến mức nào cũng nhiều khi trở nên vô nghĩa; Và ở “Trên mảnh đất người dời” người ta nhận ra một chân lý khác, ấy là dù có bị vây hãm trong tình yêu, sự dượt đuổi của người trả thù giấu mặt trong sự kinh hãi của kẻ chạy trốn, sự ghê tởm và lòng hận thù tột độ thì đến một lúc nào đó lại có thể tha thứ và coi đấy là cách trả thù còn kinh khủng hơn,... Về không gian tiểu thuyết, hai cuốn này đơn tuyến, nặng về chất tự sự, giàu nội tâm... Còn ở Đảo Chìm, không gian truyện phức tạp hơn nhiều, dù lượng chữ rất mỏng, con người ta sống trong một trật tự tưởng vô cùng nghiêm ngặt song lại như một thế giới tự do tự tại, nhưng ngặt thay, là con người tự khép mình trong sự cố kết bởi ý thức trách nhiệm và niềm tự hào vì một tương lai mù mịt vời vợi phía chân trời... Với nội hàm như vậy, chất hoạt kê và bi tráng của Đảo Chìm mà tác giả đã lựa chọn, là rất thích hợp và độc đáo. Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn Lê Lựu, một người rất khó tính về nghề, đã cho rằng Đảo Chìm là thần bút. Còn tôi thì coi đó là một kiệt tác... Hà Nội, tháng 5/ 2023
Lang vườn
Truyện ngắn của Nguyễn Chu Nhạc Dân trong làng, trong xã, trong vùng gọi ông là lang vườn. Tự thân mình, ông cũng nhận vậy. Khi có một người bệnh nào đó tìm đến nhà ông, rụt rè, kính cẩn, pha chút nịnh nọt mà thưa rằng: “Chúng con nghe tin đồn cụ tài như Biển Thước, Hoa Đà sống lại…”, thì lập tức ông nghiêm nét mặt, giọng hơi giễu cợt đáp lễ “Không! Chúng tôi đây chỉ là lang vườn, lúc nhỡ nhàng thì giúp bà con hàng xóm chữa cảm mạo, vặt vãnh mà thôi…”. Theo cách nói năng cẩn trọng của giáo lý y học, không bao giờ ông dùng tôi, mà dùng chúng tôi khi tiếp xúc với người bệnh. Dường như ông sợ nói tôi thì ông thành người thiếu khiêm tốn hoặc là những chẩn đoán của ông thành võ đoán. Sinh ra không gặp thời, ông lang Đạt những lúc quá chén, hứng khởi, vẫn thường nói về mình như thế. Giá trời đất cho ông có mặt trên cõi đời này sớm hơn chút nữa, thì với cái nền Nho học sẵn có của gia đình và dòng họ, cộng thêm bản tính thông minh và chịu khó, lều chõng thi cử, biết đâu ông chẳng đỗ đạt, giữ một chức quan nho nhỏ, lấy cái danh cho thân mình và làng xóm. Còn muộn thêm chút nữa thì có thể ông sẽ có được cái bằng tú tài Tây, làm ông ký, ông phán, kiếm tiền xây nhà lầu, mua xe hơi thì cũng nhàn cái thân. Đằng này, trời đất lại đặt ông vào cái thời buổi dở dang. Ngày nhỏ ông học chữ Hán, chịu khó lắm, nên chữ viết rất đẹp. Cha ông rèn ông nghiêm khắc. Hễ có việc đi đâu vắng nhà, cụ thường lấy son viết chữ vào bàn chân ông, bắt ông ngồi học, khi về kiểm tra xem nếu thấy chữ son ở gan bàn chân mờ thì đánh tan xương nát thịt. Ngặt thay, đúng vào thời điểm đó, chữ Hán mất dần vị thế, con nhà danh giá giàu có đua nhau học chữ Tây. Theo dòng thời cuộc, ông chiều ý cha ra Hà Nội học chữ Tây, nhưng rồi được hơn một năm thì ông bỏ. Theo ông thì đó là một thứ ngôn ngữ nông choèn, làm sao ý tại ngôn ngoại được như chữ Hán. Thế là con đường học vấn để tìm công danh của ông bị khép lại. Khi đó, ông nghĩ “tên mình là Đạt, chẳng lẽ lại chịu làm anh trọc phú sao?”. Và rồi, ông chọn cho mình một con đường mà theo ông cho là trung dung, nghĩa là ông theo nghề thuốc, chữa bệnh cho người. Thôi, thì nho, y, lý, số là cái chuẩn của các bậc trí giả xưa, không giỏi cả, biết một vài thứ cũng là tốt rồi, chí ít là lập được thân, thêm nữa cũng không hổ danh con nhà gia giáo. Theo nghề y song thực lòng mà nói, ông lang Đạt chỉ ở dạng thường thường bậc trung mà thôi. Phụ cho một thầy lang không mấy giỏi, học lỏm được chừng nào hay chừng ấy, rồi tự tìm sách mày mò thêm mà thành nghề, ông lang Đạt biết mình lắm chứ. Mới lại cho hay, làm nghề gì cũng phải có khiếu. Được cái, ở làng quê, xa thành thị mà nền Tây y lúc ấy còn ngặt nghèo, khó khăn nên đôi khi, ông trở thành đấng tái sinh, cứu thế của những người dân nghèo bệnh tật. Cũng vì thế, ở trong làng xã, thậm chí cả một vùng, người dân nhắc đến tên ông và gia đình ông với sự nể trọng. Có một điều không may làm thay đổi cả quãng đời còn lại của ông là, vợ ông sau chưa đầy hai chục năm sinh sống với ông đã sớm qua đời vì một căn bệnh hiểm nghèo, để lại cho ông những bảy đứa con. Dao sắc không gọt được chuôi, câu này thật đúng với cảnh ngộ của ông, làm thầy thuốc chữa bệnh cho thiên hạ mà vợ mình thì không cứu nổi. Biết được nỗi khổ tâm của ông, trước khi nhắm mắt, vợ ông đầm đìa nước mắt, nói với ông rằng: “Tôi biết thầy em đau lòng lắm, nhưng ở đời người ta chỉ chữa bệnh, nào ai chữa được mệnh đâu. Trời cho tôi với thầy em được đầu gối tay ấm có thế thôi… Tôi biết thầy em còn khỏe, lại chưa già, sau này thầy em đừng câu nệ gì, cứ tục huyền… Chỉ có điều, chọn người nào ăn ở có nhân, có đức thì các con chúng được phận nhờ!”. Ông nhớ lắm. Vì thế mãi dăm năm sau, ông mới cưới vợ kế. Bà Yên, vợ kế ông, người làng bên, con nhà nền nếp tử tế. Lúc còn con gái, bà đẹp nổi tiếng trong vùng, vì thế mới có mười ba tuổi đã có đám con nhà giàu có dạm hỏi, về làm dâu nhà người hơn chục năm được hai mụn con, một gái và một trai nhưng không may là cậu con trai được ba tuổi thì bị đậu mùa chết yểu. Một năm sai, khi vừa tròn hay bảy tuổi, người chồng lại bị cảm nhập tâm mà qua đời. Sau hai cái tang liên tiếp, người làng ngỡ bà Yên suy sụp, nhưng rồi đau thương dần qua, sức trẻ vực bà dậy, bà đẹp hơn hồi con gái nhiều lắm. Khi nhận lời lấy kế ông lang Đạt thì bà Yên đã ngoài ba mươi. Người tầm trước, đậm đà, da dẻ trắng hồng, mái tóc mây dày và đen nhánh, khuôn mặt đẹp hơi u hoài, đôi mắt lúc nào cũng như vừa mới khóc, nhưng cái miệng lại tươi thắm khi nói cười, bà Yên quả là báu vật trời cho ông lang Đạt. Là người hiểu bốc dịch, ông biết bà Yên là người tốt nhưng đa đoan, người như vậy sẽ khổ, song ông không thể cầm lòng được. Vả lại, chẳng lẽ để người như vậy chết già, bà Yên đã từ chối nhiều đám mà chỉ ưng khi ông ngỏ lời. Khi ấy, xóm làng đều thấy rằng cặp “trai tài gái sắc” ấy lấy nhau là phải, thậm chí người ta còn cho rằng đáng lẽ họ phải lấy nhau lúc trẻ cơ, song lại có không ít lời đàm tiếu, đại loại như “gái hai con thì mòn cả hai con mắt, sức ông Đạt kham sao nổi, cứ là khô kiệt đi”, hoặc “con anh, con tôi, con chúng mình, cái nhà ấy rồi sẽ rối lên như canh hẹ”… Nghe các lời ấy, ông lang Đạt không phải là không ngẫm nghĩ. Là thầy lang, biết thuốc, hiểu luật âm dương ngũ hành, ông không lo sẽ không kham nổi bà, nhưng xem ra quản lý cái đám con cái thì cực nhọc thật. Cái điều ấy đến ngay theo chân ông bà. Bà Yên mang theo cô con gái riêng về nhà chồng, cộng thêm bảy đứa con riêng của ông lang Đạt là tám. Còn chưa hết, hơn một năm sau, bà Yên sinh hạ cho ông lang Đạt thêm mụn con gái. Cũng may là ông lang Đạt bản tính nghiêm khắc, phân minh, sống có nguyên tắc và rèn con rất kỹ, thêm vào, bà Yên khéo léo và tốt nhịn, nên mọi chuyện không đến nỗi nào. Tuy nhiên, không phải là không có chuyện chành chọe giữa đám trẻ. Cô con gái riêng của bà Yên xinh xắn, sắc nét như mẹ nhưng tính tình lại khá chanh chua, đỏng đảnh, cho nên mọi chuyện bất hòa giữa bọn trẻ thường bắt đầu từ đấy. Còn ông lang Đạt thì tuy nghiêm khắc và nguyên tắc với con cái, khốn nỗi con bé hay gây sự lại không phải con ông. Có những lần ông nổi cáu, quyết mang khuôn phép nhà mình rèn con bé thì bà Yên lại rơm rớm nước mắt, bảo: “Em xin mình!... Con bé hư là do em không biết dạy con, em là người có lỗi. Thầy em để em dần dà bảo ban con bé thêm. Có giận gì thì thầy em cứ đánh cứ mắng em đây. Em xin chịu hết mà không dám ca thán!...”. Khi đó thì chiếc roi ông dơ lên, hoặc ngưng sững nửa chừng, hoặc rơi xuống đất, hoặc quất vun vút vào không khí, và ông bỏ đi nằm, nén nuốt giận dữ vào trong lòng, còn bà Yên thì cứ quỳ mãi mà tức tưởi, và đứa con riêng của bà thì môi bặm lại, mắt ráo hoảnh… Khi mấy đứa con lớn có gia thất, hoặc gả chồng đi nơi khác, ông lang Đạt nhường lại ngôi nhà ngói năm gian của bức bàn cổ cho anh con trưởng cai quản, ông ra rẻo đất gần sông, dựng căn nhà nhỏ; tường đất mái rạ, ở cùng bà Yên, đứa con chung, đứa con riêng của bà Yên và mấy đứa nhỏ con riêng của ông. Cảnh nhà tuy thanh đạm nhưng được cái gánh nặng về con cái nhẹ đi. Yên được chuyện này thì chuyện khác lại đến. Cả nghĩ và cẩn trọng nên ông lang Đạt cứ hay lo xa. Số là cô con gái riêng của bà Yên cỡ chạc tuổi một thằng con trai riêng của ông. Cậu này bảnh trai, sống nhường nhịn và kín đáo, thương và hợp với ông nhất nhà. Khi đó, cô con riêng của bà Yên đẹp rờ rỡ, lại khá lẳng lơ. Nước này, cậu chàng dễ bị cô nàng chài cho. Thiên hạ đã chẳng hiếm gì chuyện “con anh lấy con tôi”. Ngộ nhỡ có chuyện ấy, âm thầm thì con đỡ, chứ không lại tiếng để đời. Mà ông lang Đạt thì không muốn gia đình mình có tì vết gì làm trò cười cho thiên hạ. Đã có lần, tình cờ ông lang Đạt bắt gặp cảnh cô con gái riêng của vợ giã gạo một mình, nóng quá cởi bớt áo chỉ mặc độc có chiếc áo lót mỏng tang, khiến cậu con trai của ông đang múc nước giếng tưới cây đã bỏ dở lén đến đứng đằng sau, giã gạo đôi với cô. Đang thuyền tán thuốc, ông sững người, nếu không kịp nén thì đã xông ra, tách chúng xa nhau. Đêm ấy, ông định làm giận, nằm quay lưng lại vợ, nhưng bà Yên lại quyến rũ, chủ động nên ông không đành… Ngoảnh mặt lại gặp một cơ thể hừng hực sức sống, ông quên hết và đốt cháy mình, sẵn sàng chấp nhận thành tro bụi, không giận hờn, không giáo lý y học và âm dương ngũ hành, không trời đất… Ông lang Đạt lửng dửng cả tuần lễ. Không buồn vui, không lo lắng, bước đi thập thõm, vật vờ như một chiếc bóng. May mà cả thời gian ấy không có con bệnh đến bắt mạch, xin kê đơn. Nếu không thì có viện đến cả Biển Thước, Hoa Đà thì ông cũng sẵn sàng cho tất cả các con bệnh uống chung một thang thuốc bổ. Và rồi cái điều lo lắng mà ông định bày tỏ với vợ bỗng nhiên biến mất, khi cậu con trai ông đột ngột tuyên bố với cả nhà, rằng cậu ta chuẩn bị nhập ngũ. Con trai đi rồi, ông cảm thấy hụt hẫng. Tuy nó mới lớn, chưa hiểu biết là bao song ông luôn cảm nhận rằng nó là chỗ dựa của ông. Thôi thì trai thời loạn. Cái thân ông trước đây ông đã chẳng dám đánh đổi, chả dám dấn vào bất cứ việc gì mà ông cho là phiêu lưu mạo hiểm, nay chẳng lẽ ngăn trở chí khí của con, dù ông vẫn biết là nơi hòn tên mũi đạn, việc sống yên lành trở về là không dễ. Rồi ông tự nhủ, thế cũng yên một chuyện, nó đi ngày đàng để học sàng khôn, mà lại tránh được phức tạp ở nhà. Giờ thì ông đã có phương trời để mà thương nhớ, mong ngóng con, còn lại ông tập trung vào nghề thuốc, nuôi dạy mấy đứa trẻ dại. Gọi là ông lang, bắt mạch kê đơn, chữa bách bệnh, nhưng thực ra, ông lang Đạt giỏi nhất có một, đó là chữa đi kiết. Mà thang cho bệnh này lại rất đơn giản, chỉ cần uống thuốc và ăn khoai lang nướng, thế là khỏi. Người dân nông thôn phần đông bần hàn, thiếu thốn, quen gặp gì ăn nấy, bụng dạ khỏe lắm ấy vậy mà đến nước bệnh thì suy sụp khó mà gượng được. May là cái thứ bệnh bà con hay bị thì ông lại giỏi, cả thuốc và thang đều rẻ tiền. Các viên tễ ông cứ đóng gói thành từng liều, khi vắng nhà, có khách thì vợ con ông đều bán được. Người ta là thầy thuốc, có thể làm giàu được, song với ông chỉ lấy công làm lãi bởi theo đạo của nghề y, ông thấm nhuần giáo huấn của hai nhà đại danh y Tuệ Tĩnh và Hải Thượng Lãn ông, làm thuốc mà làm giàu là đạo y suy vi. Làm ruộng hợp tác xã, thêm gần sào vườn ven sông trồng rau tươi tắm, cộng với đồng ra đồng vào bán thuốc, cả nhà sống tùng tiệm, thanh sạch. Khi ngồi trước mâm cơm đạm bạc, ông thường bảo vợ con rằng: “Ăn thịt bò thì lo ngay ngáy/Ăn khoai ráy thì ngáy o o”. Với ông, bữa cơm nhiều hay ít thức ăn không thành vấn đề, mà cái chính là phải biết chế biến, món ăn nào tới độ nào thì vừa, gia vị thế nào, nước chấm ra sao, tất cả đều phải hợp. Vì thế con cái ông rất ngại khi ngồi vào mâm cơm bởi bao giờ ông cũng nhìn lướt một lượt và thủng thẳng phán “thứ này phải ăn kèm với thứ nọ thì mới đúng, mới ngon”, và sau đó các con nháo nhào đứng lên để lấy, để tìm cho đủ. Với ông thì ăn, ngủ, nghỉ ngơi thưởng ngoạn đều là nguyên tắc hết. Dù có chu đáo đến đâu, các con ông đều không thể chiều ông được. Duy chỉ có một mình bà Yên. Bà tinh ý, khéo léo, và hơn thế nữa là bà đẹp, quyến rũ. Trước một người như thế, có đến là núi lửa cũng tắt chứ đừng nói đến con người. Hễ hôm nào ông có điều gì bực tức, phiền muộn thì đêm ấy, dù có bã người vì làm việc ban ngày mệt nhọc, bà cũng yêu chiều ông đủ đường. Và sau những gì xảy ra trong đêm tối, sáng ra bao giờ ông cũng dậy sớm hơn mọi ngày, pha một ấm trà thật ngon, gọi bà dậy cùng uống, rồi ông ra vườn ngắm và tỉa tót bộ tứ quý. Ông thích khí phách của cụ Cao Bá Quát, một đời chỉ biết quỳ trước hoa mai. Rồi ông lại vào nhà, ngồi trên bộ tràng kỷ, khẽ vuốt râu, ngâm nga câu thơ được ông viết bằng chữ Hán, lối thảo, dán lên tường: “Xuân du phương thảo địa/ Hạ thưởng lục hà trì/ Thu ẩm hoàng hoa tửu/ Đông ngâm bạch tuyết thi” và sau đó, bà Yên có định đi làm đồng thì ông cũng ngăn lại, bảo ngồi nghe ông giảng giải tứ thi cổ đó cho nghe. Thế mà có một lần ông giận bà Yên đến cả tháng trời mới nguôi. Số là một buổi chiều, ông đang xem bệnh cho khách và kê đơn thì bà Yên ở đồng về, bà quẳng gánh rạ nặng trĩu ở góc sân rồi tê tái, xướng to lên rằng: “Ối ông ơi! Khổ cho cái thân tôi… Tôi thương đám cải trong vườn cằn cỗi nên làm ở ngoài đồng mót tiểu không dám đi, cố nhịn về nhà lấy cái tưới. Thế mà lại tham gánh, nặng quá không nhịn nổi, vừa đến sân thì vãi ra, ướt hết cả quần cả sân mất rồi. Khổ ơi là khổ!”. Ông gầm lên: “Im đi! Muốn sống thì múc nước rửa sân cho ông!”. Bà bất ngờ, tái mặt và khi đó bà mới biết trong nhà đang có khách, vừa giận vừa tự thương mình, bà khóc nghẹn ngào rồi cứ thế đi múc nước rửa sân… Đấy là một tháng nặng nề nhất. Muốn nói lời dịu dàng, âu yếm với bà nhưng hễ thốt ra là lại cộc lốc, hoặc giễu cợt, cay nghiệt. Đêm đêm, bà yên lặng nằm ép sát vào mép giường phía trong, còn ông thì chỉ ghé lưng ở mép giường phía ngoài. Thỉng thoảng ông lén nhìn bà trong đêm tối, ánh sáng trời đêm lọt qua kẽ mái vào đủ ông thấy bờ vai và cánh tay bà mõng mòng. Nhiều lần ông định đặt bàn tay lên đó, nhưng rồi ông lại thở dài, nằm thẳng người, nhắm mắt lại và thiền… Số ông khổ và số bà thì đa đoan. Cái miệng cười tươi thắm ấy dày vò ông rất nhiều. Đã không ít lần ông nóng mặt bởi ý nghĩ rằng, cái nụ cười ấy sao bà lại cứ hào phóng ban phát cho bất cứ ai mà bà nói chuyện, đáng lý ra chỉ là của ông, của riêng ông thôi… Và rồi cái khổ, cái đau của cuộc đời đã lấy mất của ông bà hết thảy những tháng năm tuy vất vả song đầy đam mê đó. Cậu con trai ông ra trận đã không bao giờ trở về nữa. Chỗ dựa mà ông chờ đợi và tin tưởng không còn và điều đó làm ông nghĩ mình đang dần thành một cây khô. Còn bà Yên, cô con gái riêng đẹp rờ rỡ và đoảng vị của bà qua hai lần lấy chồng không yên, mang con bỏ lên mạn ngược sinh sống. Cô con gái chung của ông bà muộn chồng và sau cũng lỡ dở, nuôi con một mình. Bà Yên suy sụp nhanh chóng. Bà không còn tuổi trẻ và sức lực để vực dậy như ngày xưa. Lưng bà còng xuống và cái nụ cười tươi thắm từng một thời làm ông phát ghen lên thì héo hắt. Lúc sắp qua đời, bà bảo với ông: “Thầy mẹ tôi thấy tôi có sắc, cải tên tôi từ Mơ thành Yên, mong cho tôi sớm an phận, nhưng trăm đường chẳng tránh khỏi số, kiếp đa đoan thì trời bắt phải ba đào! May được ông yêu thương, phận tôi được nhờ. Chỉ thương cho mấy mụn con gái đều lỡ dở!...”. Giờ thì chỉ còn ông lang Đạt, cô gái út và đứa cháu ngoại ở với nhau ở căn nhà trên rẻo đất bờ sông. Căn nhà tường đất mái rạ trước đây đã được đám con lớn, góp nhau vào xây thành ngôi nhà ngói ba gian. Ông lang Đạt đã ngoài chin mươi, mắt mờ và chân chậm. Không ngâm thơ vịnh nguyệt nữa, song hàng ngày ông vẫn chăm chút bộ tứ quý già cỗi. Hàng ngày để đỡ buồn chân tay, ông vẫn làm và bán thuốc chữa đi kiết, còn việc bắt mạch kê đơn thì ông chịu, không đủ sức nữa. Bây giờ người dân quê vẫn chưa mấy giàu có,song cơ chế thị trường đã đưa về từng ngõ xóm những viên thuốc tây, từ đau bụng đi ngoài đến thuốc tránh thai đều có thể mua từ mấy bà hàng xén. Thi thoảng vẫn có người đến mua môn thuốc kiết gia truyền của ông lang Đạt, có lẽ vì dùng thuốc tây không khỏi nên người ta đổi thuốc, cũng có thể vì thuốc tây đắt quá, hoặc vì tiếng tăm về môn thuốc quý xưa còn chưa phai mờ trong tâm thức của người dân quê. Khách đến nhà, người ta thường bắt gặp ông lang Đạt ngồi trên chiếc tràng kỷ cũ kỹ nước thời gian bóng sẫm, nhìn ra vườn cây cằn cỗi, khẽ thở dài và lẩm bẩm điều gì đấy. Lâu lâu ông lại chiêu một hớp nước trà loãng pha từ bao giờ, đã nguội ngắt!...
MƯA XUÂN CỎ MỌC
(Về trạng nguyên Nguyễn Trực)
Nguyễn Chu Nhạc
1. Đình tiền sinh thụy thảo, Tiết tháng giêng mưa xuân. Mưa bay bụi như rắc phấn. Về quê vợ theo hướng dòng người trẩy hội chùa Hương. Dòng người xa cuồn cuộn ngược xuôi. Mưa ngày thêm nặng hạt, rồi cứ thế rơi rơi đều đều như rây bột. Thế này thì ướt áo rồi. Rẽ theo các ngả đường quê, đâu đó phấp phới bóng cờ hội lại thêm tiếng trống thì thùng, chợt nhớ tới bài thơ Mưa xuân của Nguyễn Bính, và từng câu thơ cứ hiện ra :”Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay/ Hoa xoan lớp lớp rựng vơi đầy…”, “Em ngửa bàn tay trước mái hiên/ Mưa chấm bàn tay từng chấm lạnh” … Lòng tự hỏi, quê mùa giờ còn mấy cô gái được như thế? Nghĩ rồi lại thấy man mác buồn. Một nỗi buồn khi ý thức được những cái quý giá đang mất đi mà mình không có cách gì để níu kéo, kìm giữ. Nỗi buồn ấy cứ len lỏi trong lòng khi thắp hương tưởng nhớ trước mộ các tiền nhân. Cái lẽ sinh, lão, bệnh, tử của đời thì vô tư mà con người lại hay nặng lòng, day dứt. Thế hệ trước thường là hay trách cứ thế hệ sau cứ mải miết chạy theo cái mới mà không chịu quan tâm bảo tồn tập tục, phong vị cũ. Thế hệ trẻ nhiều người lại cho rằng lớp già cổ hủ, cứ lo ôm lấy cái cũ, chẳng chịu thay đổi ?…Cái gì còn thì sẽ còn, cầu trời phật vậy, song cơ bản vẫn phải từ ý thức của con người !... Xã Tam Hưng (Thanh Oai, Hà Tây), hai làng hai ngôi chùa lớn. Chùa làng Hưng Giáo (Hưng Phúc tự) bên này mới tu sửa, mang dáng dấp của những ngôi chùa phương Nam dòng Phật giáo Tiểu thừa màu sắc sặc sỡ. Làng Bối Khê bên kia (Đại Bi tự) lại bề thế, cổ kinh đúng màu thiền dòng Đại thừa. Thế nhưng, sân chùa cũng ngổn ngang vật liệu xây dựng vì nghe đâu đang được trùng tu. Hội chùa làng còn chưa mở. Vào chùa Đại Bi bằng cửa hậu .Chùa vắng tanh, phần vì còn chưa đến hội, phần vì chùa dở trùng tu, phần thêm trời đang mưa, nên đường đất lép nhép, nên người ta ngại chăng? Tha thẩn nhang đèn, hết ngắm nghía các pho La hán lại lẩm bẩm đọc những bức đại tự và đôi ba câu đối. Chữ nghĩa nhà Phật và các bậc tiền nhân sâu xa không dễ hiểu ngay được. Trùng tu, tốn kém thế song không khéo lại làm mất đi cái cổ kính và hồn cốt tâm linh xưa mà thay vào đó là sự phô trương lòe loẹt ? … Lại chợt nhớ, đây là quê hương của Lưỡng quốc Trạng nguyên Nguyễn Trực, người tên đứng đầu trong toàn bộ văn bia tiến sĩ ở Văn Miếu-Quốc Tử Giám Hà Nội. Nghe đâu ông đậu trạng nguyên khi mới 26 tuổi trong khoa thi hội đầu tiên của thời Lê sơ- dưới triều Lê Thái Tông, cách chúng ta hơn 500 năm. Ông là người tài giỏi và có khí tiết nổi tiếng trong lịch sử, làm thơ viết sách đủ cả nhưng rồi thất lạc gần hết, chỉ còn mấy bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục mà thôi. Lại có cả chuyện ông là Lưỡng quốc trạng nguyên, rằng sau khi đỗ đạt làm quan, được cử đi sứ Trung Hoa gặp khoa thi bên ấy bèn xin ứng thí và cũng đậu trạng nguyên. Chuyện này khiến tôi phân vân, đồ chừng chỉ là giai thoại dân gian, chứ chắc gì sự thât lịch sử. Thôi thì đành đợi lúc nào ngày rộng tháng dài sẽ để tâm truy nguyên xem thực hư ra sao ? Ngoài trời mưa xuân vẫn như rây bột, đều đều, rơi rơi… Những mảnh mạ non mỡ màng, những vạt cỏ non lấm tấm đón mưa, những tiếng vặt diệt, tiếng tát nước thì thòm và biết bao thanh âm của đồng quê, vừa bình dị gần gũi vừa như báo hiệu điềm lành !... Thấp thoáng một câu thơ cổ “Đình tiền sinh thụy thảo… “, được hiểu nôm na là Trước sân cỏ mọc báo điềm lành… Ừ… vẫn mưa xuân, cỏ mọc !... Lòng thấy bình yên, ấm áp!... 2. Nguyễn Trực, có phải là lưỡng quốc trạng nguyên ? Lần lữa mãi, sau đận thăm chùa làng Bối Khê (Đại Bi tự) hồi giêng hai năm Canh Tuất, tôi cũng lần giở sử sách để tìm xem sự nghiệp văn chương của Trạng nguyên Nguyễn Trực, nhất là chuyện có đúng ông là Lưỡng quốc trạng nguyên hay không ? Bắt đầu bằng cuốn Từ điển các nhân vật lịch sử Việt Nam (NXB Giáo dục-2006 ) do Đinh Xuân Lâm-Trương Hữu Quýnh chủ biên. Sách này cho biết ông đậu trạng nguyên khoa thi năm 1442 (khoa Nhâm Tuất, Đại Bảo thứ 3) triều Lê , làm quan thăng đến chức Thừa chỉ Viện Hàm lâm kiêm Tế tửu Quốc Tử Giám. Về sự nghiệp văn chương, sách chép : " ... Ông (Nguyễn Trực) viết Trừ liêu tập, Ngu nhàn tập nhưng phần nhiều bị thất lạc, còn lại văn bia Mục Lăng và mổt số bài thơ ". (chắc là Hu Liêu tập, vì ông có hiệu là Hu Liêu?). Tra một cuốn khác, sách Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075-1919 (NXB Văn học, 2006) của nhóm biên soạn Ngô Đức Thọ-Nguyễn Thúy Nga- Nguyễn Hữu Mùi. Sách này cho biết Nguyễn Trực có tên tự là Công Đĩnh, ông đỗ trạng nguyên (Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ Đệ nhất danh) khoa Nhâm Tuất, Đại Bảo thứ 3, năm 1442, nhưng lại bị in nhầm là đời Lê Thánh Tông, thay vì đời Lê Thái Tông. Về quan chức cũng chép như sách trên, song có đoạn chép về việc đi sứ : "... Hai lần đi sứ nhà Minh (Thái Hòa 1 và Diên Ninh 6), họa thơ của sứ Minh 50 vần làm vẻ vang quốc thể ...". Còn về văn chương, sách chép : "... Tác phẩm có Bối Khê thi tập, cũng tức là Hu Liêu tập, nay cón 6 bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục ." . Sách này còn cho biết thêm là cùng khoa Nhâm Tuất, Đại Bảo 3 năm 1442 ấy, khi thi Hội thì người đỗ đầu (Hội nguyên) không phải là Nguyễn Trực, mà là Nguyễn Như Đổ (người Thanh Trì-Hà Nội), song đến thi Đình thì Nguyễn Như Đổ chỉ đứng thứ hai (Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ Đệ nhị danh- bảng nhãn), nhường vị trí trạng nguyên cho Nguyễn Trực. Cũng khoa thi này, còn có một tài danh nữa là Thám hoa Lương Như Hộc quê Gia Lộc , Hải Dương (Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh). Sau này, cả ba người đều trở thành các bậc danh tài của lịch sử khoa bảng phong kiến đất Việt. Cả hai sách này, thì một cuốn nhắc đến chuyện Nguyễn Trực đi sứ nhà Minh và có họa thơ với nhau, song tuyệt nhiên không thấy nhắc tới việc ông gặp khoa thi bên Trung Hoa và xin thi rồi đậu trạng nguyên, để rồi nhân gian tôn vinh là Lưỡng quốc trạng nguyên. Về tên sách của ông viết ra thì chép khác nhau. Xin bàn thêm việc này ở phần sau. Nhưng hai cuốn đó là sách biên soạn thời nay, nên có thể các tác giả đã lược bớt đi cho ngắn gọn để phù hợp với tiêu chí cuốn sách. Vậy sách cổ có thể ghi chép chi tiết hơn chăng ? Sách Kiến văn tiểu lục (KVTL) của Lê Quý Đôn (bản in năm 2007 của Viện Sử học , NXB Văn hóa thông tin) , trong phần Chế độ khoa cử, có thấy nhắc đến khoa thi Nhâm Tuất, Đại Bảo thứ 3, 1442 một cách sơ lược, song bù lại có phần bao quát hơn "... Sĩ tử ứng thí 450 tên, lấy 33 người trúng tuyển, qua tháng sau vào thi Đình, nhà vua ngự lấy đỗ Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa và 7 tiến sĩ, 23 phụ bảng, ân ban cho ăn yến, mũ áo, cân đai và cho vinh qui về làng.Việc này bèn định thành thể lệ ...". Có một thông tin hay, ấy là kể từ khoa thi ấy mới định ra thể lệ thi cử như ta biết về khoa cử phong kiến Việt Nam sau này. Vậy có chuyện Nguyễn Trực thi đậu trạng nguyên trên đất Trung Hoa không ? Bộ sách Lịch triều hiến chương loại chí (LTHCLC) của Phan Huy Chú (bản in năm 2007 của Viện Sử học-NXB Giáo Dục) ở phần Nhân vật chí, quyển VII- người phò tá công lao tài đức, có phần viết khá kỹ lưỡng về Nguyễn Trực, từ thân thế đến sự nghiệp công lao của ông. Sách viết : " ... Cha ông là Thì Trung giỏi về địa lý, thấy ở làng Nghĩa Bang huyện An Sơn có ngôi đất quý, nhân lấy con gái họ Đỗ người làng ấy và làm nhà ở đấy, mới sinh ra ông ở am núi Phật Tích. Lúc bé ông thông minh, rộng xem các sách. Năm 12 tuổi giỏi làm văn; 18 tuổi đỗ đầu thi Hương ở Sơn Tây; 26 tuổi đỗ Đệ nhất tiến sĩ tên, đứng đầu về khoa thi năm Nhâm Tuất (1442), niên hiệu Đại Bảo đời Lê Thái Tông, tức trạng nguyên mở đầu của nhà Lê... Ông vâng mệnh đi sứ Trung Quốc, gặp khoa thi, ông là bồi thần cũng xin thi, nhà Minh lại cho đỗ trạng, nên đời bấy giờ gọi là trạng nguyên hai nước. Năm Diên Ninh thứ 2 (1445), gặp khi nhà có tang ông xin về làng. Bấy giờ học trò các nơi theo học kể hàng nghìn người. Sau khi hết trở, gặp sứ Minh sang, vua sai ông giữ việc tờ bồi qua lại và làm bài biểu mừng vua Minh lên ngôi, được người Minh khen ngợi. Khi vua Lê Nhân Tông bị giết, ông làm văn tế, lời lẽ rất thống thiết "... Như vậy, theo sách Các nhà khoa bảng Việt nam (CNKBVN), thì trong cuộc đời làm quan của mình, Nguyễn Trực có hai lần đi sứ nhà Minh là vào các năm Thái Hòa thứ 1 và Diên Ninh thứ 6 . Còn sách LTHCLC thì nói chuyện Nguyễn Trực thi đỗ trạng nguyên ở Trung Hoa dưới triều Minh song lại không nói cụ thể năm nào. Nếu căn cứ vào đoạn chép vừa trích từ LTHCLC và thử đồ rằng Nguyễn Trực đi sứ và dự thi là vào năm Thái Hoà 1 (1443), chỉ một năm sau khi ông đỗ trạng nguyên Việt. Vậy liệu có xảy ra điều đó không ? Tra cứu bộ ĐVSKTTcủa Ngô Sĩ Liên (sử biên niên) thấy rằng, năm 1442 (niên hiệu Đại Bảo thứ 3 triều Lê Thái Tông - tương đương với Minh, Chính Thống thứ 7) là một năm thật đặc biệt với rất nhiều sự kiện trọng đại liên quan đến lịch sử nước Việt. Lựa chọn, liệt kê một số sự kiện trong năm này dể thấy được sự kinh thiên động địa của nó : - Nhâm Tuất, năm thứ 3 (1442). Mùa xuân, tháng giêng, làm cung điện mới . - Tháng 3, thi hội các nhân sĩ trong nước, cho bọn Nguyễn Trực, Nguyễn Như Đổ, Lương Như Hộc ba người đỗ tiến sĩ cập đệ, bọn Trần Văn Huy 7 người đỗ tiến sĩ xuất thân, bọn Ngô Sĩ Liên 23 người đỗ đồng tiến sĩ xuất thân. Lại sai dựng bia làm văn đề tên. Tiến sĩ được dựng bia ghi tên bắt đầu từ đây. (như vậy là sử gia nổi tiếng Ngô Sĩ Liên, tác giả của bộ sử trứ danh Việt Nam - ĐVSKTT , đỗ tiến sĩ tại chính khoa thi này). - Mùa thu, tháng 7, ngày 20, Hoàng tử Tư Thành sinh (sau này là Lê Thánh Tông, vị vua nổi tiếng hiền tài trong lịch sử Việt Nam). - Ngày 27 (tháng 7) vua đi tuần về miền Đông, duyệt quân ở thành Chí Linh, Nguyễn Trãi đón vua ngự chùa Côn Sơn, ở hương của Nguyễn Trãi. - Tháng 8, ngày mồng 4, vua về đến vườn Lệ Chi huyện Gia Định (nay là huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh), bỗng bị bệnh ác rồi băng... Mọi người đều nói là Nguyễn thị Lộ (vợ lẽ của Nguyễn Trãi) giết vua. - Ngày 12 (tháng 8)... tôn Hoàng thái tử Bang Cơ lên ngôi (tức vua Lê Nhân Tông). Bấy giờ mới 2 tuổi. Lấy sang năm làm Thái Hòa năm thứ1 (tức năm 1443). - Ngày 16 (tháng 8), giết Hành khiển Nguyễn Trãi và vợ lẽ là Nguyễn thị Lộ, giết đến ba đời (vì bị gán cho tội âm mưu giết vua). - Mùa đông, tháng 10, sai sứ sang nước Minh. Đồng tri Hải Tây đạo Nguyễn Thúc Huệ và Thiêm tri thẩm hình viện Đỗ Thì Việp sang tạ ơn cho mũ áo; Thị ngự sử Triệu Thái sang tâu việc địa phương Khâm Châu; bọn Tham tri Nguyễn Đình Lịch và Phạm Du sang báo tang; Tham tri Lê Truyền, Đô ngự sử Nguyễn Văn Kiệt, Ngự tiền học sinh cục trưởng Nguyễn Hữu Phu sang cầu phong. Sau một năm đầy biến cố như thế, khi Lê Nhân Tông lên ngôi đã đổi niên hiệu là Thái Hòa, năm thứ 1 (1443), và trong năm này, ĐVSKTT chép việc bang giao Việt- Trung như sau : - Tháng 11, nước Minh sai chánh sứ là Hành nhân ty hành nhân Trình Cảnh sang tế (hẳn là tế vua Lê Thái Tông). - Ngày 25 (tháng 11), nước Minh sai chánh sứ là Quang Lộ tự thiếu khanh, Tống Kiệt, phó sứ là Binh khoa đô cấp sự trung Tiết Khiêm sang phong vua (Lê Nhân Tông) làm An Nam quốc vương. - Ngày 26 (tháng 11), sai Tham tri bạ tịch là Trình Dục, Nội mật viện chánh chưởng là Trình Thanh, Hàn lâm viện trực học sĩ là Nguyễn Khắc Hiếu sang nước Minh tạ ơn việc sách phong. Như vậy, trong năm này (tức Thái Hòa 1, 1443) chỉ có một đoàn sứ sang nước Minh, song không thấy có tên Nguyễn Trực. Vả lại, nếu có tham gia vào đoàn sứ bộ thì ông cũng chỉ là một thành viên trong đoàn không được nêu tên mà thôi, đơn giản bởi ông vừa mới đỗ đạt, cùng lắm là mới được bổ nhiệm,con đường quan lại chưa có gì. Lại xem năm Diên Ninh 6 , là năm mà các tác giả cuốn CNKBVN cho là Nguyễn Trực có đi sứ Minh. Sách ĐVSKTT chép rất tóm tắt quãng thời gian 2 năm tính từ Mậu Dần, Diên Ninh thứ 5 (1458) đến tháng 9 Diên Ninh thứ 6 với mỗi sự kiện thi hội lấy bọn Nguyễn Văn Nễ đỗ tiến sĩ xuất thân. Sự việc chi tiết hơn với sự kiện : mùa đông, tháng 10, ngày mồng 3 (Kỷ Mão, Diên Ninh năm thứ 6, 1459), khi Lạng Sơn vương Lê Nghi Dân làm cuộc chính biến cung đình, giết chết vua (Lê Nhân Tông) và cả Tuyên từ hoàng thái hậu. Đến ngày mồng 7, Lê Nghi Dân tự lên ngôi vua, đổi niên hiệu là Thiên Hưng tính từ ngày mồng 7 tháng 10 năm Kỷ Mão, 1459). Trong thời gian ở ngôi vua 8 tháng, Lê Nghi Dân chỉ có 2 sự kiện hoạt động bang giao với nhà Minh, được sách ĐVSKTT chép như sau : - Tháng ấy (tháng 10, năm 1459) Nghi Dân sai Lê Cảnh Huy , Nguyễn Như Đổ, Hoành Thanh, Nguyễn Nghiêu Tư sang nước Minh nộp cống hằng năm và xin bỏ việc mò ngọc trai. - Ngày 20 (tháng 10, năm 1459) lại sai bọn Trần Phong , Lương Như Hộc, Trần Bá Linh sang nước Minh xin phong. Đến ngày mồng 6 tháng 6 năm Canh Thìn (tức Thiên Hưng thứ 2, 1460), Lê Nghi Dân bị nhóm đại thần Nguyễn Xí, Đinh Liệt lật đổ, bắt tự thắt cổ chết, rồi lập Gia vương Lê Tư Thành làm vua (tức Lê Thánh Tông), niên hiệu được đổi ngay sau đó là Quang Thuận khi Lê Thánh Tông lên ngôi. Như vậy, đầu năm Diên Ninh thứ 6 khi Lê Nhân Tông còn chấp chính thì không thấy chép gì về hoạt động bang giao với nhà Minh, đến khi Lê Nghi Dân cướp ngôi, có cử 2 đoàn đi sứ nhà Minh thì đều không thấy tên Nguyễn Trực. Cứ cho rằng về sau các nhà biên soạn nhầm cách gọi niên hiệu Thiên Hưng thứ 1 với năm Diên Ninh thứ 6 (vì cùng là năm 1459 theo công lịch) nên ghi là Nguyễn Trực đi sứ vào năm Diên Ninh thứ 6 thì cũng không có gì liên quan đến việc ông đỗ đạt ở bên đó. Giả thiết, ông có tham gia vào đoàn đi sứ Minh năm ấy, thì cái chuyện ông dự thi và đậu trạng nguyên với triều Minh là một sự kiện chấn động, chi ít cũng phải được ghi chép trong ĐVSKTT chứ ? Quả thật, không thể tin nổi, nếu có một sự kiện vẻ vang về uy tín cá nhân mà còn nâng tầm ảnh hưởng tới danh dự quốc thể nhường ấy, lại bị sử thần Ngô Sĩ Liên, vốn là người thi đỗ cùng khoa và làm quan cùng thời với Nguyễn Trực lại bỏ qua, không nói đến chút nào trong bộ ĐVSKTT của mình ? Liệu có việc ông dự khoa thi với triều Minh và lại đậu trạng nguyên không, khi mà ĐVSKTT không hề đả động gì ? Gần đây, tham khảo bài viết Nguyễn Trực, tấm gương vê trí học-nhân học của tác giả Phan Tuấn đăng trên Tạp chí Xưa Nay số 287, tháng 7 năm 2007, có đoạn viết : "Năm 1444 ông (Nguyễn Trực) cùng bảng nhãn Trịnh Thiết Tường, bạn cùng khoa thi đi kinh sứ Trung Hoa , gặp khoa thi được mời dự thi, nhật kỳ thú: Nguyễn Trực đỗ Trạng nguyên, Trịnh Thiết Tường lại đỗ Bảng nhãn. Vì thế lịch sử có ghi hai ông là Lưỡng quốc trạng nguyên, Lưỡng quốc bảng nhãn. Nguyễn Trực về nước được vua ban 8 chữ : "Thánh công danh văn. Bắc triều hiền ngã". Tra cứu sách ĐVSKTT xem năm 1444 ghi chép gì? Ấy là năm Giáp Tý, Thái Hòa năm thứ 2 (tương đương Minh, Chính thống thứ 9), thấy có chép việc khảo thí học trò bổ làm thuộc lại các ty; việc gộp làm sổ đinh ; việc sai Lê Khôi, Lê Khả đem 10 vạn quân đi đánh Chiêm Thành; việc bắt giam Thái phó Lê Liệt ; việc có động đất, nhật thực, nguyệt thực; và cuối năm ấy có việc đi sứ nhà Minh. Sách chép là : " Tháng 11, sai sứ sang nước Minh : Tả thị lang là Đào Công Soạn và ngự tiền chấn lôi quân chỉ huy là Lê Quát sang cống nộp hằng năm. Tham tri Đông đạo là Nguyễn Lan sang tâu việc địa giới Khâm Châu". Như vậy không hề thấy tên Nguyễn Trực và Trịnh Thiết Tường. Không hiểu tác giả bài viết trên lấy tư liệu từ đâu để khẳng định sự kiện đó? Lại càng khó tin hơn, khi tác giả này có lẽ đã nhầm với Trịnh Khiết Trường. Không có Trịnh Khiết Tường nào cùng khoa thi với Nguyễn Trực, mà chỉ có bảng nhãn Trịnh Khiết Trường. Theo sách Các vị trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa qua các triều đại phong kiến Việt Nam của tác giả Trần Hồng Đức biên soạn (Hội khoa học lịch sử Việt Nam-NXB Thông tin năm 1999) thì Trịnh Khiết Trường (sau này còn được tuyển làm phò mã) quê Thanh Hóa đỗ Bảng nhãn khoa thi Mậu Thìn, Thái Hòa năm thứ 6 (1448) triều Lê Nhân Tông cùng khoa này, Nguyễn Nghiêu Tư đỗ Trạng nguyên, Chu Thiêm Uy đỗ Thám hoa), tức là thi đỗ 6 năm sau Nguyễn Trực. Việc này sách ĐVSKTT cũng nói đến. Đối chiếu thêm với chính cuốn sách này của soạn giả Trần Hồng Đức, phần về trạng nguyên Nguyễn Trực, có nói ông từng đi sứ nhà Minh, song không hề nhắc gì việc ông là Lưỡng quốc trạng nguyên cả. Cũng có một căn cứ nữa để tham khảo sự kiện này, đó là sách Hồng Đức quốc âm thi tập (HĐQATT) của Lê Thánh Tông (NXB Văn học, 1982). Sách này có bài thơ Điếu Nghĩa Bang trạng nguyên (Viếng trạng nguyên làng Nghĩa Bang). Nghĩa Bang trạng nguyên ở đây là chỉ Nguyễn Trực, bởi ông tuy quê ở Bối Khê, Thanh Oai (Hà Tây), song từ đời cha ông là Nguyễn Thì Trung, chạy giặc Minh, đã rời sang sinh sống tại Nghĩa Bang, trấn Sơn Tây, nay thuộc Quốc Oai (Hà Tây) và sinh ra ông ở đó. Bài thơ được phiên âm là : " Đời dõi nho tông phát ấp bang Trong đạo đức, có từ chương Nối dòng thi lễ nhà truyền báu Tranh giải khôi nguyên bảng chói vàng Nam Bắc hai triều danh dậy Phong lưu một cửa họ sang Từ đường ở đấy niềm tây lạnh Dấu cũ càng thơm xạ có hương " Hai câu thơ Tranh giải khôi nguyên bảng chói vàng/ Nam Bắc hai triều danh dậy, được các tác giả biên soạn sách là Phạm Trọng Điềm, Bùi Văn Nguyên chú giải như sau : "Nguyễn Trực ở trong nước đỗ trạng nguyên, khi phụng mệnh đi sứ Trung Quốc, gặp nhà Minh mở khoa thi, ông xin vào dự thi, lại được đỗ ca ". Như vậy, cũng chỉ là những lới phán chung chung thế thôi, chứ các soạn giả cũng không chỉ rõ được là khoa thi năm nào, đỗ cao thì cụ thể là gì (bởi từ tiến sĩ trở lên đều coi là đỗ cao). Nếu cứ cho là trong một lần đi sứ nào đó, nhân gặp khoa thi ông có ứng thí tại một khoa thi dưới triều Minh, rồi đỗ đạt thật, thì cũng khó có thể là trạng nguyên, bởi Trung Hoa từ xa xưa luôn tự xưng là Thiên triều, coi các quốc gia lân bang, trong đó có An Nam chỉ là chư hầu (bằng chứng là việc các vua Việt Nam thường bị các vua Trung Hoa phong cho là An Nam quốc vương và ta luôn phải giữ lệ cống nộp hằng năm) , là man di mọi rợ, và với bản tính tự cao tự đại cố hữu, thì vua Minh cũng chẳng thể chấp nhận việc cho sứ thần chư hầu đỗ trạng nguyên (mặc dù họ có thật sự xuất sắc, đáng đỗ trạng nguyên đi chăng nữa). Thêm nữa, ngay trong phần Lời nói đầu, các tác giả biên soạn HĐQATT cho biết, sách này là một tập thơ chỉ được sưu tầm về sau, chứ không phải được biên soạn từ thời Hồng Đức, vì thế ở trong sách có sự lẫn lộn một số bài thơ của người đời sau, chẳng hạn như của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trịnh Căn. Điều này làm cho độ tin cậy của sách này ít nhiều giảm đi, nhất là khi đem căn cứ từ thơ vịnh để suy ra sự thật lịch sử. Nguyên việc Nguyễn Trực có phải là Lưỡng quốc trạng nguyên không, thì theo sử cũ, duy có bộ LTHCLC của Phan Huy Chú là có nói đến, song lại không ghi rõ năm nào, khoa thi nào của triều Minh. Quả là khó biết, khi biên soạn sách, phần về Nguyễn Trực, tác giả Phan Huy Chú đã lấy nguồn từ đâu để viết vào sách của mình việc Nguyễn Trực là Lưỡng quốc trạng nguyên? Cứ căn cứ ngay chính phần Phan Huy Chú biên soạn thì cũng có thể thấy, về sự kiện đó, tác giả cũng không tường nên chỉ nói chung chung vậy, chứ không dẫn dụ được năm tháng, khoa thi xảy ra sự việc đó. Thế nên, khi Ngô Sĩ Liên là người cùng thời đó còn không viết gì trong bộ ĐVSKTT của mình, thì ai dám chắc, hơn 300 năm sau, Phan Huy Chú chính xác trong việc ghi lại sự kiện tày trời đó. Phải chăng, khi ấy Phan Huy Chú cũng chỉ ghi từ giai thoại dân gian mà thôi. Có một điểm khá thống nhất, các sách đều viết rằng Nguyễn Trực là một người sống thanh khiết, không xu thời, lánh xa vinh hoa phú quý. Hẳn vì thế, nên mặc dù đỗ trạng nguyên, song quan lộ cũng không mấy hanh thông, lại càng kém hơn so với hai vị cùng khoa là Nguyễn Như Đổ và Lương Như Hộc. Tìm trong sách ĐVSKTT, người ta có thể thấy được sự thăng tiến vinh hiển vượt bậc của hai vị kia, thì riêng ông, chỉ được nhắc đến có 3 lần. Ấy là, vào năm Kỷ Tỵ, Thái Hòa thứ 7, 1449, ông được làm Hàn lâm viện thị giảng; vào năm Canh Thìn, Quang Thuận thứ 1, 1460, vua Lê Thánh Tông sai ông cùng với Nguyễn Bá Kỳ soạn văn bia Mục lăng (tức lăng vua Lê Nhân Tông) ; và vào năm Kỷ Sửu, l469 , vua lấy ông khi đó là Hàn lâm viện thừa chỉ , cùng với Vũ Vĩnh Ninh, Nguyễn Đức Trinh, Quách Đình Bảo làm Độc quyển kỳ thi hội năm ấy. Thật tiếc, tác giả bài viết này chưa có điều kiện để tra cứu thêm Minh sử (hoặc những sách và tài liệu khác) nhằm xem các sử gia Trung Hoa có biết gì và viết ra sao về sự kiện này không? Thiết nghĩ, trong khi việc xác nhận Nguyễn Trực là Lưỡng quốc trạng nguyên chưa đầy đủ cơ sở, mà việc bác bỏ cũng chưa mấy thuyết phục, thì chúng ta cứ xem Nguyễn Trực từng là Lưỡng quốc trạng nguyên đi. Âu như một giai thoại dân gian, như chuyện kể về Lưỡng quốc trạng nguyên Tống Chân (chuyện dân gian Tống Chân - Cúc Hoa), hoặc giả như rất nhiều những câu chuyện trạng dân gian khác, và xem đó như một câu chuyện khuyến học, khuyến tài cho hậu thế. Vậy cũng là hữu ích. Còn như nghiên cứu, viết sách thì lại là việc làm khoa học, cần nghiêm túc, cẩn trọng và chính xác, nên mong rằng các học giả hãy thận trọng với sự kiện này khi viết về Trạng nguyên Nguyễn Trực. Đã là người thiên cổ, được sử sách ghi danh, lại xa cách chúng ta những gần 600 trăm năm rồi, hẳn là Nguyễn Trực cũng không vui khi hậu thế tôn là Lưỡng quốc trạng nguyên, mà cũng chẳng buồn khi không phải vậy ! Về với thiên nhiên, ông như cây cỏ, mưa xuân thì mọc !... 3. Thơ văn còn lại những gì ? Về Trạng nguyên Nguyễn Trực, tôi còn muốn tìm xem những bài thơ của ông lưu truyền hậu thế. Hy vọng qua đó, phần nào hiểu thêm con người ông, từ tính cách thanh cao đến tâm trạng xa lánh vinh hoa và muốn lui về ở ẩn của ông. Thật may. Sách Lịch triều hiến chương loại chí (LTHCLC) của Phan Huy Chú, phần Văn tịch chí có nhắc đến 3 tập thi văn của Nguyễn Trực, đó là Vu liêu tập, Ngu nhàn tập, Kinh nghĩa chư văn tân tập, song đều ghi chú là không rõ mấy quyển. Sách này còn chép : "Trạng nguyên Nguyễn Trực soạn, học trò biên sắp. Cả tập mất nhiều, nay còn vài chục bài. Lời và ý thanh nhã đáng ưa". Sách liệt kê 4 bài, nay xin chép cả ra đây để tiện cho việc tham khảo, bình luận : Bài 1: Ngẫu tác Bệnh thừa ân chiếu hứa lưu kinh Quy kế như kim nhất vị thành Hà nhật Tây Sơn sơn hà lộ Soa y tiểu lạp khán xuân xanh . (Dịch) Có bệnh, nhờ ơn vua lưu lại ở Kinh, Tính đường về mãi mà đến nay vẫn chưa được, Biết ngày nào được đi con đường ở dưới chân núi Tây Sơn, Đội nón nhỏ, mặc áo tơi, đi xem cày ruộng mùa xuân. Bài 2 : Bính Tuất ngâm Đại đình tằng đối tam thiên tự, Phù thế hư kinh ngũ thập niên, Bất thị vô tâm lai cấm tỉnh Chí nhân đa bệnh ức điền viên. (Dịch) Ở sân vua từng làm bài đối sách ba ngàn chữ, Giật mình về việc đã năm mươi năm trời đuổi theo cái hư danh của thời thế, Chỉ vì lắm bệnh, nhớ cảnh điền viên. Bài 3: Đề chùa Cực Lạc (thuộc Ý Yên, Nam Định) Đột ngột vân gian tự, Nhân sinh kỷ độ qua ? U nham tàng Phật tích, Tiếu bích ỷ tăng gia. Địa viễn phi trần thiểu, Sơn cao đức nguyệt đa, Thượng nhân lưu khách túc Ổi vụ hựu phanh trà. (Dịch): Chùa cao chót vót ở trên mây Bởi người dễ mấy lần được đến Hang sâu dấu vết Phật Vách núi dựa nhà tăng, Xa đất nên ít bụi, Trên cao được trăng nhiều. Nhà sư lưu khách lại, Nướng khoai lại pha trà. Bài 4 : Lên chùa Hương Lô Tằng tằng đăng nghiễn lộ, Thừa hứng yết kim tiên, Diệu khế tam sinh mộng, Do tồn nhất lũ yên. Lâu đài phi thế hữu, Thảo mộc đắc xuân thiên. Du mục phù vân ngoại, Mang mang thị Đại thiên. (Dịch): Tằng tằng đường leo núi, Thừa hứng lên yết Phật, Khéo hợp mộng ba sinh, Vẫn còn một tia khói. Lâu đài này không phải người trần có được, Cỏ cây lúc nào cũng mùa xuân. Đưa mắt ngoài mây nổi, Mông mông ấy thế giới Tam thiên. Có lẽ trong số 6 bài thơ còn lại được chép trong bộ Toàn Việt thi lục (TVTL) có 4 bài này. Nhìn chung, đều mang tâm trạng muốn rời xa chốn quan trường lui về ở ẩn chốn sơn lâm, chữa bệnh, tu dưỡng tinh thần, nuôi dạy con cái, gõ đầu trẻ, và chăm lo việc thiện.... Cũng có thể xem như thái độ "trốn việc quan đi ở chù " vậy . Học giả Phan Huy Chú sau khi dẫn dụ rằng, đến thời Quang Thuận triều Lê Thánh Tông, nhờ văn chương nên Nguyễn Trực càng được vua yêu, được bổ làm quan to (Tuyên phụng đại phu, Trung thư lệnh), song ông vẫn mấy lần xin về ở ngôi nhà tranh ở Tây Sơn mà vua không cho, nên mới có gửi gắm nỗi niềm tâm sự vậy. Qua đó, Phan Huy Chú bình : "Xem đấy đủ rõ phong độ và tiết tháo của ông ". Sách dẫn tiếp : "Ông đỗ đầu đại khoa, ra làm quan mà coi rẻ công danh, thường có ý muốn chóng về. Thân Nhân Trung (một thành viên trong Nhị thập bát tú , Phó súy Tao đàn thời Hồng Đức) có khen ông là: Lấy văn chương được các triều tri ngộ mà khiêm tốn kính cẩn giữ vẹn sau trước . Thực là lời phê bình xác đáng ". Quả là sau những lời bình của các bậc danh tài túc nho như vậy, há không cần bình phẩm gì thêm. Tuy nhiên, nếu truy nguyên để bồi đắp thì hẳn cũng không thừa ? Sách Kiến văn tiểu lục (KVTL) của Lê Quý Đôn , quyển V-Tài phẩm, thấy chép về Nguyễn Trực : "Nguyễn Trực đỗ trạng nguyên lúc còn ít tuổi, giao thiệp đối đáp với sứ nhà Minh là Hoàng Gián, một lúc họa xong 50 vần thơ lưu biệt, có thể giữ được thể diện trong nước. Nhân Tông sai trung sứ cùng thợ vẽ tới nhà vẽ tượng truyền thần, để ở bên cạnh chỗ ngồi, để tỏ ra rằng không lúc nào quên được. Thánh Tông sai người đem bộ Thiên Nam dư hạ tập (tập thơ của Lê Thánh Tông) đến chỗ ở là đình Hoàn Bích để tiện phê duyệt. Đều là sủng ngộ đặc biệt ". Được những hai vị vua sủng ái như vậy thì cũng là hiếm, vậy sao ông vẫn muốn sớm cáo bệnh lui về ở ẩn với nếp sống thanh nhàn? Phải chăng, ngay chính năm ông đỗ trạng nguyên thì đã xảy ra liên tiếp các sự kiện kinh thiên động địa như đã liệt kê ở phần 2) khiến ông sớm kinh hãi rồi sinh chán ngán chốn quan trường? Tài danh và công lao nhất mực như Hành khiển Nguyễn Trãi còn bị vu oan tru di đến 3 đời; các công thần từ thời Lê Thái Tổ thì tranh giành quyền lực, thanh toán lẫn nhau theo cái lối do chính Thái Tổ sử dụng là hết thỏ thì đập chó săn; rồi các phi tần thì ngấm ngầm lôi kéo quan lại và nội thị kết thành bè cánh tranh giành ảnh hưởng nhằm tiêu diệt nhau để ngoi lên? Ngay trong triều, thấy những quan lại đồng khoa, và sau mình (như Nguyễn Như Đổ, Lương Như Hộc, Nguyễn Nghiêu Tư...) thăng trầm quan lộ, có thể làm ông ngán ngẩm? Lại nữa, cũng có phần ông chịu ảnh hưởng di truyền và cả sự dạy bảo từ các bậc tiền bối, nhất là cha mình, Nguyễn Thì Trung vốn là Giáo thụ trong Quốc Tử Giám? Sách KVTL, học giả Lê Quý Đôn chép về người cha của Nguyễn Trực: "Nguyễn Thì Trung, người xã Bối Khê, huyện Thanh Oai, dưới triều nhà Trần, ông tổ tên là Hữu, giữ chức Hàn lâm thị giảng kiêm Thẩm hình viện sứ, cha tên là Bính, giữ chức nho học Huấn đạo. Thì Trung là người có văn học, nối dõi được gia phong... Sau khi Thái Tổ đã bình định được cả nước, hào kiệt, nho sinh, văn sĩ các lộ đều tranh nhau đến bái yết, kẻ trước người sau đều được trao cho quan chức, chỉ có Thì Trung có ý nhạt nhẽo không cầu hiển đạt làm quan. Đến đầu triều Thái Tông, hạ chiếu tìm hỏi những hiền tài còn bị bỏ rơi, nghe biết ông là người có văn học đức hạnh, nhà vua ra đặc chỉ tuyên triệu, hạ lệnh cho sở tại cố khuyên mời ông đến kinh sư, cho giữ thư khố ở Quốc Tử giám, mùa thu năm thứ 2 (1435) nhà vua ngự điện Hội Anh, ra bài thi, ông dự thi được trúng cách, cho thăng một tư, giữ chức Thị thư ban, sau thăng chức Giáo thụ trong Quốc Tử giám. Chưa được bao lâu, liền xin thôi làm quan, lui về ở chốn lâm tuyền, giảng sách dạy con, vui vẻ tự do, xa gần nhiều người theo học. Lúc mất, đặt tên thụy là Như Ngu cư sĩ (chữ Ngu ở đây được hiểu là sự yên vui - TG )... Văn chương của Nguyễn Thì Trung tuy không lưu truyền hết, nhưng xem bài thơ tiễn viên giáo thụ họ Trình về trí sĩ và một bài khi ông về trí sĩ lưu lại để từ biệt viên giám sinh họ Hồ cũng có thể tưởng tượng biết được phong vận thơ văn của ông ". Đã rõ ràng, qua phần chép và bình phẩm của Lê Quý Đôn, ngay từ trứng nước, Nguyễn Trực đã thừa hưởng di truyền tố chất để làm nên bản tính thanh cao từ bậc cha ông, thêm vào đó, sự dạy dỗ tận tình của người cha đã sớm định hình phẩm chất cao quý trong con người Nguyễn Trực. Không những ông không xu thời và biết xa lánh bả quyền quý vinh hoa, Nguyễn Trực còn có một phẩm chất đáng quý khác là ông không đố kỵ, biết tôn trọng và nâng đỡ người khác, kể cả khi họ chỉ là bậc dưới về mọi phương diện. Sách KVTL của Lê Quý Đôn chép :"Lê Hoằng Dục, con Thái phó Lê Văn Linh, học vấn rộng khắp đầy đủ, thơ từ thanh cao phóng khoáng... thường cảm hứng làm 10 bài thơ Giang thành ngẫu thành, lúc Thánh Tông còn ở phủ đệ phiên vương, lấy làm thích lắm, theo vần họa lại, sau khi lên ngôi vua hạ lênh cho từ thần là Nguyễn Trực phê bình, phần nhiều khen ngợi ...". Cũng sách này còn chép: "Bản triều lại có Nguyễn Bảo (người xã Phương Lai, huyện Vũ Tiên, nay thuộc Thái Bình) đỗ tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (1472) niên hiệu Hồng Đức. Trung thư lệnh là Nguyễn Trực yêu thích văn chương của Nguyễn Bảo, tìm đến xem mặt và nói : ‘Già này chấm văn kỳ đệ nhị, mãi sau được chấm bài của ông, về lời lẽ bài chiếu "phục lập phó bí" (dựng lại bia đã đánh đổ , tài tình ở chỗ nói rõ được bụng ăn năn hối lỗi của Đường Thái Tông, các sĩ tử không thể theo kịp được, già này nêu rõ ra là bài ấy đứng vào hàng văn kiệt tác. Từ nay về sau, nghĩa lý trong Kinh sách thánh hiền, ký thác vào ông cả"... Quả nhiên, sau này Nguyễn Bảo rất hanh thông về quan lộ, thăng đến chức Thượng thư bộ Lễ, giữ chức ở viện Hàn lâm dưới triều Lê Hiến Tông, có đóng góp nhiều cho triều chính. Truyền thống nho gia nhiều đời tiếp nối qua ông đến tận con cháu. Cháu ngoại của Nguyễn Trực là Nguyễn Ích Tốn, hẳn là được thừa hưởng từ ông ngoại mình không những sự di truyền mà cả sự giáo dưỡng. Nguyễn Ích Tốn đỗ Tiến sĩ năm Hồng Đức thứ 15 (1483), cũng là một thành viên trong Nhị thập bát tú của Tao đàn do chính Lê Thánh Tông làm chủ súy dưới thời Hồng Đức (Theo sách Hồng Đức quốc âm thi tập - NXB Văn học,1982). Có một việc, theo tôi cũng nên xác định cho rõ, đó tên tác phẩm của Nguyễn Trực được các sách chép khác nhau. Không kể các tác phẩm Ngu Nhàn tập, Kinh nghĩa chu văn tân tập, và văn bia Mục lăng (soạn cùng Nguyễn Bá Kỳ theo lệnh của vua Lê Thánh Tông) thì tên một thi văn tập khác của ông lại được chép khác nhau. Cụ thể là : - Vu liêu tập (Theo sách LTHCLC của Phan Huy Trú). - Trừ liêu tập (Theo sách Từ điển các nhân vật lịch sử Việt Nam của nhóm Đinh Xuân Lâm -Trương Hữu Quýnh biên soạn). - Hu liêu tập (Theo sách Các nhà khoa bảng Việt Nam của nhóm Ngô Đức Thọ-Nguyễn Thúy Nga-Nguyễn Hữu Mùi biên soạn). Sách này còn đống nhất Hu liêu tập với Bối Khê thi tập là một . Thậm chí, có sách còn chép là Sư liêu tập. Vậy thì tên gọi nào là đúng? Rất tiếc là phần lớn các sách, khi biên soạn xuất bản, đều không kèm mẫu tự chữ Hán, mà chỉ có tên Hán Việt phiên âm mẫu tự Latin, nên thật khó tra cứu. Trong số các sách dẫn ra đây, duy bộ Các nhà khoa bảng Việt Nam là có in kèm tên bằng mẫu tự chữ Hán (chép đủ cả tên chính Nguyễn Trực, tên tự Công Đĩnh, hiệu Hu Liêu, tên tác phẩm- Hu Liêu tập). Căn cứ vào mẫu tự chữ Hán, tra cứu Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh, thì không phải là Hu, mà phải đọc là Vu (chỉ tên một loài cây xấu, không dùng làm được việc gì, còn có nghĩa bóng để chỉ loại người vô dụng) ; còn chữ Liêu, cũng theo từ điển nêu trên, có nghĩa là cửa sổ nhỏ-mà cũng chỉ việc làm quan cùng nhau (ví như : đồng liêu - cùng làm quan với nhau ). Nếu căn cứ vào đó, thì tên hiệu của Nguyễn Trực là Vu liêu (chứ không phải là Hu Liêu). Có lẽ đây là một cách lấy tên hiệu kiểu tự biếm, tự nhận mình là người vô dụng, thể hiện bản chất khiêm nhường, muốn xa lánh chốn đình trung của Nguyễn Trực chăng? Cùng với hiệu là Vu liêu, thì tác phẩm là Vu liêu tập. Điều này đúng với cách gọi trong sách LTHCLC của Phan Huy Chú ./.
Triết lý ĐÈN VÀNG
trong “không gian Nguyễn Huy Thiệp”
( BỔ SUNG HOÀN CHỈNH)
Đọc lại truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, với tôi là một sự ngẫu nhiên. Số là, đầu hè năm nay (2022) tôi tham gia chuyến lên Sa-pa với cha con, nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền và nhạc sĩ Nguyễn Vĩnh Tiến. Trước chuyến tôi đến ngủ đêm tại nhà họ để sáng hôm sau lên đường sớm. Tối ấy, chuyện vãn mỏi miệng, nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền bảo tôi “Nghe nói chú thích văn Nguyễn Huy Thiệp,... có muốn nghe lại không? ... Dạo này, tôi hay mất ngủ, những lúc như thế, tôi cứ vào mạng, Youtube ấy, nghe đọc truyện Nguyễn Huy Thiệp, ... Hay lắm, mà lại dễ ngủ. Ngủ lúc nào không biết...Cứ như Nguyễn Huy Thiệp ru mình vào một giấc mộng khác ấy...”. Rồi nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền cho nghe truyện “Phẩm ttết”, và “Vàng lửa”,... Và rồi chũng tôi thiếp đi trong mộng mị, Sáng hôm sau, ngồi xe với cha con nhà thơ, nhạc sĩ, Nguyễn Vĩnh Tiến bật cho ca các ca khúc của anh chàng. Tôi nghe nhạc đấy mà đâu óc cứ váng vất các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp. Ông đã thức dậy trong tôi cảm xúc, tâm trạng những ngày xưa còn chưa xa, khi hóng từng truyện ngắn của ông xuất hiện trên báo chí,...Nguyễn Huy Thiệp mất vào cuối xuân năm 2021, thoáng chốc đã qua giỗ đầu ông rồi,... Sau chuyến đi ấy, bẵng đi vài tháng, nhà thơ Nguyễn Vĩnh Tuyền gắn thẻ sang trang Facebook của tôi đường link Youtube truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, như muốn nhắc nhở tôi, hãy nghe lại đi, Tôi nghe lại truyện ‘Sống dễ lắm”, rồi cúứ thế, liền mấy ngày, tôi lần lượt nghe đọc lại truyện "Không có vua", "Những bài học nông thôn", "Bài học tiếng Việt", "Tội ác và trưng phạt", "Huyền thoại phố phường", "Chảy đi sông ơi", :"Muối của rừng’, "Quan âm chỉ lộ", "Sang sông", "Mưa Nhã Nam", "Ông Móng", "Giọt máu", "Con gái thủy thần", "Những người thợ xẻ", "Như sương như khói bay"... Những truyện ngày trước tôi rất thích, đọc đi đọc lại nhiều lần gần như thuộc, vậy mà giờ nghe lại thấy quen mà lạ. Có lẽ, sau nhiều năm, đời sống xã hội thay đổi... nên cách nhìn nhận, đánh giá cuộc sống của tôi cũng khác. Với lại, tâm trạng đọc cũng khác trước. Nếu ngày trước, tôi háo hức đọc như nuốt từng chữ từng câu rồi bị cuốn theo, mặc cho Nguyễn Huy Thiệp dẫn dắt, thì nay, tôi nghe người đọc diễn cảm với tâm trạng muốn thẩm định lại,...Thấy quen thì rõ rồi, còn lạ là bởi chợt phát hiện ra điều này điều kia, hàm ý này hàm ý nọ trong câu chuyện cũ mà ngày trước mình chưa từng ngộ,... Tôi đặc biệt thích cái triết lý “đèn vàng” được Nguyễn Huy Thiệp nêu ra rồi kiến giải trong truyện ngắn “Bài học tiếng Việt” mà ông lấy nguyên mẫu từ cố nhà văn Vũ Trọng Phụng, một tiểu thuyết gia nổi tiếng và xem như hàng đầu của văn học Việt Nam hiện đại. Song trước khi bàn về cái triết lý “đèn vàng” này, tôi muốn nói đến một phương thức đặc sắc làm nên bản sắc truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, đó là nghệ thuật không gian truyện, mà ở đây, tôi gọi là không gian Nguyễn Huy Thiệp. Trong những truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, thì không gian truyện thật đặc biệt, dù chỉ là không gian hẹp trong một chuyến đò ngang với thời gian mười phút (như “Sang sông”), hay không gian hiu quạnh trong túp nhà tuềnh toàng, xác xơ ven sông Đà mờ mịt khói sương (trong "Như sương như khói bay") , hay không gian rộng lớn quốc gia, dân tộc, triều đại (như "Kiếm sắc", "Vàng lửa", "Phẩm tiết") hoặc không gian xuyên suốt hàng trăm năm qua bốn đời của gia tộc họ Phạm (như "Giọt máu"),... Và trong không gian nào thì cũng đủ để chứa câu chuyện, lớp lang với hàng tá khái niệm, hàng mớ lý thuyết, hàng đống minh chứng mà tác giả cố tính nhét vào. Đó là cái tài của riêng Nguyễn Huy Thiệp, bởi ở đấy, luôn chứa đựng những cặp khái niệm đối lập, như đạo đức-vô luân, sáng tỏ-vô minh, văn minh-mông muội, ý thức-vô thức, cao cả-hèn hạ, phúc thiện-tội ác, tình yêu-hận thù,... Cũng ở ngay không gian hỗn độn thực hư lẫn lộn ấy, cái có lý và sự vô lý đều có chỗ trong một trật tự lo-gic theo khuôn phép của tác giả. Đó chính là giọng điệu kể chuyện ma mị, ngôn ngữ hội thoại quỷ ám. Tôi nghĩ, bằng ấy, Nguyễn Huy Thiệp đã thực sự làm bạn đọc bị ám ảnh,... Giờ thì tôi nói về triết lý “đèn vàng” của ông. Trong truyện “Bài học tiếng Việt”, sau khi đưa ra các trạng huống đèn xanh, đèn đỏ, đấy là những tín hiệu dứt khoát một chiều, Nguyễn Huy Thiệp đi sâu phân tích trạng thái “đèn vàng”, Đây là trạng thái lưỡng lự. Ở trạng thái này, mỗi con người có sự lựa chọn khác nhau theo tính toán của riêng mình, hoặc dấn tới vượt thật nhanh, hoặc dứt khoát dựng lại chờ đợi, lại cũng có thể lưỡng lự giữa đi hay dừng, và như thế, mỗi sự lựa chọn sẽ có những kết quả tương ứng, thuận lợi hay bất trắc tùy may rủi,... Trở lại các sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, hầu như các truyện, đều giăng mắc những ngã tư "đèn vàng", ông đưa đẩy và dẫn dắt các nhân vật của mình đến trạng thái đèn vàng, để cho họ tự lựa chọn theo mạch truyện, tâm lý nhân vật và lo-gic tình tiết,... rồi cứ thế, tác giả tiện nước đẩy thuyền, tha hồ đưa hàng lô triết luận của mình vào,... Trạng thái "đèn vàng" được ẩn trong không gian truyện ma mị, hư ảo mà ở đấy có cả thiên thần và ác quỷ, thiên đường và địa ngục thì đương nhiên, cả nhân vật và bạn đọc chúng ta dễ bị ám thị,...và khi ấy, mặc sức thuận theo ý đồ của nhà phù thủy,... Để minh chứng cho triết lý “đèn vàng” của Nguyễn Huy Thiệp, tôi xin dẫn chứng từ một số truyện ngắn của ông. Ví như: Ở truyện “Huyền thoại phố phường”, anh hàng nhà quê công chức nghèo tên Hạnh ra phố lập nghiệp, thoạt đầu chàng ta lân la làm quen và giao du với dám con gái nhà giàu với ý đồ “chui ngầm chạn” hưởng lợi từ nhà vợ tương lại, đấy là một sự lựa chọn có ý đồ, một lần xử lý trạng thái “đèn vàng” có thể tạm gòi là thành công. Thế nhưng. khi gặp trầng thái “đèn vàng” tiếp theo, anh chàng Hạnh đã xử lý một cách quyết liệt, ấy là việc đấy bà Thiều, mẹ vợ tương lai của mình vào trạng thái trớ trêu hiến thân cho gã, nhằm đánh đổi tấm vé số của mình dược tặng trước đó, lấy tấm vé số của bà Thiều vì nghĩ tấm vé số đó được thần linh bảo hộ sẽ trúng độc đắc sau khi nó được bà ta đem đi lễ bái cầu xin ở các đền phủ. Rốt cuộc, kết quả ngược lại, anh chàng Hạnh trắng tay mọi nhẽ, trở thành thằng dở người,... Hay như, truyện ngắn “Những bài học nông thôn”, anh giáo Triệu khi gặp tình huống “đèn vàng” đã quyết định rất nhanh, ngay tắp lự, nhảy ra lấy thân mình chặn con trâu điên để cứu thằng cu Tiến, chịu cái chết thương tâm. Ấy là vì anh giáo Triệu nghĩ mình sớm ngộ ra ý nghĩa cuộc đời, có sống thêm cũng vậy thôi, nên chấp nhận cái chết có thể đến với mình để cứu mạng một đứa trẻ ngây thơ. Trong trạng huống ấy, giáo Triệu có thể né tránh cái chết, mặc cho con trâu điên húc cu Tiến thì cũng chẳng ai trách cứ anh ta được. Nhưng không, ý nghĩa cuộc sống mà giáo Triệu ngộ ra là sự bất tử,... Và như thế, giáo Triệu đã chọn cái chết để thành huyền thoại của làng,... Hay như, truyện ngắn “Như sương như khói bay”, nhân vật chính là ông Trụ, một ông già bị người ta bỏ quên quá tuổi nghỉ hưu, mấy chục năm trời dằng đẵng một mình trông cái trạm thủy văn ven bờ sông Đà hoang vắng, hiu hắt, mờ ảo sương khói. Ngoài việc hằng ngày do nước đo sóng rồi ghi chép vào một cũ sổ, thì có chút niềm vui dạy chữ và chút dạo lý ở đời cho một bé gái trẻ con, có cha mẹ hẳn hoi mà như bị bỏ rơi, dần bước sang tuổi mới lớn. Dần dà, trong bầu sương khói mụ mị ấy, hai con người cô đơn nương tựa vào nhau, nâng đỡ tâm hồn nhau, khiến họ không còn ý thức về vai trò của mỗi người. Ông Trụ tự thấy mình như ông, như cha, như thầy giáo,... và còn là một người khác giới đối với bé San; và ngược lại, cô bé San cũng cảm nhận ông Trụ là tất thảy đối với nó (ông, cha, thầy giáo và người đàn ông khác giới,.. gần như một người tình). Trong trạng thái “đèn vàng” mù mờ, mọi chuyện diễn ra bình thường, song le, chẳng thể mãi “đèn vàng”, nên khi chuyển trạng thái “đèn đỏ”, ấy là lúc cả hai người đều nhận ra thứ tình cảm pha chút luyến ái thì là lúc buojc phải ra quyết định. Bé San trẻ con, nó chưa mấy hiểu sự “nguy hiểm” của thứ tình cảm này, nhưng ông Trụ thì không, ông hiểu rõ sự thể sẽ rao sao tùy theo sự lựa chọn của mình. Hoặc ở lại sống với bé San, mặc cuộc đời trồi đến đâu thì đến, hoặc “đèn đỏ” stop, bở về xuôi với gia đình của mình như một kẻ yếu đuối trốn chạy? Và ông Trụ đã trốn chạy vào một sớm sương khói mù trời như ảo ảnh, chấp nhận đem theo phần còn lại của cuộc đời mình sự day dứt khôn nguôi. Còn bé San, không có ông Trụ, nó mất nốt chỗ dựa cuối cùng để trụ lại với cuộc đời này. Thân phận nó ra sao, còn là một câu hỏi chẳng của riêng ông Trụ mà cho cả mỗi bạn đọc chúng ta?... Hay như, truyện “Con gái thủy thần”, cả một vùng quê ven sông Cái gần nửa thế kỷ qua sống với một huyền thoại về Mẹ Cả-Janna Đoàn Thị Phương, con gái thủy thần, cho đến khi anh chàng Trương, một gã nông dân trẻ tuổi chất phác phát hiện ra, giai thoại về con gái thủy thần lại do một lão già liệt chân tai quái gớm giếc (cha của Đô Thi) phịa ra lòa thiên hạ. Một khúc gỗ khô từ cây muỗn cổ thụ bị sét đánh vùi dưới cát thành mộ Mẹ Cả huyền thoại, và người ta cứ sống với những huyền thoại thì cuộc đời này mới nên thơ và đẹp đẽ làm sao. Khi đụng vào thực tế cuộc sống, cái gì cũng chẻ hoe thì đều chẳng ra gì. Cái anh chàng tên Trương ngốc nghếch kia cứ lần mò đi tìm sự thật, thấy được hiện thân của Mẹ Cả-con gái thủy thần-Janna Doàn Thị Phương, chẳng qua là một cô gái bình thường, con rơi của lão chủ hãng nước mắm, đem gửi nhờ nhà thơ nuôi giúp thành con chiên của Chúa, cũng yêu ghét, thất tình như ai,... Ở đây, sự mù mờ lưỡng trạng thái “đèn vàng” lại có trác dụng hơn sự rõ ràng, rành mạch của đèn đỏ hay đèn xanh. Hãy để cho các huyền hoại có đất sống, đừng chẻ hoe mà làm gì, kẻo sẽ thành vô duyên, tẻ nhạt!... Cũng có thể dẫn chứng thêm hai truyện khác nữa, như truyện “Sang sông”, trạng thái “đèn vàng” chỉ trong chốc lát, bằng thời gian của một chuyến đò ngang; hay như truyện “Giọt máu”, thì trạng thái này lại nhiều lần xuất hiện, kéo dài giả nửa thế kỷ với mỗi đời tiếp nối dòng tộc gia đình họ Phạm,... Hàng trăm truyện của Nguyễn Huy Thiệp, hầu như truyện nào tác giả cũng tạo ra trạng thái hay tình huống “đèn vàng” như thế. Vậy nên, xem đây là một đặc trưng phương pháp sáng tác của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp là có cái lý của nó. Một điểm nữa, nhìn chung, không gian Nguyễn Huy Thiệp thường đượm buồn, các cũng bậc và tâm trạng đem đến nỗi buồn, rồi lây lan sang người khác như một thứ bệnh truyền nhiễm. Nhưng mà nó đẹp, đầy tính thẩm mỹ. Còn nó có nguy hiểm hay không thì tùy mức thẩm thấu của mỗi người?... Nguyễn Huy Thiệp cũng hay nói đến tín ngưỡng, tôn giáo. Dường như, ông luôn đi tìm nó, thứ tín ngưỡng của riêng ông., m ở đấy, đánh thức được Lòng trắc ẩn- qua đó giáo dục, giáo hóa đùng hơn, sự khai hóa lại thì phải? Thêm nữa, Nguyễn Huy Thiệp cũng hay tự mâu thuẫn với chính mình. Song có lẽ vậy, khi đọc truyện của ông, đến đâu thích thú đến đó, rồi cứ thế sa vào bẫy của ông lúc bào không biết, đến hết truyện lại như mờ mịt chẳng có lối ra và bỗng không hiểu ông đã nói gì. Lối viết ấy là điểm mạnh của Nguyễn Huy Thiệp, nó gây ảnh hưởng, chi phối nhiều cây bút văn xuôi khác., mà sau này, tôi nhận ra dấu vết ấy ở truyện ngắn này truyện ngắn nọ ở cây bút nọ cây bút kia. Kể cả tác giả bài viết này, cũng từng bị ảnh hưởng lối viết của Nguyễn Huy Thiệp. Sau này, đọc thêm diễn văn của Nguyễn Huy Thiệp khi ông nhận giải thưởng văn học quốc tế ở Italia, giải Premio Nonino (2008) , tôi càng thám những điều đó!... ./.
IÊN VIỄN MÙA HOA ĐÀO NỞ (Tản văn)
“Đã qua mùa tam giác mach/ mưa xuân đá cũng lên xanh/ cao nguyên đang mùa tươi trẻ/ địa tầng bỗng hóa mỏng manh/ Đào rừng năm nay nở muộn/ bung trời Quản Bạ, Yên Minh/ khoe sắc Sủng Là, Phó Cáo/ phơi hồng Lũng Cú, Đồng Văn...", Đó là những câu thơ đầu của bài thơ "Cao nguyên đá đương xuân" tôi sáng tác vào một mùa xuân lên Hà Giang. Lần ấy, trước rằm tháng Giêng, đoàn công tác của Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) lên Hà Giang, công bố chương trính phát sóng phát thanh Dân tộc (VOV4) tại Đài Phát sóng FM Quản Bạ, Sau buổi lễ, chúng tôi ghé thăm mô hình du lịch homstay ở làng người Dao (Nặm Đăm), rồi cũng mấy cán bộ của tỉnh Hà Giang ngược núi lên Đồng Văn dự lễ chào cờ đầu năm trên Cột cờ Lũng Cú. Thực lòng, khi bắt gặp những cây đào chi chít nụ hoa dọc lối từ trực đường chính lên Trạm phát sóng, tôi đã ngõ ngàng, thích thú. Lúc vào thăm bản người Dao, vườn nhà gõ lối trong bản cũng lác đác đào hoa, song đến khi vượt qua Yên Minh, băng dốc Thẩm Mã vào đất Sủng Là, cửa ngõ Đồng Văn, cảnh sắc mới thực sự huy hoàng. Ôi chao, những đào là đào. Ngỡ ngàng đến bàng hoàng, cảm giác không tin vào mắt mình, tưởng như đang lạc vào chốn Đào nguyên không có thật, hơn cả lão Bật Mã Ôn lạc đào nguyên trong phim Tây Du Ký. Xe băng băng ngược dốc, tôi ngó hai bên đường, cảnh đẹp thần tiên mà lòng những tiếc vì không thể dừng lại chụp dăm ba kiểu ảnh. Đến phố xã Sủng Là, dừng vài phút dừng lại nhà người quen cũ, chàng lãng tử Vạn Lý thơ báo nghiệp dư, tặng mấy cuốn sách. Chụp vội một kiểu ảnh lưu niệm, thấy tôi luôn miệng than tiếc, chàng Vạn Lý gợi ý "Tiếc, thì lúc về chú dừng lại chụp...". Nghe chừng có lý. Nhưng phải tăng tốc bám theo đoàn đã. Với lại, lịch trình đường về không qua lại đây, mà vòng sang Mèo Vạc rồi theo lối khác... Vùng chân Cột cờ Lũng Cú, vườn nhà dân cũng có đào, nhưng không nhiều và đẹp như ở Sủng Là. Sau lễ chào cờ ngay chân cột cờ, trời đã tối, đoàn công tác vội về thị trấn Đồng Văn dự tiệc chiêu đãi và giao lưu thơ nhạc. Bầu không khí xuân đầy hơi men và niềm hứng khởi, chằng thể đẩy khỏi đầu óc tôi những cảnh sắc đào hoa lúc chiều. Đêm ấy, trời đổ mưa xuân, khu phố cổ và chợ Đồng Văn nhếnh nháng ướt, đẫm hơi xuân. Tiếng khèn Mông và hương vị cháo nóng ban đêm khiến không gian thêm huyền ảo, ấy vậy, trong tôi vẫn chớp chới, lấp lóa cảnh sắc đào nguyên như cuốn phim quay lướt... Sáng ra, dậy sớm tranh thủ bát phố Đồng Văn. Trời xuân quang quẻ, từng tốp gái người dân tộc thiểu số áo váy xúng xính, sặc sỡ, ríu ríu xuống phố chợ. Ngó quanh, lác đác đây đó những cây đào đơm hoa, nhưng chẳng có thời gian mà ngắm vì còn phải theo đoàn công tác lên Mã-pì-lèng. Từ đỉnh cao, nhìn hút theo con sông Nho Quế mùa cạn nước, trơ trụi, lại thêm nham nhở vì những đập thủy điện đang xây dở dang. Lộ trình tiếp sang Mèo Vạc, tôi và anh bạn cùng xe, một phóng viên cựu VTC, cũng là một tay máy xịn đam mê nhiếp ảnh, nháy nhau quay đầu xe về lại Đồng Văn, xuôi Súng Là. Cảm giác sắp được tha thẩn, chọn khuôn hình, góc độ, nâng ống kính thu hình những cảnh sắc xứ sở hoa đào đá mà lòng tôi chộn rộn Đây rồi, những dãy đào cây giăng lối hai bên đường, hàng rào nhà dân nối nhau, miên man như bất tận. Bấm máy liên tục. Không ngờ, anh chàng lái xe cũng là một tay máy xịn, đam mê ảnh ót. Xe chúng tôi cứ di chuyển vài chục mét, lại dừng và cả ba nhao xuống chụp. Đâu cũng đào, đâu cũng đá, cũng vòm cổng, mái nhà nâu xỉn ngả màu thời gian. Đẹp mê hồn, trước mặt đẹp, nhìn ngang đẹp, quay lại sau lưng cũng tuyệt vời không kém. Ba người chúng tôi mất gần hai giờ đồng hồ mà vẫn chưa qua được vài cây số khu vực Sủng Là. Ngang qua nhà anh chàng Vạn Lý, ngó thấy cửa nửa khép nửa mở, nhưng không dám đánh tiếng, e mất thời giờ vì còn dành cho việc săn ảnh... Cứ thế, cả ba người đều mê mải tìm tìm, chụp chụp. Dẫu có mê đắm thì khi ngó mặt đồng hồ,cũng giật mình, í ới gọi nhau về xe, cắm đầu cắm cổ mà chạy thật nhanh, kịp về thành phố dự một tiệc chiêu đãi. Chậm cả tiếng, tiệc chừng quá nửa. Lúc ngồi trên xe chạy vội về đây, cảm xúc dâng trào xen lẫn sự tiếc nuối vì không có thời giờ để săn thêm ảnh, tôi đã chớp nhoáng làm bài thơ “Cao nguyên đá đương xuân”. Uống liền ba cốc rượu tạ lỗi chậm giờ, tôi ngà say cao hứng đọc bài thơ này làm không khí bữa tiệc thêm tưng bừng... Đã mấy mùa xuân qua, tôi chưa có dip trở lại cao nguyên đá. Nhớ vùng đất địa đầu miền biên viễn Hà Giang nhiều lắm, nhất là mấy địa danh Phó Báng, Phó Cáo, Sùng Là... Nhẩm lòng, xuân này, ra giêng, gắng thu xếp ngược nguồn trờ lại cao nguyên đá, theo lời nhắn gửi của anh chàng Vạn Lý,... Xuân sắp về rồi đấy, ơi Sủng Là, Phó Bảng, Phó Cáo, Lùng Phìn,... hoa đào đã bung sắc tươi hồng?...
CAFÉ CHUYỆN PHIẾM CUỐI TUẦN Sáng nay, café với người bạn già Gia Hoàng mạn đàm chuyện lịch sử, văn chương, thế sư,... Ông bạn khen bài CẢM HOÀI triều Hồ (Hồ Quý Ly) là hay Đương nhiên vậy. Tôi thì thấy bài "Cảm hoài" của Đặng Dung hay mọi nhẽ,... ### Bài thơ "Cảm hoài" của Đặng Dung là bài thơ hay nhất làng thơ Việt tự cổ chí kim, nhiều người cho là vây. Cá nhân tôi, không dám chắc "như đinh đóng cột" song cũng đồng tình cho rằng, đây là một trong diện ít bài thơ hay bậc nhất của làng thi ca Việt cổ kim. Nó hay, bởi tự thân ý tứ ngôn từ nhịp điệu, còn ở thời cuộc ra đời và thân thế sự nghiệp của tác giả Đặng Dung... Lịch sử, cho thấy, vào đầu thế kỷ 15, thời Hậu Trần, nước ta bị nhà Minh xâm lược, vua Trần là Giản Định đế (Trần Ngỗi) yếu kém, vì nghi ngờ nên cho giêt hai vị tướng tài là Đặng Tất (thân sinh của Đặng Dung) và Nguyễn Cảnh Chân (thân sinh của Nguyễn Cảnh Dị). Để chống quân Minh, Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị đã phế Giản Định đế, lập Trần Quý Khoáng (Trùng Quang đế) lên thay, cùng với các tướng Nguyễn Súy, Nguyễn Biểu, phò vua mới chống giặc ngoại xâm. Cuộc kháng chiến tuy thất bại, vua tôi nhà Hậu Trần bị bắt và tuẫn tiết, song tấm gương vì nước của các vị được sử sách ghi công, hậu thế lưu truyền. Bài thơ "Cảm hoài" của Đặng Dung (bài thơ duy nhất của ông còn đến ngày nay) ra đời trong hoàn cảnh như vậy... Hiện có rất nhiều bản dịch thơ bài thơ này, song chỉ nêu ra đây bản của mấy bậc túc nho làng thơ Việt. Mong mọi ngươì cùng chung dịch : "Thế sự du du nại lão hà,
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
Thời lai đồ điếu thành công dị,
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.
Trí chúa hữu hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
Quốc thù vị báo, đầu tiên bạch,
Kỷ độ long tuyền đới nguyệt ma". # Dịch nghĩa : Ở đời còn bao nhiêu việc mà ta đã già mất rồi
Trời đất mênh mông đắm trong cuộc rươụ hát ca
Khi gặp thời thì kẻ đồ tể, ngươì câu cá cũng nên công trạng
Lỡ thời vận, đến bậc anh hùng cũng đành nuốt hận
Phò giúp chúa, những mong xoay chuyển cả địa trục
Rửa vũ khí sẵn lòng lôi cả sông trời xuống
Thù nước còn chưa trả được, mái đầu đã bạc trắng
Đành bao lần mang gươm báu ra mài dưới bóng trăng. # Bản dịch của Phan Kế Bính: Việc đời bối rối tuổi già vay, Trời đất vô cùng một cuộc say. Bần tiện gặp thời lên cũng dễ, Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay. Vai khiêng trái đất mong phò chúa, Giáp gột sông trời khó vạch mây. Thù trả chưa xong đầu đã bạc, Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày. # Bản dịch của Tản Đà: Việc đời man mác, tuổi già thôi! Đất rộng trời cao chén ngậm ngùi. Gặp gỡ thời cơ may những kẻ, Tan tành sự thế luống cay ai! Phò vua bụng những mong xoay đất, Gột giáp sông kia khó vạch trời. Đầu bạc giang san thù chửa trả, Long tuyền mấy độ bóng trăng soi.
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 2 bạn đọc.
Kiểu: