VĂN XUÔI CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CHU NHẠC ( II )
Kẻ huyễn hoặc ( Truyện ngắn ) Người đẹp thì lấy người xinh Bao nhiêu người xấu dập dình lấy nhau (ca dao) Không hiểu từ bao giờ, câu ca dao đấy luôn hiện hữu trong suy nghĩ của y. Có lẽ từ khi y vừa lọt lòng mẹ? Cha là một người nghiện rượu, quanh năm tứ thời say. Khi mẹ y có thai y được dăm tháng thì cha y chết trong một đêm dông bão, vì quá say mà quỵ ngoài đường. Lúc mẹ y sinh y thì bà mụ vụng về đã nặn cho y một chiếc chân thọt. Phải chăng vì thế mẹ y cám cảnh cho y sau này mà cất lời ru bằng cái câu ca dao nửa khôi hài nửa bi thảm ấy! Y lớn lên trong mặc cảm của một kẻ tật nguyền. Y không có bạn. Khi bé, mẹ y đi làm đồng thường khóa cửa nhốt y trong nhà. Y lê la trên nền nhà kéo theo chiếc chân bé quắt không xương. Y đánh bạn với con quay gỗ và mấy hòn bi, đôi khi y chơi với cả chú cóc dưới gầm giường. Lớn lên chút nữa, y bắt đầu giúp đỡ mẹ y được chút việc vặt. Phải đến mười tuổi y mới đi học. Bọn trẻ cùng lứa hay trêu y. Y hiền lành không nói mà cũng chẳng phản kháng. Thường là lúc bị trêu, y ngước cặp mắt lên nhìn chăm chăm vào đối thủ và chẳng hiểu trong mắt y có gì mà đối thủ của y bỗng phải chờn. Những lúc ra chơi, những đứa mạnh chân, khỏe tay chạy nhảy, hò hét, còn y phải ngồi chầu rìa. Nhìn những đôi chân của chúng bạn chạy loang loáng theo quả bóng bưởi mà y thèm khát, y lén chùi những giọt nước mắt ứa ra song nào ai biết cho y. Các buổi chiều tan học, bọn bạn cùng lớp rủ nhau ra sông tắm, chúng cởi quần áo, vứt cặp sách thành một đống rồi bắt y ngồi trông. Chao ôi ước gì chân y lành lặn, y sẽ bơi, sẽ ngụp như một con rái cá, đố có đứa nào đuổi kịp… Y học hành cũng sáng dạ, nhưng rồi y cũng chỉ qua hết cấp hai. Mẹ y bảo: “Vô khối đứa chân tay lành lặn, học hết cấp ba cũng ở nhà theo đít trâu. Mày học thế là đủ rồi. Biết tí chữ để kẻ đời đừng khinh là dốt mà bắt nạt. Vả lại chân cẳng thế kia ai cho mày thành kĩ sư, bác sĩ. Ở nhà, lớn chút nữa tao hỏi vợ cho… Mà chắc gì…”. Mẹ y bỏ dở chừng câu nói như sợ y tủi thân. Mà thế thật, khi mẹ y nói cái câu “mà chắc gì…” bằng một giọng đay nghiến, y thấy đau nhói trong lồng ngực. Chân y thế, đứa con gái nào thèm đếm xỉa đến y cơ chứ. Rồi y sẽ ế vợ, sống với mẹ đến già, rồi mẹ y cũng chết, lúc ấy chỉ mình y sống thui thủi một mình cùng nỗi cô quạnh. Nghĩ thế, y lo sợ, bảo mẹ: “Mẹ đừng chết bỏ con lại một mình, nhé…”. Y khóc, lúc đầu rống lên, sau chỉ còn là những tiếng thổn thức. Mẹ y không nói gì, bỏ vào trong buồng nằm võng. Y thiu thiu ngủ, chợt y nghe đâu đó tiếng ai hát, ru rằng: “À ơi.. Người đẹp thì lấy người xinh… Bao nhiêu người xấu… á a… dập dình… dập dình… mà lấy nhau… à ơi…”. Y thấy đám cưới y cũng pháo nổ hẳn hoi. Cô dâu là con bé mặt rỗ và cũng thọt chân như y. Y dắt tay con bé đi giữa hai bên họ hàng. Y ghé miệng nói vài tai con bé: “Cô mình yêu tôi chứ?”. Con bé cười bẽn lẽn: “Em yêu mình đến lúc đầu bạc răng long”. Pháo nổ to quá, khiến y choàng tỉnh. Y bàng hoàng, rồi y hiểu ra là mình vừa mơ một giấc mơ thần tiên. Y nghỉ học ở nhà đi chăn trâu. Hợp tác xã thương tình cho nhà y giữ nửa trâu. Cứ cách một ngày, nhà y lại có một phiên trâu. Y dắt trâu đi chăn mang theo cả quang gánh, cắt đầy gánh cỏ để trưa mẹ y còn đón gánh về. Ngày tháng cứ thế trôi qua, đời y sẽ không có gì biến đổi nếu như không có chuyện tình cờ xảy ra. Đó là một lần y bắt gặp một cô gái, chừng cỡ tuổi y, ở xã bên và cũng bị tật nguyền thọt một chân như y. Y để ý quan sát khá lâu và sau nhiều lần trấn tĩnh y cất tiếng gọi: - Cô gì ơi! Không thấy cô gái trả lời. Y im lặng xấu hổ. Rồi y lại nghĩ là có lẽ vì hồi hộp nên giọng y lạc đi và nhỏ quá, chắc cô gái không nghe thấy. Và y lại đánh bạo gọi một lần nữa: - Cô gì ơi - Ngần ngừ một lát, y thêm - Có nghe tôi gọi không? Vẫn không có tiếng trả lời. Cô gái thọt lạ mặt vẫn lúi húi cắt cỏ. Một liều thì ba bảy cũng liều, y lần đến chỗ cô gái. Vì hấp tấp cái chân thọt khiến y bước hụt, sa xuống rìa bờ. Cô gái ngửng lên thấy y, vội bỏ đi. Cái chân của cô kéo theo bê bết bùn đất. Cô lẩn khá nhanh vào đám ruộng tốt bời. Y chững lại bắc hai tay lên miệng làm loa gọi to: - Cô gì, cô gì ơi. Đừng sợ. Đứng lại cho tôi nhờ một việc. Nghe thấy không? Tiếng y khản đặc và thảng thốt. Y nhìn theo, đầu cô gái lại nhấp nhô trong sóng lúa. Y lặng người, rồi quay lại chỗ cắt cỏ. Y nhặt chiếc liềm lên, mân mê. Y không thiết gì đến việc cắt cỏ. Lần đầu tiên trong đời trưa ấy, y đã không cắt đầy gánh cỏ, mẹ y ra, thấy y ngồi thẫn thờ bên gánh cỏ vơi quá nửa bèn tru tréo lên: “Sao thế? Chơi gì mà không cắt cho đầy hả cái quân…”. Y ngước cặp mắt đờ đẫn lên nhìn mẹ, khiến bà ta hốt hoảng: “Hay mày ốm”. Y cộc lốc: “Không”. Mẹ đưa tay sờ trán y: “Thôi đúng rồi, mày ốm to rồi con ạ. Ôi con tôi, khốn khổ chưa!”. Y gạt tay mẹ ra và chỉ thốt lên một lời: “Tương tư”. Mẹ y tròn mắt…. Đêm ấy về, y sốt li bì. Mẹ y đánh gió và nấu cháo cho y ăn. Lúc y tỉnh, mẹ y lần là hỏi chuyện gì xảy ra. Y nhất quyết không nói, chỉ ậm ừ cho qua chuyện. Mấy hôm sau khỏi, y lại ra chỗ cắt cỏ. Nhưng lần này, cô gái thọt không đến. Y thẫn thờ mãi. Lưỡi liềm giờ không còn bén ngọt nữa, bởi bàn tay y hờ hững. Vừa cắt, y vừa để ý xem cô gái có đến không… Trưa ấy, y không đợi mẹ y ra mà tự mình gánh cỏ về. Cái chân thọt khiến y vất vả, nhưng rồi y cũng tha được gánh cỏ về tới nhà, mồ hôi ướt đẫm người. Suốt một thời gian dài y không đi đâu ngoài khu vực ấy. Cỏ đã cụt lủn, song y cứ mài lưỡi liềm xuống bờ. Thời gian không phụ lòng y, một hôm, cô gái thọt lại đến. Lần này y khôn hơn. Không gọi, y lẳng lặng ép người xuống sát bờ ruộng lết đi từng tí một, đến gần sát phía sau mà cô gái vẫn không hề hay biết. Để chắn ăn, y gạt bỏ sự ngượng ngùng, y nhoài người và dùng cả hai tay nắm chặt lấy cô gái. Cô gái giật mình quẫy đạp, vùng vẫy tìm cách thoát ra, song bù cho cái chân tật nguyền, hai tay y khỏe mạnh rắn chắc. Y kẹp chặt lấy cô, cả hai vật lộn rồi lăn xuống ruộng. Đến khi nhận ra y thì cô gái có vẻ bớt sợ và cũng không còn sức để quẫy đạp như lúc đầu nữa. Vì mải vật lộn cô gái quên cả kêu cứu. Đến lúc ấy cô mới nhớ ra, cô há miệng định kêu to, song ánh mắt cô bắt gặp chiếc chân teo quắt của y thì miệng cô há to mãi không phát ra thành tiếng. Cuối cùng chỉ còn tiếng a a… Cuộc vật lộn chấm dứt, cả hai bỏ nhau ra ngồi thừ trên bờ, thở mệt nhọc và vuốt bùn nước đầy đầu tóc quần áo. Y bảo cô gái: - Cô tên gì? Còn tôi tên là Cõn, người làng Tàm. Tôi thế nào thì nhìn cô cũng biết rồi đấy. Khi nói chuyện y mới biết thêm là ngoài mặt rỗ, chân thọt, cô gái còn bị điếc. Sau lần ấy hai người thành quen nhau. Y được biết thêm cô gái có tên Thắm. Cái tên khá hay kia không những không bù đắp nổi mà còn mỉa mai thêm cho cái xấu về hình thể. Được cái là tính tình cô gái cũng không đến nỗi nào. Cảnh ngộ cô còn bi đát hơn y. Cô vốn là đứa trẻ sơ sinh bị bỏ hoang ở một xó lều chợ, một bà cụ không con cái, chỉ có hai vợ chồng già đã cám cảnh nhặt về nuôi. Đời y đã khốn khổ, đời Thắm còn khốn khổ hơn…. Nửa năm sau y và Thắm làm lễ cưới. Đám cưới không được như giấc mơ thuở nào của y, mà thực ra chỉ làm vài mâm cơm mời bà con ruột thịt đến chứng kiến. Hôm cưới y mẹ y khóc vì sung sướng còn y thì nói cười luôn miệng. Cưới được một năm thì vợ y sinh con trai. Tuyệt vời thay, thằng bé không hề thọt chân như cha mẹ nó. Tối hôm ấy bị mẹ đuổi ra, nhưng y lén chui vào giường vợ, y hôn hít vợ, lắp bắp nói với vợ những lời xúc động rằng cô đã sinh cho y một thằng bé tuyệt vời để nối dõi tông đường. Xã có ý định lập phố. Gọi là lập phố song thực ra chỉ là việc cắt ít diện tích cho dân làm nhà ở, ngã ba một con đường liên xã. Vì ông nội y có công nuôi giấu cách mạng xưa nên nhà y được cấp một trăm mét vuông đất. Y bàn với mẹ là vợ chồng y sẽ mở quán bán nước ở đó. Mẹ y đồng ý. Thế là từ thằng chăn trâu tật nguyền y thành ông chủ quán. Y ngồi giữ con, bán hàng, còn vợ y thì vẫn làm ruộng cùng với mẹ y và thỉng thoảng chạy chợ mua chút hàng cho y ngồi bán. Từ ngày bán quán da y trắng trẻo hơn. Quần áo mặc y cũng tươm tất hơn. Có chút tiền, y mua một cái đài. Hồi còn nhỏ y mê nghe dân ca, hát chèo lắm song hiềm nhà không có tiền nên y toàn phải ngồi rìa vườn nhà nghe trộm đài hàng xóm. Bán hàng rỗi rãi, y bèn lấy gỗ tự làm một cái đàn bầu, dây thép, ống bơ và cần tre. Y tập theo các điệu dân ca nghe được mà y thuộc. Dần dần y đánh càng hay lên và cây đàn bầu cũng được chữa lại cho đẹp hơn. Một đồn mười, mười đồn trăm, cả làng đều biết là y đánh đàn bầu. Hội diễn văn nghệ xã, y được làng mời ra đánh đàn bầu đệm đàn cho tốp nữ hát chèo. Y thích lắm và cũng hãnh diện lắm. Chừng nửa tháng trước ngày biểu diễn, y phải cùng đội chèo làng tập. Cứ tối tối y bắt vợ ôm con trông hàng để đi tập. Vợ y gàn, y gắt: “Biết gì đến nghệ thuật mà gàn. Tôi mà hoạt động nghệ thuật thì mẹ nó chỉ thêm danh giá chứ có mất gì đâu. Thôi, không nói lôi thôi”. Và y được toại nguyện. Trong đội chèo có cô Na mới mười bảy tuổi. Xinh nhất mà hát cũng hay nhất, thêm nữa là tính tình đong đưa, con mắt đa tình. Trước đây vì mặc cảm tật nguyền, y chẳng dám nhìn lâu vào đàn bà, kể cả nhìn trộm. nhưng từ khi có vợ, có con, y thấy mình cũng bình thường như mọi người. Cái chân tuy rếch một chút nhưng hề gì, bù vào đó, mặt mũi y cũng vào loại dễ coi, giờ y lại thêm tài đàn nữa. Các cụ xưa thường chả nói “Gái tham tài…” là gì. Đêm đêm sau buổi tập về nhà, khi ngủ y toàn mơ tường đến cô Na. Cái con bé, da thịt đến là thơm tho, tóc dài và đen, lại luôn gội hương nhu, đến là quyến rũ. Y thấy hình như cái chân thọt của vợ y ngày càng bé đi, da dẻ thì hôi xì, mặt hình như ngày càng thêm nhiều nốt rỗ. Có hôm, nửa đêm y ngồi dậy, ngắm kỹ vợ y ngủ say chảy cả nước dãi, ôm con nằm co quắp như con tôm mà thở dài. Các cô ở đội chèo cũng thính lắm. Thoáng cái là họ biết y phải lòng cô Na. Lúc đầu họ trêu y khi y vắng mặt, sau rồi họ trêu công khai. Họ mang cô Na gán vào cho y. Có cô bảo: “Anh Cõn mà đệm đàn bầu cho cái Na hát thì tuyệt phải biết!”. Nghe được câu đó, y hởi lòng hởi dạ. Còn cô Na , những lúc như thế, chỉ tủm tỉm cười, nhìn lướt trên đầu y không ra chiều đồng ý mà cũng không ra chiều phản đối. Có lẽ con bé nó cũng thích mình thật, chỉ làm bộ vậy thôi, y thầm nghĩ. Đêm hội diễn văn nghệ xã, y như chắp cánh. Y đệm đàn bầu cho tốp hát, rồi đệm cho mình cô Na hát, và y còn độc tấu. Anh chàng giới thiệu giọng như chèo bẻo “Sau đây là tiết mục độc tấu của nghệ sĩ đàn bầu Xuân Cõn”. Y nghe mà sướng mê đi. Và y đàn. Trước mắt y các gương mặt lướt qua loang loáng, người y bồng bềnh như trong mây, đầu y váng vất. Còn gì hơn nữa khi thằng Cõn tật nguyền xưa nay trở thành nghệ sĩ đàn bầu Văn Cõn. Y thấy cô Na hiện ra trước mắt y tình tứ, đong đưa… Chẳng hiểu sao rồi mẹ y, vợ y biết chuyện y mê cô Na. Mà có gì lạ, khi y đã trở thành nổi tiếng cả xã, cả huyện rồi cả nước ấy chứ. Từ đấy y không thiết gì đến quán nước nữa, phó thác toàn bộ cho vợ. Suốt ngày, suốt đêm y tập đàn. Nghệ sĩ thì sao cho ngón đàn phải điêu luyện. Lại còn tâm hồn nữa chứ. Đàn thì tập lâu cũng thạo, nhưng tâm hồn thì tập luyện thế nào để thành nghệ sĩ nhỉ? Y thấy bí quá. Đầu óc y chỉ toàn nghĩ đến con mắt, đến da thịt cô Na mà thôi. Cũng từ ngày cho mình là nghệ sĩ thì y sinh tật cáu gắt. Lẽ dĩ nhiên là cáu gắt với vợ. Hễ vợ y cho y ăn muộn là y cáu, y đang tập đàn, vợ nhờ rửa đít cho con y cũng cáu. Rồi có lần y tát vợ, tát đến nơi đến chốn chỉ vì cái tội vô tình va phải cây đàn bầu tự chế của y treo trên vách làm nó rơi xuống đất. Vừa tát, y vừa rít lên: “Đồ vô học. Đồ thường dân ngu độn. Quân tật…”. Đến đó thì y kịp ngừng lại. Y định rủa vợ là cái đồ tật nguyền, nhưng y chợt nhớ đến thân phận mình. Y ôm mặt khóc tu tu như trẻ con. Vợ y khóc mũi, khóc rãi, chợt thấy y còn khóc to hơn mình bèn nín bặt, bế con ra ngồi hàng. Khóc chán, y ngủ. Lúc đó vợ y thấy thương y lắm, bèn lấy khăn mặt ướt khẽ lau bộ mặt lấm lem cho y thì y choàng dậy, hất tay vợ ra không khiến. Và cứ chiều chiều, y uống rượu. Uống cho say rồi y ôm lấy đàn vừa đàn vừa khóc. Người làng thấy lạ, lúc đầu còn xem, sau quen dần. Hễ thấy cảnh như vậy, lại buông một câu: “Thằng điên”. Song cũng có người khen: “Nghệ sĩ đáo để”. Sau cái tát nên thân ấy, vợ y không dám phàn nàn gì nữa, sống thui thủi, mặc y muốn làm gì thì làm. Còn mẹ y thỉng thoảng từ trong làng ra bảo: “Nghệ sĩ gì đến lần mày. Chịu khó làm ăn cho vợ con nó nhờ mà cũng nhàn cái thân”. Y tức lắm, vằn mắt lên: “Bà biết cái gì. Bà không muốn tôi thành người à? Hay bà chỉ muốn tôi thành cái thằng nửa người, nửa ngợm như trước. Bà có biết bà có tội gì không? Tội là đã sinh tôi ra nửa người nửa ngợm đấy”. Mẹ y tức điên lên, giáng cho y một cái tát nảy đom đóm mắt “Rõ cái quân tật nguyền”, và bà bỏ về làng. Mẹ y về rồi, y trút hết cả căm tức lên đầu vợ y. Y say, y điên và y đánh. Đánh chán chê y mệt quá lăn đùng ra giữa nhà khóc, cào cấu, gặm đất. Vợ y cho con đi ngủ, bỏ mặc y nằm lăn lóc ở trên nền nhà. Cả đêm ấy y nghĩ gì, y sống ra sao, y không tài nào nhớ nổi. Chỉ biết rằng tầm gà gáy, y tỉnh dậy và bò lên giường thì chỉ thấy mỗi thằng bé con nằm ngủ. Vợ y đâu, y không biết. Y ôm con vào lòng ngủ tiếp. Trời sáng bạch, y trở dậy, theo thói quen hằng ngày hỏi: “Mẹ thằng cu đâu, đun nước sôi đổ phích đầy chưa? Không có tiếng trả lời, y bực bội quát: “Tai điếc sao gọi mãi không thưa”. Vẫn im lặng, y đi ra phía ngoài nghe ngóng. Bếp nguội lạnh. Chõng bán hàng còn nguyên xi. Chắc là vợ bỏ vào làng với mẹ, hoặc cùng lắm là bỏ về nhà mẹ nuôi. Ôi dào! Giận với dỗi, vẽ chuyện. Y tự tay làm tất cả. Thằng bé con dậy khóc gọi mẹ, y dỗ dành rồi cho nó ăn. Đến trưa, chiều rồi tối cũng không thấy vợ về, y cũng đâm sốt ruột, lầm bầm: “Đi đâu thì đi quách hẳn cho khuất mắt. Tao sẽ hỏi con bé Na làm vợ”. Vừa lúc ấy thì y nghe tiếng ai đó gọi. Y ló ra, một bà người làng hốt hoảng bảo y: “Thế chú không biết gì à? Rõ khốn khổ. Thím ấy đi đâu mà chết đuối ở ngoài sông kia kìa. Mấy người quăng chài, người ta quăng phải lôi xác lên để trên bờ sông ấy. Đưa con đây tôi bế cho, chạy mau ra ngoài ấy mà xem”. Y đứng lặng như trời trồng. Miệng há ra nhưng không thành lời, như ngày nào y gọi cô cắt cỏ thọt chân… Bây giờ ai có dịp đi qua cái ngã ba phố nơi có chiếc quán nước nhỏ dừng chân nghỉ, khách sẽ được anh chủ quán thọt chân tên Cõn tiếp khá niềm nở. Chủ quán nói năng vừa phải, có duyên, nhưng nếu để ý kỹ, khách sẽ thấy anh ta có một cái tật là thỉng thoảng lấy ngón tay móc vào dây đàn của một chiếc đàn bầu cũ nát, luôn để bên cạnh. Tiếng đàn vang lên đơn lẻ, chẳng ăn nhập vào cái gì. Khách lạ thì không biết, nhưng hễ là người trong làng thì chẳng ai lại không biết đến câu chuyện về nghệ sĩ đàn bầu Văn Cõi thọt chân và còn biết cả chuyện cô Na đã lấy chồng, có hai con, được chồng đưa ra ngoài thành phố sinh sống. Cứ vào lúc nhá nhem, dù quán vẫn còn khách, chủ quán sẽ nhã nhặn cáo lỗi, xin đóng cửa quán vì bận chút việc. Sau khi đã treo chiếc đàn bầu lên vách, đóng chặt cửa, chủ quán dắt thằng con trai, tập tễnh đi về phía bờ sông gần đó… R
<bài viết được chỉnh sửa lúc 10.01.2023 17:52:06 bởi Thanh Vân >
Đám mây che mát trôi qua Truyện ngắn Quang còn rất nhớ buổi đầu tiên gặp gỡ Vân, đám mây che mát trong cuộc đời anh. Hôm đó, do bực mình vì cậu bạn thân lỡ hẹn khi hứa đến đưa anh đi xem mặt một cô gái cùng cơ quan với cậu ta mà cậu ấy định mai mối cho anh, anh đến rạp chiếu bóng gần nhà nhất xem phim dù bất kể là phim gì. Khi anh vừa đến cửa rạp thì một tay phe vé chuyên nghiệp tuổi choai choai có bộ ria con kiến trông đểu đểu xán lại, ấn đôi vé vào tay anh, miệng liến thoắng: - Xem đi anh giai. Phim “Truyện tình cay nghiệt” hay hết ý. Không xem cũng thiệt. - Biết rồi - Quang vờ thông thạo. - Anh giai mua cả đôi chứ? Năm chục nôn đủ - Tay phe hất hàm rất trịch thượng - Thế nàng đâu? - Sao đắt thế? Mà tôi chỉ có một mình? - Sao trên trời. Anh giai trông kẻng thế này mà chỉ đi một mình thôi à? Hắn cười khẩy rất đểu giả - Ờ mà anh giai có tướng sát gái lắm. Có mà cả tá em theo, vạc đi cũng không hết. Muốn xem thì phải bao cả. Vậy thôi. Đắt à? Vớ vẩn. Hắn giật phắt đôi vé trong tay Quang và bỏ đi. Vừa lúc đó thì một ả nhỡ nhừng, áo mút mỏng, quần ngủ hoa, nửa dắt tay, nửa kéo một cô gái khác, chỉ thoáng qua Quang cũng đoán được khoảng hơn ba chục tuổi, xộc đến: - Này bồ, có khách đây. Tay con trai lập tức vui vẻ lại, hắn xông đến nắm tay Quang lôi lại dẻo quẹo: - Tìm được bạn cho anh giai rồi đây. Ta với mình tuy hai mà một. Thôi, ông anh bà chị chịu khó đi xem với nhau vậy. Quang bực mình định giật tay ra song vì quyết chí đi xem, vả lại anh thấy lạ nên để yên xem sao. Người phụ nữ nhìn anh lặng thinh. Và sau đó anh không thể nhớ nổi cuộc mặc cả diễn ra thế nào, chỉ biết sau đó anh nắm chặt trong tay đôi vé cùng cô gái đi vào rạp. Cặp phe tiễn hai người đến tận cửa. Chúng cười cợt và dặn với theo: - Ông anh bà chị tình củ với nhau nhé. Chúc hạnh phúc. Bai. Rõ thật là tình bơ vơ gặp tình đơn côi. Vào hẳn trong rạp Quang như vẫn còn nghe tiếng đùa cợt của bọn chúng. Anh cau mặt bực tức. Bực với ai? Anh? Bọn phe? Hay cô gái? Anh đi thật nhanh bứt hẳn khỏi cô gái song cô cũng thản thiên bước theo anh như cái bóng của chính anh. Người soát vé bấm đèn pin chỉ chỗ cho họ. Thật khốn khổ cho hai người khi phải len qua những dãy ghế chật cứng người và phải nghe những tiếng càu nhàu, thậm chí nguyền rủa vì hai người dẫm phải chân hoặc che lấp mắt họ. Hai người ngồi xuống ghế của mình và lặng lẽ xem. Từ lúc gặp cô ta Quang không hề nghe cô nói lấy một câu kể cả khi đồng ý mua vé chung với anh cô cũng chỉ khẽ gật đầu. Quang ngồi xem nhưng anh bồn chồn không yên. Nhiều lúc anh kín đáo liếc nhìn sang cô gái song cô hầu như không quan tâm đến anh. Cô ngồi ngay ngắn như một bức tượng hai bàn tay đặt hờ trên thành ghế. Cô ta là ai nhỉ? Liệu có nghĩ vơ vẩn như mình không? Cứ thể gần suốt buổi Quang băn khoăn. Gần cuối phim khi chiếu cảnh cô gái trốn chồng chưa cưới chạy theo người tình trên một chiếc tàu thủy; sau đêm ái ân, người tình bỏ rơi cô, cô hối hận định quay về thì người chồng chưa cưới xuất hiện, anh ta kết liễu đời cô bằng một viên đạn, cô từ từ khuỵu xuống vươn đôi tay lên bầu trời cao thăm thẳm, thì cô gái ngồi bên Quang bật tiếng thở dài. Anh rợn người vì tiếng thở dài của cô gái như hơi thở chút của kẻ sắp chết. Khi đèn bật sáng Quang liếc sang ngỡ bắt gặp một khuôn mặt đầm đìa nước mắt - nhưng cô vẫn thản thiên như không. Điều đó khiến anh khó chịu. Cô gái đi trước anh, cố ý tách xa sao không để người anh chạm vào cô - dù trong cảnh chen chúc. Tới cửa rạp, mọi người ùn lại Quang đứng gần như áp sát vào cô đến lúc này anh mới nhận thấy vẻ xúc động của cô. Xuống tới đường, cô ngoảnh lại nhìn thẳng vào mắt anh, chìa tay bắt: - Xin tạm biệt anh - Hơi thoáng ngập ngừng, cô tiếp - Tôi là vân. - Còn tôi… tôi là Quang. Cử chỉ thân mật đến suồng sã trái ngược với vẻ kín đáo ban đầu của cô làm Quang bất ngờ, lúng túng, anh luống cuống đưa cả hai tay ra nắm chặt lấy bàn tay cô đang chìa ra. Bàn tay cô hơi thô ráp so với dáng người chắc lẳn gọn gàng nhưng ấm áp. Quang cảm nhận những mạch máu nơi tay cô rân rân trong tay anh. Ngượng ngùng vì nắm tay cô gái quá lâu anh vội buông ra. Cô gái quay ngoắt người đi và bước quả quyết tới chỗ gửi xe. Quang tần ngần nhìn theo tự nhiên anh thấy mình vô lý. Anh lững thững ra về. Phía trước mắt anh là ngôi sao hôm đang mờ dần và bị che lấp bởi một đám mây đen nham nhở trôi đến như một kẻ hung đồ. Quang không muốn về nhà ngay, anh lang thang trên đường và nghĩ về cô gái tên Vân. Song đi trên quãng đường anh và Thu Phương - người yêu cũ của anh đã nhiều lần kề vai đi bên nhau, thì ký ức về mối tình đó lại cồn lên như sóng. Mùa hè cuối cùng của đời học sinh Quang đã yêu Thu Phương, cô bé cùng phố với anh và học sau anh một lớp có khuôn mặt dễ thương và nhiều nốt ruồi nhỏ trên đỉnh mũi là tăng thêm vẻ tinh nghịch thơ ngây. Trên đường đi học anh thường xuyên gặp cô đi một mình và bao giờ cô cũng đang ăn gì đấy. Khi nhìn thấy nhau cô thường khẽ nguýt một cái tỏ vẻ bất cần rồi lúc lắc người để hai bím tóc đuôi sam nặng trĩu có buộc nơ như đôi bướm quậy tung tăng trên lưng. Một chủ nhật Quang đến trường thăm bác bảo vệ ốm, khi đang bước vội vàng trên khoảng sân trường rợp mát thì Quang nghe tiếng con gái gọi: - Anh gì ơi… Quang ngơ ngác nhìn quanh. Sân trường vắng lặng chỉ có mấy chú chim sẻ đuổi nhau chí chóe. - Đây cơ mà anh. Quang nhận ra tiếng gọi phát ra từ một góc sân trường liền đi tới. Thu Phương ngồi vắt vẻo trên cành cây. Chẳng hiểu lúc lắc thế nào mà đuôi tóc cô bé mắc vào cành cây khiến cô không sao gỡ được. Thấy Quang đến cô vừa sung sướng vừa bẽn lẽn. - Anh làm ơn gỡ hộ em… - Cô làm gì ở trên ấy - Quang vờ như không biết. - Em… Em đọc sách. - Đọc sách? Lại ở tận trên ấy. Con gái gì mà leo trèo gớm thế. Chắc cô cầm tinh con khỉ? - Vâng, đúng thế đấy ạ! Mẹ em bảo vậy mà. Đến thế là cùng. Quang trèo lên gỡ tóc và đỡ cô bé xuống. - Lần sau không được leo trèo nữa nghe - Quang căn dặn vẻ đàn anh. - Vâng, em không dám - cô nói khẽ rồi bỗng phá lên cười tinh nghịch khiến Quang phát cáu. Song tiếng cười của cô đã lôi cuốn Quang cười theo. Và hôm ấy sau khi thăm bác bảo vệ, hai người về cùng nhau. Đó là buổi bắt đầu cho một mối tình dang dở của Quang và nó đeo đuổi, dằn vặt anh gần nửa đời người. * * * Sáng chủ nhật tuần sau, Quang đến rạp chiếu bóng mà anh đã tình cờ gặp Vân từ sáng sớm. Anh xếp hàng mua hai vé. Suốt buổi chiều anh phấp phỏm hết nhìn đồng hồ lại nhìn bóng nắng đợi tối. Anh đến cửa rạp rất sớm. Bọn phe vé túm lấy anh mời chào nhưng anh khinh bỉ thọc tay vào túi không thèm trả lời. Hễ nhác thấy có bóng con gái đi tới là anh lại căng mắt nhìn xem có phải Vân không và tim thì thót lại. Rồi anh lại tự riễu mình vớ vẩn. Mà ngớ ngẩn thật vì hai người có hẹn gì nhau đâu. Chỉ còn vài phút nữa là đến giờ chiếu, khi mà anh đã mất hi vọng thì anh nhìn thấy Vân đi tới. Anh chóng mặt mà không kịp suy nghĩ, anh lao đến nắm tay cô lôi đi: - A… Vân. Vào xem phim với tôi. - À ra anh. Tôi… tôi… - Đi đi. Quang vừa nói vừa kéo cô đi. Khi ngồi yên chỗ anh mới kịp thở. Trời lạnh mà mồ hôi anh toát ra đầy người. - Anh thật là kỳ quặc - Vân trách nhẹ. - Là tôi - Quang hơi lúng túng rồi anh giải thích bừa - Tôi và anh bạn đi xem nhưng khi đến đây thì ở nhà anh ấy có chuyện đột xuất nên người nhà tìm về còn lại mình tôi… May quá gặp lại Vân. Mà vân đi đâu qua đây nhỉ? Đến lượt Vân lúng túng vì cô không ngờ Quang lại hỏi thế. Miệng cô mấp máy mãi mới thành tiếng: - Ồ, tôi đến nhà một người bạn cùng xí nghiệp. Cũng chẳng có việc gì quan trọng cả. Chuyện phiếm thôi mà. Buổi chiếu phim bắt đầu. Cả hai người cùng im lặng bởi họ hiểu nhau là đã nói dối song đôi bên đều cảm thấy hài lòng trước những lời nói dối đó. Ai dám bảo là nói dối đều xấu xa? Lúc tan phim, Vân hỏi như đọc được suy nghĩ của Quang: - Sao anh biết tôi đến mà chờ? - Cũng chẳng hiểu sao - Quang hiểu bây giờ không phải là lúc nói dối còn tác dụng - Tự trong tôi cảm thấy thế nào Vân cũng đến. Thế thôi. Còn vân? - À… - Cô cười - Tôi cũng nghĩ là thế nào anh cũng chờ tôi. Tôi định không đến đây nhưng người cứ bồn chồn không yên. Lần đầu tiên Quang thấy cô cười. Nụ cười của cô thật khó tả. Thấy không khí vui vẻ Quang mạnh bạo hơn: - Như vậy là cả hai chúng ta đều không thờ ơ với nhau, phải thế không Vân? - Anh khôn lắm - Vân nói thay cho câu trả lời - Dẫu sao chúng ta cũng là chỗ quen biết. Chủ nhật sau, nếu anh không bận tôi mời anh xem phim cũng ở đây. - Ồ, tôi đồng ý. Quang cố kìm mình để không reo to lên. Và hai người chia tay nhau. Tối chủ nhật tiếp đó, Quang đến đúng hẹn. Vân đã đến trước đợi anh và cô tỏ ra vồn vã hơn. Phim không hay. Quang đánh bạo rủ cô đi dạo chơi, Vân đồng ý. Đến lúc ấy khi được kề vai đi bên cô - thong thả hít thở không khí trong lành của trời đêm, Quang mới có điều kiện ngắm kỹ Vân. Quang nhận thấy cô nhiều nét quyến rũ hơn khi nhìn thoáng qua. Và đặc biệt là đôi mắt to đen, sâu thẳm và buồn rười rượi. Anh đã nhiều lần nghe mẹ nói rằng những người có đôi mắt như thế là tốt nết song bao giờ cuộc đời cũng long đong lận đận. * * * Quê em ở một vùng chiêm trũng Thái Bình nằm ven con sông Luộc. Tuổi nhỏ chăn trâu cắt cỏ em đã mơ ước được ra sống ở thành phố. Không hiểu sao vầng sáng điện của thành phố lại hấp dẫn em đến thế, và em cũng cứ lao vào vùng sang ấy như một con thiêu thân lao vào ngọn lửa. Học giỏi, thật giỏi chỉ có mục đích ấy mới giúp em thoát khỏi cảnh quê mùa chiêm trũng. Nhưng thật rủi ro em không đỗ vào cấp ba. Song nhất định em phải vào thành phố bằng mọi giá. Thế là em đi. Đường vào thành phố của em phải vòng qua Trường Sơn, qua bom đạn, qua những năm tháng sốt rét rừng đến rụng tóc và mất cả những biểu hiện sinh lý bình thường của phụ nữ. Sau hòa bình em được về thành phố và được ưu tiên đi học một lớp kế toán ngắn hạn. Chao ôi, lúc đó em vô cùng sung sướng. Em cảm thấy mình trẻ lại như tuổi mười lăm. Tóc em lại dài, lại xanh và má em lại hồng. Em biết mình đẹp. Em luôn ý thức điều đó. Chính vì thế suốt những năm tháng chiến tranh, phải sống giữa những khát khao cháy bỏng của đồng đội, nơi mà cái sống và cái chết chỉ cách nhau gang tấc, con người ta dễ tặc lưỡi buông thả miễn sao có được giây phút ấm lòng, em vẫn giữ được sự trinh tiết của mình. Thế nhưng em lại dễ dàng hiến dâng sự bừng nở con gái của mình cho chàng trai thành phố đầu tiên mà em yêu. Đó là người thầy dạy lớp kế toán của em, một chàng trai thư sinh lịch thiệp. Và em đã phải trả giá đắt cho niềm hạnh phúc ban đầu đó. Khi biết em có thai hắn bảo “Tôi không thể bỏ vợ, bỏ con để lấy cô. Cô phải lựa chọn một trong hai điều sau đây, hoặc sinh một đứa con không cha để ôm lấy sự ô nhục, hoặc tẩy rửa nhẹ nhàng cái thai đó đi và trở thành một cô gái trinh tiết?”. Rồi hắn đưa cho em một nắm thuốc. Em ném nắm thuốc vào bộ mặt đểu giả của hắn, còn hắn chỉ khẽ nhếch mép cười rồi thủng thẳng quay đi. Song hắn nói đúng. Chỉ bằng những cách hắn bày ra em mới trốn chạy được sự thật cay đắng ấy. Về nhà em dốc hết lọ thuốc sốt rét vẫn dành dụm; phần thưởng của những năm chiến tranh, uống điên cuồng như thể trả thù một cái gì đó vô định. Không hiểu tại sao em lại không chết sau hàng tháng nằm viện. Em trở về với tấm lòng tan nát đến vô tri vô giác. Tưởng rồi sẽ bứt hẳn khỏi những cám dỗ của cuộc đời, nhưng rồi em lại tình cờ gặp anh, và lại khao khát muốn trao gửi thân phận cho anh… Vân đã nói như thế với anh trong cái đêm hai người ngồi với nhau dưới gốc liễu công viên thành phố. Cô thú nhận đã có thai với anh và cô khóc. Cứ ngỡ như nước mắt của cả thế giới ba phần tư là nước mắt kia dồn tụ lại chảy thành một dòng sông khai sinh ra hết thảy mọi cay đắng và hạnh phúc trên đời. Và anh thành con thuyền không buồm không lái quay cuồng trong dòng sông ấy. Vân bảo: “Nếu anh khinh thường em, không yêu em và từ bỏ em thì em cũng sẵn sàng chấp nhận. Thậm chí em sẽ bỏ đi một vùng nào đó để khuất mắt anh song em không bao giờ từ bỏ đứa con mà em đã đoạt được của anh, đã phải trả bằng mọi giá cho cuộc đời để giành giật lấy”. Quang chỉ còn biết lắp bắp những lời yêu thương như lần đầu được nói. Vân lại nói: “Em biết mà, mới lần đầu gập anh em đã linh cảm thấy anh là người tốt. Em ngu quá phải không anh? Đáng trách nữa vì em đã nghi ngờ tình yêu của anh. Chao ơi em sung sướng quá, hạnh phúc quá. Bây giờ thì em có thể chết được rồi”. Vân còn nói lộn xộn nhiều nữa mà anh không sao nắm bắt nổi, anh chỉ thốt lên được một câu: “Dại nào. Bây giờ là lúc chúng mình đáng sống hơn cả” và ôm riết Vân vào lòng như sợ ai giật mất. Vân dỗi yêu: “Em chết đây, em đi đây”. Suốt đêm ấy anh bồn chồn không ngủ được, chờ trời sáng. Khi anh vừa dắt xe ra cổng thì có một thanh niên phóng xe máy đến, mặt hốt hoảng hỏi: - Anh có phải là Quang không? - Đúng rồi, cậu cần gì? Sau thoáng ngỡ ngàng, anh thầm cảnh giác vì ngỡ đó là kẻ bội bạc trước đây của Vân. - Tôi là em chị Vân. Đêm qua chị ấy bị tai nạn. Xe cán. Nặng lắm. Hiện chị ấy đang cấp cứu trong bệnh viện, không biết có qua được không. Lúc gần sáng chị ấy có tỉnh, nhắc đến tên và địa chỉ của anh rồi lại ngất đi. Anh đi ngay với tôi đến bệnh viện. Quang buông chiếc xe đạp đổ rầm xuống cổng vội vàng ngồi lên xen cậu em Vân. Chiếc xe máy lao đi, Quang chỉ thoáng nghe tiếng mẹ anh từ trong nhà hỏi với ra. Quang đến không kịp, Vân chết. Anh như hóa đá. Mấy ngày sau anh biết thêm về tai nạn của Vân. Một bà lao công chứng kiến tai nạn đêm ấy kể cho anh nghe. Vân đạp xe như thể chỉ có mình cô ấy trên đời. Ba chiếc xe máy phóng như điên từ một ngõ vắng lao ra, một chiếc xô vào Vân và chồm qua người cô. Bọn kia bỏ chạy luôn. Bà lao công vực cô lên xích lô làm phúc đưa cô đến bệnh viện. Vì đêm tối và bất ngờ nên bà không hề biết gì thêm về thủ phạm. Xem như Vân chết vì một trò chơi ngẫu nhiên và tàn nhẫn của cuộc đời. Riêng Quang, anh cứ nghĩ rằng Vân chết là do lỗi của anh. Đêm ấy anh không tiễn cô về như mọi khi. Nhưng thực ra đâu phải là anh không muốn tiễn, Vân bảo để cô đi một mình. Cô muốn được một mình lắng nghe nhịp đập của trái tim, một mình lắng nghe bước chân hạnh phúc đang nhón bước đến với mình. Thật kỳ lạ. Vân là một người kỳ lạ. Kỳ lạ đến tận lúc chết. Phải chăng vì cô ấy tốt quá, bao dung quá, lại luôn nhận phần thiệt thòi về mình trong trò chơi khắc nghiệt của định mệnh? Cô là đám mây kỳ ảo trôi lướt qua cuộc đời anh, nhanh quá, anh không làm sao theo kịp. Ngoài bốn chục tuổi, chưa vợ, mọi người cho Quang là lập dị. Kệ họ, hơi đâu mà lý giải. Hạnh phúc phóng tay với kẻ này lại dè xẻn với người kia. Biết lấy thước gì mà đo để định mức thế nào cho đủ! r
<bài viết được chỉnh sửa lúc 10.01.2023 18:05:51 bởi Thanh Vân >
TÌM TÁC GIẢ MỘT BỨC ẢNH
Tản văn
Trước tiên, phải xin lỗi tác giả bức ảnh này (Hoa gạo), bởi tôi không rõ nguồn gốc và tác giả bức ảnh này là ai, để xin phép khi đăng lại nó trong bài viết này.... Số là, từ vài ba năm nay, mỗi mùa hoa gạo tháng ba, trên mạng xã hội xuất hiện rất nhiều ảnh gạo, một loài hoa được xem như biểu tượng cho tiết đoạn lúc chuyển mùa cuối xuân sang hạ, và là loài hoa linh hồn của đồng quê làng mạc xứ Việt mình. Trong vô vàn các bức ảnh cũ, mới thi thoảng tôi lại bắt gặp bức ảnh hoa gạo này. Tôi để ý, tìm xem nguồn gốc và tác giả bức ảnh là là ai, song đều không thấy ghi rõ. Vậy nên cho đến giờ phút này, vẫn chưa biết ai là người bấm máy chụp bức ảnh hoa gạo này.... Mặc dù, còn lâu mới đến mùa hoa gạo, nhưng tôi chợt nghĩ, cần phải tìm xem tác giả bức ảnh đó là ai? Bởi mới hôm trước, tôi lại thấy nó xuất hiện trong một bài viết ở một Nhóm nọ. Nhưng sao tôi lại muốn đi tìm tác giả bức ảnh này,? Đơn giản, bởi cây gạo trong bức ảnh này là chụp cây gạo làng tôi-làng Thanh Khê, xã Minh Hải, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên. Nhìm bóng dáng cây gạo đặc biệt quang cảnh xung quanh, cho phép tôi nhận diện ra cây gạo làng quê mình. Mấy năm trước, trong khi đăng một bài viết về hoa gạo tháng ba, tôi đăng ảnh những cây gạo trổ đầy hoa đỏ mà tôi chụp được ở đó đây, thì có một người quen đã mách và gửi cho tôi bức ảnh này, kèm theo lời nhắn "cây gạo làng Thanh Khê đây ạ" (tên làng quê tôi). Tôi xem và nhận ra ngay cây gạo làng mình thật. Tôi có hỏi lại ai là tác giả bức ảnh đó thì họ bảo là cũng không rõ, chỉ thấy ở trên mạng, nhận ra nó và lưu giữ lại thôi chứ không rõ nguồn gốc từ đâu và của ai. Nhìn kỹ, chân ảnh bên phải có chữ viết gì đấy nhưng mờ và quá nhỏ nên không đọc được. Chẳng rõ đấy có phải là chú thích và tên tác giả không? Vì không rõ nguồn nên tôi cũng chỉ lưu giữ xem như đây là một hình ảnh về làng quê mình và định bụng sẽ tim xem người chụp bức ảnh này là ai. Sở dĩ, tôi nhận ra ngay cây gạo làng quê mình, bởi từ gần 60 năm trước, tôi dã biết nó. Số là, vào mùa đông năm 1964, khi cuộc chiến tranh chống chống MỸ bắn phá miền Bắc, thực hiện chính sách thời chiến, giảm dân số ở thủ đô Hà Nội, cả gia đình tôi đã chuyển từ ngôi nhà ở 50A Trúc Lạc, phố Phó Đức Chính, phường Trúc Bạch, quận Ba Đình về quê gốc (làng Thanh Khê, xã Minh Hải, huyện Văn Lâm, tỉnh Hải Hưng, sau là Hưng Yên) sinh sống. Nhà tôi được HTX nông nghiệp cấp cho một sào ruộng diện đất 5%, ở cánh đồng làng chỉ cách cây gạo này chừng dăm chục mét. Thê nên, mỗi khi theo cha mẹ và các chị ra làm đồng, tôi đều nhìn thấy ngôi cổ quan có cây gạo này, với vẻ e sợ, bởi người ta vẫn bảo là "cây gạo nào cũng có ma" (thì Thần cây Đa, ma cây Gạo mà). Nói rõ thêm, đây là cây gạo ngay sau lưng Quán Táo, ngôi quán giữa đồng duy nhất của làng tôi. Còn chức năng của quán đồng vùng Bắc Bộ thì xin không nói lại ở đây. Khi ấy, tôi mới 7.8 tuổi thôi nên sợ ma cây gọa Quán Táo là đương nhiên. 10 năm đi học ở quê, rồi cũng phải chăn trâu, cắt cỏ, làm vài việc đồng áng, nên Quán Táo và bóng dáng cây gạo này trở nên gần gũi thân thiết với tôi, bởi đó là nơi nghỉ chân tránh nắng mưa nỗi khi ra đồng. Bọn trẻ con chúng tôi thường chơi ô ăn quan, rải ranh trong quán, rồi nhặt hoa gạo rụng chơi mỗi tháng ba về,... 5 năm học đại học, thi thoảng hoặc kỳ nghỉ hè ở quê, tôi vẫn giúp mẹ tôi chút việc đồng nên cũng hay ngang qua Quán Táo và cây gạo già này. Tôi nhớ, cũng đã từng hỏi han người làng xem cây gạo do ai trồng, có từ bao giờ, thì cũng chẳng ai rõ, chỉ chung chung này nọ cho qua thôi. Mười năm trở lại đây, gia đình tôi dựng ngôi thờ tự trên mảnh vườn quê, nên hàng năm đều dăm ba bận về quê công việc, giỗ chạp này nọ. Mỗi khi ngang qua Quán Táo có cây gạo già này, tôi đều chụp ảnh. Chụp các góc nhìn khác nhau nên thuộc quang cảnh xung quanh ngôi cổ quán và cây gạo. Tiếc là không gặp đúng mùa hoa gạo nên cho đến nat tôu vẫn chưa có bức ảnh nào chụp cây gạo làng mình mùa hoa đỏ. Hình ảnh bà cụ đi dưới tán hoa đỏ với thảm hoa gạo rụng đầy lối đi này hẳn cũng là người làng tôi. Qua bức ảnh, chẳng thể nhận diện người trong ảnh là ai ở làng mình. Bởi với tôi, hoàn cảnh chẳng khác gì người xưa, Hạ Tri Chương (nhà thơ thời Đường) đã nó hộ tâm trạng chung khi viết trong bài tứ tuyệt HỒI HƯƠNG NGẪU THƯ: "Thiếu tiểu ly gia lão đại hồi/ Hương âm vô cải mấn mao tồi/ Nhi đồng tương kiến bất tương thức/ Tiếu vấn khách tòng hà xứ lai." Dịch nghĩa :'Lúc còn nhỏ rời quê ra đi, khi đã già mới trở lại/ Chất giọng quê còn chưa mấy đổi mà tóc đã bạc trắng cả rồi/ Trẻ con ở làng trông thấy mình nào biết mình là ai/ Chúng cười hỏi, rằng khách từ nơi đâu đến đây". Thiển nghĩ, tác giải bức này rất có thề người làng tôi, hay người mấy làng lân cận, mà cũng có thể là dân chơi ảnh tài tử, hoặc giả tay máy chuyên nghiệp nào đó ? P?S: Hôm nay (11/12) lướt Fb tình cờ lại nhìn thấy một bức ảnh khác chụp cây gạo Quán Táo làng Thanh Khe (góc chụp cảnh toàn, thấy rõ cả quán Táo và dòng sông chay qua trước cửa quán). Ảnh cũng không ghi tên tác giả, chỉ nói là lấy trên Fb thôi. Rất có thể dây là bức bức ảnh cùng một người chụp với bức kia. Thôi cứ tạm gắn ảnh lưu vào đây đã. Sẽ tìm hiểu sau.
MINH TRIẾT CỦA DÒNG SÔNG Truyện ngắn @@@
Ngày trước có một cậu bé. Đến tuổi đi học, lần đầu tiên cậu biết được mình đã được sinh ra như thế nào, qua lời kể của người cha. Rằng khi ấy, cậu đã có tới sáu người chị gái, mẹ cậu lại mang thai, lần này thì cả cha lẫn mẹ đều chung một niềm tin mãnh liệt là đứa con thứ bảy sinh ra sẽ là trai. Hôm mẹ chuyển dạ sinh cậu, cha đưa mẹ đến một nhà hộ sinh nằm trên phố bờ đê, đường đi ngang qua một rạp chiếu bóng ngoài trời, khi ấy bắt đầu buổi chiếu bộ phim có tên là Cầu Phúc.Lòng người cha khấp khởi, càng vững thêm niềm tin, có người nối dõi tông đường. Cậu bé được sinh ra từ sự giao hòa giữa khí trời và đất, từ niềm tin của cha và lòng nhân hậu của mẹ. Cậu đâu biết rằng, khi biết tin có con trai, người cha mừng tủi đến nghẹn ngào. Ông lững thững bách bộ, lặng ra đứng trên đê bờ sông Cái lộng gió, mắt dõi vào lòng sông.Trời đêm không rõ gì, nhưng ông biết, phía dưới chân kia, dòng sông đang lũ mùa thu cuồn cuộn trút mình vào biển cả. Ông nghĩ về cội nguồn tổ tiên nông dân thuần phác của mình, về sự khao khát vươn tới ánh sáng tri thức của cả một dòng họ, để có những ông Nghè, ông Cống, ông Tú, và đến thế hệ ông là những ông Ký, ông Phán. Danh vọng và phú quý ư ? Nó đến rồi đi như gió thổi trên thinh không, như nước chảy hoài… Và tự nhiên, người cha nghĩ, mình cùng đứa con trai nối dõi của mình sẽ trở về nơi xuất phát của tổ tiên, sống cuộc sống nông phu chất phác ở chốn thôn dã… Người cha thì thầm với dòng sông trước mặt, với cái chốn thị thành đô hội này, mà một thời ông đã tung hoành, như thế ! … Chiến tranh, bom đạn ngút trời. Bảy tuổi, cậu bé theo cha mẹ về quê sinh sống. Trí óc non nớt khiến cậu tưởng chuyến đi dài không biết ngày trở lại ấy, như bao lần cậu từng theo các chị về nghỉ hè ở quê thăm bà ngoại. Những tháng năm chăn trâu cắt cỏ, mò cua bắt ốc với đám trẻ làng, cậu hiểu thế nào là nắng hè le lưỡi chó, là nước ruộng mùa đông chết cóng cá rô. Những lúc ấy, cậu bé luôn có một ước mơ nho nhỏ song cháy bỏng, đó là lại được bớt tiền mẹ cho xem phim để mua thịt bò khô, ô mai mơ, rồi chờ xem phim tháo khoán, hoặc xem bằng cách leo lên bờ đê nhòm qua lưới mắt cáo của cái bãi chiếu phim ngoài trời, mà xem, như hồi còn ở phố. Ngày ấy, những bộ phim "Tôn Ngộ Không đại náo thiên cung ", "Tôn Ngộ Không ba lần đánh Bạch Cốt Tinh", đã vô tình khơi dậy trong hồn cậu ước mơ bay bổng. Sau này, nghĩ lại thấy buồn cười, song quả là khi đó, nó lại nung nấu tâm trí cậu, thúc giục và nâng đỡ cậu vượt qua hết thảy !... Người cha, trước lúc mất, thì thào đứt đoạn bảo con trai : " Ta đã làm đúng lời hứa… là đưa con…về với cội nguồn xuất phát… của tổ tiên…Đúng hay sai…ta không biết…Bây giờ con đã lớn…con tự quyết định lấy đường đi của mình…Hãy tha lỗi cho ta… những gì ta đã làm cho con…nếu con thấy là …không phải ?!...". Cậu đã khóc, và đó chính là những giọt nước mắt từ giã tuổi thơ, rửa trôi hết bao hờn giận trẻ con… Nước mắt ràn rụa, cậu lặng lẽ nhìn người cha chìm dần vào cõi hư vô… Đường đời vòng trôn thúng, bôn ba khắp nơi, đến khi trở về sống ở chốn sinh thành, thì cậu đã là người đàn ông đứng tuổi, tứ thập bất hoặc. Bao đam mê khao khát thuở nào chỉ còn một nửa, nhìn lạc thú không đến nỗi thèm khát, song cũng chưa tới độ tĩnh tại để bỏ qua… Cái sự dở dở ương ương ấy, có khi lại là nguyên nhân cho biểu hiện của lối sống vật vờ, vô trách nhiệm ?… Cho đến một hôm, tình cờ đi trên phố bờ đê, sực tỉnh nghĩ, sao mình không thử xem lại cái số nhà 29, nơi ngày trước là nhà hộ sinh tư nhân mà mình đã sinh ra ở đó ( giờ đây còn in dấu vết trong tờ giấy khai sinh ), nay có còn không ? Nhả tay ga, chầm chậm nhẩm đếm, 37, 35, 33…ồ đây rồi…29- Cà phê giải khát Nhĩ Hà. Mùi cà phê thơm lựng, mùi sữa ngầy ngậy, mùi quả tươi ngai ngái. Ngang qua rồi, còn ngoái đầu nhìn lại, tâm trạng bâng lâng, tay lái lạng đi, suýt quệt phải chiếc xe máy chạy ngược chiều. " Mắt mù à ? Muốn đi Văn Điển thì bảo với ông mày một tiếng…nhớ"- Cậu thanh niên choai choai phanh kít xe, phùng mồm trợn mắt quát. " Xin lỗi…xin lỗi. Tôi sơ ý ". Xám mặt, toát mồ hôi, nhăm nhăm tập trung tay lái. Đổ dốc…à, còn nhớ trước mặt là bãi chiếu bóng ngoài trời ngày xưa… Lại sừng sững một tòa cao ốc, dễ đến mấy chục tầng. Ngửa mặt ngắm nhìn, lẩm bẩm đếm số tầng. " Chú ơi, đi xe như thế nguy hiểm lắm…Sao chú không đỗ hẳn xuống, mà lại…?". " Cảm ơn ". Thiếu nữ mặc áo dài trắng, đạp xe mini lướt qua, nhắc nhở. Ngẩn người nhìn theo, cô gái khẽ quay đầu mỉm cười. Ồ đúng ra vẫn là một cô bé… Bỗng thấy lòng khoan dung. Nảy ý định, quành xe dọc phố bờ sông. Gửi xe, leo tận lên bờ cỏ. Nhìn chênh chếch ra sông. Bờ bên kia là làng mạc xanh bóng tre. Lũ mùa thu cuồn cuộn nước nâu đỏ. Rẩm riu nghĩ, dòng nước kia từ đâu đến và chảy về đâu ? Từ nguồn, ra biển, thì rõ rồi. Vòng tuần hoàn của nước chính là sự minh triết. Cũng thế, con người nảy sinh, mơ ước, trôi dạt, định hướng, tìm đường, lẩn quẩn nơi ngã ba, ngã tư, dòng xoáy, và đó là cơ hội, lựa chọn hoặc bị xô đảy, lại trôi chảy…lại mơ ước và khát khao mới… Ờ, hôm nào mình phải về quê. Đã lâu rồi không viếng mộ cha mẹ… Rồi ra, mình sẽ làm… mình sẽ…Và mấy đứa con mình lại cũng sẽ làm…sẽ…sẽ…sẽ… R
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.01.2023 01:22:07 bởi Ct.Ly >
NGẪU HỨNG MÙA ÔNG ĐỒ RA PHỐ (TẢN VĂN) @@@
Bản thân, tôi có thú vui là tập và sưu tầm thư pháp Hán Nôm. Thế nên, từ nhiều năm nay, khi thư pháp Hán Nôm trở lại đời sống đương đại thì tôi đã bắt đầu thú vui này. Nhớ lại, khoảng đầu những năm 2000, khi ông đồ Lam Sơn Hồng Thanh bày bàn viết thư pháp ở hè phố đầu dốc Bà Triệu, Hà Nội thì tôi đã có thư pháp của ông. Khi ấy, dân tình bắt đầu biết đến mấy nhà thư pháp tên tuổi ở Hà Thành như cụ Nguyễn Văn Bách ở ngõ Tràng Tiền, cụ Lê Xuân Hòa người gốc xứ Thanh, trẻ tuổi thì có Việt Tàu-Lê Quốc Việt v.v... Kể từ đấy, tôi bắt đầu thú chơi của nình, và cho đến nay, đã có mấy chục bức thư pháp của ta và cả của Tàu. Độ mươi năm nay, thư pháp ở xứ ta nở rộ, nên cứ mỗi năm tết đến, các ông đồ lại ra phố cho chữ thiên hạ. Dăm năm nay, tôi giao lưu với nhà thư pháp Thạch Sơn-Nguyễn Tường Khải, rồi làm quen với các nhà thư pháp khác như Hoàng Chính, Đỗ Tụ, Trúc Lam-Hồ Sỹ Trung, ông đồ Ninh Bình-Hoàng Dũng, và gần đây là Nguyễn Đức Lợi,... Mỗi người, mỗi tài hoa,... Nhớ năm ngoài, do dịch Covid nên Hội chữ xuân Văn Miếu không mở, nhiều ông đồ vắng bóng. Mấy con phố xung quanh Văn Miếu lác đac dăm ông đồ viết chữ nhưng người cho chữ và xin chữ cũng vắng lắm. Khi ấy, tôi đã tức sự nên bài thơ NGẪU HỨNG MÙA ĐÔNG ĐỒ RA PHỐ. Mừng xuân nay, Hội chữ lại mở, bàn dân thiên hạ tha hồ mà vui xuân chơi hội chữ. Nay đăng lbài thơ này để nhớ về một thời dịch bệnh hoành hành, để thêm quý thêm yêu cuộc sống thanh bình, và cũng là biết quý trọng một thú chơi tao nhã của dân mình !... ### Đã vài xuân vằng bóng những ông Đồ thời nay Văn Miếu buồn lá rụng, Hồ Văn lắng mây bay, Nhớ ông đồ Hoàng Chính, vung tay thảo bức Lan, rung râu chòm Đỗ Tụ phất nên sóng Trường giang. Nhớ bạn văn Tường Khải, khoắng bút thảo nét Hành, lại khéo tay thể Sấu, nét gày Tống Huy Tông Bác Trúc Lam xứ Huế, nổi tiếng họa mẫu đơn, mấy năm trau dồi chữ, đợi ngày ra Thăng Long, Anh bạn trẻ Hoàng Dũng xưng Ông đồ Ninh Bình chàng Việt Tàu lập dị thảo thơ và chép kinh,... Mấy mùa qua dịch dã, đành múa bút xó nhà, chữ online lên mạng, cũng đi khắp gần xa, Mùa xuân nay càng nhớ, Lê Xuân Hòa xứ Thanh Tràng Tiền Nguyễn Văn Bách. và Lam Sơn Hồng Thanh,... Những cụ đồ một thuở cho chữ mỗi mùa xuân, giờ vân du cõi hạc,
NGÀY ẤY DÂU XANH Truyện ngắn
Bác bảo vệ cơ quan điện thoại lên phòng nói rằng tôi xuống ngay cổng thường trực có khách đang đợi. Vốn nhiều khách và đã quen với việc này rồi, tôi nấn ná gõ mấy chữ thêm mấy dòng cho hết mạch suy nghĩ rồi mới buông máy xuống cổng thường trực. Thấy tôi bước vào, hai khách - một nam, một nữ đứng dậy nhìn tôi chằm chằm. Tôi cũng nhìn họ vì đoán đó là khách cần gặp mình. Cả hai, tôi không quen mặt. Cô khách tuổi trạc ba mươi, người gầy gò, thấy tôi, mắt ánh lên, cố nén để không reo lên: “Kìa… Anh Huân! Ôi anh chả già tý nào cả…”. Tôi vẫn chưa nhận ra người đàn bà vừa gọi tên mình và còn khen mình trẻ là ai, nên đành cứ ầm à trong miệng. Người đàn bà dường như bắt gặp vẻ dò hỏi trong mắt tôi, mặt ỉu xịu: “Thế ra, anh vẫn chưa nhận ra em là ai à?”. Tôi hết đường bèn thú thật: “Qủa là tôi vẫn chưa nhận ra… chị… anh… là”. Lấy lại vẻ bình thản, cô ta bảo: “Em là Lụa, em gái anh Lĩnh. Hẳn bây giờ thì anh nhớ rồi chứ?”. Tôi reo lên: “Lụa đấy à! Sao bây giờ trông em khác thế. Gầy đi bao nhiêu…”. Lụa cười: “Và già nữa phải không anh. Em giới thiệu với anh, đây là Trí, chồng em… Còn đây là anh Huân, như em đã có lần kể với anh”. Lụa quờ tay, nắm tay chồng kéo lại gần tôi. * Mười lăm năm trước, tôi và Lĩnh anh trai của Lụa cùng tốt nghiệp đại học một khóa với nhau. Cả hai đều được phân công vào Nam công tác. Hôm lên trường nhận quyết định, Lĩnh rủ tôi: “Về nhà tao chơi đi. Vùng quê tao đẹp lắm. Người có máu thi sĩ như mày chắc mê ngay” . Nghe Lĩnh rủ bùi tai, và vốn sẵn máu phiêu lưu, vả lại trước khi vào đồng bằng Nam Bộ cũng cần chút nhàn tản để khắc sâu hình ảnh đồng quê châu thổ sông Hồng vào tâm khảm, tôi đồng ý ngay. Thế là hai đứa hai chiếc Phượng Hoàng, đạp như bay về quê Lĩnh. Đấy là một làng quê nằm ven bờ sông Đáy, chuyên nghề tằm tang từ cổ xưa. Mẹ Lĩnh là công nhân trại tằm, nên cả gia đình sống ngay tại căn hộ tập thể của trại liền giáp với bờ sông. Về đến nhà thì trời đã tối. Cả nhà đã ăn cơm xong. Lĩnh phụng phịu kêu đói. Bà mẹ cuống quýt lo việc cơm nước cho hai đứa, còn ông bố ngồi lên bàn nước, thủng thẳng đôi câu giọng Huế và hút thuốc lào vặt, mỗi lần hút lại sặc sụa ho từng hồi dài đến là sốt ruột. Lĩnh cứ đi ra đi vào, luôn miệng khi thì nũng nịu mẹ, lúc thì cằn nhằn bố. Lĩnh hỏi: “Thế cái Lụa đâu?”. Mẹ Lĩnh: “Cơm xong là nó lấy xe đi luôn, nói là vào làng ngủ với bà”. Bố Lĩnh ca thán: “Chẳng biết có đậu đại học không. Trượt rồi ở nhà làm gì?”. Mẹ Lĩnh: “Ôi dào, ông thì chỉ… Trượt thì sang năm thi nữa. Cùng lắm thì ở nhà chăn tằm”. Lĩnh tỉnh bơ: “Lấy chồng, đẻ con là xong”. Mẹ Lĩnh mắng: “Bậy nào”. Vì đạp xe mệt, hai đứa chúng tôi ngủ như chết. Ngủ sâu nên tỉnh sớm. Trời tờ mờ sáng. Nằm im nghe không gian. Tiếng gà gáy, tiếng chó sủa rấm rẳng từ trong làng vọng ra. Lĩnh vẫn ngủ say. Mẹ Lĩnh đã trở dậy từ bao giờ, lúi húi bên bếp chuẩn bị bữa sáng cho cả nhà. Chợt tôi nghe tiếng hát, giọng con gái còn non: “Dòng sông Đáy quê em, sông trăng hay sông lụa. Nong kén vàng như lúa…”. Mẹ Lĩnh: “Lụa ơi, vô ý thế con. Mới sớm ra mà ông ổng”. Cô bé Lụa dựng xe đạp, nói to: “Con hát để đánh thức anh Lĩnh dậy. Anh Lĩnh về tối qua phải không mẹ?”. Mẹ Lĩnh thì thào: “Ừ… có cả bạn anh ấy nữa”. Cô bé: “Chết thật!... Con vô ý quá”. Rồi hai mẹ con thì thầm với nhau. Tôi vờ ngủ say, không dám cựa quậy gì. Hình như Lụa nhóm chân ra sân. Lát sau đã lại nghe tiếng cô hát ở phía nhà tắm: “Dòng sông quê anh, dòng sông quê em. Sóng xanh như mắt trẻ. Sao giống nhau đến thế…”. Bữa ăn sáng, tôi giáp mặt Lụa. Tuổi già mười sáu là cùng. Da trắng bụ, mặt không xinh nhưng ưa nhìn và có vẻ thông minh. Mắt to đen ánh lên vẻ tinh nghịch. Lụa ngồi đầu nồi, xới đưa tôi bát cơm nếp sắn đầy ú ụ. Thấy thế, bà mẹ kêu lên: “Xới vơi vơi thôi chứ con… Sợ người ta đòi nồi à?”. Lụa cười hồn nhiên: “Con biết… Nhưng mà con sợ anh Huân làm khách ăn có một bát rồi lại đói”. Bà mẹ nói như thanh minh hộ con gái rượu: “Em nó có lớn nhưng không có khôn. Hãy còn vô ý vô tứ lắm. Có gì không phải anh bỏ quá cho nghe”. Tôi lúng túng đỏ mặt chẳng biết nói gì. Lĩnh bảo em: “Lụa thạo việc chăn tằm, giới thiệu cho anh Huân nhé”. Lụa cười: “Chỉ sợ anh Huân không thích”. Lụa đưa tôi vào nhà tằm, líu ríu giới thiệu cho tôi nhưng nào tôi có tâm trí đâu mà nghe. Tôi mải nhìn bàn tay em rắc dâu cho tằm ăn. Đám công nhân nữ cùng đội với mẹ Lụa, tuổi ngoài đôi mươi thôi, nhí nhéo trêu: “Lụa ơi, người yêu đấy à”. “Trông đẹp trai đấy”. Có cô táo bạo hơn: “Lụa ơi, nhường cho chị đi. Em còn trẻ, khối đứa theo, chị già rồi, đang sợ ế đây. Chị lạy em đấy!”. Trêu đùa Lụa rồi các cô cười rúc rich. Tôi ngay như trời trồng. Còn Lụa, lúc đầu có lung túng nhưng rồi cô bé xoay chuyển tình thế: “Ai lại nhường người yêu bao giờ. Mới lại, anh Lĩnh em, đẹp trai đấy chứ. Có chị nào chấm không, để em về bảo với mẹ em cho”. Ra khỏi nhà tằm, tôi bảo: “Các chị ấy miệng lưỡi mới khiếp chứ! Mà em cũng đáo để”. Lụa cười, nghiêng nghiêng mặt: “Em không làm thế anh có mà chết với các chị ấy” - Lụa đỏ mặt, cúi đầu: “Em xin lỗi anh… vì đã vơ vào”. Thấy Lụa như vậy, tự nhiên tôi mạnh dạn bạo hẳn lên và tung ra một câu lửng lơ: “Biết đâu đấy…”. Buổi chiều, hai bố con Lĩnh lôi cưa đục ra chữa lại mấy cái ghế và chiếc bàn long chân. Lụa gọi tôi ra một góc thì thào: “Anh vào làng với em đi”. Đang loanh quanh không biết làm gì, được Lụa rủ tôi hân hoan đồng ý ngay. Tôi đèo Lụa và trên đường đi, cô bé nói là vào làng thăm bà: “Bà ngoại em dạo này yếu lắm. Cậu em đón ra thành phố bà không chịu. Mẹ em bảo về ở với nhà em cũng không nghe. Bà em nói là bà sống chết ở mảnh đất nhà để hàng ngày hương khói cho ông ngoại em”. Chúng tôi phải dắt xe ngoằn ngoèo qua mấy cái ngõ nhỏ lát gạch nghiêng long lở. Căn nhà bà ngoại Lụa lấp dưới lũy tre và lút đi bởi vườn dong giềng trổ đầy hoa đỏ. Chiếc sân gạch Bát Tràng tãi đầy lá tre khô. Lụa lên tiếng gọi mấy lần mới nghe thấy bà cụ trả lời đâu dưới bếp. Lụa giải thích: “Bà em nặng tai. Anh có nói gì thì nói to nhé”. Chúng tôi vào bếp, thấy bà cụ lưng còng gập đang đun gì trong chiếc nồi đồng điếu nhỏ. Lụa mở vung: “Sao bà luộc khoai? Bà còn chưa khỏi ốm cơ mà. Thôi khoai để chúng cháu ăn cho. Giờ bà để cháu nấu cho bà nồi cháo”. Lụa mở túi xách lấy gói đỗ xanh cà sẵn bắc nồi nấu cháo. Bà cụ mời tôi lên nhà, run run rót ấm nước vối ủ ra mời tôi. Tôi ngồi nói chuyện cùng bà cụ. Câu được câu mất song tôi cũng hiểu thêm về gia cảnh nhà Lụa. Bố Lụa người gốc Huế, tập kết ra Bắc rồi lấy mẹ Lụa người làng tằm đây. Thống nhất rồi, về thăm quê và muốn đưa cả gia đình vào trong ấy, nhưng bà vợ thì dùng dằng chưa quyết bởi không đành để bà cụ lại một mình trong khi bà cụ nhất định không chịu ra thành phố với con trai. Dường như bà cụ mất rồi mọi chuyện mới tiếp nối, mà người già thì như trái chín cây, biết ngày giờ, tháng năm nào rụng. Lát sau Lụa bưng cháo lên. Bà cụ ăn cháo và chợt nhớ ra hỏi: “Thế anh gì đây là… gì với cháu?”. Lụa cười hồn nhiên: “Bà ơi, anh ấy là bạn học với anh Lĩnh cháu”. Trời ngả chiều, tôi và Lụa chào bà cụ ra về. Lụa còn nấn ná căn dặn bà cụ mãi. Lụa thở dài: “Em lo cho bà em lắm. Em muốn được theo học ngành y nhưng năm nay có lẽ trượt mất”. Trên đường bờ sông, mấy đứa trẻ chăn trâu chơi dưới bãi dâu ven sông trêu: “Ê kìa… đôi một xe… ê ê”. Tôi loạng choạng suýt đâm xe xuống vệ sông, may mà Lụa nhảy xuống kịp thời nắm pooc-ba-ga kéo lại. Tôi rủ Lĩnh ra sông tắm, nhưng công việc còn chưa xong, Lĩnh bảo: “Mày dân phố, thấy sông thì thích, chứ tao ở quê chỉ thấy nước sông đục và bẩn bỏ sừ ấy. Mày tắm một mình đi, nhưng mà có biết bơi không đấy? Nhớ đừng làm mồi cho cá nhé”. Tôi ra sông một mình. Bỏ quần áo dài dưới gốc đa trên cầu gạch bên sông. Mùa này nước sông không to, tôi mạnh bạo bơi ra giữa dòng lặn ngụp, rồi nằm ngửa trên nước mà nhìn trời. Dâu đôi bờ lá vàng, lá xanh. Đôi con diều giấy chấp chới trên không. Khói chiều từ những nếp nhà kề bên sông lên thơm nồng. Trời chạng vạng. Sớm mai tôi sẽ rời nơi này về thành phố và chuẩn bị cho một chuyến đi xa… Chợt nghe có tiếng khoát nước nơi cầu sông, tôi đánh mắt nhìn vào. Thì ra Lụa với đôi thùng gánh nước, chắc là tưới cây. Tôi nghĩ, cô bé siêng năng thật. Rồi tôi lại lan man, hay là cô bé biết mình tắm nên kiếm cớ ra vậy. Nhớ đến những câu trêu đùa, hoặc câu hỏi vô tình của mọi người về mối quan hệ của tôi với Lụa, tôi cười thầm và thấy khoai khoái. Cô bé còn trẻ con mà. Tôi thì có gì già đâu, nhưng tôi lại thèm sự trẻ trung, tham vọng nhưng đầy lo âu của cô bé. Lụa vẫn gánh nước, một chuyến, rồi hai chuyến, ba chuyến… Vừa lan man tôi vừa nhẩm đếm. Đột nhiên có tiếng đập nước mạnh. Tôi lật người nhìn vào cầu sông. Thì ra Lụa bị ngã, không hiểu do trượt chân hay tuột thùng. Tôi hốt hoảng bơi vào. Đến nơi thì Lụa đã nhoai lên được, ngồi xuống bậc cầu. “Em làm sao thế? Có việc gì không?” - Tôi dồn hỏi. Lụa còn chưa trấn tĩnh lại: “Không việc gì đâu. Cầu trơn quá”. Tôi khuyên: “Em đừng gánh nữa Lụa à”. Nhưng bất chấp, Lụa vẫn múc đầy hai thùng nước và móc vào quang gánh. Tôi nổi máu anh hùng: “Hay để anh gánh về cho”. Lụa cười: “Anh không gánh được đâu. Em lạ gì…Cũng như anh Lĩnh em vậy. Trông kìa, cái bả vai lưỡi hái của anh thì chỉ đặt thanh củi lên cũng đau rồi”. Lụa quả quyết cất gánh lên vai và bước từng bước cẩn thận lên từng bậc gạch. Tôi đứng nửa người dưới nước nhìn lên. Lúc bình thường, nhìn Lụa trong bộ quần áo rộng tưởng cô bé còn trẻ con lắm. Bây giờ, quần áo ướt bết vào người, cơ thể Lụa hiện lên mồn một những đường cong mềm mại, cho tôi cái cảm giác Lụa đã là một thiếu nữ thực sự đầy sức sống. Tôi nhìn theo đăm đắm và chợt thấy người mình nóng dần lên… Tối ấy, nhà thịt gà làm bữa tươi. Tôi cũng nhấp chút rượu cùng hai bố con Lĩnh. Sau bữa cơm, cả nhà quay quần quanh bàn nước. Có tý men lên Lĩnh hưng phấn. Bình thường cậu ta ít nói nhưng lúc ấy lại nổi hứng tìm cây ghi ta cũ kỹ vừa đàn vừa hát. Lúc đầu, Lụa chỉ ngồi nghe và rúc rích với mẹ, sau hát theo. Vui nữa, Lụa còn bảo Lĩnh đàn hết bài này đến bài khác cho Lụa hát. Giọng Lụa không hay nhưng được cái không phô nhạc. Tôi không thuộc bài hát nào song cũng võ vẽ đôi câu nên bị không khí vui tươi cuốn hút và lẩm nhẩm theo. Đang vui thì nhà có khách. Đúng ra là một cậu bé trạc tuổi Lụa, cùng vừa tốt nghiệp phổ thông với Lụa. Cậu ta gầy gò, khuôn mặt trắng xanh dài dài và bị choán hết bởi cặp kính dày như đít chai. Cậu ta rụt rè ngồi xuống ghế, lóng ngóng đón chén nước từ tay bố Lụa nhưng lại làm rớt, nước đổ lênh láng ra bàn, may mà không vỡ chén. Cậu ta lắp bắp xin lỗi mãi. Khi Lụa thôi hát để tiếp cận cậu thì cậu ta lại đưa hai tay lên xua xua: “Kệ mình… Lụa cứ hát với các anh cho vui”. Lụa đắn đo rồi mặc cậu bạn lại giục Lĩnh đàn hát tiếp. Để ý quan sát, tôi thấy cậu bé cứ ngọ nguậy như ngồi phải gai. Hai tay cậy đan vào nhau, xoắc xó sốt ruột. Tôi chủ động nhắc Lụa: “Thôi em ạ, xem bạn cần gì không”. Lụa hỏi: “Ấy sang chơi hay còn có việc gì nữa. À chút quên không giới thiệu. Đây là anh Huân, bạn học với nhà Lĩnh mình. Các anh ấy sắp vào tận miền Nam. Còn đây là Trọng, bạn học phổ thông với em. Học toán giỏi lắm và có ước mơ trở thành nhà phát minh”. Cậu bạn được giới thiệu lấy làm hãnh diện, mặt hân hoan bảo: “Mình kém lắm. Lụa nói thế các anh ấy cười cho”. Trước khi chào ra về, cậu ta rủ: “Mai mình với Lụa lên huyện xem điểm thi đại học đi. Mình nghe nói có kết quả rồi đấy. Nghe đâu khối người đỗ”. Lụa cười buồn: “Chắc là có cậu. Tớ chẳng đi đâu. Tớ tự biết trượt rồi”. Câu nói của Lụa nhắc mọi người trở về với thực tế. Lụa tiễn chân bạn ra ngoài. Cả nhà im lặng không ai nói gì. Mẹ Lụa thở than: “Học tài thi phận”. Lụa quay trở vào, kêu to: “Mẹ ơi, trời mưa. Lúc chiều con quên không nhắc bà hễ trời mưa đừng có ra ngoài đi tiểu mà ngã chết. Đêm hôm thế này, sân lại trơn. Hôm nào con phải nạo hết rêu đi mới được. Đến là khổ”. Lĩnh thủng thẳng: “Mới tí tuổi đầu mà việc gì cũng lo, lúc nào cũng kêu khổ, rồi sau nó vận vào thân đấy, nghe chưa em”. Lụa vênh mặt: “Kệ em”. Đêm ấy, hình như cả nhà mất ngủ. Và chắc chắn, mỗi người đều có lý do riêng để mà mất ngủ. Trời vẫn mưa. Tôi lo ngày mai đi sớm đường trơn. Được xem tằm ăn lá dâu rồi nên lúc ấy tôi nghe tiếng mưa, hiểu vì sao người nhạc sĩ họ viết “tiếng mưa như tiếng tằm ăn”. Và tôi thiếp đi… Hôm sau, tôi và Lĩnh đi sớm. Mẹ Lĩnh lục đục chuẩn bị các thứ. Lĩnh cằn nhằn: “Con lên trường giải quyết giấy tờ mấy hôm rồi về, chứ có đi ngay đâu mà mẹ chuẩn bị lắm thứ thế”. Lụa cũng trở dậy, lặng lẽ chẳng nói gì. Lụa cầm đèn soi đưa tôi và Lĩnh ra tận bờ sông. Đến chỗ cây đa đầu sông, cô dừng lại, đưa bàn tay về phía tôi: “Chắc anh Huân ít có dịp trở lại đây. Thôi chúc anh đi chân cứng, đá mềm!”. Lụa không còn là trẻ con nữa rồi. Đúng thế, và cũng chỉ từ chiều qua thôi. Tôi nhìn Lụa, cảm động, nắm bàn tay cô và từ từ siết chặt…Hai thằng đạp xe đi. Trời vẫn tối đen còn chưa rõ đường. Hết bờ sông gập ghềnh, chúng tôi xuyên qua những làng những xóm. Đi đến đâu, để lại sau lưng tiếng chó sủa dây truyền… * Vào Nam, tôi và Lĩnh, mỗi người sống ở một vùng. Gần hai năm sau chúng tôi mới gặp lại nhau. Lĩnh cho biết, năm ấy Lụa trượt đại học nhưng năm sau lại đỗ thủ khoa. Bà ngoại Lĩnh đã mất và cả nhà chuyển về sống ở quê nội. Lụa học đại học ở Huế. Lại bẵng đi, cho đến khi chuyển hẳn về Hà Nội. Trước khi ra, tôi thăm khắp lượt bạn bè để chào tạm biệt và tôi gặp lại Lĩnh. Lĩnh già đi nhiều, đã lấy vợ, có con, uống rươu khá và thêm tật hút thuốc nặng. Tôi hỏi về Lụa thì Lĩnh bảo là sắp tốt nghiệp đại học. Lĩnh gợi ý: “Nếu cậu cần gặp nó, tớ cho địa chỉ, lên Sài Gòn, trước khi lên tàu cậu điện cho nó. Nó sẽ ra ga Huế đón gặp ở đó”. Tôi thấy hay và đã làm theo. Quả là tôi muốn biết Lụa thay đổi ra sao. Tàu đến Huế, đỗ nửa tiếng. Tôi xuống sân ga tìm, nhưng mãi chẳng thấy đâu. Hay là tôi không nhận ra Lụa nữa. Gần hết giờ, nhà ga thông báo tàu sắp chạy, tôi nhìn quanh một lượt và thất vọng bước lên bậc tàu. Vừa lúc ấy, tôi nghe tiếng gọi: “Anh Huân ơi!”. Quay lại, thôi đúng là Lụa rồi. Cô lớn vổng lên, chững chạc và cũng xinh ra nhiều. Tàu chuyển bánh. Tôi đứng ở bậc lên xuống nói chuyện với, còn Lụa thì bước gằn theo nhịp tàu nhanh dần. Lụa bảo: “Ôi tiếc quá, em đi thực tập về, nhận được điện muộn quá, vội nhờ người chở xe máy ra đây… Từ ngày vào đây, em chưa ra thăm quê ngoại. Nếu có dịp ra ngoài ấy, anh em mình cùng về đó nhé”. Tôi chỉ nghe mà chẳng nói được gì. Từ đó đến nay gần chục năm trời. Lụa lấy chồng, có con và chắc cũng thành đạt trong công việc, bởi thế bây giờ cả hai vợ chồng dắt nhau ra Thủ đô học thêm để lấy cái bằng thạc sĩ. Cũng như tôi, đâu ngờ mình lại chuyển sang làm báo chuyên nghiệp. Cuộc đời nhào luyện và làm cho con người ta cứng cỏi hơn lên. Nhưng Ông Xanh quái ác chẳng cho không ai cái gì bao giờ. Cho sự từng trải, thành đạt thì lại lấy đi tuổi trẻ, sự hồn nhiên vô tư. Cuộc gặp mặt sau từng ấy năm lại bình thường làm sao. Bao nhiêu là đổi thay mà ai nấy cũng chỉ nói đôi câu là hết chuyện. Người lớn chỉ làm ăn, toan tính thôi chứ cần gì chuyện. Trong câu chuyện với hai vợ chồng Lụa, tôi sơ ý buột ra một câu khi thấy chồng Lụa to béo, còn Lụa thì gầy quắt đi: “Anh bạn, ăn hết của vợ hay sao mà để vợ gầy thế!”. Dù là nói đùa thì vẫn là nhỡ lời. Chồng Lụa cười mà miệng méo đi. Tôi biết chàng ta phật ý. Tôi dặn hai vợ chồng Lụa quay lại vào buổi khác để mời xuống thăm nhà tôi. Nhưng chờ mãi, hết thời gian vợ chồng Lụa học ở Hà Nội mà không thấy họ quay lại. Có lẽ chồng Lụa bực mình với tôi về câu nói đùa nhỡ lời, còn Lụa thì giận vì lúc gặp lại, tôi đã không còn nhớ Lụa là ai. Mà cũng có thể Lụa chẳng còn chuyện gì để mà nói. Lúc đó thì tôi quên. Còn bây giờ, tôi biết chắc là mình sẽ không quên, rằng ngày xưa ấy bên dòng sông Đáy, ở một làng tằm, dâu xanh… Tháng 10/95 R
<bài viết được chỉnh sửa lúc 08.03.2023 06:01:42 bởi Ct.Ly >
ĐI TÌM THI PHÁP THƠ TRẦN ĐĂNG KHOA ChÂN DUNG VĂN HỌC Thực ra, từ hơn chục năm trước, tôi đã ý thức muốn tìm hiểu phương pháp sáng tác thơ Trần Đăng Khoa. Trong một bài viết về thơ Trần Đăng Khoa thời kỳ ông du học ở Liên Xô, tôi đã bàn thêm về thơ ông thời kỳ ông còn nhỏ tuổi đi học ở quê (tập thơ Góc sân và khoảng trời cùng một số trường ca khác). Bài viết đăng báo và sau được tôi tập hợp vào tập sách chân dung văn học của tôi có tên Trời đất thu hay lòng ta thu (NXB Dân trí, 2016). Ở đấy, tôi đã đưa ra nhận định, không có thơ Trần Đăng Khoa thiếu nhi, mà chỉ có thơ Trần Đăng Khoa sáng tác khi tác giả ở lứa tuổi thiếu nhi. Điều này khẳng định, những bài thơ được Trần Đăng Khoa sáng tác từ khi tác giả sáu, bảy tuổi ngày ấy, không phải là thơ thiếu nhi theo đúng nghĩa, thiếu nhi nghĩ sao viết vậy, phù hợp với lứa tuổi của mình, mà là những bài thơ mang sức vóc và suy nghĩ của người đã trưởng thành, dù ở lứa tuổi nhỏ, về các sự kiện, vấn đề lớn, thậm chí mang tính thời đại... Điều đó, cũng có nghĩa, thơ Trần Đăng Khoa, dù ở lứa tuổi nào, cũng đều nhất quán về ý nghĩa tư tưởng và phương pháp sáng tác... Tôi cũng đã nghĩ về phương pháp sáng tác thơ của Trần Đăng Khoa từ lâu rồi, nhưng chỉ lờ mờ rằng thế này, thế nọ... Là bạn thân với Trần Đăng Khoa từ thời học trò, sau lại đồng nghiệp báo chí cùng cơ quan, nên mỗi khi xuất bản tác phẩm mới, hay tái bản tập thơ cũ, ông đều tặng sách tôi. Mươi năm trở lại đây, mỗi khi ký tặng sách, Trần Đăng Khoa đều thân mật bảo: “Ông về đọc kỹ hộ tôi cái, xem còn những bài nào đọc được...thì đánh dấu vào đấy và cho tôi biết nhé...Tôi muốn xem, sau ngần ấy năm, bài nào còn sống được đến bây giờ?”. Tôi đọc lại và cũng đánh dấu khá nhiều bài, nhưng chưa nói lại với ông... Cho đến một lần, đâu năm 2015 thì phải, Trần Đăng Khoa tái bản Tuyển thơ khá dày. Khi ký sách tặng tôi, ông quen miệng lại dặn tôi đọc kỹ và chọn những bài còn thấy được cho ông. Tội nhận lời chiếu lệ cho xong, cất vào cặp. Ngày hôm sau, tôi phải dự một hội thảo lớn ở trung ương theo thành phần được triệu tập. Nửa buổi ngồi nghe các báo cáo, tham luận viết sẵn được các diễn giả đọc oang oang trên hội trường, tôi ngán ngẩm, lục cặp thấy tuyển thơ của Trần Đăng Khoa bèn lôi ra đọc. Một ý nghĩ lóe lên trong đầu, rồi theo đó mọi sự sáng rõ. Tôi đọc ngấu nghiến Tuyển thơ Trần Đăng Khoa. Vẫn đó những bài thơ cũ, mà nhiều bài ông làm từ khi còn ở tuổi thiếu nhi, tôi thuộc nằm lòng, vậy mà giờ như mới. Là bởi, tôi bỗng nhận thấy ở đấy dạng thức mà trước đó tôi chưa từng nghĩ tới. Giờ thì rõ mồn một, từng chữ từng câu, từng ý. Thậm chí, tôi còn hình dung, mường tượng trong đầu, khi sáng tác bài thơ này bài thơ nọ thì Trần Đăng Khoa nghĩ gì, làm như thế nào... Tôi lấy bút, đánh dấu bài, gạch chân, viết chua ra bên lề nhận định của mình, sợ sẽ quên đi mất. Hết ngày dự hội nghị hôm ấy, tôi đã cơ bản làm xong cái việc mà tôi cho là khá lớn khiến tôi suy nghĩ nhiều năm qua... Có thể nói, phương pháp sáng tác thơ của Trần Đăng Khoa thuộc dạng thức quan hệ sau: Động-Tĩnh, Thực-Ảo, thủ pháp hoán vị, lối đồng dao, ví von so sánh, phép nhân cách hóa, tạo dựng không gian cho mỗi bài thơ và cuối cùng là có những câu thơ cất cánh. Còn theo phương pháp khoa học, hầu hết các bài thơ của Trần Đăng Khoa đều theo phép quy nạp, hoặc diễn dịch, hoặc cùng lúc cả hai. Tùy bài mà tác giả dùng cách này, hay cách kia, hoặc dùng cả hai cách trong một bài. Ngay trong bài thơ đầu tiên, Con bướm vàng, ta thấy ngay mối quan hệ thực - áo rất rõ: “Con bướm vàng/ Con bướm vàng/ bay nhẹ nhàng/ trên bờ cỏ/ em thích quá/ em đuổi theo/ nó vỗ cánh/ vút lên cao/ em nhìn theo/ con bướm vàng/ con bướm vàng”. Ở đây, những câu thơ đầu là tả thực, thì mấy câu kết “em nhìn theo/ con bướm vàng/ con bướm vàng” đã là ảo rồi. Nhờ mấy câu kết này, bài thơ chuyển thành hư ảo, không sa kể lể tầm thường. Nó là chuyện về con bướm đấy. Cũng là chuyện về tuổi thơ. Tuổi thơ đến rồi đi. Có nhìn theo, đuổi theo, cũng không níu được. Không vươn tới được. Nó là chuyện của Khoa, cũng là chuyện của tất cả mọi người. Cái tuổi thơ thực đấy mà ảo đấy. Mỗi khi đọc bài thơ này, tôi lại liên tưởng đến một bài thơ khác của Trung Quốc. Chuyện rằng, vua Càn Long nhà Thanh trong một lần du xuân vãng cảnh cùng quần thần, thấy những cánh hoa đào mỏng manh rơi rụng tơi bời xuống cỏ xanh rồi bị gió cuốn bay đi mất, đã tức cảnh làm thơ “Một cánh/ hai cảnh/ rồi ba cánh/ bốn cánh/ năm cánh/ sáu, bảy cánh/ rơi xuống cỏ xanh/ bay mất tăm...”. Trong khi cả đám quần thần tung hô khen hay thì một đại quan thưa rằng: “Thơ của bệ hạ giống như đám dân chài lưới ở quê thần cùng hò nhau kéo lưới vậy...”. Cả đám quần thần thất kinh và vua Càn Long thì cụt hứng tỏ vẻ bực tức thì vị quan ấy thẽ thọt: “Mấy câu thơ đầu, đếm một hai ba bốn năm sáu bảy ấy thì giống hệt dân chài quê thần đếm hò dồn sức kéo lưới,... nhưng hai câu kết rơi xuống cỏ xanh/ bay mất tăm thì thật thần kỳ, khiến cả bài thơ không những thoát khỏi hệ đếm tầm thường thô tục, mà còn làm bài thơ thanh thoát, hư ảo, chẳng khác gì chắp cánh cho bài thơ bay vút lên”. Lúc ấy, vua tôi cùng òa lên vui sướng. Người làm thơ tài tình thay, song người bình còn tài tình hơn. Bài thơ Chiếc ngõ nhỏ, là một bài thơ rõ nét quan hệ Động-Tĩnh. Gần như bài thơ là sự kể chuyện, tác giả vẽ lên các bức tranh tĩnh vật, nhưng chỉ vài câu thơ, mở đầu “Chiếc ngõ nhỏ/ thở trong đêm/ ông trăng lên/ cười trong lá”. Đấy là những câu thơ trực diện tả cái ngõ cụ thể. Rồi sau đó là cả cuộc kháng chiến cứu nước đi qua cái ngõ nhỏ này. Người vá đường, Người đẩy xe. Bộ đội hành quân. Xe tăng, xe kéo pháo. Cả nước lên đường ra trận. và câu kết, rất bất ngờ: “Chiếc ngõ nhỏ/ ở lại nhà”, chỉ có cái ngõ ở lại. Hai câu kết, với 6 chữ rất mong manh, mà nâng được cả bài thơ dậy. Bài thơ Gà con liếp nhiếp cũng theo phép thực-ảo. Ảo mà lại không ảo. Tác giả tả cảnh đàn gà con ngoài sân lây lội, mải tìm sâu, trời mưa phùn ướt cánh, ướt đầu…Đấy là điều hiển nhiên. Chả có gì đáng bàn. Thậm chí còn có câu tự nhiên, thật thà dễ dãi theo kiểu nhà quê “Mưa mỗi lúc một to sau rồi đâm ra tạnh” Nếu chỉ vậy thì đơn thuần là một bài văn tả cảnh thực, kiểu học trò, lũ gà mải bắt sâu đến quên rũ lông, lại thêm một câu thật thà hiển nhiên: “Nhưng nắng to chú vẫn khô đầu”. nhưng tài tình thay, tất cả những câu chữ hiển nhiên để chuẩn bị cho câu kết: “Đôi mắt tròn trong như hai giọt nước/ hai giọt nước không bao giờ khô được” thì bài thơ như được phù phép, hồn cốt, ảo diệu và rất bất ngờ, ám ảnh. Ám ảnh mà lại hồn nhiên. Bài thơ Chọc ếch là một bài thơ ngắn nhưng có đủ quan hệ động-tĩnh, thực - ảo, lại hóm hỉnh mà cũng đầy bất ngờ: “Giỏ không thoắt đã đựng đầy tiếng kêu/ râm ran suốt cả buổi chiều/ Tiện mồm em cũng hát theo một bài.” Hay như bài thơ Trăng sáng sân nhà em, một bài thơ mà Trần Đăng Khoa đã thú nhận với nhà thơ Vũ Quần Phương là bài thơ ông không thể nào viết lại được. Ở đây ta thấy rõ quan hệ động-tĩnh, thực-ảo. Tác giả chỉ đặc tả trăng. Không tả trực tiếp trăng như bài Trăng ơi từ đâu đến. Mà lấy cây vườn, như chuối và cau, con vật như chim và sâu. Cau cao, chuối thấp, tương tự chim trên cây, sâu dưới đất. Vẫn là chuyện cao và thấp. Và cái sân là trung tâm. Không có người. Vậy mà thành vũ hội thiên nhiên. Câu thơ đảo đi đảo lại, lặp đi lặp lại mà không trùng. Trăng lồng lộng ngự trị, ôm trùm cả trời đất. Chỉ có là người ở nông thôn, thấm đẵm cảnh sắc văn hóa thôn quê mới khắc họa được một bức tranh sinh động như vậy. Vừa thực vừa ảo. Vừa động vừa tĩnh. Đúng là một bài thơ rất khó viết mà viết nhẹ nhàng như xoay quân đomino. Rất tài tình! Bài thơ Nửa đêm tỉnh giấc cũng là một bài thơ điển hình dạng thức Động-Tĩnh, Thực-Ảo. Mỗi khổ thơ là một bức tranh, nhưng chúng chỉ là tranh tĩnh vật nếu như không có những câu thơ chuyển trạng thái như: “nghe tiếng sương đọng mật”, “há miệng đòi uống sương”, “loáng vỡ ánh trăng vàng”, và đặc biết câu kết “Một tiếng gì không rõ/ xôn xao cả đất trời”. Đó là hai câu hay nhất trong bài. Trần Đăng Khoa thường dụng công ở câu kết. Nó như chân đế, giá đỡ, có sức nâng cả bài thơ dậy. Hay nữa, bài thơ Bên sông Kinh Thầy, dạng thức Động-Tĩnh, Thực-Ảo cũng rất rõ. Cả bài là quang cảnh làng quê ven sông với cây cối lúa ngô, nhà cửa, bác chài buông câu trong bóng chiều , cá nhảy, sinh động đấy, song cũng chẳng là gì nếu thiếu hai câu kết, khiến người ta phải suy nghĩ “Ôi cánh buồm nhỏ bé/ Biết bay về nơi đâu?”... Bài thơ Đêm Côn Sơn, ngưới ta nói và khen nhiều câu thơ “Ngoài thềm rơi cái lá đa/ Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng”. Đành rằng thế, đã tinh tế lắm rồi, nhưng chưa đủ, vẫn là câu thơ tả chân. Song “Ngang trời kêu một tiếng chuông/ Rừng xưa nổi gió, suối tuôn ào ào” thì Thực đã thành Ảo rồi, và bầu không ảo diệu ấy bao trùm tạo nên sự linh thiêng như hồn Nguyễn Trãi hiện về. Để rồi trở lại trạng thái thực với câu kết “Ngoài kia nòng pháo ướt đầm sương khuya...”. Thực đấy mà vẫn như ảo. Câu thơ kéo xưa về thực tại, lại có không khí thời đại. Theo tôi, đây là bài thơ toàn bích về nghệ thuật chuyển trạng thái động-tĩnh, thực-ảo và thêm nữa có câu thơ cất cánh. Bài thơ Đồng chiều cũng là một bài toàn bích điển hình của dạng thức này: “Mặt trời chìm cuối đồng xa/ Sương lên mờ mịt như là khói bay/ Đất trời cách một gang mây/ Và tôi liền với luống cày tỏa hương”. Chỉ bốn câu lục bát thôi mà cảnh vật, con người, với sắc màu, hương vị, trạng thái tan hòa vào nhau, tôn nhau lên rồi lan tỏa mênh mang, thực đấy mà ảo đấy. Đó là sự ảo diệu của đồng quê, làng mạc! Thêm nữa, bài thơ Đồng quê, thực ảo xen lẫn, đan cài như người đan lóng mốt, làm nên một quang cảnh làng quê rất mộng mị: “Làng quê lúa gặt xong rồi/ Mây hong trên gốc rạ phơi trắng đồng/ Chiều lên lặng ngắt bầu không/ Trâu ai no cỏ thả rông bên trời/ Hơi thu đã chạm mặt người/ Bạch đàn đôi ngọn đứng soi xanh đầm/ Luống cày còn thở sủi tăm/ Sương buông cho đống hoang nằm chiêm bao/ Có con châu chấu phương nào/ Bâng khuâng nhớ lúa đậu vào vai em”. Thơ lục bát cặp đôi, nếu câu sáu thực thì câu tám ảo, và câu sáu ảo thì câu tám lại thực. Cứ vậy, liên tiếp, không thể bỏ một từ nào. Đọc xong, muốn đọc lại, đọc một hồi, mụ mị người, như lạc lối không biết đường ra. Riêng mình, tôi từng ao ước viết được bài thơ như thế!... Còn nhiều lắm bài thơ thuộc dạng thức này, như: Góc sân và khoảng trời, Tiếng chim kêu, Ò ó o, Chớm thu, Tiếng chim chích chòe, Tiếng võng kêu, Trăng ơi từ đâu đến, Mưa, Hoa dại, Ghi ở ao nhà, Trong sương sớm, Mưa xuân, Con mắt, Cơn dông, Hoa bưởi ...v.v... Và những bài thơ sau này ở thời kỳ trưởng thành, khi nhà thơ tham gia chiến trường Campuchia, đi Trường Sa và cả những bài thơ viết ở nước Nga, (Về làng, Hoa xương rồng, Thơ tình người lính biển, Ghi ở đảo chìm, Trăng Matxcơva, Qua Borodino, Qua Suzdan, Đêm Nga, Chiều Riazan, Matxcova, mùa đông năm 1990, Uống rượu với người bạn Nga, Hoa Lư, Thưởng trà, Không đề, Trái đất quay, Với bạn, Đỉnh núi, Ở nghĩa trang Văn Điển, Gửi bác Trần Nhuận Minh v.v…). Hay mới đây, bài thơ ngắn mới nhất của Trần Đăng Khoa đăng báo Văn nghệ số tết Nhâm Dần 2022: Về quê: “Mẹ cha thành nỗi nhớ thương/ Anh em nằm lại chiến trường thẳm xa/ Bây giờ bầu bạn cùng ta/ Chỉ còn một mảnh trăng tà ngoài hiên” cũng thuộc dạng thức này. Chỉ vỏn vẻn 4 câu thôi mà nhà thơ nói được hành trạng các mối quan hệ lớn của gia đình và xã hội, cha mẹ, anh em bạn bè, đồng đội như hàng thế kỷ trôi qua. Có một điều không khó nhận thấy, nhất quán và xuyên suốt toàn bộ thơ ca Trần Đăng Khoa, dạng thức Động-tĩnh, Thực Ảo là dạng thức chủ đạo làm nên không gian thơ ông. Cũng giống như truyện ngắn, tiểu thuyết, nói chung mỗi bài thơ phải có một không gian để nó tồn tại. Trần Đăng Khoa là người rất giỏi trong nghệ thuật tạo dựng không gian truyện. Ông đã thể hiện tài năng này trong tiểu thuyết Đảo chìm. (Tiểu luận“Đảo chìm, nghệ thuật tạo dựng không gian truyện”,- NCN) Thế nên, ngay từ buổi đầu sáng tác, mỗi bài thơ của Trần Đăng Khoa đều sống trong một không gian của riêng mình mà tác giả tạo cho nó. Và trong không gian ấy, tác giả tha hồ kể chuyện, vẽ vời bằng ngôn từ với màu sắc, thanh âm, nhịp điệu phù hợp. Điều này cũng lý giải, tại sao, ta bắt gặp vô vàn những bài thơ của người này người nọ, khi nghe đọc bằng âm thấy rổn rảng, leng keng đấy, nhưng tãi ra thành chữ trên mặt giấy, đọc bằng mắt thì phẳng lì, dẹt mỏng nhạt nhẽo, chẳng đọng lại chút gì, là bởi nó không có không gian sống, mà không có chỗ sống thì bài thơ chỉ là đám xác chữ, không hồn vía, như xác chết vậy. Trần Đăng Khoa thì khác, bài nào của ông cũng có không gian tồn tại. Hầu như, mỗi bài thơ không đơn thuần xuất phát từ cảm xúc nhất thời mà ở đấy, Trần Đăng Khoa như kể một câu chuyện, như có cốt truyện vậy, hoặc nói một điều gì đó ý thức rõ ràng, nên ngôn ngữ, nhạc điệu là thơ nhưng không gian của truyện. Với nghệ thuật ngôn từ và tạo dựng không gian sống như vậy, người ta thấy được các nhân vật trữ tình, con vật, đồ vật cây cối trong thơ Trần Đăng Khoa đều có thân phận... Thơ Trần Đăng Khoa vừa đằm vừa gợi, đằm bởi chất truyện, gợi bởi ý tứ, ngôn từ của thơ. Theo tôi, đấy cũng là lý do để các bài thơ của Trần Đăng Khoa sống mãi cùng thời gian. Bởi vậy, không phải ngẫu nhiên mà những bài thơ ông viết từ năm, sáu mươi năm trước đến nay vẫn được bạn đọc yêu quý đón nhận... Bằng chứng là các tác phẩm thơ ca của Trần Đăng Khoa liên tục được tái bản và vẫn bán rất chạy... Thi pháp ngôn ngữ thơ trong không gian của truyện ít gặp ở Việt Nam, Điểm lại, xưa có các cụ Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, thời hiện đại có nhà thơ Tố Hữu với một số bài thơ cụ thể (Tiếng hát Sông Hương, Con cá chột nưa, Việt Bắc, Bầm ơi, Mẹ Tơm, Sáng tháng Năm, Nước non ngàn dặm ,...), nhà thơ Hoàng Cầm với Bên kia sông Đuống, và nhà thơ Hữu Loan với Màu tím hoa sim, Đèo Cả; sau nữa, ít nhiều, là nhà thơ Trần Nhuận Minh. Lẽ dĩ nhiên, Trần Đăng Khoa là nhà thơ tiêu biểu, điển hình của thi pháp này, gần như toàn bộ, xuyên suốt sự nghiệp thơ ca của mình, từ bài thơ ngắn đến trường ca dài. Tôi nghĩ, thế giới thi ca Trần Đăng Khoa hiện thưc mà ảo diệu và làm nên điều kỳ diệu này, chính là thi pháp “ngôn ngữ thơ trong không gian truyện”. * Nhân cánh hóa, thủ pháp hoán vị, lối đồng dao cũng là phương pháp được nhà thơ Trần Đăng Khoa sử dụng thường xuyên. Bài thơ Côn Sơn là bài điển hình về thủ pháp hoán vị: “Sáng đứng đỉnh Côn Sơn/ Hương đồng thơm trong túi/ Chiều xay thóc góc nhà/ Tóc lại bay gió núi”. Ở đây, nếu đứng trên đỉnh núi mà tóc bay gió núi và xay thóc góc nhà mà hương đồng thơm trong túi thì bài thơ hết sức bình thường, thậm chí là tầm thường. Thủ pháp hoán vị đã tạo nên khác lạ và nó đem đến sự thú vị, khiến người ta mặc sức liên tưởng... Hay đâu, trong bài thơ Tiếng chim chích chòe, nhà thơ cũng sử dụng thủ pháp hoán vị này, khi viết “Cánh đồng vui reo/ Gió đồng rộng rãi”. Đúng ra, phải là cánh đồng rộng rãi/ gió đồng vui reo, nhưng viết vậy thì quá bình thường, thậm chí là tầm thường. Ở đậy, sự hoán đổi tạo ra hiệu ứng lạ nên thú vị làm sao. Cũng như một câu thơ trong bài thơ viết về Mạc Thị Bười: Nắng chiêm chín rực đôi bờ phi lao. Nếu Lúa chiêm chín rực… thì câu thơ lười quá. Ở đây ta thấy được sự linh diệu của thủ pháp hoán dụ của thơ Trần Đăng Khoa có vai trò quan trọng như thế nào. Cũng vậy, lối đồng dao, vận dụng ca dao, tục ngữ, ví von, so sánh và phép nhân cách hóa, khá phổ biến trong thơ Trần Đăng Khoa. Hầu như mọi cảnh vật được tả trong thơ đều được nhân cách hóa, biến những vật vô tri vôs giác mang tính cách của con người, nhờ thế mà tác giả mặc sức kể chuyện, đối thoại, gán ghép, xoay vần, sắp đặt, cực kỳ sinh động. Ở đây, con người dường như là nhân vật phụ, song lại là nhân vật chính ẩn mình điều khiển... (Con chim hay hót, Máy cày xình xịch, Đám ma bác giun, Đánh tam cúc, Con trâu đen lông mượt, Đánh thức trầu, Tiếng trống làng, Nói chuyện với con gà mái, Sao không về vàng ơi, vv ). Bài thơ Kể cho bé nghe là bài điển hình về phép sử dụng lối đồng dao, bắt đầu bắt cuối để quay trở lại, thú vị, hóm hỉnh, dễ thuộc dễ nhớ: “Hay nói ầm ĩ/ là con vịt bầu/ hay hỏi đâu đâu/ là con chó vện/... Ríu ran cành khế/ là cậu chích chòe/ hay mua xập xòe/ là cô chim trĩ.” Bài thơ này, mãi về sau, Trần Đăng Khoa có cắt bớt, sửa lại đôi chút như văn bản hiện nay, cho hợp thời cuộc, nhưng vẫn giữ phong vị cũ... Bài thơ Em kể chuyện này, lại là bài điển hình về vận dụng tục ngữ. Người Việt mình có câu tục ngữ “Ghét như xúc đất đổ đi”, Trần Đăng Khoa đã vận dụng rất tài để viết nên những câu thơ “Giặc Mỹ bị bắn rơi xuống cánh đồng làng ta/ các chú dân quân dong nó đi xa/ còn lại dấu chân nó in trên cát/ những dấu chân/ trông vào nhức mắt/ các bạn đã đào đổ xuống ao sâu”, sau khi kể chuyện máy bay Mỹ rơi, phi công Mỹ nhảy dù xuống cánh đồng làng bị dân làng vây bắt. Đây cũng là đoạn thơ có sức nặng nhất trong bài thơ khá dài này. Bài thơ Em dâng cô một vòng hoa, câu thơ “Trăng suông sáng cả đêm rằm/ Nhịp cầu vá vội ầm ầm xe qua” là một câu thơ tài tình. Câu sáu là câu thơ vận dụng ca dao thì câu tám lại là một câu thơ tả thực thời chiến tranh. Để tránh máy bay Mỹ ném bom phá hoại, người ta đã biết cách lợi dụng đêm trăng suông để sửa chữa cầu đường cho xe qua. Những đêm trăng suông như thế, người làm đường không cần phải đèn đuốc vẫn đủ ánh sáng để làm việc mà máy bay Mỹ trên cao cũng thể phát hiện được mục tiêu bên dười mà đánh phá. Cái quan trọng, hai câu thơ này đã làm bài thơ có tính thời sự, lại kết gắn chuyện cũ thời anh hùng Mạc Thị Bưởi chống Pháp với chuyện thời nay chống chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ. Ở bài thơ Hạt gạo làng ta, có câu thơ ví von so sánh rất độc đáo, ấy là “Những năm băng đạn/ vàng như lúa đồng”, nhà thơ đã ví von băng đạn pháo súng bắn máy bay Mỹ với bông lúa chín vàng trên đồng làng, vừa so sánh về hình thể, màu sắc, và so sánh cả về ý nghĩa, một bên là vũ khí biểu hiện của chiến tranh, hủy diệt, chết chóc, một bên là lúa gạo biểu hiện của hòa bình, sự sống, ấm no... Nhân đây, tôi cũng nói giùm nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhằm cải chính lời thơ bị hát sai trong ca khúc cùng tên được nhạc sĩ Trần Viết Bính phổ nhạc. Cả bài thơ gốc và lời thơ trong ca khúc Hạt gạo làng ta đều chính xác là “Những năm băng đạn/ vàng như lúa đồng,” nhưng mấy năm gần đây, không hiểu sao, các ca sĩ biểu diễn đều hát sai lời thơ ấy thành “Những năm bom đạn/ vàng như lúa đồng”. Ai đời lại đi ví bom đạn với lúa đồng cơ chứ. Thật đáng tiếc. Mong là các ca sĩ lưu tâm hát đúng lời thơ trong ca khúc này cho cả nhà thơ và nhạc sĩ nhờ ! * Những câu thơ cất cánh và phép quy nạp, diễn dịch Những câu thơ cất cánh chỉ là cách nói, biểu thị một thực trạng phổ biến và xuyên suốt toàn bộ thơ Trần Đăng Khoa. Ấy là, hầu như bài thơ nào của Trần Đăng Khoa, dù giọng điệu kể chuyện, thì ít nhất cũng có một vài câu, hoặc có khổ thơ, xuất thần, như chắp cánh cho cả bài sống động hắn, bài thơ như vỗ cánh mà bay lên, thoát khỏi sự tầm thường. Tôi nghĩ, cái tài tình của nhà thơ là ở đấy... Ví như, bài thơ Tiếng chim kêu, sau cái sự kể bom đạn làm cây cối, tổ chim tan tác, chim chết này nọ, bài thơ chốt lại: “Tiếng chim như lửa cháy/ đốt lòng ta không nguôi”, tạo nên dư âm, ám ảnh, nghĩ ngợi,... Hay như, bài thơ Ò ó o, cũng là sự kể lể, nếu như không có cái kết: “Ôi bốn bề/ bát ngát/ tiếng gà/ Ò ó o...Ò ó o…” thì bài thơ dễ bị chuội đi, chẳng để lại gì. Bài thơ Mưa cũng vậy, mấy câu kết “Bố em đi cày về/ đội sấm/ đội chớp/ đội cả trời mưa” đã làm nên sức đằm mà vẫn gợi của bài thơ. Hình ảnh người nông dân chống chọi với thiên nhiên mới thật sự lẫm liệt. Bài thơ Tiếng chim chích chòe, phần đầu bài thơ là những gì tác giả thấy bằng mắt, có tả khéo đến đâu thì cũng chẳng có gì đề bàn, nhưng bài thơ kết lại bằng mấy câu “Nòng pháo bỗng nhiên dừng lại/ bao nhiêu cái mũ lắng nghe/ xa xa từ một ngọn tre/ tiếng chim chích chòe/ đang hót” thì không chỉ bằng mắt bằng tai nữa, mà là cái sự cảm, nên có sức gợi. Đặc biệt câu thơ giản đơn như không mà lại rất tài: “Bao nhiêu cái mũ lắng nghe”….... Bài thơ Thôn xóm vào mùa, sẽ chỉ là một bài tả quang cảnh làng xóm vào mùa gặt đơn thuần, nếu như thiếu đi hai câu thơ ví von đầy sức liên tưởng “Thóc nở bung như sao/ Nhuộm vàng cả trời cao”. Hay nữa, bài thơ Thả diều, ở đấy, tác giả tả quang cảnh và cả cách thức chơi diều như thế nào, mà người ta có thể học được cách thả diều. Như vậy thôi, cũng thú vị đấy, nhưng bài thơ sẽ nhẹ hều nếu như không có câu kết: “Dây diều em cắm/ bên bờ hố bom...”. Chưa đầy chục từ, nhưng nó cái cái chốt ghim cả bài thơ không làm nó bay đi mất,... Bài thơ Buổi sáng sân nhà em, câu thơ: “Bố em xách chiếc điếu cày/ Mẹ em tát nước nắng đầy trong khau” là câu thơ chìa khóa mở ra cả bài. Bài thơ Em lớn lên rồi, câu thơ: “Nhìn trời, trời bớt xa xăm/ nhìn mây, mây cách ngang tầm cánh tay” là linh hồn cho cả bài. Bài thơ Trận địa bỏ không, sẽ nhẹ tênh, chẳng có gì, nếu thiếu câu thơ ví von tài tình này “Em nhìn đáy nước trong veo/ Máy bay một mảnh cắm xiêu vỏ hà/ Thảo nào các chú đã xa / Thằng giặc chẳng giám bay qua nơi này”. Bài thơ Cánh đồng làng Điền Trì, câu thơ kết “Ái chà, con cà cuống/Bỏ ngay vào ống bơ” ngỡ là câu reo lên một cách hồn nhiên vô tình, nhưng không, là có dụng ý. Cả bài thơ là quang cảnh cánh đồng với những người làm đồng qua ngôn ngữ tả thực, thì câu kết vừa thể hiện sự có mặt của chủ thể, vừa làm cho bài thơ như cựa quậy, sống động hẳn lên, v.v... Ở bài thơ Gửi bạn Chi Lê, câu thơ “Ao trường vẫn nở hoa sen/ bờ tre vẫn chú dế mèn vuốt râu” giản dị, tinh tế mà làm nên một vóc dáng, khí thế Việt Nam, tạo sức nặng cho bài thơ. Nhất là trong chiến tranh khốc liệt. Hay ở bài thơ Mẹ ốm, câu thơ “Nắng mưa từ những ngày xưa/ lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan” vừa gợi lại có sức khái quát cao. Rồi bài thơ Tiếng võng kêu, chỉ mấy câu “Ba gian nhà nhỏ/ đầy tiếng võng kêu” bài thơ rất gợi. Tôi nghĩ, mấy câu thơ ấy, sẽ khiến con người ta mang theo tiếng võng đến suốt đời... Rất nhiều, rất nhiều những câu thơ như thế trong toàn bộ thơ ca của Trần Đăng Khoa, từ nhỏ đến trưởng thành và cho đến tận bây giờ. Nhưng câu thơ ấy, đặt trong văn cảnh từng bài thơ, nó như một luận điểm trong phép quy nạp, hoặc diễn dịch theo logic khoa học. Đây cũng chính là một điểm cơ bản trong thi pháp thơ Trần Đăng Khoa. Từ những cái cụ thể được mô tả, trình bày trong bài thơ, rốt cuộc, cô đọng, chốt lại ở phần kết như thế. Ở một số bài thơ, câu thơ-luận điểm được nêu ngay ở đầu bài, để sau đó tác giả diễn giải những điều gan ruột. Nếu như trong các bài thơ lẻ, Trần Đăng Khoa chưa hẳn ý thức về phép quy nap, hay diễn dịch trong sáng tác của mình, thì ở một tác phẩm dài hơi khác, trường ca Khúc hát người anh hùng, Trần Đăng Khoa lại rất ý thức và nhất quán trong quá trình sáng tạo của mình. Toàn bộ trường ca này, thơ thể tự do, giọng điệu kể chuyện, tùy từng chương, từng khúc, sử dụng phép quy nạp hay diễn dịch, thì mỗi khổ thơ lục bát là sự chắt lọc, chốt lại, giàu sức liên tưởng, khiến người ta phải suy ngẫm, vừa là mối liên kết các đoạn, các chương với nhau tạo nên một chỉnh thể thống nhất. Mỗi khổ thơ ấy như cọc tiêu, tiếp nối, giăng hàng, làm thay đổi tiết tấu từ giọng điệu kể nhanh làm chậm lại, bớt nhàm, mà lắng đọng, suy ngẫm,... Ví như, một số khúc tôi dẫn ra đây “Đất hát rằng: Từ đây, từ tiếng chim này/ Làng quê đẫm máu hẹn ngày vượt lên/ Máu người như ngọn lửa thiêng/ Ngàn năm sau vẫn cháy trên sắc cờ”. “Sự lặng im hát rằng: Lặng im của một nhát dao/ Chém vào đá, giữa trời cao đất dày/ Hỡi ai hát với cỏ cây/ Hồn kêu thành gió những ngày bão giông” “Lúa hát rằng: Quê tôi-những cánh rừng hoang/ Chính trong cơn bão đại ngàn-tôi sinh/ Nuôi tôi trong bếp nhà gianh/ Ủ là một chấm-thổi thành biển khơi” “Mái nhà gianh hát rằng: Ước mơ từ thuở ông cha/ Bao năm Đất Nước nghĩ ra Ngọn Cờ/ Con đường đi đến Tự Do/Một mình mà chẳng bao giờ lẻ loi”. “Đêm hát rằng: ... Người ta đến lúc hiểm nghèo/ Hoặc vằng sáng. Hoặc heo hút tàn” “Cái cánh cửa hát rằng: Ngày mai cô sẽ hy sinh/ Một mình mình sống một mình đêm nay/ Một mình với mọi vơi đầy/ Mọi buồn vui, mọi tháng ngày-một đêm” “Cái bậc cửa hát rằng: Ngày mai lửa sẽ thiêu đồn/ Tôi còn nền cũ thì còn mọc lên/ Cái còn thì vẫn còn nguyên/ Cái tan thì tưởng vững bền cũng tan” “Chiến dịch lớn hát rằng: Một lần gió nổi bên sông/ Mà xanh lại sắc trời trong ngàn đời/ Mỗi khi vật đổi, sao dời/ Lại nghe trong đất máu người ngân vang” Thiết tưởng, cái kết cho Khúc hát người anh hùng, ở khúc vô cùng, chằng cần chi phải triết lý đao to búa lớn, chỉ giản dị, gần gũi, thân thương như thế này: “Mái gianh ơi hỡi mái gianh/ Ngấm bao mưa nắng mà thành quê hương/ Bóng cau vẫn ngả ngang vườn/ Lá tre gió vẫn thổi vương ngõ ngoài...”, Quả là, mỗi khúc hát như nêu ra một chân lý hiển nhiên ở đời. Quan trọng, những khúc hát ấy đều là những câu thơ hay, chắp cánh cho trường ca Khúc hát người anh hùng bay lên mang theo cả sức nặng của nó. Ấy cũng là cái tài riêng của Trần Đăng Khoa. * Nhà thơ Trần Đăng Khoa là một người giỏi dùng từ và rất cẩn trọng về câu chữ. Ông biên tập, sửa câu chữ, sửa thơ cho ai thì người đó đều nể phục. Cho đến giờ, nhiều bài thơ làm từ ngày nhỏ, giờ ông vẫn sửa lại khi tìm được từ hay hơn. Ông sẵn sàng cắt bỏ cả đoạn, cả khổ thơ nếu thấy dở, thấy ấu trĩ. Hầu như, mỗi lần tái bản, bạn đọc có thể tìm thấy ở văn bản mới nhất có những từ, những câu khác với văn bản cũ,... Thú vị, tôi nhiều lần nghe Trần Đăng Khoa đọc vanh vách nhiều bài thơ được ông làm từ thiếu thời, mà không có trong bất kỳ tập thơ nào của ông. Đọc rồi ông toét miệng cười tự chê: “Dở và ngô nghê nhỉ”. Ông bảo, ngày ấy, đã dám vứt đi hàng loạt bài mà tự cho là dở, để có tập “Góc sân và khoảng trời” như vậy. Ở tập thơ này, giờ đây, mạnh tay thì cũng có thể bỏ đi một số bài, và ông cũng đã bỏ trong tập tinh tuyển mới đây, có bài từng được một nhà thơ lớn đánh giá cao, ông cũng loại bỏ, hoặc lược bớt thì mới đạt tới độ tinh túy, nhưng mà, cái gì cũng có tính lịch sử của nó, không thể tùy tiện được,.. * Là bạn học với Trần Đăng Khoa, cùng Trần Đăng Khoa làm thơ ở thời ấu thơ, lại cũng chơi với ông khi về già tôi muốn kể thêm vài chuyện ngoài lề mà không phải ai cũng biết. Trần Đăng Khoa là một người khá đặc biệt. Ông có khả năng ứng tác thơ. Điều này hình thành từ khi còn nhỏ. Do nhiều người không tin, hoặc cũng có thể tò mò, người ta hay ra đề cho ông làm. Yêu cầu viết gì, ông viết cái đó. Rất nhanh. Có bài thành kiệt tác, có mặt trong các tuyển tập. Ông viết theo yêu cầu hay tự nguyện sáng tác đều như nhau. Đây cũng là cái tài của ông, quả thật cũng là hiếm có. Ngày ấy. nhiều người, nhất là các nhà quản lý văn nghệ, các nhà thơ, nhà văn nổi tiếng, các nhà báo ở trung ương chưa hẳn tin Trần Đăng Khoa có tài làm thơ thật, nên họ về tận nhà, mục sở thị bằng cách ra đề tài này nọ rồi bắt Khoa ứng tác tại chỗ nhằm thử tài cậu bé. Đề tài thử tài thơ cậu bé vô cùng phong phú, từ cây cối, đồ vật, con vật, tình huống này nọ, bất kể cái gì cũng được mang ra làm đề tài. Thực tế, có nhiều bài thơ Khoa ứng tác đáp ứng hoặc viết theo đặt hàng của báo này, báo nọ, ông nọ bà kia mà thành. Ví như, các bài Vuờn em, Sao không về Vàng ơi, Cái sân, Cây dừa... là những bài như thế. Rồi sau này là cả tập Chân dung & Đối thoại, rồi Đảo chìm, Hầu chuyện Thượng đế cũng vậy. Đấy là chưa kể, nhà thơ Trần Đăng Khoa có hàng trăm bài thơ đùa ứng tác, kiểu xuất khẩu thành thi, khá hóm hỉnh, hài hước... Đầu năm 1975, khi học chung với nhau ở Lớp bồi dưỡng học sinh giỏi văn lớp 10 (hệ 10/10) của tỉnh Hải Hưng, tham dự kỳ thi học sinh giỏi môn Văn toàn miền Bắc (trước giải phóng miền Nam), tôi lần đầu chứng kiến tài ứng tác của Trần Đăng Khoa khi nhóm học sinh chúng tôi trêu đùa nhau, ra đầu đề và bắt Khoa ứng tác tại chỗ. Chỉ vài phút, Khoa đọc ngay một bài thơ tả quang cảnh lúc trời sắp mưa, mà khi ghép các chữ cái đầu câu đúng y với yêu cầu đề ra, mà thơ hay, hóm hỉnh, tinh nghịch kiểu học trò. Tôi còn thuộc bài thơ ấy, nhưng xin phép không chép ra đây. Vì bài này chứa nhiều bí mật nội bộ của hóm nhất quỷ nhì ma chúng tôi. Sau này, tôi còn chứng kiến nhiều lần Trần Đăng Khoa ứng tác trêu đùa, bông lơn người này kẻ nọ trong những lúc trà dư tửu hậu, phiếm đàm nơi công sở. Biết đâu, đến một ngày đẹp trời nào đó, ông nổi hứng gom lại thành tập, kể cũng thú vị đấy, khéo còn bán chạy hơn cả Góc sân và khoảng trời, Chân dung và Đối thoại. Tôi chỉ xin dẫn một bài. Đài TNVN họp cộng tác viên ở Bình Định. Các phóng viên nữ Sơn La uống rượu như cọn. Các em đề nghị nhà thơ Nguyễn Thanh Mừng làm thơ tặng. Mừng nhờ Khoa cứu nguy. Khoa viết ngay vào giấy ăn bài thơ về rượu, chếnh choáng ngay từ câu đầu đến câu cuối. Đúng là ma men, dù Khoa không biết uống tượu: Biển và trời Bình Định/ Sóng sánh màu Sơn La/ Ngổn ngang bao ngọn núi/ Ngả nghiêng trong xó nhà/ Ánh trăng vàng Ghềnh Ráng/ Tan trên đỉnh Chót Pài/ Chỉ còn thần với thánh/ Bồng bềnh dưới đít chai/ Thế là bao đau khổ/ Chẳng còn là khổ đau/ Kìa biển trời chếnh choáng/ Ngắm chúng mình …uống nhau. Viết ngay tắp lự mà viết được như thế là tài lắm chứ. Trẻ con thần đồng. Già nua thần lão. Thì cũng vẫn Khoa cả thôi!
ƠI NHỮNG CÁNH ĐỒNG LÀNG, ( Tản văn ) Những năm tuổi thơ sống ở quê, ấn tượng in đậm trong tôi ngoài những tên làng, tên xóm, những sân động, cây đa, bến nước, dòng sông, còn có những cánh đồng với bao tên gọi vừa đúng về ngữ nghĩa vừa nôm na mộc mạc và buồn cười đến nao lòng.
Làng nằm như con trăn trườn uốn khúc theo dòng sông. Cánh đồng bờ sông bên kia đối diện với làng cao vời vợi những con ngòi đổ dốc về phía bờ sông. Mặt đồng chia ra, cứ vài ba thửa lại làm thành một cấp. Người làng gọi là đồng Dộc, hay đồng Vực. Sở dĩ gọi vậy vì hễ có mưa thì hết mưa, nước theo những con ngòi dốc tuột hết xuống lòng sông, đồng không bao giờ úng ngập. Còn như đứng trên mặt đồng nhìn xuống lòng sông thấy mặt nước sâu hoắm mãi phía dưới khiến người yếu bóng vía có cảm giác đang đứng bên bờ vực thẳm mà chóng mặt. Hỡi ôi, lúc ngày hè nắng hạn, tát nước từ sông lên tới ruộng phải ba bốn cấp gàu sòng gàu giai, thêm nữa ngòi khô háo hút nước, cực nhọc ơi là cực nhọc, bát nước lên ruộng đổi bát mồ hôi.
Cánh đồng nằm xa hơn, phía ngoài đám ruộng bờ xôi ao mật rìa làng là đồng Ao. Tên gọi thế bởi rải rác mặt đồng có ba bốn ao đầm to, đều từ xa xưa. Các ao đầm này là rốn nước mùa lũ, nguồn nước mùa hạn. Vài ba năm, người làng lại có niềm vui tát cá ao đầm mùa cạn, vui vì lại đúng vào dịp giỗ tết. Khi ấy mới hiểu câu dân gian “Nay tát đầm, mai giỗ hậu” sâu xa thế nào!
Từ xa nhìn về, làng được bao bọc bởi những cánh đồng trông như hình chiếc làn. Có một khu đồng thòi ra dáng cong cong, hẹp vanh, và nó có tên đồng Quai. Ruộng thẻo nhưng không thể bỏ, bởi làn không quai thì khác nào chiếc thúng rách đựng đồ đồng nát nơi xó buồng muỗi.
Xa hơn khu đồng Ao là đồng Dạ (hay Rạ không phân biệt). Sở dĩ gọi vậy là bởi chỉ làm được một vụ lúa. Lúa chín vào mùa nước, người làng dùng hái hớt lấy ngọn cỏ, bỏ lại gốc dạ ngập trong nước, vì rạ ấy có cố vớt lấy phơi khô lợp mái bếp thì cũng chỉ hơn năm là đã mủn. Cả cánh đồng đầy gốc rạ bời bời, cánh đồng là nơi trú ngụ của các họ nhà chim, cò diệc, dẽ giun, bồ nông, rồi cua ếch, ba ba… Xâm xẩm tối, là lúc người làng lần sờ kiếm miếng tươi cho bữa cơm gia đình. Những bóng người nhấp nhô ẩn hiện trong bóng tối nhập nhoạng bao phủ cánh đồng. Dạ cũng có nghĩa là đêm tối. Xa hơn đồng Dạ là một cánh đồng mang tên Nợ. Qủa thật đây là món nợ của người làng từ thuở lập làng. Đồng Nợ quanh năm ngập nước kể cả mùa hanh khô. Các bậc lão nông tri điền bảo rằng, chưa thấy mặt đồng Nợ khô bao giờ. Cấy chay bừa chùi là thường tình, nước ngập ngang bụng người bụng trâu, cả hai ì ạch nhích từng bước, xong buổi bừa lên bờ thì chân người thâm những vết miệng đỉa, còn bụng trâu đeo đầy những chú đỉa no máu căng mọng. Ấy là lúc đám trẻ chăn trâu tinh nghịch trả thù, dùng cọng rạ trước sắc lẻm cứa dọc thân lũ đỉa. Đồng Nợ là xứ xở của các loài thủy sinh. Cũng là nơi dân làng kiếm miếng tươi. Đã là nợ thì không thể bỏ mà mãi vẫn không trả xong…
Sau này, thủy nông nội đồng, tấc đất tấc vàng, dẫu là Dộc, Ao, Quai hay là Dạ, Nợ gì thì cũng quay vòng hai ba vụ. Đồng đất và người đều chóng mặt với những giống lúa, giống hoa màu… Với mỗi người dân thì ký ức về những cánh đồng làng không bao giờ phai nhạt bởi những tên đồng vẫn còn đó.
Giờ điều đáng lo và đáng buồn lại là chuyện người nông dân bỏ ruộng, chỉ làm một vụ cho có mà thôi, trai gái hóng làm công ty, rồi kéo nhau ra phố nhặt rác, buôn bán vặt chê nghề nông,...
Còn với riêng tôi, đứa con nuôi lưu lạc của làng nơi đô thị, đã có một thời chăn trâu, cắt cỏ trên những cánh đồng làng, đã từng “mải mê đuổi một cánh diều/ củ khoai nướng để cả chiều thành tro” (thơ Đồng Đức Bốn) thì những cánh đồng ấy là nơi nuôi dưỡng ước mơ nho nhỏ của tôi!...
Vườn xưa, Tản văn của Nguyễn Chu Nhạc Vườn xưa, ấy là cái vườn của gia đình tôi ở quê, thôn Khê, nằm bên tả ngạn con sông Cái thuộc tỉnh Hưng Yên, cách thủ đô chừng vài chục cây số đường chim bay. Mảnh đất rộng chừng gần hai sào Bắc bộ, được bố mẹ tôi mua vào năm 1965, sau khi nhà tôi chuyển từ một căn hộ tại Ngõ Trúc Lạc, bên bở hồ Trúc Bạch, Hà Nội, về quê sinh sống theo chính sách thời chiến-giảm dân số ở thủ đô, khi xảy ra sự kiện Vịnh Bắc bộ mở đầu cho cuộc chiến bằng không quân của Mỹ ra miền Bắc. Sau này, được biết, cái chính sách "giảm dân số ở thủ đô" ấy chỉ thực hiện với đa phần gia đình có quê và thuộc diện "thành phần không trong sạch" theo chủ nghĩa lý lịch phổ biến vào thời ấy... Về sống ở quê, quen dần, lại thấy được cái vẻ đẹp bình dị muôn thuở của thiên nhiên làng quê Việt mình. Trên mảnh đất đầu làng ấy, bố mẹ tôi làm ngôi nhà 5 gian kiểu 3 gian 2 chái, tường đất vách rơm bùn, lợp rạ truyền thống ngàn đời của làng quê Bắc bộ. Cùng đó là căn nhà ngang gồm bếp, chuồng trâu, chuồng lợn và chỗ vệ sinh, cũng bằng chất liệu tre đất rơm bùn. Đất trống hai đầu hồi nhà thì một bên là chuồng gà, bên kia là đống rơm, đống rạ. Trước nhà, có mảnh sân hẹp lát gạch Bát Tràng cũ do mua lại. Vài cây cau vươn cao bên dưới có vài cây nhài và gốc lựu, mà quê tôi quen gọi là thừu lựu liền với sân gạch. Phần lớn đất phía ngoài sân để làm vườn tược trồng các loại rau theo kiểu tự túc, tự cấp. Các cây lưu niên có sẵn và được trồng thêm, loại ăn quả thì có na, mít, bưởi, chanh, hồng xiêm, ổi, nhãn và sấu. Góc vườn và sau nhà có mấy bụi chuối tây, tiêu đủ cả. Liền kề với vườn là miếng ao nhỏ hẹp có sẵn, được đào sâu thêm lấy đất đắp tường nhà và tường bao vườn. Gốc vườn nơi hay bị cớm nắng thì có ít dong giềng. Bốn xung quanh, giáp nhà hàng xóm và đường, ngõ làng là lũy tre, cùng dây mây gai là dăm cây ruối, cây màng dè, cây xoan và hoa dâm bụt, cùng khúc tần. Thế thôi, đã có hoa trái, rau cỏ ăn quanh năm rồi. Cuối Chạp hay sang Giêng, tùy tiết sớm muộn hàng năm, khai mùa là hoa chanh, hoa bưởi. Hoa bười nụ to, mùa sai hoa thì trĩu cả cành những nụ những hoa, cánh trắng nhụy vàng tinh khôi, thơm sực nức vườn nhà, Mẹ tôi hay hái hoa bười, chì vài ba chùm thôi, bày đĩa nhỏ đặt lên bàn thờ thắp hương. Thói quen này, là mẹ tôi học từ bà ngoại tôi. Bưởi sai hoa, nên ngắt bớt đi, để nhiều tự hoa cũng rụng rơi, bởi chỉ để vừa hoa thành quả thì cây mới đủ sức nuôi quả lớn. Nở cùng thời điểm, nhưng hoa chanh khác hẳn, khi nụ thì tím nhạt, lúc nở ra mới trắng ngà, hoa nhỏ và hương thơm dìu dịu. Thực lòng, tôi thích quan sát và mê hoa chanh hơn, vì tìm thấy ở đấy sự khiêm nhường mà vẫn tươi tắn sắc hương... Qua giêng hai, trời bắt đầu có dấu hiệu hè sang với những cơn giông chiều, đêm ì ầm tiếng sấm. Ấy là lúc cây lựu lấp ló nụ đỏ. Mỗi khi thấy hoa lựu, bố tôi hay ngân nga câu Kiều "Dưới trăng quyên đã gọi hè/Đầu tưởng lửa lựu lập lòe đâm bông"...Đây cũng là thời điểm cây nhà đua nụ hoa trắng. Nếu như lựu chỉ làm người ta ấn tượng với nụ hoa đỏ như ngọn đèn dầu hỏa thì hoa nhài lại trắng muốt thơm hương. Có lẽ vì quê tôi ít trồng hoa sen và thói quen sinh hoạt, bố tôi thích uống trà nhài hơn. Nên mỗi khi có hoa nhài, bố tôi thường dậy sớm, nhắt những bông nhài chớm nở còn đẫm sương mai, rồi tự ướp với trà, loại trà Thanh Hương giá ba hào hai xu một gói. Ngày ấy, uống trà cũng là một thú vui xa xỉ, và loại đắt tiền như Hồng Đào thì có nằm mơ, đơn giản vì không có tiền mua và có tiền cũng không mua được vì chỉ bán phân phối cho cán bộ thôi. Nhưng sau này, nghiện trà, tôi mới hiểu một thực tế và có thể xem như một đạo lý, ấy là trà ngon, tỷ như trà búp Thái Nguyên thì chỉ nên uống mộc, mới thấm được cái ngon của hương vị tự nhiên thổ ngơi của trà. Còn như trà ướp, dù là ướp gì, sen hay nhài hay loại hoa, hương liệu khác thì chỉ nên dùng trà loại nhì, loại ba mà thôi. Chính loại trà không phải là thượng thặng mới cần đến hương vị ngoại lai để tăng vị thơm ngon cho mình... Tháng ba, hoa gạo đỏ ối đầu làng, triền đê, nơi cổ quán, chùa chiền. Người chị gái lớn của tôi đi làm đồng về, nhặt theo mấy bông hoa gạo to tướng về bỏ lên mặt bể nước, vừa rửa chân tay nơi sân giếng, vừa khe khẽ hát "Mỗi khi qua rừng biên giới lại thấy hoa mộc miên. Mộc miên hoa ơi..."... Bỏ dở câu hát, chị bảo "Cái tên Mộc miên hay thế, mình lại gọi là hoa gạo... Có ăn được đâu cơ chứ...". Tôi nghe lời bái hát, lơ mơ hiểu là bài hát về tình hữu nghị hai nước Việt-Trung, chẳng mấy quan tâm nhưng tôi lại hình dung ra những cây hoa mộc miên đỏ ối nơi biên cương xanh ngút ngàn. Chỉ thế thôi, trong tôi đã nảy mầm nỗi khát khao được đi đây đó ... Rồi chị quay ra đố tôi "Em có biết ở miền Nam, Tây nguyên ấy, người ta gọi hoa gạo là gì không?" Hỏi rồi, chẳng đợi tôi trả lời, chị bảo: "Là hoa Pơ-lang đấy. Cái tên cũng thật hay...". Và chị lại hát bài hát về hoa Pơ-lang:"Tây nguyên ơi, hoa rừng bao nhiêu thứ, thứ hoa nào đẹp nhất rừng, Tây nguyên ơ ơi..." Tôi nghe chị hát mãi vẫn chưa thấy nhắc đến cái tên pơ-lang, nhưng tôi cũng không hỏi lại... Sau này lớn, tôi mới biết, chị gái tôi hát cho niềm mơ ước tuổi trăng tròn của chị, cho khát khao tình yêu đôi lứa thời lửa đạn, khi trai tráng làng quê ra trận hết cả, trong đó có chàng trai đã ngỏ lời yêu với chị, và không bao giờ trở về ... Giờ cũng là lúc vườn nhà phủ một màu tím hoa xoan nở chạt ngọn cây. Lúc này, vẫn còn rơi rớt những trận gió mùa đông bắc, sân vườn ẩm ướt. Mỗi dịp vậy, mẹ tôi lắc đầu, ái ngại, bà thương bầy gà con cóm róm trong mưa lạnh, mắt lên mộng vì chứng cúm thời tiết, lò dò, ngơ ngác kiếm ăn mùa hoa xoan. Bầy gà con bị vậy, nhiều khi mất cả đàn, còn vài ba con sống sót là may. Mỗi khi gà bị cúm, bố tôi lại sai mấy chị em chúng tôi lấy tỏi giã chắt nước rỏ vào miệng cho chúng uống, rồi thóc đem ngâm với nước vôi trong cho gà ăn, mong cả đàn qua khỏi, còn có cái mà bán, có miếng mà ăn lúc giõ chạp. Cái mùa hoa xoan chẳng đem lại ích lợi gì, mùi hăng hắc , ngai ngái, ám ảnh, khó thoát, dù ngoài sân hay trong nhà, nhưng màu tím của nó trên vòm trời chiều thì rất chi ấn tượng. Đây cũng là lúc những mảnh đất trống lấm tấm lên mạ non. Tôi hay có cái trò câu công cống. Gọi là câu công cống hẳn nhiều người không hiểu là câu con gì. Thực ra, ấy là câu con sâu đất. Khi mặt đất se đi, quan sát kỹ sẽ thấy có những lỗ nhỏ như chôn kim lác đác đây đó. Tôi bứt những cọng mạ non, hoặc búp nõn tre, cắm xuống các lỗ đất chân kim ấy, khi thấy cọng mạ động đậy, ấy là chú sâu đất đang cắn mồi cọng mạ, bèn rút dần cọng mạ thật khẽ và khi gần lên mặt đất thì rút thật nhanh, kéo tuột con sâu lên, lấy sâu làm mồi bồi dưỡng cho bầy gà con đang bị ốm... Mùa hạ sang, ấy là mùa của nhiều loài hoa vườn nhà. Trước hết là những loài hoa đỏ, như râm bụt, dong giềng. Hoa râm bụt thì chỉ có sắc, không hương, phá gam đỏ điểm tô cho bờ rào xanh, bởi khúc tần và dây tơ hồng vàng, còn hoa dong giềng không những sắc đẹp, nếu ai biết nó thì còn ăn được. Chẳng hiểu ai dạy, tôi đã biết tút lấy búp hoa trong cùng, mút chút dịch từ lõi búp, có vị ngọt là lạ. Thật thú vị. Biết chẳng béo bổ là mấy, nhưng lại có cảm giác của con ong đi tìm mật. Còn xương rồng nữa, những bụi xương rồng hàng rào hay trên mặt tường vườn rau cũng dày hoa. Mặc dù xương rồng là loại cây chịu khô hạn vô địch, nhưng mùa hạ mưa nhiều, xương rồng cũng mở màng hơn và vì thế sắc hoa đỏ hay vàng của nó cũng tươi tắn hơn, làm con người ta cũng thấy hưng phấn hơn lên... Chưa hết, chỉ riêng một cây sấu ven ao ngay lối cổng vào lấm tấm hoa, lẫn vào vòm lá xanh khiến người ta khó thấy. Và nó chỉ hiển hiện khi dưới gốc cây dát một thảm màu trắng ngà vàng,... Ấy là khi hoa sấu rụng, người ta mới biết đến sự có mặt của nó... Tiết cuối hạ, khi những đầm sen ngoài đồng đã vãn, mảnh ao nhỏ lại tím sịm hoa bèo Nhật Bản, làm góc vườn nhà đầy sinh khí. Loài hoa chẳng mấy ai để ý nên nó cứ vô tư hớn hở, như chỉ thể hiện sự có mặt cùa mình mà thôi. Song sự có mặt của nó làm cho mảnh ao nhỏ quanh năm cớm nắng bởi bóng tre và những cây lưu niên khác, bừng tươi tỉnh, nhất là mỗi chiều tà trời nổi cơn giông nổi, theo đó là những hạt mưa to lộp độp trên lá bèo. Dây mướp ven ao, được bắc dàn lán ra mặt ao đầy hoa vàng và bóng hoa in hình trên mặt nước, khiên đám rô ron tưởng nhầm, lao xao đớp bóng hoa, cho đến khi những bông hoa mướp đực héo rụng xuống, ấy là lúc bày cá con lau chau tranh ăn, quấy nước ao sủi bọt khí. Đám rau muống nước cũng chẳng chịu thua nở đầy hoa tím, kéo sang cả thu. Hình ảnh ấy in đậm trong tôi, để một ngày nào đó, bật ra mấy câu thơ nhớ quê "Quê nhà dường đã vào thu/ Hình như có tiếng chim gù đâu đây/ Ao vườn hoa tím nở đầy/ Có con săn sắt động dây muống chiều"... Rồi bỗng một ngày, khi len lỏi vào hàng rào vườn nhà để tìm ngắt những quả ruối chín vàng mọng bỏ vào miệng ăn, bỗng nhiên cẩm nhận một mùi hương là lạ. Hương gì nhỉ? Tự hỏi mà chẳng thể trả lời. Mùi hương ấy như có lại như không. Mỗi làn gió thổi, mùi hương lại dậy lên, từ sáng đến trưa, rồi chiều, càng rõ dần, và mùi hương ấy hiển hiện, như mùi chuối chín, hay dứa chín. Ở quanh quất đâu đây thôi. Bố tôi bảo: "Hoa dứa dại đấy. Cứ tìm đi, khắc thấy". Tôi căng mũi lần tìm, như chú khuyển vàng đánh mùi... Đây rồi, giữa bụi mây gai xen kẽ dứa dại hàng rào, từ nách lá, một bông hoa vàng nhạt nhô lên. Mùi hương lạ từ đấy tỏa ra, sực nức. Ai đã từng một lần ngửi hương hoa dứa dại sẽ chẳng thể nào quên, vì nó không lẫn với bất kỳ thứ hương nào khác. Tôi mách bố, ông bảo:''Dứa dại ít khi nở hoa, nên ai tìm thấy hoa dứa dại là may mắn lắm đấy". Chẳng biết thật hư, nhưng từ khi tìm thấy hoa dứa dại, tôi luôn chờ đón sự may mắn kỳ diệu nào đó sẽ đến với mình!... Mùa hạ qua đi. Tiết thu sang, sấu chín, lộp độp rụng mỗi khi trời chuyển gió. Bưởi cũng già quả, nhưng ăn vẫn còn he, phải đợi đến tiết Trung thu quả mới đủ nước vào ngọt. Đây cũng là thời kỳ oi nước lên. Lúc này, vườn nhà hầu như vắng màu hoa. Ấy là lúc, những bông hoa xương rồng nhỏ xíu vẫn kiên trì, túc tắc nở, đem lại chút màu sắc cho vườn. Khi ấy, mới thấy thương thấy quý loài cây hoa này làm sao!... Ở tít trên cao, hoa cau nào ai biết. Chỉ những chú chim sẻ mùa hè là hay ríu rít, lách chách, chí chóe trên nách bẹ cau, để thòi ra những sợi rơm khô từ tổ của mình. Rồi một sáng, phảng phất đâu đây chút hương dịu nhẹ. Gì thế nhỉ? Lúc múc nước, chợt thấy mặt nước bể lấm tấm hoa cau. Mãi sau này, tồi hiểu, ấy là dấu hiệu của tiết heo may, khi một thần đồng thơ đã viết những câu thơ "Nửa đêm nghe ếch học bài/ Lưa thưa vài hạt mưa ngoài hàng cây/ Nghe trời trở gió heo may/ Sáng ra vại nước rụng đầy hoa cau". Hay và tinh tế làm sao... Nhà tôi, có đào giếng khơi, bên giếng là bể nước. Bố tôi cầu kỳ để một chậu quỳnh. Ngay chân bể chứa nước là khóm giao. Bố tôi bảo: "Cây quỳnh phải có cành giao mới hợp". Ông mang câu thơ Kiều ra diễn giải, rằng chàng Kim Trọng gặp Thúy Kiều trong truyện của Nguyễn Du thì trời đất, quang cảnh cũng đều giao hòa, quấn quýt "một vùng như thể cây quỳnh cành giao"... Hàng năm, vào tiết cuối thu, may mắn thì khóm quỳnh đơm hoa. Từ lúc thấy quỳnh nhú nụ, bố tôi giao cho tôi theo dõi hàng ngày. Mỗi ngày, nụ quỳnh một lớn và nhú cao hơn. Hồi hộp lắm, mỗi khi chờ xem quỳnh nở. Hoa quỳnh thật lạ, chỉ nở vào đêm, và thường đêm có trăng sáng. Vì thế, cụ Nguyễn Du mới hạ bút: "Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên...". Ban chiều, quỳnh còn chúm chím, đầu nụ nứt hé lộ chút cánh trắng, tôi mừng lắm vội báo tin cho bố tôi. Tối ấy, xong công việc, sau bữa cơm tối, bố tôi cho bày chiếc bàn học của tôi và mấy chiếc ghế ra sân. Ngoài ấm trà, có chút hoa quả vườn nhà và mấy cái kẹo lạc. Cả nhà quây quần chờ xem quỳnh nở. Cho đỡ sốt ruột, bố tôi kể chuyện, những Tây Du Ký, Thủy Hử, Hồng Lâu Mộng... mấy chị em tôi mải nghe, quên cả hoa. Cho đến lúc bố tôi đột ngột dừng kể khi chuyện vào độ hấp dẫn nhất, chúng tôi còn ngơ ngác chưa hiểu sao lại vậy, thì bố tôi cười bảo: "Quỳnh nở rồi kìa! Mình xem quỳnh cow mà". Chúng tôi mời ở người. Quỳnh nở thật, cánh trắng nhị vàng nhạt, mỏng manh, tinh khiết và hương dịu nhẹ. Lúc ấy, nhớ tới câu thơ Kiều, tôi để ý, thấy cả một vòm trời bát ngát ánh trăng, dòng Ngân Hà mềm mại lấp lánh, vắt ngang bầu trời. Tôi ngợp đi và đêm ấy không tài nào ngủ được, không biết là do hưng phấn, hay do uống chén trà? Không ngủ, tôi nghĩ miên man, và chợt phát hiện thấy mình đổi khác... Tôi mơ màng nghĩ đến mấy đứa bạn gái đang tuổi phổng phao, ngực nhu nhú mầm... Quỳnh của mùa thu đã nở. Cả năm chờ đợi, duy có một lần, là lúc này đây. Nhanh lắm, đêm nở, sáng ra ánh trời, mọi sự huyền diệu ban đêm bay đi đâu hết. Quỳnh đã héo dần. Nhìn những cánh hoa quỳnh ỉu xìu trong nắng hanh, tư lự, tự hỏi lòng, sao loài hoa năm nở một lần, hiếm hoi, lại nhanh úa tàn làm vậy? Và tôi chợt sáng ra trong ý nghĩ, cũng như giấc mơ đêm qua ấy, bao hồi hộp bay bổng tuyệt vời của chút tình cảm luyến ái le lói, len lỏi, đầy hưng phấn đã vụt tan biến khi mình bừng tình dậy lúc ban mai. Vậy thì quỳnh chỉ là giấc mộng đêm thu mà thôi. Cũng như sau này, cuộc đời ban cho tôi bông quỳnh khác, nhưng rồi, vẫn như ngày thơ dại, mải nghe chuyện bố tôi kể, tôi lặn ngụp giữa những rối ren thị phi chuyện đời, nhãng đi và xảy mất phút bừng nở của quỳnh, để lúc tỉnh ra thì hoa không còn tươi nguyên nữa. Lại nhớ đến một bài thơ đời Đường của Đỗ Thu Nương "Khuyến quân mạc tích kim lũ y/ Khuyến quân tích thủ thiếu niên thì/ Hoa khai kham chiết trực tu chiết/ Mạc đãi vô hoa không chiết chi"... Thì ra, có một đạo lý, trời đất tạo hóa không cho phép sự tuyệt diệu dài lâu và vững bền, mà chỉ đến trong một chớp mắt, cho người ta cơ hội nắm bắt, còn ra, chỉ như ảo ảnh, lý tưởng về sự hoàn mỹ vĩnh hằng, để cho con người ta ý thức về sự gian khó, để khao khát sống, khao khát vươn lên, mà chẳng biết bao giờ đạt được !?... Những trận gió mùa đông bắc đầu tiên khe khẽ về vào lúc chiều hôm hay mãi nửa đêm. Cây vườn xào xạc. lắc cắc, rào rào những hạt mưa mau thưa, chợt có chợt không. Chỉ những ai tỉnh ngủ mới nhận biết được. Hoặc trong cơm mộng mị, thấy mưa rơi ở xứ mộng mơ xa lơ xa lắc nào đó. Sáng ra, rùng mình se lạnh, mới biết mùa đông đã bén mảng... Những loài cây mùa đông lác đác rụng lá. Mấy cây bàng ngoài bến sông cũng đã ngả màu lá sậm, chờ một ngày đỏ lựng. Chiều chiều, mẹ tôi hay quét lá vườn, mang về phơi để bếp đun dần. Phần lá vụn và rác rưởi còn lại, không đun được thì hun đống đốt thành đống rấm, khói lên thơm nồng, quện với sương chiều muộn phất phơ lên giời, tạo lên một quang cảnh hư ảo trời đất lẫn vào nhau ... Ngày bé, mỗi sâm sẩm tối, trong làn gió lạnh buốt, tôi mơ hồ thấy hồn tổ tiên nương bóng khói đống rấm mà về thăm con cháu... Liên tưởng, ớn mình, nhưng quả thực tôi không mấy sợ... Những tưởng, mùa đông thì chẳng mấy hoa. Song không, đây là thời điểm đám rau giữa vườn về già lại đơm sắc màu. Nổi bật, là những cây rau cải xanh, để già lấy hạt làm giống mùa sau, bừng lên sắc hoa vàng tươi rói. Hoa cải vàng rung rinh trong gió bắc khiến cả khu vườn mùa đông ngỡ ảm đạm lại tươi tắn phấp phới sắc màu, đủ sức lôi cuốn loài côn trùng hút mật đỡ lòng lúc ngày đông tháng giá... Và tôi lại thấy mẹ tôi cất giọng buồn buồn câu ca dao "Gió đưa cây cải về giời/ Rau răm ở lại chịu đời đắng cay". Sao lại thể nhỉ? Tôi chẳng dám hỏi mẹ nữa, nhưng cứ âm âm trong suy nghĩ câu ca dao buồn ấy. Sau này, biết ăn rau cải sống, rồi ăn món mù-tạt làm từ dầu cải, thấy vị cay nồng xộc thẳng vào mũi lên tận óc, lại nghĩ, còn hơn cả vị đắng của rau răm ấy chứ? Thật chẵng rõ người xưa hàm ý gì qua câu ca dao ấy?... Chưa hết, có một loài hoa gần như không mấy ai để ý, chính là hoa thì là. Nhà trồng vạt thì là, để khi thi thoảng nấu riêu cá, hoặc khi xào khoai tây với tóp mỡ, gia vị thì là làm dậy mùi món ăn. Dùng không nhiều nhưng lai rai cả năm. Bỗng một ngày thì là già cũng trổ hoa, màu vàng nhạt, thả chút hương ngai ngái là lạ. Sắc hoa thì là gần gam màu nhưng không lẫn vào hoa cải. khiến mảnh vườn mùa đông bừng sáng và ấm áp hẳn lên. Rìa rãnh nước chảy còn có hàng hương nhu, cuối năm lấy để đun nước tắm tất niên. Hoa hương nhu gam sẫm, thui thủi nở và tàn chẳng ai hay, bởi giá trị hương thơm cúa nó vào hết thân và lá rồi... Sự có mặt của loài hoa này chì mang ý nghĩa vòng tuần hoàn sinh tồn mà thôi... Cuối đông, gần tết Nguyên đán, xen kẽ giữa những trận gió bấc rét là những ngày tiết trời ấm lên, gió nồm đưa hơi ẩm từ biển vào, mỗi sáng sớm và chiều muộn hay sương mù, rồi quá mù thành mưa, lất phất mưa phùn. Mẹ tôi hay dùng thành ngữ "quá mù ra mưa" để chỉ những gì đi quá giới hạn chấp nhận của nó trong cuộc sống... Vậy là tiết xuân vừa chớm. Những khoảng đất trống trong vườn, xen với rau cỏ, để ý thấy những cụm cây dại, hoa nhỏ trắng xanh, chẳng biết gọi tên là gì. Tôi hỏi mẹ, thì bà bảo là hoa tầm xuân và ngân nga câu ca dao "Trèo lên cây bưởi hái hoa, bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân. Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc, em đi lấy chồng chẳng tiếc lắm sao?"... Sau này, tôi có tra cứu, hỏi han này nọ, nhằm kiếm tìm loài hoa tên tầm xuân, thì được mặc định cho cây trường xuân, là loại hoa hồng dây leo hàng rào, và giống này có nguồn gốc nước ngoài. Ngẫm nghĩ, thấy không phải vậy. cây hoa tầm xuân trong ca dao kia quyết không phải là loại trường xuân-hồng dây này. Tôi nghí, chiểu theo ca dao, dân gian. tầm xuân chỉ loại hoa cỏ dại nở hoang ruộng vườn vào lúc có mưa xuân, mà xưa kia các cô gái quê hay hái vào cái tuổi mộng mơ mới lớn, chớm biết yêu, nên tục gọi là tầm xuân mà thôi. Đơn giản vậy, mà cũng có vẻ phù hợp với văn cảnh câu ca dao "bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân" chứ?... Mảnh vườn xưa, quanh năm bốn mùa hoa trái ấy không còn nguyên nữa. Sau khi bố tôi mất, mấy chị em chúng tôi, người về nhà chồng, người ra thành phố công tác. Tôi cũng hành phương Nam gần chục năm trời. Mẹ tôi theo ra thành phố chăm con cho chị gái tôi, bà nhượng nửa mảnh đất cho người bà con họ hàng. Phần còn lại bỏ hoang, ngôi nhà tranh tre tường đất xưa sinh dột nát, rồi bị phá bỏ đi. Gần đây, mấy chị em tôi hùn nhau, xây trên phần đất còn lại một ngôi thờ tự, trồng ít cây, hoa cho ấm bụi, đẹp nhà, nhưng chẳng thể như xưa... Tôi nhớ lắm mảnh vườn xưa thương mến, trong ký ức bộn bề cuộc sống hiện tại. Nơi mà hàng năm, qua bốn mùa hoa trái, bố mẹ chỉ bảo, tôi đã nhận ra và dần thấu hiểu những triết lý nhân sinh. Và điều đó, đã dẫn dắt tôi ngang dọc đường đời...
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 4 bạn đọc.
Kiểu: