Những Mùa Trung Thu - Tác Giả Dư Thị Diễm Buồn

Tác giả Bài
Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
Những Mùa Trung Thu - Tác Giả Dư Thị Diễm Buồn - 10.09.2011 08:15:37
Những Mùa Trung Thu
Dư Thị Diễm Buồn


Em ra đời mùa thu năm đó, vào ngày rằm tháng tám Âm lịch. Đem so với ngày dương lịch đúng y chang trong tờ giấy khai sanh của em.

Mẹ thường kể cho cả nhà nghe, vào những ngày mừng em sinh nhựt:

- Nằm trong nhà bảo sanh mẹ nghe tiếng hò, tiếng hát, reo vui của thiếu nhi cùng tiếng phèn la, tiếng chiên trống múa lân của đoàn dâng cộ đèn mừng Tết Trung Thu, hay Tết Nhi Đồng của nước ta thuở đó, vào thời Việt Nam Cộng Hòa. Theo lẽ mẹ đặt cho con cái tên là Thu, là Nguyệt, là Hằng, là Nga, là Thu Nga, là Thu Hằng, là Nguyệt Thu hay Thu Nguyệt… mới đúng nghĩa với ngày sanh tháng đẻ của con. Nhưng lần về thăm đâu mấy tháng trước khi con ra đời. Lúc ra đi, ba đưa cho mẹ phong thư, bảo chừng nào làm khai sanh thì dỡ ra xem. Ba đã đặt tên cho con cái tên rồi!

Mẹ em chép miệng trầm ngâm một hồi, rồi tiếp:

- Quê hương mình chinh chiến triền miên. Ba con theo đơn vị đóng quân mãi ở miệt rừng U Minh Thượng, U Minh Hạ… tận Cà Mau lận. Tôi nghiệp ba, biết khoảng giữa tháng đó đứa con đầu lòng chào đời, mà ông hằng mong đợi nhưng vẫn không ở nhà được, để nghe “Con khóc “oa, oa… khi lọt lòng mẹ. Còn ông bà, họ hàng thì cười tươi vui mừng đón con…”.

Em lớn khôn dần trong vòng tay mẹ, và tình thương yêu vô bờ của hai đấng sanh thành. Ba em là lính chiến luôn xa nhà, cả trong những mùa Trung Thu là ngày ra đời con gái cưng của ông cũng ít khi có dịp về!

Rồi mùa Trung Thu năm em vào học lớp Năm (lớp một) của trường nữ Tiểu học Trưng Vương. Ngôi trường nữ, hai tầng có vách tường, mái ngói màu gạch tôm, khang trang nằm trên đường ông bà Nguyễn Trung Long (Mỹ Tho) đường ra bến bắc Rạch Miễu qua sông có nhiều cồn nhỏ, cồn lớn… Còn Ông Đạo Dừa, rồi đi về tỉnh Bến Tre.

Địa phận tỉnh Định Tường có Thành phố Mỹ Tho, nổi tiếng hiền hòa nằm mơ màng trên dòng sông Cửu Long… Mà những câu hò, câu hát bình dân khen ngợi ở một khía cạnh nào đó về thành phố khá ái nầy. Miệng truyền miệng từ đời nầy qua đời khác trong dân gian:

“Mỹ Tho đẹp lắm, đi tắm Cầu Dầu/ Anh hỏi em đang ở nơi đâu? Để cha mẹ anh đến cau trầu cưới em…”

Hoặc là câu: “Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ/ Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu/ Anh về học lấy chữ nhu/ Chín trăng em đợi, mười thu em chờ…”

Còn có câu: “Mỹ Tho có kẹo hột điều/ Có cô thôn nữ mỹ miều dễ thương/Ai về Chợ Cũ, Trung Lương/ Hồng đào chín mộng, có đường mạch nha/ Đêm thu đẹp ánh trăng ngà/ Mái chèo dưa đẩy qua nhà thăm em…”



Ở xứ mình, thường tiệm buôn bán trong các chợ, chủ nhà ở phía sau, hoặc trên lầu, còn phía trước, mặt tiền thì bày hàng để buôn bán.

Mỗi năm, cứ vào cuối tháng sáu, đầu tháng bảy Âm lịch là thành phố Mỹ Tho trong các cửa tiệm thấy rõ rệt màu sắc tươi vui rộn rang. Bởi các dãy phố tiệm ở chợ gần như đều trưng bày bán các loại bánh Trung Thu. Họ còn treo bán đầy đủ các loại lồng đèn giấy màu sặc sở, có vẽ thêm những nét đặc biệt lên hình dáng mỗi thứ lồng đèn như: Đèn kéo quân, đèn cá chép, đèn con rồng, đèn ngôi sao, đèn máy bay, đèn xe tăng, thiết giáp, đèn tàu, đèn chuồn chuồn, đèn trái bí, đèn bướm…

Bánh Trung thu thập cẩm có bốn trứng, ba trứng, hai trứng, một trứng hột vịt muối để trong nhưn thập cẩm, có lạp xưởng, thịt khô, vi cá… đó là bánh mặn. Còn bánh thập cẩm chay không có thịt và hột vịt, bánh nhưn đậu đỏ, nhưn mứt. Cùng bánh dẻo nhưn mứt, nhưn đậu xanh…

Riêng em thích nhứt vẫn là bánh ông Địa. Chắc là bánh có hình dáng như ông Địa trên bàn thờ nên gọị là bánh ông Địa? Trên đầu bánh còn có sợi chỉ đỏ dài. Bánh ông địa ăn ngọt, giòn thơm mùi trái vị, ngũ vị hương, mùi quế… rất đặc biệt.

Trong dãy phố công chức đó, có nhà của gia đình em ở. Vào tối mười ba, mười bốn, rằm tháng tám là trẻ con đốt lồng đèn cầm chạy chơi quanh xóm. Nhà nhà đốt lồng đèn, hương khói nhang, mùi bánh Trung Thu thơm tho cúng ở bàn thờ Ông Thiên, cùng mùi trà Tàu, hoa, quả… thơm lừng trong gió thoảng bay.

Em vui vẻ tung tăng chạy nhảy, theo đuôi các bạn quanh quẩn trước sân năm bảy căn nhà quen biết trong xóm sát bên … Vì mẹ đã căn dặn em từ mấy ngày trước:

- Tối con được đốt lồng đèn chơi trong vài nhà gần. Để khi mẹ gọi thì nghe mà lên tiếng… Không được đi xa, mẹ gọi, con không nghe để trả lời thì sẽ có đòn nghe chưa…

Em vâng dạ nghe lời, vì không phải mẹ em không có lý do… Bởi gần đây giặc giã càng sôi động… Đêm đêm Việt cộng thường pháo kích ầm ầm vào thành phố… Đạn pháo vô tình tàn phá nhà cửa, thây phơi, máu đổ… khiến sanh linh đồ thán, trời sầu, đất thảm… Tuổi thơ em sớm nhuốm màu chinh chiến!



Đã hai mùa Trung Thu rồi, bận rộn ba em không về. Vì đoàn quân ba em trấn giữ, chặn thù… khi ở Vị Thanh, Cờ Đỏ (một địa danh ở mền Tây), khi Tịnh Biên, Đồng Tháp Mười nơi nổi tiếng đĩa lội như bánh canh. Còn thường trực ở chỗ có muỗi kêu như sáo thổi và nhiều con vắt là rừng U Minh Thượng, U Minh Hạ… Bởi ba em là lính chiến thuộc Sư Đoàn 21BB, còn có biệt danh là Sét Miền Tây.

Từ chạng vạng, phố xá đã lên đèn… Tiếng hát vang vang rền vọng, tiếng chiên trống lân giục giã trên các nẻo đường của thành phố, làm lòng dạ em nôn nao, náo nức lắm… Mấy đứa cùng xóm đến trước rào nhà, rủ rê nhập bọn đi dâng cộ đèn, hoặc cầm đèn qua nhà chúng chơi.

Nghe lời má dặn, và nhớ ba muốn khóc! Em lắc đầu xua tay nguầy nguậy có ý bảo với chúng là em không đi. Ba em đang dãi dầu ngoài trận tuyến! Với những người lính chiến như ba em thì không có ngày lễ. Cho dù là lễ Tết hay phép thường niên cũng vậy, ít khi được như ý… Ba em chợt đi, chợt đến ghé thăm nhà bất ngờ không hẹn trước.

Đêm nay các nhà trong xóm đều đốt lồng đèn trước cửa. Hương trầm, bánh, trái, hòa với mùi thơm của nước trà Tàu… ấm cúng mừng đón Trung Thu. Riêng nhà em lạnh lẽo vắng tanh! Má không buồn đốt đèn dù là đèn điện. Chiều đi học về sau khi ăn cơm, má còn dặn:

- Con ra sân đốt lồng đèn chơi một mình, đừng đi đâu nghe… Nhà mình ba không về nên đêm nay không có mừng Trung Thu… Ít bữa ba về mình sẽ ăn Trung Thu muộn, nhe con…

Em cầm lồng đèn đi tới đi lui trong sân nhà với chú mèo tam thể, “meo, meo…” tiếng kêu, quấn quít bên chân em. Gió hiu hiu mát rượi, đưa đẩy cây lệ liễu hông nhà, làm những cành lá tha thướt lay động, và lồng bóng trăng tròn. Trăng rực rỡ tỏa ánh sáng trong thanh thoát xuống muôn loài… Em nghe trẻ hàng xóm trước nhà hát những bài Trung Thu:“…Đêm Trung Thu em đốt đèn đi chơi… Em đốt đèn đi khắp phố phường… Đèn Ông Sao với đèn cá chép, đèn thiên nga với đèn trái bí…”

Và em còn nghe anh chị con nhỏ Bạch Nhạn nhà bên cạnh hát ca líu lo. Khiến em ganh tị thấy mắc ghét lắm… Em cũng biết hát vậy chớ bộ! Liền rống họng, em cất tiếng hát lanh lảnh, cố tình cho tui nó ngán chơi:

“Hôm nay đêm rằm, rằm là rằm tháng Tám? Ông Trăng kia đã lên cao rồi ông nhìn chúng em ông tủm tỉm cười! Ông Trăng ơi, nầy ông Trăng ơi, xuống đây với chúng em cùng vui chơi! Ông Trăng ơi nầy ông Trăng ơi, Xuống đây chúng ta cùng ca hát vang trời… Có chi nữa không? Có trống ếch cà lùng tùng xèng… Có chi nữa không? Có bánh ngọt thơm phưng phức… Có chi nữa không? Có những đèn Trung Thu ở miền Nam tự do, ấm no hạnh phúc… ông Trăng ơi! Ông Trăng ơi, xuống đây với chúng em cùng vui chơi… Xuống đây chúng ta cùng ca hát vang trời… ông Trăng ơi… nầy ông Trăng ơi, ơi…”

Tiếng vỗ tay lớn và nhanh, làm em ngạc nhiên quá đỗi! Mèn ơi, ai mà vỗ tay khen tặng em dữ vậy cà? Chắc chị anh mấy con nhỏ hàng xóm chớ gì? Còn khuya à, chúng nó ganh tị chẳng thèm nghe em hát, thiếu điều muốn bịt hai cái lỗ tai lại nữa kìa. Chớ ở đó mà chúng vỗ tay khen em hát…

Sừng Sững lồng ánh trăng lộng lẫy của đêm rằm! Người lính chiến hiên ngang, oai phong đứng đó! Ông mặc bộ trây-di màu cỏ úa, đầu nón sắt, trên thắt lưng cây súng nhỏ… Giầy sô cao ống bám bụi đường xa, mùi nắng cháy khen khét quen thuộc… trìu mến nhìn em mỉm miệng cười. Rồi ông hơi khum lưng xuống, đưa hai tay đón chờ…

Thảy cái lồng đèn dưới sân, em phóng tới ôm chầm thật chặt lấy ba. Hôn tứ tung lên mặt, lên mũi, lên ngực, lên áo ba… Giọng rộn ràng, vui mừng em ơi ới gọi lớn:

- Mẹ ơi, mẹ ơi ba về! Ba về, ba về mẹ ơi…

Trong nhà nhanh chân bước ra tới hàng ba. Mẹ nhìn hai cha con em nở nụ cười mà mắt hoen lệ vui mừng hạnh phúc.

Đèn điện nhà em được thắp sáng! Lồng đèn treo hai bên cửa trước, trong nhà, và sân sau… ba châm lửa đốt đèn cầy. Ánh lửa dạ giấy màu, hồng, vàng, tím xanh… tươi trẻ, vui mắt. Má lúi húi nấu nước châm trà. Ba cắt bánh Trung Thu… Em vui mừng chạy qua mẹ, rồi chạy sang ba… Em ôm cổ ba, nói cười líu lo như con chim chích chòe vào buổi bình minh… Và nhà em, những nhà trên trần thế… được thắp sáng ánh trăng vàng của đêm Trung thu.



Ngày 30 tháng 4 năm 1975 miền Nam bị giặc cưỡng chiếm! Năm đó trẻ con chúng em không có lễ Trung Thu! Ba em bị bắt tù cải tạo… Nhà cửa em trống trơn vì phải bán lần, bán hồi các đồ vật trong nhà… Rồi má em đi bán chợ trời… Đó là kế sinh nhai duy nhứt của mẹ con em, và chắt chiu dành dụm để dành đi thăm nuôi ba.

Những năm về sau, vào đêm rằm tháng tám không ai còn nghe tiếng hát hò, trống múa lân của đoàn dâng cộ đèn nữa. Chợ búa không có bánh trung thu bày bán khắp nơi như xưa. Có chăng họ chỉ làm chui, bán lén… vì đó là mặt hàng xa xí phẩm! Nhà nhà xác xao, cửa đóng then gày.

Những đứa nhỏ hàng xóm em thưa dần, vì chúng theo gia đình về quê ngoại, quê nội, hoặc đi kinh tế mới… Và em không có đèn lồng trái bí dễ xếp cất, dễ đốt mẹ mua cho như những năm qua!

Sau bao nhiêu năm giặc chiếm miền Nam. Là mấy năm ba em bị giặc nhốt trong tù cải tạo! Hôm nay không định trước, mẹ dắt em đi thăm ba, lại lọt đúng vào mùa Trung Thu.

Mẹ con em vượt qua biết bao nhiêu chặng đường lồi lõm có khi bằng xe hơi. Có lúc lội bộ, có lúc đi xe tàu mo, đò chèo… Khi thì mẹ gánh em ngồi trong thúng bên đầu gióng nầy, đầu gióng kia chất chồng đồ ăn, áo quần cũ, thuốc men. Đi từ một hai giờ khuya đến chiều tối hai ngày sau mới đến nơi!

Khi đến nơi thì đã quá giờ thăm nuôi, nên mẹ con em và một vài bà khác cũng đi thăm nuôi chồng con... Những kẻ lỡ bước được chủ vườn ở gần trại tù (cách mấy cây số) tốt bụng cho ngủ trong trại ruộng của nhà họ.

Tối đó, mọi người lỡ đường vùi mình vào đống cỏ khô dưới nền đất sét nứt nẻ, thiếp đi vì mệt mỏi… May mà cả đêm qua trời không mưa, nhưng gió núi tê tái lạnh lùng. Hai mẹ con em nằm chèo queo một góc trong tại ruộng không vách, không phênh.

Em nhìn trăng qua nhiều lỗ trống không trên mái chòi. Trăng rằm lên cao, càng lên cao ánh trăng càng sáng vằng vặt. Sương khuya xuống mờ đỉnh núi và chập chờn trên dải đồi mờ ảo xa xa. Tiếng côn trùng về đêm, hòa cùng tiếng dế tỉ tê… Những con chim ăn đêm bay qua ẩn hiện mịt mờ, kêu oan oát trên trời cao… Tiếng gió hú qua đồi làm xào xạc nhành cây lá chung quanh, khiến em sợ hãi rúc vào lòng mẹ.

Để rồi sáng dậy ra mặt, tay, chân… người nào cũng đầy vết muổi cắn. Bầy muổi đêm qua được ăn bữa giỗ no nê. Chúng thiệt là ác độc, nỡ đành hút máu của những kẻ lỡ đường ngủ trong trại ruộng!

Mẹ em lồm cồm ngồi dậy khi nghe vẳng tiếng gà gáy trong xóm xa… Bà sửa soạn lại túi nải chờ rạng đông đi vào trại thăm ba. Bỗng hai bóng đen lù lù xuất hiện khi mờ khi tỏ trong màng sương sớm. Càng lúc họ đến càng gần… Mẹ sợ quá gọi mấy người kia thức dậy, để cùng đối phó nếu rủi gặp kẻ xấu, hoặc chuyện không may!

Họ càng đến gần trời cũng sáng thấy rõ hơn… Thì ra là hai người thanh niên đi giỡ bẫy chim, chuột, gà rừng… Nói chuyện một hồi thì mấy bà cùng mẹ con em vào nhà cha mẹ họ là chủ trại ruộng nầy.



Nhớ lại đã bao nhiêu năm rồi mới đi thăm nuôi chồng. Ba đói khổ lắm, má em liền cởi chiếc nhẫn cưới bằng vàng 18K đang đeo trên ngón tay áp út ra. Đó là di vật sau cùng của ba tặng bà trong ngày đính hôn! Má đem đổi lấy con gà giò (gà mới lớn nhổ lông xong, còn hơn nắm tay) và lít gạo trắng của chủ nhà… Rồi mượn nồi niu của họ làm gà rô ti và nấu nồi cơm còn nóng hồi đem cho ba em!

Bao nhiêu năm tù tội, là bấy nhiêu năm vợ, chồng, con mới gặp lại nhau! Má em khóc sướt mướt chẳng nói nên lời! Ba ôm em vào lòng nghẹn ngào thổn thức… Ba trông thật tiều tụy, ông ốm gầy, tay chân lỏng thỏng, mặt mày hốc hác, mắt hõm sâu, da đen chì, mét chẹt, nắng cháy nám đen… Chân tay ghẻ chốc, thẹo vít chỗ lành, chỗ lở…

Ba em già quá nhiều! Nếu bất ngờ gặp ngoài đường không ai nói, chắc em sẽ không nhận ra, và sẽ không tin tù nhân đó chính là cha của mình! Em xót xa thương ba vô cùng, ôm chặt ba nức nở khóc òa…

Gần hết giờ thăm nuôi, mẹ đưa cho ba tất cả đồ đem theo, trong đó có con gà được chặt ra làm bốn và nồi cơm đầy… Ba em múc hết nồi cơm, cạo lấy luôn cơm cháy, đưa nồi không còn dính một hột để chút nửa đây trên đường về má em ghé trả lại người cho mượn. Ba lấy hai cục thịt gà (nửa con) đưa cho má và em.

Mắt ông rưng rưng dòng lệ mỏng, nhẹ giọng bảo:

- Em và con đem theo ăn, trên đường về. Chắc con và em đói khổ lắm? Thôi mẹ con về đi, anh sẽ giữ gìn sức khỏe. Đường xa xôi, khó khăn đừng lên thăm nữa…

Má em lật đật lấy gà để trở vào gói cho ba, mếu máo:

- Ở nhà không gì vất vả cả, chỉ lo cho anh thôi. Anh đem gà vào ăn đi. Mẹ con em tới bến xe sẽ mua ăn, thiếu gì…

Dáng ba thất thểu đi, cổng vào trại tù kéo đóng lại! Mẹ em nát dạ tan lòng đứng nhìn theo, rồi lủi thủi dắt con ra về… Vừa đi bà vừa lau dòng lệ lả chả chảy dài xuống má. Còn em nước mắt cũng trào tuôn…



Đường về nhà em còn xa xôi lắm, lại gặp cơn nắng cháy, mưa sa! Hai mẹ con không ai nói với ai lời nào, mỗi người theo đuổi ý nghĩ riêng của mình… Trong đầu óc thơ ngây bé nhỏ của em lúc bấy giờ! Ba em tội tình gì mà họ bắt nhốt trong tù nơi xa xôi hiểm trở? Để ba em và đồng đội đau không thuốc uống, đói không có ăn, lạnh không đủ ấm! Lại bị nhốt trong vùng hoang dã đìu hiu đi cả ngày không thấy bóng người như thế nầy?

Đã đi gần đến tối mà vẫn chưa đén nhà. Giờ đây mẹ con em vừa khát và mỏi mệt cả tứ chi. Em kêu đói bụng, mẹ chép miệng bảo:

- Ráng nhịn về nhà sẽ có đồ ăn, vì mẹ chỉ còn đủ tiền để đi xe thôi. Lúc nãy mẹ định bới cơm cho ba, còn miếng cơm cháy mẹ con ăn cho đỡ dạ đi về. Nhưng thấy ba vét sạch nồi cơm nên mẹ làm thinh! Tội nghiệp ba ở trong tù đói khát nhọc nhằn lắm con ơi…

Nói đến đó, mẹ em nghẹn lời sụt sùi dòng lệ khổ! Về đến nhà, em không sao ngủ được. Hoàn cảnh trại tù, ba em và đồng đội của ông bị hành hạ đọa đày… cứ lởn vởn trong đầu óc thơ dại của em. Từ đó nỗi hờn oán nhen nhúm ngày càng lớn trong tâm hồn em: “Không bao giờ! Phải, không bao giờ em quên, và tha thứ cho những kẻ đã đày đọa ba, và đồng đội của ba em…”

Em thẩn thờ ngồi bên cửa sổ vò võ nhìn bầu trời cao rộng, trong sáng ánh trăng thu! Và con mèo tam thể dễ thương vẫn cào, kéo… lai quần em, và chạy nhảy tung tăng giỡn trăng như để làm vui cô chủ nhỏ.

Thấy em buồn, má cũng chẳng vui gì hơn! Một lúc sau, bà tìm ra cái lồng đèn trái bí mấy năm trước đã cũ mèm, giấy dán đổi màu và bị chuột cắn tưa mấy lỗ. Nhớ lại lâu lắm rồi, em đã cẩn thận nhét cái lồng đền nầy dưới vào thùng sách truyện, và báo cũ của ba…

Đã mấy mùa Trung Thu qua đi, ba vẫn chưa được thả về. Em lơ là nhìn cái lồng đèn nghe chừng xa lạ, mà cảm thấy lòng xao xác héo hắt buồn loan! Làm sao em vui được khi ba em còn bị đày nơi rừng sâu Việt Bắc, nơi nổi tiếng rừng thiêng, và nước độc! Nước độc đến nỗi, từ bờ suối bên nầy, lội qua suối thì lông chân bị rụng hết! Ở đó họ chỉ uống được nước mưa, và đi cả mấy ngày trời không thấy bóng sơn nhân hay lâm nhân…

Em lại càng xót xa đau buồn nhức nhối hơn, khi bắt gặp nửa đêm trở giấc nghe mẹ khóc lén, khóc thầm!

Thế nhân dù có buồn vui! Nhưng đêm nay trăng thu vẫn ngạo nghễ lên cao. Càng lên cao, trăng càng trải ánh sáng ngà ngọc xuống muôn loài. Gió thu vẫn nhè nhẹ man mác và mây thu vẫn bàng bạc bay bay. Những cánh chim đêm thu, in chập chờn trên không gian rồi hối hả bay đi… Chúng như ngầm hiểu nỗi thống khổ đoạn trường của con người theo vận nước nổi trôi! Và cảm thông trời miền Nam tự do ấm no từ đây không còn nữa… Cả loài chim muông còn biết buông tiếng kêu áo nảo như oán, hờn, trách, hận…



Sau khi ba em được thả về, gia đình đùm túm dùng thuyền chài vượt biển Đông! Mười mấy ngày lênh đênh trên biển cả, gió vồn, sóng dập, đói khát thảm thê. Tưởng chừng cả gia đình dìm dưới mồ huyệt lạnh của đại dương rồi… Hành trình vượt biên trùng trùng hiểm nguy thừa chết thiếu sống! Nhờ Ơn Trên, rồi gia đình em cũng trôi giạt vào Nam Dương (Indonesia) quần đảo với những kẻ chung chuyến tàu.

Sống lang thang từ đảo nầy qua đảo khác: Pacikata, Terrempa, Ku Ku, rồi Galang (Trung tâm tị nạn Cộng sản vùng Đông Nam Á) Tại trại tị nạn Galang, nếp sống của người tị nạn Cộng sản có quy củ hơn…

Nơi đây có trường học dạy Anh văn, có nhà thương, có nhà thờ, có chùa, có bệnh viện… Có văn phòng Cao ủy tị nạn làm việc, để nhận người vào đệ tam Quốc Gia… Và nhiều tiệm buôn bán gia dụng nấu ăn của dân bản xứ… Dần dà có quán phở, quán hủ tíu, quán nhạc, quán cà-phê, quán sinh tố…

Galang là một trong những hòn đảo đẹp của Nam Dương. Chùa được cất trên đồi cao gần các dãy trại, để dân tị nạn dễ dàng chiêm ngưỡng và cúng bái. Ngôi chùa khang trang có nhiều tượng phật cao lớn hơn người… được tàu và trực thăng chở đến… Phí tổn của ngôi chùa nầy, nghe đâu do các thương gia ở Nam Dương và Singapore góp gom để xây cất…

Sáng sớm và chiều tối nào em cũng theo ba má lên chùa. Vì trên chùa gió mát, và đôi khi em được sư cho trái cây hoặc bánh, kẹo… của bá tánh đã cúng phật. Ở đảo đói khát thấy mồ, em thèm đủ mọi thứ, hôm nào được đồ ăn dư của Phật thì mừng húm rồi!

Đi lên sau chùa chừng hơn trăm thước cao nữa. Phóng tầm mắt nhìn, chúng ta có thể thấy rõ bốn hướng của biển cả mênh mông vô bờ, vô tận…

Em hạnh phúc đứng bên ba má em nhìn hoàng hôn xuống. Mặt trời ráng màu đỏ nghệ như quả trứng gà, treo lơ lững trên nền trời nhiều mây có vân ngũ sắc. Nắng vàng ánh trải trên mặt thủy triều bao la xanh ngát một màu. Ánh nắng lung linh chấp chóa lúc mây tạnh gió yên. Và những buổi sáng mờ sương, biển thanh thoát và hiền dịu vô cùng… Mặt nước lăn tăn gợn sóng theo từng đợt gió đùa… Nền trời trong như ngọc, lác đác từng làn mây trắng mỏng như nằm bất động có pha những sắc màu rực rỡ: ửng hồng, tím, xanh, vàng, xám, thiên thanh, hồ thủy... do những tia nắng bắn ra từ mặt trời cao ngạo vừa nhú lên ở phương đông.

Rồi sương mờ dần tan, chỉ trong chốc lác thôi… Biển tịnh yên, mặt biển xanh lơ, và vầng hồng rạng rỡ cho nắng ấm, gió the the man mác lay nhẹ chòm lau, khóm đước và hòa cùng lá thông reo… Hải âu xoãi cánh bàng bạc loang loáng trong ánh bình minh… “Chim én không làm thành mùa xuân/ Nhưng có chim én mùa xuân thêm phần ý nghĩa” Ở chốn hải đảo nầy, em xin nói lên thiển ý của mình rằng: “Nếu biển cả không có cánh hải âu thì biển cả mất đi phần thi vị”.

Có hôm em dưới mái hiên phóng tầm mắt nhìn trời biển động! Gió thổi vùn vụt cây cối ngả nghiêng. Sấm ầm ầm, sét nổ giòn chớp sáng lòe rội phụt tắt! Mưa tầm tả ào ào, từng cột sóng dâng cao nhhư muốn đảo lộn càn khôn! Thật dễ sợ trước sự cuồng nộ của biển cả! Em ngồi co ro chợt nhớ câu: “Đời không đau khổ đời vô vị/ Biển chẳng phong ba, biển chẳng hùng”.

Ba em khéo tay làm cho em cái lồng đèn trái bí bằng lon nhôm coca cola, trong mùa Trung Thu ở trên hải đảo Galang. Lon nhôm sau khi rửa sạch, lau khô, ba em kiên nhẫn dùng nhiều cục đá có cạnh nhọn, bén… Ông đụt từng đường dài, nhắm sao cho ngay và đều… Ba ngồi cả ngày trời tẳn mẳn đụt, chà cạnh cho hết bén… Rồi nhẹ tay bóp cho những cọng lon nhôm cong (không gãy) mà ông đã bỏ không biết bao nhiêu cái lon nhôm. Bị xuể tay, rướm máu mới làm được một cái lồng đèn trái bí, tạm vừa ý cho con gái mình!

Thuở đó gần cuối năm 1979, đảo Galang có mấy chục ngàn người dân tị nạn Cộng sản, đại đa số là từ miền Nam Việt Nam. Họ bôn đào khi miền Nam bị Cộng sản và Việt cộng cưỡng chiếm!

Chiều đến cầm lồng đèn trái bí ba làm cho, lòng em tươi vui phơi phới như hoa nở mùa xuân. Len ten theo bọn trẻ con, em đi dâng cộ đèn vòng vòng trong các trại do những anh chị hướng dẫn.

Ôi hải đảo phủ ánh trăng thanh thoát giữa vùng mây nước, có tiếng sóng biển bủa rạt rào, tiếng gió vi vu hòa cùng tiếng hát mừng Trung Thu vang dội, rền vọng ngút trời xanh, của những đứa trẻ cùng gia đình trốn chạy khỏi vùng Cộng sản để đi tìm phương trời tự do…

Đêm Trung Thu, chúng em được ăn nhiều bánh kẹo, uống nước trái cây thơm ngọt, từ các nhà hảo tâm của xứ người chở đến cả tàu, cả xe đến tặng. Họ đem cho cả lồng đèn làm đủ kiểu hình thù các con vật… được sơn phết, dán giấy, vẽ, tô đẹp đẽ, màu sắc rực rỡ, chói lộng hấp dẫn và quyến rủ vô cùng… Nhưng em không nhận, bởi ba đã làm cho em lồng đèn trái bí bằng lon nhôm rồi. Em quý cái lồng đèn nầy hơn tất cả mọi lồng đèn trên thế giới, trong mùa Trung Thu. Bởi cái lồng đèn trái bí bằng lon coca làm thành đó, ngoài tốn nhiều công sức, còn là tâm ý và gói ghém cả tình cha thương con của ba em…

Mùa Trung Thu ở trại tị nạn Cộng sản Galang, khắc ghi đậm nét trong đời, và cho em niềm nhớ không nguôi… Đó còn là hành trang mang theo trong ký ức em trên khắp nẻo đường lưu lạc.



Đã mấy mươi năm lưu lạc xứ người… Ba má em vất vả nuôi dưỡng chăm lo cho em học hành đỗ đạt nên người… Ngày nay em đã thành nhân, ông bà có cháu ngoại để bồng bế thương yêu, nuông chiều… Và thời gian thắm thoát trôi mãi trôi, nay ba má em đã ngoài tám mươi! Ông bà ở cái tuổi “Bát thập cổ lai hy” Cái tuổi dễ bịnh hoạn, và gần đất xa trời!

Em buồn đau thắm thía trong lòng, mỗi khi nghĩ đến! Nhưng phải làm sao đây? Vì đó là định luật của tạo hóa, mà trót sanh ra làm kiếp con người thì kẻ trước, người sau không một ai tránh khỏi…

Rồi ngày đó cũng đã đến! Một mất mát lớn cho gia đình! Má em đã qua đời! Giờ đây, đêm đêm em luôn nguyện cầu, xin Ơn Trên cho ba em ăn ngon, ngủ khỏe… Và em cố gắng làm mọi thứ để ba được an ổn tâm hồn, vui vẻ hạnh phúc trong thời gian còn lại bên cháu con!

Dẫu biết rằng, trong cuộc đời có đầy dẫy hỉ, nộ, ái, ố… thăng trầm, dâu bể, phế hưng… Nhứt là trên quê hương khốn khổ Việt Nam của em sau ngày Cộng sản và Việt cộng chiếm đóng! Giặc đã mang nền giáo dục (ở mọi khía cạnh, mọi phương diện) của làn sóng đỏ từ ngoài miền Bắc tràn vào miền Nam.

Hoàn cảnh xã hội miền Bắc mấy mươi năm theo chế độ Cộng sản. Đã gây và ảnh hưởng tác hại mọi mặt, tâm lý, cách sống, đời sống… Đã thấm nhuần, ăn sâu trong tâm hồn, trong máu huyết của con người từ trong gia đình, ra ngoài xã hội. Với những điều nghịch lý, giả nhân, giả nghĩa, lừa bịp, dối gian, tính toán, tinh ma… Đã xẩy ra hàng ngày với cha con, anh em, bạn bè… thì nói chi đến tình nghĩa vợ chồng!

Vì thế, những đổ vỡ của gia đình nhan nhản xẩy ra hàng ngày trước mắt, và khắp nơi… không sao đếm cho xuể! Khuôn ngọc thước vàng từ nghìn xưa ông cha ta để lại “Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” dưới chế độ Cộng sản vô thần, giờ đây đã bị thui chột, vô nghĩa hết rồi! Thì thử hỏi xã hội Việt Nam ngày nay làm sao không rối bời? Và quê hương đất nước Việt Nam làm sao không nát tan, không bị chia năm xẻ bảy… hiến dâng cho ngoại bang!

Hôm nay là ngày rằm tháng Tám, đã vào chánh mùa Trung Thu. Em đẩy ba ngồi trên xe lăn chầm chậm rẻ vào chợ (vì cả hai chân ba đều yếu). Vùng gia đình em tạm cư, có rất nhiều chợ Á Đông. Cả tháng nay, tiệm nào cũng bán đầy dẫy bánh trung thu. Bánh trung thu đủ loại ở địa phương, nội địa sản xuất… và bánh từ các nước khác nhập vào. Bánh nằm phơi phới trong các hộp vẽ hoa bướm màu sắc tươi trẻ rực rỡ. Các hộp đều có nắp đậy bằng kiếng, nhìn thấy rõ bánh bên trong, gợi thèm cho khách vào ra chợ…

Năm nay các bánh được làm từ nước Tàu Cộng, Việt Cộng chắc hẳn ít ai dám rớ tới? Vì lợi ích riêng, họ không nghĩ đến sức khỏe của người tiêu thụ, đã dùng quá nhiều hóa chất … Ăn vào dễ, lấy ra khó, sẽ hại cho thân thể, và có khi còn chết người!

Ba em nhìn từng hộp bánh… trong tủ kiếng. Ông lựa rồi chỉ tay, muốn mua một hộp bánh Trung Thu có trứng, và lấy thêm hộp bánh dẻo nữa. Nhà em ngoài ba, chỉ có hai vợ chồng em và hai đứa nhỏ (nhưng chúng không thích bánh trung thu) Ai cũng sợ ngọt, nên chắc chắn sẽ ăn không hết… Chỉ cần mua một hộp, hai bánh nầy, hai bánh kia đủ rồi. Nhưng em lấy hai hộp bánh người bán đặt vào bao xách, máng trên xe cho ba vui lòng.

Ba em chỉ hai chiếc lồng đèn treo trên vách. Em biết ba mua cho hai cháu ngoại… Trả tiền xong em định đẩy ba đi ra, nhưng ông chỉ thêm cái lồng đèn trái bí, làm em ngạc nhiên nhìn ba?

Ông nhìn em mỉm cười, trìu mến:

- Ba mua lồng đèn trái bí cho con! Nhớ thuở con còn bé nhỏ thích chơi đèn Trung Thu với đám trẻ con trong xóm… Năm đó đi lính xa, bất ngờ được về thăm nhà trong đêm Trung Thu. Ba đứng sau lưng cả buổi mà con không hay! Khi thấy ba, con phóng tới ôm chầm thật chặt như sợ ba vuột mất. Rồi con mừng rỡ, líu lo gọi mẹ báo tin ba về…

Mắt già nua trắng dã, ba em cảm động nghẹn lời! Ông tiếp:

- Ba mua bánh về cúng má, lúc sanh thời bả ưa bánh Trung Thu và bánh dẻo lắm… Cho dù con gái ba bây giờ tuổi đời có lớn hay già đi nữa, nhưng trong mắt ba lúc nào con cũng còn nhỏ bé! Và tình thương con trong lòng ba càng ngày càng lớn vô bờ, vô tận… con ơi!

Em dang đôi tay ôm chầm lấy ba! Hôn lên trán ba em, mà mắt rưng rưng dòng lệ kính yêu và hạnh phúc!

Em may mắn được sanh ra trong miền Nam! Em diễm phúc được thừa hưởng rất nhiều, rất nhiều thứ mà chỉ ở miền tư do dưới Chánh thể Cộng Hòa mới có… Em đã nghe được câu nói của ai đó, để riêng mình thẩm thấu và nghiệm thấy rằng: “Trên cõi đời ô trọc nầy, có hai người đàn ông để cho em kính nể và yêu thương nhứt. Đó là ba em và chồng em!”
Đường phố đã lên đèn, nhưng ánh trăng thu rực rỡ cao ngạo, thanh thoát áp chế ánh đèn đường vàng võ. Cha con em dừng lại bên lề nhìn đoàn múa lân dẫn đầu, các thiếu nhi dâng cộ đèn náo nhiệt đi qua. Trên đất nước tự do, các em vô tư, thảnh thơi, mặt mày hớn hở nhịp nhàng cất vang tiếng hát vang vang: “Đêm Trung Thu em đốt đèn đi chơi/ Em đốt đèn đi khắp phố phường/ Đèn ông sao với đèn trái bí/ Đèn xe tăng với đèn cá chép…Em đốt đèn đi khắp phố phường…”

Mùa Trung Thu, năm 2011
Tệ xá Diễm diễm Khánh an

DƯ THỊ DIỄM BUỒN
ĐT: (530) 822 5922
Email: dtdbuon@sbcglobal.net

NgụyXưa
  • Số bài : 880
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 31.01.2007
  • Nơi: Thái Bình Dương
RE: Những Mùa Trung Thu - Tác Giả Dư Thị Diễm Buồn - 10.09.2011 10:17:50
"Những Muà Trung Thu" đã được mang vào thư viện.
 
Xin cám ơn chị VDN và tác giả Dư Thị Diễm Buồn.