THƠ ĐƯỜNG Tú lang thang
Thay đổi trang: << < 222324 > >> | Trang 24 của 46 trang, bài viết từ 346 đến 360 trên tổng số 676 bài trong đề mục
duonglam 06.10.2012 10:54:59 (permalink)
0


Nói láo mà chơi nghe láo chơi,
Giàn dưa lún phún giọt mưa rơi.....
Nghĩ đời lắm lúc không bằng mộng,
Thơ thẩn nghe ma đọc mấy lời...
Bồ Tùng Linh

--------------------------------------------------------


Bình luận bằng thơ Đường thất ngôn bát cú:
108 anh hùng Lương Sơn Bạc[ Trong tác phẩm Thuỷ hử của Thi Nại Am,một trong Tứ đại danh tác của Trung Quốc ]


01-HÔ BẢO NGHĨA TỐNG GIANG *

Tên hiệu : Hô Bảo Nghĩa
Vị trí : 1, Thiên Cương Tinh
Danh hiệu : Vũ Đức đại phu, Sở Châu an phủ sứ
Xuất thân : Áp ti huyện Vận Thành . Chức vụ : Tổng binh đô đầu lĩnh
Xuất hiện : Hồi thứ 18


Lòng thành giữ trọn đạo cương thường
Cát bụi giang hồ chẳng vấn vương
Rộng lượng dân tình nên mạt vận
Bao dung bằng hữu phải cùng đường
Quan gia trả hận đày lao ngục
Hảo hán đền ơn cướp pháp trường
Dấn bước phong trần lên thống lĩnh
Anh hùng quy tụ khắp muôn phương.

Tuyệt thế nhân gian



Bảo Nghĩa danh xưng chẳng phải thường
Sơn hà một cõi sá gì vương
Tình chung bè bạn luôn chia sẻ
Chí cả anh em đủ vẹn đường
Trung Nghĩa mang quân về Tụ Nghĩa
Quân trường so kiếm diểu sa trường
Lẫy lừng thống lãnh Lương Sơn Bạc
Danh trấn giang hồ dậy bốn phương

Tú lang thang



*Trong tác phẩm Thuỷ hử của Thi Nại Am, ông là một trong những nhân vật chính, có tên hiệu là Hô Bảo Nghĩa (người kêu gọi chính nghĩa), còn gọi là Tống Áp Ty, hay Cập Thời Vũ. Tống Giang là vị đầu lĩnh của 108 anh hùng Lương Sơn Bạc .
Ông nổi tiếng là người tốt, tính tình nghĩa hiệp hay giúp đỡ nhiều người nên tiếng đồn khắp nơi. Sau khi Tống Giang lên làm đầu lĩnh Lương Sơn Bạc, điểm lại thấy anh em có cả thảy 108 người, vui mừng khôn xiết, liền lập đàn tế trời đất rồi đổi tên Tụ Nghĩa Sảnh thành Trung Nghĩa Đường [xin xem Thuỷ Hử ...]
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.10.2012 08:26:16 bởi duonglam >
duonglam 10.10.2012 23:08:22 (permalink)
0
THƠ VUI CUỐI TUẦN [trào phúng]

THI HOA HẬU


Bỏ chị bỏ em bỏ cả trường
Bỏ tình nhăng nhít bỏ sầu thương
Lên Đài Tiếng Hát Mầm Non Trẻ
Vào Hội Hoa Khôi Tuyển Sắc Hương
Mong chẳng đụng chàng - phường háo sắc
Cầu không gặp mụ - bọn chơi lường
Trở thành hoa hậu xe đưa rước
Thiên hạ ôm hôn thắm... nõn nuờng.

Tú lang thang
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.10.2012 08:07:53 bởi duonglam >
Nguyen Gia Linh 14.10.2012 21:02:42 (permalink)
0
THI HOA HẬU


Bỏ chị bỏ em bỏ cả trường
Bỏ tình nhăng nhít bỏ sầu thương
Lên Đài Tiếng Hát Mầm Non Trẻ
Vào Hội Hoa Khôi Tuyển Sắc Hương
Mong chẳng đụng chàng - phường háo sắc
Cầu không gặp mụ - bọn chơi lường
Trở thành hoa hậu xe đưa rước
Thiên hạ ôm hôn thắm... nõn nuờng

Tú lang thang



Thi hoa hậu


Cùng anh bỏ chị bỏ sân trường
Dõi hướng quê nhà lẫn luyến thương
Luyện giọng văn đàn nâng nhóm trẻ
Theo vần thơ họa đỡ ngàn hương
Cầu không gặp gỡ phường lường gạt
Mỏi chẳng quen thân kẻ lật lường
Sớm trở thành người nhiều đón rước
Tình yêu hơn hẵn mấy cô nường.


Nguyễn Gia Linh
duonglam 15.10.2012 02:31:18 (permalink)
0
Bình luận bằng thơ Đường thất ngôn bát cú:
108 anh hùng Lương Sơn Bạc[ Trong tác phẩm Thuỷ hử của Thi Nại Am,một trong Tứ đại danh tác của Trung Quốc ]

TRÍ ĐA TINH NGÔ DỤNG

Túc trí đa mưu lại rất gàn
Bình sinh dạy học sống an nhàn
Lương Sơn vắt óc phò Triều Cái
Bến Nước hết lòng giúp Tống Giang
Sắp kế quan quân đành khuất phục
Bày mưu tướng sỹ chịu chiêu hàng
Quân sư danh tiếng trùm thiên hạ
Gia Cát thần hầu dễ sánh ngang.
Tuyệt thế nhân gian


Giang hồ một cõi bước nghênh ngang
Hiệp Nghĩa Lương sơn dễ sánh hàng
Trí thánh thần cơ phò Đại cục [1]
Kỳ mưu diệu kế giữ Long giang [2]
Xuống non tám hướng trời yên lặng
Về bến năm sông gió thoảng nhàn
Ngô Dụng - Ngoạ Long đời mấy kẻ
Ân tròn nghĩa vẹn sá chi gàn...
Tú lang thang


[1]đại trại Lương Sơn Bạc.
[2]Bến nước= nghĩa chữ Thủy hử [Thủy trại Lương sơn bac]


Tên hiệu
Trí Đa Tinh Ngô Dụng
Vị trí :3, Thiên Cương Tinh
Xuất thân : Giáo thụ
Chức vụ : Quân sư
Binh khí : Đồng liên
Xuất hiện : Hồi 14

<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.10.2012 12:27:34 bởi duonglam >
duonglam 21.10.2012 02:20:05 (permalink)
0


NGŨ HÀNH SƠN
[Họa thơ bình nguyên]

Ai về đất Quảng ghé qua chơi

Thăm Ngũ hành sơn đẹp tuyệt vời

Linh Ứng ưu trầm đêm tĩnh mịch [1]

Huyền Không hư ảo bóng chiều trôi [2]

Sông Hàn một dãi mây khoe sắc

Núi Ngũ năm non đọ cảnh trời [3]

Vọng hải đài : nhìn ra biển đó

Hoàng -Trường thương quá Việt nam ơi !!!

Tú lang thang




NGŨ HÀNH SƠN [bài xướng]

Ngũ Hành lôi cuốn khách sang chơi

Tạo tác thiên nhiên quá tuyệt vời

Huyền ảo chùa chiền như bức vẽ

Mênh mông hang động tựa dòng trôi

Đứng trên Vọng Hải nhìn con sóng

Ngồi dưới Thủy Sơn ngắm ánh trời

Loang loáng muôn màu giăng khắp lượt

Hài hòa tiên cảnh đẹp chơi vơi./

Binhnguyen

* Những bài họa tiếp theo]

DI TÍCH NGŨ HÀNH.
Ai ra Đà Nẵng ghé thăm chơi
Dãy núi Hành Sơn quá tuyệt vời
Minh Mạng đời vua khai thắng cảnh
Ngọc Lan công Chúa rẽ dòng trôi
Thi thơ bút tích còn lưu giữ
Vách đá cheo leo tạo tác Trời
Thắng cảnh danh lam dòng lịch sử
Muôn đời dấu ấn vẫn không vơi.
Vân Sơn ev

----------------------

HỌA: NGŨ HÀNH SƠN ĐẸP

(họa bài NGŨ HÀNH SƠN của BN)


Ngũ Hành Sơn đẹp muốn thăm chơi
Từ thuở xa xưa bạn chửa vời
Người bảo chốn thiền trùm núi nổi
Ai rằng cảnh phật cuốn đời trôi
Một vùng sơn thủy linh thiêng đất
Mấy thuở mây mưa sạch sẽ trời
Bạn gọi lòng ta thêm háo hức
Chưa vào thăm cảnh - nhớ khôn vơi !

THANH DẠ



[1] CHÙA LINH ỨNG - NGŨ HÀNH SƠN

Chùa Linh Ứng tọa lạc ở phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.
Ở phía Đông, có 123 bậc cấp lát bằng đá dẫn đến chùa Linh Ứng, thường được gọi là chùa Ngoài. Trước năm 1891, chùa có tên là Ứng Chân. Sách Danh thắng Non Nước – Ngũ Hành Sơn (Nguyễn Trọng Hoàng, Đà Nẵng, 2000) cho biết vào đời Vua Lê Hiển Tông, niên hiệu Cảnh Hưng (1740 – 1786) có Hòa thượng Quang Chánh, hiệu Bảo Đài đến tu tại động Tàng Chân. Ngài dựng am Dưỡng Chân, sau sửa chữa lại gọi là Dưỡng Chân đường. Đến đời Gia Long, Dưỡng Chân đường được đổi thành chùa Ứng Chân. Sau khi Vua Minh Mạng đến vãng cảnh chùa đầu tiên vào năm 1825 thì các ngôi chùa tranh tre ở đây mới được thay bằng gạch ngói. Vua đã ban cho chùa tấm biển có ghi Ngự chế Ứng Chân Tự, Minh Mạng lục niên. Đến đời Thành Thái, do kỵ húy tên một vị vua nhà Nguyễn nên chùa được đổi tên là Linh Ứng. ..

[2]động Huyền Không

Nằm trong quần thể danh thắng Ngũ Hành Sơn, Huyền Không là một trong những động đẹp nhất, huyền ảo nhất, có giá trị tâm linh to lớn nhất.
Động Huyền Không là một động lộ thiên, vòm hình tròn, nền bằng phẳng, trên vòm có 5 lỗ thông ra bên ngoài, ánh sáng tràn vào đây tạo một không khí huyền bí lung linh cho hang động.
Để vào được động Huyền Không phải bước xuống hơn 20 bậc cấp nằm sâu hơn động Hoa Nghiêm khoảng 5m, được ví động như chiếc chuông úp sấp, là một trong những động rộng, thoáng mát và đẹp nhất của quần thể Ngũ Hành Sơn, vòm động tiếp xúc với không gian bên ngoài, ánh sáng rọi vào làm động thêm lung linh huyền ảo. Ngày nắng, động được ví như chiếc điều hòa thiên nhiên bởi không khí mát mẻ, trong lành.
Đây là điều làm nên sự khác biệt của động Huyền Không đối với một số hang động khác ở Hạ Long, Phong Nha - Kẻ Bàng…
Trong khi các nơi phần lớn là động kín, ẩm, trong động phải thắp điện hoặc khi vào phải có đèn chiếu sáng thì động Huyền Không tuy ít thạch nhũ nhưng đủ độ thoáng và ánh sáng tự nhiên.
Trên cao nhất là tượng Phật Thích Ca, bên dưới là bàn thờ Phật Địa Tạng Vương Bồ Tát. Bên trái động có đền thờ bà Ngọc Phi (bà Chúa Tiên), là nơi du khách đến cầu tài, cầu lộc; đền thờ bà Lồi Phi (Chúa Thượng Ngàn) được du khách đến cầu nguyện về sức khỏe và sự bình an.
Sâu bên phải là đền Trang Nghiêm Tự cổ kính được xây dựng năm 1825, gồm ba gian. Gian chính thờ Phật Quan Âm.
Quanh vòm động có nhiều nhiễu đá bám vào vách tạo nên những hình thù lạ, đó là khuôn mặt ông già nhìn nghiêng, là hình con chim hạc hay đà điểu, hình hai đầu voi với chiếc vòi thả xuống, là con cò cùng chiếc mỏ dài nhọn ép vào vách động…
Động không có nhiều thạch nhũ đẹp. Tuy nhiên trên vách vẫn thấy một vài hình thù lạ và hay hay. Một thạch nhủ tên Vú Mẹ trước đây nước nhiễu ẩm ướt, nhưng vì nhiều người rờ quá, nên nước bây giờ không còn ướt nhiều nữa.
Động Huyền Không đi qua cổng vòm có 3 chữ Huyền Không Quan, cửa hơi hẹp, động tối, những bậc đi xuống sâu, giữa cửa động có tượng hình ông Thiện và ông Ác, như nhắc nhở con người phải thánh thiện, từ bi khi đến cõi sắc không của Phật.
Vào trong hang có ánh sáng từ trên cao chiếu qua lỗ trống trên động, càng làm vẻ đẹp lung linh huyền bí, vòm Động cao nhủ thạch bám vào vách tạo nhiều nét đẹp thiên nhiên, và bàn tay con người tạo thêm nhiều hình đẹp như tượng Phật Quan Âm, được điêu khắc công phu trên bệ thờ.
Phía bên phải là ngôi chùa nhỏ Trang Nghiêm Tự, bên cạnh có thạch nhũ nhỏ nước tí tách, dưới nền có khối đá điêu khắc tượng của người Chàm, khung cảnh hư ảo trong hang động tạo cho du khách như sống với thế giới vừa hư vừa thật, lấy tay vỗ lên trên đá nghe như tiếng trống bình bịch.
Ngày nay Động Huyền không trở thành một điểm không thể không dừng chân cho những ai đến với Đà Nẵng, đến với Ngũ Hành Sơn. Khung cảnh nơi đây vừa hư vừa thực, một không gian mơ màng huyền bí.

[3]núi Ngũ hành sơn

Ngũ Hành Sơn là một thắng cảnh bậc nhất ở miền Trung xưa nay. Một huyền thoại mà ngày nay còn lưu truyền trong dân gian là: Thuở trời đất còn hỗn mang, vợ Long Vương vượt biển Đông vào đây đẻ trứng trên bãi cát, nhờ thần Kim Quy bảo vệ. Qua nhiều năm tháng hấp thụ khí âm dương, một hôm, trời nổi sấm sét, đất chuyển ầm ầm, trứng rồng nứt vỏ. Một Long Nữ chào đời, bay thẳng về trời. Những mảnh vỏ trứng biến thành năm ngọn núi...

Vua Minh Mạng đặt tên các núi này là Ngũ Hành Sơn: Kim Sơn, Mộc Sơn, Thủy Sơn, Hỏa Sơn, Thổ Sơn.

Thủy Sơn có tên là núi Chùa hay núi Tam Thai là ngọn núi lớn nhất, cao 106m, rộng khoảng 15 hecta, có ba ngọn. Ngọn cao nhất phía Tây Bắc là Thương Thai, có các chùa Tam Thai, Tam Tôn, Từ Tâm, các hang động Hoa Nghiêm, Huyền Không, Linh Nham, Vọng Giang Đài và hành cung Động Thiên Phước Địa (nơi nghỉ ngơi của vua Minh Mạng). Trung Thai ở phía Nam thấp hơn, có hang Vân Nguyệt, các động Vân Thông, Thiên Long, hai cổng đá Động Thiên Phước Địa và Vân Căn Nguyệt Quật. Hạ Thai ở phía Đông, có chùa Linh Ứng, động Tàng Chân, 5 hang động nhỏ: Tam Thanh, Chiêm Thành (hang Hời), Bàn Cờ, hang Ráy, hang Gió, có Vọng Hải Đài, hang Ngũ Cốc (hang Lồng Đèn) và động Âm Phủ.

Du lịch Đà nẵng
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.10.2012 06:43:52 bởi duonglam >
duonglam 23.10.2012 03:28:05 (permalink)
0


NGƯ ÔNG ĐỢI BẠN
[hoạ thơ Cao ling Tử]


Bên trời sắc sắc lại không không
Danh lợi mà chi để não lòng
Một cõi phiêu bồng theo cát bụi
Đôi vần thơ thẩn gởi trời trong
Thuyền neo bến cạn tìm đâu cá
Luới thả sông sâu nước rẽ dòng
Bến vắng ngư bà thương réo gọi
Rượu mồi đã sẵn bạn chờ Ông...

Tú lang thang [Dương Lam]

ÔNG CÂU
[Bài xướng]

Bến vắng xuồng câu vẫn lão ông
Lặng im cần trúc thả xuôi dòng
Nhọc nhằn bảng lảng chòm râu bạc
Khắc khổ lung linh mặt nước trong
Đắp đổi sớm chiều nhìn xót dạ
Đi về mưa nắng thấy nao lòng
Quanh năm quạnh quẽ thân còm cõi
Hạ bạc cũng rồi một kiếp không.

Cao Linh Tử
29/9/2012
duonglam 28.10.2012 20:00:41 (permalink)
0


ÔNG CÂU
[Bài xướng]


Bến vắng xuồng câu vẫn lão ông
Lặng im cần trúc thả xuôi dòng
Nhọc nhằn bảng lảng chòm râu bạc
Khắc khổ lung linh mặt nước trong
Đắp đổi sớm chiều nhìn xót dạ
Đi về mưa nắng thấy nao lòng
Quanh năm quạnh quẽ thân còm cõi
Hạ bạc cũng rồi một kiếp không.

Cao Linh Tử
29/9/2012

NGƯ ÔNG ĐỢI BẠN
[hoạ thơ Cao ling Tử]

Bên trời sắc sắc lại không không
Danh lợi mà chi để não lòng
Một cõi phiêu bồng theo cát bụi
Đôi vần thơ thẩn gởi trời trong
Thuyền neo bến cạn tìm đâu cá
Luới thả sông sâu nước rẽ dòng
Bến vắng ngư bà thương réo gọi
Rượu mồi đã sẵn bạn chờ Ông...

Tú lang thang [Dương Lam]


Hạ Nhàn

Rượu mồi đã sẵn bạn chờ Ông
Bìm bịp vừa kêu nước đứng dòng
Gác mái giải khuây ly đế lạt
Cắm sào ngơi nghỉ bến sông trong
Đàn kìm tiếng gảy vừa âm điệu
Dây bắc lời ca nhẹ cõi lòng
Cá nước chim trời đời giản dị
Thần tiên hạ giới có nên không?
Cao Linh Tử
<bài viết được chỉnh sửa lúc 28.10.2012 20:03:46 bởi duonglam >
duonglam 02.11.2012 11:13:06 (permalink)
0

THƠ VUI CUỐI TUẦN



BAO TUỔI SAO EM VẪN MƯỢT MÀ ?

Thềm trăng muốn đến hỏi Hằng nga

Bao tuổi sao em vẫn mượt mà ?

Bỡi nắng xuân vàng e ấp bạn

Hay trời thu tím vấn vương ta

Rượu say ai hát lời êm ả

Thơ họa người gieo ý thiết tha

Mai lướt phi thuyền cung quế đến

Trừơng sinh mượn thuốc dễ đâu già...

Tú lang thang
<bài viết được chỉnh sửa lúc 03.11.2012 06:27:44 bởi duonglam >
duonglam 06.11.2012 14:04:32 (permalink)
0


QUA NGỎ NHÀ EM


Trời tà bãng lãng bóng hiên tây
Em ở phương nào em có hay
Xóm nhỏ êm đềm thôn vắng lặng
Chiều thu vàng vỏ lá thu bay
Cầu tre gió thoảng hơi sương sớm
Ngỏ trúc mây giăng lạnh tối ngày
Qua ngỏ nhà em lòng rộn rã
Nỗi niềm nhung nhớ vẫn đâu đây...

Dương Lam


lá chờ rơi 09.11.2012 07:59:24 (permalink)
0

Trích đoạn: duonglam



QUA NGỎ NHÀ EM


Trời tà bãng lãng bóng hiên tây
Em ở phương nào em có hay
Xóm nhỏ êm đềm thôn vắng lặng
Chiều thu vàng vỏ lá thu bay
Cầu tre gió thoảng hơi sương sớm
Ngỏ trúc mây giăng lạnh tối ngày
Qua ngỏ nhà em lòng rộn rã
Nỗi niềm nhung nhớ vẫn đâu đây...

Dương Lam




CHẲNG RIÊNG ĐÂY

Sương chiều lơ lửng phủ non tây
Nắng tắt khi nào lại chẳng hay
Lữ khách chùn chân tìm quán trọ
Mây ngàn dẩn lối hướng chim bay
Vì ai nên nỗi ngoài sương gió
Trách bạn đành quên những tháng ngày
Đêm tối chưa vùi chôn kỷ niệm
Nỗi lòng u ẩn chẳng riêng đây.

Lá chờ rơi 09/11/2012
Nguyen Gia Linh 09.11.2012 21:15:32 (permalink)
0
Nàng thơ bao nhiêu tuổi ?


Nhìn trăng thơ mộng gởi Nàng Nga

Trong cõi hư không có mặn mà

Sớm nắng đông vàng khơi ý bạn

Chiều mưa thu tím gợi hồn ta

Rượu nồng tiếng hát nghe duyên dáng

Xướng họa lời gieo gợi thiết tha

Muốn mượn cung đàn xuyên cõi mộng

Theo về bến cũ, chẳng cần …già



Nguyễn Gia Linh
duonglam 11.11.2012 02:00:45 (permalink)
0

Thơ Đường Luật Thất Ngôn Tứ Tuyệt




QUÊ HƯƠNG VÀ TÌNH YÊU

1

Em sắp say rồi !!! Uống nữa thôi ?
Cờ chưa tan cuộc vẫn còn chơi !!!
Giang hồ gác mái bên sông vắng,
Trăng nước thuyền khua- một trận cười .


2
Tình vẫn tràn như dòng nước chảy,
Thơ còn đầy tựa áng mây trôi.
Nửa đêm thức giấc hồn ngơ ngác,
Rưọu hết tìm em - tận cuối trời…

3

Cuối trời xin hẹn gặp lại em,
Cho ấm bờ vai mắt hữu tình.
Cho thắm bờ môi ngày tái ngộ,
Cho nồng hương lữa kiếp ba sinh,


4

Duyên xưa xuân đến bao lần gặp,
Tình cũ thu đi chẳng dễ tìm .
Rượu hết bên nhau chìm lối mộng,
Hoa đào một cánh nở nguyên trinh…

5

Nguyên trinh còn lại bao xuân nữa,
Lữa lựu hè sang đỏ thắm tường.
Bạn cũ trở về say hẹn ước,
Người xưa nhớ lại lúc tha hương.

6


Hoa trôi bến chợ đời lưu lạc,
Dế gọi vườn hoang cảnh đoạn trường.
Mẹ ngóng tin con mòn mõi đợi,
Tiếng gà xao xác gáy thềm sương.

7

Thềm sương tiếng cuốc gọi bên hè,
Giọng chị hò ơ dưới luỹ tre .
Giã gạo nuôi em ngày mẹ yếu,
Bồng con đứng đợị buổi anh về .

8

Canh rau tối ngủ còn lưng bụng,
Cơm nguội khuya nằm dạ tái tê .
Những tưởng ngày xuân tràn mộng đẹp,
Nào hay mưa dột chẳng tranh che.

9

Tranh che ta đắp bằng hương lữa,
Môi giữa bờ môi giữ mặn nồng .
Chẳng có chăn bông ngày ấm lạnh ,
Không thuyền đưa đón buổi qua sông.

10


Em thơ lội bộ giờ đi học,
Mẹ yếu thâu đêm bắt muỗi mòng .
Cảnh khổ ngày xưa ngồi nhớ lại,
Qua rồi năm tháng những long đong.

11

Long đong trên bước đường lưu lạc,
Bốn hướng về đâu dặm hải trình.
Biển rộng trời cao bằng sãi cánh,
Sông dài núi thẳm gót phiêu linh.


12

Công cha nghĩa mẹ còn chưa trả,
Ơn chị tình em hẹn đáp đền.
Nắng nhuộm rừng phong. Thu đã tới,
Bên hồ từng chiếc lá lênh đênh...

13

Lênh đênh như chiếc thuyền không bến,
Dòng ngược dòng xuôi vạn nẽo đời.
Trên bến dưới thuyền người tấp nập,
Sông hồ nước chảy lục bình trôi.


14

Sáng qua Phú Quốc trời êm ả,
Chiều ghé Côn sơn núi vẽ vời.
Mây nước xa trông về cố quận,
Nỗi lòng thương nhớ biết sao vơi...


15


Sao vơi lòng biển tình sông đó,
Cuả kiếp giang hồ với nước mây.
Lên bến đò chiều thương kẻ bắc,
Qua sông nắng sớm nhớ trời tây.

16

Thơ vương khói thuốc sầu vương nhạc,
Rượu hết đàn run phím lạc dây.
Cô lái đò xưa đưa lữ khách,
Sông buồn đôi mắt thấy cay cay…

17

Cay cay đôi mắt chiều xuân đó,
Cô gái ngày xưa chẳng trở về.
Gió núi đèn khuya vàng phố thị,
Trăng rừng sương lạnh trắng sơn khê .

18


Hoa không vạn cổ mà phong nhụy
Tình chẳng trăm năm cũng vẹn thề.
Lời của trăng nguyền dù bến cạn,
Rừng xanh núi thẳm chẳng phân ly…


19

Ly hương gặp lại mùa hoa nở,
Chim én bên trời vụt cánh bay,
Nhạn lạc bầy tìm nhau biển bắc,
Anh tìm em lội khắp trời tây.

20

Sáng lên New York sương mờ lạnh,
Chiều lại Boston tuyết phủ cây...
Anh trở về vui lòng phố thị ,
Em về rượu uống trắng đêm say...


21


Say cho bỏ những ngày dong ruổi,
Cho bỏ sầu đong lắc lại đầy .
Để nhớ gừng cay thương muối mặn,
Để lòng ai vẫn nhớ thương ai.

22

Đêm về phố mộng sương giăng toã
Ngày lại mưa đông gió thả mây,
Lánh đục cho dòng đời thanh thoát,
Để lòng vơi bớt nỗi niềm tây.

23

Niềm tây mây gởi buồn theo nắng
Ta gởi tơ lòng trãi bốn phương.
Bướm gởi hồn thơ qua lối mộng ,
Cho tình trả nợ kiếp tơ vương.

24

Ngẩn ngơ trăng cũng buồn theo gió,
Thơ thẩn sầu đong giữa nắng ngàn,
Thì thôi sầu ấy ngàn đêm lẻ,
Góp lại cho tròn gởi gió sương .

25

Gió sương từ độ bước quan hà,
Mưa nắng bên trời giọt lệ sa.
Xa nước bao đêm sầu cố quốc,
Tha hương ngàn dặm nhớ quê nhà.

26

Chín chiều ruột thắt bầm gan mẹ,
Một tấc lòng son xót dạ cha .
Mong ước sao khuya trời tỏ rạng ,
Mơ ngày mai lại cảnh phồn hoa


27

Phồn hoa mơ lại ngày ta gặp,
Tôi với em đi giữa phố phường.
Má đỏ son hồng còn thắm sắc,
Hoa cài aó trắng vẫn thiên hương...


28

Ngây thơ nhắc lại ngày hoa bướm,
Thờ thẩn rồi quên buổi tựu trường.
Kỹ niệm ngày xưa tràn ngập lối,
Đêm về thao thiết nhớ muôn phương.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.11.2012 14:12:02 bởi duonglam >
duonglam 17.11.2012 06:11:48 (permalink)
0

29

Muôn phương bè bạn tình thân mến,
Của kiếp nhân gian giữa chợ đời,
Buổi loạn ly rồi bao kẻ khóc,
Ngày thanh bình lại lắm người vui.

30

Trăng về phố Hội mây giăng lối,
Thuyền ghé Hàn giang sóng vẽ vời.
Núi Ngũ hành sơn năm ngọn tõa,
Phượng hoàng xoè cánh lướt ra khơi.


Chú thích:
[1] Ngũ hành sơn ,danh lam thắng cảnh đất Quảng nam,với truyền thuyết “ngũ phụng tề phi” năm phụng đồng bay . Đó là:
Theo văn bia tiến sĩ Mậu Tuất 1898 dựng trong khuôn viên di tích Văn Thánh Huế, thì khoa thi này, ngoài Đào Nguyên Phổ đỗ đầu với danh Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân, những vị Tiến sĩ còn lại đều là Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.
1 Phạm Liệu 2Phan Quang 3 Phạm Tuấn4 Ngô Chuân 5 Dương Hiển Tiến [cả 5 vị trên đều đỗ tiến sĩ cùng khóa và cùng quê Quảng nam...
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.11.2012 06:27:44 bởi duonglam >
duonglam 19.11.2012 09:27:14 (permalink)
0

31

Ra khơi sóng tỏa muôn trùng thẳm,
Biển biếc trời xanh núi ngút ngàn.
Côn đảo mây che hè nắng đỗ,
Trường sa mưa tạnh buổi đông sang.

32

Ngựa hồ gió lạnh hí phương bắc, [1]]
Chim Việt đậu cành chọn hướng nam.
Ta  giống Rồng Tiên dòng Lạc Việt ,
Làm sao tỏ mặt với lân bang…


Chú thích:

[ 1 ]Hồ mã tê Bắc phong, Việt điểu sào Nam chi.
 Nghĩa là:
Ngựa Hồ hí gió Bắc, Chim Việt đậu cành Nam.

Chim Việt là loài chim sinh ở đất Việt, thuộc phía nam nước Tàu. Mỗi năm cứ đến đầu thu, từng đàn chim Việt bay sang phương Bắc để kiếm ăn. Vì khi thu sang, phương Bắc có nhiều chỗ có giống lúa mới vừa chín…dễ kiếm ăn.
Tuy sang phương Bắc nhưng đàn chim Việt vẫn nhớ quê hương. Muốn làm ổ, chúng chọn cành cây chĩa về phương Nam, tức là hướng quê nhà mà chúng sinh trưởng.
Chim Việt tức (Việt điểu) để chỉ chim nhớ quê hương cố quốc.

Ngựa Hồ là ngựa ở nước Hồ. Nước này ở về phương bắc nước Tàu mà ngày xưa người Tàu thường cho là nước man rợ hay cũng gọi là Phiên quốc. Ngựa Hồ cao lớn, leo núi rất giỏi, chạy rất nhanh. Người Trung Quốc thường mua về làm ngựa chiến . Nước Hồ vốn ở xứ lạnh , khi đông về, gió bấc thổi, tuyết rơi lả tả, gió lạnh tê tái.
Ngựa Hồ tuy về Trung Quốc, là nơi tương đối ấm áp nhưng vẫn nhớ đến đất Hồ , mỗi độ đông về khi có gió bấc lạnh [là gió từ phương bắc thổi đến, ngựa cất tiếng hí lên thê thảm tỏ lòng nhớ cố quốc.

"Chim Việt ngựa Hồ" trở nên thành ngữ, có nghĩa bóng là loài vật mà cũng không quên nơi quê cha đất tổ , dù ở nơi đất khách quê người.

<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.11.2012 14:18:49 bởi duonglam >
duonglam 21.11.2012 14:06:54 (permalink)
0


33

Lân bang có kẻ ưa dòm ngó,
Sự nghiệp cơ đồ của tổ tiên.
Hoa thắm trời Nam ngàn thế hệ,
Non xanh đất Việt trải ba miền.

34

Đằng Giang bẩy địch xua Nam Hán,[1]
Vạn Kiếp điều binh đuổi giặc Nguyên.[2]
Con cháu đồng lòng chung nghiệp cả,
Lo chi non nước chẳng bình yên…


Chú thích:

[1]  Trận Bạch Đằng, năm 938 [.nguồn wikipedia.]

Năm 937, thế lực họ Kiều ở châu Phong tổ chức binh biến, giết chết Dương Đình Nghệ, đưa Kiều Công Tiễn lên nắm quyền, Công Tiễn tự xưng Tiết độ sứ. Hành động này đã gặp phải sự phản ứng mạnh mẽ của các thế lực hào trưởng các địa phương, thậm chí chính nội bộ họ Kiều cũng chia rẽ trầm trọng. Ngô Quyền, với danh nghĩa là bộ tướng và con rể của vị cố Tiết độ sứ, đồng thời cũng là người  đứng liên minh Ngô - Dương, tập hợp lực lượng tiêu diệt Kiều Công Tiễn. Bị cô lập, Kiều Công Tiễn hoảng sợ, vội vã sai người sang cầu cứu nhà Nam Hán. Nam Hán Cao Tổ sai con trai là thái tử Lưu Hoằng Tháo đem hai vạn quân, dùng chiến thuyền, xâm lăng.
Năm 938, Ngô Quyền đem quân ra Đại La, giết chết Kiều Công Tiễn và nhanh chóng tổ chức kháng chiến chống quân Nam Hán ở sông Bạch Đằng. Lợi dụng chế độ thủy văn khắc nghiệt của sông Bạch Đằng, ông sai đóng cọc dưới lòng sông, đầu bịt sắt nhọn sao cho khi nước triều lên thì bãi cọc bị che lấp. Ngô Quyền dự định nhử quân Nam Hán vào khu vực này khi thủy triều lên và đợi nước triều rút xuống cho thuyền quân Nam Hán mắc cạn mới giao chiến.
Kết quả, quân Nam Hán thua chạy, thái tử Hoằng Tháo bỏ mạng cùng với quá nửa quân sĩ, nhà Nam Hán phải từ bỏ giấc mộng xâm lấn. Với mưu lược thần tình của mình, Ngô Quyền đã làm nên chiến thắng Bạch Đằng nổi tiếng năm 938, kết thúc hơn một thiên ky Bắc thuộc, mở ra thời kỳ  độc lập tự chủ cho Việt Nam….

Về trận Bạch Đằng, Ngô Thì Sĩ đánh giá :

Trận thắng trên sông Bạch Đằng là cơ sở cho việc khôi phục quốc thống. Những chiến công đời Đinh, Lê, Lý, Trần sau này còn nhờ vào uy danh lẫm liệt ấy để lại. Trận Bạch Đằng là chiến công cao cả, vang dội đến nghìn thu, chẳng phải chỉ lẫy lừng ở một thời bấy giờ mà thôi đâu…

[2] Trận Vạn Kiếp [ nguồn wikipedia.]

Từ ngày 11 tháng 2 năm 1285 đến ngày 14 tháng 2 năm 1285 tại Vạn Kiếp, 20 vạn quân Trần với hơn 1000 chiến thuyền đã chống trả quyết liệt cuộc tiến công của 30 vạn quân Nguyên do Thoát Hoan chỉ huy. Để bảo toàn lực lượng, quân Trần rút khỏi Vạn Kiếp. Tháng 5 năm 1285, quân dân nhà Trần bắt đầu phản công.
 Cuối tháng 5, sau thảm bại tại Tây Kết và Hàm Tử (Khoái Châu, Hưng Yên ngày nay), quân Nguyên tìm cách rút quân về nước. Đầu tháng 6, trên đường rút chạy qua sông Như Nguyệt bị cánh quân của Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản chặn đánh. Cánh quân của Thoát Hoan và Lý Hằng chạy theo đường Vạn Kiếp bị quân phục kích nhà Trần bố trí từ trước xông ra phản công. Quân Nguyên chết đuối rất nhiều. Lý Hằng tử trận. Thoát Hoan được một viên tì tướng "giấu trong ống đồng" chạy thoát về Trung Quốc theo hướng Lạng Sơn.
Cùng với các trận chiến khác, trận Vạn Kiếp đã góp phần quan trọng trong việc quét sạch 50 vạn quân xâm lược nhà Nguyên ra khỏi bờ cõi Đại Việt.

[Vạn Kiếp nay thuộc vùng Vạn Yên, xã Hưng Đạo, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương có đền Kiếp Bạc thờ Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn...
<bài viết được chỉnh sửa lúc 21.11.2012 14:37:28 bởi duonglam >
Thay đổi trang: << < 222324 > >> | Trang 24 của 46 trang, bài viết từ 346 đến 360 trên tổng số 676 bài trong đề mục
Chuyển nhanh đến:

Thống kê hiện tại

Hiện đang có 0 thành viên và 4 bạn đọc.
Kiểu:
2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9