(tiếp theo)
CÁC PHÁI DỊCH HỌC TỪ HÁN TỚI NAY
Vì dịch học chỉ xây dựng trên 64 quẻ do hai vạch âm, dương chồng lên nhau, đổi chỗ cho nhau ba bốn lần mà thành, cho nên nó có một sức hấp dẫn lạ lùng, ai cũng tò mò muốn biết, mà những người có óc tưởng tượng dồi dào có thể dễ dàng cho mỗi quẻ một ý nghĩa mới, giảng mỗi quẻ theo vũ trụ quan, nhân sinh quan của mình, ý nghĩa đó càng huyền bí thì lại càng có vẻ thâm thúy,; do đó mà không một danh nho nào từ đời Hán đền đời Thanh không tìm hiểu Kinh dịch, hiệu đính, chú thích và một số đã tạo cho nó một nội dung mới khác xa nội dung thời Văn Vương, Chu Công. Nó gần thành một thứ khoa học biến hóa theo thời đại.
Số sách viết về Kinh Dịch trong hơn 2.000 năm nay rất nhiều, không ai đọc hết được; nhưng tài ☲ệu chúng tôi có về các phái Dịch học thì rất ít, chỉ vài chục trang, cho nên chúng tôi chỉ có thể phác dưới đây vài nét chính về lịch sử Dịch học trong mỗi thời đại thôi.
HÁN: Ở trên tôi đã nói Tần thủy Hòang ra lệnh đốt hết các sách và triết học, văn học, sử học . . .chỉ cho giữ những sách dạy nghề, mà môn bói thời đó là một nghề được trọng, cho nên Kinh Dịch không bị hủy; một số học giả nhân cơ hội đó nghiên cứu Kinh Dịch lén gài vô các “Truyện” một số tư tưởng của Nho, Lão hoặc của chính họ để giải thích Kinh Dịch. Nhờ vậy mà qua đời Hán, Dịch học rất thịnh.
Đại khái có thể chia làm hai phái .
- Phái thứ nhất gồm: Phí Trực, Trịnh Huyền, Tuân Sảng, Tiêu Diên Thọ, theo truyền thống của Nho giáo, vẫn coi Dịch là sách bói và luân lý mà phát triển thêm.
- Phái thứ nhì chỉ có Kinh Phòng là trứ danh, lập ra môn học “Tượng số”
Phí Trực sắp đặt lại Kinh Dịch, (như cuối hcương trên tôi đã nói) giải thích Dịch theo tư tưởng của Nho gia. Ông truyền cho Mã Dung, Mã Dung lại truyền cho Trịnh Huyền.
Trịnh Huyền dùng Thi, Thư, Lễ, Nhạc để giảng Kinh Dịch, cho nên rất chú trọng về cái học huấn hổ chú giải thích tinh vi, dẫn chứng kỹ lưỡng. Ôngcòn coi mười hai hào của quẻ Càn và quẻ Khôn là 12 “thần tức 12 ngôi sao vào hàng thứ (hành tinh?) , muốn dùng Dịch để lập một thuyết về thiên văn học, nhưng sáng kiến đó không có giá trị, ít người theo.
Tuân Sảng đưa ra thuyết “Thăng, giáng” Bảo “hào 2 của quẻ Càn nên thăng lên hào 5 của quẻ Khôn v.v. . Hào dương của quẻ Càn mà thăng lên ở quẻ Không thì họi là “Vân hành” (mây bay); hào âm của Khôn gián xuống ở quẻ Càn thì gọi là “Vũ thi” (mưa rơi)
Thuyết đó hẹp hòi, cũng không ai theo.
Tiêu Diên Thọ có sáng kiến cho mỗi quẻ (trùng quái) biến thành 64 quẻ, như vậy 64 x 64 được 4.096 quẻ. Tôi không hiểu cách “biến” đó ra sao (lại lấy 64 quẻ chồng lên nhau?) Cách đó cũng không ai theo, vì số quẻ nhiều quá, làm sao đặt tên giải thích cho hết được? Ông còn lấy mỗi hào làm chủ cho một ngày: 64 quẻ có 384 hào, mà mỗi năm chỉ có 365 hay 366, còn lại non 20 hào nữa, ông dùng làm gì, cũng không biết.
Chỉ có môn học tượng số của Kinh Phòng là có ảnh hưởng đến đời sau.
Môn học đó nhằm giải thích vũ trụ bằng biểu tượng và số mục. Quan niện “Tượng” chúng tôi đã giảng trongChương trên (trang 48-49); Còn về số thì trong Hệ từ truyện, Thiên thượng, Chương 9 đã nói tới rồi” Số của Trời là một, của đất là hai, của Trời là ba, của đất là bốn, của trời lànăm, của đất là sáu, của trời là bảy, của đất là tám, của trời là chính, của đất là mười.
Như vậy những số lẻ từ một đến chín là số dương, số của trời; những số chẳn từ hai tới mười là số âm, số của đất. Số của trời có năm con: 1, 3,5,6, 9, cộng lại là 25. Số củađất cũng có năm con 2, 4, 6, 8, 10 cộng lại là 30.
Tác giả chương đó có thể sống vào đầu đời Hán, và Kinh Phòng có thể dựa vào chươngđó để lập ra môn tượngsố, đại khái chủ trương rằng:”hết thảy sự vật trongvũ trụ và hết thảy biến hóa của cácsự vật đều có thể biểu thị bằng những biểu tượng, và hết thảy sự vật trong vũ trụ đều cấuthành và bíen hóa mỗi lọai theo qui luật của một số mục .
Tôi không rõ thuyết của Kinh Phòng ra sao, nhưng người đời sau cho là lôi thôi, phiền tóai, làm mất tính cách triết học rất nhiều, và phải đợi tới đời Tống, Thiệu Khang Tiết mới phát huy môn tượng số cho có thêm màu triết học.
Từ Tam Quốc tới Ngũ Đại:
Đời Tam Quốc có Ngu Phiên nhấn mạnh về thuyết tiêu tực (tăng, giảm, thịnh, suy), Dương mà động thì tiến từ 7 lên 9, âm mà động thì lùi, từ 8 về 6; thuyết này có từ xưa, nhưng ông là người đầu tiên dùng nó để giải Kinh Dịch. Ông lấy hai quẻ Càn, Khôn là cơ bản cho Dịch học, đời sau khen ông là có công với Dịch học.
Xét chung, đời Tam Quốc, các nhà Dịch học như Lưu Biểu, Quản Lộ chú trọng đến bói, đặt ra nhiều thuật, các sách bói đời sau đem ra dùng.
Qua đời Ngụy, chúng ta mới thấy một nhà Dịch học, Vương Bật, có hùng tâm quét sáchcái học tượng số và bóitóan, chuyên nghiên cứu về nghĩa lý, mở được cho lý học đời Tống. Ông sắp đặt lại Kinh Dịch, đem Thóan tượng, Tượng truyện và Văn ngôn truyện xem vào phân kinh cho người đọc dễ thấy ý nghĩa của mỗi quẻ. Cách sắp đặt đó hiện nay còn được dùng. Ông chú giải Dịch học của Phí Trực đời Hán, viện dẫn nhiều lời của Lão tử. Ông thường tự bảo:”Được ý rôi thì quên tượng, được tượng rồi thì quên lời”, nghĩa là đọc Dịch, chỉ cần chú trọng tới ý nghĩa của quẻ mà thôi, không câu nệ vào tượng và lời.
Ảnh hưởng của ông rất lớn. Thời Nam Bắc triều, ôngđược độc tôn ở phương Nam, cũng như Trịnh Huyền được độc tôn ở phương Bắc.
Đời Đường, Phật giáo thịnh muốn lấn Nho học, ít nhà nghiên cứu Dịch học, đáng kể chỉ có Khổng Dĩnh Đạt, theo chủ trương của Vương Bật; và Lý Đỉnh Tộ, học rộng, sưu tập các sách việt về Dịch của trên 30 nhà, hiệu đính được nhiều chỗ, tìm được nhiều điều thâm thúy.
Đời Ngũ Đại và Tống sơ, một đạo sĩ tên là Trần Đòan, hiệu là Hi Di, sáng tác “dịch đồ” cho rằng bát quái gốc ở Hà Đồ (trang ở trên), đưa dịch học vào mộn nẻo mới, nẻo thuật số (tức thuật đóan số mạng). Ông đặt ra môn Bát tự Hà Lạc, chuyển can chi của ngày tháng, năm sinh thành những con số rồi chuyển số thành quẻ, để đóan vận mạng con người.
Trần Đòan cũng sáng lập ra môn Tử vi đẩu số nữa, có uy tín rất lớn trong giới thuật sĩ. Học thuếyt của ông sau truyền cho Thiệu Ung đời Tống.
Từ Tống đến Minh: Qua đời Tống, dịch học phát triển mạnh. Có hai phái chính:
- Phái Đồ Thư (Hà Đồ, Lạc Thư), tức phái Tượng số học.
- Phái lý học, chú trọng về nghĩa lý, về thiên lý, nhân đạo.
Phái Đồ Thư chịu ảnh hưởngcủa Lão học. Hai nhà nổi danh nhất, môn sinh rất đông ,uy tín rất lớn là Chu Đôn di (Chu Liêm Khê) và Thiệu Ung ( Thiệu khang Tiết).
Chu Đôn Di sáng tác Thái Cực đồ sau sửa thành Vô cực đồ và Dịch Thôngthư, nhưng Thái cực đồ thuyết chỉ là một phép luyện khí củađạo gia, ít liên can tới Kinh Dịch. Câu “Vô cực nhi thái cực” (có thể hiểu là vô cực với thái cực là một, hoặc vô cực chuyển qua thái cực) chỉ là diễn cái ý hữu sinh ư vô” (hữu từ vô mà sinh ra) của Lão tử. Còn Dịch Thông thư thì là tư tưởng trong đạo đức kinh trộn với tư tưởng trong Hệ từ truyện; Chu chủ trương vô vi, hòan tòan tĩnh thì mới biết được cái điềm (cái mầm thiện ác); như vậy là thiên về Lãi, Trang, không hợp với tư tưởng của Khổng phái “quân tử tự cường bất tức” trong quẻ Càn.
Thiệu Ưng chịu ảnh hưởng của Trần đòan, vẽ ra đồ Tiên thiên và Hậu thiên bát quái (có lẽ đây là lần đầu tiên hình Tiên thiên và Hậu thiên bát quái được in trên sách và phổ biến) có tính cách đạo thuật.
Ông phát huy thêm môn tượng số của Kinh Phòng đời Hán. Ông chia cácsố ra thể số, dụng số, biến số, hóa số, động số, thực số v.v. . .như “thể số” của thái dương là 160, của thái âm là 192, “biến số” của nhật nguyệt, tinh, thần là 17024 . . Thật bí hiểm.
Tuy nhiên, Thiệu Ưng không lấy tượng số làm cứu cánh; cứu cánh chính vẫn là đạo, là lý, căn bản của tượng số. Ông bảo:”có ý thì mới có lời, có lời thì tất có tượng, có tượng thì tất có số. Số và tượng làm cho lời và ý sáng tỏ. Tương và số ví như cái đó, cái lưới, lời và ý ví như cá, như thỏ. Được cá, được thỏ mà quên đó, quên lưới thì được, chứ bỏ đó bỏ lưới không dùng mà muốn được cả được thỏ thì chưa thấy được cá, được thỏ bao giờ”.
Vậy đạo lý là gốc, quan trọng nhất. Tượng và Số chỉ là những công cụ giúp cho ngôn ngữ để biểu thị ý tưởng được thêm rõ ràng mà dễ nắm được đạo lý.
Quan nệim của ông về tượng, có chỗ khác với Dịch, chẳng ông cho “thái như “ (cực nhu) là nướcm “Thái cương” (cực cương) là lửa; còn Dịch cho Thái Nhu là đất (Khôn), thái cương là núi (cấn).
- Trong phái Lý học, phải kể Trình Di, Trương Tái và chu Hi.
Trình Di trở lại cái họccủa Vương Bật, bỏ những cái huyền bí, tìm đạo lý torng Kinh Dịch để giữ cái học trọng nhân dức của Khổng tử. Ông chú giải Kinh dịch theo chủ trương đó, nhưng không phát huy thêm được gì.
Trương Tái có sáng kiến hơn, tìm thêm ý nghĩa mới cho các quẻ, chẳng hạn bảo: ý nghĩa của quẻ Phục là “vì thiên địa mà lập tâm”; của quẻ Đại Súc là “vì dân sinh mà lập mệnh”; của quẻ Độn là “vì thánh nhân để kế tục cái học đã mất”; của quẻ Thái là “vì vạn thế mở hội thái bình” Ông muốn đem đạo tu thân để trị quốc, bình thiên hạ vào Kinh Dịch.
Chu Hi chiết trung cả hai phái (mặc dầu thiên về lý học), sọan Chu Dịch bản nghĩa để tiếp bộ Dịch truyện (giảng về Kinh Dịch) của Trình Di, lại soạnn Dịchsố Khải Mông để phát minh áo nghĩa trong Tiên thiên bát quái đồ của Thiệu Ung. Ông chê Vương Bật là sắp đặt lại Kinh Dịch, làm cho đời sau không phân biệt đâu là Kinh, đâu là Truyện; và đã để mất hết cách thức chú giải kinh điểm của Hán Nho. Chu Hi cũng dùng Kinh Dịch để bói, có thể bảo ôngtập đại thành những tư tưởng Dịch học của đời Tống, chứ không phát minh được gì.
Bản Chu Dịch đại tòan hiện thời là bản Dịch có lời chú giải của Trình Di và Chu Hi. Nhà Mai Lĩnh, trước thế chiến xuất bản bộ Kinh Dịch do Ngô Tất Tố dịch, cũng gồm những lời chú giải của Trình, Chu.
Ngòai ra, hầu hết các danh nho đời Tống như Tư Mã Quang, Âu dương tu, Lí Cấu, Phạm Trọng Yên, Vương An Thạch, Tô Tuân, Lữ Đại phòng, Trình Hạo v.v. . .đều có nghiên cứu Kinh Dịch, đưa ra ít nhiều ý kiến riêng, như Âu Dương Tu trong tập “Dịch: Đồng Tử Vấn” mà chúng tôi đã nhắc tới torng Chương I.
Các nhà Dịch học trong hai thời Nguyên và Minh không lưu lại công trình gì đáng kể. Xét chung họ đều theo cái học đời Tống.
THANH Qua đời Thanh, dân tộc Trung Hoa cực khổ trăm chiều, mới đầu bị người Mãn ức hiếp, sau lại người Âu coi như con thịt, tha hồ cắt xém, chia xẻ, cho nên các triết gia của họ không thể tỉnh tọa suy luận về Thái cực, thái hư, tâm tính được nữa, mà bắt buộc phải nghĩ đến thực tế.
Do đó triết học đời Thanh có những biến chuyển lớn: đạo học suy tàn, Nho vẫn giữ địa vị cũ, nhưng thiên về thực dụng, khảo cứu, rồi canh tân cho hợp thời.
Dịch học cũngtheo trào lưu tư tưởng mới, lần lần quét sạch những thuyết huyền bí khó tin.
Hồi đầu đời Thanh, Hòang Tôn Hi viết cuốn Dịch học tượngsố luận rất có giá trị, Hòang(có sáchchép là Hồ) Tôn Viêm viết cuốn Dịch Đồ thư biện oặc, rồi Mao Kỳ Linh viết cuốn Hà Đồ Lạc thư nguyên suyễn, không còn tin Hà Đồ với dịch có quan hệ gì với nhau nữa. tới khi Hồ Vị cho ra cuốn Dịch đồ minhbiện, đem lai lịch của Hà Đồ và Dịch làp hân tích minh bạch, bảo đồ làđồ, dịch là dịch, không liên can gì với nhau, mà quét bỏ được những giải thích lầm lẫn của Tống Nho.
Giữa đời thanh, Huệ Đồng và Trương Huệ Ngôn chuyên nghiên cứu Dịch học đời Hán, dùng phương pháp qui nạp, hơi có tính cách khoa học.
Nhưng người nghiên cứu Chu Dịch một cách thâm thúy, phát minh được ít nhiều là Tiêu Tuần. Ông căn cứ vào quái, hào, giải thích từng chữ để làm sáng tỏ phép hào biến, nói được những điều chưa ai nói.
Nên kể thêm Lý Quang Địa đời Khang dùng tóan học phương Tây để giải thích Dịch, dùng Lý Hóa để tính phương vị của Quái, Hào.
Theo Tào Thăng, đó là một phát minh lớn.
***
(còn tiếp)