Chính, Trung lại gồm trong chữ Thời.
Dịch là biến dịch, có biến hóa mới thích hợp (duy biến sở thích – Hệ từ hạ, Ch.8), cho nên trọng cái thời. vì biến đến cực thì trở lại, cho nên trọng đức trung. Trung với thời, do đó mà liên quan mật thiết với nhau.
Thời gồm trung, vì phải hợp thời mới gọi là trung. Ở cảnh giàu sang mà sống bủn xỉn, ở cảnh nghèo hèn mà sống xa hoa, thì không hợp thời, không phải là trung .
Thời gồm chính nữa vì chính mà không hợp thời thì cũng xấu. Cương cường là đạo người quân tử mà ở cuối quẻ Càn, không hợp thời, cho nên có hối hận.
Vậy Dịch là chính trung, mà thực ra chỉ là hợp thời. “Cái nghĩa tùy thời lớn thật” (Tùy thời chi nghĩa đại hĩ tai! – Quẻ Tùy).
Thóan Truyện:
- Quẻ Đại hữu bảo:
“Ứng với trời và làm theo thời, nhờ vậy mà được tốt hơn cả” (Ứng hồ thiên nhi thời hành, thị dĩ nguyên hanh).
- Quẻ Tốn:
“Bớt, thêm, đầy, rỗng, cùng với mà lưu hành”, (Tốn, ích, doanh, hư, dữ thời giai hành).
- Quẻ Cấn:
“Lúc đáng ngừng thì ngừng, lúc đáng đi thì đi. Động tĩnh không thất thời, đạo đó sáng sủa” (Thời chỉ tắc chỉ, thời hành tắc hành. Động tĩnh bất thất kì thời, kì đạo quang minh).
Văn ngôn truyện cùng một chủ trương đó:
“Bậc quân tử tiến đức tu nghiệp là muốn cho kịp thời” (Quân tử tiến đức tu nghiệp, dục cập thời dã).
Muốn kịp thời thì phải biến cách, phải thay đổi. Thóan Truyện quẻ Cách bảo:
“Thay đổi mà được lòng người tin . . thì rất tốt và chính đáng. Thay đổi mà đáng thì ăn năn phải mất. Trời đất thay đổi mà có bốn mùa: Vua Thang, vua Vũ đổi mạng (diệt Kiệt, Trụ mà lên làm vua) – thuận với trời mà ứng với người. Cái thời của quẻ Cách lớn thay” (Cách nhi tín chi . . . đại hanh dĩ chính. Cách nhi đáng, kì hối nãi vong. Thiên địa cách nhi tử thời hành; thang, Vũ cách mệnh, thuận hồ thiên nhi ứng hồ nhân. Cách chi thời đại hĩ tai!)
*
Mỗi quẻ là một thời
Cũng theo Huệ Đống, trong Thóan Truyện ó 24 quẻ , trong Tượng Truyện có 6 quẻ nói tới chữ Thời.
Phan Bội Châu bảo trong Thóan Truyện có 11 quẻ đề cao chữ thời: quẻ Di, quẻ đại Quá, quẻ Giải, quẻ Cách chí nói tới Thời thôi; quẻ Dự, quẻ Độn, quẻ Cấn, quẻ Lữ nói tới Thời mà kiêm với Nghĩa; quẻ Khảm, quẻ Khuê, quẻ Kiển nói tới Thời mà kiêm với Dụng (Chu Dịch – trang 354)
Hai nhà đó chỉ kể những quẻ mà lời Thóan Truyện và Tượng Truyện khuyên đạo tùy thời; chứ theo Dịch học phái thì 64 quẻ , quẻ nào cũng nói đến thời vì mỗi quẻ là một thời. Chữ thời này có nghĩa rộng.
Thái, Bĩ, Kí Tế (đã xong rồi), Vị Tế (chưa xong), Khốn, Dự (vui vẽ), Nhu (đợi chờ) v.v. . đều là thời cả; mà ngay đến Càn, Khôn, Khảm, Cấn . . cũng là thời nữa : Càn là thời của một đại nhân, có tài đức, thời hành động; khôn là thời của người dưới, thời nhu thuận, thời văn minh; Khảm là thời gian nguy; Cấn là thời nên tĩnh, nên thận trọng, đề phòng . . .
*
Hệ từ hạ, Chương VII, mở đầu bằng một lời cảm thán: “Đạo Dịch hưng thịnh lên ở thời Trung cổ chăng? (Trung cổ so với thời tác giả Hệ từ, tức thời Văn Vương. Người làm Dịch (tức Văn Vương) có điều ưu tư, lo lắng đấy chăng ? (Dịch chi hưng dã, kì ư trung cổ hồ? Tác giả Dịch, kì hữu ư họan hồ?)
Đọan đó ám chỉ việc Văn Vương bị Trụ giam ở ngục Dữu Lí mà đặt raThóan Từ cho mỗi quẻ.
Đọc 64 quẻ , chúng ta cảm thấy buồn rầu, ưu tư thật. Xã hội Trung Hoa trong Dịch sao mà đen tối! cảnh nghịch nhiều hơn cảnh thuận, cảnh suy nhiều hơn cảnh thịnh.
Cảnh vui, thịnh, tôi chỉ thấy có bảy quẻ:
- Dự (vui)
- Thái (thông thuận, trái với bĩ)
- Đại tráng (thời cường thịnh)
- Phong (thời thịnh lớn)
- Đại hữu (thời giàu có)
- Thăng (thời đương lên)
- Tấn (thời nên tiến)
Trong 7 quẻ đó, không có quẻ nào thật tốt, không cảnh nào tác gia Kinh Dịch không tô lên một vệt xám, không nhắc nhở ta: Coi chừng đấy, trong phúc nấp họa đấy ( quẻ Dự, quẻ đại Tráng) phải đề phòng trước đi ( quẻ Đại Tráng). Thái cực thì bĩ theo sau đấy (Thái); trong cảnh giàu có (đại hữu) mà Dịch lại khuyên ta nên sống gian nan, đừng khoe của; đương lúc vận lên (thăng), nên tiến (tấn), Dịch cảnh cáo ta: tham lam thì chết đấy, tiến vừa vừa thôi, còn trong quẻ Phong là thời thịnh lớn, rất tốt mà không có một hào nào thật tốt, hào nào cũng có lời răn đe: phải cẩn thận, phải thế này thế nọ thì mới tốt.
Và khi công việc vừa mới xong cũng như vừa mới qua sông (Kí Tế) thì đã tiếp ngay một quẻ bảo rằng việc chưa xong đâu (Vị Tế) đừng mong gì được nghỉ ngơi. Thế thì có chán không chứ! Còn cảnh lo buồn, cảnh nghịch, cảnh suy thì sao mà nhiều thế. Bên kia chỉ có một quẻ Thái, thì bên đây có quẻ: - Bĩ.
Rồi còn tiếp thêm một chuỗi nữa:
- Khảm (nguy)
- Truân (Gian truân)
- Kiền (Gian nan, hiểm trở)
- Rồi tới Khốn (Khốn đốn)
- Đối với Dư (vui vẻ) thì có.
- Chấn (lo sợ)
- Minh Di (giấu tài đức đi, nép đi, không cho ai biết mình)
- Tiểu súc (bị bọn tiểu nhân ngăn cản).
- Bác (phải chống đối với bọn tiểu nhân đương tiến)
Lại còn những cảnh:
- Bị chia lìa : khuê
- Phải trốn tránh: Độn.
- Sau cùng la phải lưu lạc quê người : Lữ.
Xã hội hắc ám đó là xã hội thời Văn Vương (tác giả phần Kinh) thời Trụ, thời suy của nhà Ân, mà cũng là xã hội thời Xuân Thu và Chiến Quốc, thời suy của nhà Chu, thời của các tác giả phần Truyện.
Vì chính các tác giả này trong khi giải thích phần kinh đã gởi vào đó tâm sự của mình, nhân sinh quan của mình.
Ví dụ quẻ Bĩ, thóan Từ của Văn Vương chỉ nói: “Bĩ không phải là đạo người , vì nó không lợi với đạo chính của quân tử “ : chính Đại Tượng Truyện mới khuyên: bĩ là bế tắc tới cùng cực rồi, hành động chỉ vô ích, nên ở ẩn, cốt giữ cái đức và cái thân mình thôi.
Quẻ Đại Hữu, Thóan từ khen là rất hanh thông, mà Đại Tượng Truyện thì căn dặn: “người quân tử trong quẻ này phải ngăn đón ngay điều dữ khi nó chưa phát hiện, và biểu dương điều tốt khi nó còn mập mờ để thuận mệnh tốt của trời”
Những lời giảng thêm của người sau đó hầu hết bi quan hơn lời trong kinh, vì thời Xuân thu, Chiến quốc của họ lọan hơn thời cuối Ân.
Mỗi hào là một thời trong quẻ
Mỗi quẻ là một thời, mà mỗi hào trong quẻ lại là một thời nhỏ trong cái thời chung của qủe . Để khỏi lẫn lộn , tôi gọi mỗi thời nhỏ của hào là một giai đọan một hòan cảnh trong thời của quẻ .
Như quẻ Càn, hào 1 là giai đọan ở ẩn (tiềm long) trong thời Càn; hào 2 là giai đọan bắt đầu xuất hiện (hiện long); hào 3 là giai đọan thận trọng chờ thời; hào 4 là giai đọan có thể bay nhảy được; hào 5 là giai đọan thành công, lên tới tột bực, hào 5 là giai đọan rút lui.
Sáu giai đọan trong quẻ Tiệm cũng rất rõ ràng: con chim hồng từ mặt nước mà lên tới bờ, tới phiến đá, tới đất bằng, tới cành cây, tới gò cao, rồi sau cùng lên tới mây, 6 hào là 6 giai đọan trong thời Tiệm tiến.
Có thể kể thêm quẻ Nhu (tiến từ xa chỗ hiểm tới gần chỗ hiểm), quẻ Bác (tiêu mòn lần lần từ chân giường lên tới then giường, mặt giường), nhưng trước sau chỉ có độ mươi quẻ như vậy; còn các quẻ kia thì các giai đọan không theo một thứ tự nào cả như quẻ Lữ, mỗi hào là một hòan cảnh áp dụng cho một hạng người tư cách, tính tình khác nhau, không có ý nghĩa trứơc sau về thời gian.
Mỗi hào tuy có một ý nghĩa riêng Nhưng ý nghĩa đó luôn luôn tùy ý nghĩa của quẻ , tức tùy cái thời chung của sáu hào , có vậy mới nhất trí, thành một quẻ được.
- Cùng là thể dương ở vị dương, ngôi chí tôn, mà hào 5 quẻ Càn rất tốt, lập sự nghiệp lớn, còn hào 5 quẻ Truân chỉ hơi tốt thôi, chỉnh đốn việc nhỏ thì được, việc lớn thì xấu, vì hai hào đó ở thời khác nhau, một ở thời Càn, thời của bậc đại nhân, một ở thời Truân, thời gian nan, khó khăn, cho nên tài như nhau mà sự nghiệp khác nhau xa.
- Hào 2 và hào 5 quẻ Càn đều là dương cương cả lại tương ứng, Hào từ khuyên nên tìm nhau mà làm việc; còn hào 2 và hào 5 quẻ Lí, cũng đều là dương và tương ứng mà Hào từ không khuyên như vậy, bảo 2 nên cô độc giữ vững đường chính, chỉ vì quẻ Càn là thời của một đại nhân (hào 5), có chí lớn giúp đời, mà muốn giúp đời thì cần có người đồng đức, đồng chí (hào 2), còn quẻ Lí nói về cách cư xử trong đời của một người thường như chúng ta thì có đại nhân nào kiếm mình (hào 2) mà mình cũng kiếm đại nhân để làm gì, cứ lo giữ vững đường chính là hợp nhất.
- So sánh hào 1 quẻ Kí Tế và hào 1 quẻ Vị Tế ta càng thấy rõ hơn nữa. Cả hai đều có ba chữ “nhu kì vĩ”: (con chồn qua sông để ướt cái đuôi; vậy mà trong quẻ Kí Tế thì cho là vô cứu), không có lỗi, còn trong quẻ Vị Tế thì cho là “lận”, đáng ân hận; vì thời của hai quẻ khác nhau; thời Kí Tế là thời đã qua sông rồi, đã xong việc, thời Vị Tế là thời chưa qua sông, chưa xong việc.
- Hào 4 quẻ Tùy là dương mà ở vị âm, như thế là bất chính , đáng lẽ xấu, nhưng ở thời Tùy (theo) thì làm nên sự nghiệp (gặp ông vua biết dùng tài của mình), và nếu cứ giữ lòng chí thành, sáng suốt, theo đạo lý, thì không có lỗi.
- Quẻ Khốn, hào 2 và hào 5 đều là dương, đắc trung, đáng lẽ tốt mà lại xấu, chỉ vì ở thời khốn đốn.
- Xin độc giả so sánh thêm cặp 1- 4 quẻ Phong với cặp 2-5 quẻ Tụng. Ở quẻ Phong, 1 và 4 ứng nhau, đều dương cương cả (đồng đức) họp thành một cặp bạn tốt. Ở quẻ Tụng, 2 và 5 cũng ứng nhau, cũng đều là dương cả, lại thêm đều đắc trung, đáng lẽ cũng thành một cặp bạn rất tương đắc, Nhưng Hào từ lại bảo 2 muốn kiện 5, và khuyên nên bỏ ý đó đi, sẽ như trứng hcọi với đá thôi. Vì phong là thời thịnh, hanh thông; còn Tụng là thời kiện tụng, 2 và 5 không phải là đồng đức mà là ngang ngạnh như nhau; phải coi là đối địch nhau.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.04.2006 13:57:20 bởi Huyền Băng >