Kinh dịch - Nguyễn Hiến Lê
Thay đổi trang: << < 456 > >> | Trang 6 của 12 trang, bài viết từ 76 đến 90 trên tổng số 175 bài trong đề mục
Huyền Băng 27.10.2005 03:25:29 (permalink)
3.
六 三: 勿 用 取 女 見 金 夫 .
不 有 躬, 无 攸 利.

Lục tam: Vật dụng thủ nữ kiến kim phu.
Bất hữu cung, vô du lợi.

Dịch : hào 3, âm: đừng dùng hạng con gái thấy ai có vàng bạc là (theo ngay) không biết thân mình nữa; chẳng có lợi gì cả.

Giảng: Hào 3 là âm nhu (ở trong quẻ Mông, là hôn ám) bất trung, bất chính, cho nên ví với người con gái không có nết, bất trinh, ham của. Mà hạng tiểu nhân thấy lợi quên nghĩa cũng vậy (âm còn có nghĩa là tiểu nhân). Phan Bội Châu cho hào này xấu nhất; hạng người nói trong hào không đáng dùng, không đáng giáo hóa nữa.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 28.10.2005 15:49:53 bởi Trương Củng >
Attached Image(s)
#76
    Huyền Băng 27.10.2005 03:29:11 (permalink)
    4.
    六 四 : 困, 蒙, 吝 .
    Lục tứ : Khốn, mông, lận.

    Dịch: Hào 4, âm: Bị khốn trong vòng hôn ám, hối tiếc.

    Giảng: Quẻ Mông chỉ có hào 2 và 6 là dương cương, có thể cởi mở sự hôn ám được, còn hào 4 kia đều là âm hết. Hào 4 này cũng hôn ám như hào 3, nhưng còn tệ hơn hào 3 vì ở xa hào 2 dương (hào 3 còn được ở gần hào 2 dương ), mà chung quanh đều là âm hết (hào 3 và hào 5), như bị nhốt trong vòng hôn ám, tất bị khốn sẽ phải hối tiếc, xấu hổ.

    Tiểu tượng truyện giảng: nó phải hối tiếc, xấu hổ vì chỉ một mình nó trong số bốn hào âm là ở xa các hào “thực” tức các hào dương. Hào dương là nét liền, không khuyết ở giữa, nên gọi là “thực” (đặc, đầy) hào âm là vạch đứt, khuyết ở giữa nên gọi là “hư” ; “thực” tượng trưng người có lương tâm “hư” tượng người không có lương tâm.
    <bài viết được chỉnh sửa lúc 28.10.2005 15:02:21 bởi Trương Củng >
    Attached Image(s)
    #77
      Huyền Băng 27.10.2005 03:33:08 (permalink)
      5.
      六 五: 童 蒙 吉 .
      Lục ngũ: Đồng mông cát.

      Dịch: Hào 5, âm: Bé con, chưa biết gì (nhưng dễ dạy), tốt.

      Giảng: hào 5 này là hào âm tốt nhất như chúng tôi đã nói khi giảng Thóan từ của Văn Vương, vì nó có đức nhu (âm) trung (ở giữa ngọai quái), lại ứng với hào 2 cương ở dưới, có thể ví nó với đứa trẻ dễ dạy, biết nghe lời thầy (hào 2).

      Phan Bội Châu coi hào này như ông vua (vì ở ngôi cao quí nhất trong quẻ) biết tín nhiệm hiền thần (hào 2).
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 25.04.2006 10:07:33 bởi Huyền Băng >
      Attached Image(s)
      #78
        Huyền Băng 27.10.2005 03:35:23 (permalink)
        6.
        上 九: 擊 蒙 不 利 為 寇 , 利 禦 寇.
        Thượng cửu: Kích mông bất lợi vi khấu, lợi ngự khấu.

        Dịch : Hào trên cùng, dương : phép trừ cái ngu tối mà nghiêm khắc quá thì kẻ mình dạy dỗ sẽ phẫn uất, có thể thành giặc, như vậy không có lợi, ngăn ngừa giặc ở ngoài (tức những vật dục quyến rũ kẻ đó) thì có lợi.

        Giảng: Hào này ở trên cùng quẻ Mông, có nghĩa sự ngu tối tới cùng cực; nó là dương, ở trên cùng, mà bất trung, cho nên tuy có tài mở mang sự ngu tối nhưng quá nghiêm khắc, làm cho kẻ ngu tối phẫn uất, phản kháng, bất tuân giáo hóa, có thể thành giặc, có hại (chữ “khấu có cả hai nghĩa: giặc, có hại), nên tìm cách ngăn ngừa những vật dục quyến rũ nó thì hơn; mà “cả thầy lần trò đều thuận đạo lý (thượng hạ thuận dã, Tiểu tượng truyện).

        Quẻ này nói về cách giáo hóa, cần nghiêm (hào 1) nhưng không nên nghiêm khắc quá mà nên ngăn ngừa lỗi của trẻ (hào 6).
        <bài viết được chỉnh sửa lúc 28.10.2005 15:10:46 bởi Trương Củng >
        Attached Image(s)
        #79
          Huyền Băng 28.10.2005 03:32:19 (permalink)
          QUẺ THỦY THIÊN NHU

          Trên là Khảm (nước), dưới là Càn (trời)


          Quẻ trên là Mông, nhỏ thơ; nhỏ thơ thì cần được nuôi bằng thức ăn, cho nên quẻ này là Nhu. Chữ Nhu này [ 需 ] là chữ nhu trong “nhu yếu phẩm”, những thứ cần thiết, tức thức ăn. Tự quái truyện giảng như vậy.

          Nhưng Thoán Từ thì lại giải thích khác: Nhu đây còn có nghĩa nữa là chờ đợi, và theo cái tượng của quẻ thì phải hiểu là chờ đợi.

          *

          Thoán từ
          需: 有 孚, 光 亨, 貞, 吉 . 利 涉 大 川 .
          Nhu: Hữu phu, quang hanh, trinh, cát. Lợi thiệp đại xuyên.

          Dịch: Chờ đợi: có lòng thành thực tin tưởng, sáng sủa, hanh thông, giữ vững điều chính thì tốt. “Dù gặp việc hiểm như qua sông cũng sẽ thành công.

          Giảng: Nội quái là Càn, cương kiện, muốn tiến lên nhưng gặp ngoại quái là Khảm (hiểm) chặn ở trên, nên phải chờ đợi.

          Hào làm chủ trong quẻ này là hào 5 dương, ở vị chí tôn (ở quẻ này nên hiểu là ngôi của trời – theo Thoán truyện) mà lại trung, chính; cho nên có cái tượng thành thực, tin tưởng, sáng sủa, hanh thông; miễn là chịu chờ đợi thì việc hiểm gì cũng vượt được mà thành công.

          Đại tượng truyện giải thích cũng đại khái như vậy: dưới là Càn, trời, trên là Khảm, mây (Khảm còn có nghĩa là mây); có cái tượng mây đã bao kín bầu trời, thế nào cũng mưa; cứ “ăn uống yến lạc” (ẩm thực yến lạc) yên vui di dưỡng thể xác và tâm chí mà đợi lúc mưa đổ.
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 28.10.2005 15:19:20 bởi Trương Củng >
          Attached Image(s)
          #80
            Huyền Băng 28.10.2005 03:35:31 (permalink)
            Hào từ:
            1.
            初 九: 需 于 郊, 利 用 恆 , 无 咎 .
            Sơ cửu: Nhu vu giao, lợi dụng hằng, vô cữu.

            Dịch: Hào 1 là dương, cương kiện, sáng suốt mà ở xa ngoại quái là Khảm, tức xa nước, xa chỗ hiểm (cũng như còn ở ngòai thành, không gần sông nước), đừng nóng nảy xông vào chỗ hiểm nạn, cứ chịu chờ đợi thì không có lỗi. Chu Công khuyên như vậy vì hào dương này không đắc trung mà có ý muốn tiến.
            <bài viết được chỉnh sửa lúc 28.10.2005 15:46:00 bởi Trương Củng >
            Attached Image(s)
            #81
              Huyền Băng 28.10.2005 03:40:47 (permalink)
              2.
              九 二: 需 于 沙 , 小 有 言 , 終 吉 .
              Cửu nhị: Nhu vu sa, tiểu hữu ngôn, chung cát.

              Dịch: Hào 2, dương: Đợi ở bãi cát, tuy có khẩu thiệt một chút, nhưng sau sẽ tốt.

              Giảng: Hào này đã gần quẻ Khảm hơn, ví như đã tới bãi cát ở gần sông, chưa tới nỗi sụp hiểm; mà hào lại đắc trung, cho nên tuy là dương cương mà biết khôn khéo, ung dung, không nóng nảy như hào 1, cho nên dù có điều tiếng nho nhỏ, rốt cuộc cũng vẫn tốt.
              <bài viết được chỉnh sửa lúc 28.10.2005 15:46:37 bởi Trương Củng >
              Attached Image(s)
              #82
                Huyền Băng 28.10.2005 03:43:01 (permalink)
                3.
                九 三 : 需 于 泥 . 致 寇 至.
                Cửu tam: Nhu vu nê, trí khấu chí.

                Dịch: Hào 3, dương : đợi ở chỗ bùn lầy, như tự mình vời giặc đến.

                Giảng: Hào này đã ở sát quẻ Khảm, tuy chưa sụp xuống nước, nhưng đã ở chỗ bùn lầy rồi; thể của nó là dương cương, vị của nó cũng là dương, mà lại không đắc trung, có cái “tượng rất táo bạo nóng nảy, làm càn, tức như tự nó vời giặc đến, tự gây tai họa cho nó. Nếu nó biết kính cẩn, thận trọng thì chưa đến nỗi nào, vì tai họa vẫn còn ở ngoài (ở ngoại quái) (theo tiểu tượng truyện).
                <bài viết được chỉnh sửa lúc 28.10.2005 15:27:36 bởi Trương Củng >
                Attached Image(s)
                #83
                  Huyền Băng 28.10.2005 03:45:15 (permalink)
                  4.
                  六 四 : 需 于 血, 出 自 穴 .

                  Lục tứ: Nhu vu huyết, xuất tự huyệt.

                  Dịch: Hào 4, âm: như đã chờ đợi ở chỗ lưu huyết mà rồi ra khỏi được.

                  Giảng: hào này đã bắt đầu vào quẻ Khảm, tức chỗ hiểm (như vào chỗ giết hại), nhưng nhờ nó là âm, nhu thuận lại đắc chính (ở vị âm) , nên tránh được họa.
                  <bài viết được chỉnh sửa lúc 28.10.2005 15:30:00 bởi Trương Củng >
                  Attached Image(s)
                  #84
                    Huyền Băng 28.10.2005 03:48:53 (permalink)
                    5.
                    九 五 : 需 于 酒 食, 貞 吉 .
                    Cửu ngũ: Nhu vu tửu thực, trinh cát.

                    Dịch: Hào 5, dương: Chờ đợi ở chỗ ăn uống no say (chỗ yên vui), bền giữ đức trung chính thì tốt.

                    Giảng: Hào 5, địa vị tôn quí, mà là dương cương trung chính, cho nên tốt, nhưng muốn hạnh phúc được bền thì phải giữ đức trung chính.

                    6.
                    上 六:. 入 于 穴 , 有 不 速 之 客 三 人 來 , 敬 之 , 終 吉 .

                    Thượng lục: Nhập vu huyệt, hữu bất tốc chi khách tam nhân lai, kính chi, chung cát.

                    Dịch: Hào trên cùng, âm: Vào chỗ cực hiểm rồi, nhưng có ba người khách thủng thẳng tới, biết kính trọng họ thì sau đựơc tốt lành.

                    Giảng: Hào này ở trên cùng ngọai quái là Khảm, cho nên bảo là chỗ cực hiểm. Nó có hào 3 ở dưới ứng với nó, hào 3 là dương , kéo theo cả hào 1 và 2 cũng là dương, cho nên nói là có 3 người khách sẽ tới; họ không tới ngay được vì họ ở xa hào 6, cho nên nói là họ thủng thẳng sẽ tới.

                    Hào 6 âm, có đức Khiêm, nhu thuận, biết trong và nghe theo ba vị khách đó, cho nên cuối cùng sẽ được họ cứu ra khỏi chỗ hiểm mà được tốt lành.

                    Tiểu tượng truyện: bàn thêm: Tuy hào 6 không xứng vị (bất đáng vị), nhưng không đến nỗi thất bại lớn.

                    Chu Hi hiểu chữ “vị” đó , là ngôi chẵn (âm vị) ; hào âm ở âm vị, là “đáng” chứ sao lại “bất đáng”, cho nên ông bảo là :”chưa hiểu rõ” (vị tường).

                    Phan Bội Châu hiểu chữ “vị” là ngôi cao hay thấp; hào 6 ở trên cùng, tức là ngôi cao nhất, mà là âm nhu, bất tài, cho nên bảo “bất đáng” là phải .

                    +


                    Quẻ này chỉ cho ta cách xử thế khi chờ đợi, tùy họa ở gần hay ở xa, cốt nhất là đừng nóng nảy, mà phải giữ trung chính. Chúng ta để ý: hào 5 ở giữa quẻ Khảm, tức giữa cơn nguy hiểm mà Chu Công vẫn cho là tốt chỉ vì hào đó cương mà trung chính, nghĩa là cương một cách vừa phải, sáng suốt, chính đáng.
                    <bài viết được chỉnh sửa lúc 28.10.2005 15:40:43 bởi Trương Củng >
                    Attached Image(s)
                    #85
                      Huyền Băng 28.10.2005 22:36:52 (permalink)
                      6. QUẺ THIÊN THỦY TỤNG


                      Trên là Càn (trời), dưới là Khảm (nước) ngược hẳn với quẻ 5.
                      Tự quái truyện đã cho Nhu là ăn uống, cho nên giảng rằng vì (vấn đề) ăn uống mà người ta sinh ra tranh nhau, rồi kiện nhau, cho nên sau quẻ Nhu là quẻ Tụng (có nghĩa là kiện cáo)

                      Thoán từ:
                      訟 . 有 孚 , 窒, 惕 . 中 吉 . 終 凶 . 利 見 大 人 . 不 利 涉 大 川.
                      Tụng: Hữu phu, trất, dịch. Trung cát, chung hung
                      Lợi kiến đại nhân, bất lợi thiệp đại xuyên.

                      Dịch: Kiện cáo vì mình tin thực mà bị oan ức (trất), sinh ra lo sợ (dịch). Nếu giỡ đạo trung (biện bạch được rồi thì thôi) thì tốt lành,nếu kiện cho đến cùng thì xấu. Tìm được bậc đại nhân (công minh) mà nghe theo thì chỉ có lợi, nếu không thì như lội qua sông lớn (nguy), không có lợi.

                      Giảng: Theo tượng quẻ này có thể giảng: người trên ( quẻ Càn) là dương cương, áp chế người dưới,mà người dưới ( quẻ Khảm) thì âm hiểm, tất sinh ra kiện cáo, hoặc cho cả trùng quái chỉ là một người, trong lòng thì nham hiểm (nội quái là Khảm), mà ngoài thì cương cường (ngoại quái là Càn), tất sinh sự gây ra kiện cáo.

                      Thoán từ của Chu Công không hiểu hai cách đó mà cho quẻ này là trường hợp một người có lòng tin thực (hữu phu) mà bị oan ức, vu hãm, không có người xét rõ cho, cho nên lo sợ, phải đi kiện. Nếu người đó giữ đạo trung như hào 2 (đắc trung), nghĩa là minh oan được rồi thì thôi, thì sẽ tốt, nếu cứ đeo đuổi cho tới cùng, quyết thắng, không chịu thôi, thì sẽ xấu.

                      Quẻ khuyên người đó nên đi tìm bậc đại nhân công minh (tức hào 5 - ứng với hào 2, vừa trung ,chính, vừa ở ngôi cao), mà nghe lời người đó thì có lợi; nếu không thì là tự mình tìm sự nguy hại, như lội qua sông lớn.

                      Đại tượng truyện đưa ra một cách giảng khác nữa: Càn (trời) có xu hướng đi lên; Khảm (nước) có xu hướng chảy xuống thấp, như vậy là trái ngược nhau, cũng như hai nơi bất đồng đạo, tranh nhau mà sinh ra kiện cáo. Và Đại tượng truyện khuyên người quân tử làm việc gì cũng nên cẩn thận từ lúc đầu để tránh kiện cáo.

                      Hào từ:
                      1.
                      初 六: 不 永 所 事 , 小 有 言 , 終 吉 .
                      Sơ lục: Bất vinh sở sự, tiểu hữu ngôn, chung cát.

                      Dịch: Hào 1 âm: đừng kéo dài (vụ kiện) làm gì, tuy bị trách một chút, nhưng sau được tốt.

                      Giảng: Hào 1, âm nhu ở dưới, được hào 4 cương kiện ở trên ứng viện, tức là có chỗ dựa; nhưng đừng nên ỷ thế sinh sự kéo dài vụ kiện; có bị trách một chút thì cũng thôi, kết quả được biện minh, thế là tốt.
                      <bài viết được chỉnh sửa lúc 29.04.2006 13:25:46 bởi Huyền Băng >
                      Attached Image(s)
                      #86
                        Huyền Băng 29.10.2005 16:40:34 (permalink)
                        2.
                        九 二: 不 克 訟 , 歸 而 逋. 其 邑 人 三 百 戶, 无 眚 .
                        Cửu nhị: Bất khắc tụng, qui nhi bô.
                        Kì ấp nhân tam bách hộ, vô sảnh.

                        Dịch: Hào 2, dương : không nên kiện, lui về mà tránh đi, ấp mình chỉ có ba trăm nóc nhà thôi (ý nói địa vị mình thấp, thế mình nhỏ), như vậy thì không bị họa.

                        Giảng: Trong phần I, chương IV, chúng tôi đã nói: các hào ứng với nhau (1 với 4, 2 với 5, 3 với 6) phải một dương một âm thì mới có “tình” với nhau, mới đứng vào một phe, viện trợ nhau, tức trường hợp hào 1 và hào 4 quẻ này; nếu cả hai cùng là dương hay là âm thì tuy ứng nhau đấy, nhưng có thể kị nhau, cũng như hào 2 và hào 5 quẻ này. Hai hào này đều là dương cả, cho nên coi là địch nhau, đứng vào hai phe ở trong quẻ tụng (kiện cáo).

                        Hào 2 ở dưới, trung chứ không chính, ở giữa nội quái là Khảm (hiểm) lại bị hai hào âm 1 và 3 vậy, nên thế yếu, muốn kiện hào 5 (vì 2 có tính dương cương) nhưng thế không địch nổi, vì 5 trung , chính lại ở ngôi cao. Dưới kiện trên khác gì trứng chọi đá, không nên, thà rút lui về, tránh đi còn hơn, như vậy không bị tội lỗi.

                        Tiểu tượng truyện còn dặn thêm: nếu dưới mà kiện trên, tai họa tới là tự mình vơ lấy đấy: hoạn chí xuyết (cũng đọc là chuyết, là đoát) dã:

                        Phan Bội Châu giảng hào này, dẫn việc Nguyễn Hoàng muốn kình với Trịnh Kiểm (sự thực Trịnh Kiểm muốn hại Nguyễn Hoàng, Nguyễn Hoàng sợ), cho người hỏi ý kiến Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Bỉnh Khiêm đáp: “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân”, có ý khuyên nên trốn tránh vào Nam cho thoát nạn; đó là ý nghĩa ba chữ “qui nhi bô” trong hào này.
                        <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.10.2005 06:08:09 bởi Trương Củng >
                        Attached Image(s)
                        #87
                          Huyền Băng 29.10.2005 16:44:25 (permalink)
                          3.
                          六 三 : 食 舊 德, 貞 厲, 終 吉 . 或 從 王 事 , 无 成 .
                          Lục tam: Thực cựu đức, trinh lệ,
                          Chung cát; hoặc tòng vương sự, vô thành.

                          Dịch: Hào 3 âm, Cứ (yên ổn) hưởng cái đức (ân trạch) cũ của mình (Chu Hi hiểu là giữ cái nếp cũ), ăn ở cho chính đáng mà thường để lòng lo sợ thì kết quả sẽ tốt; nếu phải đi theo làm với người trên (chữ vương ở đây trở người trên, không nhất định là vua), thì cũng đừng mong thành công.

                          Giảng: Hào 3 đã âm nhu lại bất chính (vì hào âm mà ở ngôi dương, ở chông chênh trên cùng quẻ Khảm (hiểm), chung quanh đều là kẻ thích gây sự, kiện cáo (vì hào 2 và 4 đều là dương), cho nên 3 thường phải lo sợ (lệ), nếu hiểu vậy mà biết giữ gìn thì rốt cuộc sẽ yên ổn.

                          Hào 3 có hào 5 ở trên ứng và có “tình” với mình, 6 là dương cương lại là bề trên (ngôi cao), nên có khi lôi kéo 3 theo nó; trong trường hợp đó, 3 nên an phận thủ thường, cứ phục tùng 6, đừng mong thành công (chẳng hạn 6 muốn đứng ra kiện, kéo 3 theo thì 3 chỉ nên giúp 6 lấy lệ thôi, đừng ham lập công).
                          <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.10.2005 06:13:14 bởi Trương Củng >
                          Attached Image(s)
                          #88
                            Huyền Băng 29.10.2005 16:53:37 (permalink)
                            4.
                            九 四 : 不克 訟 , 復 即 命, 渝 , 安 貞 吉 .

                            Cửu tứ: Bất khắc tụng, phục tức mệnh, du, an trinh cát.

                            Dịch: Hào 4, dương : không thể kiện cáo được, trở lại theo thiên mệnh (lẽ chính đáng), đổi ý đi, ở yên theo điều chính thì tốt.

                            Giảng: Hào này dương cương mà bất trung, bất chính, “tượng” một người ham kiện cáo. Nhưng không thể kiện ai được: kiện 5 thì 5 ở trên mình, ngôi tôn, không dám kiện; kiện 3 thì 3 nhu thuận, chịu thua trứơc rồi; kiện 2 thì 2 vừa cương, chính , trung, sáng suốt, đã tiên liệu rồi, không chịu kiện; còn 1 thì đã về phe với 4. Đành phải bỏ ý ham kiện đi, theo lẽ phải, ở yên, giữ điều chính, như vậy thì tốt.
                            <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.10.2005 06:20:22 bởi Trương Củng >
                            #89
                              Huyền Băng 29.10.2005 16:59:38 (permalink)
                              5.
                              九 五 : 訟, 元 吉 .
                              Cửu ngũ: Tụng, nguyên cát.

                              Dịch: Hào 5 dương : xử kiện hay đi kiện, đều rất tốt.

                              Giảng : Hào 5 này ở ngôi chí tôn, cương mà minh, trung và chính. Nếu là người xử kiện thì là bậc có đức, có tài (như Bao Công); nếu là người đi kiện thì gặp đựơc quan tòa có đức, có tài. Không gì tốt bằng.
                              <bài viết được chỉnh sửa lúc 30.10.2005 06:21:43 bởi Trương Củng >
                              Attached Image(s)
                              #90
                                Thay đổi trang: << < 456 > >> | Trang 6 của 12 trang, bài viết từ 76 đến 90 trên tổng số 175 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9