1Q84 - Murakami Haruki
Aomame nhớ lại một cảm giác kỳ lạ mà nàng đã cảm nhận được, khi nàng nghe bản nhạc Sinfonietta của Janáček cất lên trong xe taxi, trong lúc đang bị kẹt xe. Nàng cảm nhận nó theo kiểu đau đớn vật lý, giống như các phần cơ thể của nàng bị bóp chặt lại như một miếng giẻ. Sau đó, người lái xe đã nói với tôi về chiếc cầu thang khẩn cấp của đường cao tốc đô thị. Tôi cởi bỏ giày cao gót của tôi, và trèo xuống. Suốt thời gian đó, tôi đã leo xuống chiếc cầu thang bấp bênh bằng đôi bàn chân mang vớ, hứng những luồng gió mạnh đến rát mặt, trong khi giai điệu của bản Sinfonietta của Janáček vẫn âm vang, lặp đi lặp lại trong tai tôi. Nàng nghĩ, có lẽ chính là vào lúc đó, mọi việc bắt đầu.
Cũng có một cái gì đó kỳ lạ về tài xế taxi. Aomame vẫn còn nhớ từng lời của ông ta. Nàng sao chép lại chính xác chúng trong tâm trí:
Sau khi cô đã làm một việc như thế, cái nhìn hàng ngày của cô về những sự vật dường như đã thay đổi đi chút ít. Những sự vật đã khác đi như chúng đã từng như trước đây ... Đừng để vẻ bên ngoài đánh lừa cô. Chỉ luôn luôn có một thực tế.
Vào lúc đó, Aomame đã thấy hơi kỳ lạ, nhưng nàng đã không để ý tới những gì ông tài xế đã cố gắng nói với nàng, vì vậy nàng đã không suy nghĩ nhiều về nó. Cũng vì vào lúc đó nàng quá vội, nên không quá chú tâm vào câu đố ông đưa ra. Bây giờ khi nàng suy nghĩ lại về nó, mặc dù lời nói của ông ta đã tan biến vào hư không, nhưng chúng quả thực sự là kỳ lạ. Chúng giống như một lời cảnh báo, hoặc một thông điệp có nhiều ngụ ý. Ông ta đã cố gắng truyền đạt lại cho tôi điều gì?
Và còn bản nhạc của Janáček.
Làm thế nào tôi có thể cho biết ngay lập tức rằng đó là bản Sinfonietta của Janáček? Và làm thế nào tôi biết nó được sáng tác vào năm 1926? Bản Sinfonietta của Janáček không phải là loại âm nhạc phổ biến mà bất cứ ai cũng có thể nhận ra nó khi nghe những nốt nhạc đầu tiên. Tôi cũng không phải là một fan hâm mộ đam mê âm nhạc cổ điển. Tôi không phân biệt đâu là Haydn và đau là Beethoven. Nhưng vào lúc đó khi nó được phát qua radio của xe hơi, tôi biết nhận ngay ra nó. Tại sao lại thế, và tại sao nó đã cho tôi một cảm giác vật lý mạnh mẽ - và chỉ mạnh mẽ cho cá nhân tôi – một cú sốc choáng váng?
Vâng, đó chính là cú sốc của riêng tôi. Giống như thể có một cái gì đó đã làm đánh thức bộ nhớ của tôi đã được ngủ yên trong nhiều năm. Nó dường như nắm lấy vai và lắc tôi. Điều đó có nghĩa là tôi đã có một kết nối thật sâu sắc với âm nhạc, ở một vài nơi nào đó trong cuộc sống của tôi. Âm nhạc bắt đầu nổi lên, chuyển công tắc tự động sang "on," và đâu đó trong bộ nhớ được đánh thức để hoàn toàn tỉnh táo. Ôi! bản nhạc Sinfonietta của Janáček.
Nhưng mặc dù nàng đã cố gắng để rà soát bộ nhớ của mình, Aomame cuối cùng chẳng đi đến được gì. Nàng nhìn quanh, rồi nhìn chằm chằm vào lòng bàn tay, kiểm tra hình dạng của móng tay, và cuối cùng bóp lấy ngực của mình qua chiếc áo sơ mi để kiểm tra hình dạng của nó. Chẳng có thay đổi. Vẫn cùng một kích thước và cùng hình dạng. Tôi vẫn là tôi. Thế giới cũng vẫn là thế giới như nó vốn là thế. Nhưng có một cái gì đó đã bắt đầu thay đổi. Nàng có thể cảm thấy nó. Nó giống như là tìm kiếm sự khác biệt giữa hai bức tranh giống hệt nhau. Cả hai bức tranh đang treo cạnh nhau trên tường. Chúng trông có vẻ hoàn toàn giống nhau, ngay cả khi so sánh chúng một cách cẩn thận. Tuy nhiên, khi bạn kiểm tra đến các chi tiết nhỏ nhất, sự khác biệt nhỏ bé sẽ dần dần lộ ra và trở nên rõ ràng.
Aomame chuyển sự chú ý trở lại tờ báo, nàng lật trang tờ báo đã được thu nhỏ, và bắt đầu ghi chép chi tiết về cuộc đấu súng tại hồ Motosu. Có người suy đoán rằng, năm khẩu Kalashnikov AK-47 do Trung Quốc sản xuất, đã được nhập lậu qua bán đảo Triều Tiên. Chúng là hàng của quân đội, được bảo quản trong tình trạng khá tốt, và đi kèm với rất nhiều đạn dược. Bờ biển của Nhật Bản là một trong những bờ biển dài. Mang vũ khí và đạn dược dưới sự che chở của bóng đêm, và sử dụng một con tàu gián điệp cải trang giống như một con tàu đánh cá, không phải là vấn đề quá khó khăn. Ma túy và vũ khí đã được đưa vào Nhật Bản, để trao đổi lấy một số lượng lớn đồng yên.
Cảnh sát Quận Yamanashi đã không hề biết rằng, các nhóm cực đoan đã được trang bị vũ khí hạng nặng. Họ được lệnh toàn quyền lục soát, và chỉ mang theo vũ khí thông thường, sau khi lên đầy hai chiếc xe tuần tra cùng với một xe minibus, họ tiến về "nông trại". Đây là trụ sở của một nhóm được gọi là Akebono, hay còn gọi là "Tia sáng đầu tiên." Trên danh nghĩa, các thành viên của nhóm chỉ đơn giản là điều hành một trang trại. Họ từ chối không cho cảnh sát lục soát. Một cuộc đối đầu đã xảy ra sau đó, và đã biến thành một cuộc đấu súng.
Các nhóm Akebono sỡ hữu lựu đạn sát thương cao của Trung Quốc, mà may mắn thay chúng đã không sử dụng, nguyên nhân là vì chúng vừa mới nhận được lựu đạn, và đã không có thời gian tìm hiểu làm thế nào để dùng những quả lựu đạn đó. Nếu nhóm cực đoan đã sử dụng lựu đạn, thương vong trong số cảnh sát, và lực lượng phòng vệ gần như chắc chắn sẽ lớn hơn rất nhiều. Ban đầu, cảnh sát thậm chí còn không mang theo áo khoác chống đạn. Các nhà bình luận đã phân tích là do tin tức tình báo quá kém của các cơ quan cảnh sát, và vũ khí đã quá lạc hậu. Vụ việc đã làm cho mọi người dân bị sốc, tuy nhiên, tồn tại một thực tế là vẫn có những nhóm cực đoan ở Nhật Bản được vũ trang, hoạt động tích cực trong thế giới ngầm. Vào cuối những năm sáu mươi, nổi lên những phong trào có tên gọi khoa trương là "cách mạng", bây giờ đã trở thành quá khứ, và tất cả mọi người giả định rằng chúng là những tàn tích của các nhóm cực đoan đã bị xóa sổ, trong cuộc bao vây của cảnh sát ở vùng núi lửa Asama vào năm 1972.
Khi nàng đã hoàn tất việc lấy tất cả các ghi chú, Aomame trả lại tờ báo thu nhỏ tại bàn tham khảo. Chọn một cuốn sách dày có tên gọi “Các nhà soạn nhạc của thế giới” từ phần âm nhạc, nàng quay trở lại bàn của mình, và mở cuốn sách tới mục "Janáček."
Leo Janáček được sinh ra trong một ngôi làng ở Moravia vào năm 1854, và qua đời vào năm 1928. Các bài viết đã bao gồm một bức ảnh của ông ta trong những năm sau này. Vẫn chưa bị hói, đầu của ông được bao phủ bởi một mái tóc trắng khỏe mạnh. Nó dày đến nỗi mà Aomame không thể đoán được hình dạng của đầu ông. Sinfonietta sáng tác vào năm 1926. Janáček đã phải chịu đựng một cuộc hôn nhân không tình yêu, nhưng vào năm 1917, ở tuổi 63, ông đã gặp, và đem lòng yêu một người phụ nữ đã có chồng tên là Kamila. Ông đã bị khủng hoảng tinh thần trầm trọng, nhưng cuộc gặp của ông với Kamila đã mang lại cho ông một thôi thúc mạnh mẽ sáng tạo, và ông đã tạo ra những kiệt tác vào cuối đời.
Vào một ngày, ông và Kamila đang đi bộ trong công viên, khi họ đi ngang qua một buổi hòa nhạc ngoài trời, và dừng lại để lắng nghe. Janáček cảm thấy một sự đột biến của niềm vui tràn ngập trong toàn bộ cơ thể của mình, và nội dung của bản nhạc Sinfonietta đã đến với ông. Những năm sau ông đã kể lại, là một cái gì đó dường như được chụp lấy trong đầu của ông, lúc đó ông cảm thấy mình được bao bọc trong một sự hưng phấn bất ngờ. Tình cờ, ông được yêu cầu vào lúc đó viết một bản nhạc làm nền cho một sự kiện thể thao lớn. Nó đã tự đến với ông trong công viên, và cũng thích hợp cho yêu cầu làm nhạc nền cho sự kiện thể thao, bản Sinfonietta đã được sinh ra như vậy. Có thể bình thường gọi nó là "bản giao hưởng, " nhưng cấu trúc của nó là hoàn toàn phi truyền thống, kết hợp sự rạng rỡ, náo nhiệt của tiếng kèn lễ hội hòa lẫn sự nhẹ nhàng, lịch sự của khung cảnh vùng trung tâm châu Âu, để tạo ra một tâm trạng duy nhất.
Aomame ghi chép cẩn thận về lời bình luận, và các tư liệu thực tế về tiểu sử danh nhân, nhưng cuốn sách đã không có gợi ý gì về kiểu kết nối - có thể có được giữa nàng, và bản nhạc Sinfonietta. Nàng rời khỏi thư viện, và đi lang thang không mục đích qua các đường phố cho đến khi trời tối, thường xuyên nói chuyện với chính mình, và thỉnh thoảng lắc đầu.
Tất nhiên, đó chỉ là một giả thuyết, Aomame tự nói với mình khi đang đi. Nhưng đó là giả thuyết có lý nhất, mà tôi có thể nghĩ ra vào lúc này. Tôi sẽ cần phải hành động theo hướng đó, giả sử là như vậy, cho đến khi có một giả thuyết khác có lý hơn. Nếu không, cuộc sống của tôi có thể bị kết thúc, vì bị ném xuống đất ở một nơi nào đó. Vì vậy, tôi muốn tốt hơn là nên đặt một cái tên cho phù hợp với tình huống mới, mà tôi tìm thấy chính bản thân mình trong đó. Cần một cái tên đặc biệt để phân biệt giữa thế giới hiện nay, và thế giới trước đây, thế giới mà cảnh sát đang mang súng lục ổ quay kiểu cũ. Ngay cả mèo và chó cũng cần có tên. Một thế giới mới, vì thế cũng phải có một cái tên.
Aomame quyết định gọi nó là 1Q84 - đó là cái tên tôi đặt cho thế giới mới.
Q là "dấu hỏi". Một thế giới mang trên mình dấu hỏi.
Aomame gật đầu đồng ý với chính mình, khi nàng đang bước đi.
Dù muốn hay không, thì bây giờ tôi đang ở đây, trong năm 1Q84. Năm 1984 mà tôi biết đã không còn tồn tại. Nó bây giờ là 1Q84. Bầu không khí đã thay đổi, khung cảnh cũng đã thay đổi. Tôi phải thích ứng với thế giới mang dấu hỏi này, ngay khi tôi có thể. Giống như một con vật được thả vào một khu rừng mới. Để bảo vệ bản thân mình và sống sót, tôi phải tìm hiểu các quy tắc của nơi này, và tự thích ứng bản thân mình với chúng.
Aomame đi đến một cửa hàng băng đĩa gần ga Jiyugaoka, để tìm bản nhạc Sinfonietta của Janáček. Janáček không phải là một nhà soạn nhạc được biết tới phổ biến. Phần chứa nhạc của Janáček là khá nhỏ, và chỉ có một đĩa ghi có bản Sinfonietta, một phiên bản của George Szell thực hiện với dàn nhạc Cleveland. Mặt A là bản Concerto của Bartók. Nàng không hề biết gì về những buổi biểu diễn, nhưng vì không có lựa chọn nào khác, nên nàng đã mua đại một đĩa LP.
Nàng trở về căn hộ của mình, lấy một chai Chablis từ tủ lạnh rồi mở nó ra, đặt cái đĩa trên bàn xoay của máy nghe, và hạ kim vào rãnh. Vừa uống rượu được ướp lạnh, nàng vừa lắng nghe bản nhạc. Nó bắt đầu bằng một hồi kèn. Không nghi ngờ gì, đây cùng là một bản nhạc mà nàng đã nghe trong xe taxi. Nàng nhắm mắt lại, và nghe nhạc với một sự tập trung hoàn hảo của mình. Dù vậy, vẫn không có gì xảy ra. Bản nhạc vẫn đang được phát. Nhưng cơ thể nàng không cảm thấy gì. Nhận thức của nàng trải qua không có thay đổi.
Sau khi đã nghe bản nhạc theo đủ các kiểu, nàng bỏ đĩa lại vào bìa, ngồi xuống sàn nhà, dựa người vào tường, và tiếp tục uống rượu. Cô đơn và xoay tròn trong suy nghĩ, nàng khó có thể thưởng thức được hương vị của rượu. Nàng đi đến bồn rửa trong phòng tắm, rửa sạch mặt bằng nước và xà phòng, tỉa lông mày của mình với một cái kéo nhỏ, và làm sạch tai của nàng bằng một tăm bông. Tôi không biết là tôi ngộ ngĩnh, hay thế giới buồn cười. Các chai và nắp của nó không phù hợp. Không biết là lỗi của cái chai hay là lỗi của cái nắp chai. Dù sao, trong cả hai trường hợp, không thể phủ nhận rằng sự vừa vặn là hoàn hảo.
Aomame mở tủ lạnh, và kiểm tra nó. Đã nhiều ngày nàng không mua sắm, do đó, có không nhiều để xem. Nàng lấy ra một quả đu đủ chín, cắt làm hai, và ăn bằng thìa. Sau đó, nàng lấy ra ba quả dưa chuột, rửa sạch, và ăn với nước xốt may-o-ne, nhai chúng một cách từ từ. Cuối cùng, nàng uống một ly sữa đậu nành. Đó là toàn bộ bữa ăn tối. Một bữa ăn đơn giản, nhưng thật lý tưởng để ngăn ngừa táo bón. Táo bón là một trong những điều nàng ghét nhất trên thế giới, ngang hàng với những người đàn ông đê hèn, bạo lực trong gia đình, và hẹp hòi cực đoan tôn giáo.
Sau khi ăn xong, Aomame cởi quần áo, và tắm trong vòi sen nóng. Bước ra ngoài, nàng lau khô người, và nhìn thân thể trần truồng của mình trong tấm gương dài ở mặt sau cánh cửa. Bụng phẳng, và săn chắc. Ngực rủ xuống, lông trên người nàng trông giống như là một sân bóng đá cỏ mọc nghèo nàn. Quan sát sự trần truồng của mình, nàng đột nhiên nhớ lại rằng, nàng sẽ được ba mươi tuổi trong tuần tới. Một sinh nhật chết tiệt. Tôi sẽ có ngày sinh nhật thứ ba mươi của tôi, trong một thế giới mà tôi không thể hiểu nổi! Nàng bắt đầu nhăn.
1Q84.
Bây giờ chính là nơi, mà nàng thuộc về nó.
(Hết chương 9)
CHƯƠNG 10.
TENGO
MỘT CUỘC CÁCH MẠNG TRIỆT ĐỂ PHẢI ĐỔ MÁU.
- Chuyển tàu. - Fuka-Eri thốt lên. Sau đó, cô lại nắm lấy tay của Tengo một lần nữa. Điều này xảy ra ngay trước khi tàu vào ga Tachikawa.
Họ bước ra khỏi tàu, đi xuống một cầu thang, và lên một cầu thang khác, để đến một sân ga khác đợi tàu. Fuka-Eri không một lần buông tay Tengo. Họ nhìn giống như một cặp tình nhân, đang rất hạnh phúc trong tình yêu, đối với những người xung quanh họ. Có một sự khá khác biệt về tuổi tác, nhưng Tengo trông trẻ hơn tuổi thực tế của anh. Sự khác biệt về kích thước của họ, cũng có thể làm thích thú một số người xem. Một buổi sáng chủ nhật mùa xuân tràn ngập hạnh phúc.
Dù bàn tay nhỏ bé của cô gái đang nắm lấy tay anh, nhưng trong Tengo không gợi lên chút tình cảm nào với người khác giới. Sức mạnh của cái nắm tay của cô không bao giờ thay đổi. Những ngón tay của cô, giống như sự chuyên nghiệp của một bác sĩ, đang đo mạch của bệnh nhân một cách tỉ mỉ. Thình lình một ý tưởng đến với Tengo: Có lẽ cô gái này nghĩ rằng chúng tôi có thể giao tiếp không thông qua lời nói, mà qua việc va chạm bằng các ngón tay, và lòng bàn tay. Tuy nhiên, giả sử có một cách giao tiếp như vậy đã thực sự xảy ra, thì nó chỉ đi theo một hướng, chứ không quay trở lại. Bàn tay của Fuka-Eri, có thể hấp thụ những gì trong tâm trí của Tengo, nhưng điều đó không có nghĩa là Tengo, có thể đọc được suy nghĩ của Fuka-Eri. Điều này tất nhiên không làm cho Tengo lo lắng. Chẳng có gì trong tâm trí của anh - không có suy nghĩ hay cảm xúc nào – mà anh phải sợ cô biết.
Tengo phỏng đoán, thậm chí nếu em không có cảm giác đối với tôi về giới tính, thì em cũng sẽ thích tôi về một điều gì đó,. Hoặc ít nhất, em không có một ấn tượng xấu về tôi. Nếu không, dù bất kỳ mục đích nào, thì em sẽ không cùng đi, mà phải nắm lấy tay của tôi như thế này, trong một thời gian dài như vậy.
Có sự thay đổi tại sân ga Oume Line, và họ lên chiếc tàu đang chờ. Trạm Tachikawa này, lại là sự khởi đầu cho đường Oume Line, mà nó dẫn xa về phía phía những ngọn đồi hướng tây bắc của Tokyo. Chiếc tàu đông một cách đáng ngạc nhiên, đầy các người già, và các nhóm gia đình đi bộ đường dài vào Chủ nhật. Tengo và Fuka-Eri đứng gần ngay cửa ra vào.
- Chúng ta dường như đang tham gia vào một chuyến đi dã ngoại. - Tengo nói, nhìn lướt qua đám đông.
- Không có vấn đề khi em tiếp tục nắm tay anh chứ. - Fuka-Eri hỏi Tengo. Cô đã không thả tay ra, ngay cả sau khi họ lên tàu.
- Không sao. – Tengo đáp. - Tất nhiên.
Fuka-Eri dường như cảm thấy nhẹ nhõm, và tiếp tục nắm tay của anh. Ngón tay và lòng bàn tay trơn láng hơn bao giờ hết, và không có mồ hôi. Chúng vẫn dường như đang cố gắng để tìm, và xác minh một cái gì đó bên trong anh.
- Anh đã không còn sợ nữa. - Cô hỏi mà không có một dấu hỏi.
- Ừ, anh ổn. - Tengo trả lời. Anh đã không nói dối. Cuộc tấn công làm anh hoảng loạn vào buổi sáng Chủ Nhật, đã chắc chắn bị mất hiệu lực của nó, có lẽ là nhờ Fuka-Eri nắm lấy tay của anh. Anh đã không còn đổ mồ hôi, cũng không phải nghe thấy trái tim mình đang đập thình thịch. Các ảo giác đã không ghé thăm anh, và hơi thở của anh đã bình tĩnh như thường lệ.
- Thế thì tốt. - Cô nói mà không cần uốn lưỡi.
Đúng, thật là tốt. Tengo cũng nghĩ như vậy.
Một thông báo nhanh chóng, và ngắn gọn vang lên, cho hành khách biết là sẽ cho chiếc tàu khởi hành sớm, đồng thời những cánh cửa tự động đóng lại rầm rầm, tạo nên một sự rùng mình cho con tàu, giống như một động vật cổ đại khổng lồ, đã thức dậy từ một giấc ngủ dài. Con tàu từ từ rời sân ga.
Vẫn đang còn tay trong tay với Fuka-Eri, Tengo xem phong cảnh trôi qua cửa sổ xe lửa. Lúc đầu, nó chỉ là cảnh quan khu vực dân cư bình thường, nhưng càng đi xa hơn, thì đồng bằng Musashino nhường chỗ cho vùng núi kéo dài. Sau khi dừng lại hơn chục lần, đường ray hai làn đường thu hẹp xuống thành một đường duy nhất, và họ đã phải chuyển sang một chuyến tàu bốn toa. Các ngọn núi xung quanh đã trở nên ngày càng rõ. Bây giờ trung tâm thành phố Tokyo đã mất hút trong tầm mắt. Những ngọn đồi ở đây vẫn giữ khung cảnh khô héo, úa tàn của mùa đông, mà không mang lại màu xanh rực rỡ của mùa xuân. Mùi của không khí cũng khác, Tengo nhận ra, khi những cánh cửa mở ra tại mỗi trạm dừng, và độ tinh tế của âm thanh cũng khác. Các cánh đồng nằm dọc theo đường ray, và các trang trại càng tăng lên về số lượng. Loại xe bán tải cũng nhiều hơn xe hơi. Tengo nghĩ, chúng tôi đã thực sự đi một chặng đường rất dài. Và chúng tôi phải đi xa tới đâu?
- Đừng lo. - Fuka-Eri nói, như thể cô đã đọc được ý nghĩ của anh.
Tengo lặng lẽ gật đầu. Anh nghĩ, tôi không biết nữa, có cảm giác như tôi đang nắm tay em, để đến gặp cha mẹ của em, yêu cầu họ cho tôi được cưới em.
Cuối cùng, sau năm điểm dừng trên đường ray duy nhất, họ tới một trạm có tên gọi là Futamatao. Tengo chưa hề bao giờ nghe nói về nơi này trước đây. Thật là một cái tên lạ đời. Cái đuôi chia hai? Trạm nhỏ này là một tòa nhà gỗ cũ kỹ. Năm hành khách khác xuống cùng với họ. Không có ai lên tàu. Mọi người đến Futamatao, chỉ để hít thở không khí trong lành trên những con đường mòn trên núi, và ở đây hoàn toàn không có một nhà hát, một sàn nhảy hoang dã, hay một phòng trưng bày Aston Martin để ghé thăm, hay có thể ăn món Gratin de homard trong một nhà hàng nổi tiếng của Pháp. Có thể thấy điều đó rõ ràng từ quần áo của hành khách rời tàu ở nơi đây.
Không có một cửa hàng nào cạnh sân ga, và cũng không có người. Chỉ có một chiếc xe taxi đậu ở đó. Nó xuất hiện bất cứ khi nào có dấu hiệu của một tàu trong lịch trình đến đây. Fuka-Eri gõ trên cửa kính, và cửa sau xe được mở ra. Cô cúi người vào bên trong, và ra hiệu cho Tengo vào theo cô. Cánh cửa đóng lại, Fuka-Eri nói một câu ngắn với lái xe, về nơi cô muốn đi, và ông ta gật đầu đáp ứng.
Chặng đường không dài lắm cho một chuyến xe taxi, nhưng tuyến đường này địa hình rất phức tạp. Họ đã đi lên một ngọn đồi dốc, và sau đó đổ dốc dọc theo con đường hẹp của trang trại, nơi có đoạn chỉ vừa đủ để vượt qua những xe tải khác. Số lượng các khúc cua, và quẹo gấp không đếm xuể, nhưng người lái xe hầu như không chậm lại cho bất kỳ đoạn nào. Tengo nắm chặt tay nắm của cánh cửa, trong tình trạng căng thẳng. Cuối cùng, xe taxi đã dừng lại, sau khi leo lên một ngọn đồi dốc cao đáng sợ, như là một con dốc tập trượt tuyết, và có lẽ nó là đỉnh của một ngọn núi nhỏ. Tôi cảm thấy chuyến đi taxi này, còn hơn là chơi trò chơi xoay vòng ở công viên giải trí. Tengo rút 2.000 yen từ ví của mình để thanh toán, và nhận lại tiền thừa cùng hóa đơn.
Một chiếc Mitsubishi Pajero màu đen, và một chiếc Jaguar cỡ lớn màu xanh lá cây đậu ở phía trước một ngôi nhà Nhật Bản cũ kỹ. Chiếc Pajero mới và sáng bóng, còn chiếc Jaguar là loại đời cũ phủ đầy bụi trắng, gần như che lấp hết màu sắc của nó. Nhìn nó có vẻ như lâu rồi chưa sử dụng. Không khí cực kỳ trong lành, và một sự tĩnh lặng tràn ngập không gian xung quanh. Là một sự tĩnh lặng tịch mịch, mà làm cho ta phải tự điều chỉnh mình, để thích ứng với nó. Bầu trời xanh trong vắt, dường như đã được nâng lên rất cao, và sự ấm áp của ánh nắng mặt trời chạm nhẹ nhàng vào da, mỗi khi nó chiếu vào. Tengo nghe văng vẳng tiếng kêu buồn thảm của một con chim vang lên ở đâu đó, nhưng anh không thể nhìn thấy con chim.
Ngôi nhà lớn và thanh lịch. Rõ ràng là nó đã được xây dựng từ rất lâu, nhưng nó cũng đã được chăm sóc rất cẩn thận. Những cây và bụi cây trong sân trước được cắt tỉa rất đẹp mắt. Một số cây được định hình hoàn hảo và tựa như chúng là những mô hình bằng nhựa. Một cây thông lớn tỏa một cái bóng rộng lớn trên mặt đất. Nhìn ở khoảng cách gần thì mới có thể thấy được ngôi nhà. Tengo đoán rằng một người không ưa tiếp xúc với con người, mới cho xây dựng một ngôi nhà ở một nơi bất tiện như vậy.
Vặn cái núm cửa gây nên một tiếng vang, Fuka-Eri đi qua cánh cửa trước không khóa, và ra hiệu cho Tengo đi theo cô. Không có ai đến để chào đón họ. Họ bỏ giày ra trong im lặng, trước một tiền sảnh vô cùng lớn. Sàn gỗ bóng láng của hành lang, làm cho họ cảm thấy mát rượi, khi đi trên nó bằng đôi chân mang vớ, để đến phòng tiếp khách to lớn, và rộng rãi. Các cửa sổ mở ra một cái nhìn toàn cảnh về các ngọn núi, thấp ở phía dưới chúng có một dòng sông uốn khúc lượn quanh, và ánh nắng mặt trời đang phản chiếu lung linh trên bề mặt của dòng sông. Thật là một khung cảnh tuyệt vời, nhưng Tengo đã không có tâm trạng nào để tận hưởng khung cảnh thiên nhiên. Fuka-Eri mời anh ngồi xuống một chiếc ghế sofa lớn, và rời khỏi phòng mà không nói một lời. Các ghế sofa bốc lên mùi của một quá khứ xa xôi nào đó, nhưng xa bao nhiêu thì Tengo không thể nói được.
Phòng tiếp khách gần như không trang trí gì hết. Có một cái bàn thấp được làm từ một tấm ván dày. Không có gì nằm trên nó - không có gạt tàn, không có khăn trải bàn. Không có tranh treo trên các bức tường. Không có đồng hồ, lịch, không có bình hoa. Không có tủ, không có tạp chí, không có sách. Nền được phủ một tấm thảm cũ đã bị phai mờ, hoa văn của nó hầu như không thể được nhận ra, và ghế sofa cùng vài chiếc ghế nhỏ khác cũ kỹ không kém. Không có gì khác, ngoài chiếc ghế sofa to bè mà Tengo đang ngồi, và ba cái ghế nhỏ phù hợp với nó. Có một lò sưởi lớn, nhưng nó cho thấy không có dấu hiệu đã sử dụng gần đây. Vào một buổi sáng giữa tháng tư, trong phòng là rất lạnh, giống như là cái lạnh đã thấm vào qua mùa đông, và đã quyết định ở lại đây thêm một thời gian nữa. Chắc là nhiều tháng, nhiều năm dài trôi qua, căn phòng đã quyết tâm không chào đón bất kỳ khách nào ghé thăm nó. Fuka-Eri đã trở lại, và ngồi xuống bên cạnh Tengo, vẫn không nói một lời.
Không ai nói gì, và thời gian im lặng kéo dài. Fuka-Eri khép mình trong thế giới bí ẩn của riêng cô, trong khi Tengo cố gắng làm bản thân mình bình tĩnh, bằng một vài hơi thở sâu nhẹ nhàng. Ngoại trừ tiếng chim kêu thường xuyên từ xa vọng tới, căn phòng hoàn toàn yên tĩnh. Tengo lắng nghe sự im lặng, mà nó dường như mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Nó không chỉ đơn giản là sự im lặng thiếu âm thanh bình thường. Sự im lặng này, đang cố gắng nói cho anh một cái gì đó về chính bản thân nó. Không có chủ ý, anh liếc nhìn đồng hồ. Ngẩng mặt lên, anh liếc nhìn ra bên ngoài cửa sổ, và sau đó lại nhìn đồng hồ một lần nữa. Một khoảng thời gian khó khăn đã trôi qua. Thời gian luôn luôn chạy chậm vào các buổi sáng chủ nhật.
Mười phút đã trôi qua trong yên lặng. Rồi đột nhiên, không có một dấu hiệu cảnh báo, cánh cửa đột ngột mở ra, và một người đàn ông gầy ốm, bước nhanh vào phòng khách bằng những bước chân nhẹ nhàng. Tuổi của ông vào khoảng hơn lục tuần. Ông cao khoảng năm foot ba, nhưng tư thế tuyệt vời của ông, làm cho mọi người đều ấn tượng khi nhìn thấy ông. Lưng ông thẳng tưng, như thể nó có kẹp một thanh thép ở bên trong, và ông giữ khuôn mặt mình nhìn xuống theo phép lịch sự. Đôi lông mày của ông thật rậm, và ông đeo một cặp kính có gọng dày màu đen, dường như để tạo cho mọi người phải có cảm giác lễ phép khi thấy ông. Chuyển động của ông được thực hiện như là một bộ máy tinh tế, với các bộ phận của nó, được thiết kế nhỏ gọn và hiệu quả. Tengo đứng lên, và định giới thiệu mình, nhưng ông đã nhanh chóng ra dấu cho anh ngồi yên. Tengo ngồi trở lại, trong khi ông như lao mình dễ dàng ngồi vào ghế đối mặt với anh, như là ông đang trong cùng một cuộc đua với Tengo. Ông quan sát Tengo một lúc lâu, và không nói gì. Cái nhìn của ông không chính xác là soi mói, nhưng đôi mắt của ông dường như thu lấy tất cả mọi thứ, thu hẹp và mở rộng như màn che của một máy ảnh, mà các nhiếp ảnh gia thực hiện khi điều chỉnh độ mở của ống kính.
Ông mặc một chiếc áo len màu xanh lá cây, bên trong là một chiếc áo sơ mi trắng, và quần len màu xám đen. Mỗi thứ trông như đã được mặc hàng ngày, và chắc cũng đã phải hơn chục năm. Chúng thật phù hợp với cơ thể của ông, nhưng nhìn chúng thật mòn xơ xác. Đây không phải là một người chú ý nhiều đến việc ăn mặc của mình. Hoặc có lẽ, ông không có những người gần gũi chăm sóc cho việc ăn mặc cho ông. Bộ tóc thưa của ông làm nổi lên hình dạng thon dài của cái đầu ông, nhìn từ trước ra sau. Má ông hóp lại, và hàm bạnh ra thành một hình vuông. Đôi môi nhỏ tròn trịa, là một đặc điểm khác biệt của ông, hoàn toàn không phù hợp với những người ở lứa tuổi của ông. Chiếc dao cạo, có lẽ đã làm vài vết sướt trên khuôn mặt của ông - hoặc cũng có thể nó chỉ là bóng của ánh sáng. Ánh nắng mặt trời sau núi chiếu qua các cửa sổ, dường như là lạ với Tengo, không giống như ánh nắng mặt trời mà anh vẫn thường thấy.
- Bác xin lỗi cháu, vì phải để cháu đến tận đây. - Ông nói. Ông nói chuyện với một ngữ điệu thật rõ ràng bất thường, giống như một người đã lâu quen nói chuyện trước công chúng - và có lẽ nói về các chủ đề một cách trôi chảy. – Thật không dễ dàng cho bác, khi phải rời khỏi nơi này, vì vậy tất cả những gì bác có thể làm, là mời cháu đi một quãng đường xa đầy mệt nhọc đến đây.
Tengo thưa lại với ông là không vấn đề gì. Anh giới thiệu với ông về tên của mình, và xin lỗi vì không có một cái card visit.
- Tên bác là Ebisuno. - Ông nói. – Bác cũng không có card.
- Bác tên là ‘Ebisuno’? - Tengo hỏi lại.
- Mọi người đều gọi bác là" Giáo sư. "Bác không biết tại sao, nhưng ngay cả con gái bác cũng gọi bác là “Giáo sư.”
- Bác có thể viết tên của bác cho cháu được không?
- Quả thật đó là một cái tên khác thường. Bác hầu như không bao giờ nhìn thấy ai có tên giống như thế. Eri, cháu viết tên bác cho anh ấy xem nhé?
Fuka-Eri gật đầu, lấy ra một cuốn sổ tay, và từ từ, thật cẩn thận, viết các ký tự tên của ông đưa cho Tengo, trên một tờ giấy trắng bằng một cây bút bi. Từ "Ebisu" là tên nhân vật, thường được sử dụng cho các bộ lạc hoang dã cổ xưa ở miền Bắc của Nhật Bản. Còn từ "no" thì đồng nghĩa với "lĩnh vực." Theo cách mà Fuka-Eri viết chúng, hai từ này giống như cào vào một viên gạch bằng một cái móng tay, và bản thân chúng trong mỗi từ có một phong cách nhất định của riêng mình.
- Trong tiếng Anh, tên của bác có thể tạm dịch là 'lĩnh vực man rợ" – quả là hoàn hảo cho một nhà nhân chủng học văn hóa, chính xác những gì bác đã từng làm. " Môi của giáo sư hình thành gần như là một nụ cười, nhưng đôi mắt của ông không cười. - Bác đã bỏ sự nghiên cứu đó từ rất lâu. Và bây giờ, bác đang toàn tâm làm một công việc khác. Có thể nói, bác đang sống trong một “lĩnh vực man rợ " mới.
Chắc chắn, tên của Giáo sư là một tên lạ, nhưng Tengo lại cảm thấy nó quen thuộc. Anh nhớ một cách chắc chắn, là đã có một học giả nổi tiếng tên là Ebisuno vào cuối những năm sáu mươi, đã xuất bản một số cuốn sách bán rất chạy. Anh không nhớ những cuốn sách viết về cái gì, nhưng tên của ông ta, ít nhất vẫn còn nằm đâu đó trong bộ nhớ của anh. Một nơi nào đó trên đường đời anh đi, anh đã từng gặp phải nó.
- Cháu nghĩ rằng, cháu đã từng nghe tên của bác trước đây. - Tengo thốt lên.
- Có lẽ vậy. - Giáo sư đáp, nhìn xa xăm, như thể nói về một người nào đó không có mặt. - Trong bất kỳ trường hợp nào, thì nó cũng đã là quá khứ rất xa xôi.
Tengo có thể cảm nhận hơi thở nhẹ nhàng của Fuka-Eri ngồi bên cạnh anh - chậm, và sâu.
- Cháu là Tengo Kawana. - Giáo sư nói như đang đọc một cái tên trên thẻ.
- Dạ, Đúng vậy. - Tengo trả lời.
- Cháu học chuyên ngành toán tại trường đại học, và bây giờ cháu dạy toán một trường luyện thi tư nhân ở Yoyogi. - Giáo sư nói. - Tuy nhiên, cháu cũng viết tiểu thuyết. Đó là những gì Eri đã cho bác biết. Đúng vậy không?
- Dạ đúng. - Tengo trả lời.
- Cháu nhìn chẳng giống một giáo viên toán. Và cũng chẳng giống như một nhà văn.
Tengo cười bối rối, và nói:
- Có người đã từng nói chính xác điều tương tự như bác trước đây. Có lẽ đó chính là con người của cháu.
- Bác không ám chỉ nó theo một nghĩa xấu nào đâu. - Giáo sư nói, ấn tay đẩy lại gọng kính đen của ông sát vào mắt. - Không có vấn đề gì nếu cháu không giống hai loại người trên. Chỉ đơn thuần là cháu không phù hợp với một khuôn mẫu định sẵn.
- Cháu rất vinh dự khi nghe bác nói như thế. Cháu chẳng phải là nhà văn. Cháu vẫn chỉ cố gắng để viết tiểu thuyết.
- Đang cố gắng.
- Dạ. Vẫn còn nhiều thứ dở dang, và chưa được tốt lắm.
- Bác hiểu. - Giáo sư nói. Sau đó, như thể ông để ý tới cái lạnh thấm sâu trong căn phòng, ông cọ xát hai bàn tay của mình với nhau. - Bác cũng nghe nói rằng, cháu sẽ viết lại tiểu thuyết của Eri với hy vọng rằng, em nó có thể giành được chiến thắng giải thưởng nhà văn mới của một tạp chí văn học. Cháu đang lập kế hoạch để dựng em nó lên trước công chúng, dưới tư cách một nhà văn. Bác nói như vậy có đúng không?
- Về cơ bản, bác nói là chính xác. – Tengo đáp. - Một anh biên tập viên tên là Komatsu đã đưa ra ý tưởng như thế. Cháu không biết là kế hoạch có thật sự thành công hay không, cho dù cần phải xét tới về vấn đề đạo đức trong công việc này. Vai trò duy nhất của cháu, là sửa đổi phong cách của tác phẩm Air Chrysalis. Cháu chỉ đóng vai trò là một kỹ thuật viên. Komatsu mới là người chịu trách nhiệm cho tất cả mọi thứ khác.
Giáo sư tập trung suy nghĩ một lúc. Trong căn phòng im lặng, Tengo gần như có thể nghe thấy não của mình đang làm việc. Giáo sư sau đó nói:
- Người biên tập này, anh Komatsu, đã đưa ra ý tưởng, và cháu đang hợp tác với anh ta về mặt kỹ thuật.
- Dạ. Đúng vậy.
- Bác là một học giả, và, để cho cháu biết sự thật, bác chưa bao giờ có nhiệt tình để đọc tiểu thuyết. Bác không biết bất cứ điều gì về tập quán trong thế giới viết, và xuất bản tiểu thuyết, nhưng nghe những gì về kế hoạch cháu đã nói, bác cảm giác như một kiểu gian lận. Bác nói có sai không?
- Dạ không. Bác nói không sai. Cháu cũng thấy như thế. –Tengo trả lời.
Giáo sư hơi cau mày một chút:
- Cháu rõ ràng là có nghi ngờ đạo đức về kế hoạch này, và cháu vẫn đang có ý định thực hiện nó, vậy thì cháu đã không thể làm chủ được bản thân mình.
- Dạ không. Không chính xác là cháu không làm chủ được bản thân, mà chính là cháu đã xác định sẽ làm việc này. Chính xác là như thế.
- Và tại sao lại như vậy?
- Đó là những gì mà cháu đã tự hỏi mình trong suốt cả tuần. - Tengo nói một cách trung thực.
Giáo sư và Fuka-Eri im lặng chờ đợi để Tengo tiếp tục.
- Suy luận, cảm giác, bản năng - Chúng đã cầu xin cháu hãy thoát ra khỏi chuyện này, càng nhanh càng tốt. Con người cháu về cơ bản, là thuộc loại người thận trọng, và cảnh giác cao. Cháu không thích cờ bạc, hoặc cơ hội. Nói chung, cháu có thể coi là một kẻ hèn nhát. Nhưng trong chuyện này thì lại khác. Cháu đã không thể tự mình nói không, với kế hoạch của anh Komatsu, dù biết rằng mình lao vào chuyện này, là rất nguy hiểm. Và lý do duy nhất, để cháu làm chuyện này, là vì cháu đã thực sự bị hút hồn bởi Air Chrysalis. Nếu nó là một tác phẩm nào khác, cháu đã phủi tay từ chối.
Giáo sư nhìn Tengo một cách chế nhạo:
- Nói như vậy, có nghĩa là cháu đã không quan tâm đến sự gian lận của kế hoạch, mà chỉ quan tâm sâu sắc đến việc viết lại tác phẩm. Phải vậy không?
- Dạ đúng. Nó còn hơn là ‘quan tâm sâu sắc’, như bác nói. Nếu Air Chrysalis được viết lại, thì phải là chính tay cháu viết, chứ cháu không muốn để cho bất cứ ai khác làm điều đó.
- Bác hiểu. - Giáo sư nói. Sau đó, ông nhăn mặt, như thể ông đã vô tình ăn trúng một cái gì đó thật chua trong miệng của mình. - Bác nghĩ, bác hiểu cảm xúc của cháu trong chuyện này. Nhưng còn Komatsu thì sao? Anh ta muốn gì trong chuyện này? Tiền? Hay sự nổi tiếng?
- Cháu nói thật với bác. Cháu không chắc là anh Komatsu muốn gì. – Tengo đáp. - Nhưng theo cháu thì nó là một cái gì đó, còn lớn hơn cả tiền bạc, hay danh vọng.
- Vậy thì nó là cái gì?
- Thưa bác. Cháu nghĩ anh Komatsu đã không có những động cơ nói trên, bởi vì anh ta thuộc loại người bị ám ảnh với văn học. Loại người kiểu như anh ta, đang cố gắng tìm kiếm một tác phẩm, và nếu tìm thấy, dù chỉ một lần trong cuộc đời của mình, một tác phẩm để đời. Anh ta sẽ trân trọng đặt nó trên khay, và giới thiệu nó đến thế giới.
Giáo sư giữ cái nhìn cố định vào Tengo một lúc. Sau đó, ông nói:
- Có nghĩa là cháu, và anh ta có những động cơ rất khác nhau - động cơ của hai người không có gì liên quan đến tiền bạc, hay sự nổi tiếng.
- Bác nói đúng.
- Dù động cơ của hai người là gì, thì kế hoạch này, như cháu nói, vẫn rất nguy hiểm. Nếu sự thật bị lộ ra vào một lúc nào đó, nó sẽ chắc chắn gây ra một vụ bê bối, và sự chỉ trích của công chúng sẽ không bị giới hạn với cháu, và anh Komatsu. Nó có thể giáng một đòn chí tử, vào cuộc sống của Eri ở tuổi mười bảy. Đây mới chính là điều bác lo lắng nhất.
- Bác lo lắng là phải. - Tengo gật đầu thêm. - Bác nói hoàn toàn đúng.
Không gian xung quanh Giáo sư như đông đặc, đôi lông mày màu đen của ông nhíu lại:
- Vậy là cháu đang nói với bác, là cháu muốn là người viết lại Air Chrysalis, ngay cả khi nó có thể đặt Eri trong vòng nguy hiểm.
- Như cháu đã từng nói, đó là vì mong muốn của cháu đến từ một nơi, mà lý trí và cảm giác thông thường không thể giải thích được. Tất nhiên, cháu muốn bảo vệ Eri càng nhiều càng tốt, nhưng cháu không thể hứa rằng em nó sẽ không bao giờ bị tổn hại trong chuyện này. Nếu như cháu hứa, thì đó sẽ là một lời nói dối.
- Bác hiểu rồi. - Giáo sư nói. Sau đó, ông hắng giọng như muốn đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc thảo luận. – Ít nhất, cháu có vẻ là một con người trung thực.
- Cháu đang cố gắng để bác hiểu được cháu.
Giáo sư nhìn trân trân vào bàn tay đặt trên đầu gối của mình, như thể ông chưa bao giờ thấy chúng trước đây. Đầu tiên, ông nhìn vào lưng của bàn tay của mình, sau đó ông lật chúng lên, và nhìn vào lòng bàn tay. Cuối cùng, ông ngẩng mặt lên, và nói:
- Vậy, anh biên tập viên, Komatsu, anh ta nghĩ rằng kế hoạch của anh ta thực sự có hiệu quả?
- Cái nhìn của Komatsu luôn luôn xem xét cả hai mặt của tất cả mọi thứ. – Tengo đáp. - Một mặt tốt, và một mặt không – quá - xấu.
Giáo sư mỉm cười:
- Quả là một quan điểm khác thường nhất. Phải chăng Komatsu là một người lạc quan, hay là anh ta tự tin?
- Dạ không. – Tengo nói. – Anh ta chỉ hoài nghi.
Giáo sư lắc đầu nhẹ:
- Khi anh ta hoài nghi, thì anh ta có thể trở thành một người lạc quan, hoặc anh ta trở nên tự tin. Phải vậy không?
- Anh ta có thể có khuynh hướng trở nên như vậy.
- Có vẻ anh ta là một người đàn ông khó đối phó.
- Dạ đúng. Anh ta là một người đàn ông khá khó khăn để đối phó. – Tengo đồng ý. - Tuy nhiên, anh ta không phải là một kẻ lừa gạt.
Giáo sư thở ra một hơi dài, và chậm. Sau đó, ông quay sang Fuka-Eri.
- Cháu thấy nó thế nào, Eri? Cháu nghĩ gì về kế hoạch này?
Fuka-Eri nhìn sững vào một điểm nào đó trong không gian mất một lúc.Cuối cùng cô thốt lên:
- Dạ được.
- Ý cháu muốn nói, cháu sẽ để cho anh Kawana đây viết lại Air Chrysalis?
- Dạ. – Cô trả lời.
- Nó có thể gây ra cho cháu rất nhiều rắc rối.
Fuka-Eri không trả lời câu này. Cô nắm chặt cổ áo len ngay cổ, nhưng cử chỉ đó là một biểu hiện trực tiếp thay cho câu trả lời.
- Em nó đã đồng ý. - Giáo sư nói bằng một giọng nói như của người thua cuộc.
Tengo nhìn vào đôi bàn tay nhỏ của cô, chúng đã được cuộn lại thành nắm đấm.
- Dù vậy, vẫn còn một vấn đề khác. - Giáo sư nói với Tengo. - Cháu cùng với kế hoạch của anh Komatsu, nhằm để xuất bản Air Chrysalis, và sẽ giới thiệu Eri ra trước công chúng, với vai trò của một tiểu thuyết gia, nhưng em nó lại mắc chứng bệnh khó đọc. Cháu có biết điều đó không?
- Cháu vừa mới biết trên xe lửa, vào buổi sáng này.
- Em nó đã bị như vậy từ khi sinh ra. Ở trường, họ lại nghĩ rằng em nó bị một chứng bệnh chậm phát triển, nhưng em nó thực sự rất thông minh - thậm chí còn khá là thông thái. Tuy nhiên, chứng khó đọc của em nó không thể giúp cho kế hoạch của cháu được dễ dàng.
- Có bao nhiêu người biết về điều này?
- Chỉ những người thân cận với Eri mới biết được, có tất cả là ba người. - Giáo sư đáp. – Tất nhiên là bác, Azami con gái bác, và người thứ ba là cháu. Ngoài ra không có ai khác biết được.
- Ý bác muốn nói là giáo viên đã từng dạy em, cũng không biết?
- Không. Họ không biết. Nó chỉ là một trường học nhỏ ở nông thôn. Các giáo viên, thậm chí chắc còn chưa bao giờ nghe nói về chứng khó đọc. Và bên cạnh đó, em nó chỉ đi học được một thời gian ngắn.
- Như vậy, chúng ta phải giấu đi điều này.
Giáo sư nhìn Tengo một lúc, như thể ông đang đánh giá giá trị của khuôn mặt anh.
- Eri dường như rất tin tưởng cháu. – Sau đó, ông nói. - Bác không biết tại sao. Và bác …
Tengo chờ đợi ông tiếp tục.
- Và bác tin tưởng Eri. Vì vậy, nếu em nó cho phép cháu viết lại tiểu thuyết của nó, thì bác đành chấp thuận. Mặt khác, nếu cháu thực sự tiến hành công việc như kế hoạch định sẵn, thì có một vài điều cháu nên biết về Eri.
Giáo sư quét tay nhẹ trên đầu gối phải của mình nhiều lần, như thể ông cần tìm một mảnh giấy nhỏ, mà nó viết sẵn những chủ đề ông đang cần nói:
- Ví dụ như thời thơ ấu của em nó đã trải qua như thế nào, nơi mà em nó đã từng sống ở đâu, và làm thế nào mà bác đã trở thành người chịu trách nhiệm về em nó. Đó thực sự là cả một câu chuyện dài.
- Cháu sẵn sàng nghe bác nói. – Tengo đáp.
Đang ở cạnh anh trên ghế sofa, Fuka-Eri ngồi thẳng lên, vẫn giữ cổ áo len kẹp ngay cổ.
- Vậy bác sẽ kể cho cháu nghe. - Giáo sư nói. - Câu chuyện xảy ra vào những năm sáu mươi. Cha của Eri, và bác vốn là đôi bạn thân trong một thời gian dài. Bác lớn hơn mười tuổi, và cả hai đều giảng dạy trong cùng một khoa tại một trường đại học. Tính cách và thế giới quan của hai người rất khác nhau, nhưng vì một lý do nào đó, cả hai bác lại đã chơi rất thân với nhau. Cả hai đều kết hôn muộn, và đều có con gái ngay sau khi kết hôn. Cả hai cùng sống trong căn hộ xây dựng dành cho giảng viên, và gia đình của hai bác đã luôn luôn cùng sống với nhau rất vui vẻ. Một cách chuyên nghiệp, hai bác cũng đã làm rất tốt công việc giảng dạy của mình. Mọi người bắt đầu chú ý đến hai bác như là 'những ngôi sao mới của trường’, và cả hai bác thường xuyên xuất hiện trên các phương tiện truyền thông. Đó quả là một quãng thời gian rất thú vị cho cả hai.
- Nhưng vào cuối những năm sáu mươi, mọi thứ bắt đầu thay đổi một cách tồi tệ. Việc gia hạn lần thứ hai của Hiệp ước An ninh Mỹ-Nhật vào năm 1970, và nó đã dẫn đến phong trào phản đối của sinh viên. Họ phong toả các trường đại học, chiến đấu với cảnh sát chống bạo động, đã có những tranh chấp đẫm máu giữa hai bên, và kết quả là, nhiều người đã chết. Tất cả điều này quá sức chịu đựng của bác, và bác quyết định rời khỏi trường đại học. Bác chưa bao giờ nghĩ những chuyện như vậy, phù hợp cho một cuộc sống học tập, và một khi những cuộc biểu tình, và bạo loạn bắt đầu, bác đã trở nên buồn chán. Đã có sự thành lập lực lượng cánh tả: bác thực sự không quan tâm. Suy cho cùng, nó cũng chỉ là một cuộc đụng độ giữa các tổ chức, và bác chỉ đơn giản, là không tin tưởng dưới bất kỳ hình thức nào về các tổ chức, dù cho nó là lớn hay nhỏ. Vào lúc đó, cháu chắc là chưa đủ tuổi để được học trong những trường đại học.
- Dạ không. Tất cả các cuộc bạo động đã chết, vào lúc cháu bắt đầu vào Đại học.
- Cháu muốn nói là cuộc vui đã kết thúc.
- Dạ đúng.
Giáo sư giơ bàn tay của mình lên một lát rồi hạ xuống đầu gối trở lại:
- Vì vậy, bác đã bỏ trường đại học, và hai năm sau đó cha của Eri cũng phải rời đi. Vào thời điểm đó, ông là một người rất tin tưởng vào tư tưởng cách mạng của Mao Trạch Đông, và ủng hộ Cách mạng Văn hóa của Trung Quốc. Cả hai bác đều hầu như không biết gì trong những ngày này, về những sự khủng khiếp, và vô nhân đạo, mà cuộc Cách mạng Văn hóa đã có thể làm được. Nó thậm chí vào lúc đó, trở nên hợp thời với một số trí thức, đang gối đầu giường cuốn sách đỏ nhỏ của Mao. Cha của Eri đã theo nó đi xa như thế, và ông đã tổ chức một nhóm các học sinh, thành một loại Hồng vệ binh trong khuôn viên của trường, ông cũng tham gia cuộc đình công chống lại trường đại học. Một số sinh viên cùng tư tưởng của trường khác, cũng đến tham gia vào tổ chức của ông, và trong một lúc nào đó, dưới sự lãnh đạo của ông, phe của ông đã trở nên khá lớn mạnh. Sau đó, trong cơn bão của cảnh sát chống bạo động, tấn công vào trong khuôn viên trường. Ông đã bị bắn cùng với các sinh viên của mình, sau đó, ông bị bắt cùng với họ, bị khép tội, và kết án. Điều này dẫn đến việc sa thải ông ra khỏi trường đại học. Eri lúc đó vẫn còn là một cô gái nhỏ, và có lẽ không nhớ bất kỳ điều gì về chuyện này.
Fuka-Eri vẫn im lặng.
- Cha của Eri tên là Tamotsu Fukada. Sau khi rời trường đại học, ông đã cùng với mười sinh viên, số nòng cốt từ đơn vị Hồng vệ binh, vào Học viện Takashima. Hầu hết các sinh viên đã bị đuổi khỏi trường đại học. Tất cả họ, đều cần có một nơi nào đó để đi, và Học viện Takashima không phải là một sự lựa chọn tồi cho họ vào lúc đó. Các phương tiện truyền thông, đã rất chú ý đến những hoạt động của họ vào thời điểm đó. Cháu có biết gì về chuyện này?
Tengo lắc đầu.
- Dạ không.
- Gia đình Fukada đã cùng đi với ông ta - có nghĩa là vợ của ông, và Eri. Tất cả họ cùng vào Học viện Takashima. Cháu có biết Học viện Takashima không?
- Nói chung. – Tengo đáp. - Nó tổ chức giống như một công xã. Mọi người sống một lối sống hoàn toàn cộng đồng, và hỗ trợ bản thân bằng cách canh tác. Kể cả chăn nuôi bò sữa, trên phạm vi cả nước. Họ không sở hữu tài sản cá nhân. và tất cả mọi thứ là của chung.
- Đúng vậy. Fukada được xem như đang tìm kiếm một điều không tưởng trong hệ thống Takashima. - Giáo sư cau mày nói. –Những điều không tưởng không bao giờ tồn tại, tất nhiên, là cho dù bất cứ nơi nào trong bất kỳ thế giới nào. Nó cũng giống như thuật giả kim, hoặc chuyển động vĩnh viễn không tốn năng lượng. Những gì mà học viện Takashima đã làm, nếu cháu hỏi bác, thì đó chính là tạo ra những con rô bốt không suy nghĩ. Họ tẩy não của con người, làm cho họ quên đi những lợi ích bản thân, để chỉ vì lợi ích của cộng đồng. Thế giới của họ cũng giống như thế giới, mà tác giả George Orwell đã mô tả trong cuốn tiểu thuyết của ông. Bác chắc chắn rằng, cháu cũng biết có rất nhiều người đang tìm kiếm chính xác về một bộ não không suy nghĩ. Nó làm cho cuộc sống của ta dễ dàng hơn rất nhiều. Không cần phải suy nghĩ về những điều khó khăn, chỉ cần im lặng, và làm theo những gì cấp trên của ta bắt ta phải làm. Ta cũng không bao giờ phải chết đói. Đối với những người đang tìm kiếm một môi trường như vậy, Học viện Takashima quả thật là một nơi lý tưởng.
- Nhưng Fukada không phải là loại người như thế. Ông thích bắt mình phải suy nghĩ về mọi thứ, để có thể xem xét mọi khía cạnh của một vấn đề. Điều đó giải thích là làm thế nào, ông đã sống được trong những năm qua: một giáo viên. Ông không bao giờ có thể hài lòng, với một nơi như Takashima. Ông biết điều này ngay từ đầu. Bị đuổi ra khỏi trường đại học, cùng lúc với những sinh viên mọt sách thông minh, ông đã không có bất cứ nơi nào khác để đi, do đó, ông đã chọn Takashima như là một nơi trú ẩn tạm thời. Những gì ông đang tìm kiếm, không phải là sự không tưởng, mà là sự hiểu biết về hệ thống Takashima. Điều đầu tiên họ phải làm là tìm hiểu kỹ thuật canh tác. Fukada và sinh viên của ông đều là dân thành phố. Họ không biết gì về nông nghiệp, cũng như bác chẳng biết về khoa học tên lửa. Và đã có rất nhiều điều cho họ tìm hiểu: hệ thống phân phối, các khả năng, và giới hạn của một nền kinh tế tự cung tự cấp, các quy tắc thực tế cho cuộc sống công xã, và nhiều thứ khác. Họ sống trong Takashima được hai năm, học hỏi tất cả mọi thứ họ có thể. Sau đó, Fukada cùng với nhóm của ông, rời Takashima, và đi ra ngoài.
- Takashima rất thú vị. - Fuka-Eri thốt lên.
Giáo sư mỉm cười:
- Bác chắc chắn Takashima là một nơi thú vị cho trẻ em. Nhưng khi ta lớn lên, và đạt đến một độ tuổi nhất định, phát triển cái tôi của mình, thì cuộc sống trong Takashima cho những người trẻ, sẽ đến gần với một địa ngục sống. Các nhà lãnh đạo sử dụng quyền lực của mình, để đè bẹp những mong muốn tự nhiên nhất của con người, khi những người trẻ đó, bắt đầu suy nghĩ lợi ích cho chính bản thân mình. Nó cũng giống như việc bó chân cho bộ não.
- Bó chân. - Fuka-Eri hỏi.
- Ngày xưa ở Trung Quốc, người ta thường nhồi nhét chân của bé gái vào một đôi giày nhỏ, để giữ cho chúng không phát triển. - Tengo giải thích với cô.
Cô đang tự mình hình dung nó, không nói gì.
Giáo sư tiếp tục:
- Hạt nhân của nhóm Fukada tách ra, tất nhiên, là những cựu sinh viên, những người đã từng được ông chọn, để thành lập đội Hồng vệ binh, ngoài ra còn có nhiều người khác đến tham gia, vì vậy số lượng của nhóm nhanh chóng được được tăng vọt, vượt quá sự mong đợi của bất kỳ ai. Một số lớn người đã gia nhập Takashima vì lý tưởng của họ, nhưng đã không hài lòng, và thất vọng với những gì họ nhận thấy ở đó: Một số người tham gia, vì hy vọng cho một cuộc sống cộng đồng theo phong cách hippie, một số người là tàn dư của phe cánh tả, từ các cuộc nổi dậy của các trường đại học, một số người không hài lòng với cuộc sống bình thường, và tìm kiếm một thế giới tâm linh, một số người độc thân, một số người đã có gia đình như Fukada - một phi hành đoàn tạp nham, và Fukada là lãnh đạo của tất cả bọn họ. Ông được trời phú cho khả năng lãnh đạo, giống như Moses dẫn dắt người Do Thái. Ông thông minh, hùng biện, và độc đoán. Ông là một con người có sức lôi cuốn mạnh mẽ - một người to lớn, giống như cháu. Mọi người đặt ông ở trung tâm của nhóm, như là một vấn đề chính của khóa học, và họ tuân theo những phán quyết của ông.
Giáo sư khoanh tay lại. Fuka-Eri nhìn sững cánh tay của giáo sư, và sau đó lại nhìn Tengo, nhưng cô vẫn không nói gì.
- Fukada, và bác hoàn toàn khác nhau, cả về ngoại hình, lẫn tính cách. Nhưng ngay cả là khi khác biệt như thế giữa hai bác, thì hai bác vẫn là những người bạn rất thân. Hai bác công nhận khả năng của nhau, và tin cậy lẫn nhau. Bác có thể tự hào nói rằng, tình bạn của hai bác trong đời người chỉ có được một lần.
Dưới sự lãnh đạo của Tamotsu Fukada, nhóm đã tìm thấy một ngôi làng ít dân, phù hợp với mục đích của họ, trong vùng núi Quận Yamanashi. Ngôi làng đang trên bờ vực của cái chết. Một số ít người già còn lại, không quản lý được các loại cây trồng cho bản thân, và không thể mang nông trại đi cùng với họ sang bên kia thế giới. Nhóm của ông, đã mua lại các cánh đồng, và sau đó là nhà ở bỏ hoang, bao gồm cả nhà kính. Văn phòng của làng sẽ cung cấp một trợ cấp, với điều kiện nhóm tiếp tục canh tác đất nông nghiệp có sẵn, và họ sẽ được ưu đãi thuế cho ít nhất một vài năm đầu tiên. Ngoài ra, Fukada còn có một nguồn quỹ của riêng cá nhân mình, nhưng Giáo sư Ebisuno đã không biết tiền đó đến từ đâu.
- Fukada từ chối nói về nó, và ông không bao giờ tiết lộ bí mật với bất kỳ ai, nhưng ở một nơi nào đó, ông đã cất giữ một số lượng đáng kể tiền mặt cần thiết, để có thể thực hiện việc thành lập công xã. Họ đã sử dụng tiền để mua máy móc nông nghiệp, vật liệu xây dựng, và thiết lập một quỹ dự phòng. Họ đã tự sửa chữa lại những ngôi nhà cũ, và xây dựng các cơ sở, cho phép ba mươi thành viên có thể sống. Điều này diễn ra vào năm 1974. Họ gọi công xã mới của họ là "Sakigake,” hay " Tiền thân. "
Sakigake? Cái tên nghe có vẻ quen thuộc với Tengo, nhưng anh không thể nhớ, nơi mà anh có thể đã nghe nó trước đây. Khi nỗ lực để nhớ kết thúc trong thất bại, anh thường cảm thấy chán nản bất thường.
Giáo sư tiếp tục:
- Fukada đã từ chức để toàn tâm lo cho hoạt động của công xã, vì nó sẽ rất khó khăn cho những năm đầu tiên, cho đến khi nào họ đã trở thành quen thuộc với khu vực, nhưng mọi thứ đã thông suốt hơn là ông đã dự kiến. Họ đã may mắn có được thời tiết tốt, và sự giúp đỡ tích cực của láng giềng. Mọi người đã sẵn sàng để cho Fukada lãnh đạo, với mong muốn rất chân thành, và họ cũng rất ngưỡng mộ những thành viên trẻ của ông làm việc rất chăm chỉ, toát đầy mồ hôi trên những cánh đồng. Những người dân địa phương đã cung cấp những kinh nghiệm hữu ích. Bằng cách này, các thành viên có thể tiếp thu kiến thức thực tế về kỹ thuật canh tác, và tìm hiểu làm thế nào để sống được trên mảnh đất họ đang ớ.
- Trong khi đó, họ vẫn tiếp tục thực hành những gì họ đã học được trong Takashima, và Sakigake cũng đã có một số sáng kiến riêng của họ. Ví dụ, họ chuyển sang canh tác hữu cơ, tránh thuốc trừ sâu hóa học, và trồng rau của họ hoàn toàn với phân bón hữu cơ. Họ cũng bắt đầu một dịch vụ đặt hàng thực phẩm qua thư, và đưa nó trực tiếp đến thành thị giàu có. Bằng cách đó, họ có thể tính thêm phí cho mỗi đơn vị. Họ là những người nông dân đầu tiên, của cái gọi là nông dân sinh thái, và họ biết làm thế nào để tận dụng tối đa lợi thế của nó. Sau khi được đánh giá cao trong thành phố, các thành viên của công xã biết rằng, người dân thành phố sẽ rất vui mừng, khi trả giá cao cho rau tươi, ngon, mà không có các chất ô nhiễm. Họ đã tạo ra hệ thống phân phối cho riêng mình, bằng cách ký hợp đồng với các công ty cung cấp, làm đơn giản hóa các tuyến đường đi của họ. Họ cũng là những người đầu tiên thực hiện một thực tế rằng, họ đã bán các loại rau tươi, cùng với đất vẫn còn bám vào chúng.
Vị giáo sư tiếp tục nói:
- Bác đã tới thăm Fukada, ở trang trại của ông nhiều lần. Ông dường như được tiếp thêm sinh lực, bởi môi trường mới xung quanh, và cơ hội để thử nghiệm khả năng mới ở đó. Đây là quãng thời gian yên bình, đầy hy vọng của cuộc đời ông, và gia đình ông cũng đã thích nghi tốt, với cách sống mới này.
- Ngày càng có nhiều người biết về trang trại Sakigake, và họ đến với ý muốn trở thành thành viên. Trang trại đã dần dần trở nên được biết đến rộng rãi hơn, bằng việc kinh doanh đặt hàng qua thư, và các phương tiện thông tin đại chúng đã đưa tin về nó, như là một ví dụ về một công xã thành công. Đã có nhiều hơn một vài người, muốn thoát khỏi ám ảnh điên loạn về tiền bạc của thế giới thực, cảm thấy không yên ổn trong một thế giới ngập tràn thông tin, và họ muốn làm ăn, sinh sống bằng cách đổ mồ hôi trán. Thế là Sakigake, quả là một nơi lý tưởng cho những người như họ. Khi những người này đến, Sakigake sẽ phỏng vấn, và điều tra họ, cho họ những lời hứa hẹn sẽ nhận họ làm thành viên. Dù sao thì trang trại không thể nhận tất cả mọi người đã đến. Họ phải giữ gìn chất lượng cao, và đạo đức của các thành viên. Họ tìm kiếm những người có kỹ năng canh tác tốt, và có một cơ thể thật khỏe mạnh, để có thể chịu đựng được lao động chân tay ở cường độ cao. Họ cũng hoan nghênh phụ nữ, với hy vọng giữ một tỷ lệ nam-nữ 50-50. Tăng số lượng, sẽ có nghĩa là phải mở rộng quy mô của trang trại, nhưng có rất nhiều cánh đồng phụ, và nhà ở gần đó, vì vậy sẽ không có vấn đề gì lớn. Những thanh niên trẻ chưa vợ, sẽ đóng vai trò chủ lực tham gia làm thành viên của trang trại lúc đầu, nhưng rồi số lượng người tham gia có gia đình cũng dần dần tăng lên. Trong số những người mới đến, có cả các chuyên gia được giáo dục tốt - bác sĩ, kỹ sư, giáo viên, kế toán, và vân vân. Những người như vậy, đã được cộng đồng chân thành hoan nghênh, khi những kỹ năng chuyên nghiệp của họ, có thể được đưa vào sử dụng tốt.
Tengo hỏi:
- Công xã kiểu Takashima có phải giống như kiểu hệ thống cộng sản nguyên thủy?
Giáo sư lắc đầu:
- Không, Fukada tránh quyền sở hữu chung tài sản công xã. Về chính trị, ông là một người cực đoan, nhưng ông cũng là một người thực tế với cái đầu tỉnh táo. Ông muốn hướng tới một công xã linh hoạt hơn, không phải là một xã hội giống như một đàn kiến. Cách thức của ông tiến hành, là phân chia toàn bộ số người thành một số đơn vị, mỗi đơn vị phải tổ chức đời sống công xã linh hoạt cho chính nó. Họ được công nhận quyền sở hữu tư nhân, và được phân bổ thêm cho một số phạm vi. Nếu ta không hài lòng với đơn vị của mình, ta có thể chuyển sang một đơn vị khác, và ta được tự do rời khỏi Sakigake bất cứ lúc nào ta muốn. Mọi người có đầy đủ quyền liên lạc ra thế giới bên ngoài, và hầu như không có ép buộc ý thức hệ, hoặc tẩy não. Ông đã học được điều này, khi họ ở Takashima, nếu một hệ thống mở, tự nhiên không ép buộc, sẽ dẫn đến tăng năng suất.
Dưới sự lãnh đạo của Fukada, hoạt động của trang trại Sakigake vẫn đi đúng hướng, nhưng cuối cùng công xã được chia thành hai phe rõ rệt. Một sự chia rẽ như vậy là không thể tránh khỏi, dù họ vẫn giữ hệ thống đơn vị linh hoạt của Fukada. Một bên là một nhóm chiến binh, nhóm cách mạng dựa trên các đơn vị Hồng vệ binh mà Fukada đã tổ chức. Đối với họ, công xã nông nghiệp chỉ là cơ sở, để chuẩn bị cho cách mạng. Nông nghiệp chỉ là một vỏ bọc cho họ, cho đến khi thời điểm chín mùi, họ sẽ cầm lấy vũ khí. Đó là lập trường không thể thay đổi của họ.
Ở phía bên kia, là phe ôn hòa. Chiếm đa số, họ chia sẻ sự phản đối của phe chiến binh về chủ nghĩa tư bản, nhưng họ giữ một khoảng cách đối với chính trị, chỉ thích việc tạo ra một cuộc sống cộng đồng, tự cung tự cấp trong tự nhiên. Khi có những vấn đề về nông nghiệp, mỗi phe đều chia sẻ về các mục tiêu tương tự, nhưng bất cứ khi nào cần thiết, để đưa ra quyết định về chính sách hoạt động của công xã, thì ý kiến của họ chia hai. Thường thì họ không tìm thấy tiéng nói chung, và điều này sẽ làm phát sinh một số những cuộc cãi vả. Sự tan rã của công xã, chỉ còn là một vấn đề thời gian.
Duy trì một lập trường trung lập, ngày càng trở nên khó khăn. Cuối cùng, Fukada cảm thấy mình bị mắc kẹt giữa hai phe phái. Ông đã nhận thức được rằng ở những năm 1970, Nhật Bản không phải là nơi, hoặc thời điểm, để có thể tiến hành một cuộc cách mạng. Những gì ông đã luôn luôn có trong đầu, chỉ là tiềm năng của một cuộc cách mạng – một cuộc cách mạng cũng giống như là một phép ẩn dụ, hay giả thuyết. Ông tin rằng khi thiết lập lại chế độ chính trị xã hội, sự lật đổ sẽ là điều không thể thiếu, để cho một xã hội lành mạnh hơn. Và các học trò của ông, muốn có một cuộc cách mạng triệt để phải đổ máu. Tất nhiên, Fukada mang một số trách nhiệm cho chuyện này. Ông là một trong những người, đã trồng những huyền thoại vô căn cứ như vậy, trong đầu họ. Tuy nhiên, ông đã không bao giờ nói với họ rằng, "cuộc cách mạng" đã có dấu ngoặc kép xung quanh nó.
Và vì vậy, hai phe công xã Sakigake đã chia tay. Phe ôn hòa tiếp tục vẫn giữ tên gọi chính nó là "Sakigake", và vẫn ở lại ngôi làng ban đầu, trong khi phe chiến binh di chuyển đến một ngôi làng bị bỏ hoang khác, một vài dặm cách đó, và biến nó thành cơ sở phong trào cách mạng của họ. Gia đình Fukada, vẫn ở Sakigake cùng với tất cả các gia đình khác. Việc phân chia diễn ra trong thân thiện. Rõ ràng là Fukada đã có một nguồn kinh phí, từ một nguồn tài trợ không xác định, để cấp cho công xã mới. Sau khi tách ra, hai trang trại vẫn duy trì một mối quan hệ hợp tác xã. Họ mua bán vật liệu cần thiết, và vì lý do kinh tế, sử dụng chung các tuyến đường phân phối, cho các sản phẩm của họ. Hai cộng đồng nhỏ đã giúp đỡ lẫn nhau, để họ có thể được tồn tại.
Tuy nhiên, có một điều đã thay đổi, ngay sau khi tách ra một thời gian ngắn: sự chấm dứt các chuyến thăm giữa các thành viên Sakigake, và công xã mới. Chỉ có một mình Fukada, tiếp tục gặp gỡ với các cựu sinh viên cực đoan của ông. Fukada cảm thấy một ý thức mạnh mẽ, phải chịu trách nhiệm về họ, như là một người đã tổ chức, và dẫn dắt họ vào vùng núi Yamanashi. Ngoài ra, công xã mới cũng cần tiền từ quỹ bí mật, mà Fukada đang kiểm soát.
- Fukada có lẽ bị giằng xé dữ dội vào lúc đó. - Giáo sư nói tiếp. - Ông không còn tin tưởng với cả trái tim của mình, về khả năng hay lãng mạn cách mạng. Hoặc có thể ông đã hoàn toàn không thừa nhận nó. Như vậy có nghĩa là ông, không thừa nhận hướng đi của mình, và thú nhận những sai lầm của mình cho tất cả mọi người. Đây là điều ông không thể làm. Ông quá tự hào, và ông lo lắng về những điều tệ hại, mà chắc chắn sẽ phát sinh giữa các sinh viên của mình, nếu như ông nói ra. Ở giai đoạn đó, ông vẫn còn nắm giữ một mức độ nhất định việc kiểm soát họ.
- Và cuộc sống của ông, đã diễn ra trong việc chạy qua, chạy lại giữa Sakigake, và công xã mới. Ông mang theo mình nhiệm vụ, vừa là lãnh đạo của cái này, vừa là cố vấn cho cái kia. Một người không còn thực sự tin vào cách mạng, lại phải tiếp tục rao giảng lý thuyết cách mạng. Các thành viên của công xã mới, vẫn tiếp tục với công việc đồng áng của họ, trong khi họ phải tuân theo một kỷ luật khắc nghiệt huấn luyện quân sự, và học tập tư tưởng. Và về mặt chính trị, trái ngược với Fukada, họ đã trở nên ngày càng cực đoan hơn. Họ đã thông qua một chính sách bí mật, và họ không còn cho phép người ngoài ra vào. Biết được các cuộc kêu gọi của họ, cho một cuộc cách mạng vũ trang lật đổ chính quyền, cảnh sát đã xác định họ là một nhóm cần phải được theo dõi, và đặt họ dưới sự giám sát, mặc dù không phải ở một mức độ cảnh báo cao.
Giáo sư nhìn thật lâu vào đầu gối của mình một lần nữa, và sau đó nhìn lên.
- Sakigake chia làm hai vào năm 1976. - Ông tiếp tục. - Eri thoát khỏi Sakigake, và đến sống với bác vào năm sau đó. Khoảng thời gian đó, công xã mới bắt đầu gọi nó là 'Akebono.'
Tengo nhìn lên và nheo mắt:
- Chờ một phút. - Anh nói. Akebono. Tôi hoàn toàn chắc chắn là tôi đã nghe cái tên đó,. Tuy nhiên, bộ nhớ anh mơ hồ và không mạch lạc. Anh chỉ nắm lấy được một vài mảnh thực tế chi tiết rời rạc. - Akebono này... có phải họ đã gây ra một sự cố lớn trước đây?
- Chính xác. - Giáo sư Ebisuno đáp, nhìn vào Tengo chăm chú hơn từ trước đến bây giờ. - Tất nhiên, bác đang nói về Akebono nổi tiếng, những người đã tổ chức cuộc đấu súng với cảnh sát, ở vùng núi gần hồ Motosu.
Tengo nghĩ, một trận đấu súng. Tôi nhớ là đã có nghe về nó. Đó là một tin tức chấn động. Dù vậy, tôi không thể nhớ các chi tiết, vì một lý do nào đó, và tôi hình như nhầm lẫn về chuỗi các sự kiện. Khi anh càng căng thẳng để cố nhớ lại nhiều hơn nữa, anh chợt cảm giác như toàn bộ cơ thể của mình đang bị xoắn lại, nửa phần trên, và nửa phía dưới đã được xoắn theo chiều ngược nhau. Anh thấy một cơn đau nhói sâu trong đầu của mình, và không khí xung quanh anh đột nhiên loãng ra. Âm thanh nghe nghèn nghẹt, mặc dù anh không ở dưới nước. Hay là anh lại bị ‘nó’ tấn công.
- Cháu không sao chứ? - Giáo sư hỏi với mối quan tâm rõ ràng. Giọng nói của ông dường như đến từ một khoảng cách rất xa.
Tengo lắc đầu, và bằng một giọng căng thẳng nói:
- Cháu không sao. Nó sẽ hết ngay thôi.
(Hết Chương 10)
CHƯƠNG 11
AOMAME
CƠ THỂ CON NGƯỜI LÀ MỘT ĐỀN THỜ.
Số người có thể ném tốt được những quả bóng, dưới sự hướng dẫn của Aomame, phải có được một vài kỹ năng thực sự. Nàng đã nghiên cứu mô hình ném, bằng sự siêng năng tuyệt vời, và không bao giờ bỏ qua việc thực hành hàng ngày của mình. Trong ném bóng, điều quan trọng nhất là không bao giờ phải ngần ngại. Một cú ném, có thể là một cú sét, tấn công vào điểm yếu nhất của kẻ thù một cách không thương tiếc, và tàn bạo nhất - cũng giống như khi Hitler dễ dàng đè bẹp nước Pháp, bằng cách chọc thủng tại các điểm yếu nhất, của tuyến phòng thủ Maginot. Điều quan trọng là không được do dự. Một thời khắc của việc không quyết tâm, có thể dẫn đến những chuyện tồi tệ nhất.
Nói chung, không có cách nào khác để cho một người phụ nữ, có thể hạ gục một người đàn ông to khỏe hơn, khi mà một đối-một. Đây là niềm tin không thể lay chuyển của Aomame. Phần cơ thể được xem là điểm yếu nhất - hay đúng hơn, phần treo lủng lẳng, từ một sinh vật được biết đến như là một người đàn ông, và hầu như nó không được bảo vệ một cách hiệu quả. Nếu không tận dụng được lợi thế của thực tế đó, thì chẳng còn gì để nói.
Là một phụ nữ, Aomame không biết được cụ thể là sẽ đau đến mức nào, khi nó phải chịu đựng một cú ném thật mạnh bằng các quả bóng, mà chỉ đánh giá được từ các phản ứng, và biểu hiện trên khuôn mặt của người đàn ông mà nàng đã ném trúng, qua đó nàng có thể tưởng tượng được nỗi đau của anh ta. Không người đàn ông nào, dù mạnh nhất hay gan góc nhất, có thể chịu được đau đớn, và mất mát lớn của lòng tự trọng đi kèm với điều đó.
- Nó làm tổn thương đến anh ta nhiều đến nỗi, anh ta nghĩ rằng, ngày tận thế sẽ đến ngay lập tức. Anh không biết gọi nỗi đau đó là gì. Nó là một cái đau rất khác với cái đau thông thường. - Một người đàn ông, sau khi suy xét cẩn thận, đã giải thích nó cho nàng, khi Aomame hỏi anh ta.
Aomame nghĩ về sự so sánh của anh ta. Ngày tận thế?
- Nói theo cách ngược lại, khi anh nói ngày tận thế đến ngay lập tức, thì cảm giác giống như một cú đá thật mạnh vào các quả bóng? – Nàng hỏi.
- Anh chưa bao giờ biết ngày tận thế là như thế nào, anh không thể chắc chắn lắm, nhưng cũng có thể là đúng như vậy. – Anh ta nói, nhìn vô thức một điểm nào đó trong không gian. – Cảm giác của sự bất lực. Bóng tối, ngột ngạt, như bị cả thế giới này bỏ rơi.
Có lần, Aomame xem bộ phim “Trên bãi biển,” được chiếu trên truyền hình vào lúc đêm khuya. Đó là một bộ phim Mỹ thực hiện năm 1960. Cuộc chiến tranh tổng lực đã nổ ra giữa Mỹ và Liên Xô, một số lượng vô tận tên lửa được bắn xuyên lục địa, giống như ở trong trường học dạy cá bay. Trái đất bị hủy diệt, và nhân loại đã bị xóa sổ gần hết trên thế giới. Nhờ những ngọn gió thần kỳ hoặc một cái gì đó chẳng ai biết, đống tro tàn của cái chết vẫn không lan tới Úc ở Nam bán cầu, mặc dù cái chết sẽ đến chỉ là vấn đề thời gian. Sự tuyệt chủng của loài người, chỉ đơn giản là không thể nào tránh khỏi. Những người còn sống sót không thể làm gì hơn, và chờ đợi giây phút cuối cùng sẽ đến. Họ đã chọn những cách khác nhau, để sống những ngày cuối cùng của họ. Đó là cốt truyện của phim. Một bộ phim đen tối, không mở ra cánh cửa hy vọng. (Dù vậy, khi xem nó, Aomame khẳng định một niềm tin của mình rằng, tất cả mọi người, sâu trong trái tim của họ, cũng đang chờ đợi ngày tận thế, nó sẽ tới trong tương lai.)
Trong bất kỳ trường hợp nào, khi xem phim vào giữa đêm khuya, cô độc một mình, Aomame đều cảm thấy mình thoải mái, giống như cảm giác nàng có được, khi vừa ném đi những quả bóng. Sau khi tốt nghiệp từ một trường Đại học giáo dục thể chất, Aomame đã trải qua bốn năm làm việc, cho một công ty sản xuất nước uống thể thao, và thực phẩm sức khỏe. Nàng là một thành viên chủ chốt của đội nữ Softball của công ty (cả công, lẫn thủ). Đội đã chơi khá tốt, và nhiều lần vào đến tứ kết playoffs của giải vô địch quốc gia. Một tháng sau khi Tamaki Otsuka chết, Aomame đã rời khỏi công ty, và đánh dấu việc kết thúc sự nghiệp chơi Softball của mình. Sự đam mê của nàng với môn thể thao này đã biến mất, và nàng cảm thấy, cần phải bắt đầu lại cuộc sống. Với sự giúp đỡ của một người bạn cũ từ hồi còn học ở trường Đại học, nàng tìm được một công việc với tư cách là giảng viên, tại một câu lạc bộ thể thao nằm trong Quận Hiroo ởTokyo.
Aomame chủ yếu phụ trách các lớp học đào tạo thể hình, và võ thuật. Nó là một câu lạc bộ nổi tiếng, độc quyền với phí thành viên, và lệ phí cao, có nhiều thành viên là những người nổi tiếng. Aomame thành lập một số lớp học, trong khả năng tốt nhất của mình, đó là kỹ thuật tự vệ của phụ nữ. Nàng tạo ra một hình nộm đàn ông bằng vải lớn, khâu một chiếc găng tay đen ở vùng bẹn để giả làm tinh hoàn, và huấn luyện kỹ lưỡng cho các thành viên nữ của câu lạc bộ, làm thế nào để ném trúng vị trí đó. Theo chủ nghĩa hiện thực, nàng nhồi hai quả bóng nhỏ vào cái găng tay. Những người phụ nữ đã ném trúng mục tiêu này một cách nhanh chóng, không thương tiếc, và liên tục. Nhiều người trong số họ, đã có được niềm vui đặc biệt trong việc đào tạo này, và kỹ năng của họ được cải thiện rõ rệt, nhưng các thành viên khác (chủ yếu là nam giới, tất nhiên), đã xem những cảnh tượng trên với sự nhăn nhó, và than phiền với quản lý của câu lạc bộ rằng, nàng đã đi quá trớn. Kết quả là, Aomame đã được gọi lên, và bị nhắc nhở cần có sự kiểm soát trong việc thực hành ném bóng.
- Thực tế mà nói. - Nàng phản đối. – Phụ nữ thật không thể tự bảo vệ mình chống lại người đàn ông, mà không cần một cú ném ngay tinh hoàn. Hầu hết đàn ông đều to lớn, và mạnh hơn so với phụ nữ. Một cuộc tấn công nhanh chóng vào tinh hoàn, là cơ hội duy nhất của một người phụ nữ. Mao Trạch Đông đã từng nói là tốt nhất, ta hãy tìm thấy điểm yếu của đối thủ, và động thủ trước, cùng với một sự tấn công tập trung. Đó là cơ hội duy nhất mà một lực lượng du kích đã đánh bại một đội quân chính quy.
Người quản lý không thoải mái với lý luận của nàng:
- Em cần phải biết rõ rằng, chúng ta là một trong vài câu lạc bộ thực sự độc quyền, ở khu vực đô thị. – Anh ta cau mày nói. - Hầu hết các thành viên của chúng ta là những người nổi tiếng. Chúng ta phải bảo vệ nhân phẩm của chúng ta, trong tất cả các khía cạnh của hoạt động. Hình ảnh của chúng ta là rất quan trọng. Anh không quan tâm là lý do gì gì đó, cho những cuộc tập trận của em, thật không hay một chút nào, khi để một nhóm phụ nữ ở độ tuổi kết hôn, ném bóng vào háng một người nộm, và kèm theo tiếng thét bật ra từ trong đầu của họ. Chúng ta đã có ít nhất một trường hợp, một thành viên tiềm năng chuyên đi lưu diễn ở các câu lạc bộ, đã hủy buổi diễn của mình, sau khi ông ta tình cờ nhìn thấy những hành động trong lớp học của em. Anh không quan tâm những gì Mao Trạch Đông - Thành Cát Tư Hãn nói, vấn đề là: một cảnh tượng như thế, sẽ làm cho hầu hết đàn ông đều cảm thấy lo lắng, khó chịu, và buồn bực.
Aomame chẳng cảm thấy chút hối tiếc nào, khi nàng là nguyên nhân gây ra cho các thành viên nam giới của câu lạc bộ, phải cảm thấy lo lắng, khó chịu và buồn bực. Cảm giác khó chịu như vậy, không có gì so với nỗi đau của một nạn nhân bị cưỡng hiếp. Nàng không thể bất chấp lệnh cấp trên của nàng, và do đó, các lớp học tự vệ của nàng, đã phải giảm đi mức độ gây hấn. Nàng đã bỏ đi việc sử dụng các hình nộm. Kết quả là, việc huấn luyện của nàng trở nên nhẹ nhàng và theo khuôn khổ. Bản thân Aomame hầu như không được hài lòng bởi điều này, và một số thành viên nữ cũng phản đối, nhưng là một nhân viên, nàng không thể làm gì hơn.
Theo ý kiến chủ quan của Aomame, nếu nàng không thể tạo một cú ném bóng hiệu quả, khi bị một sự tấn công mạnh mẽ từ một người đàn ông, sẽ có rất ít những thứ khác để thử. Trong thực tế, hầu như không thể thực hiện được kỹ thuật cấp cao, như là túm lấy cánh tay của đối thủ, và vặn xoắn nó ra sau lưng. Điều này chỉ xảy ra trong phim. Thay vì cố gắng để thử như một kỳ công, một người phụ nữ sẽ phải làm tốt hơn, là bỏ chạy, mà không cần có cố gắng nào để chiến đấu.
Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Aomame cũng làm chủ, ít nhất là mười kỹ thuật riêng biệt, cho việc ném bóng vào người đàn ông. Nàng thậm chí từng thực hành, với một số thanh niên nàng quen biết từ lúc còn học Đại học, bằng cách để cho họ đặt một cái cốc bảo vệ ngay bộ phận đó. "Cú ném của em đã thực sự làm anh bị tổn thương, cho dù nó đã được bảo vệ”, một trong số họ đã hét lên trong đau đớn. "Thôi, xin đừng ném nữa!" Nếu nhu cầu phát sinh, nàng tự biết, nàng sẽ không bao giờ ngần ngại áp dụng các kỹ thuật tinh vi của mình, trong chiến đấu thực tế. Nếu có gã điên nào đó, dám tấn công tôi, tôi sẽ cho hắn biết ngày tận thế - đã đến với hắn. Tôi sẽ cho hắn thấy thế giới bên kia, hiện ra trong mắt của hắn. Tôi sẽ gửi hắn thẳng đến Nam bán cầu, và để đống tro tàn của cái chết vùi lấp hắn, cùng với những con chuột túi và những con kangaru chân to.
Khi nàng đang suy nghĩ về thế giới bên kia, Aomame đang ngồi tại quầy bar uống từng ngụm nhỏ của ly rượu Tom Collins. Nàng liếc nhìn đồng hồ đeo tay của mình liên tục, giả vờ rằng nàng đã ở đây nhằm để gặp một ai đó, nhưng trên thực tế, chẳng có ai để nàng gặp. Nàng chỉ đơn giản là giữ một mắt, để tìm cho ra một người đàn ông phù hợp, giữa các khách hàng quen thuộc của quán bar. Đồng hồ cho nàng biết đã tám giờ ba mươi. Nàng mặc một chiếc áo màu xanh nhạt, khoác bên ngoài một chiếc áo màu nâu sẫm hiệu Calvin Klein, và bận một chiếc váy ngắn màu xanh hải quân. Vũ khí tự chế của nàng, vẫn không mang theo hôm nay. Nó đã được nghỉ ngơi trong hòa bình, được bọc trong một chiếc khăn, để trong một ngăn kéo tủ ở nhà.
Đây là một quán bar độc thân nổi tiếng, trong khu giải trí Roppongi. Đàn ông độc thân đến đây, ve vãn phụ nữ độc thân, hoặc ngược lại. Rất nhiều người trong số họ là người nước ngoài. Bar này nhìn thật giống như một nơi, mà Hemingway đã từng câu cá ở Bahamas. Một con cá kiếm nhồi bông treo trên tường, và lưới đánh cá đang treo lơ lửng trên trần nhà. Có rất nhiều bức ảnh của những người, đang đứng cạnh những con cá khổng lồ, mà họ đã bắt, và có một bức chân dung của Hemingway. Một Papa Hemingway thật hạnh phúc. Những người đến đây dường như chẳng quan tâm đến tác giả, người sau đó đã bị nghiện rượu, và cuối cùng tự sát bằng súng săn.
Một số đàn ông đã ve vãn Aomame tối hôm đó, nhưng không ai trong số đó làm nàng thích. Một cặp sinh viên Đại học như đôi đũa lệch, mời nàng tham gia cùng họ, nhưng nàng không có hứng thú. Một nhân viên văn phòng khoảng ba mươi tuổi, với đôi mắt đáng sợ mời nàng, thì nàng từ chối khéo bằng cách nói đang ở đây để gặp một ai đó, làm cho anh ta mất hứng. Nàng chỉ đơn giản là không thích những người đàn ông còn trẻ. Họ rất nhiệt tình và tự tin, nhưng họ chẳng có chuyện gì để nói, và điều họ nói làm nàng cảm thấy nhàm chán. Trên giường, thì họ như một con thú hoang, và không có suy nghĩ về việc thụ hưởng thực sự của tình dục. Nàng thích những người đàn ông trung niên, có chút mệt mỏi vì dấu ấn của tuổi tác, tốt nhất phải là trong giai đoạn đầu của chứng hói đầu. Họ sạch sẽ, và không có bất kỳ dấu hiệu nào của sự thô tục. Và những người đó, còn phải có hình dạng của một cái đầu đẹp theo sở thích của nàng. Những người đàn ông như vậy, không dễ dàng tìm thấy, và có nghĩa là nàng phải luôn ở trong trạng thái sẵn sàng thỏa hiệp.
Quét mắt nhìn khắp phòng, Aomame phát ra một tiếng thở dài trong im lặng. Chết tiệt, tại sao không có vài "người đàn ông phù hợp" ở đây? Nàng nghĩ về Sean Connery. Chỉ cần tưởng tượng ra hình dạng của đầu anh, nàng đã cảm thấy nóng bừng trong đầu. Nếu Sean Connery thình lình xuất hiện ở đây, tôi sẽ làm bất cứ điều gì, để anh ta là của riêng tôi. Tất nhiên, chẳng có cách chó chết nào mà Sean Connery, có thể hiển thị khuôn mặt của mình, trong một Bar độc thân giả Bahamas ở Roppongi .
Trên chiếc ti vi lớn treo trên tường, ca sĩ Queen xuất hiện. Aomame không thích nghe âm nhạc của Queen. Nàng cố gắng tốt nhất có thể, để mình không nhìn theo hướng đó. Nàng cũng cố gắng mạnh mẽ, không lắng nghe âm nhạc đang phát ra từ các loa. Sau khi bài hát kết thúc, là đến màn trình diễn của ABBA. Ồ, không. Một cái gì đó bảo tôi rằng, tôi đang có một đêm thật tệ hại.
Aomame đã gặp bà góa quí tộc nhà Willow House, ở câu lạc bộ thể thao, nơi nàng làm việc. Bà đã ghi danh vào lớp học tự vệ của Aomame, là một trong những người cực đoan, khi tấn công người nộm một cách triệt để. Bà là một phụ nữ nhỏ nhắn, là thành viên lớn tuổi nhất của lớp, nhưng chuyển động của bà rất thanh thoát, và cú ném của bà rất sắc sảo. Trong một tình huống đối mặt, tôi tin chắc rằng bà ta sẽ ném bóng vào đối thủ của bà, mà không có lấy một chút do dự. Bà không bao giờ nói nhiều hơn mức cần thiết, và khi bà nói, thì bà không bao giờ rào đón quanh co. Aomame thích điều đó ở bà.
- Ở tuổi của tôi, không có nhu cầu đặc biệt để tự vệ. - Bà nói với Aomame, bằng một nụ cười trang nghiêm sau giờ học.
- Tuổi tác không liên quan đến chuyện tự vệ. - Aomame phản đối. – Vấn đề là cách bác sống như thế nào. Điều quan trọng, là phải luôn giữ một lập trường nghiêm túc về việc bảo vệ chính mình, trước những hiểm nguy có thể xảy ra. Bác không thể đi bất cứ nơi nào, nếu bác thụ động trước các cuộc tấn công. Tình trạng bất lực mãn tính sẽ ăn mòn con người.
Bà im lặng một lúc, tìm kiếm điều gì đó trong mắt Aomame. Chắc là âm điệu những lời nói của Aomame, đã thực hiện một ấn tượng mạnh mẽ với bà. Bà gật mạnh đầu.
- Cháu nói đúng. Cháu hoàn toàn đúng. - Bà nói. - Cháu rõ ràng, là đã có tư duy thật vững chắc về điều này.
Một vài ngày sau đó, Aomame nhận được một bì thư. Nó để tại bàn tiếp tân của câu lạc bộ, điền tên người nhận là nàng. Bên trong nó, Aomame tìm thấy một ghi chú ngắn, và đẹp có viết địa chỉ, và số điện thoại của bà.
- Bác biết cháu hết sức bận rộn. – Nó viết tiếp. - Nhưng bác sẽ rất vui, nếu được gặp riêng cháu khi nào cháu rãnh.
Một người đàn ông trả lời điện thoại - một thư ký, có vẻ thế. Khi Aomame đọc tên của mình, anh ta đã để nàng chờ, mà không nói thêm lời nào. Bà đến cầm điện thoại, và cảm ơn nàng đã gọi.
- Nếu cháu không phiền, thì bác muốn mời cháu đi ăn cùng bác, - Bà nói tiếp. - Bác muốn có một cuộc nói chuyện với cháu, chỉ hai chúng ta.
- Cháu rất sẵn lòng. - Aomame.
- Thế tối mai cháu có rãnh?
Aomame đồng ý, nhưng nàng đã phải tự hỏi người phụ nữ thanh lịch lớn tuổi này, muốn nói gì với một người như nàng.
Hai người đã ăn tối tại một nhà hàng Pháp, trong một khu yên tĩnh ở Azabu. Có vẻ như bà đã đến đây nhiều lần. Họ đã dành ra cho bà, một trong những bàn tốt nhất ở phía sau, và bà rõ ràng là rất quen thuộc người bồi bàn lớn tuổi, đang phục vụ họ một cách chu đáo. Bà mặc một chiếc váy đẹp, không hoa văn màu xanh lá cây nhạt (có lẽ là hiệu Givenchy, thịnh hành vào những năm 1960), và đeo một sợi dây chuyền ngọc bích. Giữa bữa ăn, người quản lý xuất hiện, và ông ta gởi lời chào trân trọng đến bà. Món ăn chay chiếm phần lớn thực đơn, hương vị rất ngon và đơn giản. Trùng hợp ngẫu nhiên, món súp hôm nay là canh đậu xanh, là món mà Aomame rất thích. Bà gọi một ly Chablis, và Aomame cũng vậy. Rượu vang cũng ngon và đơn giản như thực phẩm. Aomame gọi món cá trắng nướng. Bà chỉ gọi đồ chay. Cách ăn đồ chay của bà thật đẹp, giống như là một tác phẩm nghệ thuật.
- Khi cháu đến tuổi của bác, cháu có thể sống mà chỉ ăn rất ít. - Bà nói. –Chỉ ăn những món ăn tốt nhất cho sức khỏe, nếu có thể. - Bà nói thêm, nửa đùa nửa thật.
Bà muốn Aomame trở thành huấn luyện viên của bà, hướng dẫn võ thuật cho bà tại nhà bà hai, hay ba ngày trong một tuần. Ngoài ra, nếu có thể, bà còn muốn Aomame giúp bà phát triển cơ bắp.
- Tất nhiên cháu có thể làm được. - Aomame nói. - Nhưng cháu muốn bác lên lịch cho việc đào tạo cá nhân ngoài phòng tập thể dục, thông qua bàn tiếp tân của câu lạc bộ.
- Cũng được. - Bà nói. - nhưng chúng ta nên xếp lịch trực tiếp. Bác không muốn người khác hiểu lầm. Bác muốn tránh điều đó. Cháu thấy thế nào?
- Dạ. Cũng được.
- Vậy thì chúng ta hãy bắt đầu vào tuần tới. – Bà nói.
Điều này đã kết thúc việc thỏa thuận của họ.
Bà nói tiếp:
- Bác đã rất ấn tượng bởi những gì cháu nói ở phòng tập thể dục hôm trước. Về sự bất lực. Và sự bất lực đã gây ra thiệt hại đối với con người. Cháu còn nhớ không?
Aomame gật đầu.
- Cháu nhớ.
- Cháu không phiền nếu bác hỏi cháu một câu hỏi? Nó sẽ là một câu hỏi rất trực tiếp. Để tiết kiệm thời gian.
- Bác có thể hỏi bất kỳ câu hỏi nào. – Aomame trả lời.
- Cháu là một nhà hoạt động cho nữ quyền, hay cháu là một người đồng tính nữ?
Aomame hơi đỏ mặt, và lắc đầu:
- Dạ. Không phải. Cháu chỉ suy nghĩ về những vấn đề mà theo cháu là đúng. Cháu không phải là một nhà hoạt động cho nữ quyền với lý thuyết suông, và cháu cũng không phải là một người đồng tính.
- Tốt. – Bà nói. Cảm thấy nhẹ nhõm, Bà đưa một ít bông cải xanh lên miệng một cách quý phái, nhai nó một cách nhẹ nhàng, và hớp một ngụm nhỏ rượu vang. Sau đó, bà nói tiếp. - Thậm chí nếu cháu là một nhà nữ quyền, hoặc đồng tính nữ, thì cũng chẳng chẳng sao. Nó cũng sẽ không ảnh hưởng đến bất cứ điều gì. Tuy nhiên, bác hỏi như thế, nếu cháu không phải, thì sẽ dễ dàng hơn cho việc giao tiếp giữa chúng ta. Cháu có hiểu những gì bác đang cố gắng nói với cháu?
- Cháu hiểu. – Aomame đáp.
Aomame đến nhà của bà hai lần một tuần, để hướng dẫn bà về võ thuật. Bà có một phòng tập lớn phủ gương, được xây dựng vào những năm trước, dành cho cô con gái nhỏ của bà học múa ba lê, và bây giờ nó được dùng cho Aomame cùng với bà, luyện tập các bài tập võ thuật. So với một người nào đó ở tuổi của bà, thì bà rất linh hoạt, và bà đã tiến triển rất nhanh chóng. Bà có một cơ thể nhỏ nhắn, nhưng đã được chăm sóc cẩn thận trong những năm qua. Aomame cũng dạy những điều cơ bản của việc phát triển cơ bắp, và thực hiện những bài massage, để nới lỏng cơ bắp của bà.
Aomame đặc biệt có tay nghề xoa bóp. Nàng đã giành được điểm rất cao trong lĩnh vực đó, hơn bất cứ ai khác ở trường Đại học giáo dục thể chất. Tên của tất cả các xương, và tất cả các cơ bắp của cơ thể con người, được khắc sâu vào trong não của nàng. Nàng biết rõ chức năng, và đặc điểm của mỗi cơ bắp, cả hai làm thế nào để hòa hợp, và làm thế nào để giữ cho nó hòa hợp. Với một niềm tin vững chắc, Aomame cho rằng cơ thể con người là một đền thờ, phải giữ cho nó mạnh mẽ, đẹp, và sạch sẽ nhất, nếu có thể.
Không hài lòng với y học thể thao bình thường, Aomame học kỹ thuật châm cứu trong nhiều năm, như là một sở thích cá nhân, được đào tạo chính thức từ một bác sĩ Trung Quốc. Ấn tượng với sự tiến bộ nhanh chóng của nàng, bác sĩ đã nói với cô rằng, cô có nhiều hơn kỹ năng đủ để thành một chuyên gia. Nàng học rất nhanh, với một khao khát khám phá, về kiến thức chi tiết liên quan đến chức năng của cơ thể. Nhưng hơn tất cả, nàng có những ngón tay được ưu đãi, với một giác quan thứ sáu thật đáng sợ. Cũng như một số người sở hữu một chiều cao hoàn hảo, hay những người có khả năng tìm thấy các mạch nước ngầm, những ngón tay của Aomame, ngay lập tức có thể phân biệt những điểm tinh tế trên cơ thể, có ảnh hưởng đến chức năng của nó. Điều này chẳng ai dạy nàng. Nó đến với nàng một cách tự nhiên.
Chẳng bao lâu sau, Aomame và bà, đã thảo luận các bài tập của họ, và bài tập massage, trong những cuộc trò chuyện thân mật một cách nhàn nhã, quanh tách trà. Tamaru là người, sẽ luôn luôn mang lại các đồ dùng trà, trên cái khay bạc. Anh ta không bao giờ nói một lời, khi có sự hiện diện của Aomame trong tháng đầu tiên, cho đến khi Aomame cảm thấy phải hỏi bà lý do gì, mà Tamaru không nói chuyện.
Có một lần, bà hỏi Aomame rằng, nàng đã từng sử dụng kỹ thuật ném -tinh hoàn của mình, khi phải bảo vệ mình trong thực tế.
- Chỉ có một lần. - Aomame trả lời.
- Nó có hiệu quả? - Bà hỏi.
- Nó có tác dụng như dự định. - Aomame trả lời, một cách thận trọng và ngắn gọn.
- Cháu có nghĩ rằng nó sẽ tác dụng với Tamaru?
Aomame lắc đầu.
- Có lẽ là không. Anh ta biết về những điều như thế. Nếu người khác có khả năng đọc các chuyển động của ta, không có gì ta có thể làm tổn thương đến họ. Ném vào tinh hoàn, chỉ hiệu quả với những người bình thường, những người không có kinh nghiệm chiến đấu thực tế.
- Như vậy, cháu nhận ra rằng Tamaru không phải là dân nghiệp dư.
- Biết nói với bác thế nào đay? - Aomame dừng lại một chút. – Anh ta toát ra một sự hiện diện đặc biệt. Anh ta không phải là một người bình thường.
Bà thêm kem vào trà của mình, và sau đó khuấy nó từ từ.
- Vì vậy, người đàn ông cháu đã ném vào lúc đó, là một người bình thường. Một người đàn ông to lớn?
Aomame gật đầu nhưng không nói. Người đàn ông nhìn thật to lớn và mạnh mẽ. Nhưng ông ta đã kiêu ngạo, và đã mất cảnh giác với một người phụ nữ. Ông ta không bao giờ bị người phụ nữ ném bóng vào chỗ đó, và không bao giờ tưởng tượng một điều như vậy, sẽ xảy đến cho ông ta.
- Ông ta có bị tổn thương? – Bà hỏi.
- Không, không có vết thương. - Aomame đáp. – Ông ta chỉ bị đau đớn dữ dội trong một lúc.
Bà im lặng. Sau đó bà hỏi:
- Cháu đã bao giờ chủ động tấn công một người đàn ông trước đây? Không chỉ khiến cho ông ta bị đau, mà còn cố ý gây thương tích cho ông ta?
- Dạ có. - Aomame trả lời. Nói dối không phải là một đặc điểm của nàng.
- Cháu có thể kể cho bác?
Aomame lắc đầu gần như không ngờ.
- Cháu xin lỗi, nhưng nó không phải là một điều cháu có thể kể một cách dễ dàng.
- Không sao. – Bà nói. – Cháu không cần phải ép buộc mình.
Hai người uống trà của họ trong sự im lặng, theo đuổi những suy nghĩ của riêng mình.Cuối cùng, bà nói:
- Nhưng đôi khi, cháu sẽ cảm thấy muốn nói về nó, cháu có nghĩ vậy không? Lúc đó bác sẵn sàng nghe cháu kể về chuyện đó.
Aomame đáp:
- Có thể cháu sẽ kể cho bác biết vào một dịp nào đó. Hoặc cũng có thể không bao giờ. Thực sự cháu cũng không biết bản thân mình nghĩ sao nữa.
Bà nhìn Aomame một lúc. Sau đó, bà nói:
- Bác hỏi không phải vì tò mò.
Aomame vẫn im lặng.
- Cháu đang sống với một điều gì đó, mà cháu giữ kín bên trong con người cháu. Một cái gì đó thật nặng nề. Bác đã cảm thấy nó, từ lần đầu tiên bác gặp cháu. Cháu có một cái nhìn rất mạnh mẽ, thể hiện quyết tâm của cháu về một điều gì đó. Để cho cháu biết sự thật, bản thân bác cũng từng mang những điều như vậy bên trong. Những vấn đề rất nặng nề. Điều đó giải thích lý do, bác có thể nhìn thấy nó trong con người của cháu. Không cần phải vội vàng, nhưng khi nào cháu cảm thấy tốt hơn, vào một dịp nào đó, tự cháu sẽ đưa nó ra ngoài. Bác chẳng giấu gì cháu, bác đang có một số dự định thực tế. Nếu như mọi việc suôn sẻ, bác có thể giúp cháu.
Sau đó, khi Aomame cuối cùng mở lòng ra với bà, nàng cũng mở một cánh cửa mới trong đời mình.
- Này, chị đang uống gì vậy? - Một người nào đó hỏi gần bên tai của Aomame. Giọng nói của một người phụ nữ.
Aomame ngẩng đầu lên, và nhìn vào người vừa nói. Một phụ nữ trẻ với một kiểu tóc đuôi ngựa của những năm năm mươi, đang ngồi trên ghế của quầy bar kế nàng. Váy cô ta bận có nền là những bông hoa nhỏ, và cô ta đeo một túi nhỏ hiệu Gucci trên vai. Móng tay cô được cắt tỉa một cách cẩn thận, và sơn màu hồng nhạt. Không quá mập, có nghĩa là, người phụ nữ nhìn tròn ở khắp mọi nơi, bao gồm cả khuôn mặt của cô, đang tỏa ra một sự ấm áp thực sự thân thiện, và cô có một bộ ngực thật lớn.
Aomame đã hơi ngạc nhiên. Nàng không mong đợi để được tiếp cận bởi một người phụ nữ. Đây là một quán bar dành cho nam giới để phụ nữ tiếp cận.
- Tom Collins. - Aomame đáp.
- Có ngon không?
- Không có gì đặc biệt. Nhưng nó không phải rượu mạnh, và tôi có thể nhấm nháp nó.
- Em tự hỏi là tại sao họ gọi nó là Tom Collins.
- Tôi cũng không biết. – Aomame trả lời. - Có thể đó là tên của anh chàng nào đó, người phát minh ra nó. Cũng chẳng phải là một phát minh tuyệt vời gì cho lắm.
Cô vẫy tay cho người pha chế rượu và nói:
- Cho tôi một Tom Collins.
Một vài phút sau đó, cô đã có thức uống của mình.
- Chị không phiền nếu em ngồi ở đây chứ? - Cô hỏi.
- Không có gì. Đây là một chiếc ghế trống. - Và cô đã ngồi đấy thôi, Aomame nghĩ nhưng không nói.
- Chị không có hẹn ai, phải không? - Cô hỏi.
Thay vì trả lời, Aomame nhìn kỹ khuôn mặt của cô ta. Nàng đoán cô ta phải trẻ hơn mình ít nhất là ba, hoặc bốn tuổi.
- Chẳng có gì phải lo lắng, em cũng vậy. – Cô thì thầm, như thể chia sẻ một bí mật. – Em cũng thích những người đàn ông. Cũng giống như chị.
- Giống như tôi?
- Vâng, không phải đó là lý do chị đến đây sao, để tìm một chàng trai nào đó?
- Tôi trông giống như thế?
Cô nheo mắt lại:
- Điều đó quá là rõ ràng. Nơi này là dành cho chuyện đó. Và em đoán rằng chẳng ai trong chúng ta là sành sỏi trong chuyện này.
- Tất nhiên không. - Aomame đồng ý.
- Này, em có một ý tưởng. Tại sao chúng ta không tạo thành một đội? Nó sẽ dễ dàng hơn cho một người đàn ông, khi tiếp cận với hai người phụ nữ, hơn là chỉ một. Và chúng ta có thể thoải mái nhiều hơn, và cảm thấy an toàn hơn, nếu chúng ta cùng hợp tác vói nhau thay vì chỉ một mình. Chúng ta trông cũng rất khác nhau – một người nhiều nữ tính, và chị có chút ít nam tính - Em chắc chắn rằng chúng ta là một đội rất hợp.
Nam tính, Aomame nghĩ. Đó là lần đầu tiên có người nói tôi như thế.
- Gu của chúng ta đối với nam giới có thể khác nhau. - Cô nói. – Không biết sẽ như thế nào khi chúng ta là một 'đội'?
Cô mím môi lại trong suy nghĩ.
- Gu của chị là loại đàn ông thế nào?
- Trung niên, nếu có thể, - Aomame đáp. - Tôi không thích những chàng trai trẻ. Tôi chỉ thích những người bắt đầu hói.
- Ồ. Em hiểu rồi. Độ tuổi trung niên, phải không? Em thì thích những anh chàng trẻ, hoạt bát, và đẹp trai. Em lại không thích những ông ở tuổi trung niên, nhưng em sẵn sàng đi cùng với chị, và trải qua thử nghiệm. Đó cũng là một kinh nghiệm cần có. Một ông trung niên khỏe mạnh? Ý em muốn nói là tình dục.
- Nó hoàn toàn phụ thuộc vào ông ta. – Aomame đáp.
- Tất nhiên. - Cô nói. Sau đó, cô nheo mắt lại, như thể xác minh một số loại lý thuyết. – Chị không thể khái quát hết về tình dục, nhưng nói chung ...
- Họ không tồi. Ngay cả khi họ hết sức, nhưng để được như thế thì cũng rất lâu. Họ không vội vàng. Và khi họ làm tốt, họ có thể cho em được rất nhiều.
Cô suy nghĩ một lúc:
- Hmm, em bắt đầu thấy hay rồi đó. Có lẽ em nên thử.
- Em thử!
- Chị nói đi, có bao giờ chị đã thử bốn cách trong quan hệ tình dục? Chị thay đổi từng lúc khi quan hệ.
- Không bao giờ.
- Em cũng không. Nhưng chị có thích như vậy?
- Có lẽ là không. – Aomame đáp. - À, tôi không quan tâm đến chuyện hợp tác, nhưng giả sử là nếu chúng ta làm chuyện đó cùng nhau, thậm chí chỉ là tạm thời, em có thể cho tôi biết nhiều hơn một chút về bản thân? Bởi vì chúng ta có cuộc sống hoàn toàn khác nhau.
- Tốt. - cô nói. - Vậy, chị muốn biết gì về em?
- Vâng, chỉ một điều, em đang làm công việc gì?
Cô hớp một ngụm Tom Collins của mình, và đặt nó xuống trên dĩa. Sau đó, cô lau đôi môi mình với một khăn giấy. Sau đó, cô kiểm tra vết son môi trên khăn ăn.
- Đây là một thức uống khá ngon. - Cô nói. - Nó dựa trên rượu gin, phải không?
- Gin, nước cốt chanh, và nước soda.
- Đúng, nó không phải phát minh lớn, nhưng nó có vị rất ngon.
- Tôi vui vì em nói như thế.
- Quay lại câu hỏi của chị, em đang làm việc gì? Đó là một công việc khó khăn. Ngay cả khi em cho chị biết, chị cũng có thể không tin.
- Vậy, chị sẽ nói trước. – Aomame nói. – Chị là một giảng viên tại một câu lạc bộ thể thao. Chị chủ yếu dạy võ thuật. Ngoài ra chị còn dạy cách phát triển cơ bắp.
- Võ thuật. Cô kêu lên. - Cũng giống như kiểu Bruce Lee?
- Dạng như vậy.
- Thế chị rất giỏi trong lĩnh vực đó?
- Tạm được.
Cô mỉm cười, và nâng ly của mình lên.
- Nói cách khác, chúng ta có thể là một đội bất khả chiến bại. Có thể không nhìn nhận mình là một võ thuật gia, nhưng em đã học aikido trong nhiều năm. Nói cho chị biết sự thật, em là một nữ cảnh sát.
- Một nữ cảnh sát? - Miệng Aomame mở to, nhưng không có từ nào nữa buông ra.
- Sở cảnh sát thủ đô Tokyo. Nhìn em không giống, phải không?
- Chắc chắn là không. – Aomame đáp.
- Dù vậy, đó là sự thật. Tuyệt đối là thật. Tên em là Ayumi.
- Chị là Aomame.
- Aomame. Nó có phải là tên thật của chị?
Aomame gật đầu một cách trang trọng.
- Một nữ cảnh sát? Có nghĩa là em mặc đồng phục cảnh sát, mang theo một khẩu súng, và đi trong một chiếc xe cảnh sát để tuần tra các đường phố?
- Đó là những gì em muốn được làm. Nó là những gì mà em sẽ làm, khi gia nhập lực lượng cảnh sát. Nhưng họ chưa cho phép em. - Ayumi nói. Cô lấy một ít bánh quy từ một bát gần đó, và bắt đầu nhai chúng rào rạo. - Em mặc một bộ đồng phục buồn cười, lái xe chạy xung quanh bằng chiếc xe tuần tra mini - về cơ bản, nó là một chiếc xe động cơ tay ga - và phát ra các vé phạt đậu xe cả ngày. Tất nhiên, họ cũng không cho phép em mang một khẩu súng lục. Rõ ràng, không cần phải bắn cảnh cáo một công dân địa phương, những người đậu Toyota Corolla của mình ở phía trước một vòi nước cứu hỏa. Em đã nhận điểm tuyệt vời khi thực hành bắn súng, nhưng không ai ghi nhận về điều chết tiệt đó. Chỉ vì em là một người phụ nữ, họ bắt em đi xung quanh, cùng với một cây gậy viền trắng, viết thời gian, và bảng số xe vi phạm ngày này sang ngày khác.
- Nói về súng ngắn, em đã từng bắn một khẩu Beretta bán tự động?
- Chắc chắn rồi. Bây giờ, tất cả chúng đều là các khẩu Beretta. Nó quá nặng đối với em. Nếu nạp đầy đủ đạn, nó có thể cân nặng gần một kg.
- Một khẩu Beretta không đạn nặng 850 gram. – Aomame nói.
Ayumi nhìn Aomame, như một chủ tiệm cầm đồ đang đánh giá một cái đồng hồ đeo tay:
- Làm thế nào để chị biết như thế? - Cô hỏi.
- Chị luôn luôn có một sự quan tâm đến súng. - Aomame. - Tất nhiên, chị chưa bao giờ thực sự bắn một khẩu súng nào.
- Oh, thật vậy sao? - Ayumi có vẻ bị thuyết phục. - Em đã từng bắn súng lục. Đúng vậy, Beretta thật nặng, nhưng nó đã giật ít hơn so với các khẩu súng cũ, do đó, ngay cả một người phụ nữ nhỏ bé có thể xử lý tốt nếu được thực hành đầy đủ. Dù vậy, cấp trên của em đã không tin. Họ lại tin rằng một người phụ nữ, không thể xử lý tốt một khẩu súng lục. Tất cả các nhân viên cao cấp trong sở, đều là những tên phát xít sô-vanh nam. Em cũng có bằng siêu cấp, trong kỹ thuật sử dụng cây ba trắc, ít nhất là cũng tốt như phần lớn đàn ông. Điều duy nhất mà em từng được nghe từ họ, là sự thô tục bóng gió:
- Em hãy nói cho anh biết, em thực sự làm thế nào để lấy được cây ba trắc. Và hãy cho anh biết, bất cứ lúc nào em muốn có một số thực hành với cây ba trắc đó. Đại loại như thế. Bộ não của họ giống như bị lạc hậu cả gần thế kỷ rưỡi.
Ayumi lấy ra một gói Virginia Slims, từ chiếc túi đeo vai của cô, và bằng một thao tác điêu luyện rút một điếu thuốc ra từ gói, đặt nó giữa đôi môi của cô, đốt nó bằng một cái bật lửa nhỏ màu vàng, và từ từ thở ra khói về phía trần nhà.
- Điều gì đã cho em ý tưởng trở thành một sĩ quan cảnh sát? - Aomame hỏi.
- Em không bao giờ có ý định đó. - Ayumi trả lời. - Nhưng em không muốn làm công việc văn phòng thông thường, và em cũng không có bất kỳ kỹ năng đặc biệt nào. Do đó em chẳng có nhiều lựa chọn. Vì vậy, vào năm cuối ở đại học, em đã xin dự thi vào sở cảnh sát đô thị. Rất nhiều người thân của em đã làm cảnh sát - cha của em, anh trai của em, và một người chú của em. Cảnh sát là một dạng xã hội của những người thân, vì vậy nó sẽ dễ dàng hơn cho ta, nếu ta có người thân làm cảnh sát.
- Gia đình cảnh sát.
- Chính xác. Cho đến khi em vào đó, em đã không nghĩ rằng, có một nơi đầy rẫy sự phân biệt đối xử về giới như là nó. Cán bộ nữ, được xem gần như là công dân hạng hai trong thế giới cảnh sát. Chỉ có những công việc lặt vặt, mà họ có thể cho ta làm, như là xử lý vi phạm giao thông, sắp xếp giấy tờ xáo trộn tại bàn làm việc, giảng dạy giáo dục an toàn tại các trường tiểu học, hoặc vỗ về phạm nhân nữ: quá chán. Trong khi đó, những người đàn ông rõ ràng có ít khả năng hơn em, được gửi đến một hiện trường vụ án thú vị khác. Cấp trên nói về cơ hội bình đẳng cho hai giới, nhưng nó chỉ là sự che đậy, nó không làm việc theo cách đó. Nó sẽ giết chết mong muốn của ta, khi ta muốn làm một công việc tốt. Chị có hiểu những điều em nói?
Aomame cho cô biết là nàng hiểu.
- Nó làm cho em muốn điên lên!
- Em có bạn trai chưa? - Aomame hỏi.
Ayumi cau mày. Một lúc thật lâu, cô nhìn trừng trừng vào điếu thuốc lá giữa các ngón tay của cô.
- Có bạn trai, gần như không thể đối với một nữ cảnh sát. Giờ làm việc là những giờ bất thường, vì vậy thật khó để phối hợp thời gian, với bất cứ ai làm việc kinh doanh trong tuần bình thường. Và ngay cả bỏ qua chuyện đó, giây phút mà anh chàng nghe em nói là một cảnh sát, anh ta sẽ chuồn nhanh như một con cua đang lướt sóng. Thật là khủng khiếp, phải không chị?
Aomame đồng ý.
- Còn chuyện tình lãng mạn nơi làm việc, được coi như là khả năng duy nhất – tất nhiên là ở đó, không có những người đàn ông lịch lãm. Tất cả họ đều là những kẻ mất nết, chỉ có thể kể những chuyện cười thô tục. Họ có lẽ vốn sinh ra là những kẻ ngu ngốc, hoặc họ nghĩ rằng, không có gì hơn sự tiến bộ của họ. Và đây là những kẻ chịu trách nhiệm về sự an toàn của xã hội! Nhật Bản không có một tương lai tươi sáng.
- Chị nghĩ em là một người dễ thương, đối với đa số đàn ông. - Aomame nói.
- Vâng, em dễ thương với họ - miễn là em không tiết lộ nghề nghiệp của em. Vì vậy, ở những nơi như thế này, em chỉ nói với họ, em làm việc cho một công ty bảo hiểm.
- Em có đến đây thường xuyên không?
- Không thường xuyên. Lâu lâu 1 lần. - Ayumi đáp. Sau khi dừng một chút, cô nói tiếp, như thể tiết lộ một bí mật. – Mỗi lần như thế, em bắt đầu ham muốn quan hệ tình dục. Một cách thẳng thắn, em cần có một người đàn ông. Chị biết đấy, gần như định kỳ. Vì vậy, em ăn mặc thật sang, mặc vào đồ lót lạ mắt, và đến đây. Em tìm thấy một người đàn ông phù hợp, và tụi em làm chuyện đó suốt đêm. Điều đó làm cho em cân bằng được một thời gian. Em chỉ có một ham muốn tình dục lành mạnh - Em không phải một người mắc chứng cuồng dâm, hoặc nghiện quan hệ tình dục, hoặc đại loại gần như thế, em cảm thấy ổn, khi đã ‘làm được việc mình mong muốn’. Nhưng nó không kéo dài. Vì ngày hôm sau, em lại có một ngày khó khăn tại nơi làm việc, tiếp tục giao vé phạt đậu xe. Còn chị thì thế nào?
Aomame cầm ly Tom Collins của mình lên, và nhấp một ngụm.
- Chị cũng vậy.
- Không có bạn trai?
- Chị tự nhủ với mình là không có bạn trai. Chị không muốn bận tâm.
- Có một người đàn ông là một mối bận tâm?
- Khá nhiều.
- Đôi khi em ham muốn làm chuyện đó, dù cho nó thật tồi tệ. Em không thể chịu đựng được, - Ayumi nói.
- Em đã thể hiện điều đó một phút trước, là ‘làm được việc theo mong muốn’, còn hơn là suy nghĩ của chị.
- Chị nghĩ thế nào về tình một đêm?
Aomame đáp:
- Điều đó chẳng có gì xấu.
- Cho dù thế nào, thì nó cũng chỉ là một tình một đêm, mà không có điều gì tiếp theo.
Aomame gật đầu.
Chống khuỷu tay trên quầy bar, Ayumi chống cằm, và nghĩ về điều này một lúc.
- Chúng ta có thể có rất nhiều điểm chung. - Cô nói.
- Có lẽ vậy. - Aomame đồng ý. Ngoại trừ cô là một nữ cảnh sát, và tôi là kẻ giết người. Chúng ta, một người trong, và người ngoài pháp luật. Tôi cá rằng, giữa cô và tôi, có một sự khác biệt quá lớn.
- Chúng ta hãy làm theo cách này. - Ayumi nói. - Cả hai chúng ta đều làm việc cho cùng một công ty bảo hiểm tai nạn, nhưng tên của công ty là một bí mật. Chị làm một vài năm trước em. Có một số buồn bực trong văn phòng hôm nay, vì vậy chúng ta đến đây để giải quyết nỗi buồn của chúng ta, và bây giờ chúng ta đang cảm thấy khá tốt. Chị thấy thế nào về tình hình "của chúng ta?"
-Tốt thôi, ngoại trừ là chị không biết gì về bảo hiểm tai nạn.
- Hãy để điều đó em lo. Em kể chuyện rất tốt.
- Vậy chị phiền em. - Aomame trả lời.
- Bây giờ, có hai anh chàng trung niên ngồi ở bàn phía sau chúng ta, và em thấy họ đã tìm kiếm xung quanh, với đôi mắt đói mồi. Chị có thể kiểm tra xem có đúng không?
Aomame quay lại nhìn theo chỉ dẫn. Cách xa quầy bar có một cái bàn có hai người đàn ông trung niên đang ngồi. Cả hai đều mặc một bộ đồ vét, và thắt cà vạt, trông giống như nhân viên công ty điển hình, đến uống sau một ngày làm việc căng thẳng. Bộ đồ phù hợp với họ không một vết nhăn, và cà vạt họ đeo nhìn cũng tạm được. Không có người đàn ông nào có vẻ không sạch sẽ. Một người có lẽ chỉ khoảng bốn mươi, và người khác chắc chưa tới bốn mươi. Người lớn hơn thì ốm, có một khuôn mặt hình bầu dục, và tóc thưa mọc ngược về phía sau. Người trẻ hơn, nhìn giống như một cựu cầu thủ bóng bầu dục Đại học, gần đây đã bắt đầu tăng trọng lượng từ sự thiếu tập thể dục. Khuôn mặt của anh ta vẫn còn giữ lại một sự trẻ trung nhất định, nhưng anh ta đã bắt đầu phát triển râu dày xung quanh cằm. Họ trò chuyện vui vẻ với rượu whisky và nước khoáng, nhưng đôi mắt của họ đang dò tìm khắp phòng.
Ayumi bắt đầu phân tích họ. “Tôi nghĩ họ ít khi đến đây. Họ đang ở đây để giải khuây, nhưng họ không biết làm thế nào để ve vãn các cô gái. Có lẽ cả hai đã kết hôn. Họ hình như có một cái nhìn tội lỗi về họ, khi đến đây.”
Aomame rất ấn tượng với sự quan sát mạnh mẽ của Ayumi. Cô thực hiện điều này dù không chú ý, trong khi vẫn nói chuyện với Aomame. Có lẽ nó chính là giá trị của một thành viên gia đình cảnh sát.
- Người ít tóc là gu của chị, phải không?- Ayumi hỏi. – Vậy thì em sẽ chọn người tóc nhiều?
Aomame nhìn ngược lại lần nữa. Hình dạng cái đầu của người ít tóc gần như không chấp nhận được – so với Sean Connery phải cách xa nhiều năm ánh sáng, nhưng cũng đành chịu. Nàng không thể yêu cầu quá nhiều vào một đêm như thế này, không có gì ngoài Qeen và ABBA phải lắng nghe mọi buổi tối.
- Cũng được. - Aomame nói. - Nhưng làm thế nào em sẽ mời được họ tham gia với chúng ta?
- Không phải chờ cho đến khi mặt trời mọc, chắc chắn họ sẽ tham gia! Chúng ta sẽ phá party của họ bằng các nụ cười.
- Em nghiêm túc chứ?
- Tất nhiên! Chị để em - em sẽ đi qua bên đó, và bắt đầu một cuộc trò chuyện. Chị chờ ở đây.
Ayumi uống một hơi mạnh ly Tom Collins của mình, và chà xát lòng bàn tay lại với nhau. Sau đó, cô đeo chiếc túi Gucci qua vai của mình, và nở một nụ cười sáng chói.
- Được rồi, đã đến lúc thực hành cây ba trắc.
(Hết chương 11)
CHƯƠNG 12
Tengo
NƯỚC TRỜI ĐẾN.
Giáo sư quay sang Fuka-Eri và nói:
- Xin lỗi vì đã làm phiền cháu, Eri, cháu có thể pha trà dùm bác?
Cô đứng dậy, và rời khỏi phòng tiếp khách. Cánh cửa đóng lại lặng lẽ sau lưng cô. Giáo sư im lặng ngồi chờ đợi, trong khi Tengo đang ngồi trên ghế sofa, cố gắng điều hòa hơi thở của mình, và lấy lại trạng thái ý thức bình thường. Giáo sư tháo kính gọng đen của mình ra, và sau khi lau chúng bằng một chiếc khăn tay nhìn-không-được-sạch, ông đeo kính trở lại. Ngoài cửa sổ, chợt vút qua một bóng nhỏ màu đen, ngang qua bầu trời. Có thể là một con chim. Hoặc cũng có thể là linh hồn của một ai đó, bị thổi sang phía bên kia của thế giới.
- Cháu xin lỗi. – Tengo nói. – Bây giờ cháu ổn rồi. Xin bác hãy tiếp tục kể.
Giáo sư gật đầu, và bắt đầu nói tiếp:
- Không có gì của Akebono còn sót lại sau cuộc đấu súng đầy bạo lực. Nó diễn ra vào năm 1981, cách nay ba năm - bốn năm sau khi Eri đến đây sinh sống. Tuy nhiên, về vấn đề Akebono, thì không có gì liên quan tới những gì bác đang kể cho cháu nghe.
Eri được mười tuổi, khi em nó bắt đầu về sống chung với gia đình bác. Thình lình, vào một ngày, em nó xuất hiện trước cửa nhà của chúng tôi, một Eri đã thay đổi hoàn toàn, từ một Eri, mà bác đã từng biết cho đến lúc đó. Sự thật, thì Eri không bao giờ nói nhiều, và sẽ không mở miệng với người lạ, nhưng em nó đã luôn luôn rất mến bác, và nói chuyện ríu rít với bác, ngay cả khi em nó còn là một đứa bé đi chập chững. Khi Eri lần đầu tiên xuất hiện ở đây, em nó đã không nói chuyện với bất kỳ ai. Eri dường như đã mất đi sức mạnh để nói chuyện. Em nó chỉ gật, hoặc lắc đầu khi chúng tôi đặt các câu hỏi.
Giáo sư nói một cách rõ ràng, và nhanh chóng hơn. Tengo có cảm giác rằng, ông đang cố gắng nói cho xong câu chuyện, trước khi Fuka-Eri có thể quay lại.
- Chúng tôi có thể thấy rằng, Eri đã trải qua một thời gian tệ hại, khi tìm cách đến với vùng núi chúng tôi đang ở. Em nó mang theo một số tiền mặt, và một tờ giấy có địa chỉ của chúng tôi viết ở trên đó, nhưng vì em nó đã lớn lên trong môi trường xung quanh bị cô lập, nên em nó có thể thực sự ngại nói ra. Mặc dù vậy, em nó đã cố gắng, bằng manh mối tờ giấy trong tay, di chuyển bằng tất cả các phương tiện cần thiết, để cuối cùng tìm đến trước cửa nhà của chúng tôi.
- Chúng tôi có thể thấy ngay lập tức, có một cái gì đó thật khủng khiếp đã xảy ra với Eri. Azami và người phụ nữ, người giúp cho tôi ở đây, đã chăm sóc nó. Sau khi Eri ở với chúng tôi được một vài ngày, và đã bình tĩnh lại đôi chút, bác đã gọi cho công xã Sakigake, và yêu cầu nói chuyện với Fukada, nhưng bác đã được nói rằng, ông ta ‘không thể đến để nghe điện thoại’ được. Bác hỏi lý do vì sao, nhưng họ không trả lời. Vì vậy, sau đó bác yêu cầu được nói chuyện với bà Fukada, và cũng được họ cho biết lý do tương tự. Bác đã không thể nói chuyện được với cả hai cha mẹ của Eri.
- Bác có nói cho người nghe điện thoại biết là Eri đã đến ở với bác?
Giáo sư lắc đầu.
- Không, bác đã có linh cảm là nên giữ im lặng về chuyện đó, khi bác không nói chuyện trực tiếp được với Fukada. Tất nhiên, sau đó bác đã cố gắng để có được liên lạc với ông ta vô số lần, sử dụng tất cả mọi phương tiện mà bác có thể, nhưng đã không hiệu quả.
Tengo nhíu mày.
- Bác đang nói là đã không thể liên lạc với cha mẹ của em, dù chỉ một lần trong bảy năm?
Giáo sư gật đầu.
- Không gọi là một lần, phải nói là không có một lời nào của họ trong bảy năm.
- Vậy là cha mẹ em không bao giờ có một lần cố gắng, để tìm nơi ở của con gái của họ trong vòng bảy năm?
- Bác biết, nó hoàn toàn khó hiểu. Gia đình Fukada yêu thương, và trân quí Eri nhiều hơn bất cứ thứ gì. Và nếu Eri cần ai đó giúp đỡ, thì nơi đây chính là nơi duy nhất có thể đáp ứng. Cả hai, Fukada, và vợ của ông, đã không duy trì quan hệ của họ với họ hàng, và Eri lớn lên mà không biết ai là ông bà của nó. Chúng tôi là những người duy nhất là người thân của nó. Cha mẹ Eri đã nói với em nó, đây là nơi em nó nên đến, nếu bất cứ chuyện không hay xảy ra đối với họ. Mặc dù vậy, bác lại không nghe họ nói một lời nào. Thật là không thể tưởng tượng.
Tengo hỏi:
- Có phải bác đã từng nói là Sakigake là một công xã quảng giao?
- Đúng vậy. Sakigake đã hoạt động nhất quán như là một công xã quảng giao kể từ khi thành lập, nhưng ngay trước khi Eri thoát khỏi nó, đã bắt đầu di chuyển dần dần, hướng tới một chính sách hạn chế đối với bên ngoài. Lần đầu tiên bác nhận thức được điều này, khi bác bắt đầu ít nhận được tin tức hơn từ Fukada. Ông đã luôn luôn là một phóng viên trung thành, gửi cho bác những lá thư dài về những gì đang diễn ra trong công xã, hoặc những suy nghĩ hiện tại, và cảm xúc của ông. Nhưng chúng đã dần dần thưa hơn, và những lá thư của bác gởi tới đã không bao giờ được trả lời. Bác cố gắng gọi điện thoại, nhưng họ lại không để cho ông trả lời điện thoại. Và trong một vài lần hiếm hoi, họ để ông nói chuyện với bác, thì chỉ có những cuộc hội thoại ngắn, giới hạn nhất. Những lời nói của Fukada rất mơ hồ, như thể ông nhận thức được rằng có ai đó đang nghe lén cuộc nói chuyện.
Giáo sư bó chặt bàn tay trên đầu gối của mình.
- Bác đã tự mình tới Sakigake một vài lần sau đó. Bác cần nói chuyện với Fukada về Eri, và kể từ khi thư cũng không gởi, gọi điện thoại thì cũng không gặp, điều duy nhất còn lại để cho bác làm, là phải đi trực tiếp đến đó. Nhưng họ đã không cho bác vào. Họ đuổi bác ngay tại cổng. Dù bác có nói như thế nào cũng không tác động đối với họ. Và thời gian sau, họ đã xây dựng lên một hàng rào cao, bao toàn bộ xung quanh công xã, và cách ly nó với thế giới bên ngoài.
Không có cách nào để biết những gì đã xảy ra bên trong công xã. Nếu nó là Akebono, thì bác có thể thấy đúng là cần thiết phải giữ bí mật. Họ đang hướng tới cuộc cách mạng vũ trang, và họ đã có rất nhiều thứ để che giấu. Nhưng Sakigake sống trong hòa bình, là một trang trại thật sự, và họ đã luôn luôn áp dụng một cách đối xử thân thiện đối với thế giới bên ngoài, đó cũng là lý do tại sao, người dân địa phương thích họ. Tuy nhiên, nơi này đã trở thành một pháo đài tuyệt đối. Thái độ, và thậm chí cả biểu hiện của người dân bên trong cũng đã hoàn toàn thay đổi. Người dân địa phương cũng như bác, đã kinh ngạc bởi sự thay đổi trong Sakigake. Bác đã rất lo lắng về một điều gì đó, thực sự khủng khiếp đã xảy ra với Fukada và vợ của ông, nhưng tất cả những gì bác có thể làm, là bảo bọc cho Eri dưới mái nhà của mình. Kể từ đó, bảy năm đã trôi qua, với tình hình u ám hơn bao giờ hết.
- Vậy là bác, thậm chí không biết Fukada còn sống hay không? -Tengo hỏi.
- Không hy vọng nhiều. - Giáo sư gật đầu nói. - Bác không có cách nào biết được. Bác không muốn nghĩ đến điều tồi tệ nhất, nhưng bác đã không nghe được một lời từ Fukada trong bảy năm qua. Trong trường hợp bình thường, đó là điều không thể tưởng tượng. Bác chỉ có thể nghĩ rằng, một cái gì đó đã xảy ra đối với họ. - Ông hạ thấp giọng của mình. - Có thể họ đang làm gì đó trái với ý muốn của họ. Hoặc thậm chí, có thể nó còn tồi tệ hơn thế.
- Thậm chí tồi tệ hơn thế?
- Bác muốn nói, cho dù ngay cả những khả năng xấu nhất có thể được loại trừ, thì Sakigake đã không còn là một cộng đồng nông nghiệp hòa bình.
- Bác nghĩ rằng nhóm Sakigake đã bắt đầu di chuyển theo một hướng nguy hiểm?
- Đúng vậy. Những người dân địa phương đã nói với bác rằng, số người đi vào, và ra khỏi đó là lớn hơn rất nhiều so với dân số của trang trại. Những chiếc xe liên tục đến và đi, hầu hết trong số họ mang biển số Tokyo, và rất nhiều trong số xe đó, là những chiếc sedan to lớn sang trọng, mà ta không thường thấy ở vùng quê.
Số người trong công xã cũng có vẻ đã tăng đột biến. Vì vậy, cũng phải tăng số lượng nhà ở, cơ sở vật chất, và tất cả các trang thiết bị kèm theo. Họ ngày càng tích cực mua đất xung quanh với giá thấp, và đưa vào máy kéo, máy đào, máy trộn bê tông, và nhiều máy móc thiết bị khác. Họ vẫn làm nông nghiệp, mà có lẽ đó là một nguồn thu nhập quan trọng nhất của họ. Thương hiệu rau Sakigake nổi tiếng hơn bao giờ hết, và công xã vận chuyển trực tiếp tới các nhà hàng, nơi sẽ tận dụng rau tươi. Họ cũng thỏa thuận hợp đồng với các siêu thị chất lượng cao. Lợi nhuận của họ tăng lên, nhưng song song với điều đó, họ dường như có tiến bộ vững chắc, trong một điều gì đó khác hơn so với canh tác. Không thể nghĩ rằng doanh số bán hàng của sản phẩm, là nguồn duy nhất tài trợ cho việc mở rộng quy mô lớn mà họ đã làm. Một nguồn tài trợ khác, mà họ đang có được, là bí mật tuyệt đối của họ, đối với người dân địa phương, bác nghĩ rằng nó phải là một nguồn, mà họ thực sự không thể tiết lộ ra cho công chúng.
- Phải chăng là họ đã bắt đầu một loại hoạt động chính trị nào đó một lần nữa? - Tengo hỏi.
- Bác cũng đã nghĩ như cháu. - Giáo sư trả lời không do dự. – Trước đây, Sakigake đã luôn luôn xa rời lĩnh vực chính trị. Vì lý do đó nên họ đã để cho nhóm Akebono rời đi.
- Đúng vậy, nhưng sau đó, chắc có một điều gì đã xảy ra bên trong Sakigake, đã làm cho Eri cần thiết phải thoát khỏi nó.
- Một điều gì đó đã xảy ra. - Giáo sư nói. - Một điều gì đó đổi thay thật lớn. Điều đó đã làm cho em nó bỏ lại cha mẹ ở phía sau, và chạy đi một mình. Nhưng Eri đã không bao giờ nói một lời về nó.
- Có thể em không thể diễn tả nó bằng lời, bởi vì nó có thể là một cú sốc quá lớn, hoặc nó là nỗi khổ tâm trong cuộc sống của em.
- Không, em nó không trông giống như vậy, không giống như là đã trải qua một cú sốc lớn, hoặc là sợ một cái gì đó, hoặc là không thoải mái, để tách rời khỏi cha mẹ của mình. Em nó chỉ bình thản. Tuy nhiên, em nó thích nghi với cuộc sống ở đây, mà không có một vấn đề gì - gần như quá dễ dàng.
Giáo sư liếc nhìn về phía cánh cửa, và sau đó trở lại cái nhìn của mình về Tengo.
- Bất cứ điều gì đã xảy ra với Eri, bác không muốn khuấy động nó. Bác cảm thấy em nó cần có thời gian. Vì vậy, bác đã không thắc mắc. Bác đã giả vờ không quan tâm về sự im lặng của em nó. Eri luôn nói chuyện với Azami. Sau khi Azami đi học về, chúng nó vội vàng ăn bữa tối, và đóng cửa ở kín trong phòng. Chúng làm gì trong đó, thì bác không biết. Có lẽ chúng tìm thấy một cách để trò chuyện, khi chỉ có chúng với nhau. Bác để cho chúng làm theo ý chúng, mà không can thiệp. Ngoài sự im lặng của Eri, thì em nó sống với chúng tôi không có vấn đề gì. Em nó là một đứa trẻ ngoan ngoãn, và em nó làm những gì được sai bảo. Eri, và Azami hầu như không thể tách rời nhau. Khi quay lại với bác, Eri đã không thể đi học. Em nó không thể nói được một từ. Bác không an lòng, khi cho em nó trong tình trạng như vậy đến trường.
- Chỉ có bác, và Azami trước đó ở đây?
- Vợ bác qua đời cách đây khoảng mười năm. - Giáo sư đáp, và tạm dừng một lúc. - Bác gái đã chết trong một tai nạn xe hơi. Ngay lập tức. Một cú đụng xe trực tiếp. Bác gái đã bỏ lại bác, và Azami. Chúng tôi có một người họ hàng xa, một phụ nữ, người sống ở gần đó, đã giúp chúng tôi việc nhà. Bà cũng chăm sóc cho cả hai cô gái. Bác gái mất là cả một sự khủng hoảng, cho cả Azami, và cho bác. Nó xảy ra quá nhanh, chúng tôi đã không có sự chuẩn bị để đón nhận điều đó. Vì vậy, bất cứ điều gì đã mang Eri lại cho chúng tôi, chúng tôi đã rất vui mừng khi có em nó. Thậm chí nếu chúng tôi không thể có một cuộc trò chuyện với em nó, chỉ cần có em nó trong ngôi nhà, cũng làm cho cả hai chúng tôi hạnh phúc. Trong bảy năm, Eri, mặc dù rất chậm, cũng đã dần lấy lại việc sử dụng các từ. Với những người khác, nó có thể là âm thanh kỳ lạ bất thường, nhưng với chúng tôi thì em nó đã có những tiến bộ đáng kể.
- Hiện giờ em còn đi học? - Tengo hỏi.
- Không. Em nó có đăng ký để đi học, nhưng chỉ thế thôi. Thực tế mà nói, em nó không thể theo kịp chương trình học. Bác đã hướng dẫn em nó vào những lúc rảnh rỗi, giống như là bác dạy thêm tại nhà. Những gì em nó tiếp thu rất rời rạc, tất nhiên, bác không thể gọi nó là một nền giáo dục có hệ thống. Eri không thể tự đọc sách một mình, vì vậy chúng tôi sẽ đọc to cho em nó nghe, và thu âm lại trên băng. Đó là tổng hợp của sự giáo dục mà em nó đã nhận được. Nhưng em nó lại là một cô gái thông minh. Một khi em nó đã quyết tâm để tìm hiểu một cái gì đó, em nó có thể hấp thụ rất nhanh chóng, sâu sắc, và có hiệu quả. Khả năng của em nó về điểm đó là tuyệt vời. Tuy nhiên, nếu có một cái gì đó, mà em nó không quan tâm, em nó sẽ chẳng nhìn tới hai lần. Sự khác biệt giữa hai điều trên như đêm và ngày.
Cánh cửa phòng khách vẫn chưa mở. Chắc phải mất một khoảng thời gian đủ lâu để cho Eri đun sôi nước, và pha trà.
Tengo nói:
- Cháu được biết là Eri kể câu chuyện Air Chrysalis cho Azami nghe. Có phải không bác?
- Như bác đã nói, Eri và Azami luôn luôn đóng cửa trong phòng vào ban đêm, và bác không biết chúng đang làm những gì. Chúng có bí mật của riêng chúng. Tuy nhiên, một đôi lúc, những câu chuyện kể của Eri đã trở thành một phần quan trọng trong giao tiếp của chúng. Azami sẽ ghi chú, hoặc chép lại câu chuyện của Eri, và sau đó gõ vào máy tính dùng trong nghiên cứu của bác. Eri đã từng bước phục hồi khả năng của mình, khi trải nghiệm những cảm xúc từ chuyện đó, theo bác nghĩ là như vậy. Sự vô cảm của em nó, giống như một tấm màn bao phủ tất cả mọi thứ, nhưng đã được vén lên từ từ. Một số biểu hiện đã trở lại trên khuôn mặt của em nó, và em nó ngày càng giống một cô bé hạnh phúc, mà chúng tôi đã từng được biết.
- Như vậy, em đang trên con đường phục hồi?
- Vẫn còn một số chức năng chưa cải thiện tốt. Nói chung, thì cháu nói đúng. Sự phục hồi của em nó, có thể đã bắt đầu từ lúc em nó kể ra câu chuyện.
Tengo nghĩ về điều này một lúc. Sau đó, anh đã thay đổi chủ đề:
- Bác có nói chuyện với cảnh sát về sự mất liên lạc với ông bà Fukada?
- Có. Bác đã đến gặp cảnh sát địa phương. Bác không nói cho họ biết về Eri, nhưng bác đã nói là không thể liên lạc được với bạn bè của bác bên trong công xã trong một thời gian dài, và bác lo sợ họ có thể bị điều gì đó làm tổn hại. Vào thời điểm đó, cảnh sát nói họ chẳng thể làm gì được. Tổ hợp Sakigake là sở hữu tư nhân, và không có bằng chứng rõ ràng nói lên có hoạt động tội phạm ở trong nó, do đó họ không thể bước chân vào. Bác cố gắng thuyết phục họ, nhưng họ đã không lắng nghe bác. Và sau đó, sau năm 1979, thực sự là không thể thực hiện một cuộc điều tra tội phạm ở bên trong Sakigake.
- Điều gì đã xảy ra vào năm 1979? - Tengo hỏi.
- Năm đó, Sakigake được cấp giấy công nhận chính thức như là một tôn giáo.
Tengo đã kinh ngạc.
- Một tôn giáo?
- Quả thật là đáng kinh ngạc. Sakigake đã được xem như là một ‘Tôn giáo có pháp nhân’ theo Luật Hội Đồng Tín Ngưỡng. Thống đốc quận Yamanashi đã chính thức cấp danh hiệu cho nó. Một khi nó đã có nhãn 'Tôn giáo có pháp nhân’, Sakigake hầu như được miễn dịch, đối với bất kỳ việc điều tra tội phạm nào của cảnh sát. Một cuộc điều tra như vậy, sẽ là một sự vi phạm tự do tín ngưỡng tôn giáo, đã được Hiến pháp qui định. Cảnh sát Quận không thể chạm vào họ.
Bản thân bác đã rất ngạc nhiên, khi bác được nghe cảnh sát nói điều này. Lúc mới nghe, bác đã hoàn toàn không thể tin nổi. Ngay cả sau khi họ đã cho bác thấy bằng văn bản, và với quan điểm của bác, đã rất khó khăn để bác thừa nhận đó là một sự thật. Fukada là một trong những người bạn của lâu năm nhất của bác. Bác biết rõ ông ta – con người, và tính cách. Là một nhà văn hóa nhân chủng học, mối liên hệ giữa bác và tôn giáo cũng có chút ít. Nhưng không giống như bác, Fukada lại là một người hoàn toàn thiên về chính trị, là những người tiếp cận tất cả mọi thứ bằng sự logic, và lý trí. Ông đã rất dị ứng với tôn giáo. Thật không có cách nào, để ông sẽ phải chấp nhận một ‘Tôn giáo pháp nhân’, ngay cả khi ông có một lý do chiến lược để làm như vậy.
- Thừa nhận một điều như vậy quả là không dễ dàng đối với bác.
- Cũng không nhất thiết phải làm như thế. - Giáo sư nói tiếp. – Dù sự thật, là ta có thể phải đối mặt với nhiều sự kiểm tra, cộng với tệ nạn quan liêu, nhưng nếu ta mềm dẻo trong vấn đề chính trị, ta vẫn có thể vượt qua những rào cản như vậy khá dễ dàng. Sự phân biệt giữa tôn giáo, và giáo phái luôn luôn là một vấn đề tinh tế. Không có một định nghĩa chuẩn cho sự phân biệt này. Sự rao giảng chính là cốt lõi của mọi vấn đề. Và nơi nào là chỗ để rao giảng, thì luôn luôn sẽ có chỗ cho khuynh hướng chính trị. Một khi ta đã được chứng nhận là ‘Tôn giáo pháp nhân’, thì ta sẽ nhận được những ưu đãi thuế quan, và được pháp luật bảo vệ đặc biệt.
- Dù sao thì Sakigake đã không còn là một công xã nông nghiệp bình thường, và đã trở thành một tổ chức tôn giáo - một tổ chức tôn giáo với những hoạt động bí mật đáng sợ. - Tengo mạo hiểm bình luận.
- Đúng, một ‘tôn giáo mới’. - Giáo sư đáp. - Hoặc, nói thẳng thừng hơn, là một giáo phái.
- Cháu không hiểu. – Tengo nói. – Chắc là phải có một cái gì đó vô cùng đặc biệt, đã xảy ra đối với họ, và làm cho họ trải qua một sự chuyển đổi triệt để.
Giáo sư nhìn thật lâu vào lưng bàn tay của mình, trên đó phủ những đám lông dày màu xám.
- Cháu nói đúng . -Ông nói tiếp. - Bác đã tự hỏi chính mình trong một thời gian rất dài. Bác đã đưa ra tất cả các khả năng, nhưng không có câu trả lời cuối cùng. Điều gì đã xảy ra? Nhưng khi họ đã áp dụng một chính sách hoàn toàn bí mật như vậy, thì không thể tìm ra những gì đang xảy ra bên trong đó. Và không chỉ vậy, Fukada, người từng là lãnh đạo của Sakigake, lại chưa bao giờ một lần công khai ra mặt, kể từ khi họ đã trải qua sự chuyển đổi của họ.
- Và trong khi đó, phe Akebono đã không còn tồn tại sau cuộc đấu súng của họ cách đây ba năm. – Tengo nói.
Giáo sư gật đầu.
- Sakigake đã tồn tại, sau khi họ đã cắt đứt quan hệ với Akebono, và bây giờ họ đang liên tục phát triển như là một giáo phái.
- Có nghĩa là các cuộc đấu súng không có ảnh hưởng gì đến Sakigake.
- Đúng vậy. - Giáo sư đáp. – Nó còn là sự quảng cáo tốt cho họ. Họ thông minh. Họ biết làm thế nào để biến những thứ khác thành lợi thế tốt nhất cho mình. Tất cả điều này đã xảy ra, sau khi Eri đã rời khỏi Sakigake. Như bác đã nói trước đó, chuyện của Akebono không có liên quan gì đến Eri.
Tengo cảm nhận rằng, Giáo sư đang hy vọng để thay đổi chủ đề. Anh hỏi ông:
- Bác đã từng đọc Air Chrysalis?
- Tất nhiên. - Giáo sư trả lời.
- Bác nghĩ gì về nó?
- Đó là một câu chuyện rất thú vị. - Giáo sư đáp. – Câu chuyện gợi lên rất nhiều liên tưởng. Về những gì, thì bác không chắc chắn lắm, để có thể cho cháu biết. Bác không biết con dê mù, hoặc Little People, hoặc Air Chrysalis mang ý nghĩa gì.
- Bác có nghĩ rằng câu chuyện, là một sự ám chỉ về một cái gì đó, mà Eri thực sự trải qua, hoặc chứng kiến trong Sakigake?
- Có lẽ vậy, nhưng bác không thể biết bao nhiêu là có thật, và bao nhiêu là tưởng tượng. Nó có vẻ như một câu chuyện thần thoại, hoặc nó có thể được xem như là một câu chuyện ngụ ngôn khéo léo.
- Eri nói với cháu Little People thực sự có tồn tại. – Tengo nói.
Một nếp nhăn hiện lên trên trán của Giáo sư khi ông nghe điều này. Ông hỏi:
- Cháu có nghĩ rằng Air Chrysalis mô tả những điều đã thực sự xảy ra?
Tengo lắc đầu.
- Cháu đang cố gắng để nói rằng, mọi chi tiết trong câu chuyện được mô tả rất thực tế, và đây chính là một sức mạnh lớn lao của tác phẩm, như là một phần quan trọng mà một tiểu thuyết hay phải có.
- Và bằng cách viết lại câu chuyện theo cách của cháu, với văn phong riêng của cháu, để cháu cố gắng đưa một điều gì đó, từ câu chuyện đang ám chỉ trở thành một hình thức rõ ràng hơn? Phải vậy không?
- Dạ đúng. Nếu tất cả diễn ra tốt đẹp.
- Chuyên môn của bác là văn hóa nhân chủng học. - Giáo sư nói. – Dù bác đã từ bỏ vai trò của một học giả một thời gian trước đây, nhưng sự đam mê kiến thức về nó vẫn còn. Một vấn đề trong lĩnh vực của bác, là nghiên cứu mối quan hệ của những tư tưởng của các cá nhân, khám phá trong những tư tưởng đó, các yếu tố phổ quát cho con người, và lại áp dụng những chân lý phổ quát đó, về lại cho các cá nhân. Kết quả đạt được của quá trình này, là mọi người có thể phụ thuộc về một cái gì đó, ngay cả khi họ đang duy trì quyền tự chủ của họ. Cháu có hiểu những gì bác đang nói?
- Cháu nghĩ là hiểu.
- Có lẽ đó là cũng là một quá trình tương tự đang diễn ra trong người cháu.
Tengo mở tay của mình trên đầu gối.
- Nhưng cũng không dễ khám phá ra điều đó.
- Nó đáng để thử.
- Cháu thậm chí không chắc chắn rằng, cháu có khả năng làm được hay không.
Giáo sư nhìn Tengo. Có một tia sáng đặc biệt lóe lên trong mắt ông.
- Những gì bác muốn biết, chính là những gì đã xảy ra với Eri bên trong Sakigake. Bác cũng cần biết số phận của Fukada, và vợ của ông. Bác đã bằng mọi cách trong suốt bảy năm qua, để cố gắng làm sáng tỏ những câu hỏi này, nhưng bác đã không nắm bắt được một đầu mối duy nhất. Bác như bị chắn lại bới một bức tường dày vững chắc, trên đường đi của mình. Chìa khóa để mở những bí ẩn này, có thể đã được ẩn đâu đó trong tác phẩm. Miễn là có một khả năng như vậy, dù mơ hồ, bác cũng muốn theo đuổi nó. Bác không nghĩ cháu có có khả năng hay không, nhưng bác biết rằng cháu đánh giá cao câu chuyện, và có mối quan tâm sâu sắc với nó. Và như vậy, theo bác thì cháu đủ khả năng.
- Cháu cần bác trả lời, một câu trả lời rõ ràng, là bác có đồng ý hay không đồng ý cho cháu viết lại tác phẩm. - Tengo nói. - Đó chính là lý do cháu đến gặp bác ngày hôm nay. Cháu có được sự cho phép của bác để viết lại Air Chrysalis?
Giáo sư gật đầu. Sau đó ông nói:
- Bản thân bác sẽ đọc bản viết lại của cháu, và bác biết rằng Eri dường như có rất nhiều niềm tin vào cháu. Em nó chưa từng bao giờ như thế - tất nhiên, ngoài Azami, và bác. Vì vậy, cháu nên thử. Chúng tôi giao việc này vào trong tay của cháu. Chỉ một từ, câu trả lời của bác là có.
Khi Giáo sư ngừng nói, một sự im lặng nặng nề bao trùm căn phòng như là số phận đã định đoạt. Vào thời điểm đó, Fuka-Eri mang trà đến.
Trên đường trở lại thành phố, Tengo chỉ đi một mình. Fuka-Eri đã ra ngoài dắt chó đi dạo. Giáo sư gọi một chiếc taxi đưa Tengo tới trạm Futamatao, để cho anh về trở lại thành phố. Tengo chuyển sang Chuo Line ở trạm Tachikawa. Khi tàu đến Mitaka, có một người mẹ cùng một cô con gái nhỏ lên tàu, và ngồi đối diện với Tengo. Cả hai đều ăn mặc gọn gàng. Quần áo của họ là không phải đắt tiền, hoặc mới, nhưng tất cả chúng đều sạch sẽ, được chăm sóc rất cẩn thận, chỗ nào trắng thì đặc biệt trắng tinh khôi, và chúng được ủi thẳng tắp. Bé gái có lẽ là học sinh lớp hai, hoặc lớp ba, có đôi mắt to, và đẹp. Người mẹ thì khá gầy. Cô buộc tóc thành một búi ở phía sau, đeo kính gọng đen, và mang một túi vải cũ căng phồng. Cái túi dường như được nhồi nhét nhiều thứ bên trong nó. Khuôn mặt người mẹ đẹp một cách hài hòa, nhưng có một dấu hiệu của sự mệt mỏi cho thấy ở rìa bên ngoài của đôi mắt, làm cho cô trông như già hơn tuổi. Bây giờ là giữa tháng tư, nhưng cô mang theo một cái dù với lớp vải bọc chặt chẽ xung quanh, làm nó trông giống như một thanh gỗ bị nứt nẻ dưới ánh nắng mặt trời.
Hai mẹ con ngồi cạnh nhau trong im lặng. Người mẹ như đang nghĩ về một kế hoạch nào đó. Còn bé gái thì giống như đã bị mất đi đồ chơi. Bé nhìn vào đôi giày của mình, nhìn xuống nền, nhìn những quảng cáo treo trên trần xe lửa, và sau đó, bé liếc một cái nhìn trộm Tengo đang ngồi đối diện. Đôi tai to hình bông cải của anh, hình như đã làm dấy lên sự quan tâm của bé. Trẻ em thường nhìn Tengo như thế, giống như anh là một loại động vật vô hại hiếm gặp. Bé vẫn ngồi yên, nhưng mắt lại đảo lia lịa xung quanh quan sát mọi thứ.
Người mẹ và con gái rời xe tại trạm Ogikubo. Khi tàu đang chậm dần để ngừng lại, người mẹ nhanh chóng đứng lên, cầm dù trong tay trái, và túi vải trong tay phải. Cô không nói gì với con gái, nhưng bé cũng nhanh chóng rời khỏi chỗ ngồi của mình, và theo mẹ ra khỏi xe. Khi bé đứng dậy, bé nhìn Tengo lần cuối cùng. Trong mắt bé, anh chợt nhìn thấy một ánh nhìn kỳ lạ, giống như đang thỉnh cầu anh điều gì đó. Nó chỉ là một tia nhìn yếu ớt, nhất thời, nhưng Tengo đã có thể nắm bắt được nó. Anh cảm thấy rõ ràng là bé đã gửi tín hiệu như vậy. Nhưng ngay cả điều này là đúng, dù đó là một tín hiệu có nghĩa cho anh, thì anh cũng chẳng thể làm được gì. Anh không biết gì về tình trạng của bé, và cũng chẳng có chút liên quan nào với bé gái. Sau khi hai mẹ con xuống tàu tại trạm Ogikubo, còn Tengo, vẫn tiếp tục hướng tới trạm kế tiếp. Ba học sinh trung học lên tàu, và bây giờ ngồi tại nơi bé gái đã ngồi. Họ bắt đầu tranh luận về các bài kiểm tra thực hành họ đã làm, nhưng ở chỗ của họ, vẫn còn hình ảnh của cô bé im lặng đọng lại trong anh.
Đôi mắt của cô bé đã làm Tengo nhớ tới một cô bé khác, là người đã học cùng lớp ba, và lớp bốn với Tengo. Cô bé ấy, cũng đã nhìn anh - nhìn sững anh - với đôi mắt như thế này ...
Cha mẹ của cô gái đã theo một tổ chức tôn giáo, tổ chức này có tên gọi là Hội Chứng nhân. Một nhánh (hoặc giáo phái khác – lời người dịch) của Kitô giáo, các Chứng nhân đi rao giảng về ngày tận thế. Họ là những nhà truyền giáo nhiệt thành, và sống cuộc sống của họ theo lời dạy trong Kinh Thánh. Ví dụ như họ sẽ không chịu cho truyền máu. Điều này sẽ làm cho họ hạn chế cơ hội sống sót, nếu như họ bị chấn thương nghiêm trọng trong một tai nạn giao thông. Và một cuộc phẫu thuật lớn, đối với họ là một điều hầu như không thể có. Mặt khác, khi ngày tận thế đến, họ sẽ tồn tại, như là những người đã được Thiên Chúa lựa chọn, và sống hàng ngàn năm trong một thế giới hạnh phúc sau cùng.
Giống như cô bé trên tàu, cô bé có cha mẹ là những Chứng nhân cũng có đôi mắt to và đẹp. Đôi mắt rất ấn tượng. Thật đẹp. Nhưng khuôn mặt cô, lại luôn luôn được bao phủ bởi một tấm màn mờ đục. Nó giống như là xóa đi sự hiện diện của cô. Cô không bao giờ nói chuyện với mọi người, trừ khi điều đó là hoàn toàn cần thiết. Gương mặt của cô không bao giờ cho thấy cảm xúc. Cô luôn mím đôi môi mỏng của mình thành một đường thẳng hoàn hảo.
Tengo đầu tiên đã rất quan tâm đến cô, khi nhìn thấy cô vào cuối tuần cùng với mẹ, đi làm công việc truyền giáo. Những trẻ em trong các gia đình Chứng nhân, được dự kiến sẽ bắt đầu đi kèm với cha mẹ của mình trong hoạt động truyền giáo, ngay sau khi họ đủ lớn để có thể đi bộ. Từ lúc cô được ba tuổi, cô gái sẽ đi từ nhà này sang nhà khác, chủ yếu là cùng với mẹ của cô, phát các tờ rơi có tiêu đề ‘Trước nạn Đại Hồng Thủy’, và giải thích dựa theo học thuyết của các Chứng nhân. Người mẹ sẽ giải thích, bằng một ngôn ngữ dễ hiểu những dấu hiệu của sự hủy diệt, mà nó được thấy rõ ràng trong thế giới hiện nay. Bà gọi Thiên Chúa là ‘Chúa tể’. Tại phần lớn các ngôi nhà, mọi người sẽ đóng sầm cánh cửa trước mặt họ. Điều này xảy ra là bởi vì học thuyết của họ, chỉ đơn giản là quá hẹp hòi, phiến diện, không thực tế - hoặc ít nhất theo suy nghĩ của mọi người là nó không thực tế. Tuy nhiên, trong một lần tuyệt vời nào đó, họ sẽ tìm được một ai đó sẵn sàng lắng nghe họ. Trên thế giới, tất nhiên có những người, muốn có một người nào đó để trò chuyện về bất cứ điều gì. Trong số vài người này, có đôi khi hiếm hoi, có người sẽ thực sự tham gia cùng với họ. Rồi chính người đó, lại sẽ đi từ nhà này sang nhà khác, bấm chuông cửa, tìm kiếm một người khác trong hàng ngàn người. Họ đã được giao phó một nhiệm vụ thiêng liêng, để hướng dẫn thế giới hướng tới sự thức tỉnh, dù chỉ là tối thiểu, thông qua các nỗ lực liên tục của họ. Cái mà họ nhận được, giá trị hơn bất cứ thứ gì, hơn cả hạnh phúc thực tế có thể ban cho họ.
Bất cứ khi nào Tengo nhìn thấy cô, thì cô luôn đang trên đường đi truyền giáo cùng với mẹ. Một tay, người mẹ cầm một túi vải nhét đầy các bản sao ‘Trước nạn Đại Hồng Thủy’, và tay kia cầm một cái dù. Cô theo sau mẹ một vài bước, môi mím lại thành một đường thẳng như mọi khi, khuôn mặt không biểu lộ cảm xúc. Tengo đã đi ngang qua cô trên đường phố nhiều lần cũng cùng một kiểu như cô, khi anh cũng trên đường đi cùng với cha mình, thu lệ phí đăng ký NHK. Anh sẽ nhận ra cô, và cô cũng sẽ nhận ra anh. Mỗi khi điều này xảy ra, anh nghĩ rằng, anh có thể nhìn thấy một số tia sáng bí mật trong mắt cô. Tất nhiên, hai bên không bao giờ nói chuyện. Không có lời chào nào giữa họ. Cha của Tengo đã quá bận để thu phí, và mẹ của cô đã quá bận để rao giảng ngày tận thế. Cậu bé và cô bé, chỉ đơn giản là chạy ngang qua nhau trên đường phố vào Chủ nhật, khi chúng đi theo công việc của cha mẹ, và chỉ tạm thời trao đổi với nhau qua ánh mắt.
Tất cả các bạn học trong lớp đều biết rằng cô là một tín hữu Chứng nhân. "Vì lý do tôn giáo", cô không bao giờ tham gia sự kiện Giáng sinh, hoặc trong những chuyến dã ngoại của nhà trường, hoặc tham quan học tập trong các chuyến thăm đền thờ Shinto, hay đền thờ Phật giáo. Cũng không tham gia trong các cuộc thi thể thao, hoặc thi hát các bài hát ở trường, hay hát quốc ca. Những hành động đó, chỉ có thể được xem là cực đoan, ngày càng cô lập cô với các bạn cùng lớp. Cô bắt buộc phải cầu nguyện – thật lớn tiếng, rõ ràng, để cho các bạn khác có thể nghe thấy mọi lời cầu nguyện- những lời cầu nguyện đặc biệt trước khi ăn bữa ăn trưa ở trường học. Không có gì đáng ngạc nhiên, khi các bạn cùng lớp thấy người bạn này hoàn toàn đáng sợ. Cô có thể không mong muốn thực hiện trước mặt họ. Nhưng cô đã được dạy thấm nhuần rằng, những lời cầu nguyện phải được đọc trước bữa ăn, và ta không được phép bỏ qua chúng, chỉ đơn giản bởi vì không có các tín hữu khác đang quan sát ta. ‘Chúa tể’ nhìn thấy tất cả mọi thứ - ngay cả những điều nhỏ nhặt nhất - từ trên cao.
‘Lạy Chúa tể trên Thiên Đàng, tên của ngài được cầu nguyện trong sự tinh khiết mãi mãi, và nước trời hãy đến với chúng con. Xin tha thứ tội lỗi của chúng con, và xin Ngài hãy ban phước lành cho cuộc sống tầm thường của chúng con. A Men.’
Bộ nhớ quả thật kỳ diệu! Tengo có thể nhớ lại mọi lời cầu nguyện của cô, mặc dù anh đã không nghe nó đã hai mươi năm. Nước trời hãy đến với chúng con. "Nước trời này sẽ như thế nào?" ,Tengo, khi còn là một cậu học sinh tiểu học, đã tự hỏi mình mỗi lần anh nghe thấy lời cầu nguyện của cô gái. Trong đó có NHK không? Không, có lẽ là không. Nếu không có NHK, tất nhiên sẽ không có người đi thu lệ phí. Và nếu đúng như vậy, thì nước trời nên đến sớm hơn thì tốt biết bao nhiêu.
Tengo chưa bao giờ nói một lời với cô. Họ học trong cùng một lớp, nhưng đã không có cơ hội để cho họ nói chuyện trực tiếp với nhau. Cô luôn luôn kín đáo, và sẽ không nói chuyện với bất kỳ ai, trừ phi cô buộc phải nói. Trong không khí cô lập của lớp, không có cơ hội cho anh để đi qua, và nói chuyện với cô. Dù vậy, trong trái tim của mình, Tengo hoàn toàn thông cảm với cô. Vào ngày chủ nhật, trẻ em nên được phép cho đi chơi với các trẻ khác, để chúng hòa đồng với nhau, chứ không phải đi xung quanh đe dọa mọi người cho đến khi họ trả tiền lệ phí, hoặc làm mọi người sợ hãi bằng việc cảnh báo ngày tận thế. Những công việc như vậy - trong phạm vi dù cần thiết – cũng nên được thực hiện bởi người lớn.
Tengo đã một lần, mở rộng bàn tay giúp đỡ cô, khi xảy ra một sự cố nhỏ. Nó xảy ra vào mùa thu lúc họ đang học lớp bốn. Một trong những học sinh đã trách cô, khi họ đang ngồi tại cùng một bàn, cùng nhau thực hiện một thí nghiệm khoa học. Tengo không thể nhớ chính xác lỗi của cô như thế nào, nhưng kết quả là một cậu bé đã chế nhạo cô đi "phát những tờ rơi ngu ngốc từ nhà này sang nhà khác." Cậu ta cũng gọi cả "Chúa tể" của cô. Đây là một hành động bất thường - thay vì bắt nạt, trêu chọc cô, những đứa trẻ khác, thường bỏ qua cô, đối xử với cô như thể cô không tồn tại. Nhưng khi hoạt động chung để làm một thí nghiệm khoa học, không có cách nào cho chúng loại trừ cô. Trong trường hợp này, lời của cậu bé quả thật là độc địa. Tengo nằm trong nhóm ở bàn tiếp theo, nhưng anh không thể giả vờ rằng anh đã không nghe thấy bất cứ điều gì. Không biết lý do tại sao, anh cảm thấy không thể làm lơ chuyện này.
Tengo đi đến bàn đó, và nói với cô nên tham gia nhóm của anh. Anh đã làm điều này gần như là một phản xạ, mà không suy nghĩ sâu sắc, hay do dự. Sau đó, anh đã giải thích chi tiết của thí nghiệm cho cô nghe. Cô rất quan tâm đến lời nói của anh, hiểu chúng, và đã sửa chữa sai lầm của mình. Đây là năm thứ hai mà cô, và Tengo học trong cùng một lớp, nhưng đây là lần đầu tiên anh đã nói chuyện với cô (và cũng là cuối cùng). Tengo là một học sinh xuất sắc, và ngoài ra anh còn là một cậu bé to lớn, mạnh mẽ làm cho những người khác phải đối xử tôn trọng, do đó, không ai dám trêu chọc anh khi bảo vệ cô - ít nhất là vào lúc đó. Nhưng sau này, vị trí của anh trong mắt lớp học dường như đã giảm đi một bậc, như thể anh đã pha một số tạp chất của cô vào người mình.
Tengo chẳng bao giờ bận tâm về chuyện này. Anh chỉ biết rằng cô chỉ là một cô gái bình thường. Nhưng họ không bao giờ nói với nhau một lần nữa sau đó. Không cần, hoặc không có cơ hội – để nói chuyện. Bất cứ khi nào đôi mắt của họ gặp nhau, có một chút căng thẳng sẽ hiển thị trên khuôn mặt của cô. Anh có thể cảm nhận nó. Anh nghĩ, có lẽ cô đã bị làm phiền, bởi những gì anh đã làm cho cô trong thí nghiệm khoa học. Có thể cô đã nổi giận với anh, và mong muốn rằng anh nên để cô một mình. Anh gặp khó khăn trong việc đánh giá những gì cô cảm thấy về vấn đề này. Dù sao, anh vẫn còn là một đứa trẻ, và có thể chưa đọc được những thay đổi tâm lý tinh tế từ biểu hiện của một người con gái.
Sau đó, vào một ngày, cô đã nắm lấy tay của Tengo. Nó xảy ra vào một buổi chiều nắng đẹp đầu tháng mười hai. Ngoài cửa sổ lớp học, anh có thể nhìn thấy bầu trời trong xanh, và những đám mây trắng đang trôi. Buổi học đã kết thúc, và hai người là những người cuối cùng rời khỏi lớp, sau khi hoàn thành việc dọn sạch phòng. Không có ai khác ngoài họ. Cô sải bước nhanh qua phòng, đi thẳng đến Tengo, như thể cô đã chuẩn bị cho điều đó. Cô đứng bên cạnh anh, không chút do dự, nắm lấy bàn tay, và mắt nhìn thẳng vào anh. (Anh cao hơn mười cm, vì vậy cô phải ngước lên.) Vô cùng bất ngờ, Tengo nhìn lại cô. Đôi mắt của họ đã gặp nhau. Trong đôi mắt cô, anh có thể thấy một chiều sâu trong suốt mà anh chưa bao giờ thấy trước đây. Cô vẫn tiếp tục nắm tay của anh trong một lúc lâu, không nói gì, nhưng không một lần giảm sức nắm mạnh mẽ của cô. Sau đó, thình lình, cô bỏ tay anh ra, và lao ra khỏi lớp học, váy cô tung bay trong gió.
Tengo không biết cái gì đã xảy ra với anh. Anh tiếp tục đứng đó, như người câm. Suy nghĩ đầu tiên của anh là, anh cảm thấy vui mừng khi cảm thấy rằng, họ đã không được nhìn thấy bởi bất kỳ ai. Biết đâu, nó có thể gây ra những chuyện to nhỏ xầm xì? Anh lại nhìn xung quanh, bớt đi căng thẳng lúc đầu, và sau đó anh mới cảm nhận được cái nắm tay sâu sắc.
Người mẹ và con gái, ngồi đối diện anh giữa trạm Mitaka và Ogikubo, cũng có thể là các tín hữu Hội Chứng nhân. Họ có thể đang có một chủ nhật bình thường trong hoạt động truyền giáo của họ. Nhưng không, họ cũng có thể chỉ là một người mẹ bình thường, dẫn con gái trên đường đi học thêm. Cái bao vải, có thể có sách âm nhạc piano, hoặc giấy học thư pháp. Tengo nghĩ, tôi chỉ là quá nhạy cảm với rất nhiều thứ. Anh nhắm mắt lại, và thở một hơi dài, chậm. Thời gian chảy theo những cách kỳ lạ vào ngày chủ nhật, và khung cảnh trở nên bị bóp méo bí ẩn.
Về nhà, Tengo làm cho mình một bữa ăn tối đơn giản. Anh đã không ăn trưa. Khi anh đã ăn xong, anh nghĩ về việc gọi cho Komatsu, người sẽ muốn nghe kết quả của cuộc gặp. Nhưng hôm nay là chủ nhật; Komatsu sẽ không ở tại văn phòng. Tengo đã không biết số điện thoại nhà của anh ta. Tốt thôi, nếu như anh ta muốn biết như thế nào, thì anh ta có thể gọi cho tôi.
Điện thoại reo khi kim của đồng hồ trôi qua mười giờ, và Tengo đã nghĩ đến việc đi ngủ. Anh cho rằng đó là Komatsu, nhưng giọng nói trên điện thoại hóa ra lại là bạn gái lớn tuổi có chồng của anh.
- Em không thể rời nhà lâu, anh có phiền không nếu em qua bên anh rồi về ngay, trong chiều mốt? - Cô hỏi.
Anh nghe thấy một số nốt nhạc piano trong điện thoại. Anh đoán chắc chồng cô không có nhà.
- Được. - Anh nói. Nếu cô đến, việc viết lại Air Chrysalis sẽ bị gián đoạn một chút, nhưng khi anh nghe thấy giọng nói của mình, Tengo nhận ra mình đang rất muốn cô tới. Sau khi gác điện thoại, anh đi vào bếp, rót cho mình một ly Wild Turkey, và uống nó cạnh bồn rửa chén. Sau đó, anh vào giường, đọc một vài trang của một cuốn sách, rồi ngủ thiếp đi.
Giấc ngủ mang Tengo đến kết thúc một ngày chủ nhật khác lạ trong đời anh.
(Hết chương 12)
CHƯƠNG 13
AOMAME
SINH RA ĐỂ LÀM NẠN NHÂN.
Khi nàng tỉnh dậy, nàng nhận thấy đầu đau như búa bổ. Aomame không bao giờ bị đau đầu. Dù nàng uống nhiều bao nhiêu, thì sáng hôm sau nàng sẽ tỉnh như sáo, và có thể hoạt động ngay mà không có vấn đề gì. Đây là một niềm tự hào của nàng. Nhưng hôm nay lại khác. Nàng cảm thấy một cơn đau nhói trong đầu mình, và nàng nhìn thấy mọi thứ như qua một đám mây mù mỏng. Nó làm cho nàng cảm thấy như đã có một vòng sắt thắt chặt xung quanh đầu. Kim của đồng hồ đã trôi qua mười giờ sáng, và ánh nắng cuối buổi sáng đâm sâu vào mắt của nàng. Một xe máy đang xuống đường, và xả đầy âm thanh động cơ nhức óc như tra tấn, vào căn phòng của nàng.
Nàng trần truồng nằm trên giường, nhưng nàng hoàn toàn không nghĩ ra làm thế nào để mặc đồ trở lại. Hầu hết quần áo nàng đã mặc trong đêm trước, đang nằm rải rác khắp sàn nhà. Nàng như đã xé chúng ra khỏi người. Chiếc túi đeo vai của nàng đang nằm trên bàn. Bước qua những mảnh quần áo nằm rải rác, nàng đi vào nhà bếp, và uống liên tục nhiều ly nước lấy từ vòi. Sau đó, nàng vào phòng tắm, rửa sạch mặt bằng nước lạnh, và nhìn thân thể trần truồng của mình trong tấm gương lớn. Nàng lại gần kiểm tra, và không thấy có vết bầm tím nào . Nàng thở phào nhẹ nhõm. Tuy nhiên, cơ thể của nàng luôn giữ lại một âm hưởng, một cảm giác đặc biệt luôn luôn có vào các buổi sáng, sau khi nàng đã trải qua một đêm căng thẳng, mệt mỏi trong quan hệ tình dục – một sự ngọt ngào ở bên trong ta có một sức khuấy động mạnh mẽ. Nàng dường như có một cảm giác xa lạ ở giữa mông của mình. Lạy chúa, Aomame nghĩ, bằng cách nhấn ngón tay vào trán. Tất cả chúng đều cũng đã làm điều đó? Chết tiệt, sao tôi lại không nhớ một điều gì.
Với bộ não vẫn còn bị mù mờ, và bàn tay ấn vào tường, nàng đã tắm dưới vòi sen nóng, chà xát cơ thể mình bằng xà phòng, và nước, trong hy vọng khôi phục bộ nhớ, hoặc gợi nhớ đến một cái gì đó - của đêm qua. Nàng rửa sạch bộ phận sinh dục, và hậu môn với sự chăm sóc đặc biệt. Nàng gội đầu. Tiếp theo, nàng đánh răng, hơi co người lại vì hương vị bạc hà của kem đánh răng. Cuối cùng, nàng nhặt đồ lót, và vớ mặc đêm qua từ sàn phòng ngủ, không thèm liếc nhìn chúng, thẳng tay ném chúng vào giỏ đồ giặt ủi.
Nàng kiểm tra lại đồ trong túi đeo vai trên bàn. Ví nằm bên phải, như cũ, và các thẻ tín dụng, ATM cũng thế. Phần lớn tiền của nàng cũng còn ở trong đó. Tiền mặt nàng đã xài đêm qua, chỉ là tiền xe taxi quay về nhà, và điều duy nhất mất tích từ túi của nàng là bao cao su - chính xác là bốn cái. Tại sao lại bốn? Trong chiếc ví có một tờ gấp giấy ghi một số điện thoại ở Tokyo. Nàng hoàn toàn không nhớ làm sao có được số điện thoại này.
Nàng nằm ườn ra trên giường trở lại, và cố gắng nhớ những gì có thể về đêm qua. Ayumi đã đi qua bàn của những người đàn ông, sắp xếp mọi thứ theo cách quyến rũ của cô, rồi cả bốn người đã cùng uống, và tất cả họ đều có tâm trạng phấn khích. Phần sau đó diễn ra theo cách thường thấy. Họ lấy hai phòng trong một khách sạn kinh doanh gần đó. Theo như kế hoạch, Aomame quan hệ tình dục với người ốm tóc thưa, và Ayumi với người trẻ to lớn. Làm tình tương đối tạm được. Aomame, và người đàn ông của mình đi tắm cùng nhau, rồi hai người sau đó tham gia làm tình qua đường miệng một lúc lâu. Nàng bảo ông ta mang một chiếc bao cao su, trước khi sự thâm nhập diễn ra.
Một giờ sau, chuông điện thoại reo, và Ayumi hỏi hai người đã xong chưa, để họ qua phòng tiếp tục uống. Aomame đồng ý, và một vài phút sau đó, Ayumi cùng người đàn ông của cô qua phòng nàng. Họ kêu một chai rượu whisky, một ít nước đá, và bốn người cùng uống như một bộ tứ thân thiết.
Điều gì đã xảy ra sau đó, Aomame có thể không nhớ lại thật rõ ràng. Có vẻ như nàng đã say ngay, sau khi tất cả bốn người uống cùng nhau một lần nữa. Việc lựa chọn thức uống đã làm được điều nó có; Aomame hầu như không bao giờ uống rượu whisky. Hoặc nàng có thể cho phép mình được buông thả, vì có một bạn nữ đồng hành gần đó, thay vì chỉ có một mình với một người đàn ông. Nàng mơ hồ nhớ rằng, họ đã thay đổi đối tác. Tôi nằm trên giường với người trẻ, và Ayumi đã làm tình với người tóc thưa trên ghế sofa. Tôi chắc là như thế. Và sau đó ... tất cả mọi thứ sau đó như bị phủ sâu trong một màn sương mù. Tôi không thể nhớ được điều gì. Oh, có thể tốt hơn là không nhớ. Hãy để tôi quên đi mọi thứ. Tôi đã có một đêm quan hệ tình dục hoang dã. Tôi có lẽ không bao giờ gặp những gã đó một lần nữa.
Nhưng anh chàng thứ hai có đeo bao cao su? Đó là một trong những điều làm Aomame lo lắng. Tôi không muốn có thai, hoặc bị một cái gì đó từ một sai lầm ngu ngốc đến như vậy. Có lẽ là không sao. Tôi sẽ không lặp lại sai lầm đó, ngay cả khi tôi say ngoài ý muốn.
Hmm, tôi có một số công việc dự kiến ngày hôm nay không? Không có. Hôm nay là thứ bảy. Không có công việc nào vào thứ Bảy. Oh, khoan đã. Tôi có một việc. Vào lúc 3 giờ. Tôi phải đi tới nhà Willow House, và làm giãn cơ bắp cho bà. Bà đã đến gặp bác sĩ làm một số xét nghiệm ngày hôm qua. Tamaru đã gọi một vài ngày trước, chuyển đổi cuộc hẹn của chúng tôi đến ngày hôm nay. Tôi hoàn toàn quên. Nhưng tôi còn tới bốn giờ rưỡi từ bây giờ cho đến 3 giờ chiều. Chứng đau đầu của tôi tới lúc đó sẽ hết, và tôi sẽ bình thường trở lại.
Nàng pha cho mình một vài ly cà phê nóng, và tống chúng vào dạ dày của mình. Sau đó, nàng đã dành phần còn lại của buổi sáng nằm trên giường, chỉ bận một áo choàng mỏng, nhìn chằm chằm lên trần nhà. Đó là một trong thói quen của nàng. Không phải là trần nhà làm nàng thích thú. Nhưng nàng thích vậy. Trần nhà không phải đưa vào phòng để làm cho mọi người giải trí. Đồng hồ đã chỉ quá trưa, nhưng nàng vẫn không đói. Động cơ xe máy, và xe hơi vẫn còn ong ong trong đầu nàng. Quả là một sự đau đâu khó chịu đích thực, mà lần đầu tiên nàng bị như vậy.
Dù vậy, việc làm tình đêm đó đã làm cho cơ thể nàng cảm thấy khoan khoái. Có một người đàn ông ôm nàng, ngắm nhìn thân thể trần truồng của nàng, vuốt ve, liếm, cắn, và thâm nhập sâu trong nàng, để rồi đem đến cho nàng cực khoái, giúp cho nàng giải phóng được sự căng thẳng trong lòng nàng. Đúng vậy, dù dư vị là cảm thấy đau đầu khủng khiếp, nhưng nó thực sự đáng giá.
Nhưng chẳng lẽ tôi sẽ mãi như thế này? Aomame tự hỏi. Tôi có thể làm thế được bao lâu? Tôi sắp ba mươi tuổi, và chẳng bao lâu sẽ đến bốn mươi.
Nàng quyết định không nghĩ về điều này nữa. Tôi sẽ nghĩ đến chuyện đó sau, khi tôi rãnh rỗi. Không phải là tôi không muốn đối mặt với chuyện đó vào lúc này. Chỉ là, khi cần suy nghĩ nghiêm túc về những vấn đề như vậy, tôi…
Vào lúc đó, điện thoại reo. Nó như tiếng gầm rú trong tai Aomame, giống như một chiếc tàu siêu tốc chạy trong đường hầm. Nàng loạng choạng bước xuống giường, và cầm ống nghe. Kim đồng hồ lớn treo trên tường lớn chỉ vào đúng 12 giờ 30.
Một giọng nữ khàn khàn nói tên cô ấy. Đó là Ayumi.
- Vâng, chị nghe đây. - Nàng trả lời.
- Chị khỏe không? Giọng chị nghe giống như đang đuổi theo xe buýt.
- Cũng gần như vậy.
- Có đau đầu không?
- Có. Đau lắm. - Aomame đáp. - Làm thế nào em biết điện thoại nhà của chị?
- Chị không nhớ sao? Chị đã viết nó cho em. Còn số của em chị cất trong ví của chị. Chúng ta đã nói về việc sẽ gặp nhau sớm.
- Oh, vậy sao? Chị không nhớ gì cả.
- Em cũng nghĩ chị có thể không nhớ. Em đã lo lắng về chị. Đó là lý do tại sao em gọi cho chị. - Ayumi nói. - Em muốn chắc chắn rằng chị đã về nhà không bị sao. Em đã dìu chị vào một chiếc taxi tại Roppongi Crossing, và nói với người lái xe, địa chỉ của chị.
Aomame thở dài.
- Chị không nhớ, chị nghĩ là chị đã tự về. Chị tỉnh dậy trên giường của mình.
- Vâng, thế là tốt rồi.
- Giờ em đang làm gì?
- Em đang làm việc, làm những gì mà em có nghĩa vụ phải làm. - Ayumi nói. - Em lái xe chạy xung quanh trong một chiếc xe tuần tra nhỏ, và viết vé phạt đậu xe từ lúc 10 giờ. Em đang nghỉ ngơi.
- Rất ấn tượng. – Aomame nói. Nàng ám chỉ đêm qua.
- Em chỉ có một giấc ngủ ngắn. Dù sao, đêm qua rất vui vẻ! Một đêm tốt nhất mà em có được, cám ơn chị.
Aomame ép ngón tay vào trán.
- Để cho em biết sự thật, chị không nhớ nhiều “hiệp thứ hai”. Chị muốn nói là sau khi em đã đến phòng của chị.
- Thật lãng phí! - Ayumi nói trong kinh ngạc. – Nó thật là tuyệt vời! Bốn chúng ta đã làm tất cả mọi thứ. Chị sẽ không tin nổi. Nó giống như là một bộ phim khiêu dâm. Em và chị đã đóng vai đồng tính nữ. Và sau đó …
Aomame vội vã ngắt lời.
- Không phải chuyện đó. Chị chỉ muốn biết là chị có sử dụng bao cao su hay không. Chị lo lắng về chuyện đó. Chị không thể nhớ.
- Tất nhiên là có. Em rất nghiêm ngặt về chuyện đó. Em hoàn toàn chắc chắn, do đó, chị không phải lo lắng. Ý em là, khi em không viết vé phạt, em đi tới các trường trung học trong khu vực, tổ chức các khóa hội thảo cho các cô gái, và giảng dạy họ đúng cách sử dụng bao cao su. Em đưa ra những hướng dẫn rất chi tiết.
- Cách sử dụng bao cao su? - Aomame đã bị sốc. - Một nữ cảnh sát giảng dạy như thế cho học sinh trường trung học?
- Vâng, ý tưởng ban đầu của em là để cung cấp thông tin ngăn chặn tội phạm tình dục, như là sự nguy hiểm của hiếp dâm khi hẹn hò, hoặc hiếp dâm tập thể trên tàu điện ngầm, nhưng sau đó em thêm vào thông điệp cá nhân của riêng em về bao cao su. Một số học sinh sẽ quan hệ tình dục là điều không thể tránh khỏi, vì vậy em đã nói với chúng để chắc chắn rằng chúng không mang thai ngoài ý muốn, đồng thời phòng tránh bệnh hoa liễu. Tất nhiên, em không thể nói trực tiếp, khi có các giáo viên của chúng trong phòng. Nó cũng giống như bản năng chuyên nghiệp của em. Dù em uống bao nhiêu đi nữa, thì em cũng không bao giờ quên. Vì vậy, chị không cần phải lo lắng. Chị hoàn toàn ‘sạch sẽ’. Không bao cao su, sẽ không có sự xâm nhập. Đó là phương châm của em.
- Cảm ơn em. – Aomame đáp. – Em nói làm chị nhẹ cả người.
- Này, chị có muốn nghe về những thứ chúng ta đã làm?
- Có thể sau này vậy. - Aomame nói, sau khi thở phào nhẹ nhõm. – Chị sẽ nghe em kể những chi tiết ngọt ngào vào lúc khác. Nếu em kể bây giờ, đầu chị sẽ bể ra làm hai.
- Được, em hiểu rồi. Gặp chị sau. - Ayumi nói với giọng hào hứng. – Chị biết đấy, kể từ khi em tỉnh dậy, em đã nghĩ chúng ta là một đội tuyệt vời. Chị không phiền nếu em gọi cho chị một lần nữa? Em muốn nói, khi mà em sẵn sàng cho một đêm như đêm qua.
- Chắc chắn rồi. - Aomame.
- Ồ, tuyệt vời.
- Cảm ơn em đã gọi.
- Bảo trọng. - Ayumi nói, và cúp máy.
Vào lúc 2 giờ, nàng đã cảm thấy đỡ nhiều, phải cảm ơn cà phê đen, và một giấc ngủ ngắn. Cơn đau đầu, may mắn đã hết. Tất cả những gì còn sót lại của sự khó chịu trong người nàng, chỉ còn là một cảm giác mỏi trong cơ bắp. Nàng rời khỏi căn hộ, mang túi đeo vai – tất nhiên, không có cây tuốc-nơ-vít đặc biệt, chỉ có một sự thay đổi về quần áo, và nàng mang theo một cái khăn tắm. Tamaru gặp nàng ở cửa trước như thường lệ.
Anh ta đưa nàng tới một sunroom dài, và hẹp. Một cửa sổ lớn đang mở đối diện với khu vườn, nhưng nó đã được bao phủ bởi một bức màn ren để bảo vệ sự riêng tư. Một hàng chậu cây đứng trên bục cửa sổ. Bản nhạc cổ điển đang phát ra từ một loa nhỏ trên trần – một bản sô nát chơi bằng dương cầm của thế kỷ XV. Ở giữa phòng có một bàn massage. Bà góa quí tộc mặc một chiếc áo choàng trắng, đang nằm úp mặt trên đó,.
Khi Tamaru rời khỏi phòng, thì Aomame thay quần áo. Bà quay đầu lại để xem Aomame cởi đồ từ chỗ tựa trên bàn massage. Aomame không quan tâm về việc bà nhìn thấy nàng khỏa thân, vì hai người đều là phụ nữ. Chuyện này xảy ra hàng ngày đối với các vận động viên thể thao trong đội, và bản thân bà cũng đã gần như khỏa thân trong quá trình mát-xa, để kiểm tra tình trạng cơ bắp của bà được dễ dàng. Aomame cởi bỏ quần áo trong của nàng, đặt chúng trên một móc đồ phù hợp ở trên, và dưới. Nàng gấp bộ đồ mặc ngoài, và đặt chúng vào một góc.
- Trông người cháu thật là săn chắc. – Bà ngồi dậy.
- Dạ. Cảm ơn bác đã khen. – Aomame đáp.
- Ngày xưa bác cũng giống như cháu.
- Cháu có thể thấy điều đó. - Aomame trả lời. Ngay cả bây giờ, dù đã ở lứa tuổi bảy mươi, bà vẫn còn lưu giữ lại trên người dấu ấn lúc còn trẻ. Cơ thể của bà không nhũn nhão, và thậm chí ngực bà vẫn còn săn. Ăn uống có chế độ hợp lý, và tập thể dục hàng ngày đã lưu giữ vẻ đẹp tự nhiên của bà. Aomame đoán rằng điều này còn được bổ sung bởi phẫu thuật thẩm mỹ, loại bỏ một số nếp nhăn định kỳ, và chỉnh sửa một chút xung quanh mắt, và miệng.
- Cơ thể của bác vẫn còn khá đáng yêu. – Aomame thêm.
Bà nhẹ cong môi.
- Cảm ơn cháu, nhưng nó không như ngày xưa.
Aomame không trả lời câu này.
- Bác đã có niềm vui rất lớn, khi mà cơ thể của bác gần giống như lúc trước. Bác rất mừng với điều đó, cháu hiểu ý bác muốn nói.
- Cháu hiểu. – Aomame trả lời.
- Và cháu có thưởng thức thành quả cháu đã đạt được?
- Dạ có. Bây giờ và sau này. – Aomame đáp.
- Nói thôi chưa đủ. – Bà nói, nằm úp mặt trở lại. - Cháu phải thưởng thức nó ngay khi cháu vẫn còn trẻ. Hãy tận hưởng nó cho thật là đầy đủ. Cháu có thể hồi ức về những gì cháu đã từng làm, và cơ thể của cháu sẽ ấm áp lúc cháu đã về già, khi mà không thể làm được những điều như vậy với nó nữa.
Aomame nhớ lại đêm hôm trước. Hậu môn của nàng vẫn còn giữ lại một cảm giác nhẹ của việc được thâm nhập. Những kỷ niệm này thực sự làm ấm cơ thể của nàng trong tuổi già?
Aomame đặt tay của mình trên cơ thể của bà, và tập trung vào việc kéo giãn các cơ bắp. Bây giờ, những cảm giác khó chịu trước đó còn lại trong cơ thể của nàng cũng đã biến mất. Một khi nàng đã thay đổi quần áo, và chạm vào cơ thể của bà, những dây thần kinh của nàng trở nên nhanh nhạy như nó vốn có.
Những ngón tay của Aomame dò tìm trên cơ bắp của bà, giống như là đang theo các con đường trên bản đồ. Nàng nhớ chi tiết đến các mức độ kéo căng của mỗi cơ bắp, độ cứng, và khả năng chịu đựng của nó, theo cách giống như một nghệ sĩ dương cầm nhớ một đoạn nhạc dài. Trong các vấn đề liên quan đến cơ thể, Aomame sở hữu một quyền hạn bộ nhớ tuyệt vời. Và nếu như lúc nào đó nàng quên, những ngón tay của nàng sẽ nhớ. Nếu có một cơ bắp nào đó, nàng cảm thấy nó có chút nhỏ khác biệt hơn bình thường, nàng sẽ kích thích nó từ các góc độ khác nhau, bằng cách sử dụng các mức độ khác nhau của sức mạnh, kiểm tra để xem những kiểu phản ứng mà nàng sẽ nhận được từ nó, cho dù nó sẽ dẫn đến đau đớn, hay sự hài lòng, hay là cái gì khác của khách hàng. Nàng sẽ không chỉ đơn giản là nới lỏng những chỗ thắt của một cơ đang kéo, mà nàng để cho bà trực tiếp di chuyển bằng cách sử dụng sức mạnh của chính bà. Tất nhiên có những bộ phận của cơ thể, không thể di chuyển chỉ bằng sức mạnh của chính mình, và đối với những bộ phận đó, Aomame sẽ nỗ lực tập trung vào co giãn. Chẳng có cơ bắp nào nở nang, nếu không có những nỗ lực hàng ngày chăm sóc nó.
- Bác có đau không? - Aomame hỏi. Cơ háng của bà cứng hơn bình thường – hơi thô tục. Tay của nàng đặt trong vùng rỗng xương chậu của bà, Aomame hơi cong đùi bà lại ở một góc đặc biệt.
- Rất nhiều. - Bà nói trong nhăn nhó.
- Tốt. - Aomame nói. – Thật tốt là bác cảm thấy đau. Nếu nó không đau, bác sẽ có vấn đề rất nghiêm trọng với nó. Sẽ đau thêm một chút. Bác có thể chịu đựng được?
- Vâng, tất nhiên. – Bà đáp. Không cần phải hỏi bà nhiều lần. Bà có thể chịu đựng rất nhiều đau đớn. Hầu hết thời gian, bà im lặng chịu đựng. Bà có thể nhăn mặt, nhưng bà không bao giờ khóc. Aomame thường thấy những người đàn ông to lớn, mạnh mẽ đã khóc trong đau đớn từ việc mát-xa của nàng. Nàng thật sự ngưỡng mộ sức mạnh chịu đựng của bà.
Đặt khuỷu tay phải của mình lên người bà như một điểm tựa, Aomame tiếp tục làm cong đùi bà. Chuyển động đó làm bà dội lên một cơn đau nhói. Bà thở hổn hển, nhưng không nói gì.
- Xong rồi. – Aomame nói. Bác sẽ cảm thấy tốt hơn rất nhiều.
Bà thở một hơi dài. Mồ hôi lấp lánh trên trán bà.
- Cảm ơn cháu. – Bà nói thì thầm.
Aomame đã dành một giờ kéo giãn tất cả các cơ bắp trên cơ thể của bà, kích thích chúng, duỗi chúng ra, và nới lỏng các khớp. Quá trình này sẽ gây ra nhiều đau đớn, nhưng nếu không đau đớn như vậy thì không có gì sẽ được giải quyết. Cả hai, Aomame, và bà đều biết điều này là hoàn toàn tốt, vì vậy họ đã trải qua việc mát-xa gần như không nói gì. Bản sô-nát đã kết thúc từ lúc nào, và máy nghe nhạc CD đã dừng. Tất cả những gì có thể nghe thấy bây giờ là tiếng chim kêu trong vườn.
- Toàn bộ cơ thể của bác cảm thấy rất nhẹ nhàng lúc này! – Bà nói sau khi xong được một lúc. Bà úp mặt sâu trên bàn massage, chiếc khăn lớn nằm phía dưới bà đầy mồ hôi.
- Cháu vui vì bác nói thế. – Aomame đáp.
- Thật là tốt khi bác có cháu! Bác sẽ buồn nếu cháu rời khỏi bác.
- Bác đừng lo, cháu không có kế hoạch để đi bất cứ nơi nào.
Bà dường như ngần ngại một lúc, và sau một khoảng im lặng ngắn ngủi, bà hỏi:
- Bác không muốn tò mò chuyện riêng. Cháu đã có yêu một người nào đó chưa?
- Dạ có. - Aomame.
- Bác vui khi nghe cháu nói vậy.
-Thật không may, anh ấy không yêu cháu.
- Sao thế, tại sao cháu nghĩ rằng anh ta không yêu cháu? Khách quan mà nói, bác nghĩ rằng cháu là một người phụ nữ trẻ hấp dẫn.
- Anh ấy còn thậm chí không biết cháu tồn tại.
Bà mất một vài phút để nghĩ về những gì Aomame đã nói.
- Cháu không có bất kỳ mong muốn nào, để cho anh ta biết một thực tế là cháu có tồn tại?
- Không phải vào lúc này. – Aomame đáp.
- Có vấn đề gì sao – có một cái gì đó ngăn cản cháu?
- Có một vài điều, hầu hết trong số đó là những cảm xúc riêng của cháu.
Bà nhìn Aomame với sự ngưỡng mộ rõ ràng.
- Bác đã gặp rất nhiều người kỳ lạ trong cuộc đời, nhưng cháu có thể là một trong những người kỳ lạ nhất.
Aomame gần như nở một nụ cười.
- Cháu không có gì kỳ lạ. Cháu chỉ trung thực với cảm xúc của riêng cháu.
- Cháu muốn nói khi cháu đã đặt ra một quy tắc, cháu sẽ làm theo nó?
- Bác nói đúng.
- Vậy là cháu đang có một chút bướng bỉnh, và cháu có xu hướng khác người.
- Có thể sự thật là vậy.
- Nhưng đêm qua cháu đã đi hoang.
Aomame đỏ mặt.
- Làm thế nào bác biết điều đó?
- Nhìn vào làn da của cháu. Và bác có thể ngửi thấy nó. Cơ thể của cháu vẫn còn có dấu vết của nó. Khi già người ta biết rất nhiều điều.
Aomame cau mày trong giây lát.
- Cháu cần điều đó. Bây giờ và sau này. Cháu biết nó không có gì để đáng khoe khoang.
Bà vươn tay và nhẹ nhàng đặt lên người Aomame.
- Tất nhiên, cháu sẽ cần điều đó trong một thời gian. Đừng lo, bác không trách cháu. Chỉ là bác cảm thấy cháu cần phải có một hạnh phúc bình thường như những người khác – lấy người cháu yêu thương, hạnh phúc mãi mãi.
- Cháu còn chưa nghĩ đến. Nhưng nó sẽ không được dễ dàng như vậy.
- Tại sao không?
Aomame đã không trả lời câu hỏi này. Nàng không có lời giải thích đơn giản.
- Nếu cháu cảm thấy cần nói chuyện với ai đó về những vấn đề của riêng cháu, xin hãy nói với bác. – Bà nói, rút tay ra khỏi người Aomame, và lấy khăn lau mồ hôi trên mặt. – Về bất cứ điều gì. Bác nghĩ có thể bác giúp được cháu.
- Cảm ơn bác rất nhiều. – Aomame đáp.
- Một số chuyện không thể giải quyết được bằng cách buông thả mình mỗi đêm.
- Bác nói hoàn toàn đúng.
- Cháu không nên làm bất cứ điều gì mà sẽ hủy hoại cháu? – Bà nói – Bất cứ điều gì? Cháu có chắc chắn với bác vậy không?
- Có, cháu chắc chắn. – Aomame nói. Bà nói đúng. Tôi không nên làm bất cứ điều gì sẽ hủy hoại tôi. Còn nữa, còn một cái gì đó vẫn đang nằm lặng lẽ trong đầu nàng. Cũng giống như cặn lóng lại trong một chai rượu vang.
Ngay lúc này, Aomame nhớ lại các sự kiện xung quanh cái chết của Tamaki Otsuka. Nó đã làm nàng tan nát cõi lòng khi nghĩ rằng, nàng không còn có thể nhìn thấy, và nói chuyện với Tamaki. Tamaki là người bạn thực sự đầu tiên nàng từng có. Họ có thể kể cho nhau nghe về mọi thứ. Aomame chưa từng có một người bạn nào như Tamaki trước đây, và cho đến bây giờ cũng không có. Không ai có thể chiếm được vị trí của cô ở trong lòng nàng. Kể từ khi mất đi Tamaki, Aomame đã có một cuộc sống đau khổ, và ảm đạm hơn rất nhiều.
Nàng, và Tamaki cùng một độ tuổi. Họ cùng là đồng đội trong câu lạc bộ Softball của trường trung học công lập. Từ trung học cơ sở, cho đến khi vào học trung học, Aomame đã đam mê trò chơi Softball. Lúc đầu, nàng đã tham gia bất đắc dĩ, khi nàng được yêu cầu vào một nhóm cho đủ người, nhưng những nỗ lực của nàng đã sớm thể hiện rất tốt, và Softball đã trở thành hơi thở cuộc sống của nàng. Nàng đã bám vào trò chơi, như một người bám vào một cây cột, khi một cơn bão đe dọa thổi anh ta đi. Mặc dù thế, Aomame chưa bao giờ nhận thức được trước đây, nàng vốn là một vận động viên bẩm sinh. Nàng đã trở thành một thành viên chính của cả hai đội, đội của trường trung học cơ sở, và đội trường trung học sau này, giúp cho họ dễ dàng vượt qua giải đấu này, tới giải đấu khác. Điều này đã mang cho nàng sự tự tin vào mình rất lớn. Niềm vui lớn nhất của nàng trong cuộc sống, là được biết rằng nàng rất quan trọng với đội bóng, và trong thế giới nhỏ bé đó, nàng luôn luôn có một vị trí nhất định. Mọi người cần nàng.
Aomame chơi tốt cả công lẫn thủ - là linh hồn của đội bóng, theo nghĩa đen thì nàng vừa là tiền đạo, vừa là hậu vệ. Tamaki Otsuka đóng vai trò phòng ngự cơ sỏ thứ hai của sân trong (là một infielders – lời người dịch), cũng là một vai trò chủ chốt của đội bóng, và cô cũng đã từng là đội trưởng. Tamaki nhỏ người, nhưng có phản xạ tuyệt vời, và thông minh. Cô có thể đọc tất cả các thay đổi của một tình huống ngay lập tức. Với mỗi cú ném, cô biết phía bên nào nghiêng so với trung tâm của trọng lực, và ngay sau khi đập được quả bóng, cô có thể đánh giá theo hướng nó văng ra, và di chuyển tới các vị trí thích hợp.
Không có nhiều infielders có thể làm tốt điều đó. Sức mạnh phán đoán của cô đã cứu đội bóng nhiều lần, khi đang ở vào những hoàn cảnh ngặt ngèo. Cô không đánh xa được như Aomame, nhưng cú đánh bóng của cô khó đoán, và chính xác, cùng với đôi chân chạy rất nhanh. Cô cũng là một người lãnh đạo xuất sắc. Cô đoàn kết mọi người trong đội thành một khối, lập kế hoạch chiến lược, đưa ra những lời khuyên có giá trị cho tất cả mọi người, và truyền nhiệt huyết cho đồng đội trên sân. Sự tập luyện cô đưa ra thật khắc nghiệt, nhưng cô đã làm cho các cầu thủ khác có được sự tự tin, và kết quả là đội phát triển ngày càng mạnh mẽ. Họ đã vào sâu trong giải đấu vô địch khu vực Tokyo, và thậm chí cũng như thế đối với giải đấu liên trường quốc gia. Cả hai, Aomame, và Tamaki đã được lựa chọn, để được vào đội bóng khu vực Kanto toàn sao.
Aomame, và Tamaki ngưỡng mộ tài năng của nhau, không có ai chủ động – một cách tự nhiên họ đã bị thu hút đến gần nhau, cho đến khi mỗi người đã trở thành một người bạn thân nhất của người khác. Họ đã dành nhiều thời gian cho nhau vào mỗi chuyến đội đi thi đấu. Họ kể với nhau về nguồn gốc của họ, không có gì che giấu nhau. Khi còn là một học sinh lớp năm, Aomame cảm thấy không thể sống cùng với cha mẹ, nên nàng bỏ đi, để về sống với bác họ phía bên mẹ. Gia đình bác họ hiểu tình trạng của nàng, và đón tiếp nàng nồng nhiệt như là một thành viên của gia đình, nhưng dù sao, thì cuối cùng, cũng không phải là một gia đình đúng nghĩa thật sự. Nàng thấy cô độc, và thèm khát tình yêu thương. Nàng không chắc chắn tìm thấy cho mình một mục đích, hay ý nghĩa cho cuộc sống của nàng, và nàng đã phải trải qua những tháng ngày vô vị, từ ngày này sang ngày khác. Tamaki thì sinh ra trong một gia đình giàu có, có một vị thế trong xã hội, nhưng mối quan hệ kinh hoàng giữa cha, và mẹ của cô đã biến gia đình thành một mảnh đất hoang. Cha cô hầu như không bao giờ về nhà, và mẹ cô thường xuyên rơi vào trạng thái rối loạn tâm thần. Bà bị chứng đau đầu khủng khiếp, và đôi khi không thể rời khỏi giường trong nhiều ngày. Tamaki, và em trai của cô có tất cả, chỉ thiếu tình thương . Hai chị em thường ăn ở nhà hàng trong khu phố, hoặc những nơi bán thức ăn nhanh, hoặc làm sẵn bữa ăn trưa đóng hộp mang theo. Mỗi cô gái, có lý do để trở thành bị ám ảnh với Softball.
Với tất cả những vấn đề của họ, cả hai cô gái cô đơn đều có cả núi chuyện để kể cho nhau nghe. Khi họ cùng đi với nhau trong một mùa hè, họ đã chạm vào cơ thể trần truồng của nhau trong giường khách sạn. Nó xảy ra chỉ là nhất thời, tự phát, và họ không bao giờ nhắc đến nó nữa. Nhưng bởi vì nó đã xảy ra, nên mối quan hệ của họ phát triển có chiều sâu hơn, và đầy đủ các chi tiết bí ẩn hơn.
Sau khi tốt nghiệp trung học, Aomame vẫn tiếp tục chơi Softball, nàng được vào học tại trường Đại học Giáo dục Thể chất của tư nhân. Sau khi có được tiếng tăm trong nước như là một cầu thủ Softball nổi bật, nàng đã được tuyển dụng, và được cấp một suất học bổng đặc biệt. Trong trường Đại học, nàng cũng là một thành viên chủ chốt của đội bóng. Trong khi dành nhiều năng lượng cho Softball, nàng cũng quan tâm đến y học thể thao, và bắt đầu nghiên cứu nó một cách nghiêm túc, cùng với võ thuật.
Còn Tamaki, thì vào học luật trong một trường Đại học tư nhân danh tiếng hạng nhất. Cô đã không còn chơi bóng chày sau khi tốt nghiệp trung học. Đối với một sinh viên xuất sắc như Tamaki, Softball chỉ là một giai đoạn để lấp chỗ trống khi hụt hẫng. Cô dự định vượt qua thử thách thực tập sinh, và sẽ trở thành một luật sư. Mặc dù con đường của họ trong cuộc sống đã chia đôi, nhưng Aomame, và Tamaki vẫn là người bạn tốt nhất của nhau. Aomame sống trong ký túc xá Đại học, với tiền phòng, và cơm tháng được miễn phí, trong khi Tamaki sống ở nhà mình. Nơi khu đất hoang càng lạnh lẽo hơn bao giờ hết, nhưng ít nhất nó cũng giúp cho cô về mặt kinh tế. Cả hai gặp nhau mỗi tuần một lần, để chia sẻ chung một bữa ăn, hoặc những thứ khác. Họ không bao giờ nói hết chuyện.
Tamaki bị mất trinh tiết, vào mùa thu năm đầu tiên cô học ở trường Đại học. Người thanh niên lớn hơn Tamaki một tuổi, là một thành viên câu lạc bộ quần vợt của trường Đại học. Anh ta mời cô đến phòng của mình sau khi kết thúc party ở câu lạc bộ, và ở đó anh ta ép buộc cô phải quan hệ tình dục với anh ta. Tamaki thích người thanh niên này, nên cô đã chấp nhận lời mời vào phòng của anh ta, nhưng anh ta đã dùng bạo lực ép buộc cô phải quan hệ tình dục, và tự đề cao bản thân mình bằng cách cho mình là trung tâm thu hút phái nữ, đã làm cho cô thấy sốc khủng khiếp. Cô đã rời khỏi câu lạc bộ quần vợt, và bắt đầu rơi vào trạng thái trầm cảm. Cô như đã mất đi sức sống. Sự thèm ăn của cô biến mất, và cô đã gầy đi 15 pound. Điều cô muốn từ người thanh niên này, là một sự hiểu biết, và thông cảm. Nếu anh ta hiểu cô, và dành thời gian để cho cô chuẩn bị, một chút đau đớn vật lý cho cô sẽ không có vấn đề gì lớn. Cô chỉ không thể hiểu được hành động của anh ta. Tại sao anh ta phải bạo lực với cô? Nó hoàn toàn tuyệt đối không cần thiết!
Aomame an ủi Tamaki, và khuyên cô tìm một cách để trừng phạt anh ta, nhưng Tamaki không đồng ý. Sự bất cẩn của cô cũng góp một phần vào chuyện đó, cô nói, và nó cũng đã quá muộn để trừng phạt.
- Cũng lỗi tại mình, là vào phòng anh ta một mình. - Cô nói. – Bây giờ những gì mình có thể làm là cố gắng quên nó đi.
Nhưng Aomame đã cảm nhận được, nỗi đau đớn sâu sắc của người bạn thân khi bị tổn thương bởi chuyện đó. Điều này không phải chỉ là sự mất mát trinh tiết của cô, mà còn là sự mất mát thiêng liêng trong tâm hồn con người. Không ai có quyền xâm hại vùng thiêng liêng đó với một dấu chân lấm bùn. Và một khi nó đã xảy ra, cảm giác mất đi sức sống sẽ tiếp tục gặm nhấm nạn nhân của nó.
Aomame quyết định sẽ tự mình trừng phạt anh ta. Nàng có địa chỉ của anh ta từ Tamaki, và đi đến căn hộ của anh ta trong tay mang theo một cây gậy Softball bọc trong một ống nhựa. Tamaki trong ngày đó đi Kanazawa, tham dự lễ tưởng niệm một người họ hàng, hoặc đại loại như vậy, là một cái cớ hoàn hảo. Aomame kiểm tra để chắc chắn anh ta không có ở nhà. Nàng sử dụng một cái tuốc nơ vít, và búa để phá khóa cửa nhà anh ta. Sau đó nàng bọc cây gậy bởi một chiếc khăn để làm giảm tiếng ồn, và tiến hành đập vỡ tất cả mọi thứ trong căn hộ có thể đập được - truyền hình, đèn, đồng hồ, các tập hồ sơ, máy nướng, các loại bình: nàng đập toàn bộ. Nàng cắt dây điện thoại bằng kéo, xé đường xương sống của tất cả các quyển sách, và sau đó vứt bừa bãi các trang của chúng, xịt thảm trải nhà bằng kem đánh răng, và bình xịt cạo râu, đổ nước sốt Worcestershire trên giường, lấy quyển nhật ký từ một ngăn kéo, và xé chúng ra thành từng mảnh, bẻ gãy tất cả các cây bút, và bút chì ra làm hai, đập vỡ tất cả các bóng đèn, cắt tất cả các màn cửa, và rạch nát đệm bằng một con dao nhà bếp, cắt tất cả các áo sơ mi trong tủ bằng kéo, đổ một chai nước sốt cà chua vào ngăn đồ lót, và vớ, lấy cầu chì tủ lạnh, và ném nó ra ngoài cửa sổ, lấy cái flapper ra khỏi bồn toalet, xé nát nó ra, và cuối cùng là nghiền nát vòi hoa sen của bồn tắm. Việc tiêu huỷ hoàn toàn có chủ ý, và đầy đủ. Căn phòng trông rất giống như các bức ảnh tin tức gần đây, mà nàng đã từng nhìn thấy, mô tả các đường phố Beirut sau khi bị pháo kích.
Tamaki là một cô gái thông minh (nếu so về điểm số ở trường, thì Aomame không bao giờ có thể hy vọng với tới), và trong môn Softball, cô đã luôn luôn làm chủ. Bất cứ khi nào Aomame rơi vào một tình huống khó khăn, Tamaki sẽ chạy về phía nàng, cho nàng một vài lời khuyên nhanh chóng, tặng kèm theo cho nàng một nụ cười, vỗ vào mông nàng bằng găng tay của cô, và quay trở lại vị trí của mình trong sân trong. Quan điểm của cô thoáng, trái tim cô nhân hậu, và cô có khiếu hài hước. Cô nỗ lực rất nhiều khi vào học ở trường của mình, có thể nói chuyện với tài hùng biện thật sự. Nếu cô vẫn tiếp tục theo đuổi việc học của mình, thì cô chắc chắn sẽ làm một luật sư tốt.
Tuy nhiên, trong sự hiện diện của những người đàn ông, sức mạnh phán đoán của Tamaki đã tan hoàn toàn ra từng mảnh. Tamaki thích đàn ông đẹp trai. Cô là một người khờ dại ưa vẻ bề ngoài tốt mã. Như Aomame thấy, xu hướng này của bạn mình có thể coi là bệnh. Tamaki đã gặp những người đàn ông tuyệt vời, hoặc có tài năng vượt trội hơn cô, họ đã háo hức muốn làm bạn với cô, nhưng nếu nhìn họ không đáp ứng được các tiêu chuẩn của mình, cô đã hoàn toàn không quan tâm. Không hiểu vì sao, những người làm dấy lên sự quan tâm của cô, luôn luôn phải là người có khuôn mặt đẹp, nhưng bên trong họ có khi lại là một sự rỗng không. Và khi cô đến với người đàn ông nào đó, cô sẽ bướng bỉnh chống lại bất cứ lời khuyên nào của Aomame. Tamaki luôn luôn sẵn sàng chấp nhận, và tôn trọng ý kiến của Aomame về các vấn đề khác, nhưng nếu Aomame chỉ trích sự lựa chọn bạn trai của cô, Tamaki chỉ đơn giản là từ chối lắng nghe. Aomame cuối cùng đã từ bỏ cố gắng để tư vấn cho cô. Cô không muốn cãi nhau với Tamaki, và phá hủy tình bạn của họ. Dù sao, nó cũng là cuộc sống của Tamaki. Tất cả điều mà Aomame có thể làm, là phải để cho cô ấy sống với sự lựa chọn của mình. Tamaki đã gặp nhiều người đàn ông trong những năm đại học của mình, và mỗi người đều dẫn đến rắc rối cho cô. Họ luôn luôn phản bội cô, làm tổn thương cô, và cuối cùng từ bỏ cô, để lại một Tamaki mỗi lần như thế trong trạng thái điên dại. Đã hai lần cô phải vào viện để phá thai. Trong trường hợp quan hệ với người khác giới, Tamaki thật sự sinh ra để làm nạn nhân.
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
Kiểu: