BẾN BỜ  HƯ VÔ. 
  Tùy bút Trần Sương Lam     
  Bến Bờ 
  Gọi đò, đò đã sang sông   
  Gọi em, em cũng ngược dòng nhân gian   
  Gọi nhau một khúc tình tan   
  Em, người dưng đã, hoang đàng, thơ tôi!      
  Lời tình còn đọng trên môi   
  Trái tim tôi đã tơi bời xanh xao   
  Sông sâu có khúc bạc đầu   
  Đò em lỡ chuyến biết đâu mà chờ!      
  Khi xưa lỡ một chuyến đò   
  Đi lên đi xuống vòng vo nỗi buồn   
  Bây giờ cách mấy đại dương   
  Muốn thăm em, đâu biết đường mà đi!      
  Chiều phơi cuối ngọn xuân thì   
  Phủi tay, biết có còn gì cho nhau   
  Chuyến đò chở khẳm bể dâu   
  Bỏ tôi ở lại vực sầu lạnh tanh…      
  Hư Vô      
  .......      
  Một buổi trưa không biết ở thời nào   
  Như buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao   
  Có cu gáy, có bướm vàng nữa chứ   
  (Đi Giữa Đường Thơm – Huy Cận)      
  Có  lẽ như nhà thơ Huy Cận đã viết: “Ca dao luôn sống mãi trong bao tâm hồn  Việt. Nó chính là dòng sữa ngọt ngào nuôi lớn đời ta“. Đối với người xa  quê, ca dao dường như đã trở thành quê hương, thành xương thịt, là dòng  tâm tưởng tràn trề, lai láng. Nó gợi nhớ tình quê, gợi những kỷ niệm  một thời xa vắng. Chọn thể thơ lục bát của ca dao, Hư Vô đã làm ta sống  lại những cảm xúc đã dồn nén bao lâu bỗng tuôn trào, lai láng. Đọc Bến  Bờ của thi sĩ ta không chỉ cảm nhận đang về lại quê hương với dòng sông,  con đò, bến đợi và bên tai vẫn cứ văng vẳng những làm điệu dân ca, ca  dao về những tình yêu không trọn vẹn mà chính là ta đang sống trong một  thế giới của âm nhạc, của cảm xúc, suy tưởng.      
  Con đò, dòng sông  là mô típ thường thấy trong ca dao. Ca dao thường mượn hình ảnh con đò,  bến nước, cây đa để thể hiện tình yêu thuỷ chung hay ly biệt, nhớ  thương:      
  – Con đò với gốc cây đa   
  Cây đa muôn thuở chẳng xa con đò.      
  – Cây đa bậc cũ lỡ rồi   
  Đò đưa bến khác bạn ngồi chờ ai.      
  – Gọi đò chẳng thấy đò sang   
  Phải chăng bến cũ phụ phàng khách xưa.      
  “Thuyền đi để bến đợi chờ,   
  Tình đi nghĩa ở bao giờ quên nhau.   
  Chẳng nên tình trước nghĩa sau,   
  Bến này dãi bóng trăng thâu đợi thuyền”      
  Chọn  một hình ảnh thường xuất hiện trong đời sống, trong ca dao, nhà thơ dễ  dàng truyền đến người đọc sự đồng cảm ngay từ phút giây đầu.      
  Gọi đò, đò đã sang sông   
  Gọi em, em cũng ngược dòng nhân gian   
  Gọi nhau một khúc tình tan   
  Em, người dưng đã, hoang đàng, thơ tôi!   
  (Hư Vô)      
  Đoạn  thơ xuất hiện hình ảnh dòng sông, bến đợi, con đò và khách sang sông.  Nhưng tất cả đều thể hiện sự trễ muộn. Đò đã sang sông, em ngược dòng  nhân gian. Câu chữ không theo quy luật, hình ảnh cũng ngược chiều. Tất  cả đều oái oăm, ngang trái. Tình tan, mộng dở dang. Lời gọi đò, gọi em,  gọi nhau chỉ còn là những âm thanh buồn bã, tắt lịm. Dòng sông vẫn trôi,  đò vẫn cứ sang sông không đợi khách bộ hành. Em không chờ tôi về đã vội  vã bỏ đi, lạc hướng mịt mờ bóng chim tăm cá. Tình tan, em - muôn đời  vẫn làm   
  người dưng, hoang đàng theo mỗi bước thơ tôi.      
  “Gọi”  lập lại ba lần, “đò” lập lại hai lần, em- người dưng đã vừa lập lại vừa  nhấn, câu cuối những dấu phẩy cắt câu bát thành bốn theo nhịp 1/3/2/2  diễn tả một sự rối loạn của cảm xúc. Thảng thốt, đau đớn, rã rời để rồi  buông trôi, buông xuôi. Một nỗi đau định hình, sự thất vọng não nề hiện  lên từng câu chữ. Có một chút gì cay trong mắt, có một chút gì nhói  trong tim. Có lẽ là nỗi đau từ khúc tình tan của khách sang sông. Cấu  trúc câu thơ với nhiều thanh bằng nhưng dường như không tạo được cảm  giác nhẹ nhõm mà nhân rộng, toả rộng nỗi đau bởi vần “an”. Ngôn từ, cảm  xúc của thi sĩ gợi tôi nhớ đến Lời thề cỏ may của Phạm Công Trứ:      
  Em đi để lại chuỗi cười   
  Trong tôi vỡ… một khoảng trời pha lê.   
  Trăng vàng đêm ấy bờ đê   
  Có người ngồi gỡ lời thề cỏ may…      
  Phạm  Công Trứ gỡ bỏ lời thề cỏ may, Hư Vô khác xưa, hoang đàng cuộc đời,  hoang đàng thơ. Chữ tình hư ảo sao làm tan nát bao cuộc đời, bao con  người và có đôi khi sự tổn thương đã khép lại hoàn toàn trái tim yêu. Có  lẽ điều này đúng với những người vốn có trái tim đa sầu, đa cảm như  chàng trai đa tình trong thi phẩm. “Hoang đàng” có lẽ là câu chữ của thi  sĩ thể hiện một sự thay đổi của nhân vật trữ tình, con người bình  thường xưa đã không còn nữa, sự thay đổi quả thật đau lòng. Có lẽ chàng  trai không thể chấp nhận được tình tan. Xưa nay tôi vẫn cho rằng tình là  vô thưởng bởi nó đến rồi đi không hề báo trước, chính vi vậy khi tình  yêu tan vỡ có những người không thể vượt qua có lẽ với một người bản  lĩnh cách hành xử trên có phần nào yếu đuối, tiêu cực nhưng chưa hẳn như  vậy bởi điều mình đặt hết tâm huyết vào nếu mất đi không thể xem là  chuyện bình thường, bởi vậy mà “khúc tình tan” của thi sĩ bắt đầu lên  tiếng:      
  Lời tình còn động trên môi   
  Trái tim tôi đã tơi bời xanh xao   
  Sông sâu có khúc bạc đầu   
  Đò em lỡ chuyến biết đâu mà chờ!   
  (Hư Vô)      
  Tình  yêu trong Hư Vô thường là nỗi đau, thường là chia ly. Thi sĩ không nói  rõ vì sao mà ly tan nhưng đôi khi chính người trong cuộc cũng không hiểu  vì sao? Chỉ biết khi tình lỡ nỗi đau dường như làm ta tuyệt vọng. Nhưng  có một điều tôi nhận ra nỗi đau tình trong thơ Hư Vô không quằn quại  của những rên xiết, thét gào mà thật da diết đến đớn đau của những vết  cắt sâu để rồi thành những đoá hoa sầu, những giọt lệ thầm trong đêm sâu  khi chỉ một mình trong thăm thẳm của bóng đêm để rồi thảng thốt chợt  nhận ra mình đã không còn như ngày xưa:      
  Gọi nhau một khúc tình tan   
  … Trái tim tôi đã tơi bời, xanh xao.      
  “Tơi  bời” câu chữ đơn sơ, giản dị gần như là một khẩu ngữ tạo một định hình  cho nỗi đau rất thực. Tơi bời là kết quả của một không gian vừa trải qua  một cơn lũ tràn, một cơn bão lớn. Tất cả tan hoang, vỡ nát, rời rã,  tang thương. Cơn bão tình làm giông tố phá nát hồn anh, đời anh. Cơn bão  đi qua, sự sống rồi sẽ hồi sinh nhưng cơn bão tình thì mãi mãi thổi,  linh hồn thành hoang mạc, nỗi sầu tạo thành quách trong tim. Cơn bão  tình- cõi vô vọng đang hoà vào nhau tạo thành khúc tình tan. Có lẽ nỗi  đau của khúc tình tan sẽ mãi theo chàng thi sĩ suốt những tháng ngày còn  lại. Khi tôi đọc đến câu thơ này tôi liên tưởng đến bài thơ Bão của Tế  Hanh:      
  Cơn bão tạnh lâu rồi   
  Hàng cây xanh thắm lại   
  Nhưng em đã xa xôi   
  Và cơn bão lòng ta thổi mãi.   
  (Tế Hanh- Bão)      
  Để  rồi tôi cảm nhận ra cơn bão lòng tôi vẫn còn thổi mãi một niềm đau quá  khứ có lẽ vì vậy mà tôi hiểu “trái tim xanh xao” của chàng trai, lại một  câu chữ biến hoá trong tay của thi sĩ, lấy nét vẽ ngoại hình “xanh xao”  để miêu tả thế giới nội tâm của riêng mình, một sự nhiễu loạn về màu  sắc đỏ thành xanh, sự sống đã lìa bỏ, đã cạn nguồn khi em rời xa tôi.  Nhẹ mà thấm, mà đau, câu chữ của Hư Vô vốn là vậy. Tim thay màu, không  gian cũng thay màu:      
  Sông sâu có khúc bạc đầu   
  (Hư Vô)      
  Sông  bạc đầu hay màu sông cũng đổi thay dường như là lời tự vấn của thi sĩ.  Em bạc lòng, sông cũng bạc lòng, thiên nhiên vốn ít khi thay đổi mà vẫn  đổi thay huống chi là con người. Em thay lòng, em làm tan nát cuộc đời  tôi lời nhẹ trách mà thương nhiều. Trái tim nhà thơ vốn vậy luôn bao  dung, luôn đầy đạm. Lời trách cứ thành âm vang trôi xuôi theo dòng sông:      
  Đò em lỡ chuyến biết đâu mà chờ!   
  (Hư Vô)      
  Em  đi rồi khó quay trở lại. Nhưng cho dù có trở lại nhưng tất cả đã lỡ  làng, đã kết thúc, câu thơ vang lên một âm thanh buồn bã của sự đợi chờ  vô vọng “biết đâu mà chờ!”. Thời gian không đợi, người không hẹn quay về  chỉ còn lại dòng sông và tâm trạng nỗi sầu của người đợi đò. Câu thơ  gợi nhớ những câu ca dao với những nỗi buồn sông nước:      
  -Nước sông lững đững lờ đờ   
  Thương người nói vậy biết chờ hay không.      
  -Sông sâu cá lội ngù ngờ   
  Biết em có đợi mà chờ uổng công      
  -Sông dài cá lội biệt tăm   
  Thấy anh người nghĩa mấy năm em cũng chờ.      
  -Sông sâu biết bắc mấy cầu   
  Khi thương thì anh thương vội   
  Khi sầu anh để lại cho em      
  Gì  buồn hơn giữa những dòng sông đỏ nước phù sa, con thuyền không thấy  quay về. Dòng sông buồn thấm vào ca dao, chảy tràn qua thơ Hư Vô để thi  sĩ ngẩn ngơ, nuối tiếc, xót xa, hụt hẫng và rồi chỉ biết buông xuôi:      
  Khi xưa lỡ một chuyến đò   
  Đi lên đi xuống vòng vo nỗi buồn   
  Bây giờ cách mấy đại dương   
  Muốn thăm em, đâu biết đường mà đi!   
  (Hư Vô)      
  Ở  khổ thơ thứ hai, “Khi xưa” không và chưa bao giờ mất đi trong lòng thi  sĩ; nó luôn song hành cùng thực tại “Bây giờ” đó là ranh giới của tình  yêu: Anh vẫn không đổi thay. Không gian xưa hẹp chỉ là một bến sông, mà  anh luôn đợi dù biết đợi chờ cũng chỉ để ngậm ngùi “Đi lên đi xuống” tôi  thích chữ “ vòng vo” mà thi sĩ dùng. Đẹp, lạ và mang hơi hướm của ca  dao tạo sự chân thực trong từng câu chữ. Vòng vo là trạng thái đi không  định hướng, câu chữ gợi tôi nhớ đến chàng trai trong bài ca dao “Trèo  lên cây bưởi hái hoa” với động tác trèo lên/ bước xuống dường như vô  thức để diễn tả sự mất phương hướng khi lỡ duyên. Và thi sĩ của chúng ta  lại chọn bến sông để “đi lên đi xuống vòng vo” để diễn tả một cảm xúc  buồn khi tình yêu đã hết. Vòng vo của bước chân lên xuống vô định kia  làm trái tim người đọc cũng như lây nhiễm nỗi đau tình. Hư Vô đang đánh  thức điệu hồn ca dao dậy để nỗi ngậm ngùi như sâu, như rộng, như dài hơn  dường như để bắt kịp không gian. Ngày xưa là một không gian hẹp “bến  sông” bây giờ là một không gian rộng “cách mấy đại dương”. Xưa chỉ một  không gian hẹp mà đã lạc nhau một đời, giờ là không gian rộng thì làm  sao mà tìm! “Muốn thăm em, đâu biết đường mà đi!”. Câu thơ dường như phá  cách trong kỹ thuật hài thanh, câu chữ dường như không xuôi chiều,  dường như có sự chống đối lại nhau. Tôi nghĩ câu thơ có thể viết thành  “Muốn thăm em, biết đường nào mà đi!” nhưng thi sĩ không viết vậy bởi vì  anh muốn dùng “biết đâu” ở khổ thơ trên thành “đâu biết” ở khổ thơ này  như một cách nhấn. Biết đâu là một phủ định, đâu biết cũng là một phủ  định, một khẩu ngữ dù có đảo cách nào đi chăng nữa cũng để thể hiện một  nỗi niềm sự bế tắc, mịt mờ phương hướng của những kiếm tìm. Tôi nghe như  lời tình vô vọng đang vang lên để rồi đọng lại thành nỗi buồn sông  nước. Bến chờ, bến đợi trong ca dao chỉ còn trong tâm tưởng, bến sông  xưa đã ngăn cách mấy đại dương nên bến tình buồn hiu hắt. Tôi thương  những dòng sông đợi đò trong chiều vắng ngắt chỉ có gió lạnh đi qua  không nói năng gì, tôi thương lữ hành đợi người nơi bến vắng chiều mưa  để bao nhiêu hơi buốt giá thấm vào hồn:      
  Chiều phơi cuối ngọn xuân thì   
  Phủi tay, biết có còn gì cho nhau   
  Chuyến đò chở khẳm bể dâu   
  Bỏ tôi ở lại vực sầu lạnh tanh…   
  (Hư Vô)      
  Chiều  xuống, chiều đang rơi, chiều tàn… Đó là cách mà ta thường dùng khi nói  về hoàng hôn, Hư Vô viết “chiều phơi cuối ngọn xuân thì” cách viết vừa  lạ, vừa hình tượng. Tôi tưởng tượng buổi chiều như đang phơi trần trước  ta, dấu vết cuối ngày đã buồn lại càng buồn hơn khi hình ảnh người con  gái ngồi phơi cuối ngọn xuân thì. Cái đẹp dường như đã tàn, đã kết thúc  tạo nỗi ngậm ngùi dài và rồi nhân vật trữ tình cũng rời bỏ nỗi muộn  phiền của đời mình trong một nồi niềm day dứt:      
  Phủi tay, biết có còn gì cho nhau   
  (Hư Vô)      
  Yêu  là để chờ trong muộn màng, nuối tiếc; yêu là để trĩu nặng niềm ray rứt  không nguôi, yêu là những bâng khuâng, nhung nhớ… Tình yêu là hạnh phúc  trong nỗi thương đau, lặng im để tưởng niệm một thời tình đã qua… Phải  chăng trong thi sĩ, trong tôi và chúng ta những người từng có một thời  yêu có phải đã từng cho rằng: Yêu là được nhớ nhung, giữ gìn một ai đó  trong tim dù có trải qua bao dâu biển đổi dời tình ấy không mất đi mà  vẫn luôn nguyên vẹn.Tình yêu không đợi có nhau trong cuộc đời mà nó sẽ  là một hình bóng luôn vẹn nguyên trong tâm hồn ta, nó là động lực giúp  ta đứng lên khi bị cuộc đời xô ngã. “Phủi tay” có nghĩa là buông bỏ, là  không còn nghĩ đến để vui hay để buồn nhưng chỉ là cái động tác ngoại  hình bởì trong tâm hồn ông chữ tình vẫn chất chứa không nguôi “biết có  còn gì cho nhau” một cụm từ phủ định nhưng lại mang ý nghĩa khẳng định  của sự dâng hiến đầy yêu thương. Câu thơ buồn trong từng câu chữ nhưng  lại trĩu nặng những “dấu tích trần ai”. Và trong tận cùng của quá khứ  hình ảnh con đò lại quay trở về:      
  Chuyến đò chở khẳm bể dâu   
  (Hư Vô)      
  Khổ  thơ đầu là “đò”, khổ thơ tiếp là “đò em” và hai khổ còn lại thi sĩ viết  “chuyến đò” như một trình tự tăng tiến đò chở khách qua sông, em là  chiếc thuyền tách bến sang sông một mình và cuối cùng là chuyến đò cuộc  đời. Trễ đò, khách tiếc nhớ, mong đợi. Đò em sang sông, anh hụt hẫng đau  thương. Đò đời chở nặng giông tố, biển dâu chỉ mình anh nhận thì quả  thật là chua xót.      
  Hai câu thơ cuối khoanh tròn kiếp người, kiếp  tình thành nỗi buồn phơi trên ngọn xuân thì. Phủi, bỏ, ở lại.. một loạt  từ diễn tả những trạng thái ngược nhau là những suy ngẫm về cuộc đời, về  tình yêu. Đời là biển dâu, chàng trai đã nhận trong khoảng đời phiêu  bạt, có những nỗi buồn, nỗi nhớ không thể tỏ bày và tình yêu cũng mất  chỉ còn lại thi sĩ và vực sầu lạnh tanh. Lạnh tanh nghĩa là rất lạnh.  Tình lạnh, đời lạnh chồng lên nhau, nỗi đau của tình lỡ, nỗi đau của bể  dâu cuộc đời chỉ mình “tôi” mang không người chia sẻ. Tại sao không là  “để tôi” mà lại là “bỏ tôi”. Chữ bỏ đã nói lên tất cả. Bỏ mặc, không đếm  xỉa, không đoái hoài là sự từ bỏ, bỏ rơi nó là kết quả của tình yêu một  thời tươi đẹp. “Bỏ tôi” đã làm tăng cao nỗi cô đơn, bẽ bàng của thi sĩ,  nó dồn ép cảm xúc là một sự cam chịu đầy cay đắng, tôi thương sự cô đơn  của thi sĩ trong cuộc đời, tôi cảm nhận được vực sầu lạnh tanh mà anh  viết. Hai vần”anh” liền kề tạo một âm vang, âm vang từ đáy vực nên thăm  thẳm mất hút trong không gian nên cuối cùng âm thanh cũng im bặt chỉ còn  lại khoảng trắng lặng im càng tô đậm dáng vẻ cô đơn của nhân vật trữ  tình. “Lạnh tanh” tôi rằng nó là cụm từ đắc địa thể hiện trọn vẹn cảm  xúc của bài thơ. Lạnh của yêu thương, lạnh của nhân tình, cái lạnh đã  trùm suốt bài thơ nhưng càng về cuối cái lạnh càng lạnh hơn nữa thành  một chuỗi âm vang không lời thể hiện cái lạnh lẽo, trơ trọi của một nỗi  đau tình khi chỉ còn mình “anh” đi trên con đường tình, đường đời bơ vơ.      
  Khúc  tình tan của Hư Vô đã cho tôi một khoảng lặng của ngậm ngùi, của xót xa  khi tình yêu tan vỡ. Nếu Xuân Diệu đã từng làm xúc động bao trái tim  người yêu thơ với “Cung Nguyệt Lạnh” thì Hư Vô đã đem đến cho người đọc  mê lộ cùng đường của “Khúc Tình Tan”. Trong khúc ca tan vỡ kia tôi thấy  thấp thoáng bóng của ca dao hiện về với giọng hò thê thiết trên sông  nước mênh mông với những khúc ca não lòng của tình yêu tan vỡ. Tôi tìm  thấy trong khúc tình tan của Hư Vô nỗi chạnh lòng, nỗi thương thân trong  kiếp tình buồn, trong cuộc đời dâu biển đa đoan và khi bài thơ khép lại  thì cái giọt “lạnh tanh” kia chính là giọt sầu, giọt đời thi sĩ, tôi,  bạn đang uống từng ngày và ngày vẫn cứ trôi trong tiếng vọng của ngàn  xưa với khúc tình tan của chàng thi sĩ có tên gọi HƯ VÔ.      
  August, 2018   
  Trần Sương Lam   
                    
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.08.2018 07:15:41 bởi Huvo >