Những tháng ngày khó quên
Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 27 bài trong đề mục
kien0745 05.02.2012 22:28:39 (permalink)
NHỮNG THÁNG NGÀY KHÓ QUÊN

Một: Lên đường

Thế là tôi lên đường. Việc này không nằm ngoài dự đoán. Sau khi đã thông qua các cuộc sát hạch về sức khỏe và các tiêu chuẩn liên quan, việc trúng tuyển là chuyện bình thường thôi. Việc tham gia nghĩa vụ quân sự đã được tôi mường tượng từ trước kia, rất lâu rồi, đến nỗi tôi đã đưa tình tiết này vào truyện tiểu thuyết đầu tay của mình hai năm trước đó.

Trong quãng thời gian khoảng 20 ngày trước khi lên đường, tôi đã cùng bạn bè đi thư giãn nhiều nơi. Lúc đó chúng tôi đều là sinh viên mới ra trường, trong đầu có nhiều hoài bão tương lai, cùng đủ thứ các lý tưởng và chưa bị chi phối bởi những vấn đề cơm áo gạo tiền. Vì vậy việc tôi được đi bộ đội giống như một hành động có cái gì đó to tát. Không biết thực lòng bạn bè họ nghĩ sao, chứ ít ra về sự biểu hiện bên ngoài, họ xem tôi như người hùng vậy. Thời ấy tuổi đời còn trẻ, nên khi đón nhận những thái độ biểu hiện khâm phục này, trong lòng tôi không tránh khỏi dâng trào một niềm kiêu hãnh, như sau này anh Trung đội trưởng của tôi đã từng nói: “Không biết các đồng chí thế nào, chứ ở quê chúng tôi, nhà nào được đi bộ đội thì nhà đó sẽ là niềm tự hào của cả dòng họ!” Tôi thì không đến nỗi là niềm tự hào của cả dòng họ, nhưng ít ra là niềm tự hào của bạn bè đã, vì ngoại trừ tôi và một người bạn học chung ra, số còn lại không ai đi nghĩa vụ quân sự cả.

Trước ngày lên đường một đêm, Phường đã triệu tập tất cả thanh niên trúng tuyển lại và cấp phát cho mỗi người hai bộ quân phục cùng với một chiếc ba lô. Quân phục gồm có quần, áo màu nâu và mũ; trên quần áo chưa có quân hàm và quân hiệu, trên mũ thì chưa gắn hình bông lúa. Lẽ ra toàn bộ thanh niên phải bị giữ lại một đêm trong Phường, nhưng cuối cùng thì đồng chí Chủ tịch Phường đã đồng ý cho mọi người về nhà, với điều kiện là đúng bốn giờ sáng phải có mặt, nếu không thì sẽ bị cho là trốn nghĩa vụ. Sáng hôm sau, khi đã tập trung đầy đủ tại Quận đội, thì các nhân sự liên quan tiến hành các nghi thức chào cờ, thủ tục bàn giao quân số, cuối cùng thì từng tốp một lính mới được phân chia theo phường từ từ bước lên xe.

Xe bắt đầu xuất phát. Tôi cố gắng dõi mắt ra ngoài cửa sổ lần cuối để tìm người nhà giữa rừng người đông đúc đang đứng chờ bên ngoài cổng Quận Đội nhưng vô vọng. Đoàn xe bắt đầu lao vun vút trên đường với lực lượng cảnh sát cơ động mở đường tại phía trước. Cảnh vật từ từ thay đổi, các toà nhà cao tầng tráng lệ dần dần ít đi, rồi sau đó được thay thế bởi các dãy nhà thấp hơn, rồi chuyển sang nhà ngói, và cuối cùng chỉ còn là những cánh đồng bát ngát. Thế là phải rời xa thành phố cùng gia đình và bạn bè thân thương, hẹn gặp lại sau hai năm!

Ngày lên đường, bao nhiêu háo hức thuở ban đầu bỗng như tan biến gần hết, thay vào đó một nỗi buồn không thể tả xiết. Với một kẻ được nuông chiều từ nhỏ, chưa bao giờ xa nhà quá một ngày, giờ đây phải di chuyển hàng trăm cây số để đến một nơi hoàn toàn lạ lẫm, chợt cảm thấy có cái gì đó vượt quá sức bản thân. Lại nghĩ đến cảnh cha mẹ già ở nhà không ai chăm sóc, tôi đã không sao ngăn được hai hàng lệ rơi. Khoảng tám chín năm nay tôi đã không khóc rồi. Giờ đây được trải nghiệm lại, cảm giác quả là mới mẻ làm sao khi người đàn ông khóc.

Đến nơi, sau khi bước ra khỏi xe, một cảm giác là lạ xâm chiếm lấy tôi. Một thứ ánh nắng tựa hồ chưa bao giờ gặp qua, gay gắt và nóng bức khó tả. Đúng là Tây Ninh nắng cháy da người. Nhìn cảnh vật xung quanh, tôi không sao tránh được nỗi thất vọng. Sự tưởng tượng về một nơi khang trang, sạch sẽ và đầy tiện nghi hoàn toàn tan biến; thay vào đó là một khung cảnh phải nói là xác xơ, tiêu điều và đầy cát bụi. Lòng tự nhủ, mình sẽ phải sống như vậy suốt hai năm hay sao?!

Khi đã ổn định xong vị trí tại đơn vị, tôi được sự chỉ dẫn và quản lý bởi các cán bộ trực tiếp. Cũng chính họ là những người phụ trách cấp phát các quân trang và vật dụng cá nhân. Đeo quân hàm lên cầu vai của áo, gắn phù hiệu binh chủng lên ve cổ áo và gắn sao lên mũ, tôi thực sự trở thành bộ đội cụ Hồ từ giây phút ấy. Tôi nhớ mãi mùi hương của chiếc chiếu mới được phát. Nó cho tôi một cảm giác kỳ lạ khó tả nhưng rất dễ chịu; cảm giác đó theo tôi suốt hai năm trời mà không sao quên được.

Đêm đến, mọi thứ diễn ra khá tồi tệ. Cả phòng Trung đội chỉ có hai chiếc bóng đèn vàng yếu ớt. Phải chịu đựng thứ ánh sáng này đúng là một cực hình! Cũng may là sau đó, với sự đóng góp của toàn đơn vị, bóng đèn vàng đã được thay thế bằng đèn huỳnh quang. Từ đó ánh sáng về đêm của phòng được cải thiện hơn.

Đêm ấy, đồng chí Phó Đại đội trưởng chính trị có buổi sinh hoạt đầu tiên với toàn Đại đội và lần lượt giới thiệu các cán bộ sĩ quan trong đơn vị cho các chiến sĩ mới. Sau khi sinh hoạt Đại đội xong, lại thêm một lần sinh hoạt Trung đội nữa, sau khi hoàn thành cũng đúng lúc tiếng kẻng báo hiệu giờ ngủ nghỉ đã đến. Tất cả bộ đội được yêu cầu lên giường ngủ nghỉ. Khi ngủ thì một trăm phần trăm phải mắc màn chứ không được để giường không. Chủ yếu là vì tại nơi đồng không mông quạnh này có rất quá nhiều muỗi đến nỗi ai không mắc màn thì đêm đó đừng ngủ nữa vì suốt đêm sẽ bị muỗi đốt, trong đó không loại trừ các loại muỗi gây bệnh sốt rét rất nguy hiểm. Hôm ấy, chắc do quá mệt mỏi, tôi đã ngủ ngay sau khi nằm xuống không bao lâu mà không hề có cảm giác giường lạ. Ngày đầu tiên trong cuộc đời bộ đội của tôi đã trôi qua như thế. 
#1
    kien0745 06.02.2012 07:07:53 (permalink)
    Hai: Các chế độ trong ngày

    Ngày thứ hai bắt đầu bằng tiếng kẻng báo thức. Cả bọn chủ yếu là người Sài Gòn, quen thức dậy lúc trưa trờ trưa trật, nay nghe tiếng kẻng, hầu hết còn ngơ ngác không biết là chuyện gì. Ngay lập tức, các anh Tiểu đội trưởng lôi cổ cả bọn dậy, tập trung ra ngoài sân, bắt đầu tập thể dục. Lúc đầu chỉ là vài động tác đơn giản thôi, chứ sau này có hẳn một bài tập với nhiều động tác và sẽ được chỉ dẫn từ từ; quá trình học các động tác thể dục cũng đã diễn ra nhiều màn cười ra nước mắt.

    Việc báo thức là một trong những chế độ quy định. Ngoại trừ ngày đầu tiên thức dậy cho phép lề mề vì chưa quen, thì ngày thứ hai trở đi là phải vào khuôn phép. Khi tiếng kẻng vang lên, toàn bộ một trăm phần trăm phải bật khỏi giường ngủ, mặc quần áo và ra ngoài sân tập trung. Đồng chí Trung đội trưởng thường nói: “Ngủ thêm một vài phút không bổ béo thêm được chút nào đâu!”. Vì thế, ai không chịu dậy ngay mà còn ráng ngủ nướng thêm một chút thì sẽ có những cái không sung sướng lắm đón chờ. Một trong những hình thức phổ biến là bị tạt nước ao vào trong giường, kéo theo ngày hôm đó phải đem chăn màn đi giặt; điều đó có phải là khổ hơn dậy đúng không? Tội gì không dậy sớm một chút cho bớt khổ! Cho nên khôn hồn thì đừng có mà lề mề!

    Tập thể dục là một khâu quan trọng cho việc rèn luyện sức khỏe. Nếu không tập thì sẽ không có sức khoẻ để cán đáng những công tác sau này được giao. Vì vậy cho nên sau mỗi buổi tập, các chiến sĩ đều phải hô lên câu: “Rèn luyện thân thể, xây dựng Quân đội! Rèn luyên thân thể, bảo vệ Tổ quốc!”. Như thế đủ biết tầm quan trọng của việc tập thể dục đến mức nào. Thể dục được chia ra nhiều bài và mỗi bài lại có nhiều động tác, sau cùng là một bài võ. Một vài anh chàng trong lúc tập cố tình pha trò, luôn thực hiện những động tác ngộ nghĩnh để chọc cười thiên hạ. Cũng có trường hợp bị dốt bẩm sinh, được chỉ dẫn đến chục lần mà động tác vẫn bị sai. Có lẽ tôi là một trong những thằng của vế sau, cho nên trong lúc học đã bị chửi lên chửi xuống không biết bao nhiêu lần! Những ai diễn sai động tác dù cố ý hay vô tình đều khiến mọi người cười lăn cười bò. Tập thể dục đôi khi được thay thế bằng chạy dài khoảng một đến hai cây số quanh đơn vị.

    Xếp chăn màn là một hành động tiếp theo sau khi đã tập thể dục xong, còn được gọi là xếp nội vụ. Chiếc nội vụ là chiếc chăn bên ngoài bọc chiếc màn bên trong, được xếp lại vuông vức theo một kích cỡ chuẩn. Những chiếc nội vụ vuông vức và sắc cạnh như những chiếc bánh chưng ngày Tết, cộng thêm sự sắp xếp gọn gàng của các đôi giày dép và ba lô chính là các điểm nhấn nổi bật trên những giường ngủ đơn sơ của bộ đội. Sau những lần xếp nội vụ nhìn chẳng giống ai, cuối cùng đã xuất hiện những chiếc nội vụ đẹp và thẳng hàng với nhau từ giường đầu này sang giường đầu kia. Theo Đồng chí Trung đội trưởng: “Xếp nội vụ thể hiện tính tỉ mỉ của bộ đội”, nên việc này cũng phải được chấm điểm thi đua. Những ai bị chấm điểm nội vụ xấu thì nên xác định tư tưởng, làm ơn đừng ngủ trưa, chịu khó ngồi ra ngoài nắng mà xếp cho đẹp mới thôi. Chẳng trách ngày trước, có người bạn của bố tôi từng kể, đứa con bất trị của ông sau khi đi bộ đội về, cái khác làm sao không biết chứ chăn màn luôn luôn được xếp ngăn nắp; mà trước kia anh ta làm biếng có cỡ, hễ cứ ngủ dậy là tót khỏi giường đi mất tăm chứ không bao giờ đếm xỉa đến vụ xếp chăn màn ra sao. Nếu không trải qua, chắc tôi đã không tin vào tính thực tế của câu chuyện ấy rồi.

    Buổi học đầu tiên được đồng chí Đại đội trưởng lên lớp, nội dung là nói về các chế độ trong ngày và trong tuần. Thực hiện nghĩa vụ quân sự nghĩa là thực hiện các chế độ này. Trong gần hai năm trời, ngoại trừ những lúc hành quân dã ngoại để thực hiện công tác đặc thù, thì thời gian còn lại đều phải nghiêm túc tuân theo. Các chế độ được quy định hẳn trong một bảng điều lệ treo trong Phòng giao ban Đại đội. Vì rất lâu sau khi ra quân tôi mới bắt đầu viết bài văn này, nên các chi tiết cụ thể đã quên gần hết, chỉ nhớ gì ghi nấy, sau đó tập hợp lại thành các ghi chép tản mạn. Đại khái các chế độ gồm có thức dậy; tập thể dục; vệ sinh; ăn uống; học tập công tác; lau chùi vũ khí trang bị; thể thao – tăng gia sản xuất; sinh hoạt đơn vị; điểm quân số; ngủ nghỉ. Ngoài ra, trong tuần còn có các chế độ lớn như điểm danh Đại đội; chào cờ đầu tuần và tổng dọn vệ sinh doanh trại.

    Như tôi đã nói lúc nãy, sẽ là không ngoa nếu nói việc thực các chế độ này cũng đồng nghĩa với việc thực hiện nghĩa vụ quân sự và thực hiện kỷ luật quân đội. Thực chất, những quy định thành văn bản này chính là đầu bài cho các công việc được triển khai theo từng trường hợp. Học tập công tác có thể là học quân sự, chính trị hay các công tác hậu cần. Còn những công việc khác thì hiển nhiên phải chấp hành rồi. Ngay từ ngoài cổng Sư đoàn đã đề một bảng hiệu to: “Kỷ luật là sức mạnh của Quân đội”. Hồ Chủ tịch đã dạy: Kỷ luật là sức mạnh của quân đội, do đó kỷ luật phải tự giác, nghiêm minh, phải thực hiện kỷ luật trong dân chủ, dân chủ phải có kỷ luật. Việc tự giác và chấp hành tốt các chế độ thể hiện một phần của việc chấp hành kỷ luật, đồng thời thể hiện được mình là con người văn minh. Thế nhưng, nói thì dễ, chứ việc thực hiện không dễ chút nào. Sẽ không có bất cứ một quân nhân nào, kể cả người gương mẫu nhất dám nói là suốt thời gian thi hành nghĩa vụ, mình chưa bao giờ bỏ chế độ cả.

    Bỏ chế độ tức là không hoàn thành nhiệm vụ. Vì vậy không ăn cũng là không hoàn thành nhiệm vụ. Có thể lý giải việc này như sau, không ăn sẽ không đủ sức khỏe, kéo theo việc không đủ sức thực hiện một số công việc cần đến cơ bắp (thậm chí cả trí óc), hệ quả là làm ảnh hưởng đến công việc chung, nói theo kẻ khó tính thì là góp phần làm suy yếu lực lượng quân đội; vậy là không hoàn thành nhiệm vụ chứ gì nữa. Tóm lại, đến giờ cơm, dù muốn dù không, cũng phải đi ăn. Điều này cũng là một thử thách không nhỏ!

    Xin bàn một chút về chuyện ăn uống để thấy được vì sao khi nói rằng chấp hành nghiêm ngặt chế độ ăn uống lại là một thử thách không nhỏ. Giờ cơm được báo hiệu bằng kẻng. Đến giờ ăn, khi nghe tiếng kẻng vang lên, bộ đội phải xếp hàng theo đội hình để đi vào phòng ăn. Tuyệt đối không được ăn cơm trước kẻng. Trong suốt hai năm, ngoại trừ các ngày lễ lớn trong năm được hưởng chế độ ăn uống đặc biệt, nghĩa là gấp đôi các bữa ăn thường ngày, những ngày còn lại chúng tôi được ăn gần như với một thực đơn cố định: sáng trứng; trưa thịt lợn; chiều cá; còn rau thì không thiếu. Trứng thì hầu hết là trứng luộc, chỉ khi nào không đủ số lượng mới cho ăn trứng chiên. Thịt lợn thì mỡ nhiều hơn thịt. Cá thì được bộ đội đặt cho biệt danh là cá bọc thép! Thức ăn được chế biến trong những chiếc nồi to, nấu trong bếp Hoàng Cầm. Cơm được xúc bằng xẻng và cho vào cơ, canh được múc bằng gàu múc nước đổ vào chậu rồi đưa ra ngoài nhà ăn. Thức ăn thì được bộ phận hậu cần chia sẵn tại mỗi bàn trong nhà ăn. Cơm nấu sống là chuyện xảy ra thường xuyên. Chất lượng bữa ăn, nói xin lỗi, khó nuốt kinh khủng! Nhưng trách sao được khi mỗi bữa ăn của bộ đội chỉ là bảy nghìn rưỡi một người (năm sau được tăng lên thành chín nghìn). Cho nên các anh chàng lính mới bỏ bữa là chuyện thường. Thử hỏi, đám công tử bột trước giờ vốn quen với việc ăn uống hoành tráng này thì làm sao mà nuốt nổi những thứ cơm, nói xin lỗi một lần nữa, chẳng khác cơm thừa canh cặn là mấy ấy chứ! (Xin nêu rõ, ở đây chỉ là cảm nhận của người mới nhập ngũ, chứ không phải là một sự nói xấu nào cả). Vô hình chung lại bỏ chế độ, thậm chí là bỏ nhiều lần chứ không phải ít lần. Chẳng trách vì sao mà các cô bán hàng căn-tin lại mau chóng phất lên đến thế. Cũng may là đến năm thứ hai, các bếp điện công nghiệp đã được nhập về để thay thế bếp Hoàng Cầm cũ, từ đó mức độ cơm sống đã giảm đi đáng kể, đỡ khổ được phần nào. Một điều thú vị nữa là hôm nào thực đơn có món mì tôm thì chẳng khác nào bắt được vàng, ai nấy đều đánh chén một cách ngon lành. Chẳng hiểu sao, trước đây món ấy được cho là tầm thường, thì vào đây lại trở thành món đặc sản!

    Trên đây chỉ là vài cảm nhận ban đầu về quá trình thực hiện công tác, cũng là vài chế độ nhẹ nhàng. Sẽ còn có những cái thú vị hơn nữa sẽ diễn ra, và tôi sẽ lần lượt đề cập sau này.
    #2
      kien0745 06.02.2012 12:35:25 (permalink)
      Ba: Các chế độ trong ngày (tt) - Học tập, công tác, các hình thức sinh hoạt đơn vị

      Học tập và công tác là các chế độ chính trong ngày. Trong ngày nếu không phải học tập thì sẽ là công tác hoặc đôi khi phải thực hiện cả hai. Học tập ở đây có thể là học chính trị, học quân sự hoặc là học về hậu cần, quân y. Còn công tác được hiểu là thực hiện các công việc ngoài việc học tập, có thể là làm một vài công việc lao động chân tay, hoặc được đưa lên bộ phận trên để làm một nhiệm vụ tăng cường nào đó.

      Học chính trị là một phần quan trọng của Quân đội. Học chính trị giúp quân nhân hiểu được tầm quan trọng của Công tác tư tưởng, bảo đảm cho Quân đội ta tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc, và nhân dân; kiên định chủ nghĩa Mác-Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Bảo đảm mọi cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng; nhận thức sâu sắc nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc XHCN trong tình hình mới; thực hiện toàn quân thống nhất về ý chí và hành động, giữ vững và phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Xây dựng quân đội "cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại", không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu trong tình hình mới. Giúp cán bộ, chiến sĩ đạt được bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội; có tinh thần trách nhiệm và ý chí quyết tâm cao. Tích cực đấu tranh chống âm mưu “Diễn biến hoà bình”, "phi chính trị hóa" quân đội của các thế lực thù địch, chống tư tưởng tiêu cực, góp phần giữ vững ổn định tình hình chính trị, tư tưởng trong quân đội. Tạo môi trường văn hóa lành mạnh trong đơn vị. Góp phần nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu và sức mạnh chiến đấu của Quân đội ta.

      Nếu không học chính trị thì chắc chắn không quân nhân nào hiểu và làm được những điều trên. Tuy là thời bình nhưng quân đội ta ở luôn tư thế sẵn sàng chiến đấu. Đồng chí Trung đội trưởng đã từng nói: “Quân đội ta không chỉ bảo vệ bờ cõi lãnh thổ, mà còn bảo vệ cả Đảng và Nhà nước nữa”. Vì vậy, dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, dù là thời bình hay thời chiến, cũng không thể phủ nhận vai trò của bộ đội cả. Vì tầm quan trọng này, các bài giảng chính trị đã được ghi chép lại và sau này còn phải thi kiểm tra hẳn hoi.

      Học quân sự thì có hai trường hợp, một là học tại thao trường, hai là học tại nhà. Học ở thao trường thì cực nhọc hơn học ở nhà nhiều, nhưng lại vui hơn và đỡ buồn tẻ hơn. Việc học tại thao trường tôi sẽ đề cập sau. Trước hết xin bàn một chút về việc học tập có ghi chép.

      Bộ đội được phát hai quyển tập, một quyển để chép những bài học chính trị như đã nêu trên, quyển còn lại dùng để chi chép những bài học điều lệnh quản lý thuộc nhánh quân sự, cùng các công tác và hiểu biết thuộc nhánh hậu cần hoặc quân y như phòng chữa bệnh, chế độ ăn uống…. Các bài học về điều lệnh khá nhiều, trong đó có bài học về các chế độ như đã nói ở phần trước, còn lại là những bài khác, trong đó có phần khá quan trọng là mười lời thề danh dự.

      Ngoài điều lệnh quản lý ra, còn có điều lệnh đội ngũ. Điều lệnh đội ngũ chỉ cách đi, đứng, chào của bộ đội; chỉ cách ăn mặc đúng tác phong, nghĩa là khi quân hàm quân hiệu đầy đủ, xả tay áo, dây mũ kéo xuống cầm thì xem là đầy đủ tác phong. Trường hợp ra khỏi cổng doanh trại thì cũng phải đầy đủ tác phong mới có quyền bước ra ngoài, nhưng phải xắn áo quá khuỷu tay và thu dây mũ lại. Còn nếu học tập sinh hoạt bình thường thì phải xắn tay áo quá khuỷu tay và không đội mũ. Khi đã đầy đủ tác phong mới có quyền đưa tay lên chào.

      Đi điều lệnh đội hình đội ngũ chính là phần quan trọng nhất và khó nhất trong điều lệnh đội ngũ. Phần này nhằm biểu giương sự hùng mạnh của quân đội, bao gồm các động tác xoay bên trái, phải, đằng sau, gióng hàng cho thẳng, và cuối cùng là đi đều và đi nghiêm. Đi đều là đi theo đúng đội hình với chân trái bước lên trước, một tay đánh ngang tầm ngực, tay còn lại đưa ra sau, chân trước cách chân sau một khoảng cách nhất định. Đi nghiêm là đi theo động tác một chân cách mặt đất một khoảng cách, bàn chân song song mặt đất, kết thúc bằng động tác giậm chân và phải phát ra tiếng kêu, hai bàn tay nắm chặt lại, ép sát vào thân, không đong đưa, đầu nghiêng một góc bốn mươi lăm độ hướng về bên phải. Ý nghĩa của đi nghiêm là để chào Thủ trưởng khi bắt đầu diễu qua vị trí chỉ huy. Cả đi đều và đi nghiêm đều được thực hiện theo nhịp của tiếng nhạc, tiếng trống hoặc hiệu lệnh của người chỉ huy. Đi điều lệnh nói chung là để sử dụng cho việc duyệt đội hình đội ngũ, hay là diễu binh. Đi đều và đi nghiêm là phần khó học nhất. Anh chàng nào cũng bị rèn cho mệt nghỉ mới thôi. Tôi cũng là một trong những anh chàng từng bị cho là đi xấu nhất đội hình và đương nhiên bị rèn đến mức nổ đom đóm mắt! Vì được học điều lệnh đội ngũ nên bộ đội bao giờ cũng đi đứng nhanh nhẹn, ngay hàng thẳng lối. Cho dù đi đâu, làm gì, khi tập trung đều phải đứng thành hàng ngang hoặc hàng dọc cho thật thẳng hàng dưới sự điều khiển của chỉ huy. Điều này thể hiện rất rõ tính kỷ luật của quân đội.

      Sinh hoạt buổi tối là công việc sau giờ cơm chiều. Ăn cơm xong, bộ đội mặc áo với quân hàm quân hiệu đầy đủ, không đội mũ, tay áo xắn lên quá khuỷu tay. Tất cả được tập họp lại từng nhóm, theo Tiểu đội hoặcTrung đội để tổ chức sinh hoạt Tiểu đội hoặcTrung đội tương ứng, với người chỉ huy là đồng chí Trung đội trưởng hoặc các đồng chí Tiểu đội trưởng. Nội dung buổi sinh hoạt thường là các vấn đề mang tính xây dựng, hoặc cũng có thể chỉ là ngồi tán gẫu suông nếu không có gì cần bàn nhiều, hoặc Trung đội trưởng sẽ tiến hành họp giao ban với các Tiểu đội trưởng.

      Khoảng sáu giờ bốn mươi, bộ đội thay áo ra, mặc áo thun, quần dài và tiến hành chương trình đọc báo xem tin, hay còn gọi là đọc báo giấy, xem báo hình. Đây cũng là một chế độ trong ngày. Báo giấy là báo Quân đội nhân dân hoặc báo Nhân dân, báo hình thì là chương trình tin tức thời sự của kênh VTV1 phát vào bảy giờ hằng ngày. Kết thúc chương trình thời sự, Trực ban Đại đội sẽ tắt ti vi, bộ đội lần lượt quay về nhà, mặc quần áo tác phong sinh hoạt và chờ thông báo tiếp theo của chỉ huy. Có một số trường hợp để tiện việc, không muốn thay đi thay lại cho phiền, tất cả đều mặc đầy đủ tác phong để thực hiện luôn công việc đọc báo xem tin, nhưng thường thì điều đó ít xảy ra.

      Đúng tám giờ sẽ là các buổi sinh hoạt theo định kỳ. Tuỳ tình hình, bốn hoặc năm ngày trong tuần sẽ được phân chia cụ thể cho việc sinh hoạt Đoàn, sinh hoạt Đại đội, sinh hoạt Trung đội hoặc sinh hoạt văn hóa văn nghệ. Cũng có thể là các buổi sinh hoạt đặc biệt không thuộc các loại hình trên. Các buổi sinh hoạt thường kết thúc sau tám giờ bốn mươi lăm phút và rất hiếm khi có trường hợp kết thúc trước giờ đó.

      Chín giờ là thời gian điểm quân số. Đúng lúc tiếng kẻng vang lên, bộ đội mặc đầy đủ tác phong, tập hợp lại thành đội hình Tiểu đội hàng ngang và bắt đầu điểm quân số. Điểm quân số xong, đồng chí Trung đội trưởng phổ biến kế hoạch ngày mai, đồng thời nhắc nhở một số công việc cần làm trong thời gian tới. Kết thúc buổi điểm quân số, bộ đội chuẩn bị giường chiếu, mắc màn, làm vệ sinh cá nhân và chuẩn bị đi ngủ. Đúng chín giờ ba mươi, tiếng kẻng vang lên. Một ngày vất vả đã trôi qua, việc thực hiện các chế độ học tập công tác kết thúc. Bây giờ là lúc thực hiện nốt chế độ cuối cùng là ngủ nghỉ.
      #3
        kien0745 06.02.2012 22:00:17 (permalink)
        Bốn: Các chế độ trong ngày (tt) - Thao trường cùng các công việc liên quan đến vũ khí trang bị

        Như đã nêu trên, việc học quân sự có hai trường hợp, học tại nhà và học tại thao trường. Trong đó việc học tại thao trường là phần quan trọng hơn cả, cũng là nhiệm vụ chính của bộ đội thời bình. Và việc học tại thao trường thì không thể thiếu phần mang vác vũ khí trang bị.

        Khi đi thao trường, bộ đội sẽ mặc bộ quân phục được gọi là bộ đồ bệt, hay đồ dã chiến, hay gọi theo kiểu xưa là rằn-ri, vì trên quần áo là những hoa văn hình lá cây ngang dọc vằn vện. Ngoài việc đi học trên thao trường ra thì bộ quân phục này còn sử dụng cho việc hành quân dã ngoại. Bộ quân phục dã chiến này khác với bộ quân phục dùng để thực hiện công tác khác và sinh hoạt thường ngày. Bộ quân phục mặc để sinh hoạt được gọi là bộ quần áo nâu, quần áo màu cỏ úa hay có tên chuyên nghiệp hơn là K82, hoặc đơn giản là áo K quần K.

        Mặc quân phục dã chiến thì không đeo quân hàm cầu vai, mà đeo quân hàm kết hợp, nghĩa là quân hiệu binh chủng trên ve cổ áo sẽ kết hợp luôn cấp hiệu quân nhân. Mũ đội khi đi thao trường là mũ cối hay còn gọi là mũ cứng. Trường hợp đặc thù, thường là lúc đi hành quân dã ngoại, sẽ đội mũ mềm có màu trùng với màu quân phục dã chiến. Tất cả các loại mũ đều có gắn sao và huy hiệu Quân đội nhân dân Việt Nam.

        Trước khi đi học, bộ đội được phân phát các loại vũ khí trang bị để mang vác theo. Thực ra, súng và vật dụng quân trang khác được biên chế cụ thể cho từng người, nhưng ngày học đầu tiên thì chưa kịp biên chế, cho nên mạnh ai nấy lấy. Lần đầu tiên trông thấy súng ống, kẻ nào kẻ nấy như phát cuồng, ai cũng đòi ôm lấy khẩu súng oách nhất, không thể ngờ được sau này sẽ có những điều không thú vị cho lắm sẽ xảy ra.

        Khi tất cả đã chuẩn bị xong xuôi, ai nấy đều háo hức muốn đi ngay, để biết được cái gì gọi là thao trường. Cuối cùng thì cái gì đến cũng phải đến. Thao trường là một bãi đất trống, trên mọc đầy cỏ và dây gai; cũng có thể là một cánh rừng (vườn chàm hoặc vườn điều) khi học chiến thuật. Vì là đất trống cho nên có rất ít cây cao làm bóng râm che mát. Thế là cả bọn phải đứng chịu trận dưới cái nắng như thiêu đốt của đầu giờ chiều. Vùng đất Tây Ninh vốn nổi tiếng là nắng cháy da người, giờ đây gần như đã phát huy hết tác dụng của nó để bộ đội được cảm nhận đầy đủ! Trước đó bộ đội đã cảm nhận được vị nắng này trong những lúc xếp hàng đi ăn cơm hoặc học chính trị, học điều lệnh trước doanh trại rồi; nhưng vẫn chưa là gì so với chỗ đất trống này. Nhìn qua nhìn lại, anh chàng nào cũng lè lưỡi than thở. Tất cả các viễn cảnh tươi đẹp như phim ảnh trước đây đều biến mất, mọi nỗi háo hức ban đầu gần như tiêu tan nhường chỗ cho sự ngao ngán trông đến tức cười của cả bọn. Chiến sĩ mới đã trải qua bài học quân sự đầu tiên với những động tác lăn lê bò toài như thế đấy.

        Sau này, khi học những bài chiến thuật, bộ đội ngồi được di chuyển trong những tán cây rậm rạp, lúc ấy mới đỡ khổ sở hơn. Tuy nhiên, khu vực vườn chàm hay vườn điều để học các bài chiến thuật thì cách xa doanh trại đến hơn ba cây số nên phải đi bộ mệt nghỉ mới tới được nơi. Như vậy cũng chẳng vui sướng gì.

        Sau vài ngày là đến màn biên chế vũ khí trang bị. Lúc này, bộ đội đã hiểu được nỗi cực nhọc của việc mang vác súng ống, nên ai nấy cũng không mong phải cầm những khẩu súng nặng nề làm gì. Tôi thì không được may mắn lắm khi phải nhận lấy khẩu súng trung liên, hay còn gọi là RPD. Cây súng này theo tôi gần một năm trước khi sang tay một người khác. Đây là một loại súng máy hạng trung, có hỏa lực tương đối mạnh, chuyên dùng để tiêu diệt các hỏa điểm của địch, với hộp tiếp đạn chứa được một trăm viên đạn thường. Trọng lượng của nó khoảng tám ký lô gam. Khi mang vác thì khỏi chê: nặng và cồng kềnh chưa từng thấy.

        Tuy vậy, súng tôi mang vẫn chưa phải là nặng đô nhất. Bên Khẩu đội Hỏa lực còn phải vác hai cây đại liên (SG-43, SG-M) là loại súng máy hạng trung, mỗi cây hơn bốn chục ký, khi tháo rời ra thì chỉ tính nòng súng vẫn hơn chục ký. Cho nên mỗi khi di chuyển xa thì phải sử dụng xe thồ mới có thể chuyên chở được các loại hỏa lực mạnh này.

        Sung sướng cho ai được biên chế súng B40 và M79. Đây là hai loại súng nhẹ nhất. Có điều khi mang vác thì không được thuận tay lắm. B40 thì đầu đuôi đều tròn như nhau, không có điểm tựa tốt để cầm. M79 thì quá ngắn, khi vác trên vai di chuyển thì không vừa tầm cho lắm.

        Ngay ngày học quân sự đầu tiên, bộ đội đã được lên lớp bài súng bộ binh AK. Súng bộ binh AK-47, hay còn gọi là súng tiểu liên AK, là loại súng máy hạng nhẹ được sử dụng rộng rãi nhất của các lực lượng vũ trang trên toàn thế giới, chủ yếu là vì súng được thiết kế đơn giản, kích thước nhỏ gọn, dễ tháo lắp, dễ lau chùi và bảo trì. Ngoài ra súng còn có thể chịu được bùn, nước, cát bụi; rất phù hợp với những chiến trường có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt. Súng AK-47 là loại súng trường tiến công của bộ binh. Chiều dài súng báng gỗ là 870 mm (loại báng gập có kích thước khác một chút), cỡ nòng 415 mm, trọng lượng 4,3 kg khi chưa có đạn. Súng sử dụng loại đạn 7,62 x 39 mm. Hộp tiếp đạn dạng cong, chứa được ba mươi viên đạn, nhưng thông thường chỉ lắp được hai mươi lăm viên là đầy. Thước ngắm có thể điều chỉnh được, cấp độ từ 100 đến 1000 m. Súng có thể bắn ở chế độ liên thanh hoặc phát một và hoàn toàn tự động, nghĩa là chỉ phải lên đạn bằng tay ở phát đầu tiên, sau khi bắn xong một viên thì bệ khóa nòng tự gạt lên, không cần phải lên đạn thêm một lần nữa. Tốc độ bắn lý thuyết đạt 600 viên một phút, tốc độ bắn chiến đấu là bốn mươi phát một phút khi bắn phát một và một trăm phát một phút khi bắn liên thanh. Sơ tốc đầu đạn 715 m một giây. Tầm bắn sát thương 1000 m, tầm bắn hiệu quả là 800 m cho chế độ bắn phát một và 400 m cho chế độ bắn liên thanh. Súng không có chế độ điểm xạ như các loại súng máy khác, nhưng nếu là tay súng cừ khôi thì có thể tập luyện và thực hiện hai viên một lần giống như chế độ điểm xạ vậy. Ngoài một phần nhỏ là súng Liên Xô hoặc Tiệp Khắc cũ thì phần lớn các loại súng được sản xuất tại Trung Quốc.

        Hỏa lực mạnh nhất của Đại đội là súng đại liên và cối 62 được sử dụng bởi Khẩu đội hỏa lực. Khẩu đội này thường là những anh chàng lực lưỡng, sức khỏe dẻo dai, đồng thời cũng là những người khéo léo. Ngoài việc sử dụng hỏa lực chính, đơn vị này còn thường xuyên làm những nhiệm vụ nặng nhọc khác cho Đại đội.

        Lau chùi vũ khí trang bị là một chế độ trong ngày, tuy nhiên không phải ngày nào cũng thực hiện. Có những khi học tập tại nhà thì không nhất thiết phải thực hiện, nhưng nếu là từ thao trường về hoặc đi hành quân về thì bắt buộc phải làm. Lau súng có nhiều hình thức, lau sơ, lau kỹ và lau thật kỹ. Lau chùi sơ thì nghĩa là chỉ lau bên ngoài, không cần phải tháo rời các chi tiết súng ra để lau. Lau chùi kỹ thì phải tháo rời hết các chi tiết súng, dùng mỡ bò lau bôi trơn các bộ phận chuyển động, thông nòng súng bằng cây thông nòng, lau sạch mỡ rồi mới lắp các bộ phận súng vào lại. Lau chùi thật kỹ là việc cần làm sau khi súng đã bắn đạn thật. Khi lau phải tháo hết các chi tiết súng ra, sử dụng xà phòng để rửa sạch các bộ phận, sau đó phơi khô, chùi mỡ bò, cuối cùng là lau sạch mỡ và lắp lại. Khi đã hoàn thành lau chùi, súng phải được chỉ huy kiểm tra lại mới được cất vào tủ súng.

        Thế là sau khi đã biên chế vũ khí, nếu suốt quá trình công tác mà không bị điều đi đơn vị khác hoặc có lệnh của chỉ huy, thì cây súng đó sẽ gắn liền với của quân nhân đó trong suốt thời gian thi hành nghĩa vụ quân sự. Từ đó, bộ đội phải ngày ngày mang nó ra thao trường, về nhà thì phải lau chùi và cất giữ cẩn thận. Riêng súng AK thì gần như ai cũng phải ôm nó suốt hai năm hoặc ba năm không rời, vì khi gác thì phải cầm theo súng, mà đã là bộ đội thì cho dù là hạ sĩ quan hay chiến sĩ, thậm chí là Trung đội trưởng đều phải thực hiện phiên gác cả.

        Người ta thường nói: “Súng kề vai, dao kề cổ”. Điều đó đúng trong cả thời chiến lẫn thời bình. “Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu”. Lời nhắc nhở này thể hiện tầm quan trọng của việc nỗ lực học quân sự tại thao trường. Phải có nỗ lực mới có thành công.
        #4
          kien0745 07.02.2012 07:28:32 (permalink)
          Năm: Các chế độ trong tuần, ngày nghỉ

          5.1 Hai ngày nghỉ

          Hai ngày nghỉ đúng là hai ngày hạnh phúc nhất. Sau một tuần học tập công tác, đến thứ bảy và Chủ nhật, bộ đội được phép nghỉ ngơi và đón người nhà lên thăm. Tuy nhiên, bộ đội vẫn cần phải thực hiện một ít công tác chứ không phải hoàn toàn nghỉ ngơi.

          Còn nhớ ngày nghỉ đầu tiên, khi đã xong hết các công việc vệ sinh đơn vị và ăn uống, tất cả tập trung Đại đội và bắt đầu màn tập thể dục. Cho đến lúc đó thì mọi người vẫn chưa thuần thục các động tác thể dục, vì nó có quá nhiều động tác. Mà lúc ấy dường như còn tệ hơn mức không thuần thục nữa, vì gần như chẳng ai còn tâm trạng tập khi đã nhìn thấy người nhà đi vào đơn vị càng lúc càng đông. Cuối cùng thì chỉ huy phải cho ngừng tập. Giải tán xong, mọi người về vị trí riêng và bắt đầu tiếp đón người nhà.

          Doanh trại lúc ấy rất nhộn nhịp với rất nhiều sắc thái tình cảm lẫn lộn. Cha mẹ, người yêu lên thăm quân nhân đều có những biểu cảm không giống nhau, khiến cho ai nấy đều có tâm trạng bồi hồi. Người nhà lên thăm thường đem theo thức ăn và các thứ khác để bồi dưỡng cho bộ đội. Họ ăn uống và trò chuyện rất náo nhiệt. Khung cảnh ấy mới ấm cúng và thi vị làm sao.

          Tuy nhiên, không phải ai cũng được người nhà đến thăm. Những cán bộ hạ sĩ quan, nghĩa là các lính cũ, ngoài một số ít có, thì số còn lại gần như mặc nhiên là sẽ không có người nhà lên thăm. Một bộ phận lính mới cũng vậy, nhất là những ai có quê ở xa. Mặt họ buồn xo, làm cho những bậc phụ huynh nhìn thấy cũng cảm thấy buồn lây, nhiều khi còn mời họ chung vui với mình nữa.

          Cuộc vui nào cũng phải qua mau. Chiều đến, người thân phải đi về. Doanh trại trở lại bộ mặt cũ. Tiếp đến là màn thu dọn vệ sinh. Trước đó, mọi người dù cố gắng đến đâu cũng không tránh khỏi để lại một lượng rác thải khổng lồ. Bộ đội phải hì hục làm sạch. Vì vậy mới có một chế độ lớn trong tuần được gọi là tổng dọn vệ sinh doanh trại để phục vụ cho mục đích này!

          Đêm thứ bảy khác với những đêm còn lại. Đêm này không cần sinh hoạt, không cần đọc báo xem tin, cũng không cần mặc đúng tác phong. Bộ đội được phép mặc quần dài áo thun và xem phim. Giờ ngủ được lùi trễ lại một chút là chín giờ bốn mươi lăm thay vì chín giờ mười lăm như mọi khi và không phải điểm quân số.

          Sáng Chủ nhật còn vui hơn cả sáng thứ bảy nữa. Hôm ấy không phải tập thể dục buổi sáng, lại được phép dậy muộn hơn. Giờ báo thức là năm giờ bốn mươi lăm thay vì năm giờ mười lăm như mọi khi. Ăn cơm xong, sau một vài công việc lao động chiếu lệ, bộ đội được nghỉ ngơi và lại chuẩn bị đón người nhà. Ngày Chủ nhật phải nói là đông vui hơn cả ngày thứ bảy. Đây là ngày nghỉ chính thức nên có nhiều người nhà đến thăm hơn. Một số địa phương còn tổ chức xe để chở mọi người đến tận cổng Tiểu đoàn, rất tiện cho các bậc phụ huynh muốn đi thăm con em.

          Lại một cuộc vui trôi qua. Khoảng hơn một giờ chiều, khi các bậc phụ huynh rời gót hết, các con em lại tiếp tục công việc dọn dẹp vệ sinh với lượng hàng thải còn nhiều hơn hôm trước. Đêm Chủ nhật là đêm khá thoải mái vì cũng giống như đêm thứ bảy, không phải sinh hoạt hay đọc báo xem tin. Chỉ khác một cái là đêm đó phải điểm danh Đại đội, chứ không còn là điểm quân số đơn thuần nữa. Điểm danh xong, tất cả đi ngủ nghỉ sau khi có tiếng kẻng. Công việc một tuần đã trôi qua. Một ngày lại sắp kết thúc. Ngày tiếp theo sẽ chào đón nhiều điều mới mẻ hơn, cụ thể là chào cờ đầu tuần, một trong những chế độ lớn trong tuần ngay ngày hôm sau.

          5.2 Các chế độ lớn trong tuần

          Như đã nêu trước đây, trong tuần có ba chế độ lớn là chào cờ đầu tuần, điểm danh đại đội và tổng dọn vệ sinh doanh trại. Ba chế độ này gần như đi liền kề với nhau và được thực hiện trước và sau hai ngày nghỉ.

          Chào cờ đầu tuần được thực hiện mỗi tuần. Trong một tháng có ba tuần ra chào cờ tại Tiểu đoàn và một tuần tại Trung đoàn hoặc Sư đoàn. Khi chào cờ, các bộ đội mặc đầy đủ tác phong, xả tay áo, đội mũ và đeo dây mũ, đồng thời mang theo vũ khí được biên chế. Đến nơi thì tập trung theo đội hình đội ngũ.

          Buổi chào cờ bắt đầu bằng bài hát Quốc ca. Tiếp đó là đọc mười lời thề danh dự của quân nhân. Nhiệm vụ này được các hạ sĩ quan từ cấp Trung đội phó trở xuống thực hiện. Các lời thề này được học trong chương trình điều lệnh quản lý bộ đội mà tôi đã trình bày trước đó. Tôi xin mạn phép viết ra vài điều:

          “Chúng tôi, Quân nhân trong Quân đội Nhân dân Việt Nam, lấy danh dự người chiến sĩ cách mạng, xin thề dưới lá cờ vinh quang của tổ quốc:

          1. Xin Thề: Hy sinh tất cả vì tổ quốc Việt Nam; dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phấn đấu thực hiện một nước Việt Nam hòa bình, độc lập và xã hội chủ nghĩa, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

          2. Xin thề: Tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh cấp trên; khi nhận bất cứ nhiệm vụ gì đều tận tâm, tận lực thi hành nhanh chóng và chính xác.

          3. Xin thề: Không ngừng nâng cao tinh thần yêu nước Xã hội chủ nghĩa, tinh thần quốc tế vô sản, rèn luyện ý chí chiến đấu kiên quyết và bền bỉ, thắng không kiêu, bại không nản, dù gian lao khổ hạnh cũng không sờn lòng, vào sống ra chết cũng không nản chí " Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng".

          9. Xin thề: Khi tiếp xúc với nhân dân làm đúng ba điều nên:
          Kính trọng dân
          Giúp đỡ dân
          Bảo vệ dân
          và ba điều răn:
          Không lấy của dân
          Không dọa nạt dân
          Không quấy nhiễu dân
          Để gây lòng tin cậy, yêu mến của nhân dân, thực hiện quân với dân một ý chí.

          10. Xin thề: Giữ vững phẩm chất tốt đẹp và truyền thống quyết chiến, quyết thắng của quân đội nhân dân, luôn tự phê bình và phê bình, không làm điều gì hại tới danh dự của quân đội và quốc thể nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.”

          Những lời thề này trong suốt hai năm trời tôi thuộc vanh vách, nhất là hai câu đầu. Toàn đơn vị chỉ có một số ít người làm được điều này, còn lại phần lớn số người đều không thuộc nốt. Tôi rất tự hào vì may mắn được nằm trong số những người ít ỏi đó. Đọc xong lời thề, đồng chí Tiểu đoàn trưởng nhận xét các công việc đã thực hiện trong tuần, nêu ra điểm mạnh và điểm yếu trong quá trình thực hiện, đồng thời phổ biến các công việc cần làm sắp tới và đề ra hướng triển khai. Không một buổi chào cờ nào tồn tại không khí vui vẻ. Chỉ có những lời phê bình, khiển trách, nạt nộ vì chẳng đơn vị nào có thể thực hiện tốt công việc một trăm phần trăm bao giờ. Lúc nào cũng không phải bị cái này thì là tại cái kia. Cho nên ngày chào cờ đầu tuần cũng có thể xem được là ngày nghe chửi đầu tuần. Khi đã phổ biến xong kế hoạch cần thiết, tất cả giải tán và quay về đơn vị của mình để thực hiện tiếp các công việc đã triển khai. Buổi chào cờ kết thúc.

          Điểm danh Đại đội cũng là chế độ bắt buộc phải thực hiện trong tuần. Tình hình không khác gì buổi chào cờ Tiểu đoàn đầu tuần, chỉ khác ở chỗ thay ngày bằng đêm, quy mô nhỏ hơn (mức Đại đội so với Tiểu đoàn) và bộ đội không cần mang theo vũ khí. Tối Chủ nhật, đúng chín giờ, bộ đội tập trung Đại đội, chuẩn bị nghe đồng chí Chỉ huy điểm danh. Khi tiếng kẻng thông báo giờ điểm danh vang lên, công việc điểm danh bắt đầu được tiến hành. Đồng chí Đại đội trưởng đọc tên từng cán bộ chiến sĩ toàn đơn vị, ai có mặt thì hô có, ai không có mặt thì thường không cần đọc lên, chỉ mặc nhiên đánh dấu vắng vào là xong. Tôi nói không khác buổi chào cờ đầu tuần là mấy vì đây cũng là buổi bị quán triệt nặng nhọc, bị phê bình, khiển trách và đủ các loại nhận xét không hay khác. Cũng thường là tại cái này hay bị cái kia nên gây ra cái nọ. Vì vậy, ai đó sẽ bị cho là điên nếu nói rằng ngày điểm danh là ngày hạnh phúc. Buổi điểm danh cũng được kết thúc bằng việc đề ra các kế hoạch công việc cần làm trong thời gian tới cùng với phương hướng thực hiện. Khi phần điểm danh Đại đội kết thúc, các đơn vị sẽ tập trung Trung đội để đồng chí Trung đội trưởng quán triệt thêm một lần nữa. Sau đó bộ đội ngủ nghỉ.

          Một chế độ khác trong tuần cần phải thực hiện, thường là vào cuối tuần, là tổng dọn vệ sinh doanh trại. Cụ thể các công việc ra sao tôi không nhớ và cũng không hiểu về chế độ này lắm. Có lúc tôi nghĩ, vì gần như mỗi ngày đều làm vệ sinh doanh trại sạch sẽ rồi, cho nên việc này dường như không cần thiết. Chỉ có cuối tuần thì mới tập trung rửa nhà ăn, mà việc ấy thì mỗi Đại đội làm một lần một tuần với sự thay phiên nhau giữa bốn Đại đội của Tiểu đoàn. Cho đến bây giờ tôi vẫn còn bị nhầm lẫn giữa chế độ tổng dọn vệ sinh doanh trại với các chế độ khác, nhất là lau chùi vũ khí trang bị, và không biết là cái nào của tuần, cái nào của ngày nữa.

          Một tuần trôi qua với đầy đủ các sắc thái từ buồn bã, lạ lẫm cho đến mệt nhọc. Bộ đội bắt đầu chuẩn bị đón tiếp các công việc khác, hứa hẹn sẽ nặng nhọc hơn vào quãng thời gian còn lại của quá trình thực hiện nghĩa vụ quân sự.
          #5
            kien0745 07.02.2012 12:25:50 (permalink)
            Sáu: Hành quân rèn luyện

            Hành quân là việc bộ đội phải rèn luyện thường xuyên, nên được gọi là hành quân rèn luyên. Đối với lính mới, hành quân rèn luyện được thực hiện một tuần ít nhất một lần.

            Đặc thù hoạt động quân sự diễn ra trong điều kiện khó khăn, căng thẳng, tiêu tốn nhiều năng lượng... Vì vậy, nếu không được rèn luyện, mỗi người lính sẽ "không chiến thắng" được bản thân mình. Yêu cầu đặt ra của hành quân rèn luyện từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Đầu tiên, mỗi người mang theo trọng lượng vừa phải, đi bộ quãng đường không xa, sau đó tăng dần về trọng lượng mang vác, cự ly và thời gian hành quân, sát thực tiễn chiến đấu, giúp chiến sĩ hình thành thói quen, ý thức, tăng khả năng đáp ứng điều kiện khó khăn. Cho đến một lúc nào đó, bộ đội cho rằng mang vác 30kg, đi bộ hàng chục cây số, trong mọi điều kiện thời tiết, địa hình... là "chuyện thường ngày".

            Mỗi cuộc hành quân rèn luyện đều có kế hoạch toàn diện, chu đáo. Trang phục hành quân là quần áo dã chiến, đội mũ cối hoặc mũ mềm. Bộ đội phải mang theo ba lô, trong đó gồm đầy đủ quân tư trang càng nặng càng tốt, cùng với các vũ khí trang bị được biên chế như súng, cuốc hoặc xẻng. Khi đi phải bám theo đội hình, người sau cách người trước khoảng nửa mét, nghĩa là gần sát với người phía trước. Tất cả cán bộ chiến sĩ từ cấp Trung đội trở xuống phải đi thành một hàng. Chỉ có cán bộ cấp Đại đội trở lên mới có quyền đi bên trái hoặc bên phải của đội hình để chỉ huy, đốc thúc hoặc động viên.

            Ngày hành quân rèn luyện đầu tiên quả là đáng nhớ. Toàn bộ quãng đường hành quân chỉ có bốn cây số, thế mà về đến đơn vị, cả bọn mặt cắt không ra hột máu, thở không ra hơi, nói không lên được tiếng. Các ngón chân phồng rộp, mọi khớp xương trên cơ thể đều tê nhức, toàn bộ cơ bắp đều căng cứng …. Nói chung là nhìn y như một đám lính vừa bại trận trở về vậy! Nhìn cảnh tượng hãi hùng đó, không ai tưởng tượng được là sau này, với cùng một toán quân như vậy, bọn họ đã đi bộ hết quãng đường hơn hai trăm cây số chỉ với thời gian có chục ngày, mà mặt mày vẫn bình thường, không biến sắc!

            Sang lần hành quân tiếp theo, nghĩa là lại sang một tuần nữa, quãng đường cần hành quân dài gấp đôi lần trước, nhưng việc thực hiện đã bớt phần bỡ ngỡ. Bộ đội đã có sự hiểu biết nhất định để chuẩn bị tinh thần, vì vậy cũng đỡ mệt hơn lần trước dù đường đi dài hơn gần gấp đôi.

            Đây chỉ là hành quân rèn luyện, mà lại là ở mức làm quen. Chứ nếu nói đến hành quân thực sự, thì những cái này không ăn nhằm gì. Ngoài hành quân rèn luyện ra thì còn có các loại khác nữa, cụ thể là hành quân đến các nhà dân để làm công tác dân vận, hành quân diễn tập có bắn đạn thật, hành quân sẵn sàng chiến đấu di chuyển. Nói chung, hễ rời khỏi đơn vị hơn một ngày để làm nhiệm vụ thì phải hành quân, và thường phải hành quân hơn chục cây số. Trong các loại hình hành quân thì cực nhất là sẵn sàng chiến đấu di chuyển, vì ngoài việc mang vác quân tư trang, bộ đội còn phải mang vác toàn bộ các đạn dược cần thiết để chiến đấu, cùng với các dụng cụ nấu ăn và các dụng cụ sinh hoạt cần thiết.

            Đây là màn tra tấn thể lực tồi tệ nhất của bộ đội, thế nhưng hầu như không ai phàn nàn nhiều về nó, thậm chí còn tỏ ra thích thú với việc này nữa. Tôi cũng vậy. Ngoài sự mệt mỏi của việc tra tấn thể lực, thì tôi cảm thấy rất vui khi hành quân. Phải nói rằng trong tất cả các loại hình quân sự cần phải thực hiện, tôi thích nhất là hành quân. Đi trên những đoạn đường vắng, trên đầu là một bầu trời đầy sao, vầng trăng sáng vằng vặc, hai bên cây cỏ xanh tươi, đượm mùi lá non, tất cả tạo cho tôi một cảm giác lâng lâng không sao tả được. Cho đến tận bây giờ, mỗi khi nghĩ lại, tôi cũng không sao quên được cảm giác tuyệt diệu đó. Có lẽ việc ánh trăng mờ ảo soi sáng một vùng đã tạo nên một khung cảnh lãng mạn có một không hai. Tôi không chắc là các nơi khác ở thôn quê có lãng mạn hơn thế không, nhưng đối với tôi như vậy cũng đã lãng mạn lắm rồi. Cho nên cảm giác mệt nhọc đôi khi bị đẩy lùi là vậy.

            Hành quân rèn luyện không chỉ nâng cao sức khỏe dẻo dai, tạo sức bền cho bội đội, mà còn trau rèn bản lĩnh, ý chí của cán bộ, chiến sĩ... vì vậy, bộ đội cần phải được giáo dục để hiểu được ý nghĩa và tầm quan trọng của nhiệm vụ hành quân rèn luyện.
            #6
              kien0745 08.02.2012 08:24:10 (permalink)
              Bảy: Tập quân sự, kiểm tra quân sự, thực hành bắn đạn thật

              Khi cách thức sinh hoạt đã vào phom, đơn vị bắt đầu triển khai các bài học quân sự. Động tác quân sự cơ bản ngoài lăn lê bò toài ra, thì ném lựu đạn, đặt bộc phá và đào công sự ngụy trang là các bài tiếp theo cần học. Bài học cuối cùng, cũng là bài học quan trọng nhất, là bài tập bắn súng AK. Sau này còn có các buổi kiểm tra dành cho các bài học trên nữa.

              Mỗi bài học có một thao trường riêng tùy theo đặc thù của bài đó. Các động tác lăn lê bò toài cần có một không gian đủ rộng và phẳng để thực hiện dễ dàng. Ném lựu đạn cần có khoảng trống để có thể ném lựu đạn đi xa. Tập bắn cũng vậy, cũng phải có một khoảng cách hơn trăm mét để thực hành ngắm bắn. Còn đánh bộc phá thì đơn giản hơn, nhưng cũng như bài ném lựu đạn, cần có gờ đất phía trước để có chỗ đặt khối bộc phá.

              Bộc phá là một khối đất vuông hay một cây gỗ hình trụ, bên trong có gắn một thỏi thuốc nổ Tô-lít (TNT) nặng khoảng 50g. Trước đó, bộ đội được lên lớp về bài thuốc nổ. Qua đó tôi biết được tính năng thuốc nổ, đó là một chất tổng hợp khó tan trong nước, tan trong dung môi hữu cơ; an toàn khi va đập, cọ sát; đốt khó cháy, đạn súng thường bắn xuyên không nổ; chỉ nổ khi sử dụng một kíp nổ để kích nó. Kíp số 8 đại loại là một ống kim loại hình trụ, bên trong chứa một loại thuốc nổ cực nhạy được nối liền với dây cháy chậm, phía trên có chốt kéo.

              Lựu đạn cầm tay là loại vũ khí dùng để tiêu diệt bộ binh bằng những mảnh gang vụn, bên trong chứa khoảng 45g thuốc nổ TNT. Bán kính sát thương khoảng năm mét. Thời gian cháy chậm khoảng bốn giây, nghĩa là thời gian từ khi rút chốt an toàn, đuôi kim hỏa bật lên, đầu mỏ vịt rời khỏi đuôi kim hỏa, lò xo kim hỏa bung ra đẩy kim hỏa chọc vào hạt lửa, hat lửa đốt cháy thuốc cháy chậm, khi thuốc cháy hết phụt lửa vào kíp làm nổ kíp nổ lựu đạn là bốn giây.

              Đào công sự ngụy trang cũng là một phần quan trọng trong các bài học quân sự cơ bản. Công sự ngụy trang là hố cá nhân cho từng người, được dùng để bảo vệ mình khi xảy ra chiến sự. Nếu như có sự tấn công bất ngờ của địch, thì ít ra bộ đội cũng có một chiếc hố để nhảy xuống và có thể che chắn phần nào làn đạn tấn công của địch. Đồng thời nó cũng có tác dụng là một bệ ngắm bắn. Vì vậy, tùy từng loại súng được biên chế, bộ đội sẽ phải học đào công sự ngụy trang cho đúng với loại súng đang mang. Công sự khó đào nhất là công sự dành cho súng trung liên RPD.

              Tập bắn súng tiểu liên AK là bài học chủ yếu nhất cần học cho kỹ. Phía trước cách các bệ tập bắn khoảng một trăm mét là các bia tập bắn được làm thành hình nhân, trên có các vòng tròn đồng tâm với các mức điểm từ 5 đến 10. Khi ngắm bắn, bộ đội được yêu cầu chỉnh thước ngắm ở mức thích hợp và hơi hướng xuống một chút vì khi bắn, đầu súng sẽ giật lên một khoảng cách vừa phải.

              Tập bắn và đánh bộc phá không có gì khó, chỉ khó là bài ném lựu đạn. Những kẻ tay chân yếu ớt, trong đó có tôi, không thể ném xa được. Trong khi tầm sát thương nguy hiểm của lựu đạn là khoảng mười hai mét, thì tôi ném được có mười mét hơn. Thế thì có khác nào tự sát! Mỗi khi như vậy, bọn ngồi phía dưới lại cười rộ lên.

              Khi đã luyện tập thuần thục, bộ đội bắt đầu chuẩn bị thi kiểm tra. Trước khi kiểm tra vài ngày thì bộ đội được dẫn đến thao trường sẽ được tiến hành kiểm tra. Bãi tập và kiểm tra sau này được gọi là vườn điều, vì ở đó trồng rất nhiều cây điều, xa hơn các bãi tập trước đây, và chỉ thực hành kiểm tra ném lựu đạn và đánh bộc phá chứ không kiểm tra đạn thật. Đường đi xa đến nỗi có kẻ nói là chẳng khác gì hành quân không ba lô! Hai bài này được chia ra hai ngày để thi kiểm tra. Hôm kiểm tra, tất cả phải dậy sớm hơn ngày thường một tiếng đồng hồ, nghĩa là khoảng hơn bốn giờ là báo thức, không tập thể dục, sau đó ăn cơm và lên đường. Các buổi kiểm tra nói chung diễn ra tương đối ổn.

              Còn kiểm tra bắn đạn thật thì phải đi xa hơn. Vì Sư đoàn không có sân bãi rộng, hơn nữa lại không bảo đảm an toàn, nên chúng tôi phải hành quân đến Núi Bà Đen để kiểm tra. Hôm đó, ba giờ sáng đã báo thức, khi chuẩn bị xong các quân tư trang cũng như vũ khí trang bị cần thiết thì bộ đội bắt đầu tập trung Tiểu đoàn để thực hiện mệnh lệnh hành quân. Đoạn đường hành quân khoảng trên dưới mười lăm cây số, từ cổng B của Sư đoàn đến thị xã Tây Ninh, tức là nơi có Núi Bà. Lần đầu tiên phải đi một quãng đường xa như vậy nên thật không thể diễn tả được cảnh tượng khủng khiếp của đám lính mới khi đến nơi. Mặt mày cả bọn còn tệ hơn lần hành quân rèn luyện đầu tiên, mặc dù sau này thì đoạn đường như vậy chỉ là chuyện nhỏ.

              Buổi thi kiểm tra bắn đạn thật diễn ra cũng khá thú vị. Vì không biết tiếng súng thật như thế nào, nên mọi người cứ đoán già đoán non, đồng thời mường tượng ra đủ thứ tình huống xấu. Có người còn lấy bông gòn nhét vào hai tai nữa. Nhưng các Tiểu đội trưởng bảo không nên làm vậy, chỉ tổ hại cho đôi tai thôi, chứ thật ra tiếng súng AK nổ không đáng kể. Những kẻ chuẩn bị lên bãi bắn thì mặt xanh như nhái, chẳng khác nào sắp lên dĩa, còn khi đã bắn xong thì nhẹ nhõm như vừa trải qua một biến cố ghê gớm nào đó, giờ nghĩ lại mới thấy buồn cười làm sao!

              Theo đồn thì ai bắn được ba mươi điểm, nghĩa là ba viên đều trúng hồng tâm, thì sẽ được thưởng phép, còn ai bắn phải ba vòng trời, nghĩa là ba viên đều trật lất, thì sẽ bị khiển trách, thậm chí còn bị phạt nữa. Cho nên ai cũng muốn cố gắng bắn cho thật chuẩn. Thế nhưng lực bất tòng tâm, kẻ bắn ba vòng trời thì nhiều, chứ còn được ba mươi điểm thì chỉ có trong tưởng tượng.

              Trước khi bắn thì chỉ huy đã dặn dò kỹ, phải để súng ở chế độ bắn phát một, không để ở chế độ liên thanh vì như vậy sẽ bị mất chuẩn hoàn toàn. Vậy mà vẫn có kẻ xớn xác, để ở chế độ liên thanh, khiến cho khi bóp cò một phát là đi hết ba viên, thế là xơi ba vòng trời. Còn một số thì quá giỏi đến nỗi khi bắn xong, cả ba viên đạn đều phiêu lưu theo chim chóc và chuồn chuồn. Bản thân tôi đã bắn trúng đích hai phát, một phát mười điểm một phát tám điểm, phát còn lại vì căng thẳng quá mà cướp cò, thế là đi tong một phát quý giá. Tuy nhiên, sau này tôi vẫn được thừa nhận là một tay súng cừ khôi, nhất là về súng trung liên.

              Khi đã kết thúc các loạt bắn, bộ đội chuẩn bị quay về đơn vị. Buổi trưa trời nắng chan chan nhưng vẫn phải hành quân, lại vừa ăn cơm xong, ai nấy đã mệt giờ lại mệt hơn gấp bội. Lần hành quân hôm ấy quả là một cực hình khó quên. Với điều kiện khắc nghiệt như vậy thì ngay cả lính cũ còn chịu không nổi nữa chứ đừng nói là lính mới. Tuy nhiên, sau cùng thì đám tàn quân ấy vẫn về đến nhà dù hơi bị tàn tạ một chút.

              Hoàn thành đợt hành quân bắn đạn thật xong thì cũng gần như là kết thúc khóa huấn luyện tân binh. Cái cần kiểm tra còn lại là các bài học chính trị, các bài tập thể dục cùng với phần đi điều lệnh duyệt đội hình đội ngũ tại Trung đoàn. Thế là kết thúc đợt huấn luyện tân binh, hay gọi theo kiểu ngày trước là ba tháng quân trường. Bộ đội chỉ còn chờ biên chế để biết mình ở lại đơn vị hoặc sẽ được điều đi nơi khác để thực hiện các nhiệm vụ tiếp theo.
              <bài viết được chỉnh sửa lúc 08.02.2012 16:53:56 bởi kien0745 >
              #7
                kien0745 08.02.2012 13:56:49 (permalink)
                Tám: Biên chế, nghỉ phép và một số công việc thực hiện tiếp theo

                Công việc biên chế nghĩa là việc điều động cán bộ chiến sĩ về đơn vị nào, binh chủng gì. Ở thời kỳ thực binh, quân số của một đơn vị sẽ ít hơn là thời kỳ tân binh. Vì một số đơn vị trực thuộc Sư đoàn hoặc Trung đoàn không có nhiệm vụ huấn luyện tân binh, hay nói cách khác là không đủ điều kiện huấn luyện, thường không đủ quân số, sẽ nhận một số chiến sĩ được đưa từ đơn vị bộ binh sang để thực hiện các công việc của binh chủng đó. Tuy nhiên, quân số điều đi là rất ít, quân số ở lại để thực hiện nhiệm vụ mới là đông.

                Tôi thì được giữ lại đơn vị, nhưng trước đó được điều đi công tác vài ngày tại Ban Tác chiến thuộc Phòng Tham mưu của Sư đoàn. Thời gian công tác khá ngắn và không để lại ấn tượng gì nhiều, để cuối cùng bị trả về đơn vị bộ binh và tiếp tục thực hiện nhiệm vụ được giao. Vì vậy, tôi sẽ không thuật lại các sự việc diễn ra trong đợt công tác này.

                Các ngày tiếp theo thường học về tính năng của từng loại vũ khí trang bị chuyên dụng; người nào được biên chế cho sử dụng vũ khí gì (B40, trung liên, AK47…) thì sẽ học chuyên sâu về cách sử dụng loại súng đó. Như tôi được chỉ cách sử dụng súng trung liên, để rồi biết được hóa ra trước giờ cách cầm súng của mình hoàn toàn sai, kể cả cách ngắm bắn cũng sai nốt.

                Công việc thực hiện chủ yếu ở thời gian này là lao động tăng gia sản xuất. Tăng gia sản xuất là động tác trồng trọt hoặc sản xuất để tự cung tự cấp cho mình lương thực thực phẩm, hoăc nhu yếu phẩm. Ở đơn vị bộ binh thì chủ yếu là nói về việc trồng rau. Việc tăng gia sản xuất được thực hiện vào lúc 4 giờ chiều, nghĩa là cùng lúc với giờ chơi thể thao. Ai được phân công đi tăng gia sản xuất thì đi, còn lại thì được phép chơi thể thao, hoặc cũng có thể là toàn bộ đơn vị phải đi tăng gia sản xuất hết, đến khi nào xong mới thôi.

                Vì được huấn luyện tăng gia sản xuất nên tôi đã biết cách cuốc đất, trồng rau, trồng bí, trồng mướp … trên các vườn rau. Vườn rau cũng có nhiều loại, một loại là vườn rau tập trung của Tiểu đoàn, một loại là vườn rau riêng của Đại đội. Trên vườn rau tập trung của Tiểu đoàn có sự phân chia các đơn vị Đại đội, trong phần Đại đôi lại chia phần Trung đội …. Phần bí hay mướp là do các đơn vị trực thuộc của Tiểu đoàn như Trung đội 12.7 ly, Trung đội ĐKZ (hay gọi chung là Khối Tiểu đoàn bộ, K bộ) … quản lý. Trên vườn rau đã được phân chia cho Đại đội chỉ trồng các loại rau xanh, nhiều nhất là rau muống và rau dền. Cho nên mới có trường hợp là trong thời gian hơn một tháng, đơn vị toàn được ăn rau muống hoặc toàn ăn rau dền, đến khi thu hoạch hết các loại rau đó thì mới chuyển qua trồng loại rau khác.

                Việc chăm sóc rau xanh là khá quan trọng. Hằng ngày mỗi Trung đội phải cử một đến hai người tưới rau, trừ những ngày mưa thì không cần tưới. Hằng tuần hoặc bất kỳ lúc nào cần thiết thì phải bón phân; có thể là phân hóa học NPK hoặc phân hữu cơ. Phân vô cơ hóa học thì được mua tại bên ngoài, cùng lúc với hạt giống. Phân hữu cơ thì tìm tại các chuồng gia súc hoặc tại nhà cầu; đây là việc không đơn giản chút nào. Các công việc này có luôn tạo ra cảm giác gớm ghiếc vào thời gian đầu, nhưng chỉ một thời gian rất ngắn, nó đã trở thành chuyện hết sức bình thường. Đơn vị tôi rất đi đầu trong việc tăng gia sản xuất. Bằng chứng là sau khi cung cấp đủ số rau cần thiết cho Tiểu đoàn, chúng tôi vẫn còn thừa một khối lượng rau lớn đến nỗi phải đem bán cho các Tiểu đoàn khác.

                Chẳng bao lâu sau khi từ Sư đoàn trở về, tôi được hưởng ba ngày nghỉ phép ngắn ngủi. Theo lẽ thường thì trong suốt hai năm công tác, bộ đội chỉ được hưởng mười ngày phép niên hạn, mà phải là ở năm thứ hai mới được hưởng kia. Nhưng lần này Trung đoàn đặc cách cho bộ đội được hưởng phép tranh thủ; không những vậy còn cho cả xe khách chở về bến nữa. Khi đi, các hạ sĩ quan chiến sĩ tập trung tại Trung đoàn, lần lượt nghe tên để cầm giấy phép được phát từ cán bộ Quân lực Trung đoàn và bước lên xe đã chờ sẵn ở đó. Khi người cuối cùng lên xe thì cả đoàn xe mới bắt đầu xuất phát.

                Lần về phép ấy đúng dịp Tết đoan ngọ, được đoàn tụ gia đình vào dịp này thì còn gì bằng! Mới chỉ gần ba tháng xa nhà thôi mà sao trên đường trở về, tôi bỗng cảm thấy mọi thứ đều trở nên ngồ ngộ và thú vị. Những phố xá xưa kia quen thuộc là thế, giờ bỗng nhiên như có vẻ chật chội hẳn đi. Ngay cả nhà mình tôi cũng cảm thấy quá thấp, còn đèn điện trong nhà thì sáng trưng, khác hẳn với ánh sáng mờ ảo của phòng Trung đội. Đúng là xa nhà chỉ chưa đầy ba tháng thôi, mà cảm giác đã như vậy rồi, thật là buồn cười!

                Hết phép lại phải lên đường trở về đơn vị. Tâm trạng vô cùng nặng nề. Chân bước đi mà lòng không muốn đi chút nào. Nhớ đến tâm trạng của ngày nhập ngũ đầu tiên. Nước mắt cứ trực trào ra, nhưng may là lần này đã kiềm chế được. Dù sao thì cuối cùng cũng phải đi đến nơi.

                Không bao lâu sau ngày trở về đơn vị, tôi lại phải cùng mọi người lao vào tập luyện để chuẩn bị đi bắn đạn thật với các loại súng hỏa lực khác chứ không chỉ là súng AK thường nữa. Lại hành quân lên Núi Bà. Lần này thì không tồi như lần trước nữa vì bộ đội đã quen với việc đi bộ rồi quá nhiều rồi (cho nên mới được gọi là bộ binh). Chỉ có điều dạo ấy là mùa mưa, trời cứ mưa suốt, đi bộ dưới mưa rất dễ bị mệt hơn là đi bộ dưới trời quang đãng.

                Trong hôm bắn các loại súng hỏa lực có bắn súng trung liên, đại liên, B40, cối 62, còn ai cầm súng AK thì bắn bài mục tiêu di động. Riêng tôi vì được biên chế súng trung liên nên tôi đã thực hành bắn loại vũ khí này. Súng trung liên PRD do Liên Xô sản xuất (hay K56 do Trung Quốc sản xuất) là vũ khí cá nhân tầm trung, là một loại súng máy tự động theo nguyên tắc trích khí xung, có chân chống đỡ nòng súng hình chữ A có thể gập lại dọc thân. Chiều dài súng là 1036 mm, cõ nòng 521 mm. Trọng lượng súng là 7,6 kg khi chưa có đạn, khi nạp đầy đạn thêm 1,6 kg. Súng sử dụng đạn cùng loại với đạn súng AK 47, là loại đạn 7,62 x 39 mm kiểu 1943 do Liên Xô sản xuất hoặc kiểu 1956 do Trung Quốc sản xuất, tốc độ bắn lý thuyết là 650 viên một phút, có hộp tiếp đạn tròn chứa được một trăm viên. Loại súng RPD này chỉ có thể bắn liên thanh hoặc điểm loạt với loạt ngắn 3-5 viên, loạt dài 6-10 viên chứ không thể bắn từng phát một như súng AK được (trừ trường hợp người bắn nạp đạn từng viên bằng tay). Tầm ngắm hiệu quả trên thước ngắm là 100-1000 m, mục tiêu người nằm 350 m, mục tiêu người chạy 525 m, bắn máy bay và quân nhảy dù trong vòng 500 m. RPD là hỏa lực bộ binh rất mạnh của Tiểu đội, có khả năng tấn công tầm xa, mức độ sát thương cao, dùng để tiêu diệt sinh lực địch tập trung, những mục tiêu lẻ quan trọng hoặc tiêu diệt các hỏa điểm của địch trong vòng 800m, thích hợp cho việc bắn yểm trợ bộ binh chiến đấu tiến công cấp Tiểu đội và Trung đội. Trong bài bắn, tôi phải chạy và nhắm bắn ba lần, hai lần nằm bắn và một lần quỳ bắn xen giữa hai lần nằm bắn, quãng đường di chuyển lên đến hơn năm trăm mét. Thực ra trong quá trình chạy, tôi không đạt được sự thanh thoát nhất định, còn bị vướng hai lần; khi hạ mục tiêu cũng không được tốt lắm vì có bắn một loạt bắn dài năm viên, nói chung là theo cảm nhận cá nhân thì không được suông sẻ. Tuy nhiên, kết quả đạt được lại là loại giỏi, hơn cả mong đợi rất nhiều.

                Súng B40 cũng được bắn trong ngày hôm đó. B40 còn gọi là RPG-2. Cái tên B40 thực ra là cách gọi của Việt Nam, mà theo một số nguồn thông tin, là viết tắt của cụm từ “bazooka 40 mm”, nghĩa là loại súng phóng lựu chống tăng phản lực. Súng B40 có hình ống dài 500 mm, mỏng, nhẹ, dài và nhẵn, đường kính trong 40 mm, phía trên có thước ngắm và đầu ruồi, có thể dựng lên và gập lại được. Thước ngắm là thanh ngang dạng thang, đặt cố định, có ba mức, xa nhất là 150 m. Súng bắn bằng tư thế vác vai, một tay nắm nòng súng, một tay nắm tay cầm. Mục tiêu cố định là 150 m, mục tiêu di động 100 m, độ chính xác cực cao. Loại đạn sử dụng là đạn PG-2 HEAT (hoặc gọi đơn giản là đạn B40), nặng 1,84 kg, tốc độ đường đạn cao nhất đạt 84 m một giây, đối với xạ thủ cừ khôi nhất thì mỗi phút cũng chỉ bắn được tối đa sáu viên. Đầu đạn xuyên giáp kiểu lõm, đuôi có hình cánh quạt sáu cánh, khi gắn vào đầu súng phải xoay cánh đuôi đúng vị trí đinh khớp theo chiều kim đồng hồ, đồng thời phải gắn kèm liều phóng. Liều phóng sử dụng thuốc nổ đen cháy nhanh. Đạn B40 là loại đạn xuyên giáp, có thể xuyên thủng 180 mm thép cán, xuyên thủng 400 mm bê tông, rất thích hợp cho việc chống tăng cự ly gần. Tuy nhiên, nó có nhiều mặt hạn chế là tiếng ồn lớn và đanh, tốc độ đầu bay thấp, nòng súng không rãnh xoáy nên không thể bắn xa và cũng không có cách tăng tầm để cải thiện.. Đạn rất dễ bị chặn bằng loại lưới mà người ta gọi là “lưới B40”, khi mắc vào đó, đạn sẽ bị vướng lại và không thể kích nổ. Ngoài ra, đạn cũng rất dễ bị chặn bởi các vật cản khác như bao cát, tường vách mỏng. Không thể bắn súng trong phòng, trong xe kín. Tôi không bắn loại súng này, nhưng vẫn cảm nhận được tiếng đanh của đạn nổ. Tuy tiếng nổ không phải quá lớn, nhưng gần như các tay súng sau khi bắn xong đều bì ù tai mất một thời gian.

                Trong bài bắn lần này có cả các loại súng hỏa lực mạnh do Khẩu đội hỏa lực thực hiện là đại liên SG-43 và cối 60. Đại liên SG-43 cũng chỉ là súng máy hạng trung, chứ chưa phải là súng máy hạng nặng, có thể gắn vào bánh xe để dễ dàng di chuyển, trên bệ chống ba chân hay trên các xe tăng. Chiều dài súng là 1150 mm, cỡ nòng 720 mm. Trọng lượng thân súng là 13,8 kg, tính luôn cả giá và bánh xe là 41 kg. Súng sử dụng loại đạn 76,2 x 54 mm, to hơn loại đạn trung liên, nghĩa là độ sát thương cao hơn, dây đạn có loại 200 viên và 250 viên. Tốc độ bắn lý thuyết 700 viên một phút, sơ tốc đầu đạn đạt 800 m một giấy, tầm bắn hiệu quả đạt 1100 m. Vì độ sát thương và tầm bắn hiệu quả cao, nên đại liên SG-43 được sử dụng để tiêu diệt hỏa điểm địch hoặc tiêu sinh lực địch tập trung như trung liên RPD, nhưng ở mức cao hơn, nghĩa là được chi viện và yểm trợ cho bộ binh cấp Đại đội hoặc Tiểu đoàn. Cũng giống như súng trung liên RPD, loại đại liên SG-43 này chỉ có thể bắn liên thanh chứ không thể bắn từng phát một như súng AK được.

                Pháo cối 60 là loại súng hỏa lực mạnh nhất của cấp Đại đội. Tên gọi cối 60 là gọi theo kích thước đường kính đầu đạn. Súng cối có hình dáng nhỏ gọn, bao gồm nòng súng, bàn đế và giá chân. Nòng súng nhẵn, độ dài 60 mm, khi trực tiếp nạp đạn từ miệng nòng, đạn sẽ tự cháy và bay đi, xạ thủ không cần kích hỏa. Bàn đế bằng kim loại, rất nặng, hình tròn, dùng để chịu lực giật của súng khi bắn. Giá chân cũng bằng sắt, có ba chân, có thiết bị điều chỉnh góc bắn và kính quang học để ngắm bắn. Khi bắn, đạn bay theo một quỹ đạo hình cầu vồng có góc bắn rất lớn, thường trên bốn mươi lăm độ. Thao tác bắn đơn giản và rất nhanh. Súng cối sử dụng rất hiệu quả cho tác chiến đánh gần, có thể tiêu diệt các mục tiêu bị khuất lấp bởi vật cản, đồng thời có thể bắn ra từ vị trí được che chắn tốt. Hôm đó, vì trời âm u nên có thể nhìn thấy đường bay của đạn súng cối tuy không được rõ lắm, chứ ở thời tiết bình thường thì không thể nhìn thấy được.

                Người ta thường nói rằng ba tháng tân binh là thời kỳ cực khổ nhất, sau này sẽ khoẻ suốt thôi. Có thể lý giải điều này như sau, tân binh vừa nhập ngũ thì chưa được rèn luyện, chưa hiểu biết gì về quân đội; nên việc bị buộc phải đi vào chế độ, nề nếp, bị ép vào khuôn khổ, kỷ luật đã khiến cho họ cảm giác mệt mỏi, chứ thực sự không phải thế. Thực ra thời tân binh không là gì so với thời sau tân binh từ việc tập luyện quân sự, lao động cho đến việc hành quân.

                Cho đến lúc này, tôi đã thay đổi quan điểm. Cách nói ba tháng tân binh là thời kỳ cực khổ nhất thực chất chỉ dùng để động viên cho người chuẩn bị nhập ngũ thì được, chứ nếu cho đó là chân lý thì hoàn toàn sai lầm! Ai đã trải qua thì mới thấu hiểu rằng, thời kỳ sau tân binh mới là cực khổ, chứ không phải là thời tân binh.
                #8
                  kien0745 08.02.2012 16:55:16 (permalink)
                  Chín: Dân vận và cáp quang

                  Sau khi hành quân bắn đạn thật một thời gian, đơn vị tôi chuẩn bị công tác dân vận. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Ðoàn thể đã giao cho.” Còn theo ý Chỉ huy Đại đội, dân vận hay làm công tác vận động quần chúng là đem sự hiểu biết và văn minh của bộ đội giới thiệu cho đồng bào tại các vùng có điều kiện sinh hoạt còn thiếu thốn, đồng thời cố gắng giúp đỡ đồng bào bất cứ công việc gì từ nhỏ đến lớn, để củng cố hơn nữa quan hệ như cá với nước giữa quân và dân. Để làm được điều này, bộ đội sẽ phải lên đường đến các khu vực vùng ven có nhà dân, thường là vào càng sâu càng tốt để làm một số công tác vận động quần chúng.

                  Thời gian đi dân vận dối với tôi có thể nói là vui nhất trong quá trình thực hiện nghĩa vụ quân sự. Suốt quá trình ấy đã xảy ra nhiều điều thú vị, ngay từ lúc bắt đầu xuất phát cho đến lúc kế thúc. Còn nhớ sau khi kế hoạch đã được phổ biến xuống đơn vị, đồng chí Đại đội phó Quân sự đã tuyên bố: “Tôi bảo đảm trong quá trình công tác dân vận, các đồng chí sẽ không xài quá hai chục ngàn đồng!”. Tất cả cười rộ lên, vì cho rằng anh đang đùa, nhưng anh nói rồi các chú hãy chờ xem, anh nói có đúng hay không.

                  Theo kế hoạch thì qua hôm sau mới bắt đầu đi. Trang phục khi hành quân và cả lúc thực hiện công tác dân vận sẽ là quần áo K, mũ cối, đeo quân hàm kết hợp. Thế nhưng, sau khi phổ biến kế hoạch xong, mọi người giải tán được không bao lâu, thì một kế hoạch mới lập tức đưa xuống, là bộ đội sẽ phải hành quân ngay trong đêm ấy, trang phục hành quân là quần áo dã chiến chứ không phải quần áo K. Thế là không còn gì bàn cãi, mọi thứ lập tức phải chuẩn bị sẵn sàng: quần áo, chăn màn, bát đũa … nhanh chóng gom lại, cho vào ba lô tất; tất cả tranh thủ chợp mắt khoảng ba bốn tiếng đồng hồ, chuẩn bị khoảng hai giờ sáng sẽ bắt đầu hành quân.

                  Đoạn đường cần thiết phải đi được cho là trên dưới bốn mươi cây số, được chia làm hai chặn, mỗi chặn đi một đêm, ngày thì nghỉ. Nói cách khác là bộ đội đi trong hai đêm một ngày sẽ đến nơi cần làm nhiệm vụ. Nghe các thông tin ấy, cả bọn rã rời tay chân, vì không nghĩ là mình phải đi một quãng đường quá kinh khiếp như thế. May là cuối cùng vẫn tới nơi nhẹ nhàng, mặc dù giò cẳng của ai cũng đều bị phồng rộp.

                  Nhớ lúc ấy, bộ đội chưa quen việc hành quân ban đêm, cũng không mường tượng được cảnh dài ngắn của đoạn đường, nên lại đoán già đoán non trong lúc đi. Đến chặn nghỉ đầu tiên thì toàn bộ gục xuống hệt như cảnh tàn quân bại trận trong thời kỳ huấn luyện tân binh. Vậy mà vẫn có một số kẻ, đến nơi rồi không chịu ngủ nghỉ, lại bò lết đi cà phê cà pháo, báo hại cho cả bọn phải bị quán triệt dài dòng về việc giữ kỷ luật này nọ!

                  Vùng đất được bộ đội làm công tác vận động quần chúng là một ấp hay gì đấy thuộc huyện Tân Biên, được gọi là Xóm Chàm, vì ở đó tập trung một số lượng lớn người Chăm theo Đạo Hồi. Đó đích thực là vùng sâu vùng xa theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, vì đường đi từ ngoài vào trong quanh co khúc khuỷu đã đành, nơi này lại còn chưa được kéo điện lưới. Ban đêm dân ở đây vẫn phải sử dụng đèn dầu để đốt sáng. Việc đó làm tôi hết sức bất ngờ. Tôi không thể nào ngờ được, thế kỷ hai mươi mốt rồi mà vẫn còn chỗ chưa được kéo lưới điện là sao!

                  Dân ở đây rất thực thà và chất phác, ít ra là ở sự biểu hiện của họ. Tại đây, bộ đội giúp dân làm đường, phát quang, đồng thời giao lưu với các bạn Đoàn viên bản xứ. Nói về làm đường, lại xảy ra chuyện cười. Số là những con đường ở các vùng quê thường là đường mòn, mưa đến thường hay lầy lội, xe cộ hay người đi bộ đều di chuyển khó khăn. Khi bộ đội sửa xong đường, thay vì làm cho nó được tốt hơn, thì vô tình làm cho nó càng xấu hơn. Đúng lúc làm gần xong thì mưa xuống, làm cho những chỗ bị trũng được đào đất và lấp đất lên chưa kịp khô đã nhão như bùn; xe cộ lúc đầu còn di chuyển khó khăn, nhưng sau khi “sửa đường” xong thì tệ đến mức hễ chạy xe là bị sụt lún hoặc trượt ngã ngay. Đúng là chỉ ăn hại chứ chẳng làm được cái gì ra hồn cả!

                  Chúng tôi ở đó khoảng ba bốn ngày gì đấy không nhớ thì phải di chuyển đi nơi khác. Hết thời gian công tác và giao lưu, bộ đội lại lên đường. Nơi tiếp theo là một xã khác cũng thuộc huyện Tân Biên. Từ Xóm Chàm đến chỗ mới phải đi một đoạn đường không dài lắm, nhưng ước tính cũng phải hơn chục cây số. Xã đó thì đỡ hơn một chút, nhưng mặc dù đã có điện lưới kéo đến, vẫn còn một bộ phận xóm dân chưa được mắc điện. Nơi này quả là không thể xài tiền quá hai chục ngàn. Nói chính xác hơn là muốn xài cũng không được, vì đơn giản là cả đoạn đường mòn dài hàng mấy cây số mà chỉ có hai quán đối diện nhau, ngoài ra không còn chỗ nào có thể mua sắm được nữa. Còn trong quán thì không có gì ngoài mì gói và trứng, thậm chí nước ngọt cũng không có! Có lúc tôi tự hỏi, với hoàn cảnh thiếu thốn như thế thì dân ở khu này sống ra sao đây? Và lại tự hỏi, không biết có phải hầu hết các dân vùng sâu vùng xa đều có cuộc sống như thế hay không? Tôi chỉ biết tự hỏi mà không hỏi ai cả, vì nghĩ rằng dù có hỏi thì chưa chắc đã được câu trả lời!

                  Lần đi dân vận này còn phát hiện một thú vị nho nhỏ là khi ra đường, dù là đi làm đồng hay bán hàng hay làm bất cứ đó, chị em ở đay đều đeo gần hết số nữ trang vốn có của mình, từ dây chuyền cho đến nhẫn, lắc tay. Tôi thì không để ý điều này, nhưng người khác thì nhìn thấy và nói lại, và tôi nhớ đến bây giờ.

                  Qua được ba bốn ngày tại đây, cấp trên lại thông báo nhiệm vụ mới. Có hai công việc cần làm ngay và đơn vị sẽ được phân công thực hiện một trong hai việc. Một là đi hỗ trợ cứu lũ tại một địa phương tỉnh Long An; hai là đến thị trấn Tân Biên để thực hiện công việc đào hào lắp cáp quang, hay gọi đơn giản là đào cáp quang. Việc thứ nhất thì đi xa hơn, cho nên được đi xe; việc thứ hai thì đi gần hơn, nên phải đi bộ.

                  Cuối cùng, đơn vị được phân công đào cáp quang. Việc này được phổ biến đơn giản như sau, hai Tiểu đoàn gồm một Tiểu đoàn Bộ binh của chúng tôi và một Tiểu đoàn Pháo binh trực thuộc Sư đoàn sẽ làm nhiệm vụ đào hào để chôn cáp quang, toàn bộ quãng đường hào dài khoảng trên dưới hai mươi cây số, khi nào đào hết sẽ nghỉ và lúc đó bộ đội quay về doanh trại. Trong quá trình đó, bộ đội vừa làm công việc chính vừa kết hợp công tác vận động quần chúng tại các khu vực đóng quân hoặc khu vực sẽ tiến hành công việc.

                  Hôm sau thì bắt đầu lên đường để đến thị trấn Tân Biên. Quãng đường di chuyển chưa đến chục cây số. Trên đường đi, đồng chí Phó Tiểu đoàn trưởng Quân sự đi ngay cạnh đội hình của chúng tôi. Anh kể nhiều chuyện để động viên tinh thần của chiến sĩ. Qua đó, tôi mới biết được hai truyện trong đó, là truyện Tào Tháo nói phía trước có rừng mơ để động viên binh sĩ đỡ khát và mệt; hai là truyện Trương Phi thét sập cầu Trường Bản khi đọc cẩm nang không chữ của Gia Cát Lượng, làm quân địch không thể sang sông được, qua đó thoát được một kiếp nạn.

                  Đến nơi đóng quân, hạ trại, nghỉ ngơi xong, buổi chiều bắt đầu công việc. Các loại vật dụng cần thiết như cuốc, xẻng, xà beng đã được tăng cường. Nội dung công việc nghe thì rất đơn giản: cách lề đường năm mét thụt vào trong đào một đường hào, độ sâu của hào là một mét hai, độ rộng là bốn tấc và bắt buộc phải đúng chuẩn, không đúng thì phải làm lại. Nhưng khi làm thì không hề đơn giản một chút nào mà là một nhiệm vụ được cả Sư đoàn đánh giá là cực khó. Nó đã lấy đi không biết bao nhiêu là mồ hôi và nước mắt của bộ đội.

                  Lúc đầu, bộ đội còn hăng say đào đúng theo tiêu chuẩn nêu trên. Nhưng chỉ sau có hai ngày, tiêu chuẩn ấy đã được sửa lại: chỉ cần phía trên miệng đủ bốn tấc thôi, còn phía dưới thì đào sao cho vừa thân người đứng là đủ, nhưng độ sâu thì không thay đổi được. Cũng thời gian đó, toàn thân ai nấy đều ê ẩm đến tội.

                  Công việc càng lúc càng bị thúc ép. Bất kể giữa trưa trời nắng chang chang, bộ đội vẫn phải cực lực làm việc, mặc dù có đoạn toàn là đồng ruộng trống không, xung quanh không có một ngọn cây che bóng nào cả. Vài ngày sau, Trung đoàn đưa lệnh xuống là trời mưa vẫn làm! Vậy là có hôm, bộ đội phải đào hào dưới trời mưa rơi tầm tã. Nhìn cảnh tượng đó, những người dân sống ở đó, kể cả người đi đường và chỉ huy cũng không khỏi đau xót, thậm chí rơi cả nước mắt. Đêm đến, trong những buổi sinh hoạt, cấp trên liên tục ra sức động viên, thuyết phục bộ đội, nhiều khi tiếp sức bằng những buổi văn nghệ cây nhà lá vườn để bộ đội thêm hăng hái, đồng thời giúp mọi người quên đi cái mệt.

                  Nói về những vị trí đào hào, cũng không ít chuyện thú vị. Nếu đào nhằm những chỗ đất thịt thì mềm và xốp, nên rất dễ đào. Còn nếu đào phải những chỗ đất sét thì hơi khó một tí, vì nó nhão và độ dính cao, nhưng cũng không đến nỗi. Chẳng may gặp phải đất có đá tổ ong thì hỡi ôi, cuốc xẻng và cả xà beng nữa, đi tong hết! Những khu vực có nước ngầm cũng vậy, khi chỉ đào đựoc một độ sâu không bao nhiêu thì nước bắt đầu tràn ra, không tài nào đào tiếp được nữa, buộc phải lấy máy bơm hút nước ra.

                  Có một đoạn, phía trên là đất và đá nhỏ, thoạt đầu làm rất bình thường, nhưng càng làm càng thấy không ổn. Khi moi lên mới phát hiện đó là những tảng đá tổ ong cứng vào to. Những cây xà beng lúc đó đã bị cùn đi, thậm chí có Tiểu đội đào đến nỗi cây xà beng không chịu nổi cường độ công việc, đã bị gãy làm đôi! Một hôm, tình cờ một chiếc xe xúc chạy qua, và bộ đội nhờ xe xúc đào giúp một đoạn tại đó để lấy đá tổ ong lên. Khi đã xúc được khoảng nửa tiếng đồng hồ, sau khi đã moi được vài tảng rộng khoảng một mét, dài khoảng hai mét mới phát hiện toàn bộ khu vực phía dưới đều là đá tổ ong hết! Thế là tài xế đã bỏ của chạy lấy người, không dám quay lại đoạn đường ấy nữa, ngay cả gói thuốc được bộ đội tặng cho cũng không dám lấy nữa. Về sau, cấp trên đã hội ý nhiều lần và quyết định đoạn đó chỉ cần đào sâu xuống sáu tấc mà thôi.

                  Đoạn đường hào cần đào càng lúc càng xa nơi hạ trại, đến nỗi khi nghỉ làm và về nơi đóng quân ăn cơm, chúng tôi buộc phải quá giang những loại phương tiện đi đường, lúc thì xe công nông, lúc thì xe ngựa, hoặc là xe máy. Tôi còn nhớ, có lần tôi và một đồng đội đang chờ được quá giang, đã gặp một cô gái chạy xe máy đi ngang. Lúc đó thằng bạn tôi bạo dạn xin đi nhờ xe, trong khi tôi nghĩ là chắc chắn sẽ bị từ chối thì cô gái đã đồng ý cho cả hai quá giang, thậm chí là kẹp ba mà chạy. Mặc dù cô gái đeo khẩu trang kín mít không thấy mặt, nhưng hành động nghĩa hiệp hiệp đó làm cho tôi cảm thấy cô ấy đẹp và dễ thương làm sao. Lại một lần nữa chứng minh tinh thần bộ đội và nhân dân như cá với nước, quân với dân một ý chí, không phân biệt tuổi tác và giới tính. Khi chỗ làm việc đã cách quá xa so với nơi trú quân, khi mà việc di chuyển đã vô cùng bất tiện, đơn vị buộc phải rút quân và di chuyển đến nơi phù hợp hơn để hạ trại. Lúc đó đã là ngày thứ bảy hay thứ tám từ khi bắt đầu đào cáp quang rồi.

                  Chỗ trú quân mới là một nhà thuộc dạng khá giả. Trong nhà có một cô gái xinh xinh. Thế là các bộ đội luôn tìm cớ để thập thò tại phòng khách nhà người ta, mặc dù điều ấy không hay lắm. Nhưng dù sao, như vậy cũng là chút gì đó an ủi bộ đội khi mà công việc ban ngày đã quá mệt nhọc. Thật ra trong cả quá trình công tác tại đó, tôi cũng được tiếp xúc với vài cô gái xinh xinh, bao gồm cô chủ nhỏ tại nơi trú quân lần hai, ba cô gái tại nhà đối diện của nơi trú quân lần một (nhà do Đại đội đóng quân), cô gái cho đi nhờ xe và một cô bé có gương mặt búp bê bán hàng tại quán tạp hóa trên đoạn đường làm việc. Tất cả các cô gái này đều dễ thương, đặc biệt là cô bé tôi nêu sau cùng, mà đám chúng tôi cho rằng cô bé ấy đẹp như diễn viên đóng vai Hà Tiên Cô trong bộ phim đang chiếu trên truyền hình thời điểm ấy. Vậy là trong quá trình công tác đặc thù này, sự xuất hiện của những bóng hồng nêu trên đã trở thành những chất xúc tác không nhỏ giúp bộ đội giảm đi đáng kể một phần áp lực. Việc này có thể nói là đã thổi vào một luồng gió tươi mát để làm dịu đi tinh thần vốn đã rệu rã của mọi người.

                  Công việc sắp đi đến giai đoạn cuối. Càng ngày cường độ làm việc càng nặng. Có đoạn, ngay chỗ phía trước cây xăng, cả cán bộ lẫn binh sĩ tập trung đào cuốc không ngừng nghỉ trên mười mấy mét đường. Trên đó dễ dàng nhận thấy Tiểu đoàn trưởng, Tiểu đoàn phó, Liên lạc, Quân khí, Cán bộ Hậu cần …; nghĩa là gần như tất cả cán bộ của khối Tiểu đoàn bộ đều tập trung làm ở đây hết. Có hôm thì phải làm đến gần tám giờ tối mới được nghỉ, vì công việc đặt cáp cần phải làm với động tác liên tục không ngừng. Và để nhanh chóng xong việc, Tiểu đoàn đã tăng cường thêm một Đại đội nữa đến hỗ trợ. Cuối cùng, dưới sự nỗ lực đến mức đáng kinh ngạc của bộ đội, sau hơn hai mươi ngày gian khổ, công việc nặng nhọc nhất cũng phải kết thúc. Hết giai đoạn lấp đất, công việc hoàn thành. Hôm sau là ngày tiến hành bàn giao và hoàn trả lại dụng cụ cho người dân xung quanh. Xong việc, tất cả rút quân. Lần này không phải hành quân bộ nữa mà được Trung đoàn cấp xe chở về đến tận cổng Đại đội. Vậy là nếu tính luôn những ngày làm công tác dận vận, chúng tôi đã rời doạnh trại đúng một tháng trời.

                  Về đến doanh trại vài hôm, để tưởng thưởng cho công sức đã bỏ ra của bộ đội, Trung đoàn đã cấp phép thưởng cho toàn đơn vị. Thật không gì sung sướng bằng việc được về nhà vài hôm. Chỉ có điều, người nhà suýt nữa nhận không ra tôi, vì nước da đen quá mực tưởng tượng, còn người thì quá gầy. Từ ngày nhập ngũ cho đến lúc đó, tôi đã sút đi hơn sáu ký.

                  Hai chữ cáp quang cho đến giờ vẫn còn để lại một ấn tượng rất sâu sắc với tôi. Từ nhiệm vụ này, tôi mới thấy mình thật sự trưởng thành, chứ từ thời tân binh cho đến trước đó là chưa đủ. Nói như đồng chí Đại đội phó Chính trị, đào cáp quang là công việc gian khổ nhất của bộ đội trong vòng mười năm trở lại đây, thế mà tôi lại được tham gia hành trình lao động gian khổ này, kể cũng vinh dự quá đấy chứ!
                  #9
                    kien0745 09.02.2012 07:31:51 (permalink)
                    Mười: Bắn bài Trung đội và công tác chuẩn bị diễn tập năm thứ nhất

                    Sau thời gian đào cáp quang về, bộ đội đã trở nên cứng cáp hơn rất nhiều. Công việc còn lại trong năm là những bài tập chiến thuật để cuối năm trời mát, tất cả sẽ hành quân đến xã Xuân Tâm, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai để thực hành diễn tập bắn đạn thật cấp Đại đội. Làm nền cho bài diễn tập lớn là bài Trung đội và các cuộc hành quân rèn luyện.

                    Diễn tập bắn đạn thật cấp Trung đội thì đơn giản, chỉ cần hành quân đến Núi Bà là được. Bài Trung đội này là bài tiến công, có tên gọi là Trung đội mở cửa và đánh chiếm đầu cầu. Nội dung của bài chiến thuật này là một Trung đội sẽ làm nhiệm vụ triệt hạ một đơn vị đóng quân của địch; hai Tiểu đội làm nhiệm vụ mở cửa sẽ mang bộc phá đến chỗ hiểm yếu của đồn quân đối phương để phá vỡ các tuyến phòng thủ, mở một lối đi để Tiểu đội còn lại làm nhiệm vụ đánh chiếm đầu cầu, với hỏa lực gồm trung liên và B40, cộng với các tay súng AK thông thường, sẽ tiến vào tiêu diệt các điểm phòng thủ còn sót lại, để hai Trung đội còn lại làm nhiệm vụ đột kích đánh vào và sau cùng là đánh chiếm cả đồn. Khi bắn đạn thật, quân xanh là những chiếc bia cắm phía trước, nếu hỏa lực B40 hạ được mục tiêu thì nghĩa là đồn địch đã bị hạ, bài thực hành thành công, những điểm khác xem như không còn quan trọng nữa.

                    Trong lúc tập bài, địa điểm là thao trường tại khu vực vườn điều, cũng là nơi kiểm tra đặt bộc phá và ném lựu đạn trước đây. Thời gian tập cũng phải mất một tháng trời. Trong khi tập, vì phải di chuyển nhiều, cho nên nhiều lúc phải chạy bở hơi tai. Nếu các động tác thực hiện không chuẩn, chỉ huy sẽ đến gõ vào đầu. Khi diễn tập bắn đạn thật, địa điểm sẽ là Núi Bà. Tới thời điểm đó, vì đã được rèn luyện nhiều, cho nên đoạn đường hành quân không còn gì ghê gớm nữa, mà cảm thấy bình thường như đi chợ vậy. Quả là một khi đã được rèn luyện rồi thì không còn việc gì là khó khăn nữa cả. Nhưng thật là học không đi đôi với hành, khi đã bắt đầu vào bắn đạn thật thì bao nhiêu trò hề đã lộ ra. Bộc phá thì giật lúc nổ lúc không, mục tiêu thì bắn trật nhiều hơn là trúng, nhất là xạ thủ B40 bên Tiểu đội bên kia, bắn hai viên trật cả hai; đến nỗi Tiểu đoàn trưởng đã không ngớt lời chửi mắng. Tôi thì may mắn hạ được mục tiêu với loại giỏi, nghĩa là hầu như hoàn toàn bắn trúng bia, cộng với đồng đội B40 của Tiểu đội tôi bắn trúng, cho nên nhờ vậy mà lấy lại được một chút thể diện cho đơn vị. Dù sao thì kết quả thu về của toàn đơn vị Đại đội cũng không đến nỗi nào.

                    Kết thúc bài Trung đội rồi, đơn vị chuẩn bị bước vào bài Đại đội, nhưng lần này là bài Đại đội phòng ngự chứ không phải là bài Đại đội tiến công. Trước khi đi hành quân diễn tập, đơn vị thường xuyên tổ chức các cuộc hành quân rèn luyện. Những cuộc hành quân rèn luyện này đi xa hơn là trước kia, bao gồm cả việc hạ trại tại những nơi nhà dân ngoài đơn vị để tập làm quen với việc hành quân dã ngoại tiếp theo sau này.

                    Khi các công tác chuẩn bị đã hoàn tất, cuộc hành quân bắt đầu. Toàn Trung đoàn sẽ phải hành quân một đoạn đường dài hơn hai trăm cây số để đến Trường bắn quốc gia khu vực ba, thuộc xã Xuân Tâm, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai, hay còn gọi nôm na là căn cứ núi Mây Tàu (địa danh này là do truyền miệng nhau, chứ có phải là tên chính xác là gì tôi không biết). Sở dĩ phải hành quân xa như vậy để diễn tập bắn đạn thật cho bài này là vì nơi đó đủ rộng để cho đơn vị di chuyển. Chứ còn ở Núi Bà thì chỉ đủ để bắn đến bài Trung đội, chứ từ bài Đại đội trở lên là không đủ chỗ. Theo thông lệ mọi năm, chỉ có Tiểu đoàn lính cũ, nghĩa là chiến sĩ năm thứ hai mới phải đi Mây Tàu; còn năm nay thì khác, cả lính mới lẫn lính cũ đều phải đi tuốt, chắc là vì chiến sĩ năm nay gồm toàn những thành phần tinh nhuệ. Lính cũ thì bắn bài Tiểu đoàn tiến công, lính mới thì bắn bài Đại đội phòng ngự. Bài phòng ngự thì ít di chuyển hơn bài tiến công, nhưng sẽ phải bắn nhiều mục tiêu hơn, vì phương châm của phòng ngự là lấy một chọi ba: một Đại đội phòng ngự có thể chống đỡ được sự tấn công một Tiểu đoàn, tương đương ba Đại đội. Và ngược lại, cũng cần cả một Đại đội mới đủ hạ được một Trung đội.

                    Nói về Mây Tàu, tuy bọn lính mới như tôi chưa được đi, nhưng đã được nghe các Tiểu đội trưởng kể lại, từ đó mường tượng ra rất nhiều thứ. Năm trước, các chiến sĩ năm hai bắn bài Trung đoàn, là một trong những bài lớn, mà theo giới thiệu là mười năm mới diễn ra một lần. Với bài đó, rất nhiều phương tiện quân sự được huy động, gồm cả xe tăng và nhiều loại cơ giới khác tăng cường và hỗ trợ. Đoạn đường di chuyển khi tiến công cũng đến hai mươi cây số, có lúc còn phải chạy phía trước hoặc phía sau xe tăng. Chạy sau xe tăng thì đúng là một cực hình. Khói của nó phả ra cực kỳ khủng khiếp, đủ để tạo một lớp bụi che kín khuôn mặt. Quân xanh là Tiểu đoàn Bộ binh cơ giới 25. Tôi biết thêm các thông tin này là do trong thời gian công tác tại Ban Tác chiến, tôi đã được vinh dự đánh máy gần hết bộ tài liệu báo cáo về vấn đề này.

                    Như đã nói trên, đoạn đường hành quân từ doanh trai đến trường bắn sẽ dài hơn hai trăm cây số, chính xác là hai trăm hai mươi lăm cây, rải rác trên ba tỉnh: Tây Ninh, Binh Dương và Đồng Nai. Vì đoạn đường quá dài nên bộ đội sẽ phải hành quân dài ngày, vì thế mới cần có những cuộc hành quân rèn luyện trước đó. Cụ thể là sẽ đi chín chặng đường, ban đêm đi, ban ngày nghỉ, điểm dừng của mỗi chặng để bộ đội hạ trại sẽ là các nhà dân dọc đường. Cứ sau ba chặng thì được nghỉ một đêm để lấy lại sức khỏe. Vậy là tổng cộng mười một ngày bao gồm chín ngày đi và hai ngày nghỉ, sẽ đến nơi cần đến.
                    #10
                      kien0745 09.02.2012 13:42:57 (permalink)
                      Mười một: Hành quân diễn tập năm thứ nhất

                      Khi giờ G đã điểm, đơn vị bắt đầu tập trung tại Trung đoàn để thực hiện mệnh lệnh hành quân. Thay vì như những lần hành quân trước, thường hay đi bằng những đường tắt hoặc cổng B để ra ngoài, thì lần này, đơn vị đường hoàng đi ra cổng A, nghĩa là cổng chính của Sư đoàn. Cổng A thì không phải ai cũng có thể ra vào được, kể cả Trung đoàn trưởng. Còn lính thì đừng có mong ra ngoài nếu không có giấy tờ hợp lệ. Cho nên được đi thẳng ra ngoài như vậy quả là điều thú vì. Cũng đúng thôi, chúng tôi đang làm nhiệm vụ mà! Nhiệm vụ lớn trong năm bắt đầu được tiến hành từ lúc đó.

                      11.1 Chặng đường thứ nhất

                      Chặng đường thứ nhất sẽ xuất phát từ Sư đoàn thuộc huyện Châu Thành đến huyện Dương Minh Châu, cũng thuộc tỉnh Tây Ninh, giữa hai huyện này sẽ thị xã Tây Ninh. Thị xã thì tôi đã đi nhiều lần để bắn đạn thật trên Núi Bà Đen, nhưng chưa ngang qua Tòa Thánh Tây Ninh bao giờ. Lần này đã được nhìn thấy tận mắt. Có điều lúc đó là buổi tối, không nhìn rõ cảnh vật, cho nên tôi đã không thể miêu tả được cái mình thấy là ra sao. Chỉ nhớ mang máng đó là tòa nhà rất lớn, trang trí theo kiểu cổ, cũng là tất cả những gì tôi cảm nhận được.

                      Có đoạn đường là vườn cao su, cây cối rậm rạp, che hơn phân nửa bầu trời, khiến ánh trăng và sao chiếu xuống rất hạn chế. Lần đầu tiên tôi được nhìn thấy nhiều cây cao su đến vậy, cảm giác hơi là lạ. Cho đến lúc đó, tôi bắt đầu thích cái cảnh vắng ngắt, không một bóng người qua lại, chỉ có đoàn quân đi âm thầm trong khu rừng tĩnh mịch. Nó gợi cho tôi nhớ lại hình ảnh trong những câu thơ của Tố Hữu học từ thời nhỏ:
                      Quân đi điệp điệp trùng trùng,
                      Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.
                      Thật không ngờ tôi lại được hòa mình vào trong khung cảnh lãng mạn như vậy. Hơn nữa, việc vừa đi vừa ngắm cảnh lãng mạn xung quanh có thể phần nào quên đi cái mệt.

                      Khi mặt trời sắp sửa ló dạng thì cũng là lúc sắp đến nơi dần chân, nghĩa là sắp kết thúc chặng đường đầu tiên. Con đường đang đi lúc ấy khá nhộn nhịp, dù trời chưa sáng hẳn, và cũng vì thế mà tôi không thể biết đích xác xung quanh có những gì, chỉ cảm thấy hình như là một cái chợ nhỏ. Các loại xe lôi, thậm chí có cả xe ngựa và xe bò chạy trên đoạn đường tráng nhựa ấy để chở hàng hoặc phục vụ các công việc đồng áng. Khi rẽ vào một con đường ít nhộn nhịp hơn thì cũng là nơi bộ đội dừng chân.

                      Khi đã hạ trại, ăn cơm sáng xong, bộ đội được tự do nghỉ ngơi đến tối. Khi trời bắt đầu khuya thi sẽ tiếp tục hành quân. Thời gian xuất phát sớm hay trễ sẽ được quyết định tùy theo từng đoạn đường dài hay ngắn, miễn là đến nơi dần chân khi trời bắt đầu sáng là được. Vậy là hôm đó bộ đội đã đi được hơn hai mươi lăm cây số.

                      11.2 Chặng đường thứ hai

                      Trời vào khuya, đơn vị bắt đầu rút quân và chuẩn bị lên đường. Chặng đường này sẽ đi từ huyện Dương Minh Châu đến huyện Dầu Tiếng thuộc tỉnh Bình Dương. Chặng đường này cũng không thua kém chặng trước, cũng phải trên dưới hai mươi lăm cây số.

                      Khi bắt đầu đi một quãng không xa nơi đóng quân trước, đơn vị đi qua một cái đập nước lớn nằm trên một con kênh. Tôi không rõ là kênh gì, và đoán mò rằng nó là kênh Tây, là cái kênh mà những lúc đi hành quân rèn luyện thường hay đi qua, cũng có chảy ngang qua khu vực Sư đoàn. Qua khỏi đập nước thì nhiều người nói phía trước là hồ Dầu Tiếng, nhưng cũng phải cách hơn chục cây số. Bộ đội không đi ngang qua đó, mà chỉ nhìn thấy phía trước có một vầng sáng.

                      Suốt quãng đường còn lại, khi qua khỏi một khuôn viên có vẻ là trung tâm hành chính của địa phương, bao gồm một số gian nhà tựa như trụ sở cộng với công viên cây xanh, thì đường đi còn lại phần lớn là những vườn cao su, với hai bên đều trồng cây cao su tít mù. Lúc này đã bắt đầu đáp chân vào địa phận của huyện Dầu Tiếng tỉnh Bình Dương. Và cây cao su ở lần này còn nhiều hơn khu vực thấy được hôm trước, nhưng vẫn chưa phải là quá nhiều. Thế mà cũng đủ để che hết phần lớn bầu trời rồi. Quãng đường tiếp theo này di chuyển khá khó khăn vì tầm nhìn phía trước rất hạn chế do không đủ ánh sáng, bộ đội phải bước đi thật thận trọng, tuy tốc độ vẫn không giảm tí nào.

                      Không biết lần này do tốc độ đi quá nhanh hay đoạn đường ngắn hơn dự kiến, mà khi tới nơi dừng chân rồi thì mặt trời vẫn chưa mọc. Lúc đó chắc là khoảng năm giờ sáng. Phải đến một lúc lâu mới thấy mặt trời ló dạng, trong khi đó mọi người đã tranh thủ ngủ được một giấc rồi.

                      Nơi dừng chân lần này có vẻ khá hơn huyện Dương Minh Châu một chút, vì chí ít ở đây cũng có một số quán xá để mua sắm; nhưng dù sao vẫn thua xa các thị trấn hay thị xã, bởi đơn giản là muốn mua một tờ báo cũng không được vì không có sạp báo nào để mà mua, còn muốn mua thì phải ra ngoài thị trấn cách đó mười mấy cây số nữa mới có. Dù sao thì tối đến, trước khi hành quân tiếp, bộ đội vẫn có chỗ để ăn uống.

                      11.3 Chặng đường thứ ba

                      Chặng đường thứ ba này có vẻ không dài lắm, vì đến rất khuya mới cho nhổ trại lên đường, cho nên tôi đoán là đường ngắn, chỉ độ hơn hai mươi cây số một chút thôi. Và ấn tượng cho đoạn đường này là tối tăm và ngoằn ngoèo. Có đến tám mươi phần trăm đoạn đường này là các lô cao su, không những thế lại là những lô cao su kín mít, che gần hết bầu trời. Có thể nói rằng, so với các lô cao su ở đây, thì các vườn cao su tại chặng đường thứ nhất và chặng đường thứ hai thu xa về độ che phủ của lá cây.

                      Suốt chặng đường này, nhà dân rất ít, hầu như toàn cây là cây. Mà những tán lá của cây cao su thật kỳ lạ, khi nó phát triển lên thì y như là che kín hết bầu trời, ánh nắng rất khó xuyên qua, đến nỗi ban ngày nếu đi trong các vườn cao su ấy, dù là giữa trưa nắng chói chang thì cũng như đang đi trong cảnh chiều tà vậy. Còn nếu là ban đêm, thì xem như không nhìn thấy cả bàn tay mình nữa. Bộ đội chỉ có thể định hướng bằng cách nhìn và cảm nhận một tí ánh kim yếu ớt có thể toát lên từ các loại cơ chậu hoặc các vật kim loại đeo trên ba lô của người ở phía trước mình mà đi theo. Lợi hại ở chỗ là dù gần như không nhìn thấy gì phía trước, tốc độ di chuyển của bộ đội vẫn không giảm. Tôi thì luôn lo rằng lỡ như vấp phải đá hoặc rơi vào một cái hố hay con mương nào đó thì có nước toi đời. May là điều tôi lo lắng đã không xảy ra.

                      Hai bên đường thỉnh thoảng có những cái trạm đặt ở dọc đường để công nhân lấy mủ cao su hoặc của người gác trú chân. Ánh đèn lập lòe toát ra từ trong ấy. Nhưng hiếm hoi lắm mới thấy được những trạm đó. Cây cao su rất độc hại, con người rất khó sống và thở bình thường trong vườn cao su, cho nên người ta ít sống trong đó là vậy. Những lô cao su này thường có chiều dài hàng mấy cây số, thậm chí lên đến chục cây, khiến cho vẻ hoang vắng và bí hiểm càng tăng thêm.

                      Khi đã ra khỏi các lô cao su và bắt đầu thấy các nhà dân lác đác xuất hiện ở hai bên đường, thì nơi dừng chân cũng sắp đến. Trời lúc ấy vẫn chưa sáng hẳn. Chắc là độ năm giờ rưỡi sáng. Nơi dừng chân là một xã nào đó của huyện Bến Cát mà tôi nghe thoáng qua là xã Trừ Văn Thố. Mức sống chỗ này có vẻ không bằng chỗ dừng chân ở chặng đường trước, nhưng vì gần mặt lộ lớn, nên xe cộ qua lại đông đúc hơn, người cũng nhiều hơn, nhưng quán xá vẫn không có nhiều. Được cái ở đây có một quán cơm tấm ăn khá ngon, giá lại rẻ hơn ở thành phố. Có lẽ ấn tượng nhất chỉ là điều này.

                      Tối hôm đó bộ đội được nghỉ một đêm không phải hành quân, và cả bọn được dịp đi chơi thỏa thích. Mà thật ra thì cũng chẳng có gì chơi, vì ở đó đến quán cà phê còn không có nữa thì làm ăn gì được. Chỉ còn cách đi ngủ sớm. Hôm sau, đơn vị được xả hơi thêm một ngày nữa để đến đêm hành quân tiếp.

                      11.4 Chặng đường thứ tư

                      Sau một đêm nghỉ ngơi, sức khỏe của mọi người được hồi phục ít nhiều, ai nấy cũng cảm thấy khỏe ra, sẵn sàng cho chặng đường hành quân tiếp theo này. Nơi dừng chân tiếp theo là địa phận của huyện Phú Giáo cũng thuộc tỉnh Bình Dương. Đây là chặn đường tương đối ngắn, chỉ độ mười tám cây số, nhưng địa hình được đánh giá là khá phức tạp, trên đó có nhiều đoạn đường không bằng phẳng và khá nhiều đồi dốc.

                      Nếu như chặng thứ ba có đến tám mươi phần trăm vườn cao su thì chặng đường này hầu hết đều đi trong vườn cao su, nghĩa là có đến trên chín mươi phần trăm vườn cao su trong suốt chặng đường. Tuy nhiên, theo cảm nhận của riêng tôi thì quãng đường này lại không đến nỗi quá tối tăm, chắc có lẽ là do quen dần và đã bắt đầu thích nghi qua hai chặng đường liên tục đi trong các lô cao su.

                      Đại đội của tôi lần này được đi đầu, và thế là xảy ra một điều thú vị. Đang đi giữa chừng, bỗng có lệnh của Tiểu đoàn truyền lên, bảo là phải ngừng lại. Hoá ra đơn vị tôi đi nhanh quá, đến nỗi các đơn vị Đại đội khác không tài nào theo kịp, bắt buộc phải truyền lệnh tam ngừng di chuyển. Đến lúc đó mới biết là Đại đội chúng tôi đi khỏe đến dường nào, đến nỗi các đơn vị lính cũ cũng không theo kịp được. Lần đi này có thể nói là cắm đầu cắm cổ mà đi, không có thời gian chú ý đến cảnh vật hai bên. Hoặc cũng có thể là vì toàn đi trong các lô cao su, không còn hứng thú cũng như không đủ ánh sáng để ngắm cảnh tối tăm mù mịt nữa, cho nên rất mau chóng đơn vị đã đến nơi cần đóng quân. Chỗ đóng quân này nói chung không phồn hoa lắm, nhưng được cái cũng nằm trên mặt lộ lớn nên xe cộ tương đối nhiều, quán xá thì có vài cái.

                      Nhà chỗ chúng tôi đóng quân bán bánh ướt và bánh đa nướng, vì vậy bộ đội được ăn thoải mái, đương nhiên là phải trả tiền, nhưng giá vô cùng rẻ. Tôi không nhớ là giá bao nhiêu nữa nhưng nói chung với cùng một giá như khi ăn tại thành phố, thì ở đây được ăn với lượng bánh gần gấp đôi, lại là bánh tươi còn nóng hổi mới ra lò và được chứng kiến tận mắt cách làm bánh. Không biết có phải là nể mặt bộ đội mà cô chủ nhà bán rẻ cho hay không. Trước khi đi, cô chủ nhà còn dọn ra một đĩa bánh đầy để tiễn chân bộ đội (mà tôi không nhớ là có trả tiền hay được ăn miễn phí nữa). Thế là cả bọn chẳng nể nang gì và nhanh chóng làm gọn.


                      11.5 Chặng đường thứ năm

                      Từ huyện Phú Giáo, đơn vị sẽ hành quân sang địa phận huyện Tân Uyên, là huyện cuối cùng của tỉnh Bình Dương, nghĩa là giáp ranh với địa phận tỉnh Đồng Nai. Chặng đường này cũng được đánh giá là ngắn nhưng địa hình phức tạp. Chiều dài quãng đường khoảng mười tám đến mười chín cây số. Trong chặng đường này, các lô cao su đã không còn quá rậm rạp và nhiều như ba chặng đường trước nữa. Nhiều lúc đơn vị còn đi vào những con đường có hai bên là các vườn mía hoặc các vườn cây ăn quả khác, nhiều nhất là chuối và nhãn.

                      Khi đoàn quân đang đi trong các vườn mía thì xảy ra một sự cố. Các trinh sát dẫn đường đi sai hướng, dẫn đơn vị đi lạc vào một ngõ cụt với phía trước là dòng sông. Nếu không kịp thời phát hiện, chắc toàn đơn vị đã rơi xuống sông hết rồi! Sau này mới phát hiện, thật ra đoạn đường đó đã được đơn vị tiền trạm đánh dấu bằng một khúc cây chắn phía trước, nghĩa là thông báo không được đi vào đường này. Thế mà đám trinh sát Tiểu đoàn đã thiếu nghiệp vụ cần thiết để hiểu được việc này, dẫn đến toàn đơn vị suýt nữa là được dịp tắm sông. Sự cố đó làm cho đơn vị mất hết một tiếng đồng hồ oan ức mò mẫm trong đêm. May là hôm đó trăng sáng, nếu không thì còn tệ hơn nữa.

                      Qua khỏi các vườn chuối và vườn mía thì lại đến các vườn cao su, nhưng như đã nói ở trên, cao su ở đây không rậm rạp lắm và có thể nhìn thấy bầu trời phía trên. Có chỗ thì cao su cũng khá rậm rạp, nhưng chỉ có ở một bên đường, bên đường còn lại thì không trồng cao su mà là nhà dân và các vườn cây ăn quả. Hết lượt cây cao su thì có một dãy nhà dân khá dài, chính là nơi đóng quân tiếp theo của đơn vị. Vậy là các lô cao su ở đây không thể so sánh với các khu vực trước đó mà đơn vị đã đi, nhất là địa phận Bến Cát.

                      Cho đến lúc đó, tôi mới biết thế nào là vườn cây ăn quả đúng nghĩa. Điều đó chắc chắn sẽ không được thấy ở trung tâm thành phố, thậm chí các vùng ven thành phố cũng chưa chắc nhiều bằng. Nếu như các chặng đường trước cho tôi biết được thế nào là các lô cao su, thì chặng đường này khiến cho tôi mở mang kiến thức về các vườn mía và vườn chuối. Trước giờ tôi chỉ thấy được các vườn cây ăn quả bé xíu, giỏi lắm là một hai hecta, tại các nơi như Hốc Môn hoặc Bình Chánh; còn giờ đây tôi đã thấy được các vườn cây dài đến hàng mấy cây số! Tôi không bao giờ có thể tưởng tượng ra được khung cảnh như vậy nếu không tận mắt chứng kiến và tự thân đi ngang qua đây. Đi bộ đội cũng có những cái lợi ích riêng chứ, ai nói đi bộ đội là vô ích đâu. Cụ thể là cho đến lúc đó, tôi đã được mở mang tầm nhìn rất nhiều. Thú thật là chỉ với vài chữ viết này, tôi không sao tả hết được khung cảnh thơ mộng mà tôi được chứng kiến lúc đó, chỉ có thể nói là nó rất lạ so với những kiến thức hạn hẹp của tôi.

                      Vì đã phải quần thảo một thời gian dài trong vườn chuối, nên đơn vị đã đóng quân trễ hơn so với dự kiến. Khi đến nơi thì trời đã rạng hẳn, chắc lúc đó phải đến hơn sáu giờ. Nhà đóng quân của Trung đội tôi trông có vẻ giàu, nhưng chủ nhà thì cực kỳ khó chịu khi đưa ra đủ loại yêu sách; nào là không được sử dụng nhà vệ sinh tùy tiện, nào là không được bậc đèn, bậc quạt. Thật ra những yêu cầu đó cũng không phải là không hợp lý, vì nếu như một đám lính gồm hơn hai chục mạng mà mở cái này cái kia, thì chắc chắn là sau đó người ta phải trả tiền điện đến sạt nghiệp mất thôi. Nhưng bọn này đâu cần suy nghĩ những cái này, chỉ biết là khi anh yêu cầu chúng tôi đủ thứ, chúng tôi sẽ cố tình làm ngược lại cho đỡ tức. Tuy nhiên, chỉ huy đã cấm không cho đám này làm quá mức, vì hơn bao giờ hết, lúc này chính là lúc thực hiện lời thề thứ chín.

                      Khu vực này chủ yếu làm nghề trồng cây ăn quả. Nhiều nhất là các vườn nhãn. Các cây nhãn được trồng rất nhiều ở vườn sau nhà. Tiếc là lúc đó không nhằm mùa chín vụ nên không có cơ hội nhìn thấy quả nhãn.

                      Xế chiều, tôi cùng một số người ra dạo chơi một lúc, rồi sau đó quay về trước, thế là xảy ra chuyện. Khi đi thì đi trên đường đất đỏ, khi về cũng đi đúng con đường đó nhưng bỗng nhiên đất dưới chân như nhão ra bất ngờ làm tôi chao đảo và ngập hơn một nửa chân trong đống đất nhão đó mà không sao rút ra được ngay. Rút chân ra được rồi thì chiếc dép bất hạnh đã nằm lại trong đó. Hiểu được tầm quan trọng của dép lê khi đi đường, cho nên bằng mọi giá tôi phải tìm cho được nó và đã moi rất sâu trong đống bầy nhầy đó, và nhờ trời, cuối cùng tôi cũng đã tìm lại được chiếc dép thân yêu của mình. Lại xảy ra một điều phiền toái tiếp theo. Tìm được chiếc dép, ngước đầu lên, chẳng hiểu sao tôi hoàn toàn mất phương hướng, đến nỗi không biết mình đang đứng ở đâu, nên rẽ trái hay rẽ phải mới về được nơi trú quân, giống như bị cái gì đó thôi miên vậy. Tôi cứ đứng ở đó như trời trồng có đến hơn năm phút mà không sao định hướng được. May mà có vài người đồng đội đi ngang qua, vỗ tôi một cái, lúc đó tôi mới tỉnh người và lót tót theo chân những người đó để về nhà. Thú thật tôi không thể hiểu nổi vì sao lại xảy ra một chuyện lạ đời đến như vậy. Lẽ nào vừa cúi xuống nhặt dép lên là mất ngay phương hướng? Tôi không sao lý giải được điều đó, mãi cho đến bây giờ.

                      Tối đến, chỉ huy thông báo là hôm nay sẽ phải đi sớm, vì đoạn đường tiếp theo được đánh giá là rất phức tạp, sẽ là đoạn đường khó khăn nhất trong tất cả các chặng trước đó và sau này nữa. Nên tranh thủ nghỉ ngơi một chút để đêm đến có thể đủ sức đi tốt. Chúng tôi được cảnh báo rất nhiều về đoạn đường sắp tới này và phải chuẩn bị tinh thần chinh chiến.

                      11.6 Chặng đường thứ sáu

                      Đây là chặng đường dài nhất trong tất cả các chặng đường cần phải đi. Bắt đầu từ địa phận huyện Tân Uyên tỉnh Bình Dương đến huyện Vĩnh Cửu thuộc tỉnh Đồng Nai. Giữa hai tỉnh được ngăn cách bởi một con sông lớn. Chiều dài cho chặng đường này khoảng ba mươi bốn cây số. Địa hình đường đi phức tạp, bao gồm cả đường bộ lẫn đường thủy.

                      Khi mà trời bắt đầu vào đêm thì cũng là lúc mọi người rục rịch lên đường. Giờ xuất phát vào tầm hơn mười hai giờ đêm. Hai bên đường lúc này còn rất ít cây cao su đến mức gần như không có, mà chủ yếu do nhà người ta trồng theo dạng cá thể chứ không theo dạng tập trung.

                      Đoạn đầu tiên không có gì lạ, cũng là các vườn cây, vườn cao su, lác đác có vài nhà dân. Đến khi gặp một nơi nhà cửa nhìn có vẻ sang trọng, vài tòa nhà trông như cơ quan hay trụ sở, là lúc sắp gặp bến đò. Chuyến vượt sông bắt buộc phải qua đò ngang mà không có lựa chọn khác. Vì đò nhỏ, số lượng hạn chế, từng chuyến đi như vậy chỉ chở được khoảng mười mấy người, còn để chở hết cả Trung đoàn sang sông thì thời gian phải mất đến hai tiếng đồng hồ hoặc hơn. Đơn vị của tôi thì thuộc phần nửa đầu, nên có thể nói là chờ bên này sông một tiếng mới đến lượt, và qua đến bên kia sông thì sẽ có khả năng chờ thêm một tiếng nữa.

                      Việc vượt sông rất được chú trọng về khâu an toàn. Trước khi lên đò, chỉ huy phải tập trung đơn vị quán triệt một lần cuối, cộng với trước đó đã phổ biến nhiều lần, là bắt buộc phải mặc áo phao, còn súng ống cùng trang bị và ba lô thì ôm sát vào người, việc đi lại trong lúc lên và xuống đò phải hết sức trật tự, không được chen lấn, không được đùa giỡn. Khu vực chuẩn bị bước xuống đò là một cảng nhỏ, đường đi chật hẹp và trơn trượt, vì vậy việc giữ gìn trật tự và đi đứng cẩn thận là tối cần thiết, nếu không muốn bị lọt sông. Đò đưa qua sông là thuyền máy, nhỏ như lòng bàn tay, đúng với nghĩa qua đò ngang. Con sông này tôi không biết tên, chỉ biết là nó vô cùng rộng lớn. Đứng bên bờ này mà không nhìn thấy bên kia bờ. Cũng có thể do đêm hôm khuya khoắt nhìn không rõ cảnh vật, chứ thật ra chưa chắc nó rộng lớn đến vậy, nhưng dù sao nếu sông Sài Gòn tôi biết trước đây đem so với sông này thì cũng chẳng bõ bèn gì. Tôi đoán là sông Đồng Nai.

                      Vượt hết sông thì chuẩn bị cập bến. Bến đò bên này nhìn cũng tương tự bến đò bên kia. Phía sau bến có vẻ là một cái chợ. Từ đoạn này trở đi thì không còn đi thoải mái như trước nữa, mà phải chạy nhiều hơn là đi, vì toàn đoàn quân bị ngắt khúc quá nhiều, cho nên muốn ráp đội hình thì phải chạy thục mạng mới đuổi kịp bộ phận phía trên. Có lúc đơn vị phải chạy nước rút đến hơn ba bốn trăm mét mới có thể đi bình thường trở lại. Vấn đề vừa chạy vừa đi này diễn ra trong quãng đường cũng hơn năm cây số mới dừng lại để nghỉ và chờ các đơn vị kia hoàn thành việc vượt sông. Thời gian ngừng và chờ đợi đó khá dài, sau cùng đến lúc mặt trời mọc mà vẫn chưa khởi hành tiếp. Mãi một lúc sau mới đi tiếp. Lúc này trời đã rạng hẳn. Lần đầu tiên được đi trong ban ngày, cảm giác hơi khác so với đi trong ban đêm.

                      Phố xá ở đây tương đối phồn thịnh hơn so với chặng đường trước. Nhà cửa hai bên khá nhiều, cảm giác đây có thể là thị trấn, hoặc tệ lắm cũng là vùng ven thị trấn. Cái người ta thường hay nói là “Ngã ba sung sướng” nghe đâu cũng nằm trong địa phận này, đương nhiên tôi không biết nó ở đâu và cũng không biết vì sao lại có tên gọi như vậy. Lại nghe nói rằng hồ Trị An cũng cách chỗ này không xa, chỉ khoảng vài cây số. Đường lộ ở đây đa phần được tráng nhựa chứ không còn nhiều đường đất đỏ như các nơi trước nữa (tuy nhiên, chỗ đơn vị chuẩn bị đóng quân lại là đường đất đỏ). Phố xá ngăn nắp đẹp đẽ. Bắt đầu thấy xuất hiện các tòa nhà cao hơn hai tầng, mà các chặng đường trước hầu như không thấy.

                      Mặt trời đã lên khá cao nhưng nơi đóng quân vẫn còn cách đó gần chục cây số. Sự mệt mỏi bắt đầu xuất hiện, giống như cái cảnh tượng khủng khiếp của lần hành quân đầu tiên. Tốc độ di chuyển bị chậm hẳn lại. Có nhiều người đi không nổi, trông vật vã như người vô hồn. Thế mà sau khi xốc lại đội hình, đoàn quân vẫn cứ tiến về phía trước như không có chuyện gì xảy ra vậy. Lúc đó giống như không phải đi bằng sức lực của cơ bắp nữa, mà đi bằng ý chí, bằng sự rèn luyện đã được tích lũy trước giờ. Ngay cả Trung đoàn trưởng cũng đi theo sát đoàn quân để chỉ huy và đồng thời động viên lính tráng.

                      Cuối cùng, sau bao vất vả, đơn vị đã đến được nơi hạ trại. Lúc đó đã hơn chín giờ sáng. Khu vực này đông đúc và trù phú, trường học chợ búa đầy đủ. Dân ở đây không phải chủ yếu làm vườn mà là làm các loại hình kinh tế khác hoặc chăn nuôi. Có nhà thì nuôi lợn, nhà thì nuôi cá, nuôi tôm, có nhà thì mở xưởng dệt, nói chung là ở đây nhộn nhịp khác hẳn các khu vực trước đó đi qua.

                      Tối hôm đó, đơn vị được nghỉ một đêm không phải hành quân. Không những thế, Trung đoàn còn tổ chức cho xem phim. Lâu lắm rồi tôi mới được xem lại kiểu chiếu phim lưu động này. Tôi còn nhớ hồi nhỏ, khu phố tôi ở thường hay tổ chức chiếu phim kiểu lưu động này, nhất là vào những hôm mất điện. Chỉ cần căng một tấm bạt lớn, với một máy chiếu phía sau rọi ánh sáng lên tấm bạt đó, thế là có ngay buổi xem phim thú vị. Bây giờ mới được xem lại kiểu phim đó sau rất nhiều năm. Xem phim xong lại còn la cà quán xá một thời gian nữa mới đi ngủ, nhưng tuyệt đối không được ở ngoài đường quá mười giờ tối, nếu không thì sẽ bị vệ binh bắt và bao điều phiền toái sẽ đến sau đó. Khôn hồn thì đừng có mà chơi bời nhiều, nếu không muốn trong thời gian hành quân lại bị kỷ luật.

                      Giờ mới biết tất cả những cảnh báo trước kia về chặng đường này là không thừa chút nào. Nó xứng đáng được mọi người lo lắng như vậy. Xét cho cùng, đường đi thì không đến nỗi quá dài, nhưng cái chính là thời gian chờ lâu quá, khiến cho đôi chân của bộ đội bị mất đi sự linh hoạt cần thiết. Nếu như ai chưa đi bộ quen thì chắc không biết được điều này: một khi đã đi một quãng đường đủ dài, tức là khoảng chừng hai cây số, khi ngừng lại rồi đi tiếp, đôi chân sẽ có cảm giác rất đau và bước đi vô cùng khó khăn; đồng thời cảm giác đó tỷ lệ thuận với thời gian ngừng, nghĩa là nếu nghỉ càng lâu thì khi xuất phát trở lại sẽ càng đau hơn và khó khăn hơn, trừ khi nghỉ hẳn một ngày. Cho nên việc dừng lại đến hơn một tiếng đồng hồ như vậy chắc chắn sẽ ảnh hưởng rất tiêu cực đến đôi chân của bộ đội, dẫn đến việc mệt mỏi hơn mức bình thường cũng là hợp lý. Nhưng khổ nỗi nếu không nghỉ thì sẽ không thể đi tiếp vì kiệt sức. Cho nên, thà đau chân một chút còn hơn là bị vắt kiệt sức.

                      11.7 Chặng đường thứ bảy

                      Nếu đã vượt qua được chặng đường thứ sáu rồi thì ba chặng còn lại không còn gì là quá khó nữa. Chặng đường tiếp theo này sẽ đi từ Vĩnh Cửu sang huyện Thống Nhất của tỉnh Đồng Nai, được đánh giá là vừa sức, không dài cũng không ngắn, vào cỡ khoảng hơn hai mươi cây số một chút. Trên đường đi có một số đồi dốc, cũng là điểm đặc trưng của địa hình vùng này.

                      Rời khỏi chỗ đóng quân, bộ đội bắt đầu tiến vào con đường đất đỏ. Cảnh tượng bây giờ là vườn tiêu, vườn đu đủ. Nhà dân dọc đường thưa thớt hơn chỗ đóng quân trước, nhưng có những vườn cây rất to, và tôi có cảm giác đó là những người gốc Hoa. Tuy nhiên, vì con đường được làm rất cao so với hai bên, cho nên không cảm nhận được hết cảnh quan của các vườn cây xung quanh. Dù các loại cây ấy khá cao nhưng vẫn chỉ có thể thấy được phần ngọn của chúng, còn phần thân cây thì hầu như chỉ thấy thấp thoáng. Tình trạng đó kéo dài cũng gần mười cây số, trước khi rẽ sang một hướng khác.

                      Hướng đi tiếp theo sau khi rẽ từ bên trong ra là Quốc lộ 1A, nhưng đơn vị chỉ đi có một đoạn rất ngắn, chắc chưa đến hai cây số, sau đó phải rẽ ngay sang một hướng đường nhỏ khác bên trái. Đoạn đường nhỏ không có đèn đường, ánh sáng chủ yếu được hắt ra từ những ngọn đèn nhỏ của một số ít nhà dân xung quanh, nên khung cảnh không được nhộn nhịp cho lắm. Trong đoạn đường nhỏ này cũng có các vườn cây cao su ở hai bên đường, nhưng tán cây cũng như quy mô không thể so sánh với những chỗ như Dầu Tiếng hay Bến Cát được, bằng chứng là vẫn có thể nhìn thấy mặt trăng phía trên đầu. Được cái bây giờ đã đi quen nên không còn cảm giác quá mệt nữa, mà chỉ thấy hơi mệt. Đường đi tuy nhỏ nhưng toàn là đường tráng nhựa, không có đường đất. Càng vào sâu, dân cư càng đông đúc, và đây giống như một thị trấn hơn là một vùng nông thôn hẻo lánh.

                      Nơi dừng chân của đơn vị là một khu khá thân thiện, hệt như tên xã là Xuân Thiện. Bộ đội được người dân rất quý mến. Khi chúng tôi sắp đến nơi, dân làng ra tận nhà để đón và đối xử với bộ đội hệt như con cháu trong nhà vậy. Khi đi, họ lại ra đưa tiễn rất thân thiết. Vì thế cả dân lẫn quân đều thấy cảm động. Nhà được đơn vị tôi đóng quân cũng vậy. Chủ nhà là một đôi vợ chồng trẻ cùng với một đứa con nhỏ. Họ tiếp đãi chúng tôi rất tử tế, thậm chí còn mời cơm nữa. Tuy nhiên, bộ đội đã từ chối vì không muốn trở thành gánh nặng cho gia đình họ, với lại bộ đội cũng có cơm ăn rồi. Điều thú vị nữa là nhà này bán rượu. Gian nhà sau của họ là phòng chưng cất rượu với các dụng cụ nhìn rất vui mắt. Báo hại cho các tay lính, dù thèm rượu đến mức nào cũng không dám động đến, phần vì lệnh cấm uống rượu, phần vì sợ uống rồi sẽ không đủ sức để đi tiếp. Cho nên bọn họ đành phải nén cơn thèm muốn xuống vậy.

                      Đêm đến, đơn vị nhổ trại và tranh thủ đi sớm. Thế là phải từ biệt các bà con giàu lòng mến khách. Bộ đội ra đi mang theo nhiều quyến luyến và cũng để lại nhiều ấn tượng cho thôn xóm tại đây. Tôi luôn nhớ về đồng bào nơi này mỗi khi nghĩ đến việc hành quân.

                      11.8 Chặng đường thứ tám

                      Rời Xuân Thiện huyện Thống Nhất, điểm tiếp theo sẽ là xã Bảo Hòa của huyện Xuân Lộc, là chặng dừng chân cuối cùng. Đường đi không quá phức tạp, cự ly khoảng hai mươi hai đến hai mươi ba cây số. Cuối chặng đường sẽ là Quốc lộ 1A.

                      Đơn vị quay ra hướng rừng cao su nhỏ đi tiếp sau khi nhổ trại và từ biệt dân làng. Tôi có cảm giác là hình như đang đi ngược lại cái hướng của hôm trước thì phải. Hết lô cao su thì đến một khu phố bao gồm đầy đủ chợ búa và trường học. Tiếc rằng lúc đó là giữa đêm khuya, nếu không thì làm sao cũng thấy được cảnh tượng đông đúc cho mà xem. Theo một số người, đó là một phần của thành phố Biên Hòa. Nhưng tôi cho rằng không phải, vì nếu so sánh địa thế trên bản đồ thì có vẻ không hợp lý lắm khi nói đây là Biên Hòa. Theo tôi, khả năng nó là một thị trấn thì đúng hơn. Tiếc là tôi lại không nhìn kỹ vào các bảng tên địa chỉ trên các cửa hiệu.

                      Hết đoạn phố trông được một chút thì đi vào một đoạn đường khác nhỏ hơn và trông rất tồi tàn. Đường nhiều ổ gà, không có đèn đường, nhà cửa bình thường nhưng thưa thớt và không có vườn cây, nếu có cũng chỉ là các vườn bé xíu. Đó là đoạn đường tẻ ngắt. May là đoạn đó không dài, chỉ độ một cây số hơn là ra đến một nơi sáng sủa hơn, có nhà có cửa và có các nhà dạng trụ sở cơ quan nữa, vì vậy đèn đường chỗ đó đủ để chiếu sáng con đường.

                      Đường Quốc lộ 1A đã thấp thoáng phía trước. Kể từ lúc này, đơn vị sẽ di chuyển hoàn toàn trên Quốc lộ mà không đi đường nhỏ nữa. Đi thêm một đoạn cũng áng chừng hai cây số thì ngừng lại và đi vào một con hẻm để hạ trại. Đó là khu vực có người gốc Hoa sinh sống, và nhà đơn vị tôi đóng quân là một nhà như thế. Tuy nhiên tôi lại không thể nghe hiểu tiếng của họ, vì họ nói tiếng Quảng Tây, mà tôi thì không biết tiếng Quảng Tây. Nhưng dù sao khi gặp phải người cùng dân tộc thì cũng mừng lắm rồi. Ở đất Đồng Nai này có rất nhiều người gốc Hoa sinh sống, nhiều nhất là ở Định Quán, và gần như toàn bộ đều là người Quảng Tây.

                      Chỗ này gần mặt quốc lộ, xe cộ qua lại đông và tốc độ cao, nếu không cẩn thận thì rất dễ xảy ra tai nạn, nhất là lúc băng qua đường. Mà khổ nỗi quán xá chợ búa chủ yếu lại nằm bên kia đường, muốn tới đó chỉ có nước phải băng qua đường. Còn nhu cầu của bộ đội thì vô cùng lớn, cho nên việc cảnh báo về nguy hiểm đã không làm chùn bước họ được. May sao, cuối cùng đã không có gì hối tiếc xảy ra sau đó.

                      Vì dân ở đây khá kín tiếng, nên tôi không biết được nghề chính của họ là gì. Theo tôi biết, người Hoa ở các nơi gần dốc đồi rải rác trên tỉnh Đồng Nai thường hay làm nghề trồng trọt. Họ thường sở hữu các vườn ngô, tiêu, đu đủ hoặc nhiều loại cây ăn quả khác. Tuy nhiên, chỗ này tôi không quan sát được vườn tược của họ. Chắc là nằm ở đâu đó sâu phía trong chứ không nằm gần mặt lộ, hoặc dân nơi đây không làm nghề trồng trọt mà làm nghề khác cũng nên.


                      11.9 Chặng đường thứ chín

                      Chặng đường này là chặng cuối. Từ xã Bảo Hòa đến xã Xuân Tâm có độ dài khoảng hai mươi năm cây số hoặc hơn một chút. Địa hình bằng phẳng và không phức tạp, không sườn dốc vì chỉ đi trên Quốc lộ 1A.

                      Khi đi trên đường nhựa lớn như vậy, chỉ huy nhắc nhở phải cẩn thận hết sức, người trước bám sát người sau, không được vượt lên trước hay rẽ ngang. Đội hình phải đi sát lề đường, vì ngay bên trái đội hình là lòng đường, xe tải chạy như bay. Khi bước đi thì tinh thần phải tỉnh táo, không được vừa đi vừa ngủ gật, nếu không dễ bị chệch đội hình, dẫn đến nguy hiểm cho tính mạng.

                      Hai bên đoạn đường quốc lộ này hầu như rất ít đồng ruộng hoặc vườn tược. Lại là đi vào ban đêm nên càng khó quan sát và nhận biết được. Chỉ có nhà cửa là nhìn thấy rõ hơn một chút. Đèn đường không nhiều, nhưng cũng tương đối đủ sáng. Khung cảnh tối tăm hun hút phía trước làm cho bộ đội dễ bị ngủ gật, cho nên cấp trên mới đưa ra lời nhắc nhở như trên. Có người nói là Ngã ba Dầu Dây cũng nằm trên đoạn đường cần hành quân này. Tôi chưa bao giờ đi qua địa danh này nên mù tịt, không biết là có đúng vậy hay không. Phải nói chính xác hơn là cho đến lúc đó tôi mới nghe tên này lần đầu.

                      Đi đến chỗ kia có một bảng hiệu lớn, trên ghi là “Quán cơm Thảo Nguyên, cách đây 1999 m” (cái tên thì tôi không nhớ rõ lắm, nên không dám chắc là nhớ đúng hay không, nhưng chiều dài thì chính xác là như vậy). Cũng phải đi đến hơn hai mươi phút đồng hồ mới tới quán cơm. Vậy có thể suy ra tốc hành quân của bộ đội chỉ cao lắm là sáu cây số một giờ, chứ không thể hơn được. Trong lúc đi, bộ đội cứ kháo nhau đủ chuyện nên cũng phần nào vơi đi nỗi mệt. Có điều là mọi người cứ thắc mắc tới lui, chỉ có hai cây số thôi mà sao lâu tới thế không biết! Bảng hiệu ghi sai số km chăng? Cũng có thể lắm. Đi một hồi thì gặp một ngã ba khá lớn, nhưng có phải là Ngã ba Dầu Dây hay không thì không biết. Người này nói phải, người kia nói không, rút cuộc cũng chẳng kết luận được gì. Toán lính này đa phần là dân thành phố không rành một tí gì về đất Đồng Nai, cho nên chẳng ai có thể biết đích xác địa danh đó ở đâu. Thôi thì cứ cho rằng đúng là nó vậy.

                      Khi trời chưa sáng thì đơn vị đã đến được mục tiêu cuối cùng. Ngoài cổng căn cứ là hàng chữ “Trường bắn quốc gia khu vực III”. Nhưng chưa thể mừng vội, vì từ ngoài cổng đi vào nơi tập trung cũng phải mất ba đến bốn cây số chứ không ít, cứ như là đoạn đường từ nhà ra thao trường tại Sư đoàn vậy, thậm chí còn xa hơn thế. Đoạn đường mà đơn vị đi ngang qua có rất nhiều thứ: có rừng cây, có phòng ở của đơn vị địa phương, có cả một cái hồ nước lớn với bên ngoài được rào bằng lưới B40. Cuối cùng, Tiểu đoàn dừng chân và đóng quân tại một khu rừng chàm. Lúc đó mặt trời đã lên cao.

                      Thế là trải qua bao cuộc hành quân gian lao, cuối cùng đơn vị cũng đã đến được Trường bắn, hay gọi nôm na là núi Mây Tàu. Thật không sao tả hết sự phấn khích của các chiến sĩ cũng như chỉ huy. Tôi chợt nghĩ đến việc người Hồi giáo phải hành hương đến thánh địa Mecca ít nhất một lần trong đời. Còn đời lính Sư đoàn Bộ binh Năm nói riêng thì phải hành quân đến núi Mây Tàu ít nhất một lần trong hai năm, thậm chí là hai lần trong hai năm liền như tôi, hoặc là ba lần trong ba năm liền của các Tiểu đội trưởng trước tôi một năm. Trong chừng mực nào đó, hai điều này có chút tương đồng, đều là việc bắt buộc phải làm của một đời người hay một đời lính. Tôi đã có vinh dự bước vào cuộc hành quân diễn tập hằng năm của Sư đoàn như thế đó.
                      #11
                        kien0745 09.02.2012 21:48:32 (permalink)
                        Mười hai: Trong cuộc diễn tập.

                        Trong suốt quá trình diễn tập, bộ đội phải sống trong rừng. Không thể có giường chiếu như tại nhà Trung đội, hay ít ra là nằm ngủ tạm bợ như khi tá túc tại nhà dân, ở đây bộ đội phải nằm võng một trăm phần trăm.

                        Trước khi đi hành quân, mỗi người được phát cho tăng, võng và bình bi đông mỗi thứ một cái cùng với một sợi dây võng. Tăng là một tấm bạt bằng ni lông dày, có những chiếc vòng ở hai bên cạnh để xỏ dây vào và kéo căng ra, được giăng phía trên võng thành hình chóp như dạng một chiếc lều, dùng để che nắng hoặc che mưa. Võng thì được mắc qua hai cây xanh nào đó để nằm nghỉ, khoảng cách giữa hai thân cây phải đủ dài, nếu không muốn lưng bị gù sớm. Dây võng thì đương nhiên là dùng để treo võng và được làm bằng ni lông. Bình bi đông bằng nhựa cứng có dung tích khoảng một lít, dùng đựng nước uống. Tất cả những thứ đó đều cần thiết cho việc hành quân cũng như hạ trại sống trong rừng. Bất kỳ thứ nào kể trên đều không thể thiếu được. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ hành quân thì toàn bộ các trang bị này đều phải trả lại bộ phận hậu cần hết. Mất là phải đền.

                        Việc mắc võng không hề đơn giản chút nào. Trước khi mắc võng phải tìm hai cây gỗ tươi cứng và chắc, độ dài khoảng một mét hai, vót sạch, dùng làm cọc phụ. Lấy dây võng thắt nút vào nửa trên của cọc phụ trước, rồi mới lấy phần dây võng còn lại buộc vào thân cây xanh, làm cho cả hai bên. Cọc phụ phải cắm xuống đất sao cho càng chắc càng tốt. Chỗ buộc dây võng ở thân cây sẽ thấp hơn nút thắc tại cọc phụ, như vậy là nếu có mưa thì nước từ trên cây sẽ không chảy qua dây võng nữa mà sẽ chảy thẳng xuống đất. Tác dụng của cọc phụ là ở đó. Cả cách buộc dây võng vào thân cây cũng cần phải học nốt; phải buộc sao cho càng kéo thì dây càng siết chặt chứ không thể ngày càng lỏng được, mà chỉ cần quấn quanh cây đúng có một vòng. Nút thắt cọc phụ cũng vậy, phải làm sao càng siết càng chặt mới được. Cách mắc này có một nhược điểm là rất khó đu võng.

                        Cách mắc võng này không những an toàn trong lúc trời mưa mà tiện cho việc mắc màn nữa. Ban đêm đi ngủ bắt buộc phải mắc màn nếu không muốn mất ngủ ngủ đêm đó. Đơn giản vì muỗi trong rừng là loại muỗi vằn, con nào con nấy to cỡ con ruồi thường. Hôm nào mắc màn không kỹ và chỉ cần bị hở có chút ít thôi, thì hôm đó cũng khó mà ngủ cho nên thân. Ấy là chưa kể đến loài muỗi gây sốt rét. Ở đây hễ sau sáu giờ là trời tối đen đến nỗi không nhìn thấy đường, nên việc mắc màn tốt nhất phải thực hiện trước khi ăn cơm.

                        Trong rừng không có nước máy, còn nước ngầm thì rất hạn chế, và chỉ huy nhắc nhở là nước ở đây rất độc không uống được, chỉ có thể dùng để tắm gội. Nước uống sẽ được bộ phận hậu cần chở vào bằng xe cơ giới. Trung đội phải cử người đi lấy nước về, nấu sôi rồi mới chia cho bộ đội. Lúc đó mỗi người chỉ việc hứng đầy bình bi đông. Việc tiếp theo cần làm là phải biết sử dụng tiết kiệm và trân trọng đến giọt nước cuối cùng.

                        Hôm đầu hạ trại, bộ đội chủ yếu làm các công tác ổn định chỗ ở và đào công sự. Sau khi làm xong mọi việc cần làm thì trời đã vào trưa. Đầu giờ chiều, bộ đội bắt đầu ra thực địa thao trường để làm quen địa hình và kết hợp tập luyện cho thuần thục. Việc tập luyện đã diễn ra trong bao lâu tôi không nhớ chính xác, có lẽ là hai hay ba ngày gì đó. Đường đi từ chỗ đóng quân đến nơi tập bài khá xa, ước chừng phải hơn hai cây số, địa hình thì phức tạp hơn thao trường Sư đoàn rất nhiều. Cây cối thì rậm rạp, hào đào rất sâu, đường đi dài và chật hẹp. Có đoạn phải đi lên một con dốc cao và đứng, cảm giác như đang đi trong một hẻm núi vậy, lại có đoạn phải nhảy qua một cái hào rộng và sâu. Để đi hết quãng đường này cũng phải mất đến bốn mươi phút hoặc hơn. Buổi sáng tập một lần, buổi chiều tập một lần. Buổi sáng xuất phát vào khoảng sáu giờ ba mươi, nghĩa là sau khi ăn cơm xong, khi rút quân về thì mặt trời đã đứng bóng. Buổi chiều xuất phát từ một giờ ba mươi chiều, khi rút quân về thì trời sắp tối. Với khoản thời gian này có thể suy ra được là trừ đi thời gian đi và về, thì buổi sáng tập được hai tiếng, buổi chiều tập được hơn một tiếng.

                        Đặc thù của bài phòng ngự là ít di chuyển, hay nói cách khác là hầu như không di chuyển. Một khi đã nhảy xuống hào rồi là sẽ ở yên đấy. Sau khi đã hạ xong mục tiêu thì chỉ cần di chuyển lên để làm công việc dọn dẹp hiện trường. Đoạn đường di chuyển đó cũng rất ngắn, thậm chí còn ngắn hơn bài Trung đội tiến công. Vì là bài Đại đội nên đơn vị được tăng cường thêm bộ phận thông tin và hậu cần để hỗ trợ cho việc truyền tải thông tin và làm các công việc phục vụ cần thiết. Mỗi Đại đội được tăng cường vài chiến sĩ của Đại đội Thông tin trực thuộc Trung đoàn để làm nhiệm vụ thông tin liên lạc; cộng với một tổ ba người của bộ phận hậu cần Tiểu đoàn, vốn đã theo Đại đội trong suốt quá trình hành quân để làm nhiệm vụ cấp dưỡng.

                        Thời gian hai, ba ngày tập luyện trôi qua. Buổi tối trước ngày diễn tập, bộ đội được cấp phát đầy đủ số đạn dược cần thiết và giữ gìn cẩn thận trong hộp tiếp đạn, nhưng được lệnh là tuyệt đối không được gắn hộp vào súng, mà phải để tập trung lại. Giờ đây tôi không còn cầm cây trung liên nữa. Vinh dự đó được giành cho người khác. Tôi được giao nhiệm vụ giữ cây AK. Vì vậy, trung liên được bắn bao nhiêu viên đạn tôi không rõ, mà chỉ biết là AK được bắn mười lăm viên. Còn xạ thủ B40 được giao cho hai viên đạn, nếu phát đầu trúng mục tiêu rồi thì được miễn bắn phát thứ hai.

                        Sáng hôm sau, khoảng độ bốn giờ ba mươi, lúc trời vẫn còn tối mịt là đơn vị đã tập trung. Đến nơi rồi mà trời vẫn chưa sáng. Khi tất cả đã sẵn sàng vào vị trí, buổi diễn tập bắt đầu. Thỉnh thoảng vang lên một tiếng nổ bộc phá do Công binh đã làm sẵn trước đó để tạo không khí sôi động. Các loại hỏa lực bắt đầu triển khai. Tôi không nhìn thấy nhưng nghe thấy tiếng hú của súng ĐKZ, một loại súng dùng để tiêu diệt xe cơ giới; sau đó còn biết thêm rằng hôm đó, một phát đạn bắn chệch mục tiêu của nó đã thổi bay mất một cây to từ gốc đến ngọn, đủ để biết được mức sát thương của nó mạnh đến dường nào. Lại nghe tiếng đạn nổ liên thanh của loại súng 12.7 ly. Đây là loại súng máy hạng nặng, là hỏa lực phòng không dành cho bộ binh. Loại súng này không làm gì được đối với máy bay bay quá cao; nhưng sẽ rất lý tưởng nếu dùng để triệt hạ các mục tiêu là các máy bay tiêm kích bay thấp và đúng vào tầm ngắm của nó. Tiếng đạn của súng 12.7 ly nổ rất đanh.

                        Khi lệnh bắn được ban ra, ngay lập tức chỉ huy ra lệnh lấy hộp tiếp đạn ra, cho đến lúc này vẫn còn để trong bao xe, lắp vào súng, bắt đầu hạ mục tiêu. Trước kia, cứ mỗi lần bắn đạn thật là chỉ có ba viên hoặc sáu viên cho AK, mười viên cho trung liên là cùng. Lần này được bắn những mười lăm viên, sướng tay hơn các lúc trước nhiều. Tôi hăng say hạ mục tiêu đến nỗi không để ý đến hoàn cảnh xung quanh. Tiếng súng B40 mọi khi rất to mà lần này tôi chẳng nghe thấy gì cả. Mãi cho đến khi bắn hết đạn tôi còn quay sang hỏi xạ thủ B40 ở ngay bên cạnh đã bắn chưa, thì được trả lời là xong rồi, thậm chí đã bắn nát bia ngay từ phát đầu tiên chứ không cần đến phát thứ hai. Vậy là thành công vang dội. Còn ở tiểu đội kia, một đồng hương khác của tôi cũng hạ được mục tiêu bằng súng B40 ở loạt bắn thứ hai. Bản thân tôi cũng đạt loại giỏi trong quá trình hạ mục tiêu. Thế là đơn vị đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Cấp trên sau đó không ngớt lời khen, khác hẳn với cái lúc bắn bài Trung đội, đã bị cấp trên mắng cho xối xả. Hôm ấy mọi người quay về nơi đóng trại với không khí vô cùng phấn khích. Càng phấn khích hơn khi đúng chiều hôm đó được phát phụ cấp. Tối hôm đó bộ đội có thể ra ngoài ăn uống thoải mái. Nói là thoải mái chứ thật chất ngoài kia không có bán thứ gì đăc biệt ngoài bánh kẹo, nước ngọt và cà phê pha sẵn; nhưng như vậy cũng đủ vui rồi (nói cho đúng, với số tiền quá ít ỏi như vậy, thử hỏi còn mua được cái gì khác ngoài những thứ này!).

                        Đơn vị ở lại thêm vài ngày nữa để chờ hai Tiểu đoàn còn lại hoàn tất nốt các bài bắn. Một Tiểu đoàn lính mới khác thực hiện bài bắn Đại đội giống như đơn vị chúng tôi, còn Tiểu đoàn lính cũ còn lại sẽ bắn bài Tiểu đoàn tiến công cho toàn Tiểu đoàn. Đây là những ngày an dưỡng thật sự. Ngoại trừ trời mưa phải nằm luôn trong võng không ra ngoài được, còn lại những lúc trời đẹp thì cả bọn rủ nhau đi mò ếch hoặc mò cua. Nơi đóng quân có rất nhiều hang ếch, mà mỗi hang ếch như vậy sẽ có luôn cua, nghĩa là ếch và cua cùng sống trong một cái hang. Tôi luôn nghi ngờ tính xác thực của điều này vì cảm thấy nó rất vô lý, nhưng cuối cùng phải chấp nhận vì quả thực bọn họ bắt được cả ếch cũng như cua trong cùng một hang. Tôi cũng không hiểu vì sao. Bắt xong, cả bọn lấy cua, ếch đem nướng và ăn ngon lành. Tôi không tham gia quá trình bắt và cũng không có hứng thú ăn mà chỉ nhìn mọi người vừa ăn vừa tán gẫu, đồng thời thưởng thức tiếng súng vọng lại của các đơn vị khác đang thực hiện nhiệm vụ.

                        Cứ thế, chúng tôi đã sống trong rừng mười ngày. Ngày thứ chín, đơn vị được lệnh là ngày hôm sau sẽ rút quân. Đó cũng là ngày đơn vị lính cũ là Tiểu đoàn Sáu hoàn thành bài bắn của mình. Vì đơn vị bên tôi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ nên chỉ huy Quân khu cung cấp xe cơ giới chở đơn vị đi về đến hơn nửa đường, phần đường còn lại bộ đội sẽ tiếp tục hành quân bộ. Đoạn đường cần hành quân bộ của lượt về này gồm ba chặng đường và khác hẳn các chặng đường của lượt đi. Cụ thể, xe cơ giới sẽ đưa bộ đội xuống địa phận xã Bến Dược huyện Củ Chi, sau đó đơn vị sẽ theo thực địa được vạch sẵn mà hành quân về nhà.

                        Qua hôm sau, khi Tiểu đoàn Sáu lính cũ vừa hoàn thành xong bài bắn, bộ đội lại nhận được thêm một tin vui. Vì đơn vị này đã đánh hạ mục tiêu xuất sắc, cộng với trước đó Tiểu đoàn Bốn (đơn vị có tôi đang phục vụ) và Tiểu đoàn Năm lính mới cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, Chỉ huy Sư đoàn quyết định cho xe cơ giới chở đơn vị thẳng về doanh trại, nghĩa là vào đến tận cổng Đại đội của mỗi đơn vị. Nghe xong, toàn bộ mọi người reo lên vui sướng. Còn gì vui bằng khi được đi xe về tận nhà mà không cần phải hành quân bộ nữa.

                        Tôi không nhớ chính xác là đơn vị rút quân ngay sau khi Tiểu đoàn Sáu bắn xong hay qua ngày hôm sau mới bắt đầu khởi hành, chỉ nhớ là bắt đầu lên xe lúc mười hai giờ trưa. Cơm trưa được dọn ra mà gần như không ai buồn ăn, một phần vì quá háo hức muốn được về ngay, phần vì cơm hôm ấy nấu sống, khó mà nuốt nổi. Xin nói thêm là suốt quãng đường hành quân, để bồi dưỡng cho bộ đội, chỉ một hay hai bữa đầu cho ăn cá, ngoài ra đều cho ăn thịt hết, không thịt lợn thì thịt gà. Nếu là ở nhà thì khó mà có được chế độ như vậy. Đúng là hành quân có khác. Nhưng khổ nỗi, với cơm canh như hôm nay thì quả là phải chấp nhận nhin đói thôi. Vì thế, hầu hết đều tuyên bố sẽ không ăn trưa và chỉ chờ lên xe. Tuy nhiên, vì lượng xe quá nhiều, không thể chạy hết vào trong trường bắn được mà phải đậu ở ngoài quốc lộ, cho nên không phải muốn lên xe là được ngay, mà phải đi bộ một quãng từ trong rừng ra đến trước cổng trường bắn mới được. Nhưng chẳng ai than thở hay kêu ca gì, vì một khi đã đi được quãng đường hơn hai trăm cây số rồi thì với con số lẻ này có ăn nhằm gì! Chỉ sợ khi ra đến đó không thấy xe cộ gì hết, lại phải đi bộ, lúc đó mới đau khổ. Nhưng sự lo lắng ấy không có cơ sở, vì vừa đi ra hết cổng căn cứ là thấy ngay những chiếc xe cơ giới đậu sẵn bên đường. Giờ chỉ còn phải băng qua bên kia đường nữa thôi.

                        Khi tất cả đã ra hết bên ngoài, bộ đội lên xe theo thứ tự đơn vị mình. Xe cơ giới chở bộ đội là xe của Quân khu, kích cỡ giống như chiếc xe tải thường. Đây là các loại xe do Liên Xô cũ và các nước Đông Âu sản xuất từ thời chiến tranh thế giới thứ hai, mỗi xe có thể chở được hơn ba mươi người cộng với ba lô, súng ống cũng như quân trang quân dụng kèm theo. Khi ngồi xe này, tôi lại nhớ đến một chuyện. Lúc đó tôi còn là tân binh. Hôm ngày 30 tháng 4, đơn vị cử một số chiến sĩ, trong đó có tôi đi viếng Nghĩa trang liệt sĩ huyện Gò Dầu. Hôm đó cũng đi bằng loại xe cơ giới này, nhưng là mui trần, kích cỡ nhỏ hơn và không có ghế ngồi. Một chiếc xe như thế chở hơn ba mươi chiến sĩ nên không thể ngồi được mà chỉ toàn đứng. Đoạn đường đi từ doanh trại ra Gò Dầu mất bốn mươi cây số, đường đi có nhiều khúc cua, tuy không chạy với tốc độ cao được nhưng khi xe bẻ cua, tất cả đều phải bám chặt nhau và đồng thời ngã hết sang một hướng, cứ mỗi lần như vậy thì cả bọn hò hét đầy thích thú, y như là đang tham gia một trò chơi cảm giác mạnh vậy. Còn xe lần này thì đủ rộng và có mui, nên không phải đứng mà được ngồi xuống, có điều là phải ngồi hơi bó buộc và phải ngồi trên các túi gạo hoặc ba lô của mình vì trên xe không có ghế. Chiều cao xe thì không khác gì xe lần trước tôi đi, nghĩa là cao đến hơn nửa thân người, khi muốn đi lên thì phải bám vào thành và đu người lên, còn khi muốn đi xuống thì phải nhảy xuống chứ không thể bước xuống được. Chính những điều này đã làm cho chuyến đi không kém phần thú vị.

                        Khi xe lăn bánh, mọi chuyện diễn ra khá suông sẻ, chỉ có điều tốc độ chạy của xe thì hơi chậm, chắc là khoảng bốn mươi cây số một giờ hoặc thấp hơn nữa. Tuy vậy vẫn không làm giảm đi tâm trạng phấn khích của bộ đội. Đoàn xe đi qua nhiều địa phận của tỉnh Đồng Nai, gồm cả Long Khánh và Biên Hòa, sau đó tiến vào địa phận Bình Dương. Nhưng vì không chạy trên Quốc lộ 1A và cũng không hề đi qua địa phận TP. Hồ Chí Minh, chỉ chạy trên các Tỉnh lộ và Quốc lộ 13, nên tôi không biết đoạn đường đó như thế nào. Cho đến lúc năm giờ chiều, xe dừng lại nghỉ ngơi. Địa điểm dừng chân đó là thuộc nơi nào tôi hoàn toàn không biết được, mà chắc chắn một điều là không phải địa phận nào của Tây Ninh hoặc ngoại thành của TP. Hồ Chí Minh. Tôi chỉ đoán chừng là thuộc huyện nào đó của tỉnh Bình Dương. Khi đã ăn cơm Nghỉ ngơi xong, đoàn quân lại lên đường. Từ lúc đó đã xuất hiện một vài điều thú vị.

                        Khi đó trời đã vào đêm. Như đã nói ở trên, các chiếc xe này thuộc thế hệ sáu mươi năm trước, nên không có đề khởi động, hoặc nếu có cũng rất yếu, vi vậy nếu lỡ xe chết máy thì phải lấy cái cây dài có tay quay thọc vào động cơ phía đầu xe để quay; hoặc là mọi người xuống đẩy xe, còn người tài xế thì ngồi phía trên sang số, cho đến khi nổ máy thì thôi. Chiếc xe chở hai Trung đội còn lại của Đại đội tôi đã lâm vào trường hợp đó, nên mặc dù đi trước xe tôi đang ngồi, xe đó vẫn phải tấp vào bên đường và lấy cây quay để khởi động máy. Mà hình như cách đó không hiệu quả, và sau đó nghe kể lại là hai Trung đội còn lại phải xuống hết xe và đẩy bộ mệt nghỉ một đoạn dài hơn một cây số mới khiến xe nổ máy trở lại được.

                        Còn xe chở Trung đội của tôi, trong đó có cả Khẩu đội Hỏa lực cùng với chỉ huy Đại đội, thì may mắn không chết máy, nhưng lại bị cái khác cũng oái oăm không kém: đèn pha bị hỏng không chiếu sáng được! Tài xế thì không thuộc biên chế Sư đoàn, mà là của Quân khu, nên không rành đường đến Sư đoàn, đã muốn ngừng lại không chịu đi tiếp. Nhưng dưới sự thuyết phục của đồng chí Đại đội trưởng, đồng chí lái xe đã chịu đi tiếp. Nhưng với trời tối đen như vậy, không có đèn xe là không ổn chút nào. May là lúc sống trong rừng cũng như suốt cả quá trình hành quân, mọi người có trang bị rất nhiều đèn pin. Thế là bộ đội nghĩ ra một cách: cho người cầm đèn chạy trước ô tô. Đương nhiên làm sao mà chạy trước được, vậy thì cho hai chiến sĩ cầm đèn pin ngồi hai bên phía đầu xe để rọi lên phía trước đường. Khi xe chạy được một đoạn thì Chỉ huy cảm thấy không ổn, vì nếu như xe chạy nhanh quá thì người cầm đèn ngồi phía đầu xe rất không an toàn, với lại cầm lâu thì mỏi tay. Vậy là phương án hai được đưa ra: buộc đèn pin vào đầu xe sao cho vừa đủ thấy được phía trước. Những cái trò như vậy thì đúng là chỉ có bộ đội mới nghĩ ra được! Cái cách tưởng như trò đùa này hóa ra lại phát huy tác dụng cực tốt. Suốt đoạn đường còn lại đơn vị không gặp bất kỳ phiền phức gì, đồng chí lái xe cũng không phàn nàn câu nào nữa. Có điều là lúc đầu tốc độ đã chậm bây giờ còn chậm hơn. Cũng hợp lý thôi, đường xá và đèn đóm như thế thì làm sao mà chạy nhanh được. Chính chỉ huy cũng ngỏ ý là không cần thiết phải chạy nhanh, miễn về đến đơn vị an toàn là được, còn tới nơi sớm hay muộn không thành vấn đề. Cuối cùng thì xe cũng đã chở được bộ đội về đến nơi an toàn và thả mọi người xuống tận cổng Đại đội. Lúc đó đã xảy ra điều không may cho chính tôi. Số là khi nhảy từ trên xe xuống, tôi đã tiếp đất không tốt, và bị ngã người về phía sau, làm ê ẩm cả lưng. Trong khi chưa xuất phát cũng như lúc dừng lại nghỉ ngơi dọc đường, tôi đã leo lên nhảy xuống rất nhiều lần, mỗi lần đều nhẹ nhàng như không, vậy mà lần cuối lại thất bại ê chề! May là lúc đó tôi xuống gần như sau cùng nên không có nhiều người chú ý và cũng không ai biết tôi bị ngã, khiến cho tôi đỡ mất mặt. Thế nhưng tôi phải chịu đau lưng suốt hai tuần mới khỏi được.

                        Khi đơn vị về đến nhà thì đã hơn chín giờ tối. Vậy là tổng cộng đi hết chín tiếng đồng hồ trên đoạn đường dài khoảng hai trăm hai mươi cây số. Tính ra thì xe đã di chuyển với vận tốc khoảng hai mươi bốn cây số một giờ! Còn xe chở hai Trung đội còn lại thì đến hơn mười một giờ mới về đến nơi, về sau xe có tôi ngồi hơn hai tiếng đồng hồ. Cho đến lúc đó, đơn vị tôi đã sống trong rừng đúng mười ngày bắt đầu tính từ ngày hạ trại, và đã rời doanh trại hai mươi mốt ngày. Khoảng thời gian này không ngắn nhưng rất lại dễ chịu.

                        Tôi có ấn tượng sâu đối với chuyến đi diễn tập này, đồng thời cũng nhớ lại rất nhiều chi tiết, nên mới có thể miêu tả sâu sắc như thế được. Khoản thời gian này phải bỏ ra nhiều sức lực để hành quân, nhưng bù lại nó khiến tôi biết được nhiều cái mới mẻ, đồng thời đem lại cho tôi nhiều niềm vui hơn bất cứ hoạt động nào khác trước đó, kể cả dân vận. Thời dân vận tuy cũng rất vui, cũng để lại nhiều ấn tượng nhưng không thể sâu sắc bằng đợt diễn tập này được. Lần diễn tập này, ngày nào cũng được đóng quân ở một nơi mới, lại được sống trong rừng nhiều ngày, được bắn đạn thật đến sướng cả tay, khi về được ngồi xe với nhiều điều thú vị xảy ra trên xe. Đi dân vận về cũng được ngồi xe, nhưng có thể nói rằng, không giống lần này, tôi gần như không nhớ chi tiết thú vị nào khi đi xe lúc đó cả. Nói chung là dân vận dù sao đi nữa vẫn chỉ có ấn tượng đứng thứ hai so với cuộc diễn tập này.
                        #12
                          kien0745 10.02.2012 08:00:29 (permalink)
                          Mười ba: Thời gian còn lại của năm thứ nhất

                          Một tuần sau đó, như đã hứa từ trước, Trung đoàn cấp phép thưởng cho các đơn vị đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ diễn tập. Tôi được vinh dự về phép đến hai đợt. Trong khi về phép, tôi đã gặp phải chuyện không vui về mặt tình cảm đến nỗi tôi đã viết hẳn một bài nhật ký kể lại chuyện tình buồn này, nhưng chuyện đó không đáng kể, cái chính là tôi được nghỉ ngơi một cách xứng đáng và kể lại các chuyện thú vị này cho bạn bè nghe. Sau khi về phép, tôi lại tiếp tục quay về đơn vị thực hiện các công việc lao động tăng gia sản xuất bình thường chứ không còn vấn đề gì nổi cộm nữa.

                          Trong những ngày cuối năm, đám lính không biết dở chứng gì mà hết người này đến người kia lần lượt trốn đi chơi, đến nỗi khi ở mức đỉnh điểm, Trung đội chỉ còn lại có vỏn vẹn chín người, gồm cả năm chiến sĩ, ba Tiểu đội trưởng và một Trung đội trưởng. Vào một đêm đông lạnh buốt, tám người hạ sĩ quan và chiến sĩ này cảm nhận rõ rệt tâm trạng của những kẻ hết tiền. Cả bọn quá đỗi thèm thuốc mà không sao tìm được cách thỏa mãn vì trên người của đám này không tìm ra được một đồng xu. May sao, không biết ai đó đi vay từ đơn vị bạn được đúng một điếu thuốc không hơn không kém, lại không biết moi từ xó nào ra một gói sữa bột, mà không biết lai lịch và thời hạn của nó, cứ thế mà đem pha sữa. Rồi mọi người chia nhau ly sữa và điếu thuốc quý hiếm ấy. Phải nói rằng đây là lần đầu tiên tôi tham gia vào một tình huống mang nặng tính đoàn kết như vậy; mà chỉ mới trước đó vài ngày thôi, lúc sống trong rừng tôi đã suýt đánh nhau với thằng hiện đang ngồi cạnh chỉ vì một ly nước. Trước đây và cho mãi đến lúc đó, tôi không bao giờ mường tượng được cái cảnh tám người đi chia nhau một ly sữa và một điếu thuốc. Tôi dám khẳng định rằng cảnh tượng này chỉ có thể xảy ra tại môi trường quân đội mà không thể xảy ra tại bất cứ nơi nào khác được.

                          Qua hôm sau, đúng vào ngày lễ Giáng sinh, cũng với những con người này, tất cả đều nhớ nhà và đều mang nỗi buồn da diết, đến nỗi phải mượn rượu giải sầu. Rượu là chất cấm hoàn toàn đối với hạ sĩ quan chiến sĩ, ngay cả sĩ quan cũng không được phép uống rượu vào buổi trưa. Nếu bị bắt gặp uống rượu thì sẽ phải bị kỷ luật. Nhưng bất chấp tất cả, có người vẫn lén đi mua được rượu và thức nhắm về rồi cùng nhau chén chú chén anh. Tôi vốn có tửu lượng kém nên vừa uống có vài chén thì người choáng váng chịu không được, nên phải từ giã “buổi tiệc” giữa chừng. Về lại giường ngủ của mình, lúc nhìn lên trần nhà, tôi có cảm giác như mọi thứ đảo ngược hết, cứ như là mình đang ngồi trên trần nhà và đầu trút xuống đất vậy. Rồi tôi đi ngủ trong sự nặng nhọc chưa từng có. Tối đó, đến phiên gác, người gác trước lay tôi cả chục lần mà chẳng có tí phản ứng gì, cứ gọi là ngủ như chết vậy. Bực mình, tay kia ôm súng rồi chui vào giường ngủ luôn đến sáng! Tôi chẳng biết gì cả. Mãi cho đến sáng, nghe thằng bạn kể lại mới hay mình lại yếu tửu lượng đến thế. Báo hại cho thằng bạn tôi suýt nữa bị kỷ luật vì bỏ gác.

                          Trong đêm, nếu đến phiên gác mà bỏ gác, khi chỉ huy phát hiện được thì thế nào cũng sẽ có chuyện, nhẹ thì bị phạt đứng yên tại chỗ một tiếng; nặng thì phải mặc đầy đủ quân phục dã chiến rồi nhảy xuống ao, hoặc bét lắm cũng phải lăn lê bò toài cho đủ bộ, sau đó còn phải nghe quán triệt một hồi, mới được đi ngủ trở lại. Mà đã phạt thì phạt cả đơn vị chứ không riêng gì cá nhân đó; còn kẻ bỏ gác thì phải viết bản kiểm điểm và sáng hôm sau sẽ chịu tiếp hình thức kỷ luật khác. Trường hợp mất súng khi gác thì không cần nói nhiều, nhảy xuống ao là cái chắc. Ngày trước có đã người bị mất súng rồi (nói đúng hơn là bị chỉ huy giấu súng). Cũng may lúc đó là thời tân binh, chưa hiểu biết nhiều, kỷ luật còn chưa quá khắt khe, nên bọn kia chỉ bị phạt lăn lê bò toài mà không cần phải mò ao, chứ nếu bị ở thời điểm này thì việc nhảy ao là chắc chắn không thể tránh khỏi. Mà ở đây cái sai không phải do tôi, vì tôi chưa dậy và chưa ký vào sổ gác, cho nên lỗi bỏ gác sẽ thuộc về thằng bạn tôi. May mà đêm đó chỉ huy không đi kiểm tra, cho nên đã không bị xảy ra vấn đề gì.

                          Một thời gian sau, tôi và vài người được cử đi học một khóa ngắn ngày tại Trung đoàn về cách chỉ huy tân binh sau này. Học xong khóa này, tôi sẽ đủ tư cách trở thành Tiểu đội trưởng khi bắt đầu tiếp nhận lính mới. Lúc này, tôi đã mang được quân hàm Binh nhất. Tôi được thăng quân hàm này vào khoảng nửa cuối năm, không bao lâu sau khi đơn vị đào cáp quang về.

                          Sau khi học xong khóa học thì đã sang năm thứ hai. Đó là lúc chiến sĩ cũ ra quân. Ngay sau buổi sáng tiễn chân các chiến sĩ cũ rời đơn vị, buổi chiều đã bắt đầu tiến hành biên chế lại đơn vị. Đồng hương đã bỏ gác vì tôi thì được điều đi Tiểu đoàn khác để làm cán bộ bên đó, còn tôi ở lại làm cán bộ của Đại đội. Tất cả các cán bộ từ Trung đội phó đến Tiểu đội trưởng của Đại đội đều là người cũ chứ không ai thuộc đơn vị khác điều qua, nên việc quan hệ không vấn đề gì.

                          Còn hơn một tháng nữa mới đến ngày tiếp nhận tân binh. Trong quãng thời gian chờ đợi, những cán bộ tương lai ít ỏi này vẫn phải làm những việc lao động hoặc công tác cần thiết y như là chiến sĩ mới, vì đâu có lính để mà sai bảo, nhưng có điều thú vị là cũng chẳng có ai quản lý mình ngoài chỉ huy đơn vị. Vậy là suốt ngày cứ tha thẩn hết chỗ nọ đến chỗ kia. Sống như vậy vài ngày thì được về phép, lại đúng vào dịp Tết, nhưng khổ nỗi là đúng ngay Mùng một Tết thì hết phép. Tuy nhiên, chúng tôi không phải buồn lâu, vì chỉ huy cho phép ở đến lâu một chút cũng được, miễn là đừng quá lâu thôi. Chỉ huy Tiểu đoàn còn giao kèo là đêm Ba mươi Tết mọi người phải có mặt tại đơn vị, sau đó muốn đi đâu thì đi, nhưng tôi dám chắc là trừ chỉ huy chắc chắn phải có mặt hoặc những người sống gần đó cũng có thể có mặt ra, còn lại thì chẳng có thằng ngu nào xuất hiện vào ngày đó đâu. Và nhận xét của tôi chẳng sai chút nào. Mà hình như vẫn có vài người có mặt trong đêm Ba mươi thật, còn lại thì kể cả tôi và cả những người sống gần đó cũng biến sạch. Ngay đồng chí Trung đội trưởng còn gọi điện trong đêm Ba mươi bảo tôi không cần phải lên, cứ ở dưới chơi vài ngày.

                          Tôi ở lại thành phố chơi vài ngày và dự định sẽ cùng các đồng hương lên vào Mùng Chín Tết, và cũng là ngày Chủ nhật. Nhưng sự việc đã không diễn ra suông sẻ như vậy. Chỉ vừa đến sáng Mùng Bảy Tết, lúc tôi còn chơi ở nhà một thằng đồng hương, lúc đó đã được biên chế qua Tiểu đoàn khác, thì ở nhà tôi nhận được điện của đồng chí Trung đội trưởng, bảo là phải lên ngay trong đêm nay hoặc phải có mặt đúng sáng mai không được chậm trễ, vì đúng ngày mai Quân khu sẽ xuống kiểm tra quân số. Vậy là đành phải bắt xe đi ngay trong buổi chiều hôm đó mà không còn sự lựa chọn nào khác. Khi vào đến đơn vị thì đã là gần chín giờ. Trước khi đi, tôi còn rủ thêm vài người gần nhà đi chung cho vui, nhưng không thằng nào chịu đi cả, tất cả đều trả lời là phải đến Mùng Chín mới đi, mặc cho cấp trên kỷ luật ra sao cũng được. Tôi cũng muốn làm như vậy giống họ, nhưng cuối cùng lý trí đã chiến thắng, thế là quyết định lên đường.

                          Hôm sau đúng là kiểm tra quân số thật. Sáng sớm, đơn vị đã chuẩn bị tinh thần và mặc sẵn quần áo đầy đủ tác phong là quần áo K để chờ báo động. Nhưng ngay sau tiếng kẻng báo động, đồng chí Trực ban Tiểu đoàn phải chạy đến mỗi đơn vị thông báo là phải mặc quân phục dã chiến, mang vũ khí trang bị, đeo ba lô, cộng với tất cả các thứ cần thiết như ruột tượng đựng gạo cùng cơ chậu, nghĩa là mang vác hệt như trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu di chuyển vậy. Thế là khác với nhận định ban đàu là chỉ cần quần áo K, giờ đã phải thay ra hết, sau đó lật đật lấy súng ống cùng với các dụng cụ hậu cần khác. Lúc đó, toàn Trung đội chỉ có mỗi mình tôi! Tập trung Đại đội xong thì lên tập trung Tiểu đoàn và tập trung Trung đoàn. Cảnh tượng lúc đó khá buồn cười. Trung đoàn chỉ còn lác đác hơn trăm người thay vì cả nghìn người, tức là chỉ có một phần mười quân số. Ngay cả Tiểu đoàn Năm là Tiểu đoàn lính cũ cũng chẳng có là bao lính, thậm chí có một Đại đội ngoài Đại đội trưởng cộng với một chiến sĩ liên lạc ra thì chẳng còn lấy một ai khác từ Đại đội phó trở xuống. Hôm đó, Trung đoàn bị đồng chí chỉ huy Quân khu khiển trách mạnh mẽ, đến nỗi sau đó các đơn vị phải sinh hoạt Chi bộ suốt mấy ngày trời để chấn chỉnh lại vấn đề giáo dục tư tưởng. Còn thành phần vắng mặt hôm đó sau khi quay về đơn vị đã bị quán triệt và bị lao động kỷ luật rất nhiều ngày. Sau đó còn phải viết kiểm điểm và chịu hình thức cảnh cáo trước Đại đội nữa. Sự kiện này sẽ tác động rất lớn cho việc ra quân sau này.

                          Cuối cùng thì mọi chuyện cũng qua. Những người lên trễ sau khi bị kỷ luật đã trở lại sinh hoạt bình thường. Các quân tư trang cần thiết cho chiến sĩ mới được cấp phát cho đơn vị. Các cán bộ tương lai bắt đầu các công tác chuẩn bị đón lính mới, bao gồm việc gắn binh chủng vào quân hiệu, gắn sao vào quân hàm, gắn sao và huy hiệu vào mũ cối, mũ mềm…. Công việc tưởng như đơn giản ấy phải mất mấy ngày trời mới làm xong, đến nỗi ai cũng mệt phờ người.

                          Khi các công tác chuẩn bị này hoàn thành thì cũng là hơn mười giờ đêm chủ nhật. Ngày hôm sau thì phải tiếp nhận tân binh. Cả bốn người gồm một Trung đội phó và ba Tiểu đội trưởng trong đó có tôi đã mệt mỏi đến mức mắt mở không lên, nhưng vẫn phải cố hết sức để làm cho xong công việc cuối cùng mới đi ngủ. Đó chỉ là màn khởi động để báo hiệu thôi, vì các vấn đề khó khăn gấp bội sẽ xảy ra tiếp theo.
                          #13
                            kien0745 10.02.2012 12:01:24 (permalink)
                            Mười bốn: Làm cán bộ

                            Ngày thứ hai đầu tuần bắt đầu công việc đón tân binh. Mọi người hối hả chuẩn bị để chờ các đơn vị địa phương chuyển lính mới đến. Đơn vị lúc này đã tăng cường thêm nhiều chiếc giường để phục vụ công tác huấn luyện tân binh. Phòng Trung đội hiện nay chật chội hơn so với lúc trước. Những chiếc giường này được lấy từ những đơn vị không cần phải huấn luyện tân binh về bổ sung. Khi mà bộ đội mới được đưa vào sẽ ngay lập tức có chỗ sinh hoạt.

                            Đến khoảng tám giờ sáng thì đơn vị địa phương gần nhất là huyện Bến Cầu tỉnh Tây Ninh đã đưa tân binh đến. Tuy nhiên, quân số của địa phương này đưa đến không nhiều lắm, chỉ chiếm khoảng một phần năm số người cần biên chế. Ổn định chỗ ở cho các đồng chí lính mới này xong được một lúc thì huyện Thủ Thừa tỉnh Long An tiếp tục đưa quân đến với số lượng cũng tương đương. Sau gần một tháng vắng vẻ và im ắng, đơn vị lúc này đã bắt đầu nhộn nhịp hẳn lên nhờ có quân số đông dần. Tiếp theo đến Quận mười thành phố Hồ Chí Minh bắt đầu đưa quân dồn dập với tỷ lệ khoảng hai phần năm quân số cần biên chế. Sau cùng đến huyện Di Linh tỉnh Lâm Đồng đưa quân với tỷ lệ cũng khoảng một phần năm. Vậy là đơn vị thành phố Hồ Chí Minh có tỷ lệ quân số tân binh cao nhất so với ba đơn vị còn lại.

                            Công tác cấp phát quân trang được các cán bộ Tiểu đội như tôi thực hiện. Còn việc đăng ký thông tin tên tuổi các chiến sĩ mới thì do đồng chí Trung đội trưởng làm. Nhớ lại khoản thời gian này một năm trước, khi tôi bắt đầu bước chân vào đơn vị, cũng ngơ ngác như cánh tân binh này. Không ngờ bây giờ mình lại làm cán bộ, cũng thực hiện lại các công việc giống hệt như các Tiểu đội trưởng năm ngoái làm, trong lòng không tránh khỏi một chút kiêu hãnh. Những tấm chiếu mới với mùi thơm đặc trưng tạo ấn tượng mạnh nhất cho tôi, làm cho lòng tôi bỗng dâng lên một nỗi xao xuyến khôn tả.

                            Chiều và tối hôm đó đơn vị sinh hoạt với kịch bản gần giống như một năm trước, cũng là chỉ cách xếp nội vụ, cách đeo quân hàm, quân hiệu. Đêm đến thì sinh hoạt Đại đội và sinh hoạt Trung đội. Sau đó điểm quân số và ngủ nghỉ. Các ngày tiếp theo cũng vậy. Không khác là bao so với những gì tôi từng trải năm ngoái. Có điều, các anh chàng lính mới năm nay thực hiện công việc ít hơn lớp lính mới năm trước. Không biết vì năng lực quản lý của cán bộ năm nay kém hay phần tử được tuyển dụng có chất lượng không tốt, mà những kẻ không biết điều chiếm số đông, nghĩa là vừa không nghe lời, vừa làm biếng, và tất nhiên là việc hoàn thành nhiệm vụ cũng tệ hơn nữa. Lực lượng này chiếm tỷ lệ cao hơn số lượng tương tự trong bọn lính như tôi năm ngoái. Không biết đổ lỗi cho cái gì, thôi thì tự nhận là mình điều hành kém vậy.

                            Việc huấn luyện tại thao trường cũng diễn ra tương tự năm trước. Lính tráng học tập không đến nỗi nào, nhưng thể lực thì ngoài những người sống tại các tỉnh ra, những quân nhân đến từ Sài Gòn hầu hết đều không đạt chuẩn, nên được đặt biệt danh “lực lượng cơ yếu” (cơ ở đây được hiểu là cơ bắp). Điển hình như việc ném lựu đạn, tôi đã tự nhận là một tay ném tồi thuộc dạng nhất nhì rồi, thế mà bọn họ ném chẳng hơn tôi lúc mới nhập ngũ là bao, thậm chí có kẻ còn tệ hơn thế nữa. Còn các động tác khác bọn họ cũng không làm được gì ra trò. Nguyên nhân chính là do bọn họ không chịu cố gắng chứ không phải làm không được. Vì vậy, tôi luôn đánh giá không cao đối với lực lượng “cơ yếu” này. Nhưng khổ nỗi, tôi thường xuyên phải phụ trách quản lý nhóm này mới đau. Cụ thể là những lần được giao công tác tại Sư đoàn, tôi luôn là người dẫn đầu nhóm. Với những lần như vậy, tôi cứ nơm nớp lo sợ, vì kết quả công việc sẽ ảnh hưởng rất lớn cho bộ mặt của cả đơn vị Đại đội. Cũng may là với hai đến ba lần giao việc tại Sư đoàn, đơn vị không bị phàn nàn gì, nhưng nhờ vậy tôi phát hiện được những kẻ nào thuộc bộ phận tụt tạt, những kẻ nào thuộc lực lượng “cơ yếu”. Lực lượng “cơ yếu” thì còn rèn họ được với điều kiện họ chịu cố gắng; nhưng bộ phận tụt tạt thì chỉ có một câu: hết thuốc chữa! Tôi phải thừa nhận là mình không đủ năng lực để cải thiện những kẻ này được.

                            Ở giai đoạn huấn luyện tân binh này, tôi có một kỷ niệm suốt đời không quên được, đồng thời đã ghi dấu lên thân thể của tôi. Vào một hôm tại thao trường, không biết ai đó chạm phải tổ ong vò vẽ. Tổ ong đó cách chỗ tôi ngồi có vài bước chân, thế là chạy không kịp. Tôi bị dính bốn cú ong chích với hai cú vào đầu, một cú vào mắt và một cú vào chỗ nào cũng không còn nhận biết được nữa. Với tai nạn này, tôi phải nằm liệt giường mấy ngày liền, thậm chí suýt nữa là lên cơn sốt. May mắn là không bị gì nặng, nhưng nửa bên đầu thì nhức kinh khủng, còn mặt thì bị sưng vù trong một tuần. Lạ là có vài người nữa bị đốt giống tôi, nhưng họ lại không bị sưng phù gì cả. Thậm chí cô hàng căn-tin cũng bị đốt trúng đầu, nhưng ngay chiều hôm đó cô ấy vẫn tỏ ra rất khỏe mạnh và đi bán bình thường. Chỉ mình tôi là bị nặng nhất. Ngay đêm hôm đó phải hành quân rèn luyện nhưng tôi không thể tham gia được. Rồi suốt một tuần sau đó tôi cũng không thể tham gia bất cứ hoạt động thao trường nào được. Khi đã lành rồi thì bên mắt trái tôi bị một vết sẹo vĩnh viễn. Tôi đã từng nghe về loài ong sát thủ này, nhưng chưa tưởng tượng mức độ sát thương của chúng, thì bây giờ đã được trải nghiệm. Thực ra trước kia khi đang chặt cây trong rừng, tôi cũng đã bị ong đốt qua, nhưng đó là loại ong đất, chất độc lành tính hơn và không để lại sẹo như loài ong vò vẽ này. Đó quả là một cú nhớ đời.

                            Chẳng mấy chốc thì ba tháng sắp trôi qua. Như thường lệ, đơn vị sẽ phải hành quân đến Núi Bà để thực hiện bài bắn đạn thật dành cho tân binh. Lần đó, tôi đã không được đi mà phải ở lại đơn vị để trông nom nhà cửa. Tôi rất thất vọng và phản đối gay gắt, thậm chí gặp riêng Trung đội trưởng để xin được đi, nhưng cuối cùng vẫn không được toại nguyện. Thế là đành phải chấp nhận ở nhà. Cho nên lần bắn đạn thật đó diễn biến ra sao tôi không được biết. Kiểm tra xong bài bắn đạn thật mới đến kiểm tra bài giật bộc phá. Còn bài ném lựu đạn thì năm nay không thực hiện.

                            Qua vài ngày sau khi kiểm tra bài bộc phá, đơn vị chuẩn bị đợt kiểm tra cuối cùng của giai đoạn huấn luyện tân binh là duyệt đội hình đội ngũ. Một ngày sau đợt diễu binh và kiểm tra thể dục, đơn vị chuẩn bị công tác biên chế lại lực lượng. Tiểu đội do tôi cầm đầu chỉ còn lại vài người, trong đó có hơn một nửa là dân tụt tạt. Tôi không còn cách nào khác là buộc phải quản lý những kẻ không ra hồn này!
                            #14
                              kien0745 10.02.2012 23:34:15 (permalink)
                              Mười lăm: Các công việc thực hiện trong năm thứ hai

                              Công việc biên chế lần đầu diễn ra xong được vài ngày thì lại diễn ra tiếp đợt biên chế thứ hai. Lúc này, thay vì có ba Trung đội trong một Đại đội thì Trung đội của tôi phải tách ra để dồn vào Hai trung đội còn lại. Cho đến lúc đó, trong tay tôi không còn một tay lính nào do tôi quản lý trước đó nữa, mà toàn là những tên mới toanh. Ngay cả Trung đội trưởng của tôi trước kia cũng đã không được nắm quân nữa mà phải điều đi Đại đội khác.

                              Việc phân chia lại quân số là một cú sốc đối với tôi và làm cho tôi chán nản suốt hai tuần liền mới hồi phục lại tinh thần. Năng lực điều hành vốn đã kém, nay lại nắm phải nhũng kẻ mới toanh và không nghe lời này, tôi không sao điều khiển bọn họ được. Khi truyền mệnh lệnh xuống thì mười lần có đến tám lần cãi lại hoăc thậm chí hơn thế nữa. Trong thời gian đó, tôi suýt đã gây ra một vụ việc khủng khiếp mà chính tôi cũng không thể ngờ được. Số là tôi phân công cho một thằng lính đi hốt rác sau khi những người khác đã quét xong sân. Tay lính ấy cãi lại với thái độ bỡn cợt. Thế là không nói không rằng, tôi nhặt ngay cục bê tông có sẵn dưới đất, nhằm ngay đầu anh chàng đó mà ném một phát cật lực. Thỏi bê tông đó không nhẹ chút nào, phải dùng hai tay mới nâng lên được, và tôi đồ chừng trọng lượng phải lên đến hơn chục ký. May mắn là tôi ném chệch mục tiêu nên tảng bê tông chỉ sượt qua tai của anh chàng, nếu không thì…. Suýt chút nữa thằng lính của tôi toi đời, hoặc bét lắm cũng bị mang thương tật suốt đời vì chấn thương sọ não! Cuối cùng anh chàng này chỉ bị thương nhẹ ở vành tai mà thôi. Trước đó không lâu, tại thao trường, tôi đã cho một thằng lính khác ăn một báng súng AK vào đầu cũng vì cái tội đùa giỡn quá trớn và có thái độ coi thường chỉ huy. May là anh chàng kia có đội mũ cối cho nên không bị bể đầu. Dù cả hai lần đều không gây thương tích trầm trọng, nhưng lại thể hiện quá rõ tính côn đồ của mình. Tôi trước giờ vốn hiền lành, nên không thể tưởng tượng được mình lại hành động thái quá như vậy. Chẳng lẽ con người khi gặp trạng thái bức xúc thì sẽ có những động tác thiếu tự chủ như vậy hay sao?

                              Thực ra, trước kia, khi còn là chiến sĩ năm thứ nhất, tôi đã có một lần suýt đánh nhau và một lần đánh nhau thực sự. Lần suýt đánh nhau thì diễn ra sau khi kết thúc phần duyệt đội ngũ trong thời gian tân binh. Còn lần đánh nhau thực sự thì diễn ra trong rừng một ngày sau khi kết thúc bài diễn tập. Nguyên nhân đều bắt nguồn từ sự khiêu khích quá mức của đối phương. Nhưng cả hai lần đó đều đánh bằng tay không chứ chưa đến mức cầm hàng phang nhau như vậy. Cho nên tôi nghi ngờ cả bản thân mình là không biết có phải là bản chất côn đồ đã hình thành sau một năm đi lính hay không!

                              Cuối cùng, tôi đã bình tâm suy nghĩ và bắt đầu rút kinh nghiệm. Không thể vì những chuyện cỏn con này mà đánh mất bản thân được. Hễ là lính thì phải tuân theo bất cứ mệnh lệnh nào của cấp trên, miễn là mệnh lệnh đó không phạm vào việc cướp của giết dân là được, đồng thời luôn luôn thích nghi với môi trường mới cũng như điều kiện sinh hoạt mới. Tôi đành phải chấp nhận thực tại và cố gắng thích nghi với hoàn cảnh mới. Dần dần, quan điểm cứng nhắc trước đây của tôi đã thay đổi dần để trở nên mềm dẻo hơn; từ đó tư tưởng tôi bắt đầu thoải mái hơn, khoáng đạt hơn, thậm chí có phần trào phúng. Nhờ vậy, thời gian còn lại trôi qua tương đối nhẹ nhàng mà không quá nặng nề.

                              Lính mới năm nay không cần làm các nhiều nhiệm vụ nặng nề như năm ngoái của tôi. Không dân vận. Không cáp quang. Thậm chí theo kế hoạch ban đầu là không đi Mây Tàu. Nhiệm vụ lính mới năm nay chỉ là làm vài công tác lặt vặt như trồng rau, đào ao Trung đoàn, phát quang thao trường. Về quân sự thì có bắn bài Trung đội, nhưng khác với năm ngoái, năm nay bắn hai lần, một lần đạn thật và một lần đạn mã tử (là loại đạn có đầu đạn bằng giấy, không phải bằng kim loại). Bài bắn đạn mã tử thì được thực hiện tại vườn điều quen thuộc thao trường Sư đoàn. Còn bài bắn đạn thật thì thực hiện tại Núi Bà như thường lệ. Cả hai bài bắn trên đều xuất hiện những trò cười. Tệ hơn vẫn là bài bắn đạn mã tử, nhất là bộ phận đặt bộc phá. Có đến gần một nửa số lượng không nổ được. Mà nguyên nhân ở đây chủ yếu là do yếu tố con người chứ không phải do yếu tố vật chất. Có kẻ khi giật xong thì chạy về nằm ngược hướng với quy định, có kẻ thì chạy ngã lên ngã xuống, thậm chí tệ hơn là có kẻ giật đứt cả dây chốt kéo. Tất cả đều để lộ ra những điểm thiếu chuyên nghiệp một cách tức cười. Bài bắn đạn thật cũng chẳng hơn gì khi xạ thủ B40 bắn trật nhiều hơn trúng, hay nói cách khác là chẳng viên nào trúng mục tiêu hết. Tựu chung là tệ hơn đám lính mới ở thời của tôi.

                              Từ bài bắn đạn mã tử, tôi phát hiện ra một điều thú vị. Nếu như bắn đạn thật thì khi khai hỏa, nghĩa là đạn bay ra khỏi nòng, thì ta chỉ nghe tiếng nổ, chứ nòng súng không khạc lửa và cũng không thể nhìn thấy đạn bay ra cũng như bất cứ dấu hiệu nào về đường đi của đạn. Ta chỉ thấy đường đi của đạn một cách mơ hồ nếu trời âm u và loại đạn sử dụng là đạn lửa hoặc đạn vạch đường. Còn bắn đạn mã tử thì khác. Khi bắn, ngoài tiếng nổ ra thì nòng sùng sẽ tóe ra những tia lửa rất đẹp mắt, hệt như những gì ta xem trong phim ảnh vậy. Từ đó tôi mới phát hiện, chỉ có bắn đạn mã tử mới làm cho đầu súng khạc lửa hệt như hiệu ứng trong các phim hành động, chứ còn đạn thật thì không thể. Ngoài ra, vì đầu đạn mã tử được làm bằng giấy cứng nên khi vừa bay ra khỏi nòng súng thì đầu đạn đã cháy hết chứ không thể bắn phá mục tiêu như đạn thật được.

                              Sau khi bắn xong bài Trung đội thì đơn vị tiến hành bắn các loại súng hỏa lực, trong đó có súng trung liên và M79. Tôi đã từng là xạ thủ trung liên cho nên việc khai hỏa không có gì khó khăn. Còn M79 thì chưa thử qua bao giờ. Khi bắn M79 cũng khá thú vị, có điều nó giật vào vai khá mạnh, nên khi bắn phải ghìm rất sát vào vai, nếu không thì rất dễ bị giật xái vai. Khi bóp cò thì chỉ nghe tiếng bộ kim hỏa chạm vào kíp chứ đạn chưa nổ, cho đến khi đạn chạm mục tiêu với cự ly đúng theo thước ngắm đã chỉnh hoặc đạn rơi xuống đất và quay đúng số vòng quay quy định, lúc đó mới phát nổ. Nếu không hội đủ các điều kiện trên thì đạn sẽ không nổ. Tiếng đạn nổ khá lớn, tương đương với tiếng nổ đạn B40.

                              Đối với súng AK 47 thì được bắn bài mục tiêu di động. Bài này có hai lượt bắn. Lượt thứ nhất là nằm bắn mục tiêu cố định tương tự như bắn ba viên thời tân binh, nhưng thước ngắm được đặt ở vị trí cao hơn. Lượt thứ hai là đeo mặt nạ chống độc, chạy lên phía trước, thực hiện đọng tác quỳ bắn để nhắm bắn liên thanh vào các mục tiêu di động là hình người loằng ngoằng được rê từ phải qua trái. Tôi kết thúc bài bắn này cũng với kết quả loại giỏi. Bài này thì năm trước tôi có chứng kiến, nhưng không tham gia bắn vì năm ngoái tôi chỉ bắn mỗi bài trung liên. Còn năm nay tôi vừa bắn trung liên, vừa bắn AK mục tiêu di động, vừa bắn M79; chỉ thiếu có bắn B40 nữa thôi.

                              Ngoài việc diễn tập bắn bài trung đội và bài bắn các loại súng hỏa lực ra, đơn vị còn tổ chức vài đợt hành quân rèn luyện với tần suất từ một đến hai lần một tuần, trong đó có cả việc sẵn sàng chiến đấu di chuyển (chi tiết của việc sẵn sàng chiến đấu di chuyển sẽ được đề cập sau). Những cuộc hành quân rèn luyện này có cự ly trên dưới mười lăm cây số. Thời gian hành quân khoảng năm đến sáu tiếng đồng hồ. Có lúc đi từ chiều sau giờ cơm, cũng có lúc đi từ khoảng mười hai giờ sáng. Có lúc thì đi từ doanh trại ra ngoài theo hướng Cầy Xiêng, dọc bờ Kênh Tây, ra đến Tua Hai rồi quay ngược lại và đi vào doanh trại theo hướng Ngã Ba Sọ; có lúc thì cũng đi theo các lộ trình trên nhưng theo hướng ngược lại, nghĩa là bắt đầu xuất phát từ doanh trại ra ngoài theo hướng Ngã Ba Sọ, theo một lộ trình ngoằn ngoèo để đến Tua Hai, rồi sau đó theo một lộ trình cũng ngoằn ngoèo không kém để đến được dọc bờ Kênh Tây và quay vào doanh trại theo hướng Cầy Xiêng. Những địa danh trên nằm ở đâu thì tôi không biết, chỉ biết con đường bờ kênh là đường mòn hay đường đất đỏ hoặc đường toàn cát mịn chứ không phải là đường nhựa, hai bên có rất nhiều bụi tre cùng với các khóm cây không tên khác, nói chung là nhìn rất lãng mạn. Sau khi đi qua khỏi các bụi trúc hoặc khóm cây gì đó thì mới ra đến một đoạn đường nhựa lớn có đèn đóm sáng trưng, nhà cửa khang trang. Đi được một đoạn như thế thì lại chui vào một con hẻm hóc nào đó tối om. Đi thêm một hồi thì thấy hai bên toàn là các vườn mì hay vườn mía gì đó khá rộng lớn. Đoạn đường đó quả là khó đi vô cùng vì thứ nhất không có đèn đường hoặc đèn hạn chế, thứ hai là điạ hình phức tạp: đường đi chật hẹp và vô cùng gập ghềnh nên khi đi phải rất cẩn thận nhưng vẫn không được giảm tốc. Con đường chông gai đó được kết thúc bằng một vườn trúc lớn trước khi ra đến mặt lộ. Đường nhựa lớn bên ngoài chính là vị trí của khu di tích lịch sử Tua Hai nổi tiếng. Còn đoạn đường từ Tua Hai về đến Ngã Ba Sọ ra sao thì tôi không nhớ và cũng không thể hình dung lại, chỉ nhớ là toàn đượng nhựa và có đi qua một hoặc vài chiếc cầu, thế thôi.

                              Trong và sau thời gian của những đợt hành quân rèn luyện, đơn vị tiến hành tập bài bắn Đại đội. Không như năm ngoái, năm nay chiến sĩ mới học bài Đại đội tiến công, và vườn điều là vùng đất thường trú của bộ đội. Trong suốt thời gian từ hai đến ba tháng, ngoài hai ngày nghỉ ra thì cho dù có học hay không học, hầu như ngày nào trong tuần, bất kể buổi sáng hay buổi chiều bộ đội cũng đều tập trung tại thao trường này. Việc học chính trị ít hơn hẳn so với học quân sự. Chẳng bao lâu, toàn Trung đoàn rộ lên tin đồn là lính mới cũng sẽ đi Mây Tàu vào dịp cuối năm. Lúc đầu, ai cũng cho là tin đồn, nhưng với những điều thực tế đã và đang diễn ra, điển hình là việc thường xuyên ôn luyện bài Đại đội, tin đồn không còn là tin đồn nữa, mà đã trở thành sự khẳng định chắc chắn! Thế là mọi người ráo riết chuẩn bị cho cuộc hành quân quy mô lớn.
                              #15
                                Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 27 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 3 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9