RE: Thơ Về vụ Tiên lãng, Đoàn Văn Vương
-
25.02.2012 21:12:02
võ văn triển
VĂN TẾ NGHĨA SĨ Cống RỘC-
( ngàn lần xin lỗi cụ nguyễn đình chiểu)
Hỡi ơi! Tiên Lãng súng rền; lòng Vươn trời tỏ.
Mười mấy năm quai đê lấn biển, chưa ắt thành công nhưng nổi danh như sóng;
Một trận đánh quan tham, thân tuy mất nhưng tiếng vang rền trên in te nét.
Nhớ VƯƠN xưa:
Cui cút làm ăn;
Toan lo nghèo khó.
Chưa quen nhậu nhẹt, đâu tới cửa quan;
Chỉ biết lấn biển, quai đê làm đầm nuôi cá, nuôi cua, ở ngoài cống Rộc. Việc đắp, việc đào, việc nuôi, việc thả, tay vốn quen làm;
Tập ăn, tập uống, tập chơi, tập nhậu, mắt chưa từng ngó.
Bữa thấy quan tham da trắng lốp, muốn tới ăn gan;
Ngày xem MECXEDEC chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
Khá thương thay:
Vốn chẳng phải con quan, cháu sếp, theo dòng tham lam ngu dốt;
Chẳng qua là dân đen, dân đỏ, con giun xéo lắm phải quằn.
súng hoa cải, nào đợi cưa nòng;
Mấy bình gas, đâu chờ bật lửa.
Trên đầm có một nhà hai tầng, đang chờ quan tham đến phá
Dưới cống còn mấy tấm ván ngăn cũng đóng được mấy cổ quan tài.(cho hiền liêm ca thoại và cả thành)
Súng hoa cải tự tạo cũng cho sáu thằng đi viện;
Mấy bình ga, cũng làm thót dái ĐẠI CA
Chi nhọc quan quản trống kỳ, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không;
Nào sợ thằng Liêm thằng Hiền bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào san bằng liều trại.
Bộ đội chạy ngang, công an chạy dọc, làm cho lão Ca hể ha viết sách;
Bọn Hiền trước, lũ Liêm sau, cùng hè nhau cướp đất
Những lòng tham đã lâu
Đâu có biết đó là phạm luật.
Một chắc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây;
Trăm năm âm phủ ấy chữ quy, nào đợi gươm hùm treo mộ.
TIÊN LÃNG HẢI PHÒNG, cỏ cây mấy dặm sầu giăng;
Nhìn cầu CỐNG RỘC, già trẻ hai hàng luỵ nhỏ.
Chẳng phải án cướp, án gian đày tới, mà anh VƯƠN NỔ SÚNG cho cam tâm;
Vốn không thắng được Vươn mà Hiền Liêm ra tay cướp đầm để đến ngày bị cách chức.
Nhưng nghĩ rằng:
Tấc đất ngọn rau ơn ĐẢNG, tài bồi cho nước nhà ta;
Bát cơm manh áo nhờ BÁC HỒ, mắc mớ chi ông cha nó.
Vì ai khiến nhà Vươn khó nhọc, ăn tuyết nằm sương;
Vì ai xui lều trại tan tành, trộm tôm cướp cá.
Sống làm chi theo quan tham, quan nhũng, dùng bằng giả, ăn thì giỏi, nói thì dốt, thấy lại thêm buồn;
Sống làm chi mà ăn theo nói leo, chia bè chia phái, nghe càng thêm hổ.
Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh;
Hơn còn mà chịu chữ quan tham, ở với man di rất khổ.
Ôi thôi thôi!
Cầu Cống rộc năm canh ưng đóng lạnh, đất đai này xin gửi lại quan tham
Đất Tiên Lãng một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.
Đau đớn bấy! vợ vươn, con đoàn ngọn đèn khuya leo lét trong lều;
Não nùng thay! Dân đen thấp cổ bé họng nhìn bóng quan tham LÙ LÙ trước ngõ.
Ôi!
Một trận khói tan;
Nghìn năm tiết rỡ.
Bè lũ Liêm hãy còn nơi Tiên Lãng, chúng làm cho bốn phía mây đen;
Vợ con Vươn còn ở nơi Cống Rộc , ai cứu đặng một phường con đỏ.
Vươn nổ súng rồi vào tù, danh thơm đồn sáu mươi tư tỉnh chúng đều khen;
Hiền, Liêm tham mà làm bậy, tiếng xấu trải muôn đời ai cũng oán.
Sống làm dân, thác cũng làm dân, trong sạch nhưng nghèo hèn muôn đời vẫn vậy;
Sống làm quan, thác cũng làm quan, chữ tham lam không sao thoát được.
Nước mắt anh Vươn lau chẳng ráo, thương vì hai chữ nông dân;
Bực tức trong lòng BỌ VINH quyết tâm tìm sự thật.
Hỡi ơi!
Nhờ cu Vinh tinh tường hóa