CỬA PHẬT - Truyện ngắn
Truyện ngắn KHỐI U đã được tác giả chỉnh sửa và mang sang một trang khác. Tác giả kính báo.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.12.2012 07:54:28 bởi Kiều Giang >
CỬA PHẬT
Truyện ngắn của KIỀU GIANG Ông Tư Bố năm nay đã ngoại thất tuần , thế mà trông ông còn rất vạm vỡ rắn chắc , dáng dấp của một nông dân đã nhuốm màu thế sự. Khi mới sinh ông, mẹ ông hỏi chồng nên đặt tên con là gì . Cha ông bảo “ Tên là Bố”. Bà giật nẩy mình : “ Chẳng lẽ tôi và ông sau này cũng sẽ gọi nó bằng Bố , coi sao được”. Ông giải thích: “ Tôi với bà mà còn gọi nó bằng Bố , thì thiên hạ ai mà chẳng phải gọi nó bằng Bố chứ, ý tôi muốn sau này nó cưỡi lên đầu những tên dân đen như tôi và bà bây giờ bị người ta cưỡi vậy , chứ chẳng lẽ, bà nghĩ coi, cả cái dòng họ nhà tôi suốt đời này qua đời nọ cứ làm cố nông, để cho mấy thằng địa chủ nó cưỡi trên lưng mình mãi hay sao? Hơn nữa , bà không nhớ cái tên Lã Bố trong Tam quốc chí , thật oai hết chỗ nói . Biết đâu nhờ cái tên đó mà nó sẽ làm cho dòng tộc tôi được đổi đời”. Bà ngẫm nghĩ, thấy cũng có lý, nên véo vào mông chồng : “ Đúng là ông cao kiến, biết lo xa”. Đâu có ai ngờ cái giấc mơ của đôi vợ chồng cố nông trong cái chòi tranh heo hút kia, sau này lại trở thành hiện thực !
Trong kỳ đại hội cấp tỉnh cuối năm ngoái, ông Tư xin rút lui , và trong cái buổi đầy tai tiếng cho những công bộc hạ cánh an toàn ,về vườn với một tài sản kếch sù từ trên trời rơi xuống, ông chỉ muốn thiên hạ gọi ông bằng hai tiếng thân mật : “Tư Bố”. Dù xuất thân từ một nông dân ít học, nhưng ông Tư cũng khá nhạy bén với thời thế, nên ông lên rất nhanh. Từ một anh du kích xã trong chiến tranh , chỉ trong vòng hơn hai mươi năm, ông nhảy lên cấp trung ương, được bổ về nắm quyền một tỉnh, dễ như trở bàn tay. Có người phục tài, hỏi ông bí quyết thành đạt , ông chỉ xua tay , triết lý : “ có gì đâu…có gì đâu, không cần khôn, cũng đừng dại, chỉ cần “biết” là được”.
Bây giờ thì ông Tư Bố đã vui thú điền viên . Một tập đoàn tài chính khổng lồ được giao cho cậu con trai đầu tên Chiến , ba mươi lăm tuổi , điều hành, còn chức tổng giám đốc công ty sắt thép thì dành cho cô con gái rượu tên Thắng, vừa tròn ba mươi mơn mởn, du học nước ngoài về, đang cặp bồ với cậu con trai của một vị chủ hảng máy bay lớn nhất nước. Có lúc ông Tư cười một mình :“Bọn nhỏ bây giờ nó cũng chọn môn đăng hộ đối dữ đó nha, khác xa thời của mình, các cô con gái bần cố nông thô kệch lại chính là cái bệ phóng cho sự nghiệp của các đức ông , có lúc mình cũng thấy bà nhà mình khô như gạch, mà lúc nào cũng phải nói là rất tự hào về vợ , vì cái nét duyên dáng không chê vào đâu được !
Thời ấy , sợ nhất là vướng phải các cô con gái địa chủ , phú nông thì coi như đời cắm xuống bùn đen ”. Ông Tư cười một mình và lẳng lặng giấu kín ý nghĩ đó vào trong đầu. Ông Tư Bố ít con và có con muộn , ông nghĩ các con ông dù phải đứng tên các công ty cho hợp với thế cuộc, nhưng ông biết chúng còn rất non nớt trong thị trường và trên chính trường nên vẫn cần sự cố vấn của ông .
Căn biệt thự rộng cả ngàn mét vuông đất của ông Tư được nhà nước hóa giá, nằm gần trung tâm một thành phố lớn, bây giờ dù có rất nhiều tiền cũng chưa chắc đã sở hữu được. Ông vẫn thường nghe chúng truyền miệng rằng “ Những gì mà thời nay không mua được bằng tiền, thì có thể mua được bằng rất nhiều tiền”. Ông cười nhạt : “Chúng nó bố láo, hãy thử đem tiền mà mua căn biệt thự của ông ,xem có được không !”. Ngồi bên chiếc cửa sổ hai lớp kính, xây theo kiểu Pháp, mùa đông thì ấm, mùa hè lại rất mát, với khí trời tự nhiên ( là một quan chức gốc nông dân, ông không ưa dùng máy điều hòa), ông Tư Bố nhìn ra khoảng vườn dài mút mắt, với những hàng cây kiểng thẳng tắp , được cắt xén, uốn thành hình những con vật trong bộ tứ linh , mà trong cả nước ít người có . Một làn gió mát rượi đem ôxy từ những cành cây cao ngã bóng trên các con mương nhân tạo lượn quanh vườn, thổi vào người, làm cho ông có cái cảm giác khoan khoái thích thú lạ thường . Ông rất tự hào về căn biệt thự đó. Vì nó chính là xương máu kết hợp với tài xoay xở của ông . Không dễ gì, trong thời buổi kinh tế thị trường , tất đất tất vàng này mà chính phủ ưu tiên cho ông đến mức như vậy ! Nằm đêm, nhiều lúc ông cao hứng thì thầm “Xin cảm ơn ông Các Mác, Ông “Sáu” Lê Nin . Dù con không hiểu một tí gì về chủ nghĩa Duy vật hay chủ nghĩa vô sản của các người, danh từ “ chủ nghĩa” mà con đã thuộc lòng , đối với con chỉ là sự phù phiếm, một thứ trưởng giả mới trong tư duy. Con hiểu rằng, duy chỉ nhờ cái tên “Bố” nằm mơ của cha con, một bần cố nông thứ thiệt, mà các người đã thương , cho con có được ngày hôm nay”. Nhưng ông Tư, một người sống trong sang giàu tột dỉnh quá nhanh chóng, như chưa kịp chuẩn bị cho mình một tâm lý hưởng thụ những tiện nghi mà như trên trời rơi xuống, có khi đâm ra ngỡ ngàng, nghi hoặc rằng cái của đó không phải là của mình. Nên có khi, ông lại thì thầm như rên rỉ : “ Cha mẹ ơi, giờ đây cha mẹ đang ngậm cười nơi chín suối , nhưng còn con, vẫn phải ở lại cái trần gian đầy gió bụi vô thường này, đã có gì là chắc ! Nhớ cái ngày giai cấp vô sản của mình vùng lên, cải cách ruộng đất nổ ra ,con là người lính xung trận đi đầu trong làng xã , chính tay con đã thi hành cái lệnh triệt bỏ bọn địa chủ bóc lột… Bao năm qua con đã tự hào về công lao mà mình đã đóng góp . Nhưng giờ đây, trong chính căn biệt thự nguy nga này và hàng trăm hecta rừng cao su mà con đang sở hữu kia, con lại trở thành một loại cố-nông-địa-chủ mới, giàu gấp trăm lần họ ngày xưa, nếu một ngày kia, lỡ có một cuộc cách mạng vô sản lần thứ hai nổ ra, thì máu trên sân đình bây giờ lại chính là máu của con ! Sao có thể như vậy được , cha mẹ ơi , có linh thiêng hãy phù hộ cho con , cho cháu sau này”. Nhưng rồi ,có lúc phấn khích ông lại tự an ủi : “ Làm gì có cuộc cách mạng vô sản lần thứ hai , giai cấp tư sản ngày nay đều đã xuất thân từ vô sản, họ đang nắm trong tay quyền lực, và vẫn tự cho mình là vô sản, thì còn có giai cấp vô sản nào vào đây nữa chứ ? Bố ơi, ngươi không thấy rằng giai cấp tư bản mới ở Nga đang chiến thắng giòn giã đó sao ? Đầu óc ngươi bây giờ làm sao vậy, hãy an tâm đi , ngài Tư Bố ạ”. Nghĩ thì vẫn nghĩ vậy, nhưng ông Tư vẫn hoang mang vì ông không sao cắt nghĩa được bao nhiêu rối rắm đang từng ngày diễn ra trước mắt ông . Xã hội biến chuyển nhanh quá , đầu óc già của ông làm sao theo kịp ! Ông Tư Bố càng ngày càng cảm thấy mỏi mệt vì sự lo sợ dày vò . Nỗi ám ảnh về những cuộc giết chóc ngày xưa ,gần như lúc nào cũng hành hạ ông, rồi cái guồng máy quyền lực và sự giàu sang kéo đến, quay tít trong đời ông, chẳng khác gì những ngày ông cầm súng chiến đấu, cận kề giữa cái sống và cái chết . Sự giằng xé giữa cái tôi và cái thực trạng của xã hội không bao giờ ngưng nghỉ trong ông , ông hoang mang đến cực độ , ít đêm nào ông được ngon giấc . Đôi khi ông cũng muốn nâng cấp tri thức của mình bằng cách phân tích lịch sử. Ông tự tra hỏi “ Trong sách vở mà ta đã học thì lịch sử nhân loại tiến lên theo đường thẳng, từ chế độ cộng sản nguyên thủy, qua chế độ nô lệ, đến phong kiến , tư bản , rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội và kết thúc ở chủ nghỉa cộng sản khoa học . Nhưng bây giờ, ta thấy , nó chẳng thẳng tí nào! Ngày xưa , địa chủ kết hợp với tư bản thì bây giờ vẫn chưa xóa được tư bản và địa chủ . Có thay đổi chăng chỉ là những con người khác, được tô vẽ bằng thứ màu sắc khác, tên gọi khác , được khoát lên một lớp áo khác… vì chẳng có ai sống mãi để giữ cái giai cấp của mình . Ngày ấy , bần cố nông phải bán con mình cho địa chủ, lý hào. Bọn họ sống trong một làng một xóm ,có đi ra, đi vào, còn thấy mặt mũi của con, nhưng bây giờ văn minh hơn , dân nghèo lại bán con gái mình cho Đài Loan , Hàn Quốc, Trung Hoa, qua Miên làm gái điếm . Biền biệt không về, mà nếu còn về, thì chỉ còn lại cái xác không hồn hoặc là những thây ma ! Có lẽ cuộc mua bán nào cũng cháy gan cháy ruột ! Và không có cuộc đấu tranh giai cấp nào , mà con người không đưa vào đó sự hận thù, máu và nước mắt . Đấu tranh giai cấp , có khi là một thứ nhân danh nên nó lặng lẽ qua đi rất nhanh , và giai cấp thống trị không bao giờ chịu từ bỏ tham vọng , đem ban phát quyền lợi cho giai cấp bị trị . Ví như mình bây giờ , sau bao nhiêu năm cống hiến cả xương máu, chẳng lẽ bây giờ tự dưng đem cả quyền bính, nhà cửa ,xe cộ, đất đai…. trả lại cho đám dân đen nghèo khổ kia .Thật là vô lý, bất công ! ( ? )Người ta đang hô hào cho một thế giới phi giai cấp nhưng ông thấy cái hố phân cách giàu nghèo hình như ngày một sâu rộng hơn và không biết bao giờ mới lấp được. Khi mà trên quê hương ông còn đầy rẫy bất công thù hận và hình như vẫn còn sinh sôi nảy nở mỗi ngày ”.
Đứng trước cái tuổi 75 , không hiểu sao, càng ngày ông Tư càng cảm thấy thời gian cứ vùn vụt trôi qua mặt mình . Từng ngày từng giờ, từng phút từng giây , đều là nỗi ám ảnh của một thế giới bên kia, khi ông, một lần nữa sẽ phải bước qua cái ngưỡng cửa của tử sinh . Rồi ông sẽ về đâu ! Bánh xe của thời gian sẽ nghiền nát ông thành tro bụi . Và những gì mà bao nhiêu năm nay ông tưởng là của riêng ông , bằng mọi giá và mọi cách , sở hữu cho được nó . Bao nhiêu của cải ông có được, như muốn ngược dòng thời gian trôi về với quá khứ , tuột khỏi tay ông, biến thành ảo mộng … Cũng như ngày trước, ông phải chuẩn bị cho mấy mươi năm đời người nơi trần thế. Ông đã sang giàu tột đỉnh, hưởng thụ không thiếu một thứ gì , kể cả các “ nàng tiên” cũng đã qua tay ông . Thì bây giờ đã đến lúc ông cần phải chuẩn bị một đời sống vĩnh cửu của kiếp sau . Mặc dù từ nhỏ, ông được dạy rằng làm gì có linh hồn, làm gì có kiếp sau . Chỉ có cái trần gian trơ trụi nhưng đầy cám dỗ này mà bao đời ông bà cha mẹ, cháu con ông thèm khát, đam mê… . Là một nông dân có tính thực tế , ông vẫn luôn luôn chu đáo mà ! “Những ngày còn lại trên thế gian này, nhất định ta phải tìm đến Cửa Phật , để từ đó ta leo lên Niết Bàn, như ta đã từng leo lên trên các bậc thang của quyền uy trong xã hội hiện tại . So găng với con người mà ta cũng đã chiến thắng kia mà ! Đức Phật bao giờ cũng từ bi hỷ xả hơn con người phàm tục, chắc chắn Đấng Thế Tôn chẳng bao giờ hẹp hòi với ta” . Ông lẩm bẩm .
Trong ngôi biệt thư sang trọng, lâu nay được ông và đứa con trai nhờ kiến trúc sư loại giỏi thiết kế và trang trí theo kiểu Tây, không gian sống thật thoáng đãng. Có thể xem đây là một thế giới thu nhỏ của sự giàu sang , phòng khách nhà ông cũng đồng thời là một thư viện, không thiếu bất kỳ loại sách gì , kể cả các loại sách quí hiếm mà người thư ký riêng của ông sưu tầm trước đây. Ông cẩn thận mời một cô quản lý thư viện tỉnh về sắp xếp thư mục giúp ông. Khách đến nhà, không ai là không trầm trồ ,đánh giá mức độ thông thái của gia chủ và không tiếc lời bày tỏ sự ngưỡng mộ ,cảm phục một nhà lãnh đạo tài năng, có tâm, có tầm hiểu biết sâu rộng qua cái thư viện mini này. Trên các bức tường xung quanh và trên các trụ cột hình trụ vuông, ốp đá hoa cương màu gụ bóng lộn ,được trưng bày một cách điệu nghệ của một họa sĩ có tay nghề thiết kế tầm cỡ, những bức bức tranh đắc tiền của các họa sĩ nổi tiếng trong nước và trên thế giới. Mỗi lần có khách, ông Tư không ngại mất thì giờ, đưa khách đi tham quan thư viện của nhà ông , đôi khi mất cả tiếng đồng hồ. Mặc dù có cái thư viện đồ sộ như thế, nhưng những lúc nhàn rỗi, ít khi ông tư sờ đến quyển sách, họa hoằng thì cũng chỉ với mấy đầu sách về chính trị , về tư tưởng Mác Lê, những nghị quyết của các kỳ đại hội…Ông cho rằng sách là nơi phù phiếm và lòe loẹt trí thức. Cái thư viện này là nơi để ông chứng tỏ với cấp trên rằng ông luôn tự nghiên cứu để xứng đáng với cái ghế của mình, còn với cấp dưới và quần chúng nhân dân không ai dám gọi ông là ông quan dốt vì chỉ mới qua lớp bốn trường làng rồi cứ thế mà học bổ túc cho có cái bằng đại học, chẳng ai biết là thật hay giả, thiên hạ vẫn phải gọi ông là cử Bố . Thế mà cũng có thằng xỏ lá ba que , bày người ta bỏ bớt hai cái râu của chữ “cử” đi . Ông tức phát điên, nhưng đành chịu, vì dù có quyền lực đến đâu cũng không ai bỏ tù được tin đồn. Đôi khi ông ra mặt coi thường cái hạng trí thức trói gà không chặt, mang danh ông tiến sĩ này, ông thạc sĩ nọ,nhưng gặp ông vẫn phải cúi đầu thật sâu mới dám bắt tay . “ Chính trị là chủ soái của xã hội thời nay mà !” . Ông đắc ý cười nhạt .
Đã bao nhiêu năm, ông Tư Bố rất tự hào về cái thư viện mini trong nhà mình, và cũng một phần nhờ nó như một biểu tượng của trí thức giúp ông đã êm ru leo lên từng nấc thang danh vọng . Nhưng giờ đây, cái thư viện chẳng còn đắc dụng cho ông nữa . Bước chân ông đã đi qua trần gian của những tháng năm biến động mãnh liệt của đất nước , dù muốn hay không , ông cũng đã phải đi tôn thờ vật chất , gươm giáo, súng đạn và cả sự gian dối xảo quyệt, thì giờ đây gối đã mỏi , chân đã chùn, những ngày còn lại trên cái cõi vô thường này, ông phải trở lại với con đường tâm linh, hướng về Phật pháp. Do đó , căn phòng ngay trên đầu cái thư viện đồ sộ, ông quyết định lập một Niệm Phật đường thật lớn, chẳng thua gì một ngôi chùa nho nhỏ trong thành phố, để ông bắt đầu cuộc hành trình về Niết Bàn .Nét mặt ông bỗng đăm chiêu và nghiêm trang mỗi khi nghĩ đến điều ấy.
Sau gần một năm thi công gấp rút, công trình mà ông Tư Bố gọi là Niệm Phật Đường đã hoàn thành ,ngay trong ngôi biệt thự của ông. Niệm Phật Đường có kích thước 10 – 15 chưa kể hai dãy hành lang . Căn phòng dùng làm Niệm Phật Đường bây giờ, trước đây là nơi vui chơi giải trí của gia đình, bạn bè, khách khứa . Các trò tiêu khiển cực “hot” đã được tổ chức ở đây. Khi ấy, nói như các con ông, đó là thiên đường của trần gian, còn bây giờ theo ông, nó là thiên đường trên thiên đường và ông sẽ đi vào cái thiên đường vĩnh cửu ấy . Mắt ông trở nên rực rỡ, môi ông run run vì sung sướng mỗi khi nghĩ về điều mà ông không ngờ , tiền tài , vật chất đã biến thành thần thánh ! Nơi mà ông Tư xây dựng để phục vụ nhu cầu tâm linh cuối đời , vừa đồ sộ lộng lẫy vừa trang nghiêm lại pha nét trầm mặc của màu thiền Trúc Lâm .Trước sân Niệm Phật Đường là hai cây bồ đề thuộc hàng cổ thụ, rễ cây si bám đầy mà ông đã mướn tìm từ hơn một năm nay, bứng về trồng ở hai bên góc vườn, phủ bóng rợp cả một khoảng sân rộng . Lùi vào bên trong là tượng của Đường Tam Tạng cao 5 mét ,đứng trước là tượng Quán Thế Âm và Thích Ca mâu Ni ngự trên đài sen , nét mặt đầy vẻ nhân từ , trông giống như đang mỉm cười với chúng sinh . Bên hông trái ,lùi về phía sau một chút là hòn giả sơn thật lớn, cao khoảng 5 mét , trước cửa hang là tượng đức Quán Thế Âm đang truyền giáo pháp của Đúc Như Lai biến thành nước Cam lồ vĩnh viễn chảy xuống trần gian . Hông phải của chánh điện là tàng kinh các ,chứa hầu hết các bộ kinh quí của của Phật giáo .Trong chánh điện rộng gần một trăm rưởi mét vuông, mái đúc trên 6 cây cột tròn , được điêu khắc rất tinh tế hình rồng vàng ánh, tượng Thích Ca Mâu Ni tọa trên đài sen cao 2 mét đúc bằng đồng, trước mặt tượng là chiếc lư lớn , khói hương nghi ngút, bên phải là chiếc chuông đồng treo trên chiếc giá gỗ mun được chạm trổ công phu , bên trái là chiếc mõ to bằng cái đầu người làm bằng gỗ hương bóng lộn …Ông Tư đã không tiếc , bỏ ra hàng chục tỉ đồng để hoàn thành một công trình phục vụ cho nhu cầu tâm linh, dù cũng đã có người khuyên ông không nên làm quá rình rang , e không hợp với cái địa vị lãnh đạo của ông đối với nhân dân địa phương , nhưng ông không nghe, vì dù sao, ông cũng đã về hưu , công khai như thế còn hơn có vị lãnh đạo cao cấp lén lút đi xem bói để đoán trước thời vận của mình . Nơi đây sẽ cứu rỗi linh hồn ông , phải xứng đáng với tâm nguyện của ông.
Ông Tư Bố chọn hôm nay ngày rằm tháng bảy, ngày mà Tôn giả Mục Kiền Liên, đệ tử của Đức Phật, đem lễ vật dâng cúng Tam bảo , xin giúp sức để cứu cha mẹ mình đang bị đảo huyền nơi âm cảnh, để gióng tiếng chuông mõ khánh thành Niệm Phật đường , cầu mong sao nơi suối vàng , cha mẹ ông sẽ mỉm cười mừng đứa con tên Bố , đã theo gót Mục Kiền Liên Tôn giả, một ngày kia sẽ đưa ông bà ra khỏi cõi âm , siêu thăng về nơi tiên cảnh . Trong lễ khánh thành hôm nay, ông Tư chỉ mời hai vị Thượng tọa có uy tín nhất của địa phương cùng một số trai tăng đến dâng lễ cung nghinh và an vị Phật . Ông không dám mời các quan chức địa phương , vì e rằng sẽ bị đả kích vì ông đã “tiến bộ” quá nhanh , bỡi dù sao thì trong túi ông vẫn còn giữ chiếc thẻ đỏ , đó là chiếc bùa hộ mệnh , đã bao năm ,nhờ nó mà ông mới có năng lực tài chính để rước “thuốc phiện của dân chúng” về nhà . Người ta rất ngạc nhiên về sự thay đổi rất nhanh dáng vẻ bề ngoài của ông tư Bố. Trừ những lúc đi ra ngoài, trên chiếc Roll Royce giá gần cả triệu đôla , về đến nhà là ông thay ngay một bộ nâu sồng hoặc già lam, phong thái giống như một vị hòa thượng , có điều là mái tóc dày và cứng của ông vẫn còn được nhuộm đen một cách cẩn thận . Đã hơn một tháng nay, sau hôm quy y ở chùa Vĩnh Nghiêm về , mặc dù ông chỉ ăn chay có 4 ngày mỗi tháng, theo thói quen, bữa ăn nào, ít nhất cũng phải có mấy lon bia , nhưng hằng ngày ông Tư đọc kinh hai lần , buổi sáng và buổi tối . Phải gọi là đọc kinh vì ông Tư đã thuộc câu kinh nào đâu và khi đọc, ông Tư không hiểu và cũng không quan tâm là mình phải hiểu những câu kinh ấy có ý nghĩa gì . Trước mặt ông là 3 bộ kinh đang mở, sắp hàng ngang . Thường là ông ngồi theo kiểu nửa kiết già hoặc quì trên chiếc gối bông dày để đọc kinh . Khi ông lễ Phật , ông không muốn ai theo dõi nên đóng kín các cửa lại.
Hôm nay, đêm rằm tháng tám, bên ngoài trăng mùa thu vành vạnh , tỏa ánh vàng lung linh tinh khiết xuống niệm Phật đường nằm giữa ngôi biệt thự mênh mông sang trọng nhưng đầy vẻ huyền mặc, chỉ một mình ông Tư ở nhà cùng với bầy chó berger đang canh giữ ở phía dưới , sau gần 2 tiếng đồng hồ đọc kinh, ông quyết tâm "tham thiền nhập định", để cầu xin Đức Phật hiển linh cho ông thấy được hào quang của đấng Thế Tôn
- Nam mô A Di đà Phật …Nam mô A Di Đà Phật ….
Cứ một câu ấy, mắt nhắm nghiền , ông Tư lâm râm trong miệng cả ngàn lần .
Bỗng nhiên , đầu óc ông trống rỗng, rồi trời đất như quay cuồng, thân xác ông bồng bềnh giữa không trung , cảnh vật chung quanh biến mất .Ở phía đàng tây, một vầng hào quang sáng chói cả khoảng trời, Đức Phật xuất hiện trên đài sen lơ lửng ở lưng chừng trời ,với muôn ngàn tia sáng lung linh tỏa ra từ Pháp Thân rọi chiếu xuống trần gian ngồn ngập . Tâm hồn ông Tư như bị thôi miên và mê hoặc bỡi những luồng tia sáng đó, ngực ông nặng trĩu, máu nóng dồn lên thái dương , tim đập liên hồi. Cuối cùng ông Tư dồn hết can đảm, lấp bấp:
-Bạch đấng Thế Tôn, con tục danh là Lê Bố, pháp danh là Vạn Hảo , hôm nay được ơn trên cho con được diện kiến Như Lai, con xin cúi đầu nghe đức vô thượng quyền năng dạy bảo !
Một giọng nói ấm trầm vang xa trong không trung , không biết phát ra từ đâu mà vang vang trong tai ông, nghe như ở từ mọi phía :
-Thí chủ đáng thương kia, con cần gì ở ta mà đêm nay con gọi ta không ngớt . Chẳng phải con đã bỏ nhiều tiền của , xây cất công trình đồ sộ để tu niệm rồi đấy sao ?
-Bạch Đấng cứu thế, con chỉ xây được cửa chùa nhưng con chưa bao giờ thấy được cửa Phật . Cả năm nay , từ ngày nương vào cửa tôn nghiêm, con cứ ngỡ rằng con sẽ gặp được Như Lai mách bảo cho con đường dẫn vào cửa Phật, để cầu xin Đức Thế tôn toàn năng gọt bỏ những tội lỗi con đã gây ra trên trần gian điên dại và ô trọc này . Nhưng nào có được ! Con thấy linh hồn con vẫn cứ trĩu nặng những trói buộc của trần gian…
-Hỡi thí chủ đáng thương kia, Cửa của ta có ở khắp mọi nơi, bao giờ cũng rộng mở, nhưng lại khó vào , khi tự thân con còn mang nặng nhiều nghiệp chướng . Linh hồn con bây giờ đang đeo nhiều chiếc bao nặng nề đó , giống như một người đang mang nhiều bao cát nơi giếng sâu, nếu không vứt bỏ được những bao cát ấy đi , thì làm sao nhảy nổi lên khỏi miệng giếng ? Con hãy vứt bỏ những bao nghiệp chướng ấy đi thì con sẽ tìm ra cửa của ta ở ngay trong lòng con.
-Bẩm Đức Thế Tôn , vì sao con lại tạo ra nghiệp chướng?
- Hành ác tất tạo nghiệp con ạ !
- Tội ác của con sao ? Con đã gây ra nhiều tội ác ?
- Tội ác con ạ ! Nếu như khi con vào các cửa của các tổ chức nơi trần gian, con phải cung khai lý lịch , thì hôm nay nếu con chưa nhận ra tội lỗi của mình thì làm sao con có thể vào Cửa Phật ?
Toàn thân ông Tư run lên bần bật như người lên cơn sốt rét, vì ông thường nghe người ta nói : “lưới trời lồng lộng, tuy thưa mà không lọt”. Ông hoang mang : “ Những gì mà lâu nay ta lừa dối nhân dân, lừa dối tổ chức, bây giờ đứng trước đấng toàn năng không biết ta còn có thể quanh co được nữa hay không !”. Rồi giọng nói vừa từ bi vừa đanh thép kia lại vang lên trong tai ông:
- Làm sao ta có thể rửa sạch những tội lỗi cho con , chỉ có chính con mới làm được điều đó , nên con phải thấy được tội lỗi của mình . Con tự xưng mình là một công bộc của nhân dân và là đứa con của Phật , con đã biết ngũ giới là gì chứ?
Đến đây thì hồn phách của ông Tư suy sụp hoàn toàn , mồ hôi tháo ra ướt cả lưng áo lam già, một biểu tượng của từ bi ,xuất thế . Ông nói trong bụng :“ Trả lời về mấy chữ : Cần - kiệm - liêm - chính , chí công - vô tư, thì thật dễ ẹt trước những người cùng một ruột với ông , nhưng bây giờ trước mặt Như Lai, làm sao ta có thể xảo ngôn với Đấng toàn năng”. Ông cố thu hết sức bình sinh để bộc bạch:
-Bẩm Đức Thế Tôn, con đã mon men hiểu được 5 điều răn của Bậc Đại Giác, trước hết là không sát sanh, nhất là không được giết người …
-Đúng thế . Điều ấy con tự hiểu con hơn ta .
-Bạch Thế Tôn, con chí lỡ giết người trong khi con đang chiến đấu để tự bảo vệ mình !
- Chỉ có thế thôi sao? Con không giết ai trong tư thế quỳ gối van xin con chứ ?
Môi ông Tư tự nhiên cứ rung lên, ánh sáng trước mắt nhòe nhoẹt, khi ông nghĩ đến sau cái ngày toàn thắng . Giữa lúc tranh sáng tranh tối, và lòng hận thù chất chứa trong hàng chục năm, ngùn ngụt bốc lên cùng với đôi tay quen chém giết, ông đã lỡ phạm sai lầm tày trời mà chính ông, ông cũng không thể nào dung tha cho mình được . Ông mở lòng sám hối:
-Bạch Như lai , Quy luật của chiến tranh thật nghiệt ngã, hậu quả của chiến tranh thật khốc liệt, sự khốc liệt ngấm sâu vào tận đáy tim của những người chiến bại và cả những người chiến thắng . Đã mấy mươi năm rồi , chúng con cố quên đi, nhưng những vết sẹo hồng kia vẫn không bao giờ chịu liền thịt trên lưng của thời gian . Ôi, chủ nghĩa . Ôi , đấu tranh . Ôi, súng đạn. Ôi, hận thù ! Ôi, lịch sử và nhân danh ! Loài người không còn con đường nào khác hay sao ? Chân lý và sai lầm chỉ cách nhau có một kẽ tóc !
- Con nói đúng . Vết thương trên thân xác con, trong tâm hồn con rồi sẽ lành, nhưng vết thương trên lưng thời gian thì vẫn còn đấy . Thiện và ác, chân lý và sai lầm , những vết thương kia sẽ là chứng nhân của lịch sử .
Đức Như Lai ngưng một chút rồi tiếp :
-Còn điều giới thứ hai , con còn nhớ không?
-Bạch Đức Như Lai, con nhớ rất rõ . Đó là không được ăn cắp ! Và từ lúc ấu thơ, con chưa hề ăn cắp một xu , một hào của ai .
Trong ánh hào quang rực rỡ một góc trời, Đấng Thế Tôn vẫn dịu dàng, ôn tồn và nhân từ:
- Con nghĩ thế nào là ăn cắp, và làm gì thì mới gọi là ăn cắp ? Chẳng lẽ chỉ có đi bẻ trộm một quả bắp mới gọi là ăn cắp hay sao ? Ăn cắp là cố thủ đắc tất cả những gì mà không phải do mồ hôi, cơ bắp, trí tuệ của mình tạo ra cho xã hội và bản thân. Là trực tiếp hoặc gián tiếp, dùng mánh khóe và quyền lực lấy đi những thành quả lao động của người khác, lấy đi những tài nguyên của đất nước, đó là xương máu của cha ông đã bao đời để lại , là làm giàu trên mồ hôi nước mắt của đồng đội, đồng bào …Con không thấy đồng bào con còn biết bao người cùng khổ .Khẩu phần của họ không bằng của con chó nhà con . Giá một chai rượu ngoại con dùng có thể nuôi sống gia đình họ một năm . Con có biết của cải xã hội chảy về đâu không ? Lương tri con người bây giờ quả đã không đuổi kịp dục vọng rồi !
Sự thực thì ông Tư chưa bao giờ nghĩ là mình đã ăn cắp của nhân dân . Có “cống hiến” thì phải có hưởng thụ chứ ! Và ông luôn mạnh miệng phê phán những kẻ ăn cắp, vì ông thấy còn biết bao nhiêu quan chức còn giàu sang hơn mình . Thế rồi ai cũng có quyền chửi người khác, vì dù có ăn cắp, thì mình vẫn còn ăn cắp ít hơn, và bàn tay mình vẫn sạch hơn. Họ cứ nhìn cái túi của nhau, tự hào về cái túi trong sạch của mình mặc dù mỗi ngày cái túi ấy , trong vòng quay của lòng tham , sự non nớt của luật pháp và sự móc ngoặc, che chắn, nó cứ tự động đầy thêm lên. Đồng tiền, của cải cứ núp sau cái ghế của ông mà chảy vào nhà ông như nước lũ, không còn kiểm soát nổi nữa. Ông đã chẳng hiểu rằng đồng tiền cứ chảy theo quyền lực và quyền lực lại đẻ ra đồng tiền . Ông nhớ lại bao nhiêu cách đồng tiền cứ tìm những kẽ hở nhà ông mà chui vào . Như cái tên Hùng kia , bỗng nhiên đến trả giá gấp 10 lần giá thị trường để mua căn biệt thự cũ của ông, cứ tưởng rằng hắn hớ và dại , nhưng đâu có ngờ liền sau đó hắn xin được trúng thầu khai thác titan dọc theo các bãi cát ven biển miền Trung, ông đành phải chìu theo ý hắn, vì đã lỡ rồi . Đại loại là như thế …và như thế. . . Nhưng ông nào có bắt ép hắn , hắn tự nguyện đấy chứ ? Đồng tiền cứ tự nguyện và những con người tự nguyện theo ông . Ông không hiểu hay không muốn hiểu , vì sao đồng tiền cứ chạy đến những nhà quyền thế mà chui vào và luật pháp nước ông thì không có điều nào cho rằng cả gia chủ và đồng tiền ấy có tội . Chưa có tội “hối mại quyền thế”. Những ông quan quyền cao chức trọng thì tha hồ bán cái quyền thế mà làm giàu và bán mãi không bao giờ cạn . Quyền càng lớn thì bán càng nhiều tiền ,càng dễ bán , nhiều người mua mà giá lại càng cao !Lạ thật ! Lâu rồi thành thói quen , một ngày kia, không còn cách nào để giaỉ thích , ông Tư coi cái tài sản kếch sù mà ông hiện có là do phúc đức của ông bà cha mẹ ông để lại, do ông ăn ở hiền lành nên Trời Phật cho ông ! Bây giờ Đức Như Lai dạy như thế , chẳng lẽ , cái tài sản kia là của ăn cắp hay sao ? Ông mơ hồ và bàng hoàng ,ông không còn hiểu đâu là chân lý nữa !
Còn 3 điều giới còn lại ! Ông Tư Bố đang đắm chìm trong hồi tưởng …
Từ ngày ông được cất nhắc lên những bậc thang của danh vọng , kinh qua nhiều chức vụ về chính trị và kinh tế , có quyền rồi có tiền, đã giàu thì phải sang, cái mùi bùn đất lam lũ hôi tanh , cái nếp sống quê mùa thô kệch đã bao đời nay, dần dần tách khỏi con người ông, lùi xa về dĩ vãng để nhường chỗ cho cuộc sống trưởng giả xa hoa . Cái bản năng hưởng thụ đã bị đè nén bao nhiêu năm nay bây giờ trổi dậy . Người đàn bà bần cố nông nồng nặc mồ hôi lúa đất heo gà chưa kịp chạy theo mùi nước hoa thứ xịn, đã một thời làm bệ phóng cho ông bay lên trên con đường danh lợi, giờ đây đã trở thành nỗi ám ảnh của ông trước và sau các cuộc truy hoan với các cô gái chân dài tha thướt . Ông nhớ lại mấy mươi cô gái tuổi đôi mươi mơn mởn, vì phải kiếm cho được việc làm nhàn hạ, đành phải ôm hận qua tay ông , khi ông làm giám đốc một khách sạn lớn . Gian dâm ư ? Hồi ấy ông cố ngụy tín rằng “hai bên cùng có lợi”, ông có lấy không cái gì của ai đâu ? Nhưng bây giờ đứng trước Đấng Toàn Giác , cái bao nghiệp chướng ngàn cân kia lại tròng lên cổ ông, có lẽ không bao giờ ông thoát ra được! Thân ông Tư Bố mềm nhũn ra như một đống thịt không xương . Khi mà hình ảnh của những ngày xa hoa sa đọa trở về bên ông thì cáiCửa Phật linh thiêng , nơi ông hằng mơ ước cho những ngày còn lại, chỉ còn là cái bóng xa xăm mờ nhạt. Ông Tư ngước nhìn lên bầu trời đầy trăng sao, ánh hào quang trước mắt ông khi mờ khi tỏ. Chắp hai tay lên ngực, ông khẩn khoản:
-Bạch Đức Thế Tôn , trong cả ngũ giới con đều mắc phải, tội lỗi của con chồng chất, nghiệp của con tạo ra có khi còn nặng hơn cả núi thái sơn , chẳng lẽ cửa Phật đã đóng kín lại với con , con sẽ mãi mãi chịu bao nhiêu hình phạt tàn khốc nơi địa ngục, con đường đi đến Cửa Phật vĩnh viễn bị cắt đứt rồi hay sao !
-Thí chủ tội nghiệp kia, Cửa Phật ở khắp mọi nơi mọi lúc và không hề khép lại với bất cứ ai bao giờ. Cửa Phật là chốn thiêng liêng vi diệu, sắc sắc không không , ở giữa sâu thẳm của chính linh hồn con mà con chưa bao giờ thấy được . Bao nhiêu sinh linh trượt dài theo cái ác , tạo nghiệp từ kiếp này qua kiếp khác, ngụp lặn triền miên trong bể khổ luân hồi. Trong suốt cuộc đời, từ một anh nông dân hiền lành, con đã say men chiến thắng, dấn thân vào cuộc tranh giành quyền lực và của cải , lao vào cuộc sống xa hoa hưởng thụ, đã lấy đi biết bao nhiêu mồ hôi và nước mắt của người khác . Chính lòng dục đã che lấp tâm trí con, dẫn con vào cái đêm tối của tội ác, bây giờ muốn thoát ra, không phải nhất triêu nhất tịch, mà phải trải qua sự khổ hạnh lâu dài…
Ông Tư Bố chắp tay vái lia lịa:
-Bạch Như Lai, dù gian nan vất vả đến đâu con cũng nguyện đi theo Phật pháp, quyết giũ bỏ gánh nặng của trần gian !
-Con đường tìm về vô ngã không dễ dàng chút nào đâu con .
-Bạch Đấng Đại Giác, dù phải leo trên núi cao hay lặn xuống biển sâu, con cũng quyết làm cho được.
- Thế thì tốt lắm . Cửa Phật đâu cần con phải khổ nhọc như vậy . Điều con phải làm dễ hơn nhiều, đó là , trước hết, con hãy đem tất cả nhà cửa, ruộng vườn, đất đai, công ty, ngân hàng, đồn điền, nói chung là những gì không phải là của con, trả lại cho nhân dân, trả lại cho những đồng bào cùng khổ trên quê hương con, cắt bỏ đi những món nợ của trần gian mà con đang mang nặng bên người . Chính những thứ đó đã trói buộc con, không bao giờ buông tha cho con thanh thản ra khỏi cái trần gian nợ nần đó, con sẽ mãi lẩn quẩn sau bức màn vô minh , không thể ngộ được Chánh Pháp, thì làm sao con thấy được Cửa Phật mà vào. Hỡi thí chủ đáng thương của ta, hôm nay ta chỉ có mấy lời này cho con, mong con đừng quên.
Chợt vầng hào quang sáng rực cứ lùi xa mãi và mất hút về cuối chân trời . Ông Tư Bố như giật mình ra khỏi trạng thái nửa thực nửa mơ, đôi bàn tay còn chắp trên ngực trong thế ngồi nửa kiết già. Ông bàng hoàng rên rỉ :
-Đức Như Lai ơi, sao Đấng Toàn Năng không bắt con bỏ ra hàng ngàn tỉ để xây hàng trăm ngôi chùa trên đất nước con, để những đứa con của Phật , từng đêm, từng đêm , tụng niệm , vinh danh Đức Thích Ca Mâu Ni , mà lại khuyên con phải từ bỏ tất cả của cải, dù là phù vân nơi trần gian mà con kiếm được .Làm sao con tự cắt bỏ đi một phần thân thể của con ! Đức Thế Tôn ơi , biết đến bao giờ con mới tìm ra Cửa Phật !
Ông Tư Bố gục xuống trên cuốn kinh Pháp Hoa còn mở ở trước mặt,ruột gan rối bời, hồn như đang mang theo bao nhiêu tảng đá cõi trần . Còn ở ngoài kia mảnh trăng rằm đã chếch về hướng tây, buông ánh vàng vằng vặc xuống sân Niệm Phật Đường tĩnh lặng . Hình như chỉ có chú sóc trên cành Bồ Đề đang nheo mắt cười với chị hằng . Rất xa xôi…
<bài viết được chỉnh sửa lúc 05.05.2012 07:17:47 bởi Kiều Giang >
HOANG TƯỞNG Truyện ngắn của KIỀU GIANG
Đã quá một ngày đêm, Tuấn không hề ăn uống gì . Anh cứ quì mãi nơi góc nhà, miệng lẩm bẩm những câu gì không rõ .Trưa nay ,Quyên cố gắng dỗ đút cho chồng mấy muỗng cháo, nhưng cứ ngậm vào rồi Tuấn lại phun ra, mắt lơ láo, đờ đẫn , dáng hình tiều tụy trong bộ áo quần pyjama đã nhàu nát hôi hám mà mấy bữa rồi, anh nhất định không cho Quyên thay. Những con ruồi xanh được dịp, đậu cả trên mặt mũi anh . Quyên thở dài, đưa tay đuổi thay cho chồng . Hồng Quỳnh, đứa con gái lên ba của vợ chồng Quyên, có lẽ chưa hiểu nổi những gì đang xảy ra, nên cứ chồm hổm, hai bàn tay buông thõng trên hai gối, trố mắt nhìn cha, rồi quay sang mẹ: “ Sao Ba không chịu ăn cháo hả mẹ?”. Quyên không thể trả lời con , vì cổ chị nghẹn cứng, cố nén những giọt nước mắt chực trào ra. Chị không muốn khóc trước mặt con, vì sợ những mảng tối của cuộc đời đã sớm xâm nhập vào tâm hồn còn quá bé bỏng thơ ngây. Tuấn và Quyên quen nhau khi còn học chung ở trường đại học khoa học xã hội và nhân văn . Tuấn học khoa báo chí còn Quyên thì theo tổng hợp văn. Họ yêu nhau đã bốn năm và cho nhau nhiều kỷ niệm đẹp của thời sinh viên thơ mộng , vì họ biết tôn trọng , giữ gìn cho nhau, khác với nhiều sinh viên cùng lứa , sống thác loạn trong một xã hội mà tuổi trẻ gần như mất cả phương hướng đạo đức và lý tưởng . Con đường của tuổi trẻ đời nay hình như chỉ là kiếm tiền và hưởng thụ. Họ rất khao khát những tiện nghi vật chất được quảng cáo đầy rẫy trên phim ảnh và trên cá phương tiện truyền thông đại chúng khác . Cuộc sống xa hoa của các đại gia mới nổi trong giới kinh doanh và các quan chức quyền thế cùng các tiểu công tử của họ đã làm mờ mắt những chàng trai có chút học thức khi bước vào ngưỡng cửa cuộc đời . Họ cố sống vội, sống gấp vì lỡ mai đây xã hội lại tạo được cái phanh cho cỗ xe tham nhũng thì họ không còn cơ hội để vung tiền vào những cuộc truy hoan. Khát vọng hôn nhân chín muồi và cháy bỏng trong nhau nhưng đôi uyên ương Quyên – Tuấn đành phải hẹn đến sau khi tốt nghiệp mới tổ chức hôn lễ được.Nhưng không phải lúc nào ý trời cũng chiều theo lòng người, nên cái giấc mơ đơn giản và thiết tha của hai người vẫn chưa thực hiện được sau khi rời khỏi ghế nhà trường . Tuấn còn phải làm nghĩa vụ quân sự hai năm. Quyên lại phải đợi chờ, phải đè nén những đêm dài thổn thức và trống rỗng, những ngày thẫn thờ bên những trang giáo án và đám học sinh nghịch ngợm, vô tình . Quyên vẫn yêu cái ngây thơ của chúng, có khi lòng cô giáo trẻ cũng thấy vui lây, nhưng nỗi diết da nhung nhớ kia hình như lúc nào cũng đeo một hòn đá tảng lên tâm hồn cô. Thấy con gái ngày càng xanh xao, ông Quân, hiện là hiệu phó một trường trung học phổ thông ở dưới tỉnh, khuyên Quyên về trường ông dạy, gần gũi với các em cho đỡ buồn, nhưng cô con gái cưng của ông chẳng chịu chiều lòng cha, vì ở Sài Gòn, dẫu sao mỗi tháng hai lần Quyên còn có dịp thăm Tuấn ở quân trường, về dưới đó, phải xa Tuấn lâu quá, cô không chịu nổi . Ba mẹ Tuấn là cán bộ địa phương cấp thấp đã về hưu,rất yêu quý Quyên, coi Quyên như là con dâu chính thức, nên lần nào đi thăm Tuấn , ông bà cũng gọi Quyên. Gần ba năm trong quân ngũ, Tuấn là một bộ đội Cụ Hồ xuất sắc về nhiều mặt nên đã được vinh dự đứng vào hàng ngũ của Đảng . Sau khi xuất ngũ về địa phương, với tấm bằng đại học báo chí trong tay, cùng với sự giúp đỡ của những người bà con có chức quyền , Tuấn được nhận vào làm phóng viên phụ trách mảng xã hội ở một tờ báo có uy tín của thành phố. Là một trí thức trẻ đầy nhiệt huyết, nếp nghĩ , cách làm của Tuấn khác xa với một số “thanh niên cách mạng 30/4”, cầm cờ đỏ nhảy vào thanh niên xung phong hoặc các phong trào thanh niên khác, mong chạy trốn quá khứ, đi tìm cơ hội cho tương lai, có người rất thành đạt nhờ cái bầu nhiệt huyết và lòng tin vào sự đổi thay của đất nước nhưng cũng lắm kẻ cơ hội, nhờ giỏi nịnh bợ mà được cất nhắc lên tận cấp trung ương, để rồi rơi rụng dần vào vũng bùn của tiền tài và danh vọng, vác bạc tỷ chui vào khám để dưỡng già. Vì muốn có cuộc sống tự lập nên sau ngày cưới, Tuấn và Quyên thuê một căn hộ chung cư để được hưởng trọn vẹn cái hạnh phúc trong một thế giới mật ngọt của tình yêu đôi lứa . Họ quấn quýt bên nhau. Hết giờ làm việc là Tuấn về ngay với Quyên. Nhiều hôm bạn rủ đi lai rai ở mấy quán nhậu vỉa hè gần sát cơ quan , dù rất nể bạn, nhưng anh đều kiếm cách hoãn binh, chỉ trừ khi phải cố hoàn tất một phóng sự điều tra không thể bỏ dở giữa chừng thì anh mới điện báo xin lỗi vợ. Những lần như thế, Quyên cứ cặm cụi soạn giáo án để quên đi cái thời khắc đợi chờ căng thẳng, thỉnh thoảng Quyên lại bật tivi xem, chứ không bao giờ chịu ăn cơm trước, nhiều hôm đến tận mười hai giờ đêm Tuấn mới về, cô chỉ nhẹ nhàng: “ Anh về muộn, em lo quá, có trở ngại gì không anh?” Khi nhìn vào mắt chồng, thấy Tuấn không vui, cô biết là công việc không suôn sẻ, nhưng chẳng dám hỏi tiếp. Tuấn thấy vợ lo lắng, gượng vui cho qua chuyện. Nhờ vui tính, bộc trực ,chân tình, hăng say trong công việc, bài viết sâu sắc, nên Tuấn được anh em trong cơ quan và lãnh đạo tờ báo thương yêu nể trọng. Anh cũng rất tin tưởng và kính mến chú tổng biên tập tờ báo. Tuấn phát hiện ra một điều thú vị là hầu hết các nhà cầm quyền trên thế giới được bầu bán thực sự hay giả tạo đều rao giảng rằng chính quyền của họ là từ dân, do dân và vì dân .Tuy nhiên, kimh nghiệm lại cho thấy rằng, không hiểu sao, suốt lịch sử của xã hội loài người, nhân dân thường là một thế lực đối lập với chính quyền và Tuấn đã vô tình, không biết từ lúc nào, anh lại đứng về phía của những người thấp cổ bé miệng . Những bài phóng sự điều tra dài, liên tiếp đăng trên ba số báo của Tuấn về hàng trăm hecta ruộng của đám dân nghèo khai hoang ở Đồng Tháp Mười bị lấy sung công, chỉ sau có hai năm khai khẩn, được dư luận hết sức quan tâm, đồng tình, thì ngược lại, các quan chức địa phương, những người ra quyết định lấy diện tích tích đất ấy chia nhau để “cải thiện đời sống khó khăn” của họ, lại rất giận dữ. Điện thoại và thư nặc danh tới tấp gửi cho Tuấn và tòa soạn báo với lời lẽ phí báng, đe dọa. Một tháng sau, tổng biên tập của tờ báo bị thay, còn Tuấn thì bị cấp trên liên tiếp gọi lên làm kiểm điểm, rồi tạm đình chỉ công tác. Trong khi đó, bạn bè anh viết những bài phóng sự giới thiệu các doanh nhân, doanh nghiệp thì được lãnh đạo khen lấy khen để, nào là “góp phần vào việc thúc đẩy sự hội nhập”, nào là “có tầm nhìn chiến lược thúc đẩy nền kinh tế quốc dân”… Và tất nhiên, những phong bì dày cộm công khai đút vào tay họ, sau các cuộc nhậu nhẹt linh đình. Dự đoán trước được những điều không may đang và sẽ xảy ra với Tuấn, trong bữa cơm chiều, Quyên gác đũa, ngước nhìn chồng : - Anh nghĩ là mình có thể thay đổi được gì ư ? - Em muốn nói đến thay đổi điều gì? -Thay đổi một số chi tiết máy trong một guồng máy đang quay với tốc độ địa cầu. -Được chứ. Đó là nhiệm vụ của bất cứ ai, khi họ còn là con người trên trái đất này. Anh mãi mãi tin ở con người bây giờ và tin ở lịch sử nhân loại, như tin ở tình yêu của em ! Tuấn đưa mắt trìu mến nhìn Quyên, nhưng cô lại nhìn chồng đầy thương xót: -Anh hơi lãng mạn và không tưởng đấy ! Không biết bao nhiêu con đường mà mỗi con người phải lựa chọn để đi qua , nhưng chánh đạo thì quá ít, còn tà đạo thì lại vô cùng và có ai tự nhận con đường mình đang đi là tà đạo bao giờ, khi mà con đường ấy đem lại sự giàu sang một cách mờ ám cho cá nhân, cho bè nhóm họ. Những kẻ mạnh bao giờ cũng có những lý lẽ riêng và ngòi bút chân chính của anh chỉ vẽ được những nét vẽ quá mờ nhạt trên nền trời đêm, rồi sẽ không ai thấy dùm cho anh cả. Em sợ tòa án dị giáo La Mã sẽ giết chết Galilei của em ! Tuấn chăm chú nghe, nhìn Quyên, thỉnh thoảng lại ngước nhìn lên trần nhà, cái bầu nhiệt huyết và nỗi âu lo đang hòa quyện với nhau, xâu xé tâm hồn non trẻ của anh. Chần chừ một chút,anh đặt đũa xuống mâm rồi quả quyết: -“ E pur si mouve”, em yêu ơi, “Dù sao thì trái đất vẫn quay quanh mặt trời”, và Galilei của em đã nói như thế. Phải tin vào chân lý chứ em! Không tin vào chân lý thì ta còn gì để sống , sống mà không dám đấu tranh cho lẽ phải thì còn sống để làm gì? “Hạnh phúc là đấu tranh”, Marx đã từng trả lời con gái mình như vậy. Và Galilei cũng đã khẳng định: “ Chân lý luôn hàm chứa một sức mạnh, càng công kích nó thì nó càng vững chắc”. Em hãy vững tin vào anh, anh có làm gì sai đâu ? Quyên linh cảm và mơ hồ thấy những điều không lành như sắp xảy đến trên con đường đầy chông gai mà Tuấn đang đi. Nhưng biết Tuấn đang mang trong mình bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ , sự tự tin và cả quyết. Lúc mới quen nhau , chính cô cũng yêu những điều đó, nhưng hôm nay cô thấy lo sợ. Quyên dịu dàng khuyên chồng: - Sống mà không có lý tưởng và lòng nhân ái thì quả thật là không đáng sống. Nhưng là người khôn ngoan, vẫn phải biết lách qua làn đạn đang hướng về mình. Trước tòa án giáo hội La Mã, nhìn người vợ và hai đứa con thơ, Galilei vẫn phải nhận là mình sai để giữ lấy mạng sống. Và anh đã biết đấy, cho đến bây giờ, chân lý của Galilei vẫn là chân lý… Quyên đứng lên, vòng qua sau lưng ghế chồng, hai tay ôm cổ Tuấn, miệng áp vào tai anh, ngượng ngập thì thầm: “Em đã…có mang rồi anh yêu ạ”. Trong thoáng chốc, Tuấn đưa tay giằng lấy tay Quyên,quay phắt lại phía sau, ánh mắt rạng ngời sung sướng nhìn Quyên : “ Có thật không em, từ bao giờ, sao em không nói với anh?”. “Chắc cũng đã hai tháng, gần đây em có hiện tượng ốm nghén, nên mới dám báo với đức lang quân. Anh không thấy gì khác ở em sao? Có nghĩ gì đến em đâu, chỉ lao đầu vào mấy bài báo!”. Tuấn đứng lên, đẩy chiếc ghế bên cạnh, đỡ nhẹ Quyên ngồi xuống, hôn lên tóc vợ rồi ôn tồn: “Thật là anh có lỗi nhiều với em. Mấy bài phóng sự điều tra cùng những cái bóng đen phủ lên nó, đã chiếm hết thì giờ và tâm trí anh, em hãy thông cảm và tha thứ cho anh”. Biết là Tuấn không đời nào từ bỏ nỗi đam mê của mình, nên cô chộp lấy cơ hội: “ Và từ nay em sẽ phải dài dài tha thứ cho anh chứ gì ?” Quyên âu yếm nhìn sâu vào mắt chồng… Sau khi bị kết cho cái tội “nói xấu cán bộ chủ chốt cấp tỉnh” và “gây hoang mang trong nhân dân”, Tuấn bị treo bút một năm, đưa xuống phụ giúp công tác ở xưởng in. Trong thời gian này, anh được nhàn hạ, rảnh rỗi để chăm sóc cho mẹ con Quyên. Anh bao hết mọi khâu từ giặt giũ đến nấu nướng, quét dọn, kể cả xoa bóp và làm hề cho vợ cười. Đêm nào bé Hồng Quỳnh khó ở, khóc nhè thì Tuấn đưa nôi con sang phòng làm việc của mình dỗ dành ru con, để cho Quyên ngủ . Anh cố làm mọi cách cho Quyên vui, nhất là không bao giờ dám đi làm về muộn một phút nào. Quyên thấy Tuấn rất hạnh phúc khi cô sinh cho anh một đứa con, nhưng cô vẫn phát hiện được một nỗi buồn hãy còn giấu kín trong mắt chồng. Sau ngày thôi nôi của Hồng Quỳnh, cũng là lúc Tuấn được phục chức. Nếu như con thiêu thân lao vào ánh sáng chói chang của những ngọn đèn, thì ngược lại, Tuấn lại lao vào những mảng tối của cuộc đời, trong một cái xã hội mà con người đã bị tha hóa đến cùng cực. Nhiều bài phóng sự điều tra phát hiện sự rút ruột lớn trong xây dựng cơ bản, trong việc phát triển hạ tầng giao thông,đặc biệt nghiêm trọng là việc bòn rút nguồn vốn ODA vào những canh bạc lớn và việc ăn chơi sa đọa của một số quan chức cấp cao làm xôn xao dư luận cả nước. Nhân dân đi vay tiền của nước ngoài về để ngài thứ trưởng tắm bia với các em chân dài, xây nhà riêng còn lộng lẫy hơn cả hoàng cung của các đời vua nước Đại Cồ Việt. Và có lẽ Lý Công Uẩn đã thấy trước điều xấu hổ nhục nhã ấy nên đã dời đô về Thăng Long đúng một ngàn năm nay rồi ! Đâu có ai ngờ, những lời động viên báo chí tham gia vào công tác chống tham nhũng đại bi ai và tiểu bi ai, lại đưa Tuấn vào cái bẩy việt vị. Anh đã hăng hái “cầm đèn chạy trước ô tô”. Thế là một lần nữa, Tuấn lại vướng vào cái tội là viết những điều chưa được công bố hoặc cho phép, không phải anh thổi phồng những quả bóng của dư luận mà anh lại đi thổi phồng vào những hòn đá tảng đen ngòm đang chìm sâu dưới đáy Hồ Hoàn Kiếm . Con cừu non ngước mắt nhìn trời , thấy bầu trời vẫn xanh, nhưng chung quanh mình lại là một bầy thú lạ. Hôm nay là đêm cuối cùng Tuấn được tại ngoại hầu tra. Quyên dỗ con ngủ sớm, cô đẩy cửa bước vào phòng làm việc của chồng , Tuấn đang ngồi trước bàn vi tính, chống cằm ngước mắt chăm chăm nhìn vào bức hình cưới của hai người treo trên tường, trong ảnh, Quyên nép sát dầu vào ngực anh, cười dịu dàng rạng rỡ. Thấy Quyên vào, anh từ từ quay lại nắm tay vợ: - Theo tin mấy đứa bạn anh ở bên tòa án, lần này anh ít khả năng được tha bỗng hay lãnh án treo. Quyên bá vai chồng, tay kia âu yếm vuốt ngược tóc anh ra sau: -Dẫu sao thì thập tự giá cũng đã được đóng lên . Họ cho rằng các anh là bọn “ăn cơm chúa, múa ngược đường gươm”, còn mấy ông quan con trong cơ quan anh thì được dịp bĩu môi : “Khéo ăn cơm nhà đi vác tù và hàng tổng”. Thật là một bi hài kịch hoàn toàn đúng nghĩa! À, còn luật sư đã nói gì với anh? - Em biết rồi còn phải hỏi. Xưa nay việc tranh luận công khai trước tòa chỉ là một thủ tục có tính hình thức, tất cả hầu như đã được định sẵn đàng sau cái búa và cái chuông. Mấy ông bên công tố nói với luật sư Trung, bạn anh, kỳ này phải cho mấy con ngựa non nhà báo biết rằng cái loa không phải là của họ. Quyên lặng lẽ đứng ôm cổ chồng. Một đám mây đen dày đặc kéo qua che khuất bầu trời trong xanh trên đầu họ. Người vợ, người mẹ trẻ cố mím chặt môi, để khỏi bật ra tiếng khóc làm nao lòng chồng. Không phải vì sợ những ngày tháng khó khăn sắp vây quanh cuộc đời mẹ con chị,vì dẫu sao từ bé, chị cũng đã quen sống trong một gia đình nhà giáo đông con. Giờ đây, với đồng lương ít ỏi của một cô giáo trẻ, chị sẽ cố gắng dè xẻn để được sống với tất cả lương tri của một con người. Nhưng điều chị không thể yên tâm là sức khỏe của Tuấn, anh thường ho và mất ngủ. Với bản án hai mươi bốn tháng tù giam cho Tuấn, Quyên đã đêm đêm âm thầm mất nhiều nước mắt cho nó, lời dun dế đã thành câm, chẳng còn than khóc nổi phận mình, chỉ còn mong ngày mai sẽ có ánh mặt trời. Đã một năm trôi qua, với Quyên, thời gian là một sự vô tình đầy khắc nghiệt. Cô đơn là nỗi dằn xé lạnh lùng và khủng khiếp nhất. Những hình ảnh của một thời sinh viên đầy ắp lý tưởng và thơ mộng như đang mưng mủ từng ngày trước cái thực tế phũ phàng, mà không biết những “người lớn” đã vô tình hay cố ý giáng xuống lòng tin của họ. Chẳng lẽ giờ đây họ cũng đành phải học theo phương cách mới là dối trá và vô cảm, nhập vào một nền văn hóa mới là “văn hóa phong bì và cúi lòn” . Ngòi bút không thể đứng thẳng thì cái xương sống cũng đành phải cong, người ta không thể bước đi bằng hai bàn chân, mà phải lê mình trên hai chiếc đầu gối. Đã và đang có hiện tượng chảy máu chất xám vì những hiền tài của đất nước không chịu nổi với cái nạn bè phái – xin cho – luồn lọt – đút lót. Đứa trẻ mới bước chân vào ngưỡng cửa cấp một, đã được nhà trường dạy cho bài học đầu tiên là hối lộ và nói dối, nó rất tài trong việc che đậy lỗi lầm của mình trong giao tiếp ứng xử, và đánh mất niềm tin vào những người đang dạy dỗ nó. Sau những năm làm cái nghề nghe rất kêu: “kỹ sư tâm hồn”, Quyên thấy mình đang bị đọa đày trong sự dối trá, đang phá hoại tâm hồn trẻ thơ, mình phải quay tít trong một guồng máy “ thành tích” mà từ ông bộ trưởng cho đến chị lao công, có lẽ ai cũng phải cắn răng mà cười trong trĩu nặng ưu tư và nước mắt. Quyên thấy mình có tội với thế hệ tương lai. Sau hơn một năm bị giam giữ, Tuấn có quyết định được giảm án , trả về cho gia đình, vì có dấu hiệu tâm thần. Hôm đón Tuấn ở khu quản lý trại giam, Quyên đã ôm chồng khóc nức nở như một đứa trẻ, như nàng chưa bao giờ được khóc. Có lẽ dòng nước mắt ấy là sự pha trộn của vui mừng và buồn tủi, còn Tuấn thì ngơ ngác, đờ đẫn nhìn mọi người, hình như Quyên cũng chỉ còn là cái bóng chập chờn trong trí nhớ của anh. Quyên đưa Tuấn ra cỗng trại giam, một tay cô xách cái túi nhựa đựng quần áo còn tay kia thì dắt chồng như dắt một đứa trẻ, nước mắt vẫn ràn rụa trên khuôn mặt trái xoan thanh tú, nhưng đã hằn sâu nét ưu tư khắc khổ của một thiếu phụ chờ chồng mà như đang đợi chờ một nỗi tuyệt vọng xa xăm. Nàng không thể tưởng tượng nổi một tình cảnh tồi tệ đến như thế này. Quyên nấu nước ấm, pha dầu sả tắm cho chồng. Có lẽ ít nhất là một tháng rồi Tuấn không hề tắm rửa gì. Mùi hôi từ thân thể anh bốc ra, làm cho Quyên liên tục bị ói, dù cho sự nhớ mong , lòng yêu thương và nỗi xót xa đang cuộn chảy trong lòng cô, đang muốn khóa cái cuốn họng Quyên lại, cũng như cô muốn đóng chặt nỗi khổ đau đang dâng lên, chực trào ra nơi đôi mắt, nhưng không được. Tắm và mặc quần áo xong, Quyên lặng lẽ dìu Tuấn ngồi lên ghế rồi cẩn thận cắt móng tay, móng chân cho anh, một công việc mà khi còn tỉnh, Tuấn không bao giờ cho Quyên làm, trừ có một lần Quyên muốn chứng tỏ sự âu yếm của mình đối với chồng. Bất ngờ Tuấn gạt tay Quyên ra, chạy xuống bếp lấy cái xon đặt lên bàn, hai tay cầm hai chiếc đũa, vừa gõ nhịp vừa hát : “Homo sapiens . Homo sapiens . Con người tinh khôn . Con người tinh khôn.Tính xưa vẫn còn. Anh giấu con chồn. Vào trong túi xách.Tìm đường chui lách. Để mà ăn riêng. Chúng mình cùng săn. Sao anh lại thế. Lòng người dâu bể. Làm kẻ vô luân. Sa mạc lớn dần . Vào hồn anh đó. Trăng sao cùng khổ. Anh có biết chăng. Homo Sapiens ?” Ha…ha…ha… Tuấn cười một tràng dài, còn Quyên thì chẳng hiểu gì cả. Mấy câu nghêu ngao của Tuấn cùng cái xon và chiếc đũa gợi Quyên nhớ lại ngày mới yêu nhau, buổi tối Tuấn rủ Quyên đi ăn kem ở bến Bạch Đằng, ăn xong, Tuấn ôm vai Quyên, hai người đứng tựa vào lan can, nhìn con tàu đang kéo còi rời bến, anh cầm chiếc muổng gõ nhịp vào thanh sắt và ca trong gió một đoạn bài “Biển nhớ” của Trịnh Công Sơn : “ Ngày mai em đi cồn đá rêu phong rũ buồn, đèn phố nghe mưa tủi hờn, nghe ngoài trời giăng mây tuôn. Ngày mai em…”. Một làn gió mát lạnh lướt qua mặt sông rồi lồng lộng thổi vào hai người, làm tóc Quyên bay xõa vào mặt Tuấn, anh ôm siết cô vào ngực, ghé vào tai thì thầm: “ Xin em đừng bao giờ bỏ anh đi như con tàu kia, chắc khi ấy anh sẽ điên mất, em nhớ nhé”. Đâu có ai ngờ, cuộc đời lại oái oăm và trớ trêu đến như vậy. Cô chẳng rời chồng nửa bước, nhưng giờ đây, người yêu của cô ngày nào, cũng đã thành người mất trí rồi ! “ Định mệnh chăng?”.Một linh cảm thoáng qua. Trái tim đa cảm của Quyên quặn thắt , nàng đứng sát lại sau ghế, quàng tay ôm cổ Tuấn, nghẹn ngào: - Anh yêu ơi, đừng nói nhảm nữa, em sợ lắm ! Rồi em sẽ mời bác sĩ chữa khỏi bệnh cho anh, hay là anh muốn mãi mãi là môt người sống trong hoang tưởng để quên hết những khổ đau của trần gian điên dại này. Không được đâu anh ơi, nếu như thế thì em cũng sẽ chết mất ! Xin anh hãy thương em và con của chúng ta. Tuấn quay nhìn Quyên, đôi mắt vô cảm, rồi anh tiếp tục hát: “Ta giống Rồng Tiên .Anh giống Rồng Tiên . Một bọc trăm con. Ta lên Trường Sơn .Ta ra Đông Hải . Đôi vai trần trụi. Gánh cả non sông . Hơn bốn ngàn năm. Cùng xây tổ ấm. Bây giờ nhung gấm. Treo vạt sông trôi. Giàu sang hỡi người. Cũng về hư ảo. Nay ta khờ dại. Ôm trái tim người . Đi về muôn nơi…” Tuấn ngừng hát khi thấy hai người lạ bước vào nhà vì Tuấn đã không còn nhận ra cha mẹ ruột của mình. Quyên bước ra, cúi đầu: “ Con chào Ba mẹ”. Ông bà Quang thấy Quyên mặt đầy nước mắt, rất xót xa, nhưng cố gắng gượng:“Đừng quá đau buồn con ạ, hãy cứng rắn lên, nỗi bất hạnh nào rồi cũng sẽ qua đi. Còn có Ba mẹ đứng bên con”. Quyên đưa tay quệt nước mắt và nói nhỏ “dạ”. Bà Hoa đến nâng bàn tay Tuấn lên , nhìn vào mắt con, nghẹn ngào: “Con có nhận ra mẹ không? Sao con đến nông nỗi này”. Lời nói của bà lại rơi vào im lặng, Tuấn trân trân nhìn bà. Ông Quang nhớ lại, trước khi cho đăng loạt bài phóng sự điều tra về việc các quan chức của mấy tỉnh miền tây lấy đất khai hoang của dân chia nhau “cải thiện”, ông đã nghe cái bầu nhiệt huyết đang sôi sục trong đứa con trai ông, nhưng ông cũng mường tượng được rằng khi Tuấn chìa cái gương soi cho người có tật, thì cũng đồng nghĩa với việc anh sẽ nhận những mảnh kính của cái gương vỡ bắn tung tóe vào mặt anh, tấm gương mà con ông đưa ra sẽ là một tai họa cho nó . Tuấn đi trước một bước, chọc đau vào cái túi tham của thiên hạ nên đã phải lãnh hậu quả. Ai dám cả gan cầm đèn chạy trước ô tô, đều bị ô tô cán chết, đó là chân lý. Bài học của người bí thư tỉnh ủy Vĩnh Phúc Kim Văn Nguộc vẫn còn đấy, những kẻ có quyền không ai muốn nhớ đến những trang sử mà nó có thể đe dọa đến cái túi tham của mình. Sự nhập nhằng giữa đất công và đất tư là dòng sông nước đục cho những người cơ hội buông câu, cho những kẻ quyền thế ở địa phương muốn vơ ruộng đất của nhân dân về cho mình. Người ta dựa vào cái chính sách tập thể hóa để biến đất tư thành đất công, sau đó lại quy hoạch hóa để làm ngược lại, lấy đất công bán cho doanh nhân. Mua rẻ, bán đắt gấp chục, có khi gấp trăm lần, kẻ “ lèo lái” trở thành “ nứt đố đổ vách” chỉ trong một sớm một chiều. Hồng Quỳnh ở mẫu giáo về, thấy ông bà Quang, vội vòng tay: “ cháu chào ông ,bà nội ạ !”. Bà Hoa chạy lại bế cháu, hôn lấy hôn để rồi khen :“Cháu bà ngoan quá”, rồi bà lấy mấy con búp bê đưa cho bé, bé cúi đầu cảm ơn rồi bất chợt quay nhìn sang Tuấn: “Ba ơi, sao Ba không nói gì, ngày mai Ba mua búp bê cho con nhé ! Đêm qua con thấy mẹ khóc, sao Ba không dỗ mẹ?”Tuấn ngơ ngác nhìn con, không nói gì, rồi lại cầm đũa gõ vào xon hát tiếp: “…Ôm trái tim người. Đi về muôn nơi. Hỡi dòng sông trôi. Ngàn năm chẳng cạn. Dòng sông tìm bạn . Là ánh trăng ngà. Nay ta đã già. Đi tìm ngôi sao. Nhật nguyệt trên cao. Còn ta dưới thấp. Sao đời vẫn đục. Như mắt vua quan. Lời dọc lời ngang. Bao nhiêu mệnh bạc. Ngoài kia sông khát. Khóc người đầu non. Lòng mẹ héo hon. Đứa con lầm lạc. Tim anh máu nhạt. Lúa đợi mùa thơm. Bao nhiêu tủi hờn . Dồn lên ngọn bút. Em về xuân sắc. Cho ta cội tình. Ta thắp bình minh. Vào hang hùm sói. Ngàn năm ngồi đợi. Xin trời mãi xanh. Tay vun chồi xuân. Thiên thu một cõi. Ai người có tội. Hỡi màu thanh thiên. Homo Sapiens ?” Đã quá nửa đêm, sau khi dỗ giấc cho chồng con và hoàn thành những trang giáo án cho ngày mai, trằn trọc mãi, không thể nào chợp mắt, Quyên ra đứng tựa vào lan can, nhìn ra dòng sông Sài Gòn đang âm thầm lặng lờ trước mặt.Trăng mùa thu hạ tuần yếu ớt gieo ánh vàng hấp hối lên không gian tĩnh lặng mơ hồ. Những chòm sao đêm rơi rụng trên sóng nước lăn tăn tạo thành những con rắn vàng ngoe ngoảy rồi tan loãng trong dòng nước bâng khuâng. Bầu trời trong veo nhả làn gió thu mát rượi lướt thướt qua mặt sông rồi tràn vào những tầng chung cư mới xây đang yên ngủ nặng nề. Quyên muốn tan vào trong cái khoảng không tĩnh mịch êm ả của trời đêm,nhưng nào có thể được, nàng đang đối mặt với những cơn sóng đang trào dâng trong tâm hồn, trước những bão tố chỉ là mới bắt đầu kéo qua cuộc đời nàng. Quyên cố hít thở sâu để giảm bớt tần số của nhịp tim trong lồng ngực. Cô âm thầm rên rỉ : “ Anh yêu ơi, cái giấc mơ làm thay đổi lòng người, làm cho xã hội đầy ắp thương yêu, biết sẻ chia nhau miếng cơm manh áo, cắt bỏ bớt đi cái dạ dày và cái túi tham của những người quyền thế, trong xã hội ngày nay, những ôm ấp của chúng ta, phải chăng cuối cùng cũng chỉ là những hoang tưởng còn nặng nề hơn cái bệnh hoang tưởng đang dày vò anh bây giờ ?”Phải chăng thế giới của loài người là thế giới của dục vọng?Và ngọn lửa dục vọng phi nhân kia sẽ dẫn loài người đến chỗ tự thiêu đốt mình. Quyên bâng khuâng không biết mỗi chúng ta đang ngăn chặn nó lại hay cũng vô tình trôi theo dòng chảy của nó. Bàn tay của tạo hóa đang nắm một bài toán mà ẩn số mãi mãi cũng chỉ là ẩn số, và những nhà đạo đức học trên thế gian này còn phải mãi mãi đi tìm ! Quyên thấy mệt nơi ngực, quay vào phòng chồng, Tuấn đang ngủ say, hơi thở nặng nề. Một nỗi cô đơn như đang lan tỏa trong từng mạch máu và từng tế bào trên da thịt cô.Thật khủng khiếp ! Cô ngã người xuống giường, kéo chăn trùm kín đầu. Ngoài kia màn đêm vẫn lạnh lùng phủ lên dòng sông đang chảy. Sài Gòn 12/5/2012
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.10.2014 19:08:35 bởi Kiều Giang >
DÒNG SÔNG MA QUỶ Truyện ngắn của KIỀU GIANG
Vào khoảng những năm thứ 13 tỷ 345 triệu, sau vụ nổ vũ trụ Big Bang, trên hành tinh xanh hình thành những dòng sông chảy về muôn hướng. Mỗi dòng sông kéo theo một nẻo đường phát triển cho loài sinh vật biết khóc, biết cười, biết tư duy, trong số đó có dòng sông Xích Tư dài hàng ngàn cây số chảy từ tây sang đông, qua hàng chục nước rồi đổ ra biển Hải Không Có hai vương quốc là Hạ Trụ và Nậm Vu hình thành hai bên tả và hữu ngạn, cùng uống chung nước của dòng sông Xích Tư quanh năm đầy ắp , trăn trở, nặng nề , và cứ đêm về dòng sông sóng dậy, đỏ ngầu, thét gào, như thù hận với bao dòng sông khác. Mặt đất như cứ từng cơn rung lên từ ngày hình thành dòng Xích Tư, như người mẹ đang cơn trở dạ đứa con mà hình như bà ta không muốn cho ra đời trên thế gian này. Dưới cái rét mùa đông như cắt da, một người thanh niên thân hình mảnh khảnh, tên Ngô Ân Quân cùng người tình là Mẫn Khương và người bạn nối khố là Lâm Hùng Phiệt, vẫn nhẫn nại, hì hục kéo chiếc xe bánh gỗ chất đầy những thùng nước lấy từ dòng sông Xích Tư , cách đó chừng nửa dặm đường, đang vượt qua một con dốc. Người thanh niên ấy có khuôn mặt xương xương, miệng rộng, trán cao, cằm vuông, đôi mắt mí lót, làm tăng thêm vẻ lì lợm, cả quyết. Chiếc xe vẫn ì ạch trườn lên trên con đường lầy lội đầy bùn đất đỏ của Vương quốc Nậm Vu. Anh dừng chân,dẫu trời giá rét, anh vẫn phải đưa tay quệt mồ hôi trên trán rồi quay qua Mẫn Khương, nói như đang ở trong mơ: -Trở lại quê hương lần này, anh quyết đem nước của dòng Xích Tư linh diệu tưới lên tổ quốc khô cằn của anh. Dòng Xích Tư chính là ân sủng của Thượng Đế ban cho chúng ta, Thượng Đế đã về với dòng sông. Không còn con sông nào khác, không còn con đường nào khác. Đã có nhiều nước được dòng Xích Tư làm cho màu mỡ xanh tươi, không ai còn nghi ngờ gì nữa. Mẫn Khương nhìn vào mắt người yêu rồi ân cần : -Hình như mỗi thời đại, Thượng Đế lại ban cho loài người những dòng sông chảy vào lịch sử, vì lịch sử là một dòng sông mà, và em có cảm giác là chúng ta đang mở đầu cho đất nước ta một giai đoạn lịch sử. Ta phải làm sao cho từng giọt nước của dòng sông Xích Tư ngấm vào từng tế bào của xã hội Nậm Vu. Đó là kế sách lâu dài của một chế độ. Ngô Ân Quân càng sôi nổi hơn: -Em hãy để ý xem, đôi bàn tay, bàn chân của chúng ta thì Thượng Đế cho thay da từng ngày, nhưng những tảng đá kia đâu có da để mà thay,ta không thể là tảng đá,lịch sử của Nậm Vu phải thay da đổi thịt, nên chúng ta phải làm những điều mà lịch sử bắt ta phải làm.Ta phải thay đổi Nậm Vu. Chúng ta có thể làm cho nước của dòng Xích Tư ngấm vào máu của nhân dân Nậm Vu, khi đó lịch sử của đất nước ta sẽ lật sang một trang khác. Mẫn Khương đưa mắt nhìn xa xôi rồi có vẻ ngậm ngùi: -Có điều, em không sợ đem đời mình ra đánh cược với thời gian, nhưng thời gian là một dòng chảy vô cùng sinh động xen lẫn với vô tình. Dòng lịch sử luôn luôn tìm một hướng đi thích hợp trong từng giai đoạn, mà hình như không ai có thể bắt lịch sử phải tuyệt đối chảy theo ý chí của mình. Không biết đến khi ta phải đối mặt với sự ruồng rẩy của thời gian, thì ta có còn được nhìn lịch sử chảy theo hướng mà chúng ta mong muốn và con cháu ta không phản bội lại chúng ta? Ngô Ân Quân có vẻ gay gắt và tự tin: -Nói như em thì đã không có lịch sử, vì lịch sử là một dòng chảy theo sự định hướng của con người, chính bàn tay và khối óc con người trên dòng chảy của thời gian đã tạo nên lịch sử chứ còn ai? Hôm nay chúng ta đang làm lịch sử cho đất nước Nậm Vu . Mỗi giai đoạn lịch sử là một thời đại. Giai đoạn lịch sử mà nhân dân Nậm Vu lấy dòng Xích Tư để định hướng cho tư tưởng và văn hóa của mình sẽ là một thời đại huy hoàng nhất của lịch sử Nậm Vu từ trước tới nay, thời đại ấy sẽ mang tên anh, em và các người bạn của chúng ta. Ta không còn thời gian để do dự, nghi ngờ. Dù ngày mai ta có chết đi thì cũng sẽ có kẻ khác nối tiếp con đường của chúng ta hôm nay. Dù dòng Xích Tư có chảy theo một hướng khác, hay con cháu ta có phản bội lại chúng ta, thì con đường của chúng ta vẫn không thể thay đổi. Sao mới khởi đầu mà em đã có quá nhiều lo lắng? Có lẽ Ngô Ân Quân cho rằng chỉ có một mình anh đang làm lịch sử và lịch sử sẽ chảy theo ý chí của anh. Theo anh thì sự pha trộn giữa các dòng sông, giữa các dòng máu , giữa quá khứ và hiện tại, là không thể chấp nhận được. Mẫn Khương lại dịu dàng: -Không phải là em bi quan, nhưng chúng ta không thể đơn giản hóa lịch sử, khoát lên lịch sử một màu hồng của ý chí. Có khi, lịch sử tự do lựa chọn hướng đi của mình, mặc dù có sự thúc đẩy của bàn tay con người, như một lối rẽ của dòng sông. Hình như tạo hóa đang đặt lên bàn tay con người một trò chơi với sự lạnh lùng của thời gian . Đó chính là nguồn gốc của sự thất bại của Thành Cát Tư Hãn, của Alexandre Đại đế, và của Napoleon… Đã hơn nửa thế kỷ, đa số dân ở vương quốc Nậm Vu uống nước của dòng sông Xích Tư, và dòng sông đã trở thành huyền thoại. Và chính người thanh niên dáng gầy gò tên Ngô Ân Quân kia, đã phủ lên dòng sông cái màu huyền thoại đó. Chuyến xe bò đầu tiên lấy nước của dòng sông Xích Tư chính là chuyến xe của anh và đồng đội. Không biết có một thứ ân sủng nào đã biến thành quyền lực thiêng liêng dắt dìu người thanh niên của vương quốc Nậm Vu nghe được những lời thánh trong từng giọt nước của dòng sông Xích Tư đầy cám dỗ và ma quái. Ban đầu Ngô Ân Quân cùng đám tay chân thân tín đi rao truyền cái quyền lực mầu nhiệm và huyền bí của dòng nước Xích Tư chảy qua trần gian như một thứ ân huệ của Thượng Đế. Người ta sẽ nghe được lời sấm truyền từ dòng nước Xích Tư, ngấm vào tâm trí của từng người dân , vào dòng chảy văn hóa của vương quốc Nậm Vu. Thế rồi, sau gần 30 năm đấu tranh thấm đầy máu và nước mắt với những nhóm quyền lực đã lỡ thọ hưởng sự nuôi dưỡng bỡi dòng phù sa của những con sông khác, Ngô Ân Quân trở thành vua của vương quốc Nậm Vu mầu mỡ. Nhưng cũng từ đó, người dân lại trở nên nghèo khó do sự bất thường của dòng nước vơi đầy cùng với sự nhũng nhiễu của đám quan lại xu nịnh, bất tài, chỉ lo vun vén cho cá nhân mình. Có lúc, Ngô Ân Quân cảm thấy bơ vơ giữa những đồng đội . Dựa vào quyền lực để ăn cắp của công và cướp bóc của dân, giờ đây đã biến thành một bệnh dịch lan tràn từ đám quan lại của triều đình cho đến tên hương dịch. Biết vậy, nhưng vì muốn bám lấy quyền lực, Ngô Ân Quân ra lệnh cho đám pháp quan tăng cường hình pháp, bóp nghẹt cổ dân, xây thêm nhà tù và pháp trường. Dân Nậm Vu được lệnh không được uống nước ở bất kỳ một dòng sông nào khác, ngoài dòng nước thiêng Xích Tư . Suốt cả ngày lẫn đêm, người dân Nậm Vu, bằng tất cả phương tiện, từ xe người đẩy đến xe súc vật kéo, phải lấy cho được nước của dòng sông Xích Tư, để thể hiện sự tuân phục đối với đấng quân vương . Những ai không chịu uống nước của dòng Xích Tư, hoặc là bị tù đày hoặc là bị đẩy ra ngoài xã hội. Tuy nhiên vẫn có hàng triệu người vẫn không cho nước của dòng Xích Tư chảy vào huyết quản của mình, mà vẫn lấy và uống nước của những dòng sông khác. Sự mâu thuẫn và xung đột giữa hai nhóm cư dân, uống và không uống nước của dòng Xích Tư, diễn ra âm thầm và ngày càng gay gắt. Còn trong cộng đồng dân cư uống nước của dòng Xích Tư càng trở nên quỷ quyệt vô lương hơn. Họ cắn xé lẫn nhau. Những vụ án mạng man rợ thường xuyên xảy ra, những vụ chém giết cướp giật mang đầy thú tính. Có điều trớ trêu là, khi Ngô Ân Quân càng củng cố quyền lực cho triều đình y, thì đám quan lại càng dựa vào đó để vơ vét của nhân dân, làm cho tiếng oán than càng đi sâu vào tận hang cùng tăm tối, khuyến khích cho tội ác, cho bần cùng. Đêm nay, dưới ánh trăng trung thu vằng vặc, ngồi trên Vọng Nguyệt Đài vừa mới xây xong, với bao mồ hôi, nước mắt và xương máu của dân, nhà vua đưa tay nắm bàn tay ngọc ngà của Hoàng hậu Mẫn Khương, tuy tay ngài không còn run như cái thuở ban đầu, nhưng trước khung cảnh nên thơ, hữu tình và nhan sắc tuyệt mỹ trời ban của người đàn bà sắc sảo thông minh, trái tim sắt đá của đấng quân vương cũng không thể ngăn được sự bồi hồi xúc động. Nhà vua như chìm vào đôi mắt của Hoàng hậu rồi mở đầu: -Cảnh thanh bình đang ngập tràn trên đất nước Nậm Vu, có lẽ muôn dân của ta đang hưởng hạnh phúc, nàng có thấy thế không? Mẫn Khương e ấp: -Tâu bệ hạ, thần thiếp thấy rất rõ điều đó. Hồng ân của Hoàng thượng đang trải lên sinh mệnh của muôn loài. - Nhưng không biết vì sao tiếng đàn hát kia chỉ vẳng ra từ chốn cung đình và các dinh thự của quan lại? - Tâu hoàng thượng, đúng là như vậy. Ở nơi thôn dã xa xôi, chỉ có tiếng nhạc của loài giun dế, vì có lẽ chúng không đủ sức để quan tâm đến nỗi đau của những kẻ cùng đinh khố rách, thấp cổ bé miệng… Hoàng hậu bỗng đột ngột dừng lại ở đó. Nhà vua nghiêm sắc mặt: -Hoàng hậu nói sao? Làm gì có kẻ cùng đinh khố rách, thấp cổ bé miệng trong chế độ ta. Có chăng là bọn trí thức trói gà không chặt,chuyên chỉa mồm nghểnh mũi về phía ta để nghe ngóng, soi mói ta, phải nhét đá vào cổ họng bọn chúng. Ngô Ân Quân như sắp nổi trận lôi đình, khi nhớ lại việc quan ngũ phẩm Ngoại lang ở Cơ mật viện tấu trình rằng có một Bảng nhãn tân khoa nói xa nói gần, đa số quan triều là ngu dốt, bất tài, hèn nhát và tham nhũng. Giờ đây ngài lại nghe chính từ miệng của người mà nhà vua yêu thương quý trọng nhất, về nỗi thống khổ của nhân dân vương quốc Nậm Vu, nét mặt của Ngô Ân Quân đanh lại,đau khổ: -Nàng cũng biết là ta yêu nàng như thế nào chứ? Nhà vua bỏ lửng câu nói, nhìn đăm đăm vào khoảng không, khi những thước phim của quá khứ hiện lên, về những ngày gian nan trên đất khách, rồi gặp nhau trên dòng nước Xích Tư huyền thoại, sống chết trên từng thước gươm yên ngựa,và nhất là nét đẹp ngây ngất đến não lòng của nàng. “Ôi, cái vầng trán thông minh vừa ngây thơ vừa bướng bỉnh ấy, làm cho ta, một đấng quân vương, nhiều khi như muốn gục ngã dưới chân nàng! Vầng trăng trên bầu trời xanh thẳm đêm nay chẳng còn có ý nghĩa gì nếu không có nàng bên cạnh…” Như thấu hiểu nỗi lòng của đấng quân vương, Mẫn Khương quỳ xuống ôm tay đức vua, thỏ thẻ: -Tâu Bệ hạ, thần thiếp lỡ lời, xin Bệ hạ rộng lòng tha thứ. Nhưng… - Nàng cũng biết rằng ta không thể giết nàng bỡi tội khi quân, vì giết nàng là ta tự giết ta. Nhưng đầu óc ta muốn nổ tung khi biết có một ai đó nghĩ rằng Ngô Ân Quân này là cái họa cho đất nước Nậm Vu. Còn “nhưng” thế nào, nàng cứ nói tiếp đi, ta còn đủ can đảm mà! Hoàng hậu vẫn quỳ dưới chân nhà vua, tay nắm long bào, ngước mắt nhìn lên mặt rồng: -Nhưng... thần thiếp không thể giấu bệ hạ, thiếp phải là tai mắt của bệ hạ, dù những điều thiếp tâu với bệ hạ, có thể làm cho đấng quân vương đau lòng. Thiếp sợ rằng bọn nịnh thần kia sẽ làm lung lay ngai vàng và xã tắc của bệ hạ. Họ chỉ là bọn sâu dân mọt nước, chuyên nịnh hót để kiếm lợi riêng, sự hèn nhát của họ làm cho chúng gần bệ hạ hơn, nhưng lại tách rời khỏi nhân dân Nậm Vu, điều này quan tể tướng họ Lâm biết rõ. Ngô Ân Quân không ngờ Mẫn Khương, Hoàng hậu sủng ái của mình lại có thể buông những lời quá phũ phàng và nghiệt ngã trước quyền uy tối thượng của thiên tử.. Nhà vua từ từ cúi xuống nhìn nàng, rồi chậm rãi: -Không! Không bao giờ trẫm có thể tin được rằng bề tôi của trẫm, những người đã từng được tôi luyện trong mấy mươi năm gian khó, thấm đẫm từng giọt nước của dòng Xích Tư vinh quang và mầu nhiệm lại có thể phản bội trẫm, phản bội nhân dân Nậm Vu. Bánh xe lịch sử của thời đại Ngô Ân Quân phải được lăn về phía trước mãi mãi, đến tận cùng của thời gian… Sự tuyệt vọng hiện lên khuôn mặt xinh đẹp và dịu hiền của Hoàng hậu Mẫn Khương. Nàng mường tượng ra một sự sụp đổ của xuẩn ngốc, bạo tàn, tham lam và phản bội. Hoàng thượng và đám quan quân của ngài thì tự cho mình là những vị thánh, còn đa số người dân Nậm Vu thì nghĩ ngược lại. Đó là tấn bi kịch của một triều đại. Quy luật của sự hưng phế đang hiện dần ra dưới chân nàng và trên chiếc ngai vàng của chúa thượng. Bất giác, nàng thở dài. Hình như lịch sử không dành sự ngoại lệ cho bất kỳ một dân tộc nào. Dòng Xích Tư huyền thoại đã đến hồi suy kiệt. Sự dồn nén phi lý của vua quan của hai vương quốc Hạ Trụ và Nậm Vu lên đầu thần dân của họ đã đến lúc không còn tác dụng nữa. Người dân bắt đầu ý thức rằng mình không phải là con vật cao cấp trong dòng tiến hóa của Darwin, mà họ là những con người. Ít ra cũng còn có một khoảng thời gian hàng triệu năm dành cho sự đột biến, thăng hoa. Những chính sách của triều đình Nậm Vu đưa ra, người dân không tuân thủ thực hiện, có khi còn chống lại. Xã hội của vương quốc ngày một hỗn loạn. Dòng nước Xích Tư ngày càng khô cạn , người dân của Nâm Vu và Hạ Trụ không thích uống nước ở đó hoặc không còn nước để uống . Một thứ trống rỗng, một kiểu hư vô, những tư tưởng phi nhân bản như đến hồi lụi tàn . Có lẽ đó là sự chọn lọc tự nhiên của loài sinh vật biết suy tư. Khi mà dòng sông Xích Tư chỉ còn là những dòng nước hắt hiu , dòng chảy tư tưởng , chính trị và văn hóa của hai vương quốc Nậm Vu và Hạ Trụ cũng đã bị lai tạp. Ngô Ân Quân và Mã Tham Đường cũng bắt đầu có những mâu thuẫn sâu sắc. Hai vị quân vương trước đây từng chung chiếu chung chăn, chung đất chung trời, chung sông chung núi, bây giờ đã trở thành thù hận vì tranh giành nơi biên cương. Những quốc gia sống trên dòng phù sa của những con sông khác, không phải là dòng Xích Tư “ mầu nhiệm”, đã trở nên hùng mạnh, không chịu lấp đầy túi tham quyền lực của Mã Tham Đường, hắn quay lại cắn chính người bạn nối khố của hắn là Ngô Ân Quân. Nước Nậm Vu sau bao nhiêu năm chìm trong tăm tối của lạc hậu và nhiễu nhương, lại chính là miếng mồi ngon cho đế chế Hạ Trụ của tên vua cuồng sát Mã tham Đường. Một cuộc chiến tranh “tương tàn” trên dòng sông Xích Tư huyền thoại không thể không xảy ra. Mặc dù Ngô Ân Quân đã cấm tuyệt con dân Nậm Vu không được hé răng gọi đến tên của đại vương quốc Hạ Trụ, nếu có thì phải ca ngợi mẫu quốc lên tận mây xanh. Bao nhiêu của ngon vật lạ, bao nhiêu báu vật quốc gia đều đem đi cống nộp, nhưng cái túi tham của Mã Tham Đường quả là không đáy, y vẫn từng bước xâm lấn biên cương Nậm Vu. Sự khiếp nhược của vua quan Nậm Vu càng làm cho Mã Tham Đường mở cờ trong bụng, hắn đã xua quân công khai xâm lược Nậm Vu. Sau nhiều tháng cho quân tràn cả tuyến biên giới, với chiến thuật “biển người”, ưu thế đã nghiêng hẳn về phía của đoàn quân xâm lăng hung hãn của nước Hạ Trụ đất rộng người đông. Lưỡi kiếm sắt máu của Mã Tham Đường giờ đây tha hồ chém giết. Trên những cồn cát của dòng Xích Tư cạn kiệt, xác chiến binh của hai bên phơi đầy trên mặt sông “mầu nhiệm”. Sự phũ phàng của lịch sử một dòng sông cũng đã đến ngày kết thúc. Sự mông muội, cả tin của Ngô Ân Quân giờ đây đã phải trả giá. Người ta thấy nhà vua của nước Nậm Vu cùng đoàn vệ binh chiến bại, dưới ánh trăng mùa thu nhạt nhòa, đang tháo thân về phía ngọn núi Linh Sơn, sau lưng là toán quân truy đuổi mà dẫn đầu không ai khác hơn là người anh em nối khố của ngày xưa, tên vua bạo ngược Mã Tham Đường. Đoàn bại binh của Ngô Ân Quân vừa kịp vượt qua con suối sâu , chiếm giữ một ngọn đồi của núi Linh Sơn và bố trí đội quân xạ tiễn, thì đội truy kích của Mã Tham Đường cũng đã đuổi kịp. Đội quân thắng trận đã mệt mỏi, không thể vượt qua làn tên dày đặc của đối phương nên đành hạ trại nghỉ đêm ở bên này con suối. Đêm ấy, trên dãy núi nơi tận cùng vùng cực nam của tổ quốc Nậm Vu, đứng trên một tảng đá lớn, Ngô Ân Quân đưa mắt nhìn về phương bắc của quê hương đã tan hoang vì chiến tranh, bất giác, nhà vua rùng mình. Vị vua mà từ lâu nay cớ ngỡ rằng mình là một vị thánh,ban phát ân sủng cho nhân dân, sẽ được con dân Nậm Vu ngợi ca, sùng bái đến muôn đời, nay đã trở thành một tên vong quốc . Nhà vua lặng lẽ rảo bước về phía dòng suối để nhìn lại bóng mình lần cuối. Biết đâu sáng mai đây sẽ chẳng còn một cơ hội nào nữa. Ánh trăng thu vằng vặc đã soi rõ hình bóng của nhà vua nước Nậm Vu trên dòng suối bạc. Bỗng đấng quân vương hốt hoảng thét lên: “ Sao gương mặt ta lại thế này? Ôi, dòng Xích Tư linh thiêng và huyền thoại kia, chẳng lẽ, hơn năm mươi năm qua, ngươi đã dần dần biến linh hồn ta, gương mặt ta,bàn tay ta thành ra của loài ác quỷ? Không, ta là Thánh, ta là Thánh của con dân Nậm Vu,ta không phải là quỷ...!” .Nói rồi, nhà vua ngã gục xuống dòng suối của Linh Sơn. Nhưng dòng suối của Linh Sơn thanh khiết vẫn tuôn chảy như dòng lịch sử của nước Nậm Vu, không dừng lại. Còn ở biên cương phía Bắc, dòng Xích Tư cũng đang cạn kiệt phơi mình dưới màu trăng mùa thu cũng vàng vọt vì đói khổ và chiến tranh. (Tác giả đồng ý đưa vào thư viện nếu được BBT chọn)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.10.2014 20:15:06 bởi Kiều Giang >
NHỮNG GƯƠNG MẶT TRẦN GIAN Truyện ngắn của Kiều Giang Đã hơn mười một giờ đêm, chiếc xe du lịch hiệu Lexus màu đen bóng lộn lặng lẽ đậu trước cỗng của ngôi biệt thự quanh năm đóng kín, trong một khu dân cư, toàn những nhà sang trọng. Hai cánh cổng bằng đồng được chạm trổ công phu, bỗng nặng nề mở ra, chiếc xe nhẹ nhàng đi vào, và cánh cổng tự động đóng lại. Tất cả diễn ra thật nhịp nhàng ăn khớp, không có một tiếng động thừa, giữa cái không gian tĩnh lặng. Ngôi biệt thự tọa lạc ở vùng ngoại ô của một thành phố lớn, trong một khu vườn hình vuông cạnh khoảng 30 mét, rợp bóng cây, xung quanh được xây tường cao, rào sắt, khó có ai có thể leo lên bờ tường để nhìn vào bên trong, do đó nó ẩn chứa một dáng vẻ thần bí, mà dân địa phương thường gọi là “ biệt thự ma”. Theo những người sống lâu ở khu vực này thì ngôi biệt thự trước đây là của một viên tướng lãnh của chế độ miền Nam. Cách đây khoảng hai mươi năm, sau khi sửa sang, nó hiện đại hơn,lộng lẫy hơn, không biết nhà nước giao cho ai ở, mà nó trở nên bí hiểm như thế. Ban ngày không thấy người ra vào, còn ban đêm thì chủ hay khách chỉ ngồi trong xe ô tô đóng kín cửa, chạy thẳng vào bên trong, không ai biết là nhân vật nào. Lâu dần, cũng không còn ai muốn tò mò tìm hiểu làm gì nữa. Chiếc xe dừng lại trên lối đi rải sỏi trắng, hai bên là những chậu cây cảnh trồng toàn những loài hoa quý, ngôi nhà được xây theo kiểu Pháp, bên ngoài sơn một màu hồng nhạt, có lẽ chủ nhân của nó có một tâm hồn thật lãng mạn, yêu đời và đầy sức sống. Người tài xế mặc bộ áo tu màu đà, đầu cạo trọc nhẵn, bật cửa xe, nhanh nhẹn bước xuống rồi chạy vòng ra sau, tiến lại mở cửa xe với động tác khá thuần thục. Một lão hòa thượng trông rất quắc thước, đôi mắt sáng, bước ra khỏi xe, đưa tay sửa vội vạt sau chiếc áo cà sa màu cam rồi bước lên bậc tam cấp tiến vào mái vòm của ngôi biệt thự. Đứng chờ sẵn ở đó là là một thiếu phụ, tuổi trạc ba mươi, dáng như người mẫu, thon thả cao, nước da trắng, trong bộ sườn- xám, làm nổi bật ba vòng đo của thân hình tròn lẳn, tràn đầy nét thu hút, quyến rũ. Vị Hòa Thượng tiến thẳng vào phòng khách, đèn mở sáng choang, được bài trí rất sang trọng. Dưới trần nhà sơn màu hồng phấn là những chùm đèn lồng màu xanh nhạt nhả ánh sáng mờ ảo vào khoảng không gian vốn đã có vẻ huyền bí cố hữu. Trên bức tường trái, những chiếc đèn pha lê bé xíu, kết thành chuỗi, đặt ẩn vào tường, hắt ánh sáng đa sắc vào những bức tranh quý của các danh họa thế giới, được gửi mua từ nước ngoài, đặt lõm vào trong tường, tất cả được phối hợp dưới bàn tay điệu nghệ của một kiến trúc sư có tài, tạo nên một không gian ấm cúng như ở nơi bồng lai tiên cảnh. Đặc biệt, bên tường trái treo bộ tranh thủy mặc “ Thập Mục Ngưu Đồ”( mười bức tranh chăn trâu) của Phật giáo Thiền tông được mua từ Nhật Bản. Có lẽ đó là sự tưởng tượng của một lão Hòa Thượng đang hướng về cảnh Niết Bàn mai sau của cuộc trường sinh, thoát khỏi kiếp luân hồi khổ ải? Không kìm được cảm xúc, người thiếu phụ xinh đẹp lao vào ôm chầm lấy vị Hòa thượng vừa đứng lên, sau khi cởi đôi giày da màu đen bóng loáng. -“Hôm nay anh đến muộn quá, đã năm hôm rồi, em nhớ lắm…!” Vị Hòa Thượng cúi hôn vị hôn thê bé bỏng thật lâu rồi ngẩng lên: -“Mấy hôm nay anh bận đi công tác xa. Gần gũi, tiếp xúc với nhiều nhân vật quan trọng nên không tiện gọi cho em. Ôi “cái mảnh trăng thế tục” này đeo nặng cả tâm hồn anh. Ai biết được “người” và “trăng”, ai nhớ ai, các con đâu cả rồi, em?” -“Anh có biết đã mấy giờ đêm rồi không, chúng đã đi ngủ cả”. Người thiếu phụ xinh đẹp tên Nguyệt trả lời. Hòa Thượng Thích Thanh Nhã, chợt nhớ ra rằng cứ năm ba hôm ông mới trở về ngôi biệt thự, cái tổ uyên ương mà nay ông đã ngót lục tuần, năm mươi năm xuất gia đầu Phật, bốn mươi lăm năm ông sống giữa một bên là Đạo pháp, một bên là triền phược của cõi ta bà, ông mới tạo dựng xong .Thường ông ghé về đây, đêm đã rất khuya, nên nhiều khi không vui đùa được với hai đứa con yêu của mình. Vị Hòa Thượng mang quân hàm thiếu tướng, phụ trách an ninh về tôn giáo, chức danh ngang hàng với Thứ trưởng, nên hành tung của ngài rất bí mật, đi đâu, về đâu, khó có ai biết. Chỉ khi nào vị Thiếu tướng đóng vai lão hòa thượng Thích Thanh Nhã, phó chủ tịch hội đồng trị sự của giáo hội, trụ trì chùa Hoằng Pháp, vừa khánh thành không lâu, đồ sộ và hoành tráng nhất nước, thì ngài thiếu tướng mới công khai oai vệ trong bộ cà sa tha thướt màu vàng sẫm, hầu phục chung quanh là đám đệ tử lúc nào cũng khúm núm, một điều, hai điều, đều bẩm thầy, bạch thầy… Thiếu tướng Nguyễn Hoàng Định cởi bộ áo cà-sa, đưa cho Nguyệt đứng bên cạnh, nàng cẩn thận treo vào chiếc tủ kính , để lộ thân hình vạm vỡ cân đối, cơ bắp rắn chắc, nước da trắng hồng, chứng tỏ một sự tập luyện công phu bài bản của một sĩ quan an ninh cấp cao. Ông đưa tay bế thốc Nguyệt một cách nhẹ nhàng nhanh gọn, đặt tấm thân nõn nà kiều diễm, ngào ngạt hương hoa lên chiếc giường Hàn Quốc đắc tiền. Đêm ấy, đã mấy tiếng đồng hồ, cuộc chiến đấu giữa mềm mại và cứng rắn, giữa hương sắc và quyền uy, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa thần quyền và thế quyền diễn ra cân tài cân sức. Cuối cùng những tinh hoa của thế gian, hình như Phật đã buộc con người cũng phải trả lại cho thế gian. Đôi thân xác bốc lửa và giá băng kia cuối cùng cũng làm trọn vẹn chức năng của một loài truyền giống. Sau cơn quay cuồng chết lịm, gần sáng, Nguyệt thức giấc, rón rén bước xuống giường, tiến về phía tủ áo, nàng hết sức kinh ngạc, không biết chiếc áo Cà sa màu cam của vị Hòa Thượng đầy quyền uy, hôn phu của nàng, bỗng nhiên biến thành màu đỏ máu tự bao giờ. KG 8- 2014 ( Tác giả đồng ý đưa vào thư viện, nếu được BBT chọn)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.10.2014 20:12:33 bởi Kiều Giang >
NGƯỜI ĐÀN BÀ VÀ ĐỨA CON HOANG TRONG BỤNG Truyện ngắn của Kiều Giang Người đàn bà dáng sừng sững như núi. Đêm nay, một đêm mùa đông, bầu trời không sao, chỉ có những giọt mưa như còn nuối tiếc một thời nào đó vẫn chưa nhòe trên trang sử của Nhà Viết Sử Trên Đá của làng Đa Đa, Còn làng Đa Đa vẫn còn chói sáng trên bản đồ mà ai đó vẽ đã rất lâu về những dấu chân của loài đứng thẳng đi qua. Người đàn bà trong bộ quần áo xanh màu núi rừng, loang lỗ những vết bom đạn của thời gian, dáng khắc khổ in đậm dấu ấn của những cuộc tranh giành oan khốc đè nặng lên cuộc đời bà. “ Hỡi người mệnh phụ dáng núi, giữa đêm đông thanh vắng, có điều chi oan khuất, mà bà đến đây để gặp ta,?”, Nhà Viết Sử Trên Đá của làng Đa Đa bạo miệng hỏi . -“ Chẳng phải đâu xa, ta là linh hồn của làng Đa Đa này, ta tồn tại trên từng thân cây ngọn cỏ, trên từng bến nước dòng sông, trong vĩnh viễn của những ngày xuân nắng ấm và bao mùa đông buốt giá, ta đã chịu bao tủi nhục và vinh quang của làng Đa Đa, ông lão viết sử kia, ông không nhận ra ta sao?” Rồi người đàn bà cất tiếng hát: Trong mênh mông của hiện hữu, Làng Đa Đa ta là một thứ vĩnh cửu của tạo tác. Người ta đã đem lịch sử làng Đa Đa gửi lên trời… “ Thì ra là vậy, bọn mắt thịt chúng tôi, làm sao nhận ra linh hồn của những dòng sông, của những ngọn núi, của biển cả mênh mông của làng Đa Đa. Hỡi thần nữ của làng Đa Đa, bà muốn ta viết những gì mà bà cho rằng đá trên rặng Núi Bà của làng Đa Đa chưa kịp ghi?” “ Này, Nhà Viết Sử Trên Đá của làng Đa Đa, ông hãy lật hết những tảng đá trên rặng Núi Bà của làng Đa Đa xem thử, ông đã ghi cái thời mà bọn mặt trắng lông ngực đem cái đèn chúc ngược và con tàu sắt đến chiếm làng Đa Đa, hay chưa?” -“ Thưa rằng việc ấy chúng tôi đã ghi rồi, hòn đá ghi cái giai đoạn lịch sử bi tráng ấy của làng Đa Đa được đặt gần cái đỉnh cao nhất cùa Núi Bà”, Nhà Viết Sử Trên Đá của làng Đa Đa cả quyết. - “ Nhưng hình như ông quên một chi tiết quan trọng trong gia đoạn lịch sử đó là, có một bọn mặt trắng khác, hình dạng giống bọn đi trồng dân, lan tràn khắp mặt đất trong thế kỷ u buồn, nhưng tâm địa lại khác hắn, theo bước chân của những kẻ đi tìm trầm của làng Đa Đa, bọn chúng cũng có mặt trên cái mảnh đất Đa Đa máu lửa, và chúng là bọn xâm lược bằng sách, rồi theo sau đó mới là súng đạn, một đêm trung thu, bọn chúng làm cái việc truyền giống cưỡng bức đối với ta, ta đã phải mang giọt máu oan khiên của chúng” - “Đó là điều bí ẩn của lịch sử, Bà không nói ra thì làm sao tôi biết được. Nhưng từ ngày ấy đến giờ, đã non thế kỷ, kẻ viết sử trên đá như tôi, chẳng thấy nữ thần hạ sinh một đứa con mắt xanh hay mắt đen nào cho làng Đa Đa. Và làng Đa Đa còn mãi chìm trong đêm dài, người ta đã thay cái bất hạnh này bằng thứ bất hạnh khác?” -“ Đó…, đó mới là chỗ mà đã gần trăm năm qua ta đã phải cưu mang nỗi đau đớn đến cùng cực, đó là cái hoang thai, không cùng dòng máu với dân Đa Đa, nó không chịu chui ra khỏi người ta, nó lại chịu sự điều khiển của một bọn ngoại lai, càng ngày nó càng tồi tệ, nó dùng ta làm đất sống, mỗi ngày ta càng xanh xao gầy mòn, tất cả những mầm sống khác trong ta đều bị nó tiêu diệt, nó còn muốn dâng ta cho bọn hậu duệ của tên mặt trắng đã chết yểu từ lâu rồi” - “ Như vậy cái chi tiết lịch sử này, nữ thần của làng Đa Đa, muốn tôi ghi trên đá của Núi Bà thế nào?” - “Thì ông cứ ghi trên hòn đá cao nhất của Núi Bà rằng Nữ Thần của làng Đa Đa, lỡ mang thai bọn dị giáo, đứa con hoang không chịu ra khỏi bụng mẹ, đã phản bội, đan tâm làm tôi đòi cho bọn cướp đang chực chờ. Và ông hãy hát lớn dùm tôi, cho con dân làng Đa Đa nghe câu này: Những tảng đá của Núi Bà , ghi chi chít lịch sử oai hùng trên đá, đang muốn nghiền nát những rác rưởi đang trôi lềnh bềnh trên dòng sông lịch sử Đa Đa ” SG 28-9-2014
<bài viết được chỉnh sửa lúc 04.12.2014 16:33:21 bởi Kiều Giang >
KÝ ỨC HOANG VU Truyện ngắn Kiều Giang hắn ôm màu đỏ thẳm của ánh hoàng hôn cô độc cuộn tròn trong chăn chiếu của mẹ hắn để đặt nụ hôn lên thời gian, bước đi trong thế giới bùng vỡ của đôi mắt tròn thẳm sâu hình ảnh ngọt ngào và cay đắng của tuổi chim trời, hắn cố tách cái mùi ỉa mế nửa đêm của đứa em lên ba và cái mùi hoa hồng nhả hương vì khát khao mặt trời, nhưng những mùi hương nuốt trửng hắn, cứ ôm chặt vào nhau như một thứ định mệnh của xứ sở không còn mùi vị, khô cứng, cạn kiệt, hắn thường thấy mẹ hắn khóc, khóc thút thít, khóc đờ đẫn, khóc cúi mặt, khóc trốn chạy, còn nước mắt hắn thì khô quánh trong cổ họng, như cục đất ruộng cày vỡ tháng năm, làm hắn, có khi phải đầu hàng mấy giọt nước bọt chờn vờn trong cổ, chẳng chịu trôi đi, hắn chỉ có thể níu lại sự sống bên cạnh những chú dế con chưa biết gáy vào cái khoảng không hắn chưa thể định hình, chỉ còn mình hắn đơn độc phóng tầm mắt non lá mạ vào bầu trời tháng mười xám xịt, như trong cơn mộng du của cỏ cây, hắn bật dậy với tiếng kẻng đinh tai nhức óc, mẹ hắn hốt hoảng lôi hắn ra khỏi nhà, cháy cháy, cháy, như những con rắn lửa bò quanh núi, dưới bụng chúng là cái hào sâu, người không may rơi xuống đó thì khó mà lên được, rồi chúng tiến xuống bò quanh các làng, bò vào ngóc ngách xóm thôn, rần rật ngon lành, lách tách giòn tan, những dãy hàng rào tre quanh co, trói chặt đói ngèo âm thầm lặng lẽ, lại làm mồi cho bà hỏa vui vẻ và tàn nhẫn, nhưng có ai hiểu được, những bờ rào tre kia và cái bùi nhùi lửa châm vào nó, ai tàn nhẫn hơn ai, rồi hắn thấy mẹ hắn khóc, hắn cũng không hiểu tại sao, vì mẹ hắn như một cái bóng lặng lẽ, đôi mắt thẫn thờ, bất chợt, dưới ánh lửa còn sót lại từ những bờ rào tre, hắn thấy chiếc áo vải màu đen đã bạc, từng ngày thấm đẫm mồ hôi của mẹ, hắn biết, vì đêm đêm trong cái chõng tre chật chội, hắn đã quen với cái mùi mằn mặn chua chua ấy, cái áo đã bị móc rách và những vết sướt trên lưng mẹ hắn cũng đen thẫm, âm thầm như đôi môi câm nín của bà, sáng sớm trống trường làng vẫn giục, hắn bước ra khỏi nhà, mẹ hắn nhìn theo từng bước chân, hắn đi qua cánh đồng trơ gốc rạ, tàn tro của cái hàng rào trở thành con rắn đen ngòm lởm chởm những mẫu xương trên những thửa ruộng xăm xắp nước, hắn đi qua cái cổng rào chỉ còn hai cái gốc tre cháy dở, không còn ai gác như mọi ngày, hắn chạy vội vào sân trường, trống vắng như một gò đất tha ma, lão già cầm dùi trống chỉ về phía đầu làng, hắn cắm đầu chạy về phía ấy, người đàn ông hình như còn rất trẻ, mắt trừng ngược, hai tay nắm đầy bùn đất, có lẽ đã chịu đựng nỗi đau cùng tột, cố hết sức bám vào sự sống, nhưng đã bị từ chối, đêm qua, lẩn vào trong tiếng kẻng là những tiếng súng, viên đạn đã xé toạt xương đùi, anh ta chỉ lết được một đoạn ngắn trên mặt ruộng nước, rồi gục xuống, cuối cùng là trừng mắt lên trời, không có ai đến nhận chôn cất kẻ xấu số, nhưng rồi anh ta cũng đã ra đi như một huyền thoại trong đêm hôm sau, cũng lặng lẽ như đống tàn tro, ai cũng biết, nhưng ai cũng cứ lầm lũi như một thứ số phận khắc nghiệt, hắn cúi đầu bước nhanh về nhà như đang trốn chạy trước sự truy đuổi của máu và lửa đang đông thành cục trong ký ức hoang vu. CN 29/3/2015
Thống kê hiện tại
Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
Kiểu: