Tóm lược          lịch sử         Y Khoa          Đại Học Hà Nội (1902-1954) và         Y          Khoa Đại Học Sài Gòn (1947-1975)          
   
           GS Đào Hữu          Anh                                 Đại Hội Quốc Tế Y Nha Dược Sĩ Việt          Nam Tự Do Kỳ IV, năm 2002, có chủ đề là “Y Tế Việt Nam qua giòng thời          gian”, một chủ đề rộng lớn, bao gồm tất cả những quá trình hoạt động và          những thành quả trong quá khứ, hiện tại và có thể cả trong tương lai của          ba ngành Y, Nha, Dược tại hải ngoại. Dựa theo chủ đề, và trong phạm vi          giới hạn của bài này, chúng tôi cố gắng trình bầy một khía cạnh nhỏ          trong nhiều khía cạnh của chủ đề, khía cạnh lịch sử liên quan tới hai          trường Đại học Y Khoa Hà Nội và Sài Gòn, nơi mà một số lớn các y sĩ Việt          Nam tại hải ngoại đã được đào tạo.              
           Khi nhắc tới lịch sử trường Y Khoa          Đại Học Sài Gòn (YKDHS), thực khó có thể không nói tới Y Khoa Đại Học Hà          Nội (YKDHH), vì trên thực tế, hai trường có một mối liên hệ mật thiết          không thể tách rời. Những năm 1954 và 1975 được lựa chọn như những dứt          điểm chúng ta không thể nào quên được, vì đây là những con mốc thời gian          đánh dấu những diễn biến chính trị quan trọng có ảnh hưởng sâu rộng tới          cả hai trường. Những gì đã xẩy ra ở trường Hà Nội sau năm 1954 và ở          trường Sài Gòn sau năm 1975, vì nhiều lý do, đều không được ghi chép          trong bài này.                            
Y Khoa Đại Học Hà          Nội.                     Trường YKDHH được thành lập vào năm          1902. Năm 1947, sau khi quân Nhật đầu hàng và người Pháp trở lại bán đảo          Đông Dương, một trường Y Khoa thứ nhì được thành lập tại Sài Gòn để đáp          ứng nhu cầu của số sinh viên càng ngày càng đông ở miền nam Việt Nam.          Trước năm 1947, những sinh viên miền Nam muốn học y khoa sẽ phải hoặc ra          Hà Nội hoặc sang Pháp, rầy rà và tốn kém. Cho tới năm 1954, cuộc chia rẽ          đất nước Việt Nam ra làm hai phần đã kéo theo một cuộc di cư vĩ đại của          hơn 1 triệu người dân từ miền bắc vào nam. Trong số này có một số đông          sinh viên y khoa và phần lớn ban giảng huấn của YKDHH. Trường Y khoa Sài          Gòn đã mở rộng cửa thâu nhận số sinh viên từ miền bắc tới và trở thành          YKDHS.              
           Sau đây chúng ta sẽ lần lượt coi xét          những dữ kiện lịch sử của YKDHH trước, rồi tới YKDHS và sau cùng, thêm          một phần báo cáo kết quả hoạt động của Hội Đồng Khoa lưu vong YKDHS tại          Mỹ.          Y Khoa Đại Học Hà Nội. Theo cuốn sách          “L’Ecole de Plein Exercice de Médecine et de Pharmacie” do nha Học Chánh          của chính phủ bảo hộ Đông Dương xuất bản năm 1931, thì trường YKDHH được          thành lập năm 1902 do nghị định ký ngày 8 tháng giêng năm 1902 của toàn          quyền Paul Doumer. Người Pháp sau khi lập chính phủ bảo hộ cai trị toàn          cõi Việt Nam đã có ý định thành lập một trường y khoa, không ngoài mục          đích bành trướng ảnh hưởng văn hóa Pháp và thu phục nhân tâm dân bản xứ.          Cơ sở giáo dục y khoa này trước định đặt ở Sài Gòn, nhưng sau một thời          gian nghiên cứu, lại chuyển ra Hà Nội.Trường có tên là Trường Y Khoa          Đông Dương (Ecole de Médecine de l’Indochine). Vị Khoa trưởng đầu tiên          không phải ai xa lạ mà chính là Bác sĩ Alexandre Yersin, người đã tìm ra          vi trùng bịnh dịch hạch Yersinia pestis. Ngoài BS Yersin ra còn có hai          Giáo Sư người Pháp là BS Leroy des Barres và BS Degorce, nguyên cựu nội          trú các bịnh viện Paris, phụ trách giảng giạy hai môn Nội và Ngoại khoa.          BS Yersin cùng với 4 phụ giảng khác lo giạy môn Sinh vật học và Khoa học          căn bản. Cứ nhìn vào tầm vóc chuyên môn của những vị được đề cử lo việc          giảng huấn, ta thấy chính phủ bảo hộ Pháp cũng khá chú trọng về trường Y          Khoa Đông Dương. Tưởng cũng nên ghi nhận thêm là BS Yersin chỉ đảm nhiệm          chức vụ Khoa trưởng có 2 năm, vì ông đã trở lại hoạt động tại viện          Pasteur Nha Trang vào năm 1904, nơi mà ông yêu thích làm việc cho tới          năm 1943 khi ông viên tịch.              
           Tới đây tôi xin phép mở một dấu ngoặc          để kể thêm một vài chi tiết lý thú về việc khám phá vi trùng dịch hạch          của BS Yersin. Theo những điều được ghi chép lại thì sự khám phá này,          cũng như một số khá nhiều những khám phá quan trọng trong khoa học, được          thành hình nhờ một sự may mắn ngẫu nhiên. Nguyên là năm 1894 có một trận          dịch hạch hoành hành ở Hong Kong và Phúc Kiến bên Trung Hoa với rất          nhiều người chết. BS Yersin được cử sang Hong Kong để nghiên cứu. Trong          khi đó thì chính phủ Nhật Bản cũng cho một phái đoàn lớn với đầy đủ          phương tiện sang Trung Hoa để tìm hiểu, cầm đầu là GS Kitasato, một nhà          vi trùng học nổi danh. Vì không được sự ủng hộ của chính quyền Anh ở          Hong Kong, và nhất là vì sự cạnh tranh bất hợp tác của phái đoàn Nhật,          ông phải ở trọ trong một căn nhà tranh nhỏ bé, không có đủ tiện nghi cho          cuộc khảo cứu. Không có lồng ấp (incubateur), ông phải treo những ống          cấy vi trùng ra ngoài hàng hiên để lấy sức ấm của ánh nắng mặt trời. May          mắn sao vi trùng bịnh dịch hạch, khi dược cấy lần đầu, lại thích mọc ở          nhiệt độ thấp 27-28 độ là nhiệt độ ngoài trời, chứ không ưa nhiệt độ cao          37 độ của những lồng ấp, vì ở nhiệt độ này các vi trùng khác loại mọc          mau lẹ hơn, chèn ép làm cho vi trùng dịch hạch không mọc nổi. Trong khi          đó, đoàn nghiên cứu Nhật Bản, vì xài lồng ấp, nên chỉ cấy được một loại          vi trùng Gram tính dương sau này được đặt tên là Streptococcus          pneumoniae, không có liên hệ gì với bịnh dịch hạch.           
           Năm đầu có 105 sinh viên dự kỳ thi          tuyển và số được nhận vô học là 29 người.     
  Chương trình học dài 4 năm, và          các sinh viên ra trường được cấp bằng Y sĩ phụ tá (Médecin auxiliaire).          Khóa ra trường đầu tiên vào năm 1907 gồm có 5 người được bổ đi làm việc          tại các tỉnh nhỏ. Theo như tài liệu của GS Trần Ngọc Ninh thì thủ khoa          khóa đầu tiên là BS Nguyễn Văn Thinh. BS Thinh sau này qua Pháp học thêm          và đã đậu bằng Bác sĩ Y Khoa Pháp. Ông trở về nước cho tới năm 1946, ông          lên làm Thủ tướng đầu tiên cho chế độ Nam kỳ Tự trị và ít tháng sau thì          tự vẫn chết. Trong những năm sau, số sinh viên ra trường tăng dần, cho          tới năm 1920 thì lên tới 25 người. Tưởng cũng nên ghi nhận là các Y sĩ          xuất thân từ trường Y khoa Đông Dương đã tham dự tích cực trong cuộc Đại          chiến Thế giới thứ nhất với quân đội Pháp, trực tiếp  điều trị các          thương binh trong Bịnh viện Đông Dương ở Marseilles.              
           Trong những năm kế tiếp, trường tiếp          tục mở rộng và được chấn chỉnh thêm. Năm 1914 mở thêm phân khoa Dược.          Vào năm 1923, toàn quyền Albert Sarraut đã thực hiện những cải tổ quan          trọng: trường mang tên chính thức là Trường Cao Đẳng Chuyên Nghiệp Y          Dược Khoa (Ecole de Plein Exercice de Médecine et de Pharmacie). Các môn          học Vật lý, Hóa và Tự Nhiên (Sciences Physiques, Chimiques et          Naturelles) gọi tắt theo tiếng Pháp là PCN được bắt đầu giảng giạy cho          các sinh viên mới. Đây là bước khởi đầu cho những năm tiền y khoa sau          này. Và cũng bắt đầu từ năm 1923, trường có hai chi nhánh rõ rệt: một          chi nhánh Pháp dành cho những sinh viên có bằng Tú Tài Pháp, khi ra          trường sẽ có bằng Bác sĩ Y Khoa Pháp, và một chi nhánh bản xứ dành cho          những sinh viên có bằng Tú Tài bản xứ, khi ra trường có bằng Bác sĩ Y          Khoa Đông Dương (Médecin Indochinois). Trên lý thuyết có sự phân chia rõ          rệt, nhưng trên thực tế sinh viên của hai chi nhánh đều học lý thuyết và          thực tập chung trong một trường sở duy nhất. Tuy nhiên sự phân chia này          dù sao cũng đã gây ra một sự cách biệt xã hội khá tế nhị, và chi nhánh Y          khoa bản xứ dần dần thu hẹp lại và sau cùng thì bãi bỏ hẳn vào thập niên          30.              
           Về vấn đề trường sở, trường Y Khoa Hà          Nội lúc đầu được đặt tại vùng ấp Thái Hà cách trung tâm thành phố chừng          5 cây số. Tuy nhiên, vì khu này có khá nhiều ao hồ, sình lầy, đầy rẫy          ruồi muỗi nên chẳng bao lâu, các sinh viên y khoa cũng như các bịnh nhân          đều bị bịnh sốt rét hành hạ, và trường phải rời về gần trung tâm thành          phố. Tới cuối thập niên 20 thì trường chính thức dọn về cơ sở tọa lạc          trên đường Bobillot (nay là đường Lê Thánh Tôn), gần viện Pasteur và các          nhà thương thực tập chính. Cơ thể Học viện, nơi hoạt động thường xuyên          của GS Nguyễn Hữu và các Phụ tá Cơ thể học cũng được xây cất trong thời          điểm này. Học viện cho tới nay vẫn còn và vẫn được sử dụng làm nơi thực          tập mổ xẻ cho các sinh viên y khoa.           
           Việc trường Y Khoa Hà Nội dọn về cơ          sở chính thức trên đường Lê Thánh Tôn còn có một quan trọng tinh thần          rất đáng kể vì trường đã trở thành trường Đại Học Y Khoa (Faculté de          Médecine), và cùng với phân khoa Luật và phân khoa Khoa Học, đã trở          thành một trong ba thành viên nòng cốt của trường Đại Học Đông Dương          trong thập niên 30. Năm 1936 là năm trường chính thức mang tên Đại Học Y          Khoa, với 4 Giáo sư Thạc sĩ ở Pháp về tăng cường ban giảng huấn: GS          Charles Massias (Nội khoa), GS Jacques Mayer May (Giải phẫu), GS Pierre          Huard (Cơ thể học) và GS Bernard Joyeux (Mô học & Cơ thể Bịnh          lý).             
           Từ khi thành lập năm 1902 cho tới năm          1954, trường liên tục hoạt động. Chỉ riêng niên khóa 1945-1946, khi quân          đội Nhật Bản đầu hàng kéo theo những biến chuyển chính trị lịch sử,          trường phải ngưng hoạt động trong một thời gian. Kết quả là năm 1946          không có sinh viên nào trình luận án ra trường. Khi trường hoạt động trở          lại năm 1946, tôi được các bậc đàn anh kể lại cho nghe là GS Khoa trưởng          Huard phải đi kiếm từng sinh viên để giục và giúp cho họ có điều kiện          tiếp tục đi học.              
           Tổng số Y sĩ đào tạo tại YKDHH được          bao nhiêu không thấy ghi chép trong sách vở và thống kê quốc gia. Vì          vậy, muốn biết được tổng số này, ta cần phân tích quá trình của YKDHH ra          từng giai đoạn, số sinh viên của mỗi giai đoạn được ghi chép từ những          tài liệu rải rác, rồi sau cùng sẽ được tổng kết.              
           Trước hết là số Y sĩ phụ tá được đào          tạo từ năm 1902 cho tới năm 1923 là năm mà chương trình Bác sĩ Y khoa          được áp dụng. Theo như tài liệu của nha Học Chính Đông Dương, thì con số          này cũng không nhiều cho lắm. Số sinh viên thay đổi từ 6 người lúc ban          đầu cho tới 25 người năm 1920, trung bình vào khoảng 15 người một lớp.          Trong 23 năm, từ 1907 là năm khóa Y sĩ phụ tá đầu tiên ra trường cho tới          1930 là năm chương trình này bị thay thế, tất cả có 294 sinh viên ra          trường với bằng cấp Y sĩ phụ tá.             
           Từ năm 1930 cho tới 1935, số Bác sĩ          ra trường không được ghi rõ. Tuy nhiên, tài liệu của Nha Học Chính cho          thấy là trong niên khóa 1930-1931 có 19 sinh viên ghi danh theo học          chương trính Bác sĩ Y khoa. Như vậy trong 5 năm (1930 cho tới 1935) với          số sinh viên chừng 20 người một lớp, có khoảng chừng 100 sinh viên đã          theo học và tốt nghiệp với bằng Bác sĩ.              
           Từ 1935 trở đi thì số luận án Y khoa          Bác sĩ của trường YKDHH được ghi chép khá đầy đủ. Theo cuốn          “Bibliographie des Thèses de Médecine” của GS Nguyễn Đức Nguyên, từ năm          1935 cho tới 1954, có tất cả 254 luận án đã được trình và chấp          thuận.             
           Như vậy ta có thể kết luận là từ năm          1902 cho tới năm 1954, trường YKDHH đã đào tạo được tất cả 648 người bao          gồm cả Y sĩ phụ tá, Y sĩ Đông Dương và Bác sĩ Y Khoa. Con số này so với          sĩ số ra trường trong những thập niên 60 và 70 thì không lớn là bao,          nhưng các chuyên viên Y khoa kể trên đã đóng góp một phần không nhỏ vào          công cuộc canh tân nền y khoa quốc gia và đáp ứng nhu cầu y tế của đồng          bào trong nước.                 
           Thành phần ban giảng huấn của YKDHH          trong khoảng 1950-1954 được ghi nhận như sau:      
          - Khoa trưởng: GS Pierre          Huard. 
   - Khoa Giải Phẫu: GS Huard, GS Phạm          Biểu Tâm, GS Nguyễn Hữu, BS Trần Ngọc Ninh, BS Trần Anh, BS Đào Đức          Hoành 
   - Khoa Nội Thương: GS Blondel, GS          Đặng Văn Chung, GS Rivoalen, BS Lê Khắc Quảng  
          - Khoa Cơ Thể Học: GS Huard, GS          Nguyễn Hữu, BS Trần Anh, BS Nguyễn Ngọc Kính  
   - Khoa Sản Phụ: GS Montagné, BS Đinh          Văn Thắng         - Khoa Tai Mũi Họng: GS          Ollier  
          - Khoa Nhãn: GS Keller, BS Nguyễn          Đình Cát, BS Nguyễn Văn Nguyên 
   - Khoa Bì phu và Hoa liễu: GS Grenier          Bolley 
   - Khoa Mô học & Bịnh lý học: GS          Vũ Công Hòe 
   - Khoa Sinh Lý: GS          Rivoalen       Cùng với nhiều Phụ giảng, các Giáo sư          trên đây dành toàn thời gian trong công việc giảng giạy cho một số sinh          viên thay đổi từ năm, sáu chục người cho hai năm đầu (năm Y 1 và Y 2)          cho tới không uá ba chục người cho năm chót (Y 6). GS Huard là người          rất có công trong việc tích cực dẫn dắt một số giáo sư  Việt qua          Pháp thi Thạc sĩ như GS Phạm Biểu Tâm (Giải phẫu), GS Đặng Văn Chung          (Nội khoa), GS Vũ Công Hòe (Cơ thể bịnh lý), GS Trịnh Văn Tuất (Nha Khẩu          Xoang) và GS Nguyễn Hữu (Cơ thể học).             
           Các cơ sở thực tập gồm hai Bịnh Viện          chính là BV Bạch Mai và BV Phủ Doãn. BV Bạch Mai là một bịnh viện đa          khoa lớn trên 700 giường, gồm các khu Nội khoa, Sản khoa, bịnh Truyền          nhiễm, và Tai Mũi Họng. BV Phủ Doãn (còn có tên là BV Yersin) chuyên về          Giải Phẫu và Cấp cứu nhưng cũng có một khu Sản khoa. Ngoài ra còn Bịnh          viện Mắt, là nơi chuyên trị các bịnh mắt, nhất là bịnh lông quặm          (trachoma). Tưởng cũng nên ghi nhận là tuy không có các bịnh viện dành          riêng cho trẻ em và phụ khoa nhưng các bịnh viện lớn như Bạch Mai và Phủ          Doãn đều có những trại riêng dành cho phụ nữ và trẻ em. Ngoài Cơ thể Học          viện là nơi các sinh viên y khoa dành một số thời gian khá lớn trong hai          năm đầu để học Cơ thể học, Viện Pasteur được tích cực sử dụng trong công          cuộc giảng giạy lý thuyết cũng như thực tâp cho những bộ môn Vi trùng          học và Ký sinh trùng. Môn Mô học được giảng giạy tại Viện Quang tuyến.          Kẻ viết bài này còn nhớ rõ những buổi thực tập Mô học mỗi chiều thứ ba,          vào khoảng hai giờ. Giờ này là giờ buồn ngủ, đạp xe đạp lên viện Quang          tuyến trong những ngày lập đông lạnh lẽo u ám, lại phải qua một tiệm phở          với những ly cà phê thơm nhức mũi, nên thường thường số sinh viên trong          tiệm phở đông hơn là số trong phòng thực tập.                 
Y Khoa Đại Học Sài          Gòn.                        Như trên ta đã thấy trường Y Khoa Sài          Gòn được thành lập năm 1947 như là một chi nhánh của YKDHH để đáp ứng          nhu cầu của các sinh viên y khoa miền Nam. Cho tới năm 1954 khi phần lớn          sinh viên và ban giảng huấn của YKDHH di tản vào Nam thì trường chính          thức trở thành YKDHS.                        
             Bệnh viện Chợ Rẫy, 1970              
           Trụ sở chính được đặt tại số 28 Trần          Quý Cáp, gồm một căn nhà cao hai tầng dùng làm văn phòng, thư viện và          phòng họp các giáo sư, và 3 căn nhà ngang dùng làm nơi giảng giạy lý          thuyết.          Thành phần ban giảng huấn gồm          có:            
- Khoa trưởng: GS Charles          Massias 
   - Khoa Nội thương: GS Massias, GS          Rivoalen, BS Nguyễn Ngọc Huy, BS Phạm Tấn Tước, BS Trần Lữ  Y  
          - Khoa Giải Phẫu: GS Trần Quang Đệ,          GS Phạm Biểu Tâm, GS Nguyễn Hữu, GS Trịnh Văn Tuất, BS Đặng Văn Chiếu,          BS Hoàng Tiến Bảo 
   - Khoa Sản Phụ: GS Trần Đình Đệ, BS          Nguyễn Văn Hồng, BS Hồ Trung Dung  
          - Khoa Nhãn: GS Nguyễn Đình Cát, BS          Nguyễn Ngọc Kính         - Khoa Tai Mũi Họng: GS          Tissié  
          - Khoa Mô Học & Bịnh lý học: GS          Joyeux, BS Nguyễn Lưu Viên                        Trong vòng 4-5 năm, các Giáo sư người          Pháp dần dần trở về Pháp và ảnh hưởng Pháp trong ngành y khoa cũng dần          dần suy giảm. Tưởng cũng nên ghi nhận là 1962 là năm cuối cùng mà văn          bằng Y khoa Bác sĩ của trường YKDHS còn được công nhận tại          Pháp.              
           Các cơ sở thực tập gồm          có:                 
    Bịnh viện Chợ Rẫy: Nội Ngoại Khoa, Tai Mũi Họng                 
    Bịnh viện Bình Dân: Ngoại Khoa, Nhãn khoa, Bịnh Ngoài Da, Niệu          Khoa, Ung thư                  
            Bịnh viện Nhi Đồng: Nhi Khoa                  
            Bịnh viện Từ Dũ: Sản Phụ Khoa                           
   Bịnh viện Hồng Bàng: bịnh Phổi và Lao                           
   Bịnh viện Chợ Quán: bịnh Truyền nhiễm & Thần kinh                            
  Bịnh viện Saigon: Tai Mũi Họng, Cấp cứu                           
   Bịnh viện Nguyễn Văn Học (khai trương 1967): Nội Ngoại khoa, Sản          phụ             
           Các phòng thực tập khoa học căn bản          nằm rải rác trong thành phố như 
   Cơ thể Học viện (Cơ thể học),  
  BV Saigòn          (Hóa học),  
  Viện Pasteur (Vi trùng và Ký sinh trùng).     
  Một cơ sở riêng          biệt tọa lạc gần Cơ thể Học viện được dùng làm nơi thực tập cho các môn          Sinh lý, Cơ thể Bịnh lý và Mô học. Chương trình học dài 6 năm và một năm          tiền y khoa (PCB hoặc SPCN). Số sinh viên trung bình từ 100 tới 120          người một lớp. Sĩ số này tăng dần cho tới năm 1962 thì trường quyết định          giới hạn số sinh viên ở mức 200 người cho năm đầu và các sinh viên phải          qua một kỳ thi tuyển. Sinh viên Y khoa và Dược khoa sử dụng chung trường          ốc tại số 28 Trần Quý Cáp cho tới năm 1961 khi trường Đại học Dược Khoa          thành lập với GS Nguyễn Vĩnh Niên là Khoa trưởng. Phân khoa Nha Khoa,          trước là bộ môn Hàm Miệng trong YKDHS, trở thành Đại học Nha Khoa niên          khóa 1964-1965 với GS Trịnh Văn Tuất là Khoa trưởng.             
           Nếu ta thấy trường YKDHH có một giòng          lịch sử tương đối êm đềm, ít biến chuyển thì nhiều diễn tiến lịch sử          quan trọng đã xẩy ra cho YKDHS. 
   Năm 1955, GS Massias về Pháp và GS Phạm          Biểu Tâm lên thay thế, đánh dấu lần đầu tiên trường có một Khoa trưởng          người Việt Nam. 
   Thành phần giảng huấn, tương đối nhỏ lúc ban đầu, dần          dần được tăng cường trong những năm 1954-1956 với :    
- GS Trần Ngọc Ninh (Chỉnh Trực, Giải          Phẫu Nhi Đồng)  
   - GS Trần Vỹ (Sinh lý          học)         và trong những năm 1960-1963 với các          Giáo sư: 
   - GS Nguyễn Huy Can (Cơ Thể Bịnh          lý)  
          - GS Lê Xuân Chất (Huyết          Học)  
          - GS Đào Đức Hoành (Ung          Thư)  
          - GS Bùi Quốc Hương (Thần          kinh) 
   - GS Nguyễn Ngọc Huy (Tim          Học)  
          - GS Ngô Gia Hy (Niệu          Khoa) 
   - GS Nguyễn Văn Út (Ngoài Da &          Hoa liễu).                        Trong nỗ lực tăng cường ban giảng          huấn, một số nhân viên giảng huấn trẻ đã được tuyển dụng và gửi qua Pháp          theo học các lớp huấn luyện hậu đại học trong những năm 1958-1960. Tuy          nhiên một số lớn các vị này đã quyết định ở lại Pháp quốc sau khi huấn          luyện xong làm chương trình bị gián đoạn.             
           Từ sau cuộc di tản của YKDHH từ Bắc          vào Nam năm 1954, chính phủ Mỹ bắt đầu gia tăng viện trợ cho miền Nam          Việt Nam. Chương trình giáo dục y khoa được chú ý tới và cơ quan USAID          được chỉ định nghiên cứu, xây cất một Trung Tâm Giáo Dục Y Khoa cùng một          bịnh viện thực tập 500 giường. Theo cuốn sách “Saigon Medical School: an          Experiment in International Medical Education” của BS W. Ruhe thì việc          xây cất trung tâm này tốn hết 2,500,000 mỹ kim, một số tiền khá lớn khi          mà một ly cà phê giá 5 xu và một gallon xăng giá 20 xu. Một nửa ngân          khoản này do USAID đài thọ và một nửa do ngân sách quốc gia Việt Nam đài          thọ. Cùng với việc xây cất trung tâm Y khoa, một số nhân viên giảng huấn          mới tuyển dụng được gửi đi Mỹ tu nghiệp, ngắn hạn và dài hạn. Tới năm          1965 những nhân viên này trở về tăng cường ban giảng huấn, trong số ta          thấy có:    
 
                     BS          Đào Hữu Anh (Cơ thể Bịnh lý),                 
      BS          Hoàng Tiến Bảo (Chỉnh trực),                   
    BS          Vũ Quí Đài (Vi trùng học),                
       BS          Nguyễn Khắc Minh (Gây mê),                  
    BS          Đỗ Thị Nhuận (Ký sinh trùng học),                
       BS          Bùi Duy Tâm (Sinh hóa học).           
              Đồng thời, cũng trong thời điểm này,          ta thấy có một số chuyên viên từ các nước tiếp tục trở về phục vụ tại          YKDHS như :               
          BS          Nguyễn Thế Minh (Nội Khoa, Pháp),               
        BS          Trần Kiêm Thục (Bịnh Tiêu Hóa, Pháp),                
       BS          Trần Thế Nghiệp (Quang Tuyến, Pháp),             
          BS          Lê Dư Khương (Giải Phẫu, Đức),                  
     BS          Liễu Thanh Tâm (Quang Tuyến, Pháp)              
        BS          Phó Bá Đa (Giải Phẫu, Mỹ)                   
   BS          Nguyễn Ngọc Giệp (Sản-Phụ Khoa, Mỹ).     
           Tổng số nhân viên giảng huấn cho niên          khóa 1967-68 được ghi nhận là 91 người, với 16 Giáo sư Thực thụ, 7 Giáo          sư Diễn giảng, 27 Giảng sư và 41 Giảng nghiệm viên.             
           Năm 1966, trường YKDHS chính thức dọn          về Trung Tâm Giáo Dục Y Khoa tọa lạc trên đại lộ Hồng Bàng (nay là An          Dương Vương). Trung tâm bao gồm cả hai trường Y và Nha, đầy đủ với đại          giảng đường, thư viện, và các khu Khoa học Căn bản cùng với các phòng          thí nghiệm. Dự án xây cất bịnh viện thực tập 500 giường bị lui lại cho          tới năm 1972 khi người Mỹ rút khỏi Việt Nam thì hủy          bỏ.              
           Niên khóa 1967-68 là niên khóa đầu          tiên tại Trung Tâm Y Khoa mới, đã đánh dấu một sự cộng tác của chính phủ          Mỹ trong công cuộc giáo dục y khoa Việt Nam. Qua sự dàn xếp của cơ quan          USAID, Hiêp Hội Y Khoa Mỹ (American Medical Association) đã mang các bộ          môn chuyên khoa của nhiều trường y khoa Mỹ sang Sài Gòn để trực tiếp yểm          trợ cho các bộ môn của trường YKDHS. Một trong những bộ môn đầu tiên          tiếp nhận sự yểm trợ này là môn Sinh lý học với GS Lilienfield, một GS          Mỹ nổi danh. Vì tình trạng cúp điện liên miên ở Sài Gòn trong những năm          67-68 nên một trong những lớp của GS Lilienfield đã được tiến hành ngoài          trời, bên bờ hồ cạnh thư viện với sinh viên ngồi trên cỏ và bảng đen          dựng bên cây me già. GS Lilienfield có nói với tôi sau lớp học là chưa          bao giờ ông đã được tham dự một buổi giảng giạy lạ lùng và thích thú như          vậy. Sự yểm trợ trực tiếp giữa các bộ môn chuyên khoa Mỹ và Việt Nam qua          sự dàn xếp của hiệp hội AMA kể trên đã được tiếp tục cho tới năm 1975 và          đã giúp ích rất nhiều cho công cuộc tăng cường nhân viên giảng huấn qua          những chuyến tu nghiệp ngắn và dài hạn, cũng như trợ giúp sách vở cho          thư viện và dụng cụ cho các phân khu. Nhiều sách y khoa của Mỹ đã được          phóng ảnh (có sự cho phép của nhà xuất bản) để bán cho sinh viên với một          giá rẻ. Đồng thời với việc giảng giạy các bộ môn khoa học, môn ngoại ngữ          cũng được chú trọng: các sinh viên y khoa phải lựa hoặc Anh văn hoặc          Pháp văn làm ngoại ngữ chính và phải trau dồi ngoại ngữ này qua những          lớp học hàng tuần.          
           Kể từ khi Trung Tâm Y Khoa khai          trương cho tới năm 1973, tình hình chính trị tại miền Nam Việt Nam bỗng          trở nên sôi động. Không niên học nào mà không bị gián đoạn bởi những          biến cố như biến cố Tết Mậu Thân, bởi những cuộc biểu tình, xuống đường          của sinh viên, và hai cuộc thảm sát các cố Giáo sư Trần Anh và Lê Minh          Trí.             
           Ban lãnh đạo trường YKDHS cũng phải          chịu nhận nhiều thay đổi. Khởi đầu là vụ ngưng chức GS Phạm Biểu Tâm          tháng giêng 1967. Một ủy ban 5 người được chỉ định để điều hành công          việc cho tới tháng năm 1967, cuộc bầu cử Khoa trưởng đầu tiên với các          Giảng sư được phép bầu đã tiến hành và GS Ngô Gia Hy cùng GS Vũ Thị Thoa          được bầu lên nắm giữ chức vụ Khoa trưởng và Phó Khoa trưởng. Tháng giêng          1968, biến cố Tết Mậu Thân xẩy ra, các sinh viên phải đi thực tập quân          sự và niên học bị tạm gián đoạn. Tháng mười một 1968, một cuộc bầu cử          Khoa trưởng thứ hai được tổ chức và các GS Phạm Tấn Tước, Đào Hữu Anh và          Nguyễn Phước Đại được bầu vào các chức vụ Khoa trưởng và Phó Khoa          trưởng. Tháng giêng 1969, trong khi tình hình chính trị tạm lắng đọng,          thì GS Lê Minh Trí bị thảm sát, và hai tháng sau đó, tới GS Trần Anh.          Các cuộc biểu tình sinh viên bắt đầu tái diễn, chống kỳ thi tuyển Nội          trú và GS Phạm Tấn Tước từ chức tháng 12 năm 1970. GS Đào Hữu Anh lên          giữ chức Quyền Khoa trưởng cho tới tháng giêng 1972 thì GS Đặng Văn          Chiếu được bầu lên chức vụ Khoa trưởng. Chương trình giảng giạy tại          YKDHS được tiếp tục trôi chẩy trong mấy năm sau chỉ trừ một cuộc công          kích hồi tháng tư 1972.             
           Sau đây là danh sách các vị Khoa          Trưởng của YKDHS từ 1954 tới 1975:   
 
   - 1954-1955: GS Charles          Massias  
          - 1955-1967: GS Phạm Biểu          Tâm  
          - 1967-1969: GS Ngô Gia          Hy  
          - 1969-1970: GS Phạm Tấn          Tước 
   - 1970-1971: GS Đào Hữu          Anh  
          - 1972-1974: GS Đặng Văn          Chiếu          
  - 1974-1975: GS Vũ Quí          Đài                        Như trên ta đã thấy từ 1962, số sinh          viên y khoa được tuyển vào học năm thứ nhất được giới hạn là 200 người.  
           Chương trình học dài 6 năm và khi ra trường phải trình bày một luận án.           
  Theo tài liệu của GS Nguyễn Đức Nguyên, thì tổng số luận án được trình          và chấp thuận tại YKDHS từ năm 1947 cho tới năm 1972 là 1779 luận án. 
   Số          luận án từ 1972 tới 1975 là bao nhiêu không rõ vì không có ghi chép          trong tài liệu nào. 
   Tuy nhiên với sĩ số 200 người một lớp, ta có thể          đoán phỏng là có vào khoảng trên dưới 600 luận án đã được trình trong          thời kỳ đó. 
   Như vậy, tổng số luận án ra trường của YKDHS từ 1947 cho tới          1975 là vào khoảng 2380 luận án.                                 
Những sự kiện đã xẩy ra từ 1975 tại          quốc ngoại.                        Sau sự sụp đổ của chính quyền Quốc          Gia miền Nam Việt Nam hồi tháng tư năm 1975, một số đông dân Việt Nam          trên dưới 2 triệu người đã lần lượt bỏ nước ra đi, trong số này có khá          nhiều các bác sĩ và sinh viên y khoa. Họ định cư tại nhiều quốc gia trên          thế giới, tuy nhiên phần lớn đã chọn Mỹ quốc làm nơi sinh          sống. 
   Một trong những mối ưu tư đầu tiên          của người dân di tản là làm sao có thể sinh tồn trong một xã hội mới          hoàn toàn xa lạ. Đối với các bác sĩ và sinh viên y khoa thì mối ưu tư đó          chính là làm sao để có thể hoạt động trở lại trong ngành y          tế.         Với sự yểm trợ đắc lực của cơ quan          USAID và hiệp hội AMA, một Hội Đồng Khoa lưu vong (Faculty          Council-in-Exile) của YKDHS được thành lập tại Mỹ với mục tiêu chính là          làm sao có thể giúp cho các sinh viên y khoa được tiếp tục học y khoa ở          Mỹ, và các bác sĩ Việt Nam có thể hành nghề tại các tiểu bang          Mỹ.     
  Thành phần Hội Đồng Khoa          gồm:   
 - GS Đặng Văn Chiếu: Giải          Phẫu.  
          - GS Đào Hữu Anh: Khoa Học Căn          Bản. 
   - GS Phan Đình Tuân: Nhi          Khoa. 
   - GS Nguyễn Văn Hồng: Sản Phụ          Khoa.  
          - GS Lê Quốc Hanh: Nội          Khoa.                        Hội Đồng Khoa họp buổi họp đầu tiên          tại Chicago, tháng 9 năm 1975. Trong thời điểm đó, liên lạc ngoại giao          giữa Mỹ và Việt Nam hoàn toàn bị cắt đứt. Các bác sĩ và sinh viên y khoa          Việt ở Mỹ không thể nào có được những giấy tờ, văn bằng, chứng chỉ học          trình và học bạ cần thiết của trường YKDHS để nộp cho các cơ sở Mỹ. Vì          vậy, HĐK đã quyết định là sẽ đứng ra đảm nhiệm việc cấp giấy chứng nhận          cũng như cấp phát văn bằng cho các sinh viên và bác sĩ của YKDHS cũ hiện          đang ở quốc ngoại.             
           Trong buổi họp kể trên, HĐK đã chứng          nhận và cấp phát 122 Chứng chỉ thay thế cho văn bằng Y Khoa Bác sĩ          (Certificate in lieu of Diploma). Sự chứng nhận này được căn cứ trên          những giấy tờ hình ảnh mà các đương sự mang theo được, những chứng nhận          (affidavit) của các bạn bè cùng lớp hoặc cùng nơi hành nghề, và những          tài liệu đã được in thành sách như Danh sách luận án, danh sách Y Sĩ          Đoàn, v.v.. Nhờ sự ủng hộ của hiệp hội AMA, văn bằng của HĐK đã được các          tiểu bang Mỹ công nhận là có giá trị tương đương như các văn bằng của          các trường Y khoa khác, và có đầy đủ giá trị để có thể được thâu nhận          vào các chương trình huấn luyện hậu đại học.    
           Sau gần 25 năm hoạt động, HĐK đã cấp          phát được tất cả 1261 văn băng. Trừ một số nhỏ đã xuất thân từ Y Khoa          Đại Học Hà Nội, hầu hết các thụ đắc viên văn bằng này đều là sinh viên          của Y Khoa Đại Học Sài Gòn. 
   Đa số các thụ đắc viên đều cư ngụ tại Mỹ.          Tuy nhiên một số văn bằng cũng được cấp phát cho các bác sĩ cư ngụ ngoài          nước Mỹ. Bảng danh sách sau đây liệt kê các quốc gia và số văn bằng đã          cấp phát tại quốc gia đó:  
          - Hoa kỳ: 1167 văn bằng  
  - Gia Nã Đại: 48 văn  bằng          
  - Pháp quốc: 18 văn bằng          
  - Úc Châu: 17 văn bằng  
          - Bỉ quốc: 5 văn bằng 
   - Anh quốc: 2 văn bằng  
          - Tây Đức, Hòa Lan, Thụy Sĩ và Do          Thái: 1 văn bằng cho mỗi nước. 
   Ngoài văn bằng kể trên, các thành          viên HĐK cũng còn ký rất nhiều giấy giới thiệu cho các sinh viên cũng          như bác sĩ để giúp họ tìm nơi học tập hoặc huấn luyện.             
           Kể từ 1995, số bác sĩ Việt Nam di cư          qua Mỹ càng ngày càng giảm. Cộng thêm với việc tái thiết lập quan hệ          ngoại giao giữa Mỹ và Việt, các bác sĩ Việt ở ngoại quốc có thể trực          tiếp xin chứng chỉ học trình và phó bản văn bằng từ Sài Gòn, nên hoạt          động của HĐK cũng giảm dần. Văn bằng sau cùng được cấp phát vào tháng 3          năm 1998. Cho tới năm nay, năm 2002, các thành viên của HĐK đều đã về          hưu, các thụ đắc viên văn bằng của HĐK cũng đều an cư lạc nghiệp trong          nghề của mình, nhiệm kỳ của HĐK thiết tưởng cũng đã chấm dứt một cách          bán chính thức. Có còn chăng chỉ là những chứng chỉ thay thế văn bằng do          HĐK đã cấp phát, như để đánh dấu những hoạt động trong quãng thời gian          trên một phần tư thế kỷ của cộng đồng YKDHS tại hải ngoại.                                 
Kết          luận.                        Như trên đã trình bầy, tổng số bác sĩ          trình luận án ra trường tại YKDHS từ 1947 tới 1975 là 2380 người. Trong          khi đó, số chứng chỉ thay thế văn bằng do HĐK lưu vong cấp phát là 1261.          Như vậy có nghĩa là hơn nửa số bác sĩ Việt Nam ra trường trước năm 1975          tại YKDHS đã di tản ra ngoại quốc. Nếu kể thêm cả những bác sĩ đã ra          ngoại quốc mà không hành nghề, và những người đã mất đi trong cuộc chiến          hay trong những trại cải tạo, thì số bác sĩ còn lại ở Việt Nam chỉ vào          khoảng trên dưới một phần ba tổng số ra trường mà thôi.         Nhìn lại quãng đường đã đi qua sau 25          năm hoạt động, HĐK lưu vong đã đạt được một kết quả không nhỏ trong công          cuộc hỗ trợ các bác sĩ và sinh viên y khoa Việt Nam để họ có thể trở lại          với nghề mà mình đã lựa chọn. 
   Phần đông các sinh viên y khoa đã tiếp tục          học lại tại các Y khoa Đại Học Mỹ và đã ra trường, và hầu hết các bác sĩ          Việt tại Mỹ cũng như tại các nước khác đã có một chỗ đứng vững chắc trên          phương diện nghề nghiệp. Phần lớn thành quả này tất nhiên là do sự cố          gắng không ngừng của các đương sự, nhưng phần nhỏ cũng là một niềm an ủi          cho các thành viên HĐK đã không uổng công trong công việc yểm trợ các          đồng nghiệp và dẫn dắt đàn em trong những ngày đầu tiên nơi xứ          lạ.             
           Tất cả những điều ghi nhận trên đây          nay đã đi vào dĩ vãng.          Trường YKDHH đã di chuyển ra chỗ          khác. Ngôi trường cũ nay là Đại học Dược và chỉ còn một bộ môn Y khoa ở          lại là bộ môn Ký sinh trùng. Năm 2000, tôi có dịp ghé thăm trường, và          trong khu Ký sinh trùng, vẫn thấy còn chiếc bàn giấy cũ kỹ nhưng đồ sộ          của cựu Khoa trưởng GS Galliard của những thập niên xa xưa. Và ở          Institut du Radium của bà Marie Curie (nay là bịnh viện K) vẫn thấy          những tủ đựng “lames” cũ kỹ từ thời GS Vũ Công Hòe (của những buổi thực          tập Mô học không bao giờ quên được) và chiếc đèn treo trên trần nhà bằng          đồng đen thực đồ sộ đã nổi tiếng từ thời bà Curie.             
           Trường YKDHS nay đã đổi tên là trường          Đại Học Y Dược thành phố HCM. Trường sở vẫn còn như cũ, tuy có xây thêm          vài cơ sở phụ thuộc. Đại giảng đường, hồ nước bên quán ăn không thay          đổi. Số sinh viên mỗi lớp vào khoảng 200 người. Chương trình học thay          đổi nhiều với những môn Chính trị học, Đông y, Dược thảo, Châm cứu,          v.v... Sách vở sinh viên sử dụng là những sách do ban giảng huấn viết          bằng tiếng Việt cho từng bộ môn. Ngay cổng vào có một quán bán sách y          khoa, phần lớn sách bày bán là sách bằng tiếng Việt. Tháng 10 năm 2000          khi tôi ghé thăm, một cuộc thi tuyển Nội trú đang tiến hành, làm tôi          chợt nghĩ tới năm 1970 khi mà vấn đề Nội trú đã là đề tài cho những cuộc          biểu tình liên miên của sinh viên y khoa thời đó. Tôi có cảm tưởng là đã          quay được một vòng 360 độ và đã trở về vị trí cũ.LTD 
            
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.03.2012 15:37:22 bởi Ct.Ly >