TRƯỜNG          Y KHOA SÀI GÒN          
  
                                 
                         
                Trường Y Khoa Đại Học Sài Gòn, trên đại lộ          Hồng Bàng   
                                  Trường Y Khoa Đại Học Sài Gòn được thành lập vào năm 1946 tại Sài Gòn,          trong thời gian của chiến tranh Đệ Nhị Thế Chiến, với tên trường là          Faculté de Médecine et de Pharmacie de Hanoi, Section de Saigon, thời đó          được coi là như một chi nhánh của          Trường Thuốc Hà Nội ( Ecole de          Médecine et de Pharmacie de Plein Exercise de l'Indochine, gọi          tắt là Ecole de Médecine de          Hanoi ). Cho tới thập niên 1940, VN chỉ có một trường Y duy nhất          đó là YK Đại Học Hà Nội.                       
           Trường Y Khoa Đại Học Hà Nội, năm 1930, trên          đường Lê Thánh Tôn             
           Trường Y Khoa Đại Học Sài Gòn được đặt tại          số 28 đường Testard ( sau đổi          tên là đường Trần Quý Cáp, nay          là đường Võ Văn Tần ). Nơi đó là biệt thự của bà BS Henriette Bùi, con của BS Bùi Quang Chiêu. Trường là          một biệt thự hai tầng: tầng          trên làm văn phòng Khoa Trưởng, phòng Hội Đồng Giáo Sư và cũng là nơi          các sinh viên trình luận án - tầng dưới dành cho văn phòng hành chánh,          phòng hội và thư viện - đằng sau là khu vườn trống, mấy năm sau xây thêm          giảng đường. Hai giảng đường lớn được xây hai bên và 4 giảng đường nhỏ ở          giữa xếp theo hình chữ U.          
           Khoa trưởng của cả hai trường thời bấy giờ          là Giáo Sư Huard, Giáo Sư          Daléas làm Phó khoa trưởng kiêm phụ trách trường YKĐHSG nên cũng có thể          coi là vị khoa trưởng đầu tiên của trường YKĐHSG.          
           Niên khóa đầu 1946-1947 chỉ có khoảng 12          người cho tất cả các lớp. Niên khóa 1947-1948 có 32 người. Niên khóa          1948-1949 tăng lên tới trên 80 người. Các lớp học được giảng dạy tại          trường và tại các bệnh viện. Giáo sư của trường lúc ban đầu chỉ có 2          người, nên đã dùng khả năng giảng huấn của các BS Quân y Pháp và các BS          VN ở SG, niên khóa 1948-1949 có tới 10 GS trong đó có GS Massias (Nội          Khoa) ở Hà Nội vào và GS Trần Quang Đệ (Ngoại Khoa) từ Pháp về.                           
                GS Phạm Biểu Tâm             
           Chương trình giảng dạy theo khuôn chương trình của y khoa Pháp, dài 6          năm. Hai năm đầu gồm các môn căn bản: cơ thể học, mô học, sinh          hóa, sinh lý, và triệu chứng học. Năm thứ ba và năm thứ tư gồm các môn:          cơ thể bệnh lý và bệnh lý nội ngoại khoa, và thực tập tại các BV về nội          khoa và ngoại khoa. Năm thứ năm và thứ sáu gồm các môn bệnh lý chuyên          môn như nhi khoa, sản phụ khoa, và trị liệu pháp, và thực tập tại các          BV. Cuối năm thứ sáu thi Bệnh lý và chuẩn bị luận án.                     
             GS Đào Hữu Anh             
           Lý thuyết và thực tập cho các môn căn bản          được giảng dạy tại nhiều nơi như: Vi Ký sinh trùng: Viện Pasteur, Sinh          Hóa: phòng thí nghiệm BV Đô Thành, Mô học và Cơ thể bệnh lý: quân y viện          Coste ( BV của quân đội Pháp, sau này thành trường nữ trung học Trưng          Vương), Cơ thể học: BV Chợ Rẫy. Các BV thực tập gồm: BV Grall, BV Chợ          Rẫy (Nội, Ngoại, Tai Mũi Họng, Nhãn khoa), BV Đô Thành (Nội, Ngoại, Cấp          Cứu, Tai Mũi Họng), BV Chợ Quán (Tâm Thần, Truyền Nhiễm), Bảo sanh viện          Từ Dũ, Viện Bài Trừ Hoa Liễu.                           
                GS Đặng Văn Chiếu             
           Khóa YK ra trường đầu tiên vào năm 1947, có          7 sinh viên trình luận án đó là các BS: Pierre Boucheron, Trần Đình Đệ,          Lê Văn Hùng, Trần Minh Mẫn, A. Saint Mieux, Lê Văn Thuấn và Nguyễn Văn          Thọ. Số BS ra trường hằng năm cho cả hai trường SG và HN tính đến năm          1954 như sau: 1947: 7-4 ; 1948: 10-9 ; 1949: 5-7 ; 1950: 4-14 ; 1951:          4-1 ; 1952: 13-54 ; 1953: 3-5 ; 1954: 11-13. Số BS ra trường nhiều ít do          ảnh hưởng của chiến tranh Đông Dương và tình hình chính trị bất ổn của          thời đó.                           
             GS Trần Ngọc Ninh             
           Năm 1954, hiệp định Genève được ký kết, đất          nước tạm chia đôi bởi vĩ tuyến 17, và dân chúng hai miền có 3 tháng thời gian để di chuyển qua miền mình lựa chọn, ra Bắc          hoặc vào Nam. Theo đó, đa số các GS trong Ban Giảng Huấn và 2/3          sinh viên YK đã vào Nam, do vậy số nhân viên giảng huấn và SV của trường          YKĐHSG đã tăng lên gấp bội.             
           Do yêu cầu, một số cơ sở Y khoa được xây          cất thêm tại Sài Gòn.         BV Bình Dân được hoàn thành năm 1955, do sự          đóng góp của các nhà hảo tâm, đã được trao cho trường ĐHYKSG để trở          thành khu Giải Phẩu B do GS Phạm Biểu Tâm điều hành cùng với một số nhân          viên của BV Phủ Doãn ở Hà Nội vào. Sau đó BV được trang bị thêm cho các          khu Nhãn khoa, Tai Mũi Họng, Niệu khoa, Bì phu và Ung thư.         BV Chợ Rẫy được đổi là khu Giải Phẩu A do          GS Trần Quang Đệ điều hành.         BV Nhi Đồng được xây cất và hoàn thành năm          1956 với sự giúp đở của cơ quan UNESCO.         Cơ Thể Học Viện trên đường Trần Hoàng Quân          ( nay là đường Nguyễn Chí Thanh ) do GS Nguyễn Hữu điều hành từ năm          1956.         BV Nguyễn Văn Học được mở ra năm 1967, gồm          các bộ môn Nội, Ngoại, Sản, Nhi do Ban giảng huấn trường YKĐHSG đảm          nhiệm.                        
             GS Hoàng Tiến Bảo             
           Trung Tâm Giáo Dục Y Khoa Sài Gòn, được          khởi đầu xây cất năm 1963 và hoàn tất năm 1966, với tổn phí 2 triệu rưởi          mỹ kim, một nửa do chính phủ VN đài thọ, một nửa do chính phủ Mỹ viện          trợ. Khu đất của trường YKSG trước khi xây cất là Tòa Bố, tọa lạc trên          đường Hồng Bàng. Trường gồm hai cơ cấu kiến trúc lớn 4 tầng, nối liền          bằng một hành lang, tạo thành hình chử H. Tầng trệt một bên là văn phòng          trường Y, một bên là văn phòng trường Nha, cùng với một số giảng đường          nhỏ và phòng họp. Các tầng trên dành cho các bộ môn: Cơ thể học, Sinh lý          học, Cơ thể bệnh lý, Giải phẫu thực nghiệm, Mô học, Vi ký sinh trùng,          Sinh hóa học. Một Đại giảng đường 300 chỗ, một thư viện, và một quán ăn          cho SV nằm ở giửa hai cơ cấu trên. Quán ăn do các nữ tu dòng Mến Thánh          Giá điều hành và đã cung cấp cho SV những bữa ăn ngon lành với giá rẻ.          Trường YKĐHSG chính thức dọn vào vào tháng 6 năm 1966.                           
             GS Đỗ Thị Nhuận             
           Trước năm 1945, VN chỉ có một đại học duy          nhất đó là trường Đại Học Đông Dương (Université de l'Indochine) tại Hà Nội          do chính quyền bảo hộ Pháp điều hành. Một thỏa hiệp văn hóa giữa Pháp và          VN ký ngày 30/12/1949 đổi tên trường lại là trường Đại học Hà Nội, do          hai chính phủ Pháp Việt điều hành chung. Trường Đại học Hà Nội có hai          trung tâm, một ở HN, một ở SG. Sau năm 1954, tại SG hai trung tâm sát          nhập thành một bao gồm các phân khoa: Luật, Y Dược, Văn Khoa, Khoa học,          Kiến trúc. Đến 1955, trường Đại học Hà Nội trở thành Đại học Quốc Gia          VN, do chính phủ VN điều hành. Tới năm 1957, khi trường Đại học Huế mở          cửa thì Đại học Quốc Gia đổi tên là Đại học Sài Gòn. Đại học Y Dược được          chia làm hai phân khoa riêng biệt, Y và Dược, vào tháng 8 năm 1961. Năm          1963, bộ môn khẩu xoang tách rời khỏi Y khoa và trở thành Đại học Nha          khoa. Khoa trưởng Dược khoa đầu tiên là GS Nguyễn Vĩnh Niên, và Khoa          trưởng Nha khoa là GS Trịnh Văn Tuất.                           
             GS Bùi Duy Tâm             
           Niên khóa 1954-1955, năm Y1 và Y2 có khoảng          70-80 SV cho mỗi lớp. SV đại học chỉ cần có một trong những bằng dự bị          như PCB ( Physique, Chimie, Biologie ), SPCN ( Sciences, Physiques,          Chimiques et Naturelles ) là có thể ghi danh vào học YK, hồi thời đó          chưa có chương trình thi tuyển vào YK.         Số SV ghi danh nhập học YK ngày càng gia          tăng, nên kể từ năm 1966, một kỳ thi tuyển hằng năm được tổ chức để chọn          một số nhất định là 200 SV vào năm thứ nhất YK.                           
             GS Liễu Thanh Tâm             
           Thành phần GS đã có thêm: GS Phạm Biểu Tâm          (Ngoại Khoa), GS Nguyễn Hữu (Cơ Thể Học), GS Trịnh Văn Tuất (Hàm Miệng),          GS Nguyễn Đình Cát (Nhãn Khoa), GS Auguste Rivoalen (Nội Khoa), GS          Montagné (Sản Phụ Khoa), sau đó GS Trần Ngọc Ninh (Chỉnh Trực) từ Pháp          về năm 1954, GS Trần Vỹ (Sinh Lý Học) năm 1956, GS Trần Đình Đệ (Sản Phụ          Khoa) năm 1956.          
           Sau một vài năm, các GS Pháp bắt đầu rời          khỏi ban giảng huấn. Khởi đầu là việc GS Massias từ nhiệm, và GS Phạm          Biểu Tâm lên thay thế năm 1955. GS          Phạm Biểu Tâm là vị Khoa Trưởng VN đầu tiên của trường  YKSG.                        

          GS Nguyễn Ngọc Giệp             
           Năm 1962 là năm cuối cùng mà bằng BS YK của          trường YKĐHSG còn được công nhận tại Pháp.          
           Các vị Khoa Trưởng trường YKĐHSG lần lượt          như sau:         1946-1950: GS Daléas         1950-1955: GS Charles Massias         1955-1967: GS Phạm Biểu Tâm         1967-1969: GS Ngô Gia Hy         1969-1970: GS Phạm Tấn Tước         1970-1971: GS Đào Hữu Anh         1971-1974: GS Đặng Văn Chiếu         1974-1975: GS Vũ Quí Đài         1975-                           
             GS Trần Xuân Ninh             
           Qua sự khuyến khích và giúp đở của các GS          Pháp, một số GS YKĐHSG đã qua Pháp tu nghiệp và trở về với bằng Thạc sĩ,          từ năm 1960-1963, nhận thấy có: GS Nguyễn Huy Can (Cơ Thể Bệnh Lý), GS          Lê Xuân Chất (Huyết Học), GS Đào Đức Hoành (Ung Thư), GS Bùi Quốc Hương          (Thần Kinh), GS Nguyễn Ngọc Huy (Tim Mạch), GS Ngô Gia Hy (Niệu Khoa),          GS Nguyễn Văn Út (Da Liễu), GS Trần Anh (Nhân Chủng Học). Trước đó có GS          Nguyễn Thế Minh (Nội Khoa).             
           Sau đó năm 1965-1966, từ Mỹ về trường gồm          có các vị: GS Đào Hữu Anh (Cơ Thể Bệnh Lý), GS Hoàng Tiến Bảo (Chỉnh          Trực), GS Vũ Quí Đài (Vi Trùng Học), GS Nguyễn Khắc Minh (Gây mê), GS Đỗ          Thị Nhuận (Vi Trùng Học), GS Bùi Duy Tâm (Sinh Hóa Học), GS Nguyễn Ngọc          Giệp (Sản Phụ Khoa).                     
             Y khoa Sài Gòn                         
           Tiếp theo, nhận thấy có : BS Trịnh Thị Minh          Hà (Nhi Khoa, Mỹ), BS Trần Kiêm Thục (Tiêu Hóa, Pháp), BS Trần Thế          Nghiệp (Quang Tuyến, Pháp), BS Liễu Thanh Tâm (Quang Tuyến, Pháp), BS Lê          Dư Khương (Giải Phẫu, Đức), BS Phó Bá Đa (Giải Phẫu, Mỹ). Nâng tổng số          nhân viên giảng huấn lên 91 người cho niên khóa 1967-1968, với 16 GS          thực thụ, 7 GS diễn giảng, 27 giảng sư, và 41 giảng nghiệm viên.                           
             Y khoa Sài          Gòn              
           Ngoài công việc giảng dạy, các nhân viên          giảng huấn YKĐHSG còn tích cực tham gia khảo cứu. Rất nhiều bài báo cáo          khoa học đã được đăng trên các báo y khoa quốc nội và quốc ngoại, những          bài này đã được liệt kê trong hai cuốn sách Travaux de Recherche          Scientifique I và II của GS Nguyễn Hữu và BS Nguyễn Văn Nguyên. Ngoài ra          một tài liệu quí giá khác cũng nên nêu ra là cuốn Bibliographie des          Thèses của GS Nguyễn Đức Nguyên, sách ghi lại đầy đủ tất cả các luận án          đệ trình tại hai trường YK SG và Hà nội từ khi thành lập tới năm 1972.          Trường cũng chủ trương một tờ báo y khoa tên là Acta Medica Vietnamica,          xuất bản mỗi tam cá nguyệt, số báo đầu tiên ra mắt vào năm 1957, chủ          nhiệm là GS Phạm Biểu Tâm. Báo được tiếp tục xuất bản cho tới năm 1975          thì ngưng hoạt động.                           
             Y khoa Sài          Gòn                
           Có thể nói tổng số BS ra trường tại YKSG từ          năm 1947 đến 1975 là khoảng 2380 người; trong số đó có Cầu Hai Gai trong hội đoàn NT/CVA6067.                           
             Y khoa Sài Gòn 67-74              
           Một con số rất khiêm tốn nhưng đã đóng góp          một phần rất lớn cho ngành Y Tế tại Việt          Nam.                                 
             Y khoa Sài Gòn nha sĩ                                                
             Y khoa Sài Gòn dược sĩ                                                
             Y khoa Sài          Gòn                                                 
             Y khoa Huế                                    
                                                      
                                                           GS Vũ          Công Hòe                                                           GS Đặng Văn Chung 
            
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.03.2012 15:20:16 bởi Ct.Ly >