Ngọc lịch
-
28.03.2012 19:48:46
TỪ - ÂN NGỌC - LỊCH MINH KINH
LỜI TỪA CỦA TÔ LAN TỰ NHƠN THU
Kinh Ngọc Lịch nầy , gốc thầy tu hiệu Đạm - Si, gặp thần Phật truyền bổn nầy, về giảng cho đời hiểu . Sau truyền lại cho đệ tử là Vật Mê đạo nhơn (thầy tu để tóc) lưu truyền đã lậu, giảng điều quả báo minh bạch .
Ngặt người đời, kẻ tỉnh ăn năn thì ít, mê mà không tin thì nhiều . Chê lành nhỏ mà chẳng làm, làm dữ nhỏ không sợ . Cũng có người : đã biết tội xưa, muốn chừa lỗi cũ . Chưa làm lành bao nhiêu, mà mong đặng phước gặp sẵn dịp dễ lắm liền cải lương tâm ! Trách chi ông thánh nói : ' Người khác hơn cầm thú có bao nhiêu !' Thiệt là phải lắm . Coi các vị giàu sang trên đời, đều có căn lành theo Ngọc Lịch,còn kẻ khó hèn, tuy tại tội kiếp trước, song cũng phạm trong Ngọc Lịch . Người sống bao lâu, ăn năn sao kịp ! Kinh Diệc nói :'Coi làm việc lành, xảy gặp phước tốt '. Kinh thơ nói :' Làm dữ cầu may ví như đạp nhằm đuôi cọp, hoặc đi trên giá mùa xuân, có khi tan ra nước mà sụp '. Lại nói : ' Làm lành, trời cho phước xuống, làm dữ, trời cho hoạ xuống '. Phàm làm người việc nào đã thấy trước con mắt chẳng sai, thì chớ lôi thôi lây lất . Tôi chưa dám chắc mình là không quê, song cầu cho khỏi tội nghiệp mà thôi .
Niên hiệu vua Gia Khánh, năm Kĩ Mão thánh 11 .
lỜI TỰA CỦA KIM - DẦN Ở HUYỆN TIỀN ĐƯỜNG
Người quân tử lập thân, làm việc nào mà không lành .
Miễn giữ theo lương tâm trời phú, cho khỏi tội với trời đất quỉ thần mà thôi . Nếu muốn làm gì thì làm, không sợ phép trời, chẳng tin báo ứng, thì càng ngày càng tệ, còn dạy nỗi gì ? Tuy ông thánh nói :' Làm lành trời trả phước, làm dữ trời trả hoạ .' Họ nói :' Lành không chắc phước, dữ không chắc hoạ '. Như vậy các án trốn khỏi lưới dương gian, chẳng là bỏ qua sao ? Đời tệ như vậy, người quân tử mới giảng làm sao ? Nay có kinh Ngoc-Lịch truyền ra, khắc bản tới lần thứ tư , dạy dự phòng nghiêm nhặt, giảng quả báo rõ ràng, ai đọc tới cũng giựt mình sợ tội . Làm lành tuy không cần phước mà có phước, làm dữ sợ hoạ cũng không
khỏi . Nếu không biết kiêng có trời soi xét, thì làm dữ luôn luôn . Xem kinh nầy mỗi việc coi như có thần biên tội phước, ở phải thì ngó trời đất,mình cũng không hổ thẹn là đủ rồi .
Niên hiệu Đạo -quang, năm Nhâm ngũ, tháng 9 .
LỜI DẶN CŨNG CỦA ÔNG KIM -DẦN
Kinh Ngọc -Lịch này, ghi xét công quả, phân biệt ngay gian,
linh hiển rõ ràng, quả báo trước mắt . Ai làm lành thì đặng phước, ai làm dữ thì mắc hoạ . Kẻ dữ mà ăn năn cải ác tùng thiện, lâu ngày cũng đổi hoạ ra phước . Lời dạy rẽ ròi, dẫu đàn bà con nít, nghe cũng hiểu mà giữ theo . Nếu ai không tin, gọi chuyện đặt điều, như phụ chiếc thuyền lành với mình cơn té sông, không chịu leo lên, thì phải bị chìm nơi biển khổ, sa Địa ngục đã lành rồi . Tôi ước ao cho các vị quân tử, để cuốn kinh này trên bàn, dựa đầu nằm, hằng ngày xem đọc, mắt thấy lòng ghê, thì răn mình không dám làm quấy . Như vậy thì hiệp theo lời thánh dạy, lành gặp phước, dữ mang tai . Nếu chừa lỗi làm phải cho trọn lành,
tôi mừng giùm lắm .
PHỤ TRẠ NIÊM HIỆU KINH NGỌC LỊCH
Thầy Đạm -Si là Hồ -Tăng sãi nước Hồ, nước Liêu .
Tên Kinh -Ngô, năm canh ngũ, nước Liêu, niên hiệu Thái Bình thứ mười .
Nhằm trào Tổng, vua Nhơn- Tông, niên hiệu Tiên -Thánh thứ
tám, năm canh ngũ, ngày trùng cửu . Đạm -Si đi núi gặp kinh Ngọc -Lịch .
KINH NGỌC -LỊCH
ÔNG TỬ HOÀNG LÀ THẦN ĐÔNG NHẠC DẠY :
Trời đất không tư vị, thần minh hay xét soi . Chẳng vị cúng tế mà cho lành, không trách thiếu lễ mà cho hoạ . Có quyền đừng ỷ thế lắm, giàu sang đừng xài phí lắm, nghèo khó đừng dối trá lường gạt tham gian . Bởi vì ba bực ấy, trời sẽ cho luân phiên xây vần, giáp vòng trở lại ban đầu như đồng hồ vậy . ( Nếu có quyền mà ỷ thế quá, thì mau hết thế, tới thất thế sẽ bị báo cừu . Giàu xài phí quá thì hưởng mau hết phước, trở nên nghèo mà chịu khổ . Còn kẻ nghèo nếu biết kiếp trước tội nặng, nay chịu trả quả, phải ăn năn thủ phận không dám làm quấy,hết vận bỉ, tới vận thới, trời cho trở nên khá nếu liều mạng gian tham,trí trá lường gạt giựt của chúng,là buộc thêm tội, trời phạt chồng án tới già, e để hoạ dư cho con cháu khổ nữa, vì phạt đời mình chưa hết ) . Cho nên mới làm lành một ngày, tuy phước chưa tới, mà hoạ đã lánh xa (như tai qua nạn khỏi ) . Hoặc mới làm dữ một ngày, tuy hoạ chưa tới, mà phước đã lánh xa (như sẽ gặp) sự may, mà khiến ăn trược ) . Người làm lành như vườn cỏ mùa mưa, tuy chẳng thấy lớn, mà càng ngày tốt tươi . Người làm dữ như đá mài dao, tuy chẳng hao, mà càng ngày mòn mổi . Phải nhớ mà răn lòng điều nầy, đừng làm những việc tốn của người cho đặng lợi mình, phải cữ kiêng cho lắm . Thà làm một mảy lành, tìm
phương giúp cho tiện sự người cơn bất tiện .Khuyên người chớ làm một mảy dữ . Ăn mặc tuỳ theo bổn phận, độ cho vừa sức mình tự nhiên vui vẽ, lựa là còn số mạng làm chi ? Xin xăm sủ quẻ bói khoa, mà hỏi hoạ phước làm chi ? Ta nói sự hoạ phước, chắc cho đời rõ như vậy ; khinh khi gạt người thì mắc hoạ, độ lượng rộng và hay dung người thì đặng phước . Nếu nghe lời ta mà ở theo, quỉ thần kính phục , thiên hạ kiêng vì .
BÀI BỬU CÁO DẠY BÁO ÂN
của Huyền Thiên Thượng Đế
Nếu đọc tụng, chừa các điều dữ, làm các điều lành thì khỏi hoạ .
Lạy ba lạy rồi tụng, hết rồi cũng lạy ba lạy .
Huyền nguơn ứng hoá . Võ khúc phân chơn, Thuỳ niệm ngã đẳng
chúng sanh, hữu tướng thoát sanh phụ mẫu . Hoài đam thập ngoạt, nhủ bộ tam niên, Tân khổ bá thiên, ân cần khốn niệm . Liên ngã phụ mẫu, nhựt tiệm suy hủ . Ngã kim trị niệm bình đẳng, tất diệt hiểm tuấn tham sâu, kỳ ân báo bổn . Nguyện ngã, hiện tại phụ mẫu, phước thọ tăng diên . Quá khứ phụ mẫu, tảo đắc siêu sanh . Đại thánh đại từ, đại nhơn,đại hiếu,Bát thập nhị hoá, báo ân giáo chủ hưu thành chơn với trị thế phước thần, ngọc hư sư tướng, Huyền thiên thượng đế kim khuyết hoá thân, chung kiếp tế khổ thân tôn .
Giải nghĩa kinh Báo ân của Huyền thiên thượng đế .
Đức Huyền thiên thượng đế, thương chúng tôi có cha mẹ ơn mang mển mười tháng, cho bú ba năm cay đắng trăm bề tấc lòng lo lắng nuôi con . Nay thương cha mẹ tôi càng ngày càng già yếu tôi nguyện tụng kinh này, thì lòng ở công bình ngay thẳng bỏ lòng độc hiểm, tham lam,giận hờn . Thờ Đức Huyền thiên thượng đế làm thầy : lại tụng cầu cho cha mẹ mà báo ân cội rễ . Nếu cha mẹ tôi còn sức khoẻ thì đặng sống lâu, nhờ trời thêm tuổi : còn như có mãn phần rồi thì được siêu thăng .
(từ ấy sắp sau là phước ngài dài lắm ).
MƯỜI ĐIỀU CẤM CỦA ĐỨC VĂN - XƯƠNG ĐẾ - QUÂN
1.___ Cấm chẳng ngay chúa (chủ), chẳng thảo cha mẹ bất nhơn, phi
nghĩa . Phải ngay chúa, thảo cha mẹ, ở thiệt tình với người .
2.___Cấm không đặng tính mưu kế lấy của người cho lợi mình . Phải
làm âm chất (âm đức ) mà cứu giúp thiên hạ .
3.___ Cấm đừng sát sanh mạng vật mà ăn, nếu trùng kiến vô cớ cũng đừng sát hại, là lòng nhơn với vật mọn .
4.___ Cấm tà dâm hoa nguyệt, giữ giới kỳ, là kỉnh
vía thần .
5.___ Cấm không đặng phá việc tốt của người, cho thất công người .
Đừng làm cho rời rã ruột thịt của người . Phải giúp bà con mình, anh chi em cho hoà thuận với nhau .
6.___ Cấm nói dèm siểm, chê bực tài hiền . Không đặng kiêu ngạo
khoe mình, phải khen tài năng sự phải của người . Còn mình có công lao không khoe, dùng xưng mình (giỏi khiem ).
7.___ Cấm say rượu, phải cữ thịt trâu, thịt chó . Phải ăn đồ hiền kiêng đồ độc, theo cách vệ sanh cho khỏi bịnh .
8.___ Cấm tham lam không nhàm, bỏ đãy buộc chặt không bố thí .
Phải giữ chữ cần kiệm, có dư mà giúp kẻ nghèo .
9.___ Cấm kết bạn với kẻ quấy, hoặc ở xóm tiểu nhơn, gần kẻ nết xấu, phải thân với người tài đức mà bắt chước .
10.___ Cấm không đặng bạ nói bạ cười, làm điều trái lẽ . Phải giữ mình ít nói, giữ theo đạo nghĩa đức hạnh mà ở .
ĐỨC VĂN XƯƠNG ĐẾ QUÂN DẠY RẰNG :
Loạn luân là bà con lấy nhau, phạt đoạ ngục Vô gián bị hành bào lạc 1.5OO lần, vì tội loạn luân nặng hơn tội tà dâm với người ngoài . (Bào lạc là cột đồng trống ruột cao 20 thước, đổ lửa than trong ruột cột đồng đốt cho đỏ, rồi quỉ sứ xiềng hồn tội cho ôm cột đồng mà đẩy lên, cháy tiêu thành than rớt xuống lại huờn nguyên hình như trước mà hành nữa cho đủ 1.500 lần). Nếu ai biết ăn năn trước, thì chừa lỗi, làm công mà chuộc tội, đừng phạm tội loạn luân dâm ác nữa.
Còn kẻ văn học đặt tuồng hoa nguyệt cho hát bộ hát, bài ca dâm, thơ dâm vẽ hình tục tĩu, hoặc in mà bán, làm cho ngươi tập thói dâm, hại hư phong hoá, hoặc
mướn hát tuồn dâm, đều bị tội nặng, thác cầm vào ngục Vô gián (Vô gián nghĩa là không hở). Giã , rồi xay, rồi bào lạc, rồi nấu dầu, hàng xây vần hoài không hở .
Gái trai hành như nhau .
Thầy Liên Trí hoà thượng nói :' Ai thấy tuổng dâm truyện dâm, hoặc đọc lời hoa nguyệt, xem hình ảnh tục tỉu, đều động tâm sanh ra dâm loạn . Những tuồng dâm như truyện Tây sương ký, đặt chuyện Trương quân Thoại với Thôi -Oanh -Oanh mà hát cho đời mê mẫn, thiệt không phải người tài tử với giai nhân mà làm nết xấu nguyệt hoa như vậy . Nếu các viên quan có quyền thế, đốt tuồng truyện ấy, hoặc huỷ diệt đi, thì được phước lớn vô cùng . Còn con người ai cũng muốn sống, vật nào cùng sợ chết, nỡ nào giết nó ăn thịt cho bố mình, đành đoạn chặt đầu lột da, thọc huyết cắt cổ, nhổ lông đánh vảy, bằm xắt luộc nướng, đau rát khó kêu oan ! Làm tội ác mà gây oan báo muôn đời, đến thác bị hành tội rồi còn phải đầu thai mà thường mạng nhiều kiếp . Sau đặng làm người, tật bịnh chết yểu, hoặc bị hùm tha rắn cắn đau bịnh hành hình thuốc độc, vân vân, đều bởi hay sát sanh mà khổ đó . Nay ta khuyên đời, chẳng phải biểu ăn chay trường hết, song khuyên trước cữ sát sanh . Nhà nào cữ sát sanh thì thần phật phò hộ, khỏi tai hoạ, ít bịnh, sống lâu, con thảo cháu hiền, đặng các điều may phước lớn, kể chẳng xiết . Nếu có của dư phóng sanh . thả rùa trạch chim cá, tụng kinh niệm Phật chẳng những hưởng phước thọ mà thôi, thác hồn được lên thiên -đường, hoặc về Tây - phương, khỏi luân hồi nữa, có đâu sa Địa ngục mà chịu hành hình . Ai có phước thấy lời ta khuyên, mau hồi tâm chừa dữ làm lành cho sớm, đừng để gần thác ăn năn không kịp Nếu làm chẳng đặng, cũng rán khuyên người '.
LỜI BỬU - HUẤN
của Ông Lữ Tổ (Lữ - đồng - Tân ) giáng cơ :
Con người linh hơn muôn vật . Sao người đời không biết thân mạng . Cứ biết một sự dâm ác . Sự dâm ác dầu vua chúa quan dân xưa nay đều bị hư hại, vì dâm ác mà quên nước, quên nhà, quên danh, quên mạng, không kể gươm đao nước lửa mà theo dâm ác, không cần thể diện, tội phước hại đến chừng nào ! Đức Văn -đế chỉ dụ :' muôn tội dữ, án tà dâm, đứng đầu ! ' Lạy dạy rằng :' Nếu có dâm ác thì hư trăm việc '. Hai câu ấy thật hay lắm, quả lắm ? Người đời thái quá tới loạn luân không cần lớn nhỏ cũng vì thói tà dâm ! Không kể thân mạng, thể diện, danh giá, tiền của cũng vì tà dâm ! Không rõ vì cớ nào thói tà dâm truyền nhiễm khắp thế gian như vậy ! Song bọn ấy có kẻ mắc hoạ, có kẻ tuyệt tự, xuống âm ti còn bị ngục hình, Các người giữ lòng tự nhiên sạch, mới là đáng bực anh hào . Chẳng nói làm chi đến bực thượng sĩ là khó đặng, miễn các người chừa lỗi cũ, thì thờ thần cầu vái mới linh, khỏi thác yểu cho trọn danh con thảo, và dạy con cháu em út tập theo gương tốt của mình . Lời ngay phải chịu nghe, thuốc đắng phải lo uống . Các đệ tử khá nhớ đừng quên ! Nếu mình ngay khỏi phạm thì biên lời ta khuyên đây mà dán trên vách cho em út con cháu coi, kẻ khác cũng thấy mà sửa nết .
Thương mạng vật thì sống lâu . Tiếc cơm gạo mà giàu được . Trọng giấy chữ thì làm quan . Dè lời nói thì đặng phước . Làm gương tốt cho cháu con . Đừng phạm tội nơi trời đất .
LỜI DẠY CỦA CỬU - THIÊN TƯ -MẠNG TÁO -QUÂN
Ta tuy coi sổ cái tại Cửu thiên, mỗi năm 24 tháng chạp tâu một kỳ . Song mỗi nhà điều có Táo quân thay mặt cho ta, mỗi tháng chạy tờ công quá mỗi người cho ta gài vào sổ chánh . Ta chẳng nỡ cho đời phạm tội vì lầm lỗi, nên dạy sau đây : Cấm đốt giấy chữ trong bếp, vì sợ tro ấy nữa đổ nhằm chỗ dơ . Cấm ca, khóc, hoặc chửi rủa, mắng nhiếc trong bếp . Chẳng nên đâm hành tỏi trong bếp, hoặc bửa củi trước bếp . Cấm bỏ lông gà, xương thú, củi dơ trong bếp ( ngồi chồm hổm ngay bếp ), hoặc quét động vô bếp . Cữ ăn thịt trâu, thịt chó, thì trong nhà bình an . Nếu ai loã lồ trong bếp, thì phạt nặng . Nhứt là cấm gõ gạc trên bếp, cạo dẫy chảo nồi trên bết .
TÍCH ĐÔI LIỄN ÔNG QUAN - ĐẾ
Tại phủ Hàng châu, tỉnh Chiết giang, có người Tú tài Trương đại Mỹ, ở phía tả núi Ngô san, thuật chuyện rằng : Hồi ta tắt hơi, hồn đến ngoài thành Phong đô vào lạy Quan đế mà khóc . Quan đế hỏi :' Tới số thì thác, lạy khóc ích chi ? Ta bèn tâu :' Tôi cũng biết thác rồi không lẽ sống lại song thương mẹ già không ai nuôi, nên đau lòng mà khóc . Quan đế nói :' Như vậy để ta tâu cho ". Giây phút kêu ta mà nói :' Ta đã tâu rồi, Thượng đế khen ngươi có hiếu, cho sống thêm một kỷ (12 tuổi).' Liền cho ta uống một chén nước trà dạy rằng : ' Chùa ta khắp trong thiên hạ treo liễn rất nhiều, song không vừa ý ta, nên ta đặt một đôi liễn như vầy đây, ngươi coi cho nhớ, về mà truyền thiên hạ '. Ta coi thấy :
Số định tam phân, phò Diêm hán, tiễu Ngô phạt Ngụy, tân khổ dị thường, vị liễu bình sanh sự ngiệp ;
Chí tôn nhứt thống, tá Hi triền, phục ma đảng khấu oai linh phi chấn, chỉ huờn đương nhựt tinh trung .
Thích nôm :
Số trời định ba phân phò Diêm hán, đánh Ngô dẹp Ngụy, cay đắng nếm đều, sự nghiệp bấy lâu chưa dứt .
Lòng ta thâu một mối, giúp Hi triều, trừ yêu dẹp loạn, oai linh dậy khắp, tình trung thuở ấy vừa xuôi .
Ta đọc thuộc rồi, lạy tạ ơn Quan đế cho hồn ta về nhập xác, sống lại biết đã liệm rồi . Ta liền kêu lớn, bảo giở nắp săng cho ta ra . Ra rồi thuật chuyện vân vân, té ra quên hết nửa câu liễm trước ! Cặp con mắt lại không thấy đường ! Giây phút nghe gõ cửa, mẹ ta chạy ra trước thấy người bận áo xanh, đưa phong thơ mà nói rằng :' Xin trao thơ nầy cho con bà xem '. Mẹ ta nói :' Con tôi bịnh con mắt, coi thơ sao đặng ? '
Người áo xanh nói :' Ấy là toa thuốc, bà trao cho mau '. Mẹ ta đem vào trao liền . Ta xé thơ ra xem thử thấy chăng ? Té ra mắt sáng như xưa, coi rõ là nửa câu liễn trước ? Kẻ xa người gần, đều lấy làm lạ ! Hứa triệu Đình ở Nhơn hoà nghe ta đọc liền biên đôi liễn ấy, khắc treo tại chùa Ông núi Ngô san, lại có khắc một tấm bảng thuật chuyện sự tình đôi liễn, mà treo trước cửa chùa, cho kẻ có hiếu xem, kẻ bất hiếu biết chừa lỗi . Xin rán lưu truyền .
KINH NGỌC - LỊCH của Thập ư Vương dọn kiểu, Thượng đế có phê, cho truyền trung giới, cải ác tùng thiện .
Nguyên ngày ba mươi tháng bảy . Địa Tạng vương bồ tát ăn vía sanh, bởi ngài làm chức U minh giáo chủ cai trị mười vua thập điện . Nên bữa vía ngài, thập vương với các vị thần đều đến chầu mừng .Địa Tạng vương phán rằng :' Ta muốn siêu độ chúng xanh, nên mỗi năm ngày vía nầy, ta truyền ân xá các phạm tội nhẹ được đầu thai, tội nặng thì giảm bớt . Ngặt người đời làm lành có ít, làm dữ rất nhiều, ta thấy thập vương các ngục hành hình thảm thiết ! Vậy phải tra xét cho kỹ, những ai tại dương thế biết ăn năn chừa lỗi, có khuyên đời làm một hai điều lành, thì trừ bớt tội cho nó '. Thập vương tâu :' Chúng tôi y luật hội nghị '. Nếu ai làm lành tự nhỏ đến già, thì đưa lên cõi thần tiên . Còn kẻ nào công quả bằng nhau, khỏi hành tội, đặng đầu thai kiếp khác như thường . Nếu công ít, quả nhiều, thì hành tội tuỳ theo dư quá nhiều ít, rồi cho đầu thai kẻ khó hèn . Nếu biết chừa lỗi làm lành kiếp sau sẽ cho đầu thai hưởng phước . Nếu còn làm dữ nữa, sẽ bắt xuống hành hình, rồi cho đầu thai cùng khổ đáo để, sống chịu hoạ tai, đến thác sẽ giam vào Địa ngục không đặng luân hồi nữa . Còn kẻ quá ít, công nhiều, trừ còn dư công, thì đặng đầu thai hưởng phước giàu sang trường thọ . Trừ ra tội bất trung là phản chủ, bất hiếu với ông bà cha mẹ, hoặc là liều mình ( tự vận ), hoặc sát sanh thái quá không tin luân hồi báo ứng . Cứ nói theo tục ngữ :' Người thác thì hồn phách tiêu tan hết, bỏ xác thúi rồi, còn hồn đâu mà bị hành tội nơi âm phủ . Thường thấy người sống bị tội, nào thấy ma chết mang gông, chết rồi thì thôi, còn biết sự gì nữa ! '.
Mấy lời ấy quê lắm ! Tuy thác thời bỏ xác, chớ linh hồn con hoài, sống làm dữ bao nhiêu, thì thác bị hành tội bấy nhiêu . Mấy kẻ bày đặt nói trước, cho người không tin âm phủ, thì đã bị Vô gián địa ngục, không đặng đầu thai . Người đời tuy thấy kinh sách tam giáo giảng dạy, song không tin, rất uổng công tiên Phật thánh thần dạy bảo . Trăm người không có một người tin mà cải ác tùng thiện, nên phải lập thêm địa ngục mà hành hình mới đủ . Nay Bồ tát thấy vậy mà thương, truyền chỉ thế giảm . Chúng tôi cũng vưng lời, cho các người dữ chịu hồi tâm, ngày vía Bồ -tát với các ngày vía chúng tôi, ăn chay thệ nguyện thiệt tình ăn năn, cải ác tùng thiện, không dám làm dữ nữa, rán sức làm một điều lành chi đó, sau thác xuống hồn khỏi bị hành tội . Trừ ra tội tôi chẳng ngay, con chẳng thảo, hoặc giết mình, hoặc làm mưu mà gạt người lương thiện đến nỗi phải bị trời đánh, chết trôi, chết thiêu, cọp ăn, rắn cắn, thì hồn xuống âm phủ phải chịu hành phạt, song cũng chế giảm một bực vì sự ăn năn chừa lỗi . Nay chúng tôi truyền các phán quan biên hết các sự tội phước, sống làm điều lành nào, mà được phước chi, làm điều dữ nào, thác bị hành ngục chi, ai ai nghe qua cũng hiểu, để dưng cho Bồ -tát xem . Đợi gặp ai cho đức hồi dương, sẽ lưu truyền cho thiên hạ '.
Khi ấy phán quan điện nào, biên theo điện nấy, thành ra bổn Ngọc -lịch, dưng cho Địa -tạng vương xem, Ngài khen hay .
Qua mùng ba tháng tám, Người với thập vương chư thần đồng dưng Ngọc -lịch cho Thượng -đế ngự duyện Thượng -đế phán rằng :' Hay lắm ! Từ nầy chư thần rán xem xét, người đời nguyện chừa lỗi không phạm nữa, làm một sự phước thì cho trừ hai tội cũ, năm điều phước cho trừ hết tội xưa, lại đặng ghét làm siêu độ cho thân quyến nữa, trai đặng đầu thai phú quí, gái đặng đầu thai làm trai Thành hoàng Táo thần tuân chỉ '.
VUA TẦN QUẢNG NGỰ ĐIỀN THỨ NHỨT
Làm điều lành nào, được thưởng phước,kể ra sau đây :
1. Lượm giấy chữ nho, đốt trong trả, đổ tro xuống sông, thì được con thảo cháu hiền . Nếu đốt trong bếp thì có tội .
2. Đốt các thơ truyện hoa nguyệt, cho khỏi hư phong tục , hoặc làm lành làm phước, đều hưởng phước và sống lâu .
Làm điều dữ chi, phạt tội gì, kể ra sau đây :
1__ Liều mạng giết mình, cho người mắc hoạ phạt làm ngạ quỉ (ma đói).
2__ Các sãi ăn của thập phương mà tụng kinh thiếu, hoặc chịu của người công đức mà tụng kinh thiếu, đều phải tụng bổ lại .
Tần quảng vương cầm sổ sống thác, trị việc âm phủ . Đền ở tại dưới biển lớn, chánh hướng tây theo đường Hắc đạo suối vàng . Phàm người lành mãn phần, thì cho người tiếp dẫn lên Thiên đường, hoặc về Tây phương . Còn ai công quả bằng nhau, thì qua cửa thứ mười cho đầu thai hoặc gái làm trai, hoặc trai làm gái, mắc nợ nần thì trả quả cho nhau . Nếu công ít quả nhiều, thì dẫn ra phía hữu cái đền, lên đài Nghiệt Cảnh mà soi .Đài cao 11 thước mộc, treo kiếng lớn mười ôm, day mặt qua hướng đông, trên đề bảy chữ rằng :' Nhiệt cảnh đài tiền vô hảo nhơn '. Các hồn soi thấy bình sanh việc chi, đều ứng đủ lớp lang như hát bóng,
nên chối không được . Tới đó mới hay rằng .' Muôn lượng vàng ròng đem chẳng đặng, cả đời bản có tội theo mình '. Soi kiếng làm án rồi, sai quỉ giải hồn qua cửa thứ nhì, cầm ngục hành tội . Người không kể cha mẹ sanh thân vì sự tức mà tự vận thắt họng, trầm mình, uống thuốc độc, hoặc kiếm cớ chi mà liều mình, không đợi tới số đòi hồn mà chết về nghiệp giết mình (trừ ra vì trung hiếu tiết nghĩa mà giận lẫy, hoặc bị phạm tội sợ hành, tội chẳng đến chết, hoặc muốn liều mạng mà hại người mắc hoạ : làm như chơi mà ra chết thiệt cho người mắc hoạ : các hồn chết về nghiệp ấy, Táo quân với chư thần, bắt hồn giải đến cửa đền nầy, giam vào ngục ngạ quỉ, gặp ngày tuất ngày hợi, thì phải làm cách liều mình ấy, cầm 70 ngày, hoặc một hai năm, rồi dẫn hồn về ở chỗ liều mình gia quyến có cúng thì được về ăn, đốt vàng bạc giấy áo thì đặng lãnh . Nếu biết lỗi không hiện hình nhát người, hoặc không bắt ai mà thế, đợi mấy người trên Dương gian bị làm nhơn mạng đặng khỏi hoạ, thì chư thần giải hồn ấy đến đây, sẽ giải qua cửa thứ nhì tra công quả, nếu trừ rồi dư quá bao nhiêu thì hành tội và giải qua cửa khác hành nữa .
Còn khi sống mà lòng mong liều mạng đặng hại người, hoạc hăm làm nhơn mạng cho ai, tuy liều mình mà chưa chết, cũng ghi lòng tội hành hình, tu có làm lành cũng trừ tội ấy không đặng . Lúc hồn còn ở chỗ liều mình, mà hiện hình làm ma nhát cho chúng sợ mà chết, thì sai quỉ mặt xanh nanh vút bắt hồn xuống hành tội cho đến kiếp, rồi cầm ngục mãi không cho đầu thai .
Còn các thầy chùa, thầy pháp, thầy tu, người ta mướn tụng kinh mà tụng thiếu sót, chừng hồn xuống đây phải ở sở bở kinh, chỗ ấy có đủ thứ kinh, cho đèn lưu ly mờ mờ, mà tụng cho đủ các chỗ thiếu hồi đó .
Dầu thầy chơn tu cho mấy cũng phải bổ cho đủ vì tiền người . Nếu kẻ tu tại gia tụng cho mình, có sái chữ đọc thiếu cũng không chấp, trọng tại có lòng thì đặng phước khỏi tụng bổ .
Ngày vía vua Nhứt điện là ngày mồng một tháng hai, nếu ngày ấy ai ăn chay, đặt bàn trở về mặt hướng bắc, nguyện không làm các điều dữ, đọc trải qua bài này một bận, hoặc in Ngọc lịch mà cho thiên hạ, cải ác tùng thiện, đến mãn phần trăm sai thanh y đồng tử rước hồn đem về Tây phương .
VUA SỞ GIANG NGỰ TẠI ĐIỆN THỨ NHÌ
Các điều lành đặng phước, kể ra sau nầy :
1. Bố thí cơm cháo, được hưởng phước giàu có
2. Thí thuốc cứu người, đời đời giàu sang .
Các điều dữ bị hành tội, kể ra sau nầy :
1.Ban đêm tính việc quấy, phạt vào ngục Hắc vân sa cho mây đen đè mình, vùng không đặng .
2. Các viên quan ăn hối lộ, đánh ép kẻ ngay, bắt chịu án oan, phạt
giam hoài trong tù xa, ló cổ ra mà chịu .
3. Dỗ dành con nít làm quấy, bị cầm ao giá lạnh . Sở giang vương ở dưới đáy biển nam, địa ngục rộng năm trăm dặm do tuần, gồm 16 cái
ngục nhỏ, kể ra đây :
1. Ngục Hắc vân sa
2. Ngục Phẩn thỉ nê, Phẩn
3. Ngục Ngũ xa, đâm
4. Ngục Cơ ngạ, đói
5. Ngục Tiêu Khát, khát nuớc
6. Ngục Nung huyết, máu
7. Ngục Nhứt đồng phủ, 1 chảo đồng
8. Ngục Đa đồng phủ, nhiều chảo đồng
9. Ngục Thiết đối, cối xay sắt
10.Ngục Bân lương, đong lường
11. Ngục Kê trác, gà mổ
12. Ngục Khôi hà, ao tro
13. Ngục chước triệt, chặt khúc
14. Ngục Kiếm diệp, gươm lá
15. Ngục Hồ lang, cáo, chó sói
16. Nguc Hàng băng trì, ao giá
Nếu phạm tội dụ dỗ trẽ nhỏ, cạo đầu vô chùa làm sãi, làm cô vải ;
hoặc còn nhỏ tự ý cạo đầu vô chùa đi tu bỏ cha mẹ, mang tội bất hiếu ;
hoặc ai gởi thơ ( kinh sách ) hoặc đồ đạc, cố ý nói làm mất mà làm của
mình hoặc làm hại tai mắt tay chưn người ; không biết coi mạch làm thuốc bướng hại người mà lấy tiền : hoặc nhà giàu bất nhơn mua mọi gái, sau người chuộc lại mà không cho : hay là làm mai ham ăn của mướn giáu tuổi, tráo tuổi, rõ biết gái trai có tật bịnh, gian giảo, mà nói gạt người sau chúng nó bị tức tối : các tội kể trên đó, tuỳ theo nặng nhẹ, giam vào 16 ngục hành cho đáng kiếp, rồi giải qua cửa thứ ba hành nữa .
Nếu ai giảng Ngọc lịch, hoặc in cho thiên hạ, hoặc thấy kẻ bịnh nghèo mà cứu giúp, hoặc bố thí cơm cháo gạo tiền, hoặc biết ăn năn chừa lỗi, thì cho trừ tội trước khỏi tính trước khỏi tính, được qua cửa thứ mười đi đầu thai làm người .
Nếu cữ sát sanh, cấm con cháu không giết trùng dế và đến mồng một tháng ba là ngày vía trẫm ăn chay nguyện phóng sanh, sau khỏi bị đoạ địa ngục được qua cửa thứ mười đầu thai hưởng phước .
Xưa nay lượm giấy chữ thì sống lâu, ai cũng rõ biết . Nếu đạp giấy chữ, chẳng hề hưởng giàu sang phước thọ bao giờ . Như việc buôn bán đồ thiệt tốt giá vừa phải thì nhiều người mua,lựa phải dán lời rạo, vậy cho chúng tin miếng giấy áp tới mua nhiều sao ? Huống chi dán nơi vách tường, mặt chợ mới, coi tử tế, lâu gió mưa rớt xuống bùn lấm ướt nhẹp, kẻ muốn lượm cũng không thể lượm được . Cho đến chỗ dơ, thấy đầy những cán dù, cán viết, miểng sành, giầy guốc, đều cũng có chữ trong đó, kẻ trong chữ nghĩa, cũng không thế lượm cho hết . Nên ta khuyên đời phải xét cho kỹ, mà khuyên nhau rằng :' Giàu nghèo có phần số mạng, không phải tham mà đặng nhiều . Muốn đặng phước thì trước đừng làm tội . Nếu làm tội như vậy sao đặng nên giàu có ? Nếu tin lời ta, thì đừng dán lời rao chữ nho . Các món vật dụng đừng viết nho in chữ nho vào đó . Tự nhiên không cầu lợi mà lợi nhiều, chẳng cầu phước mà phước đến, là vì trọng chữ nho, không đụng đâu để đó .
VUA TỐNG ĐẾ NGỰ ĐIỆN CỬA THỨ BA
Làm lành được phước :
Làm cầu, sửa cho thiên hạ đi, thần thường phò hộ .
Làm dữ phạt tội :
1. Giết người mà cướp của, bị cọp nhai
2. Đoạt thơ của người không đem tới, bị bắn .
3. Làm mưu giết chồng, hại chồng bị phân thây xẻ thịt .
4. Đốt nhà hoặc săn bắn bị bào lạc .
Tống đế vương, đến tại đáy biển đông nam . Địa ngục rộng năm trăm dặm do tuần, chia ra 16 ngục nhỏ, kể ra sau nầy :
1.___ Ngục hàm lỗ nước mặn .
2.___ Ngục mà huờn dà nu, gông xiềng .
3.___ Ngục xuyên lặt, đục sườn .
4.___ Ngục đồng thiết, quát hiểm, nạo mắt .
5.___ Ngục quát chỉ, nạo mỡ .
6.___ Ngục kiềm sài tâm cang, móc gan tim .
7.___ Ngục khối nhãn, móc mắt .
8.___ Ngục sản bì, lột da, căng da .
9.___ Ngục nguyệt túc, cưa cẳng .
10.___ Ngục bát thủ cước giáp, rút móng .
11.___ Ngục hấp huyết, hút huyết .
12.___ Ngục đảo điêu, treo ngược .
13.___ Ngục phân ngung, sả vai .
14.___ Ngục thơ hoa, ăn giòi tửa .
15.___ Ngục kích tất, đập đầu gối .
16.___ Ngục ba lâm, mổ trái tim .
Làm quan không biết ơn vua, không đạo tôi : dân không lo sưu thuế cho nhà nước : vợ phụ bạc chồng, lộn chồng bỏ chồng, trốn chồng hỗn với chồng, hồi nhỏ cha mẹ đã chịu cho người nuôi làm con, lớn bỏ cha mẹ nuôi mà cãi họ lại, đầy tớ phản chủ thơ -kỳ quân lính ở bạc với người làm đầu (quan thầy của mình ) : kẻ làm công ăn gian chủ tiệm ; tù vượt ngục, bị đày mà trốn, hại người bảo lãnh và quan cai trị trong sở, hoặc làm cho người thân bị khổ ; không biết ăn năn chừa lỗi, trừ công còn dư quá thì hành ; cứ theo địa lý để quân lâu, hoặc cữ không cho làm mả, hoặc bày cải táng đào mả lấy cốt tồi tàn, hoặc không đắp mả ông bà cha mẹ để loạn lạc ( xiêu mồ lạc mả ) : dụ người làm phạm luật ; xúi chúng kiện cáo làm thơ rơi giấu tên, hoặc dán lời kiêu ngạo mà giấu tên, hoặc dán lời nói xấu tiết cho con gái, phá đám hôn nhơn ( cưới hỏi ) mà giấu tên ; hoặc viết thơ hồi, tờ để : làm giấy tờ giả mạo ; đòi tiền bán chịu rồi mà chẳng dỉ sổ, hoặc trả nợ rồi mà không cho giấy không xé giấy : tập ký tên giả, khắc con dấu giả ; sửa số bạc tiền trong giấy tờ, đều làm hại người, các tội kể ra đó, tra ra nhẹ nạng, sai quỉ Đại lực giam vào khám lớn, tùy theo tội, dẫn vào các ngục nhỏ hành cho đủ số rồi giải qua cửa thứ tư mà hành theo các ngục khác .
Nếu ai nhớ ngày vía trẫm, là mồng 8 tháng 2 hay ăn chay nguyện vái không phạm các tội kể trên đó nữa lo việc làm lành mà trừ, sau thác xuống khỏi bị ngục nầy .
Thầy Nguơn Hiền thiền sư đặt bài khuyên đừng ủ con gái . Mạng người là trọng, nên phép nước nghiêm trị việc án mạng (nhơn mạng) . Nếu làm mưu làm hại oan, dẫu trốn khỏi tội Dương gian trời cũng hại mau lắm . Bởi cái mưu giết người, là lòng độc ác, mang tội nghịch thiên là trái lòng ưa sống của trời . Kíp chầy cũng trả chẳng tha . Người đời làm cho loại chí một hồi, sau an8 năn không kịp . Nay nhiều kẻ phạm tội dương gian âm phủ, nhứt là tội ủ con gái ! hoặc ủ con chửa hoang ! Tuy việc ấy là kẻ ngu hay làm, song quen thói rồi, nhiều nơi bắt chước . Bởi cớ ấy trời bớt số giảm kỷ, hoặc phạt cùng mạt tuyệt tự (không con trai ) . Nói chi đầu thai kiếp khác thường mạng là luật chung . Nghĩ thử nó đầu thai làm con, mà đền ơn cho mình, nỡ nào mà giết con cho đành đoạn ? Huống chi kẻ vô hậu, cầu có chút gái còn khó thay, như vậy đủ biết phước nhiều thì có trai, phước ít mới có gái, còn vô phước thì không có con chi hết . Mình phải răn lòng sát hại làm phước mà cầu trời cho sanh trai, vì muốn kế tự, thì phải tu nhơn tích đức . Độc ác con gái chửa hoang, sanh ra thì quyết giết ! Sao không biết xét, rất đỗi kẻ vô hậu còn nuôi con nuôi thay ! Huống chi máu thịt của mình trong bụng sanh ra, cũng lập thế mà nuôi như kẻ nuôi quá phòng vậy, thì khỏi mắc oan nghiệp . Nếu không chừa lỗi độc, thì bị tuyệt tự, trông chi sanh đặng con trai . Người quân tử có nhơn, rán khuyên đời mà cứu nhiều mạng, thì âm đức lớn lắm .
VUA NGŨ QUAN NGỰ CỬA ĐIỆN THỨ TƯ
Làm lành hưởng phước :
Thí quan tài và đồ liệm, thì nhà có thần phò hộ .
(Phong Sắc xin thích nghĩa khoảng nầy : bởi kinh Ngọc lịch tàu có in hình, khoảng nầy có vẽ cái trại thí hòm, có chất hòm, nhiều người đến khiêng những hòm thí . Các sãi dốt không biết, bổn đạo thấy vẽ hình như thế, thì hỏi hòm gì nhiều vậy ? Sãi dốt nói bướng rằng : Ai chết rồi hồn phải đem cái hòm của mình mà nạp cho vua Tứ điện . Nên chôn hòm nhẹ, dễ nạp, nếu hòm lớn khổ cho vong hồn đẩy không nổi ! Bó bảy tấm vạc nhẹ nhàng dễ vác ! Ôi, bổn đạo quê cũng nghe theo lời ấy, mà trối với con cháu, sợ chôn hòm lớn ! Lưu truyền lời phi lý tới nay ! Vì sãi dốt bày nói sàm một chút, để hại kẻ dốt muôn đời ! Sao không biết xét cho kỹ vua thứ tư thâu hòm ấy mà làm chi ? Mấy muôn triệu hòm chỗ đâu mà để ? Vả lại hồn ma mà chuyển vận đồ hữu hình sao đặng, gọi đẩy hòm nạp quách là nghĩa gì ? Nếu cực khổ như vầy sau còn gọi kẻ thí hòm được phước có thần lành phò hộ ? như vậy một lời nói bậy, tổn đức biết chừng nào ? Làm cho kẻ dốt nghe lầm, chôn cất tức tưởi không ấm cúng ! Muốn cho kẻ dốt khỏi lầm, nên tôi phải giải cho rành, may người dốt tỉnh lại . Nếu nạp hòm hết, sao lại lấy cốt còn hòm ? ? ?)
Làm các điều dữ mắc những tội, kể ra sau đây :
1. Giạ già giạ non, đong nhẹ đong nặng, lòn thăng tráo đấu gian lận, hoặc bán lúa tưới nước, đều bị cối đạp giã, cho chó ăn .
2. Cân lận, bị móc lưng treo hoài . Đo lận cũng phạt vậy .
3. Không kính người lớn tuổi, già cả, lường gạt giựt của người, vay mượn chẳng trả, du thủ du thực hoang đàng, không giữ bổn phận, háo sắc tà dâm, lấy vợ người, ngoại tình huê nguyện, ngã mặn và tội ăn vụng, say rượu, bài bạc, trùm đĩ nhà chứa điếm, rủa chửi, trù ếm du đãng, chọc ghẹo phá hại người hiền, đổ đồ dơ uế xuống sông, phơi quần áo dơ giọt bóng tam quan là mặt nhựt mặt nguyện, yến sao, hoặc dơ uế mà lên chỗ thờ phượng hoặc vào bếp núc : Các tội kể trên đó đều xô xuống Tát trì là (huyết ô trì) ao huyết dơ mà lặn hụp, tuỳ theo tội nhiều ít, phạt ở lâu mau .
(Ấy là chánh kinh Ngọc lịch như vậy, kẻ sau muốn răn phụ nữ, bày ra kinh huyết hồn, mà cấm sự nhơ uế nơi tam quan, hoặc giặt dưới sông, hoặc vào trong bếp mà dạy đờn bà con gái . Kẻ dốt tin thiệt có tụng thì khỏi đoạ huyết ô trì . Kẻ dốt nữa thích nghĩa rằng : con gái đàn bà có đường kinh, hoặc chửa đẻ, đều bị xuống huyết ô trì hết thảy, nên có kẻ quê tụng kinh huyết hồn cầu mẹ khỏi tội ! Lưu truyền lâu đời, đàn ông ít học cũng tụng nữa ! Sao không thông lý, tại trời sanh phụ nữ phải có sự ấy, mà còn bị tội là nghĩa gì ? Thầy chùa xưa có học, thông hiểu chỗ đó, bày đặt thơ Hứa sử nói nhờ Hứa sử xin vua Tử điện tha tội ấy . Nói vậy trời đất còn lầm sao ? Thua Hứa sử sao ?)
Ngũ quan vương ở dưới đáy biển đông, nội cõi ấy rộng năm trăm dặm do tuần 1 dặm do tuần tròn giáp vòng 240 dặm, bề ngang mặt băng gian, là ngang giữa trung tâm 80 dặm . Còn mỗi dặm là 360 bộ, bộ là bước đôi, mỗi chưn một bước, nên một bộ là 5 thước mộc, như vậy 1 dặm là 1800 thước mộc . Còn 1 dặm do tuần bề ngang xuyên tâm đo 80 dặm là 144.080 thước mộc . Như vậy 580 dặm do tuần giáp vòng đo ra 72.000.000 thước mộc bề ngang mặt xuyên tâm 24.000.000 thước mộc . Lập 16 ngục nhỏ :
1. Ngục Tát trì là huyết ô trì .
2. Ngục Vụ liêng trước tim, xiềng, với tâm để xăm .
3. Ngục Phi thanh kiên thủ, xối nước sôi
4. Ngục Chưởng trướng lưu dịch, vả mặt sưng .
5. Ngục Đoạn cân tích cốt, chặt gân xương
6. Ngục Yễn kiên sát bì, khứa vai lột da .
7. Ngục Đoan phu, khoan da thịt
8. Ngục Tổn phong núi chim trĩ mổ .
9. Ngục Thiết y, bận áo sắt
10. Ngục Mộng thạch thổ ngoa yễm, cây, lá dẳn .
11. Ngục Lục nhãn, khoét mắt .
12. Ngục Phi khôi tắc khẩu, tro vô lấp miệng .
13. Ngục Quán dược, đổ thuốc độc .
14. Ngục Du đậu hượt diệt, trợt nhớt té,
15. Ngục Thích chỉ, xâm miệng .
16. Ngục Tốt thạch mai thân, chôn đá vụn .
Những tội trốn xâu lậu thuế; nói ngược lúa ruộng, nói ngược nợ, cân ăn gian; bán thuốc giả; bán gạo mắc nước; làm bạc giả, ăn gian ăn bớt bạc vàng; bán hàng lụa nhiễu; bán vải mỏng mà hồ gọi dày, đi đường không nhường tránh kẻ tật nguyền, hoặc người già, trẻ nhỏ nhít; lập mưu thần mà đoạt nghề kẻ buôn gánh bán bưng, cho mất sở làm ăn kẻ cùng khổ mà thủ lợi; lãnh thơ không đưa cho sớm, để trễ hư việc người; ăn cắp cạy gạch lề lộ, hoặc rót trộm dầu đèn ngoài đường; nghèo không giữ bổn phận, sanh ra gian giảo, giàu bất nhơn, không thương kẻ nghèo, hứa cho mượn cho vay, đến kỳ không cho, hại hư việc người; thấy người nghèo bịnh, trong nhà có thuốc hay mà không cho; giấu phương thuốc hay, sắc ra bán thuốc nước không cho thấy xác, không chịu truyền cho ai; quăng miểng sành miểng chai, gai chông ra đường đi; thả súc vật ỉa dơ đường sá; để bụi gai góc sầm uất cho hư vách rào của người; trù rủa ếm đối, hăm hoạ chúng; các tội ấy đều tuỳ nặng nhẹ hành tội các ngục, giải qua Ngũ điện .
Ngày vía trẫm 18 tháng hai, nếu ai ăn năn ngày ấy ăn chay thề nguyền không dám phạm các tội ấy nữa, lo làm lành tu bỉ sau khỏi hành các ngục nầy, nếu thêm việc nhơn quả kể sau Ngọc lịch để cho người coi mà cải ác tùng thiện, người ăn năn chừa lỗi khỏi tội thì có công có phước .
Nếu thấy ai bị tai nạn ngặt nghèo, mình có thể cứu mà làm hiểm bỏ qua, hoặc quên ơn bạc nghĩa hoặc cố oán quyết hại cho đặng, đều là lòng độc ác : tuy tụng kinh làm lành bố thí thác rồi khỏi hành các ngục mà thôi, chớ không đặng đầu thai hưởng phước phạt làm quỉ mị yêu tinh, như hồ ly mãng xà, mấy năm, tuỳ theo lòng độc nhẹ nặng . Nếu biết lỗi không dám sanh sự hại đời, thì thâu hồn về cho đầu thai phú quý . Như hiện hình nhát chúng khuấy đời, đáng tội thì bị Thiên lôi đánh hoá ra con Tích, thì hết đầu thai lâu tiêu hồn mất .
Phàm các quân binh đánh giặc, kể từ ngày đi đánh, hết lòng hết sức vì nước, không hãm hiếp ai, không đốt nhà dân giả; dầu tử trận hồn xuống điện này, dẫu có các tội xưa cũng bỏ qua hết, vì đặng chữ trung lương mà trừ, giải đến cửa thứ mười, cho đầu thai hưởng phước . Nếu đánh lộn sanh tử mà chết, hoặc theo kẻ làm phản, đều bị tội gia bội hành hình theo các lỗi bấy lâu .
VUA DIÊM-LA NGỰ ĐIỆN THỨ NĂM
Làm các điều lành được phước :
1. Nhiều năm bố thí dân nghèo, con cháu nối đời, giàu có
2. Thí lúa gạo, cơm cháo, con cháu thi đậu làm quan lớn .
Làm các điều dữ mắc hành tội :
1. Tội bất hiếu với ông bà cha mẹ, bị chém ngang lưng đứt hai.
2. Đổ cơm cháo đồ ăn, bỏ cơm cháy, đạp cơm cháo, đổ huỷ lúa gạo, đều mang gông, cho ăn cơm thiu hóa giòi lửa .
3. Mỗi người có tội, cho lên đài vọng hương, ngó về xứ sở nhà cửa, thương nhớ mà về không đặng, khóc than thảm thiết .
Vua Diêm-la phán rằng: "Khi trước trẫm ở Nhứt -điện, bởi thương những kẻ thác oan, hay thả hồn về sống lại để kêu oan . Thượng -đế đổi trẫm về Ngũ -điện tại đáy biển đông bắc, cai trị 16 cửa ngục tru tâm làm mổ trái tim . Phàm các phạm hồn giải đến đây, thì đã bị hành các ngục mấy điện kia lâu ngày, dầu tội nhẹ khỏi hành, song cứ giải bảy ngày mới tới một cửa điện tới đây cũng đã 35 ngày rồi, thây thúi hết, không thể nào sống lại đặng . Nhiều phạm hồn muốn sống lại, kiếm tâu rằng: "Tôi làm chưa rồi lời vái hoặc cất chùa làm cầu đắp lộ, khai kinh đào giếng thí chưa rồi, hoặc đặt lời khuyến thiện chưa đủ, hoặc lời nguyện phóng sanh chưa đủ số, hoặc nuôi ông bà cha mẹ chưa rồi, sắm sửa hàn rương chưa đủ, hoặc trả ơn chưa đặng xin cho sống lại thề làm duyên làm phước . Trẫm than rằng : Xưa người làm dữ quỉ thần hay, nay thuyền đã ra khơi xảm muộn quá ! Bởi vậy Địa -Tạng -Vương ban ơn truyền chỉ, khuyên các cửa điện chung làm Ngọc -lịch cho đời tu mà chuộc tội . Thập vương làm rồi, dâng cho Địa -Tạng -Vương ngự xem, xem đủ liền đem thập vương với chư thần lên thiên đình dưng Ngọc -lịch xin sắc chỉ của Thượng -đế, nhờ ơn Thượng -đế ngự duyệt bằng lòng ban chỉ cho truyền đời tu chuộc tội . Từ Phong Đô đại đế với Thập vương lãnh Ngọc lịch có chiếu chỉ Thượng -đế phê đến nay đã lâu năm, mà chưa gặp người nào có đức hạnh xuống âm phủ, mà trao cuốn Ngọc -lịch đặng lưu truyền cho đời, chớ hồn mà hồi dương đem kinh có hình về sao đặng ? Nếu truyền đặng cho đời biết ăn năn chừa lỗi, thì dưới âm phủ sẽ ít hồn tù tội, tại dương gian ít kẻ thán oán . Như vậy đủ biết trên đời không kẻ tu luyện cho đặng nhục thân (xác phàm) xuống âm phủ . (Trừ ra thân ngoại hữu thân thì đi mới đặng ).
Từ đó đến nay các hồn soi Nghiệt cảnh đều là người dữ mới giải lần đến cửa này, đừng kiếm cớ chữa mình nhiều chuyện . Quỉ đầu trâu mặt ngựa dẫn chúng nó lên đài Vọng hương cho mau." Cái đài Vọng hương nhiều cửa vòng nguyệt, hình đài ấy như cái cung lên thẳng dây, giáp vòng 81 dậm, bề dài về hướng bắc, ngay như dây cung , còn đông, tây, nam, ba hướng trước với hai bên đều vòng tròn như cái cung, cao 490 thước, gươm giáo dựng làm chông xung quanh mặt thành, 63 từng rộng rãi . Kẻ hiền lành không lên đài ấy. Kẻ tầm thường công qúa bằng nhau, cũng khỏi lên, được đầu thai. Trừ ra phạm tội nhiều, trừ hết công, còn dư quá, mới cho lên đó . Nghĩa vọng hương là ngó mong về thấy nhà cửa quê hương mình, cho thấy cho nghe đặng biết việc ra thể nào . Các hồn ngó thấy những là người nàh không y theo lời mình trối, cãi các lời dạy, hoặc chuyên vận hết của mình, hoặc chồng cưới vợ khác, vợ lấy chồng khác, hoặc con cháu kiện chia gia sản ruộng đất, sổ sách giấy tờ bấy lâu, bây giờ xé hết .
Giấy tờ thiếu nợ họ đòi không đúng . Còn kẻ thiếu mình mượn mình, không giấy, hoặc người nhà kiếm không đặng giấy thì bị chúng nói ngược hết, cãi lẩy với nhau, đều đổ thừa trả rồi cho mình (người chết) ! Bà con hờn giận rầy rà, con cái giấu đút, bằng hữu nói tước . Có kẻ nghĩ tình khóc một tiếng, rồi cười bằng hai ! Lại còn mấy kẻ tội dữ, thấy con trai bị tù tội, vợ bịnh hoạn, con gái bị chúng hãm hiếp, hoặc sự nghiệp tiêu điều, hoặc cháy nhà, hoặc hết của ! Các hồn thấy việc như vậy tức tối mà khóc nhào ! Quỉ sứ dẫn xuống, giam vào khám lớn, tra coi phạm tội gì thì dẫn vào 16 ngục tru tâm mà mổ ruột . Mỗi cái ngục đều trồng một cây trụ, rắn bằng đồng làm lòi tói, chó hình bằng sắt làm ghế đôn . Trói hết tay chưn vào trụ, rồi lấy dao nhỏ mổ bụng kéo tim, xẻ lần cắt bỏ cho rắn ăn . Rồi rút ruột cắt bỏ cho chó ăn, hành đủ ngày giờ mãn tội rồi, huờn hình như thường, giải qua Lục điện . Mười sáu ngục kể ra :
1. Ngục mổ tim không tin báo ứng .
2. Ngục mổ tim sát sanh hại mạng .
3. Ngục mổ tim bỏ phải mà làm quấy .
4. Nguc mổ tim làm dữ tập phép trường sanh
5. Ngục mổ tim khi lành muốn người mau chết .
6. Ngục mổ tim toan mưu vu vạ (hoạ).
7. Ngục mổ tim trai gian dâm, gái ngoại tình .
8. Ngục mổ tim tốn của người lợi cho mình .
9. Ngục mổ tim gắt gao không kể ai chết .
10. Ngục mổ tim trộm cắp nói ngược .
11. Ngục mổ tim quên ơn báo thù quá .
12. Ngục mổ tim độc ác xui hại người .
13. Ngục mổ tim lường gạt dỗ dành .
14. Ngục mổ tim háo thắng, ham đánh lộn .
15. Ngục mổ tim ganh hiền ghét ngõ .
16. Ngục mổ tim ngu mê không tỉnh kiêu ngạo .
Những tội không tin Thiên đường Địa ngục luân hồi, quả báo ; ngăn trở kẻ làm sự lành ; mượn tiếng đi chùa dòm hành sự lỗi của người mà nói : đốt hủy kinh sách ; ăn mặn mà tụng kinh niệm Phật ; thấy người ăn chay tụng kinh niệm chú mà chê : chê bai tiên Phật ; kẻ hay chữ coi kinh sách mà không giảng cho kẻ dốt phụ nữ nghe : cuốc phá mã hoang, làm cho loạn lạc ; vô cớ đốt rừng : để người nhà lơ đểnh làm cháy nhà, hại lây cả xóm ; hay bắn cầm thú ; vật kẻ yếu bịnh ; quăng liệng phá người : đăng dò bắt cá ; chày lưới các cuộc bắt cá ; gát chim . (Lấy mủ cây làm cho dính giò bẫy, các đồ lề bất chim, hoặc đổ thuốc độc dưới đất) ; những mèo chết, rắn độc chết không chôn cho sâu, hại người đào nhằm móc nhằm trúng độc khí bịnh chết : trời lạnh run mà bắt dân đào đất dầm nước đặng làm vách đắp lò bếp mới ; lấy thế cất dinh quan, lấn ranh chiếm đoạt ruộng đất dân, lấp giếng bí ngọn rạch (thuộc về ỷ thế) ; các tội kể trên đó, những kẻ phạm tội ấy, cho lên Vọng hương coi rồi, giam vào khám lớn, tùy theo tội mà mổ tim, mới giải qua Luc -điện tra tội khác . Nếu cơn còn sống không phạm các tội ấy, hoặc đã phạm lỡ, ngày vía trẫm là ngày mùng tám tháng giêng, mà ăn chay thề nguyền không tái phạm các tội ấy nữa, sau trẫm tha hỏi hành, lại tư tờ qua Lục -điện giải tội nữa . Trừ ra tội sát nhơn, hoặc theo tà thuật, xưng đặng trường sanh : hoặc hãm hiếp phụ nữ ; hoặc đàn bà tham dâm ghen độc : hoặc vu oan cho hư danh tiết người ; hoặc trộm cướp nói ngược ; hoặc trộm cướp nói ngược ; hoặc quên ơn bạc ngãi, báo oán quá lẽ ; nhứt là nghe kinh khuyên giảng mà không ăn năn chừa lỗi ! Các tội ấy chẳng hề châm chế .
Còn người đời, gọi tài thần giữ của cho người, tưởng vậy là sái lắm ! Ấy là mấy người chôn tiền bạc của cải hoặc các quan chôn của báu, đến thác phần hồn còn mê mà tiếc của, sợ chúng đào, nên hồn ma ở đó giữ mãi, ai tới thì hiện hồn ma mà nhát . Thần thánh nghĩ nó vô tội, nên bỏ qua cho ma giữ của . Chừng nào nghe câu kinh Phật dạy :' Cái thân cũng không phải của mình, ngũ uẫn (năm mối) là tham . sân, si, ái dục, đều không '. Hồn ma giữ của mới tỉnh lại rằng :'Cái thân là xác còn bỏ, không phải của mình mà dùng được, huống chi là của tiền '. Mới chịu bỏ của mà xin đầu thai kiếp khác . Còn mấy kẻ vô phước lại gần chỗ đó bị ma nhát mà hết hồn sanh bịnh . Như thế -gian ai nghe chỗ nào có ma quỉ hiện hình hay nhát, biết là chỗ ma giữ của, thì van vái thề nguyền, xin đào đặng của ấy thì chia ra như vầy : 10 phần xuất ra ba phần mà làm siêu độ tụng kinh cho hồn ấy đầu thai hưởng phước, ba phần nữa phóng sanh cho vong ấy, một phần bố thí cho bần nhơn thì hết 7 phần rồi, còn ba phần thì mình hưởng . Vái nguyện như vậy rồi đào, thì có thánh thần làm chứng, lấy làm như vậy không hệ gì.
VUA BIỆN THÀNH NGỰ CỬA ĐỀN THỨ SÁU
Làm lành được phước :
Cất chùa, tu bổ am tự con cháu thi đậu làm quan .
Làm các điều dữ mắc tội :
1. Vừa lúa đợi giá cao, nhà nghèo mua ít không bán ; quá phòng người nuôi làm con, lớn bỏ cha mẹ nuôi, mà theo họ cũ ; hoặc cạo vàng trong mình Phật cốt mà bán, cũng như bán Phật ; các tội ấy đều bị đóng đinh căng lút vô bàn chông đứng .
2. Ăn cắp kinh sách, hoặc mua mà xé, bị treo mà lột da .
3. Kêu trời van đất, không cung kính thánh thần, bị cưa ngược .
4. Ăn trộm, ăn cắp, bị quì trên chông sắt luôn luôn .
Biện thành vương, điện tại đáy biển chánh bắc, khám lớn gọi là Đại hiến đoán, địa ngục rông 500 dặm do tuần, 16 ngục nhỏ :
1. Ngục thường quị thiết sa, quì chông .
2. Ngục chi nê tẩm thân, hầm phẩn .
3. Ngục mạ tồi lưu huyết, xay bột .
4. Ngục kiềm chỉ hàm châm, ngậm kim .
5. Ngục cát hận thử giảo, thiến dái cho chuột ăn
6. Ngục cực võng hoàn toàn, đĩa cắn trong lưới gan
7. Ngục ngối đão nhục tương quết nem .
8. Ngục liệt bì khí lôi, nghiến rách da .
9. Ngục hàm hỏa bế hầu, ngậm lửa .
10. Ngục tang hỏa bại hông, thổi lửa đốt (lửa giân).
11. Ngục phẩn tự, rạch phẩn .
12. Ngục ngưu điêu mả táo, trâu báng ngựa đạp .
13. Ngục phỉ khiếu, khoan lỗ (xoi).
14. Ngục trát đầu thoát xác, bửa sọ .
15. Ngục yêu trảm, xắt ngang lưng .
16. Ngục bác bì, tuyên thảo, lột da, đóng chông đứng .
Phàm giận trời trách đất, ghét gió sấm lạnh nực nắng mưa ; day mặt về hướng bắc mà tiểu tiêu, hĩ mũi, khạc phun, khoét, cạo vàng hình Phật, móc tiền dằn tâm ông Tiêu ; kêu tên tộc Tiên Phật thánh thần ; không kỉnh giấy chữ kinh sách ; để đồ dơ uế gần chùa đình, bàn thờ : hương đăng trà quả, đồ cúng không, tinh khiết ; dơ dáy trong bếp, không cữ thịt trâu, thịt chó, học sách tà dâm (thể chiến), tà đạo, để sách ấy trong nhà mà không đốt, sách ếm hại người cũng vậy, bôi xé kinh sách, đồ khí dụng . vẽ hình Thái -cực (mặt trăng lộn âm dương), hoặc vẽ nhựt nguyệt sao bắc đẩu, hoặc hai hình hoà hiệp (nguyệt hiệp lão nhơn), hoặc hình Tây-vương-mẫu (Diêu trì), hình Phước Lộc Thọ, hoặc hình Bát -tiên, mà làm nhãn gói đồ, hoặc thêu chữ (Vạn) vô hàng giẻ vải cờ, giường, ghế, bàn tơ và đồ khí dụng, hoặc dùng làm chữ hiệu, phạm thượng bận quần áo có hình rồng phụng, vựa lúa chờ giá cao không bán ít cho nhà nghèo : các tội kể trên đó, đều giam vào khám Đại -kiếu -hoán . Tra tội nào đáng hành 16 ngục nhỏ, đủ ngày giải qua Thất -điện, tra tội khác hành nữa .
Nếu ai ở dương thế, ăn chay ngày mồng tám, tháng ba là vía trẫm, thề nguyền tự hậu không dám phạm tội nói trên đó, và 14 rằm tháng năm, mồng ba tháng tám, mồng 10 tháng mười, trong bốn ngày ấy ăn chay, cấm phòng, (vợ chồng không ăn nằm với nhau) cũng như các ngày vía lớn vậy, lo cầu khẩn ăn năn chừa lỗi thường năm giữ được năm ngày ấy như vậy, sau khỏi hành các ngục nầy .
Thế tục lưu truyền nói :'Thập bát tằng địa ngục '. Dưới Âm -phủ có 18 từng địa ngục, ấy là nói sái, chánh là :' Nhập bát tằng địa ngục '. Vào tám cửa địa ngục lớn . Kể tám ngục lớn ra sau đây : Nhị điện có khám lớn gọi là Huợt đại địa ngục . Tam điện có Hắc thằng đại địa ngục . Tứ điện có Hiệp đại địa ngục . Ngũ điện có Kiếu -hoán đại địa ngục . Tại Lục điện đây có Đại Kiếu hoán đại địa ngục . Thất điện có Nhiệt não đại địa ngục . Bát điện có Đại Nhiệt não đại địa ngục . Cửu điện A tì đại địa ngục . Cộng tám cái khám lớn, mỗi khám lớn đều có 16 địa ngục nhỏ để hành tội và Huyết ô trì, Uổng tử thành, cộng vừa lớn vừa nhỏ 138 địa ngục ; lại còn bào lạc rằng khác . Phàm các phạm bị hành rồi, tuy cháy da nát thịt, đứt gân, dập xương, không còn lông tóc, chừng giải qua điện khác huờn hình lại như khi mới chết mà hành hình nữa, rồi giải qua cửa khác cũng như vậy .Trẩm thích nghĩa cho rành, kẻo tưởng có 18 địa ngục . Nhứt là tội đặt bài ca huê nguyệt, tuồng truyện tà dâm, hoặc vẽ hình tục tĩu, hoặc làm thuốc phá thai, hoặc thuốc mê, hay là khắc bản in ra, hoặc sao tả lưu truyền các bài các hình ấy, nếu bản ấy còn, bổn còn không tuyệt đồ đó, thì người bày đặt còn bị hành tội hoài, dẫu muôn ngàn đời cũng không khỏi hình phạt nơi địa ngục vì bày tà dâm dục lòng người cho hư phong hoá .
VUA THÁI -SAN NGỰ CỬA ĐIỆN THỨ BẢY
Làm lành hưởng phước :
Phàm con có hiếu, hết lòng phụng dưỡng cha mẹ, kính yêu mười phần . Khi nuôi đau càng hầu hạ thức thối cần mẫn hơn nữa, đến nỗi cha mẹ bịnh liệt, ăn không được có khi đặt bàn cầu trời, mình lóc chút thịt cánh tay, mà nấu ra nước cho cha mẹ uống cầm hơi . Ấy là lời nói thí dụ tỏ lòng thương hết sức chạy lo như vậy . Có hiếu thì động lòng trời .
Làm các điều dữ mắc tội :
1. Ăn trộm đồ trong hòm, hoặc bày thuốc phá thai bị quăng lên núi lửa .
2. Sang đoạt, hoặc dỗ dành gạt chúng, bị ngục trảm thủ (chặt tay).
3. Lấy xương người mà làm thuốc, bị nấu dầu .
Đền thái -san vương tại đáy biển tây-bắc, khám Nhiệt -não đại địa ngục giáp vòng 500 dậm do tuần, có 16 ngục nhỏ .
1. Ngục chày nục tự thôn, đánh sặc máu bắt nuốt !
2. Ngục thềm thối hỏa bức khanh, hầm lửa .
3. Ngục liệt hung, bửa ngực .
4. Ngục nha xa ngoạn phát, cột tóc trên nạng .
5. Ngục khuyển giảo kinh cốt, chó cắn cẳng .
6. Ngục đảnh thạch tồn thân đội đá .
7. Ngục lả đảnh khai ngạch, đập óc xả trán .
8. Ngục úc thống khốc cẩu đôn, chó cắn .
9. Ngục lê bì trư tha (trư đà), lột da, heo cắn mà trì .
10. Ngục đoạn hảo thượng hạ trác giảo, trên chim
lắc nước mổ, dưới heo rừng xé .
11. Ngục điếu đạp túc, treo cẳng .
12. Ngục bạt thiệt xuyên tai, kéo lưỡi xỏ má .
13. Ngục sưu trường, rút ruột .
14. Ngục loa đạp hoa trước, la đạp, heo rừng cẳn .
15. Ngục lạc thủ chỉ, đốt ngón tay .
16. Ngục du phủ cổn phanh, nấu dấu .
Nếu ai có uống hồng diên (kinh nguyệt lần vỏ da, thứ nhứt)
tử hà xa nhau (nhau) ; hoặc uống rượu phí dụng thái quá ; mua đồ trong hòm người chết ; hoặc lấy xương cốt người mà làm thuốc : phân rẽ vợ chồng, thân thích người ; gả dâu làm thiếp , hoặc đợ ; để cho vợ trấn nước con gái : hoặc chửa hoang đẻ ra liền ủ ; bài bạc đánh môn đánh cặp chia tiền của, hoặc gian lận ; thầy không cần dạy để đệ -tử hư : không cần tội nặng nhẹ, cứ chửi tôi đánh tớ tới bị thương tích : hà hiếp xóm diềng : không kính người lớn hơn mình, dạy phải chẳng vâng lời : khua môi uốn lưỡi, xúi rầy đánh lộn ; các tội ấy tùy nhẹ nặng hành hình đủ 16 ngục . Hành đủ rồi, giải qua Bát điện tra tội khác nữa .
Trong đời thiếu chi vị thuốc, nỡ nào giết vật sống mà làm thuốc, trị bịnh thiệt ở bất nhơn . Còn như uống hồng diên, nhau rún đồ dơ trong mình đàn bà, như ăn thịt người, thì cái miệng cũng như một thứ uế trược kia dẫu có làm lành tụng kinh niệm chú đã không linh, mà càng thêm tội, nên án ấy không dung . Nếu ai nghe khuyên nầy, mau mau chừa lỗi, nguyện cữ sát sanh, lại phóng sanh được một trăm vạn mạng mỗi ban mai súc miệng niệm Phật cho nhiều, đến khi mãn phần, Phật sai Tịnh nghiệt sứ giả đem đèn soi cho tiêu hơi uế mới đặng .
Nếu ai lấy xương cốt kẻ chết thiêu, hoặc thây con nít chết mà làm thuốc, hoặc lấy sọ người bán mà làm vị thuốc có kẻ ác kiếm xương người tới cả gánh, chắc thì làm đồ khí dụng, mục thì tán ra bột pha đồ . Hầm các vật dụng thì dầu có công gì, trừ cũng không đặng, thà hành tội ấy công nọ để trừ tội khác, dư sẽ cho hưởng kiếp sau . Còn bây giờ hành các ngục rồi, rốt giải qua vua thứ mười đặng cắt tay khoét mắt, chặt tay chưn, hớt môi miệng mũi, đầu thai làm kẻ tật nguyền, thậm chí hai tật mà trừ tội ấy . Nếu ai còn sống biết tội, phải thề nguyền ăn năn, không dám phạm nữa, hoặc phải thí hòm mà đi liệm thí nhiều xác, sau chết đeo đính bài, trên đính bài ông Táo có chấm một điểm mực làm dấu, xuống đây mới khỏi hành hình .
Có năm thất mùa đói lắm, tới nỗi kẻ sống đói quá ăn thịt thây ma . Nếu ai ngất ngư hấp hối còn chút hơi thở mà nỡ lòng cắt thịt nấu ăn, hoặc làm nhưn bánh bao, bánh in mà bán cho người ăn, ở lòng độc như vậy bị hành xây vần 16 cửa ngục nầy đủ 49 ngày, thì cho Thập -điện ghi vào sổ, rồi chạy tờ cho Nhứt điện đem tên vào bộ nữa, cho đầu thai lên làm súc vật chết đói, cho thấy đồ đổ trước mắt mà nuốt không vô, phải chịu đói tới chết .Tội này không phước nào trừ được, cũng không đặng đầu thai làm người mà trả quả . Còn kẻ ăn lầm, biết rồi mà còn ăn nữa, phạt đầu thai làm súc vật sưng họng đói lắm mà ăn không đặng, nhịn cho tới chết . Nếu biết lầm mà không ăn nữa, thì chế cho bố thí năm đói mà trừ (như thí lúa gạo tiền bạc cơm cháo hoặc nước gừng, nước trà), được như vậy đã tiêu hết tội trước, lại trả phước nhãn tiền và kiếp sau .
Ba điều trên ấy là quan văn, quan võ với các phán quan điện nầy hội nghị hai điều, còn Địa -ngục thứ tư (chúa ngục) nghị một điều, là ba điều, trẫm cũng cho viết theo sau, dưng Thượng đế, nhờ ân chỉ phê cho và thăng thưởng các viên hội nghị .
Lại truyền chỉ dụ : Thế gian làm điều dữ, chư thần đã nghị tội hành phạt rồi .
Hỡi còn việc quân lính, việc công vụ, lễ nghị, chế riêng điều lệ nhỏ, các khoảng ấy điều y thao luật của nước nào chế, thì trị theo luật nước nấy . Nếu chúng nó chối mà đổ tội cho kẻ khác, tức thì phải tra minh mà trị tội y luật . Các cửa âm ti y chỉ dụ '.
27 tháng ba nhằm ngày vía trẫm, ai ăn chay day mặt lạy về phía bắc, thề nguyền ăn năn chừa lỗi, làm lành in cuốn Ngọc -lịch cho đời coi mà cải ác, sau khỏi hành các ngục nầy '.
VUA BÌNH -ĐẲNG NGỰ CỬA ĐIỆN THỨ TÁM
Làm lành hưởng phước :
Kẻ giàu có trai tăng bố thí cho thầy tu, được phước lộc .
Làm các điều dữ mắc tội :
1. Bất hiếu, cha mẹ sống không nuôi, cha mẹ thác không chôn, hoặc hồi cha mẹ còn sống làm cho cha mẹ ưu phiền bất bình, hoặc làm điều phạm phép, cho cha mẹ kinh hãi, đều bị xe cán .
2. Ở quấy với người ơn của mình, hoặc chắp cây chiết chi, đem nhánh nầy chắp qua gốc cây kia, đều bị xắt ngang lưng .
3. Nói tục -tĩu về việc phụ nữ, bị kéo lưỡi mà cắt .
4. Khi người nghèo, dua bợ giàu sang bị mổ bụng móc tim .
Ngục nầy có thành Uổng tử để giam hồn tự tận (giết mình).
Bình Đẳng vương đền tại đáy biển chánh tây, khám lớn là Đại Nhiệt não đại địa ngục, rộng 500 dặm do tuần, có 16 ngục nhỏ :
1. Ngục xa băng, xe cán .
2. Ngục mộng hoa, chảo đậy ngột .
3. Ngục tối quả, lóc thịt tận xương .
4. Ngục lao khổng, bóp mũi, bóp họng .
5. Ngục tiển thiệp, hớt chót lưỡi .
6. Ngục thường thinh, nhà tiêu .
7. Ngục đoạn chi, chặt tay chơn .
8. Ngục tiền tạng, nấu đồ lòng .
9. Ngục chích tủy, nướng mỡ xương .
10. Ngục bát trường, móc ruột .
11. Ngục phần tiêu, đốt trái thận .
12. Ngục khai đường, mổ ức .
13. Ngục hoạch hung, sả ngực .
14. Ngục phá đảnh náo xỉ, bửa đầu xeo răng .
15. Ngục phê cát, bằm xắt .
16. Ngục cang xa, chĩa sắt đâm .
Những con bất hiếu, cha mẹ còn không nuôi, cha mẹ thác không chôn, hoặc làm cho cha mẹ hay là cha mẹ chồng hết hồn, giựt mình, phiền hờn, rầu buồn, nếu không ăn năn chừa lỗi, ông Táo ghi vào sổ tội thứ nhứt tâu Thiên -tào cho bớt lộc bớt tuổi, cho tà quỉ làm điên khùng, thác rồi còn bị hành hình các ngục khác, giải đến cửa nầy ngưu đầu mã diện xách giò quăng vô khám lớn, rồi dẫn lại các ngục nhỏ hành hình cho đến kiếp, mới giải qua cửa thứ mười cho đầu thai làm súc vật . Nếu ai thấy Ngọc lịch mà tin, mỗi năm vía trẫm là ngày mồng một tháng tư, ăn chay thề nguyền chừa tội lỗi, sớm tối nguyện với ông Táo, xin ăn năn chừa lỗi, đến mãn phần ông Táo đề chữ Tuân trên trán, hoặc chữ Thuận, chữ Cải dầu hồn xuống từ Nhứt điện đến Thất điện có tội chi khác đều giảm phân nửa và khỏi phải giải qua điện nầy, đi luôn qua Cửa điện tra có đốt nhà, hoặc tính mưu thầm hay không . Rồi giải qua Thập điện cho đầu thai làm người tử tế .
Thượng đế có chỉ dụ: "Nếu ai ăn năn chừa lỗi, in Ngọc lịch cho thiên hạ coi mà hồi tâm, thì sau thác xuống đi luôn từ Nhứt điện thẳng tới Bát điện khỏi hành các ngục . Tới cửa điện tra tội phước nếu không tội thì giao qua Thập điện cho đầu thai nhà giàu sang mà hưởng phước lâu dài ."
Còn Huyết ô trì phía sau điện, mé bên tả . Sãi vãi tại thế gian giảng sái rằng : "Đàn bà sanh đẻ có tội, sau bị sa Huyết ô trì". Ấy là nói sai lắm ! Sự đó tại trời sanh còn làm tội là nghĩa gì, dầu đàn bà đẻ mà thác, cũng không tội nhơ uế chi hết . Tội là vầy: Đẻ chưa đầy tháng mà xách nước, lội sông, vô bếp, giặt quần áo dơ, phơi hứng tam quang, các tội ấy về chủ nhà (người lớn trong nhà) chịu ba phần còn bảy phần đích thân nàng ấy chịu . Ao Huyết ô để phạt gái dâm dục sau bàn Phật, trước chỗ thờ thần, hoặc không cữ giao hiệp bốn ngày kị nhụt thần trong mỗi năm, là 14, rằm tháng năm, mồng ba tháng tám, mồng mười tháng mười, nội bốn ngày đêm ấy, mà ăn nằm thì tại dương thế đã mang bịnh, hoặc chết rắp, hồn xuống đây còn bị lăn lội dưới ao ấy lâu ngày . Hoặc sát sanh vấy máu trong bếp, hoặc bàn thờ, hoặc vấy máu vô kinh sách, hoặc đồ đựng cúng tế, cũng bị sa Huyết ô trì . Trừ ra có người thân nguyện cữ sát sanh lại phóng sanh cho vong hồn, lạy Phật tụng kinh cầu mới khỏi .
VUA ĐÔ THỊ NGỰ CỬA ĐIỆN THỨ CHÍN
Làm các điều lành được hưởng phước :
1- Mùa đông thì nước gừng, mùa hè thì trà nước, có phước .
2- Đưa đò thí, con cháu thi đỗ hiễn vinh.
Làm các điều dữ mắc tội :
1- Đi tới tiền làm chùa sửa chùa quan thếp Phật, mà ăn gian, hoặc rủ người đậu tiền khắc bản kinh, hoặc in kinh, ăn gian, hoặc bán mà thủ lợi, đều bị quăng trên núi cao .
2- Bắt ếch, nhái, lươn cá, thuốc cá, bắt chim, ăn thịt trâu chó ngựa, hay sát sanh bắt rùa rắn, vô cớ mà hại vật, đều bị quạ xé thây ăn gan tim, rắn đục tai, niệng mũi .
3- Phân vợ rẽ chồng người, nói đâm thọc cho ruột thịt xa nhạu Vẽ hình tục tĩu, làm thuốc tráng cho tà dậm . Hoặc đặt đồ huê tình, hoa-nguyệt cho sanh thói dâm . Hoặc đập chó . Các tội ấy đều bị chó vật chết, xé thây ăn thịt tim phổi .
Đô thị vương đền tại đáy biển tây nam, khám lớn là A tì đại địa ngục, rông 8 trăm dặm do tuần đều bao lưới sắt, lập riêng 16 địa ngục nhỏ :
1- Ngục xao cốt chước thân, đập xương đốt mình .
2- Ngục sưn cân lôi cốt, rút gân nghiền xương .
3- Ngục nha thực tâm can, quạ ăn tim gan.
4- Ngục cẩu thực trường phế, chó ăn ruột phổi .
5- Ngục thân tiện nhiệt du, mình, tưới dầu sôi .
6- Ngục não cô bạt thiệt, bạt xỉ, nỏ đầu, kéo lưỡi, nhổ răng.
7- Ngục thủ não vị điền, con nhím khoét sọ ăn óc .
8- Ngục chưng đầu, quái não, nấu dầu, nạo óc .
9- Ngục dương súc thành hải, dê cụng bấu .
10- Ngục mộc hiệp đảnh, ta nỏ nát sọ .
11- Ngục mạ tâm, móc tim mà xay.
12- Ngục phị thang tâm thân, trấn nước sôi.
13- Ngục huỳnh phong, ong vò vẽ đánh .
14- Ngục nghị chú ngao thầm, kiến đục tóp (thắng mỡ ra tóp cho kiến ăn.)
15- Ngục yết câu, bồ cạp chích .
16- Ngục tử xích độc xà toàn khổng, rắn đỏ độc chun cửu khiếu .
Phàm vua thế gian chế luật hình phạt, như tội nặng lắm xử lăng trì (chém rồi xả tư ), xử trảm (chém), xử giảo (thắt họng), hồn xuống chịu các ngục trước hành rồi, giải đến điện nầy, hoặc kẻ đốt nhà, nuôi xâu ngải, thuốc độc, phá thai, hút hơi rún cho bổ, nút tinh trai, hoặc vẽ hình tục tỉu, đặt thơ truyện ca huê nguyệt (thơ ân tình ) hay là bài thuốc mê, thuốc phá thai . Ai có phạm đều, thấy Ngọc -lịch thì ăn năn, thề chừa lỗi, không dám phạm nữa, nếu dâm thơ thì xé não, in rồi thì hủy bản, đốt sách, không truyền phương thuốc tà vạy nữa (thuốc tráng) thì sau xuống đây tha hành các ngục, giao qua Thập điện cho đầu thai làm người . Nếu nghe Ngọc - lịch mà còn làm các tội ấy, thì sau hành từ Nhị điện cho tới đây, đây trước hành bào lạc (xiềng tay chân vô ống cột đồng đốt đỏ, đẩy lên cháy thành than), huờn hồn lại giam vào ngục A tì mà hành theo 16 ngục nhỏ, rồi huờn hồn nữa, đâm gươm vô họng thấu tim phổi, giam hoài đợi các nhà bị hại trên thế gian khá lại, kẻ chết đầu thai hết, hoặc não bổn dâm thơ hết lưu truyền nữa, hoặc phương thuốc độc hết truyền, hoặc kiểu hình tục tĩu tuyệt hết, thì hồn phạm mới khỏi giam đặng đi đầu thai .
Nếu ai phạm các tội ấy, đến ngày vía trẩm là mồng tám tháng tư, ăn chay, day mặt về hướng bắc, vái nguyện chùa lỗi, mua thâu dâm thơ mà đốt, hoặc in Ngọc -lịch cho người, hết sức khuyên đời cải ác tùng thiện, đến mãn phần, ông Táo đề hai chữ ' Phụng hành trên trán, thì từ Nhị điện đến đây, tra công mà trừ các tội khác . (Nếu kẻ giàu sang có quyền thế cho bắt kẻ hung hoang hay đốt nhà chúng, hoặc cấm dâm thơ, hủy bản đốt sách dán yết thị cấm các việc hại đời ấy, thì cho con cháu nối đời thi đỗ làm quan . Nếu kẻ nghèo, dốt, phụ in Ngọc lịch khuyên đời sau đầu thai hưởng phước .
Vua Phong đô đại đế phán rằng :' Tay Bát điện có thành Uổng tử, ở phía hữu điện nầy (vì 2 đền gần nhau). Thế tục nói sái rằng :' Ai bị thác oan, thì hồn bị cầm thành Uổng tử '. Đời nghe lưu truyền lâu, cũng tin là thiệt ! Sao không xét cho đủ lý , người đã thác oan, cầm ngục nghĩa là gì ? Cho đi thong thả chớ không cấm cố, song nán đợi kẻ giết mình xuống Âm phủ, hành tội trước mặt hồn oan trước cho hết tức, rồi mới cho đi đầu thai Còn thành nẩyđể giam những kẻ vô cớ giận lẩy mà giết mình, trầm mình thắt họng, uống thuốc độc vân vân, giam đỡ đây đợi hành tội chưa đặng đầu thai chớ không phải các hồn bị người giết Uổng -tử . Nếu kẻ liều mình vì sự trung hiếu tiết nghĩa, hoặc quân lính vì nước mà tử trận, các bực ấy kẻ đáng thành thần thì hiển thánh, kẻ còn tội lỗi, không đặng thành thần, thì đã cho nguyên hình mà đi đầu thai, có đâu giam cầm thành nầy mà chịu bó buộc thảm khổ hay sao ?
VUA CHUYỂN -LUÂN NGỰ ĐIỆN THỨ MƯỜI
Làm các điều lành được phước :
1. Nhà giàu sang thí kinh lành, hoặc thí Ngọc -lịch phước lớn .
2. Tụng kinh, tụng cảm -ứng tu hành niệm Phật, giàu sang sống lâu .
Làm các điều dữ mắc tội :
1. Hãm hiếp, dụ trẻ thơ mà ăn của, đều bị xay ra bột
2. Không kỉnh giấy chữ, rủ ăn trâu, chó, phát làm hành khất
3. Không kính người lớn, dạy khuyên điều phải mà chẳng vưng lời, hoặc thầy bảo học trò trọng giấy chữ, đều bị đá đè .
4. Không phải cúng ông bà, nuôi cha mẹ mà sát sanh . Hoặc mưu kế lường gạt ăn gian . Bày kiện thưa báo đời . Hoặc nghề võ đánh độc cho người chết . Các tội ấy đi ngang cầu Nại -hà bị té xuống sông cho rắn mãn xà cua đinh ăn thịt .
Chuyển -Luận -Vương đền tại đáy biển đông, ngay rún trái đất, có làm cầu bằng vàng, cầu bằng bạc, cầu ngọc, cầu bằng đá, cầu cây (cầu ván) và cầu Nại -hà, cộng sáu cái cầu .Các điện giải hồn đến, xét tội phước cho đầu thai các phương thế gian, định giàu sang hèn khó, sống lâu thác yểu, đều ghi sở rõ ràng mỗi tháng chạy tờ về Nhất điện ghi sổ rồi nạp cho vua Phong đô đại đế .
Luật Âm phủ, phàm tứ sanh là loài đẻ con, loài đẻ trứng, loài dưới nước, loài biến hoá lộn kiếp, những loài không chân cẳng, hoặc hai giò, 4 chân, nhiều cẳng, các vật ấy chết rồi hoá ra con tích (mà chết một kiếp nữa) xoay vần như cối xay, hoặc số một năm nửa năm, hoặc sớm mai sanh chiều chết, đổi dời biến hoá mạt kiếp, không định số, là loài phải bị giết cho hết kiếp, cho đầu thai các nơi mà trả quả . Mãn năm cũng phải trình sổ ấy cho vua Phong đô đại đế xem .
Phàm kẻ học nho có đọc kinh Diệc, các sãi, mấy thầy tu có tụng kinh niệm chú, mà phạm tội nhiều quá, tuỳ bắt hồn đến các điện, cũng chưa hành đặng, phải giải đến đền trẫm vẽ hình và biên tên vào sổ Đoạ lạc danh sách . Rồi giao cho Mạnh bà ở đài Ứ Vong, đổ thuốc mê, cho đầu thai chết trong bụng, hoặc sanh ra một đôi ngày mà chết hoặc hơn
trăm ngày mà chết, hoặc một hai năm rồi chết, đặng cho quên hết kinh chú, rồi Nhứt điện bắt hồn tra tội mà hành Nếu ai công quả bằng nhau, hoặc dư quá chút đỉnh, thì định cho đầu thai làm trai, làm gái, xấu tốt, khoẻ cực, giàu nghèo, đều giao Mạnh bà cho uống nước mê (lú) rồi mới đầu thai .
Trẫm hằng kêu tên mà cho đầu thai làm người, nhiều kẻ phụ nữ khóc lạy rằng :' Còn thù lớn chưa trả đặng, nên không muốn đầu thai, thà chịu làm ma đói (ngạ quỉ), Trẫm hỏi rỡ, thì chúng nó kể ra : hoặc con gái đồng trinh hoặc con tiết phụ, bị các trò tốt trai háo sắc, hoặc tham của các nàng ấy, lập kế dỗ dành, làm mặt nhơn nghĩa, nói tiếng ân hậu, mà tư tình cho được ; kẻ nói dối chưa vợ, thề sẽ cậy mai đến cưới, hoặc gạt tớ gái, hứa sẽ lập làm thiếp mà lấy chơi phá trinh rồi bỏ, hoặc hứa nuôi mẹ già trọn đời, hoặc hứa nuôi con ghẻ . Các phụ nữ vì tin mà mắc, té ra hết của, thất tiết, mà chẳng đặng chồng ! Sao lại bán rao cho cha mẹ anh chị hành hà, xóm giềng đàm tiếu, tức mình hổ thẹn mà liều mình, hoặc tức tối thất tình phát bịnh mà chết ! Nay nghe đứa phụ tình đi thi khoa nầy chắc đậu, nên xin ở lại đợi tới khoa mà báo oán đòi mạng, ngặt nó chưa tới số, hoặc phước đức tổ phụ nó còn nhiều, xin cho lên phá nó hồn mê, thi chẳng đậu, hoặc cáo với Văn Xương đế quân phạt nó phải rớt (mới ra sự đổi tên có đứa khác đậu thế) đợi tới số sẽ xin lên vật hồn báo oán, các vụ ấy trẩm tra rõ oan ức, thì cho tờ nó tới Nhứt điện cáo . Nếu ai ăn chay ngày vía trẫm la 17 tháng tư, thề nguyền tin Ngọc lịch mà ở, và đem bài này mà giảng cho các trò nghe mà đặng giữ mình, thì người giảng ấy trọn đời khỏi thủy tai hoả hoạn, khỏi việc qua quan hình phạt .
Còn sở luân hồi rộng bảy trăm dặm do tuần, trên dưới xung quanh đều có rào sắt và bao lưới phép, chia ra 81 chỗ, mỗi chỗ đều có nhà mát, các phán quan thơ lại, để bàn ghế biên chép . Ngoài rào sắt có 108.000 đường dương trường (nhỏ như ruột con dế) quanh co đi thông lên các nước .Chia ra sáu ngã (lục đạo) luân hồi, loài người có hai : 1. giàu sang, 2. khó hèn, trong ngoài đều sáng . Còn bốn ngã tứ sanh, là : Thai sanh, loài đẻ con (thú bốn cẳng). Noãn sanh, loài đẻ trứng có hai cánh . Thấp sanh, loài ở dưới nước, như cá, tôm cua ốc, rùa, trạnh, lươn, chạch, ếch nhái vân vân . Hoá sanh là loài tằm hóa nhộng, sâu lộn bướm, sùng hoá bồ xè, đuông hóa kiến dương, quăng hoá muỗi, kiến mốc mọc cánh, vân vân . Bốn loài ấy đường ở trong tối đen như sơn, ngó ra ngoài sáng như thủy tinh, như hai ngã loài người vậy . Các phán quan thơ lại kêu tên nhìn mặt rõ ràng cho luân hồi sáu ngã, một mảy không sai . Các phán quan thơ lại, đều là người hiếu đễ, cữ sát sanh, phóng sanh, tu hành, nên phong chức thần, mà coi sở luân hồi ấy . Coi năm năm công bình không sai thì đặng lên chức, nếu trể nải, hoặc lộng quyền, hoặc để tội trốn, thì bị phạt giáng chức, nhỏ thì bị đày .
Phàm kẻ bất hiếu, hoặc sát sanh nhiều quá, bị các ngục hành rồi, giải đến đây, sai quỉ sứ lấy nhánh đào đập chết, hoá ra con tích, cho đội lốt tứ sanh đi đầu thai trả quả .
Phàm cầm thú : cá, loài trùng (tứ sanh), đầu thai muôn ngàn kiếp đã mãn tội, thì loài hóa sanh được làm thấp sanh, thấp sanh trở lại noãn sanh, noãn sanh trở lại thai sanh, ba đời mà không giết hại mạng vật, thì được đầu thai làm người . Tại đây cũng làm sổ, gởi qua Nhứt điện phê, rồi cho uống thuốc mê nơi Mạnh bà, rồi đầu thai lên thế gian các nước .
LỜI VÃNG SANH CỦA PHẬT
Trẫm đem vào đây cho đời tỉnh lại .
Trên đời hay sát sanh, nên bị đao binh hại :
Báo oán giết một thân, thiếu tiền thiêu tới trại .
Mình đào hang ổ kia, nó phá vợ con lai .
Oan trái trả xảy vần, lóng tai nghe Phật giải :
Thịt, mua lừa khúc béo, cá, chắc lựa con tươi .
Y phục kén phần nhứt, ruộng vườn chọn vẹn mười .
Phóng sanh thì tiếc của, lảng Phí chẳng nhường người .
Đến thác tay không nắm, một mình tội mấy mười !
MẠNH -BÀ NƯƠNG CON BÀ Ứ -VONG
Thần Mạnh Bà sanh đời tiền Hán, hồi nhỏ học sách nho
lớn tụng kinh Phật . Không nhớ sự đã qua, chẳng mơ việc sẽ đến . Cứ lo khuyên người cữ sát sanh và ăn chay như mình . Không chồng tới 81 tuổi, tóc bạc mà mặt còn tơ . Bởi họ Mạnh nên kêu là Mạnh -Bà (bà họ Mạnh). Sau bà lên núi tu tới thành . Qua đời hậu Hán nhiều người biết kiếp trước, nhớ mạy đi nhìn bà con xưa, lại trí hóa nhiều, nói lậu sự Âm -phủ . Bởi cớ ấy, Thượng -đế phong Mạng -Bà lên chức Ứ -vong nương nương, là bà thần cho uống nước mê (tục kêu cháo lú), ở đài Ứ -vong nơi âm -phủ, trước đền Thập -điện ; đài ầy mới lập rộng lắm, cấp thơ lại quỷ sứ cho bà sai . Lấy vị thuốc của thế tục, chế ra như rượu, có đủ mùi ngọt đắng cay chua mặn, cho các hồn sẽ đầu thai đều uống, cho lú quên các việc kiếp trước, lại cho mỗi hồn có vài ba phần tật, như nhớ cười lo giận sợ, nhểu nước miếng, đổ mồ hôi, sổ mũi, khóc, khạc nhổ . Người lương thiện, cho thêm thông minh, tỏ tai sáng mắt, mạnh khoẻ ; kẻ làm dữ cho tới tinh thần, trở ra bịnh yếu phạt lần, làm cho người biết cải ác tùng thiện .
Đài Ứ -vong ở trước đền Thập -điện, ngoài sáu cái cầu, cao lớn như nhà khách trong chùa (phương trượng) xung quanh 108 căn, phía đông có đường rộng một thước bốn tấc . Trong các căn đều để bình chén mà đãi các hồn uống nước rồi đi đầu thai . Miễn có uống bao nhiêu cũng đặng . Hồn nào nghịch mạng không uống, quỉ sứ trói giò lại, thọc ống đồng vô miệng mà đổ nhiều nước mê, ực rồi mới mở trói đỡ ra ngoài đường, xô lên cầu tre nổi, dưới sông nước suối chảy đỏ lòm, ngó thấy bên mé có gành đỏ núi gie mé sông đề bốn hàng chữ phấn trắng, nét lớn lắm, bốn hàng chữ như vầy :
Vì nhơn dung dị tác nhơn nan,
Tài yếu vi nhơn khũng cánh nan !
Dục sanh phước địa vô nan xứ :
Khẩu dữ tâm đồng, khước bất nan .
Thích nôm :
Xưa dễ làm người, nay khó bì,
Mong làm người nữa khó nhiều khi,
Muốn sang phú quí không chi lạ :
Lòng miệng như nhau chẳng khó gì .
Các hồn coi rồi, hoặc đọc rồi, có hai con quỉ cao lớn ở mé biển nhảy ra tới mặt nước : một quỉ đội mão đẹn, bận áo gấm, tay cầm giấy viết,vai mang gươm trường lưng đeo còng xiềng, trơn cạp mắt tròn vo cười ngất, ấy là quỉ Huợt vô Thường ; còn quỉ kia mặt dơ chảy máu, mình bận áo cổ giữa trắng, tay xách bàn toán, vai vác túi gạo đeo đính bài trước ngực, châu mày nhăn mặt thở ra than dài, ấy là quỉ Sanh hữu Phận Hai quỉ xô các hồn nhào xuống khe nước đỏ mà đầu thai . Kẻ có tội nhiều mừng đặng đầu thai làm người . Kẻ có công chưa đủ siêu thăng, thì tức và khóc rằng . Tu chưa đúng bực nên phải luân hồi cõi trần nữa ! Các hồn như say như mê, nhập vào xác con nít trong bụng, hai chơn đạp cái nhao, chung ra khỏi mình mẹ . Lâu ngày tham mùi ngon, không thương mạng vật, xa cách tánh lành, phụ ơn trời phật rộng thương, chẳng lo thác hiền chết dữ, thân sau thể nào, thì cũng làm hồn ma mang thây nữa !
Bài nầy là thơ lại ở đài Ứng -vong, viết rõ dưng Thượng đế xin cho để sau Ngọc lịch cho đời hiểu (Nhậm tấu).
Vì Thập vương làm não rồi, giao cho các phán quan chép lại vẽ hình kỹ càng, có đề họ tên thuật tích, dưng cho Địa tạng vương xem lại ngày 30 tháng bảy . Qua mồng ba tháng tám Địa tạng với Phong đô Thập điện chư thần đồng dưng cho Thượng -đế phê chuẩn rồi, song chưa có ai xác phàm xuống Am -phủ mà trao Ngọc lịch đem về truyền lại thế giạn .
Qua cuối đời Tống Nhân - tôn (nước Liêu niên hiệu vua Thái Bình) nhằm năm Canh ngũ, ngày mồng chín tháng chín (trùng cửu trùng dương), Đạm Si đạo nhơn (Kinh Ngô là thầy tu nước Liêu,Hồ tăng) ở gần núi, ngày trùng cửu, lên đỉnh núi dạo chơi, xảy thấy một tấm bia đá, chạm 32 chữ cổ tự như vầy :
Vô vi đại đạo, thiên tri nhơn tình .
Vô vi yển minh, quỉ kiến nhơn hình .
Tâm ngôn ý ngữ, quỉ văn nhơn thinh .
Phạm cấm mãn dinh, địa thâu nhơn hồn .
Thích nôm :
Đạo cả thinh không trời biết lòng,
U minh thần quỉ thấy người ròng .
Nói thầm, suy nghĩ, thần nghe hiểu .
Tội nặng thâu hồn, đất bắt vong .
Xảy thấy phía trong thắp đèn vàng, trước cửa điện có treo tấm biển 4 chữ :' Xuất sanh nhập tử ' (nghĩa là : đầu thai thì đi ra, thác rồi hồn trở về đó). Đạm Si đương coi, xảy thấy đồng tử áo xanh kéo vào đơn trì (sân sơn son đỏ) quì lạy, rồi thối lui đứng trước thềm . Xảy thấy Thập vương kéo vào, đọc lời chúc ngày vía Phong đô đại đế và dưng bổn Ngọc lịch . Phong đô đại đế xem rồi, truyền văn võ các phán quán, đòi các quỉ sứ ngưu đầu mã diện mang lông đội sừng đều đến chầu, đứng tám hướng .Truyền phán quan đọc bổn Ngọc -lịch một bận . Các quỉ sứ lạy tạ ơn tâu rằng :' Nếu ngày sau chúng tôi được đầu thai, hễ thấy Ngọc lịch nầy thì thề nguyện y theo cho đặng siêu độ '. Xảy thấy hào quang chiếu sáng, các phán quan cai trị thành Uổng tử và ao Huyến Ô, đều đem bổn sổ đến dưng và tâu rằng : ' Từ năm Thượng đế phê chỉ, cho ban phát Ngoc -lịch đến nay, bởi chưa có dịp đem lên Dương gian, nên chúng tôi, tra kỹ những phạm dư trăm ngục, có nhiều hồn khi còn sống hay giảng nhơn quả trong chốn đông người, hoặc giữa chợ đông, hoặc ngả ba ngả bảy, có người nghe tội phước mà hồi tâm . Chiếu theo luật Ngọc - lịch, cũng là khuyên người chừa lỗi, đáng ân xá tội nhỏ, cộng 50.480 hồn khuyến thiện, giảng quả báo . Nên thập vương hội nghị ân xá bọn ấy, định vào sổ đầu thai, tùy theo tội ít tội nhiều cho vào đường phú quí nhỏ, hoặc tầm thường . Kẻ tội nhiều cho làm người khó hèn, hoặc quan quả cô độc (quan là không vợ, goá vợ ; quả là goá chồng ; cô là mồ côi ; độc vô hậu không con, độc mộc đến già), đáng cho uống nước mê mà đầu thai, khỏi hành hình nữa, nên dưng sổ cho Đại đế xem '. Phong đô đại đế xem qua khen phải .
Xảy nghe báo rằng :' Có Phật Quan -Âm Bồ -Tát giáng hạ '. Phong đô đại đế với Thập vương đồng ra chào mừng . Quan -Âm mới xuống thì hình phụ nữ, có Thiện tài theo hầu, Long -nữ cầm phướng . Đến khi Đại -đế Thập -vương ra chào mừng thì Quan -âm hoá ra hình ông Tiêu Diện đại sĩ (mặt xanh lưỡi đỏ), mình cao mười sáu thước mộc, truyền chỉ rằng : Ta phụng chỉ Thượng -đế, y lời tâu của Địa Tạng với Thập vương chư thần, xin ban Ngọc - lịch năm đó, cho thế gian ăn năn, nguyện tu chuộc tội, khỏi hành địa ngục : nay cho hồn phạm đầu thai, trẫm rất vui lòng . Lại nghe vời đặng Đam Si mà trao Ngọc lịch, về dạy thế gian cải ác tùng thiện . Trẫm ao ước có người tin Ngọc lịch, truyền giảng mà khuyên đời, chừa lỗi làm lành như mình, được đông người sửa lòng như vậy, thì núi đạo ao huyết cũng bỏ không, các địa ngục càng ngày càng trống, thì người khuyến thiện thành chức : Trí huệ dẫn thiện diễn kiếp Phật ' (vì Phật Trí huệ đem lành khỏi tội).
Đại đế Thập vương với các thần thành hoàng (thần trong đình) đồng chắp tay nói theo rằng :' Vị khuyến thiện đáng thành chức Phật ấy '.
Được sửa lần cuối bởi Lòng Trắc Ẩn vào ngày khoảng 3 tháng trước với 1 lần trong tổng số.
Quan âm nói :' Nếu người tu ở thế thấy Ngọc lịch mà diễn dịch ra cho người dốt đàn bà con nít dễ hiểu, người ấy thành công đức nhơn thứ pháp thắng Phật ', (Phật công đức nhơn xét tài năng).
Các vị ấy cũng chắp tay nói theo rằng :' Đáng thành Phật '.
Quan âm nói :' Nếu ai thấy Ngọc lịch đi đứng nằm ngồi cũng cám mến ơn trời, rèn lòng thanh tịnh, khuyên giảng độ người ăn năn làm lành đặng năm điều thiện, sẽ được làm bạt tiến cho vong hồn tiên nhơn thân quyến . Lòng công bình muốn cho người đặng phước như mình, quyết khuyên dạy nhiều người tu hành, làm bạt tiến cho phạm hồn được đầu thai, địa ngục phải trống, thì người ấy thành : Cứu khổ tiêu huệ Phật '. (Phật Cứu khổ nạn, ơn khắp nơi).
Các vị hết thảy đều chắp tay nói theo rằng :' Đáng thành
Phật '.
Khi ấy Phong đô đại đế phán rằng :' Bởi Địa tạng vương muốn siêu độ các phạm hồn nên truyền xét hồn nào hồi ở thế có biết ăn năn chừa lỗi, thì ân xá khỏi hành các ngục . Chư thần đã vưng chỉ, Ngài lại truyền Thập vương hội làm Ngọc lịch, dưng xin phê nơi Thượng đế . Nhờ ơn Thượng đế phê cho và có chỉ dụ sửa các khoản ... rồi đây Trẫm sẽ dạy . Bởi bấy lâu chưa gặp ai đức hạnh, nhục thân đến cõi U-minh, mà trao Ngọc lịch, đem về Dương gian khuyến thế . Nay Đạm -Si đến dưới thềm, xứng đáng truyền kinh Ngọc lịch . Như vậy nay đã có người rồi các phán quan thơ lại đem cuốn Ngọc lịch, viết thêm lời Quan âm phụng chỉ mới truyền, với chư thần truyền dạy, biên thêm đủ điều và bảo Đam -Si ghi sự tích mình gặp truyền Ngọc lịch vân vân, cho đời hiểu cội rễ . Còn khi trước có chiếu Thượng đế chỉ dụ sửa các khoản :
1. Các văn biểu tâu xin phê chuẩn, đều bỏ đừng biên vì rộn ràng e đời khó hiểu .
2. Các vị thần với Thập vương đề tên họ thiệt, và thuật lý lịch tích mình vì làm sao mà thành, khoản ấy cũng bỏ, không cho đời biết sự tích làm chi, cứ đề nội tước (chức) như mỗ Bồ tát mỗ đế, mỗ điện mỗ vương, phán quan, thơ lại, để trống mà thôi, không cho đời biết tên họ . Ví dụ : Phong đô đại đế viết Diêm la vương viết . Đề chữ viết, bỏ họ tên, như phán quan viết vân vân, phải chấm câu vòng câu theo lời nói, cho đời dễ hiểu, e ít học khó phân câu . Cứ y chỉ như vậy, các phán quan viết lại, không nên làm sái . Còn mấy bài trẫm bảo thích nghĩa, Dương gian nói sái nói lầm như Huyết ô trì . Uổng tử thành, thập bát tằng địa ngục vân vân, ngày giáp thìn tháng ba, năm nhâm ngũ, trẫm có dưng sớ, Thượng đế cho biên thêm vào Ngọc lịch . Thôi cứ vậy bôi sửa đi '.
Khi ấy Thập vương cầm viết, điện nào sửa theo điện nấy, rồi đưa cho phán quan thơ ký chép tinh lại . Khi ấy Đạm Si quỳ dựa bàn án mà xem các phán quan chép tinh lại . Xảy thấy Tiêu diện đại sĩ, hiện lại hình bà Quan -âm, cầm nhành dương liễu châm bình nước cam lồ rải xuống ba lần, rồi đằng vân bay lên cao hết thấy .
Còn Thập vương cũng từ tạ lui về các điện . Phong đô đại đế bãi chầu, ngự vào trong .
Lúc này các phán quan chép các lời Quan âm, sao Ngọc lịch, biên các lời chư thần và đọc cho tôi viết từ chữ :' Thời thiên hạ thái bình canh ngũ niên ... tới chữ chúc tất ', cộng 129 chữ . Rồi giao cho các vị viết thêm đủ điều, mới trao cho tôi mà dặn rằng :' Người biết mặt với họ tên chư thần đã nhiều, nay trở về Dương gian, xin đừng nói lậu tên họ anh em chúng ta, e người đời biết có tổ tiên thân thích làm phán quan thơ lại dưới âm phủ, cơn nào nó có bịnh trọng, không lo làm phước cho mau mạnh, nó lại làm nhăng sát sanh cúng tế, đốt sớ điệp, cầu tổ tiên phò hộ cho thêm tội với chúng ta . Vả lại Thượng đế chỉ dụ cho Đại đế tại điện này với Thập vương chư thần, còn phải bôi hết ên họ lý lịch, quê hương sự tích thay ! Huống chi chúng ta là phán quan, thơ lại ? Bởi lòng người đời khó lường (khó độ) lắm, e khi mượn kế sanh sự nữa, thì người với chúng ta khó mà khỏi tội lỗi, Xin nhớ lời dặn đừng quên ?' Tôi thích huyết thề nguyền, không dám nói lậu, lại ghi thêm các lời phán quan thơ lại dặn cho đời hiểu . Nếu tôi đặt điều mà giả mạo lời thần phật, trời đất thánh thần há dung sao ?
Nội đêm trùng cữu ấy, Đạm Si đạo nhơn ghi lời bạt .
LỜI BẠT CỦA VẬT -MÊ ĐẠO -NHƠN
Tôi hiệu là Vật -Mê đạo nhơn (người tu, thầy tu tiên), tháng sáu, năm Mậu Thân, đi dạo qua tỉnh Tứ -xuyên, huyện Song -lưu, dọc đường gặp thầy tôi là Đạm Si tôn giả (Hồ tăng sãi nước Liêu . Tôi hỏi thăm thầy ở đâu ? Thầy tôi trả lời rằng : Ta ở đất Luân hồi sanh tử (sống thác xây vần) ải Nhơn quỉ khứ lai (người ma qua lại) nghĩa là đi lạc xuống Âm phủ mà về đây . Ta nói cho ngươi rõ : những kẻ ở thế gian được phép đến mấy ngày vía Thập Vương, ăn chay cầu nguyện chừa lỗi cũ, cải ác tùng thiện, cứ lạy hướng bắc (chỗ Ngọc đế), nguyện chừa lỗi cũ, không dám phạm nữa, làm lành mà chuộc tội, sau thác hồn khỏi hành hình nơi các địa ngục ; ấy là ân xá giảm tội . Tại thế gian nhiều án chạy khỏi chối được chớ xuống âm phủ không lọt một mảy lông, không than cũng chẳng phép chuộc tội . Quí tại còn sống ăn năn làm lành mà trừ tội mới đặng . Ngặt người đời chẳng xét, tại cái thiện thì làm người, tâm ác thời làm vật . Song kẻ phụ nữ trăm người còn biết ăn năn làm lành một hai người . Chớ đàn ông ngàn người, may có một người cải ác ! Có nhiều khi gần chết mà chưa biết ăn năn, thì phải chịu hành nơi địa ngục !
Nay nhờ ơn Địa tạng vương bồ tát truyền Thập vương dọn Ngọc lịch, xin chỉ Thượng đế phê cho thế gian, biết ngày ăn năn nguyện làm lành chuộc tội, lại truyền bổn Ngọc lịch cho ta . Ta khuyên đời phải biết : có phước mới đặng làm người, còn sống, rán ăn năn lành lành kẻo muộn . Ngươi có lòng khuyến thiện, nay ta trao Ngọc lịch cho ngươi sao ra truyền cho đời biết '. Ta quì lạy lãnh cuốn Ngọc lịch thầy ta lần lần bay lên cao . Nên ta sao ra cho đời, ai khắc in ra lưu truyền cho đời khỏi tội thì mình được phước . Khuyên ai phạm tội mau chừa, không phạm thì rán mà giữ . Đừng đợi thác rồi, mới muốn sống lại mà tu không đặng .
VẬT MÊ ĐẠO NHƠN (ghi ký)
Mười ngày vía Thập vương, đều lạy hướng bắc :
Nhứt điện Tần quảng vương mồng 1 tháng 2
Nhị điện Sở giang vương mồng 1 tháng 3.
Tam điện Tống đế vương mồng 8 tháng 2.
Tứ điện Ngũ -quan-vương 18 tháng 2.
Ngũ điện Diêm-la-vương mồng 8 tháng giêng .
Lục điện Biên-thanh-vương mồng 8 tháng 3.
Thất điện Thái -san-vương 27 tháng 3.
Bát điện Bình -Đẳng -vương mồng 1 tháng 4.
Cửu điện Đô-thị -vương mồng 8 tháng 4.
Thập điện Chuyển -luân-vương 17 tháng 4.
Và 14, rằm, 16 tháng 5, mồng 3 tháng 8, mồng 10 tháng 10
ăn chay ngủ riêng như trên . Vía 10 vua, nội 4 tháng 1, 2, 3, 4.
THÁNH ĐÀN TRAI KỲ GIỚI KỲ
(cấm phòng)
Các vía lớn, ăn chay, hoặc ngủ riêng, khỏi tội đặng phước . Tuy không ăn chay mà ngủ riêng cũng quí hơn . Tháng nào nhuần thì theo tháng trước : Tháng giêng : Mồng 1 vía Di Lặc, Thiên-Lập, ngày cúng trời . Mồng 3 vía Tôn chơn -nhơn, tổ thuốc và Hát chơn nhơn, ông tiên . Mồng 6 vía Định -chơn -Phật . Mồng 8 ngũ điện, Giang- đông thần . Mồng 9 vía Ngọc -hoàng thượng đế . 13 Lưu -mãnh tướng quân . Rằm vía Thượng -nguơn, Thiên -quan đại đế . Hựu -thành Tịnh -ứng chơn quân . Từ mồng 8 đến rằm, các vị ấy đi dẹp yêu quái, ai ăn chay, ngủ riêng, tụng kinh, có phước hơn mấy ngày thường thập bội, 19 Khưu -trường Xuân, ông tiên, cũng tổ thuốc ông đặt chuyện Tây-du . Tháng hai : Mồng 1 vía Nhị - điện, Thái dương, Câu-trận . Mồng 2 vía Thổ địa chánh, Tử -đông Văn -xương (Tụng Bổn nguyện, Bảo sanh). Mồng 4 Táo tướng quân . Mồng 6 Đông-Huê đế quân . Mồng 8, Trương đại -đế, Tam điện, Thích -Ca xuất gia (tụng Kim cang) 13 vía Các -chơn -quan, tổ thuốc, Rằm vía Thái, thượng lão -quân (tụng Cảm ứng). Tinh -trung Nhạc nguơn-soái -17 vía Đỗ -tướng -quân . 18 Tứ -điện . 19 Quan -âm (tụng Phổ -môn, Cứu -khổ). 21 vía Phổ -hiền bồ tát, Thủy -long Thánh -mẫu nương -nương . 25 vía Huyền -thiên thượng -đế thánh -phụ Minh chơn -đế .
Tháng ba : Mồng 1 vía Nhị điện . Mộng 3 vía Huyền thiên thượng đế (tụng kinh Báo ân cho cha mẹ ). Mồng 6 vía Thượng lão tướng công, Nhạng hương . Mồng 8 Lục điện, 13 Trung ương ngũ đạo . Rằm Hạo thiên, Huyền đàn, Lôi đình, 16 vía Chuẩn đề Sơn thần, 18 Hậu thổ nương nương, Trung nhạc . 20 vía Tử tôn nương nương (bà chúa thai sanh). 23 Thiên hậu nương nương 27 vía Thất điện, 28 vía Đông nhạc đại đế, Khương hiệt (ông thánh chế chữ).
Thánh tư : Mồng 1 Bát -điện . Mồng 4 Văn thù bồ tát . Mồng 8 Thích -ca Phật tổ, Cửu điện, Doãn -chơn -nhơn . 14 Lữ -tổ, Thuần dương, Rằm Thích -Ca thành (tụng Kim -cang). 17 vía Thập -điện ... 18 Tử -vi đại -đế . 20 Nhãn -quang thánh -mẫu . 26 vía Chung -san tướng công . 28 vía Dược -vương cổ Phật .
Tháng năm : Mồng 1 Nam -cực đại -đế . Mồng 5 Địa -lạp (cúng đất). Ôn -ngươn-soái, Đặng -thiên quân . Mồng 7 vía Châu -thái -úy . Mồng 8 Nam phương ngũ -đạo 11 vía Đỗ -thành -hoàng (cai trị các thành -hoàng). 12 Bỉnh -linh -công . 13 vía Quan thái tử . 14 rằm, 16, ba ngày kị thần (cấm phòng). 17 Trương -thiên-sư . 20 Phùng chơn -nhơn . 29 Hứa oai hiển vương .
Tháng sáu : Mồng 4 chư Phật giáng . Mồng 6 Thôi -phủ -quân . Mồng 10 Lưu -hải -thềm đế quân . 13 Tỉnh -tuyền Long -vương . 19 Quan -âm thành đạo 23 vía Quan -đế, Vương linh-quan . Hỏa -thần . 24 Lôi -tổ . 26 Nhị -lang 27 Thiên -xu tả tướng (châu tử).
Tháng bảy : Mồng 7 Đạo -đức -lạp (cúng thần tiên), Ngưu -lang Chức -nữ . 12 Trường -chơn, Đàm chơn -nhơn . 13 Đại -thế chí bồ tát . Rằm Trung -nguơn, Địa quan đại đế . Linh -tế chơn quân . 18 Diêu -trì Tây -vương -mẫu nương nương . 19 Trị -niên thái -tuế (An giao). 21 Phổ -am tổ sư, Thượng nguơn đạo hoá . Đường chơn -quán . 22 Tăng phước tài thần, 23 Thiên -xu thượng -tướng chơn -quân (Gia -cát). 24 Long -thọ -vương bồ tát .30 Địa -tạng -vương bồ -tát (U -Minh giáo chủ). Tháng tám : Mồng 1 Thần -công Diệu -tế Hứa -chơn -quân . Mồng 3 vía Táo -quân (mồng 3 với 27 Bắc -đẩu giáng hạ phải cữ)
Mồng 5 Lôi -thinh đại -đế . Mồng 10 Bắc -nhạc đại -đế . 12 Tây -phương ngũ đạo Rằm thái -âm triều nguơn (tụng Thái -âm), 18 Tửu -tiên (Lý -thái -Bạch). 22 Nhiên Đăng Cổ Phật . 23 Phục -ma phó -tướng Trương -hiên -vương (ông Trương). 24 Táo -Mẫu (bà Táo .)
Tháng chín : Mồng 1 Nam đẩu giáng hạ (Từ mồng 1 đến mồng 9, 9 sao). Mùng 3 Ngũ ôn . Mùng chín Cữu thiên huyền nữ . Phong đô đại -đế . 16 Cơ thần . 17 Kim Long tự đại lương, Hồng ân chơn quân . 23 Tát chơn nhơn . 26 Ngũ hiển linh quan . 30 Dược Sư Phật .
Tháng mười : Mồng 1 Dân tuế lạp, Đồng hoàng . Châu chơn quân . Mồng 3 Tam mao ứng hoá chơn quân . Mồng 5 Đạt ma sư tổ . Mồng 6 Thiên tào chư tư, Ngũ nhạc Ngũ đế giáng hạ . Mồng 8 vía chư Phật hội niết bàn, phóng sanh có phước thập bội . (Nếu ngày mồng 8 tháng 10, làm một tội nặng bá bội ngày thường). Rằm Hạ nguơn Thủy quan đại đế, Đậu thần : Lưu sứ giả . 20 Trường hư Tịnh thiền sư . 27 Bắc cực Tử vi đại đế .
Tháng mười một : Mồng 4 Đại thánh chí thánh Văn tuyên vương (Khổng tử). Mồng 6 Tây nhạc đại đế . 11 Thái Ất Cứu khổ thiên tôn . 17 A di đà Phật (tụng Di đà). 19 Nhựt quang thiên tử, Cữu liên bồ tát . 23 Nam đẩu giáng hạ, Trương tiên, 26 Bắc phương ngũ đạo .
Tháng chạp : Mồng 1 Tiên phật giáng hạ (tụng kinh phước hơn nhiều). Mồng 8 Vương hầu lạp, Trương anh Đế, Thích Ca thành Phật (tụng Kim cang). 16 Nam nhạc đại -đế . 20 Lỗ ban . 21 Thiên du thượng đế . 24 Tư mạng Táo quân chầu trời (tối 23 cúng đưa trước). 29 Hoa nghiêm bồ tát . 30 Chư Phật giáng thế xét lành dữ .
Mỗi tháng mồng 8, 14 ; rằm, 23,29, 30 Bắc đẩu giáng hạ, ăn chay tụng kinh .
Tùng nhiên hòa thượng ở chùa Thiên thai đặt bài khuyên thế .
Người đời chẳng tin nhơn quả báo ứng, nên có kẻ số thọ mà yểu, số giàu mà nghèo, tướng làm quan mà thi rớt ! Sách Bửu giám nói :' Lành thì trả lành, dữ thì trả dữ : nếu chưa trả, tại ngày chưa đến '. Lại có bài thơ rằng :
Trời sanh khó dối bởi không tây (tư -vị).
Mới tính thần hay nạp sổ nầy .
Lành dữ rốt rồi đều trả quả .
Chẳng qua đều kíp với đều chầy .
Kinh Nhơn quả nói ;' Phỏng kiếp trước dữ lành, coi đời nầy hoạ phước . Độ kiếp sau hoạ phước, tại đời nầy dữ lành '. Lại nói rằng :' Dầu làm dữ mấy kiếp, cũng trả cho mình '. Kinh Niết -bàn nói :' Quả báo có ba cắch ! 10 Hiện báo, làm lành dữ đời nầy, trả phước họa cũng nội đời nầy ; 20 Sanh báo : kiếp trước làm, trả kiếp nầy, đời nầy làm, trả đời sau ; 30 Tốc báo : mới làm lành dữ, trả phước hoạ nhãn tiền, trước mắt tức thì '. Phải biết trời đất không tư vị ai, tại mình làm lành dữ nặng nhẹ, nên trả mau chậm khác nhau . Người đời khó hèn, điếc câm đi nhót, gãy tay, tật nguyền bịnh trời cho, đói lạnh, đều tại kiếp trước hưởng xài quá lẽ, làm dữ phạt nội đời ấy chưa hết kế tới số chết, nên đầu thai kiếp nầy phải phạt thêm cho đủ tội, Như vậy mà không tin nhơn quả báo ứng làm sao ?
Người đời những kẻ không tin địa ngục, đến gần chết hay thấy ma quỉ, hoặc nghe tiếng binh khí, xiềng tỏa mới tin có quỉ thần địa ngục, liền van vái cầu thần . Té ra đèn giữa gió, gần tắt, ăn năn muộn sao kịp, khó trốn quỉ Vô thường . Quí tại ăn năn cho sớm, tỉnh lại mà tu, gần chết mới sợ vô ích .
Đời Tùy vua Khai hoàng, có quan tự thừa Triệu văn Xương chết đi sống lại nói rằng :' Hồn xuống âm phủ thấy Châu Võ đế bị xiềng ba lớp tại phòng, kêu Xương lại mà nhắn rằng :' Khanh về tâu với Tùy hoàng đế rằng : các tội trẫm cãi lẽ xuôi hết, còn một tội hủy Phật nặng lắm, mau làm phước bố thí, tụng kinh mà cầu cho trẫm khỏi tội ,' Xương ra ngoài thấy một người dưới hầm phẩn ló đầu lên, hỏi ai đó ? Người ấy đáp rằng :' Ta là Bạch -Khởi, tướng mạnh đời Tần '.
Sách Danh thần ghi :' Kinh Công có tên con Phương dữ lắm, xúi Kinh Công làm nhiều điều trái lẽ . Đến Phương thác, Kinh Công mơ màng thấy Phương mang gông đứng dựa cửa . Kinh Công sửa nhà làm ra kiểng chùa, bố thí tụng kinh cầu Phương khỏi tội '. Lấy sách nho đó làm chứng, đủ tin Ngọc lịch, thì khỏi khổ phần hồn, Ông Tư mã Ôn công nói :' Trên có Thiên đường . Người quân tử thác rồi, lên Thiên đường, dưới có Địa ngục, tiểu nhân thác rồi hồn sa Địa ngục .' Sao gọi không Thiên đường Địa ngục ?
Đoan sơn đại tiên là ông Vương chương, đặt kinh thế lục rằng :' Thiệt quả có Địa ngục . Bởi người tính lành, thì thuộc dương sáng, nên khí thanh lên thiên đường . Còn lòng tính dữ, thuộc âm tối nên khí trược xuống Địa ngục . Diêm quân tra hỏi, hành tội mổ bụng rút ruột, đốt cháy nấu dầu là tại lòng chứa dữ '.
Người đời không tin thác rồi đầu thai . Như kẻ không con, cưới vợ bé nhiều cũng vô ích, vì không thai nghén hoặc có nghén bị tử phúc trung, hoặc chết theo mẹ, không thì nuôi lớn chưa kịp có con mà chết yểu, thì cũng vô hậu, những kẻ ấy thiệt là vô phước lắm . Nếu vợ chồng có con sum hiệp đến già, tuy khó hèn cũng là có phước nhiều ít mới đặng vậy .
Sách danh thần nói :' Mẹ ông Phạm -tổ -Võ, lúc gần sanh ổng, chiêm bao thấy người cao lớn xưng mình là Đặng -Võ tướng quân đời Hán, thức dậy sanh con trai mới đặt tên Tổ -Võ . Đến lớn ở thuần lắm, nên đặt tự Thuần -Phu '.
Còn sách Tự -Loại, sách Mông -Cầu, có ghi tích Dương Hộ sanh ra, mà nhớ chiếc vòng kiếp trước . Bảo Tịnh nhớ cái giếng kiếp trước . Con gái Hướng Tịnh chết non . rồi đầu thai lại nữa, nàng nói chuyện kiếp trước không sai . (Con ranh con lộn mà nuôi được ). Ngươi Văn Thẩm sống lại nhập vào xác khác . Những tích ấy đều tại sách Nho, sao không tin luân hồi đầu thai kiếp khác .
Phàn người lành, đầu thai nhà giầu sang có đức mà hưởng phước . Công quả bằng nhau đầu thai nhà tầm thường . Công ít quả nhiều, đầu thai nhà rủi ro, hèn khó mà trả quả . Như trong Ngọc lịch nói :' Thử lòng kẻ ấy, còn làm dữ nữa, không biết ăn năn mà làm lành, Thác Địa ngục làm con Tích, đầu thai làm thú vật, nếu về hoá sanh lộn mãi, hết trông làm người '.
Bà Diệu Huệ chơn nhơn (bà thân ông Văn Xương) nói :' Con người ở đời, sống thác không nhứt định, ở tạm rồi đi, như trăng tròn khuyết, như hoa nở tàn . Ngày nay mới sanh là hồn chết kiếp trước lộn lại . Nếu thân trước chưa thác, thì hồn ấy có lộn vào xác nầy mà sanh ra đâu . Nếu ngày nay đến chết mà biết mình tội nhiều, thì trông chi đầu thai tử tế .
Người đời chẳng tin thác rồi đầu thai làm thú vật . Sách Nho biên sự đầu thai ấy rất nhiều, chẳng phải một tích . Sử Tùy thơ, Lý sĩ Khiêm nói :' Ông Cổn là cha Địa Võ, hoá làm con cua đinh ba cẳng, gọi là con ba ba, Ngươi Đỗ Võ hóa làm đề Quyên là con quốc . (Nên chim quốc tên là Đỗ Võ Đỗ Quyên). Bao Quân hóa rồng . Ngưu Ai hóa cọp, Bành Sanh hóa heo rừng . Như Y hóa chó . Huỳnh Mẫu hóa vịt, như càng thay lớn lắm . Tuyên Võ hóa trạch (cua đinh, tục kêu là cá giải). Đặng Văn hóa trâu . Từ Bá hóa cá . Kim Hạ hóa quạ, Thơ Sanh hóa rắn '. Các điều đó biên nơi sách Nho, sao mà không tin ?
Đức Thánh Khổng -tử nói :' Sanh ra đến già phải thác, làm người chẳng sống đời, nếu theo dữ bỏ lành, sao khỏi làm loài khác '. Kinh Lăng Nghiêm nói :' Người thác làm dê, dê thác làm người '. Phổ Am tổ sư đặt bài kệ rặng :' Súc sanh bổn thị nhân lai tác, nhân xuất luân hồi cổ đáo câm, Bất yếu phi mao tinh đái giác, khuyến quân hưu sử súc sanh tâm '. Nghĩa là : người lộn súc sanh cũng tại tâm, xưa nay người vật chuyển luân thầm . Muốn không đội gạc mang lòng xấu, khuyên chớ làm theo dạ thú cầm .
Ông Tịnh Trai học sĩ nói .' Thông minh bất năng địch nghiệp, phú quý, khởi miễn luân hồi '. Nghĩa là : Khôn lanh khó chữa tội, phú quý cũng luân hồi .
Ông Hồng Mai nói :' Hay coi thọc huyết heo, làm thịt dê, sau gần chết la như tiếng heo dê kêu vậy, có khi chết rồi đầu thai làm chim, cho người mua mà thả . Nếu đàn bà hay coi sát sanh dê heo lắm, có khi đẻ ra đầu dê, hoặc mình rắn, hoặc trứng như trái cầu (đẻ bọc) '. Cứ theo lời ấy, người ta còn đẻ súc vật côn trùng, hoặc đẻ trứng, huống chi thác rồi đầu thai làm súc vật, mà gọi không lẽ . Bởi luân hồi mà trả nợ thường mạng, là nhơn quả xoay vần . Khuyên đời đừng gọi mắt chưa thấy nên chẳng tin, cứ làm dữ mãi (tin tại phải lý, lựa chờ mắt thấy, đợi mắt thấy đà chết rồi còn gì ! ).
Xưa có kẻ hỏi thầy Trình -tử rằng :' Phật nói chết rồi đi đầu thai nữa, sự ấy thấy thiệt chăng ? Thấy Trình -tử nói :' Sử ấy nói có nói không cũng khó hiểu . Song xét lời đức thánh Khổng -tử dạy rằng :' Vị tri sanh, yên trí tử ' (chưa biết sự mới sanh đâu biết sự thác rồi), do một câu ấy thì đủ hiểu rồi '. Coi Trình -tử và ông thánh đời Tống ; mà chưa dám gọi không luân hồi đầu thai . Còn xét lời nói đức thánh Khổng -tử, đâu biết việc thác, thì sự luân hồi đầu thai không phải huyễn .
Ông Châu -liêm -Khuê tự Mậu -thức, là thầy hai ông Trình -tử, Trình -Hi, Trình -Hạo, ( Y Xuyên với Minh Đạo ). Khi ấy ông Châu -liêm -Khuê hỏi thầy Huỳnh -Long-Nam thiền -sư rằng :' Chẳng hay đạo Phật có dạy sự nhiệm mầu riêng hơn đạo nho chăng ? ' Huỳnh -Long Nam thiền -sư nói :' Thầy hãy xét các câu sách nhà nho của thầy như đức Khổng -tử nói :' Triêu văn đạo, tịch tử khá hỉ ' Nghĩa là 'Sớm mai nghe thấu mùi đạo, chiều thác cũng đành '. Xét đạo ấy nghĩa là chi ? Còn ông nhan -tử không đổi sự vui, là vui việc gì ? Xét ra lý hai câu ấy, lâu lâu mới biết hiệp cái nhiệm mầu của đạo Phật, chớ không chi lạ mà hỏi '.
(Đạo là thông hiểu sự phải, chắc ý mà làm, chẳng hồ nghi chi hết, vì biết số mạng trời định, cứ phải mà làm, tố nào theo tố nấy, chẳng phải rán cượng cầu mà đặng, nên đức Khổng -tử nói :' Nếu cầu đặng sự giàu, tuy ra sức mệt nhọc, làm việt hèn hạ như kẻ đánh xe, mà đặng giàu ta cũng rán chịu cực chịu nhục mà làm cho giàu . Nếu tại số trời định, có cượng cầu cũng vô ích, thì thà an phận mà theo tố, là chỗ ưa của ta '. Nên ông Nhan -tử thông mùi đạo, cứ giữ đức hạnh học hành sửa mình gọi là vui theo tố bần tiện, chớ không rầu buồn sự nghèo khó, nên sau ngày mãn phần làm chức Tu -văn -Lang tại Âm phủ cũng đồng liêu với thầy Tử -Hạ . Đức thánh Khổng -tử cũng nói :' Thực sơ phạn, ẫm thủy, khúc hoăng nhi chẩm chi, lạc tại kỳ trung hỉ . Ăn cơm rau, uống nước lã, co tay làm gối nằm, ngài cũng vui vậy, là tại biết đạo, biết mạng, tố nào theo tố nấy .' Quân tử vô nhập, nhi bất tự đắc '. Người quân tử không gặp cảnh nào mà chẳng vui, bởi vậy ngài mới thành thánh . Người đời không biết đạo, lòng tham vọng tưởng, cượng cầu cực khổ, không lợi lại bị hại, mau chết mà mắc tội nhiều, hại tới thân kiếp sau và để họa cho con cháu .
Người đời xem Ngọc -lịch mà nửa tin nửa nghi, chưa dám đoán chắc là tại học chưa đủ lý ; té ra gặp phước mà bỏ qua . Nếu hiểu nhơn quả đời trước làm lành dữ, đời nay chịu phước họa . Đời nay làm lành dữ, thì kiếp sau chịu phước họa mà còn nghi chi nữa ? Nay nhờ ơn trời, nhậm lời Thập vương chư thần, cho truyền Ngọc lịch đủ bằng chứng khỏi nghi, cũng như tích Lâm -tự -Kỳ sống lại, ghi lại cuốn Hồi -dương nhơn -quả thì mau ăn năn làm phước chuộc tội nếu đợi gần chết ăn năn sao kịp ?
TÍCH TRUYỀN NGỌC LỊCH MÀ CỨU HỒN MẸ
Tỉnh Tứ Xuyên, thân Dậu đường, ông Viện- cẩn- An mãn phần, để một trai lại, tên là Dức- Sơ mới bảy tuổi. Vợ Cẩn An là Thiệu- thị thương con ốm yếu, nghe lời họ bày phép bổ nguơn , mỗi ngày dùng gà mập, nấu lấy nước thịt gà làm canh cho con ăn cơm. Nên mua gà nhiều lắm, đào trùng dế, nuôi cho mập đặng nấu cho con ăn. Dức-Sơ 15 tuổi Thiệu- thị bịnh ghẻ đau nhức cùng mình, như dế
cắn gà mổ, mà cũng còn nhắc đầy tớ gái, làm gà cho con ăn. Đức-Sơ hiểu ý liền
cản cấm không cho làm gà nữa. Thiệu thị đau bảy năm, gần chết làm gà gáy , dế kêu, cào rách mình mà chết ! Đức-Sơ khóc kể vì mẹ thương mình, nên sát sanh mới bị quả báo, liền thề cữ sát sanh Cách một năm có nàng Ning-Cô là chị con nhà bác, gả cho Tiền bị đẻ mà chết. Hồn xuống Nhựt-điện, vua xem bộ phán rằng :' Nàng nầy tội nhiều, đáng bị sản nạn, giao qua Nhị-điện hành hình '. Phán quan tâu rằng :' Viện-ninh-Cô có khuyên cha mẹ chồng đừng đốt cây khô nhiều kiến, đã ba lần. Lại khuyên chồng khắc in van giới sát
cho người 5000 tờ và phụ in kinh Quan-âm phóng sanh văn 3000 tờ. Táo quân tâu Thượng-đế cho sống thêm 30 năm nữa. Vua Nhứt-điện đứng dậy phán rằng :' Lành thay !' Liền sai kẻ áo xanh cầm phướng đưa hồn về. Ra tới cửa ngõ đỏ, có thắp đèn vàng, nghe tiếng kêu rằng :' Ninh-Cô cứu ta với !' Ninh-Cô ngỏ thấy thiếm là Thiệu-Thị đầu tóc chôm bôm, mình máu lội bộ, chạy theo khóc rằng :' Cháu sống lại nói cho con ta hay, rằng ta bị khổ dưới âm-phủ bảo làm phước mà chuộc tội cho ta, nếu khỏi tội, ta về cho chiêm bao mách bảo trả lời. Xảy thấy quỷ tóc đỏ cầm chĩa đâm họng Thiệu thị mà dẫn đi, Ninh cô sống lại, thuật chuyện... Đức sơ hay, liền lạy Phật làm chay, tụng kinh tới 19 năm mà không thấy chiêm bao. Cưới vợ là Thi thị, cũng cữ sát sanh. Sau thấy kinh Ngọc Lịch, Đức Sơ nguyện sao tả cho người đặng chuộc tội mẹ. Mới tả được 120 bổn lẻ, cho mới được 108 cuốn. Nhằm niên hiệu vua Càn-long trào Thanh, là năm canh ngũ, đêm rằm tháng giêng, chiêm bao thấy Thiệu thị về vỗ lưng con mà khen rằng :' Con thiệt có hiếu. mẹ ra khỏi ngục, nhờ phát Ngọc lịch 49 người hồi tâm, vua đà tha tội, lại cho về mách bảo con hay, hồn mẹ được về ở tại mã, giờ tý ngày 18 nầy, sẽ đi đầu thai hưởng phước. Còn con cũng đặng sống lâu nữa '.
Đức Sơ hỏi :' Cha tôi bây giờ ở đâu? ' Thiệu thị nói : ' Đầu thai đã lâu, lại chú giải kinh Nhơn quả với Thiệu thơ, nên thi đậu làm quan và mạnh khoẻ '. Đức Sơ hỏi :' Ở tại xứ nào? ' Thiệu thị không nói, xơ Đức Sơ thức dậy. Đức Sơ thuật chuyện cho vợ nghe...Thi thị nói :' Tại mình mơ tưởng sao tả Ngọc lịch nên chiêm bao thấy vậy '. Sáng Đức Sơ dọn đồ ăn bưng tế mã mẹ và đốt giấy áo, vàng bạc, vái rằng :'Nếu mẹ cho con thấy chiêm bao nữa, thì con mới tin chắc '. Đêm ấy, Đức Sơ thấy Thiệu-thị về điểm mặt Thi-thị mà mắng rằng :' Mầy ghét chồng sao Ngọc-lịch nên mầy xé năm cuốn, thiếu chút nữa mà hại ta ! Lại nói cho chồng không tin điềm thiệt, mầy sẽ mắc họa bây giờ '. Đức-Sơ giựt mình dậy hỏi vợ, sao mình xé 5 cuốn Ngọc lịch. Thi thị nói: "Đừng có nói yêu nói ma, có ba điều không đáng tin lắm : 1. Cữ sát sanh, không cho đồ sống vô nhà, như sãi vãi một thứ; 2. Đêm nào ngày nấy, thầy sãi tụng kinh hơn hai mươi năm mà cũng còn mắc tội dưới âm phủ ! Giá gì sao mấy bổn kinh mà phước nhiều vậy? Còn tin là nghĩa gì? 3. Nói tôi xé 5 cuốn, sao mình không nghĩ? Mình viết rồi cất vô tủ khóa lại, tôi làm sao mở đặng mà xé, còn tin nỗi gì? Chẳng phải thiệt hồn mẹ về mách bảo đâu ! Ấy là mình vọng tưởng mà thấy bậy, e không bao lâu, sẽ điên cuồng mà chớ !" Đức Sơ nghe nói lưỡng lự, vì cũng phải lý dễ nghe. Đêm 17 qua ứng mộng bên nhà em
Thi thị và ứng mộng nhà cháu là Ninh-Cô, rồi ứng mộng dâu con mà mắng rằng :' Mồng sáu tháng bảy năm ngoái Châu-phụng-Cô là gái xóm nầy vào nhà ngồi chung với mầy mà thêu giày, mầy có lấy một cuốn Ngọc lịch để trong rổ may. Đêm sau mầy giận chồng mầy không cho Phụng-Cô vô nữa, nên
mầy xé 5 bổn Ngọc lịch. Bữa sau em mầy là Thị-Phúc đến thăm, thấy kinh rách, năn nỉ xin về đóng lại dán lại viết vô mà cho người, Âm phủ đã ghi phước cho Thị-Phúc. May sao con ta để vô tủ mà khóa, phải không thì mầy cũng xé nữa ! Nay lại chối lức đặt chuyện ba điều không đáng tin, tội già làm nặng lắm. Táo thần với Thổ địa đã chịu cho tà quỉ vô nhà hành mầy chạy đâu
cho khỏi họa !' Nói rồi xô đổ bàn để đồ trang điểm một cái rầm ! Vợ chồng giựt mình thức dậy ! Đức -Sơ hỏi vợ tin không ! Thị-thị nói : Ai tin thì gọi có, ai không tin thì gọi không '. Xảy thấy một đống khói đen bay vô cửa phòng ! Thị thị rùng mình, ngó chồng mà nói rằng :' Mình tả thêm ít cuốn nữa, thà tin là có, chớ gọi là không '. Đức Sơ biết vợ có xé kinh thiệt, nên mới nói như vậy. May mẹ đã đầu thai, nên tin chắc, thôi cậy sãi tụng kinh nữa, quyết lòng tả Ngọc lịch làm phước.
Đêm ấy Thi-thị phát óng, lưng vai đau nhức như đánh như dần. Rước thầy thuốc coi mạch. Thầy thuốc nói :' Ấy là âm độc làm ghẻ ác, phần thím có thai, nên không dùng thuốc nóng mà trị, thế phải chịu phép !' Đức Sơ rầu lắm. Kế em vợ là Thị Phúc ghé. Ninh-Cô cũng đến thăm, đồng thuật chuyện chiêm bao, bảo Dức-Sơ van vái. Đức Sơ vào bếp, vái ông Táo, nguyện tả một trăm bổn Ngọc lịch mà cầu cho vợ mạnh. Thi thị đương nóng mê, vùng dậy quì dưới đất, lạy khan mà nói rằng :' Từ rày sắp lên, tôi tin Ngọc lịch, tình nguyện bán hết đồ nữ trang mướn tả Ngọc lịch, cho người mà chuộc tội '. Xảy thấy ông đội mão thất tinh, bận áo đen, đuổi đống khói đen dưới giường lăn ra bay ra mất. Thi-thị bớt nóng hết sưng lưng vai (chứng phát-bối). Bữa sau sanh con trai, mẹ con mạnh khoẻ. Nội trong hai tháng, vợ chồng mướn nhiều người tả đủ một trăm bổn Ngọc-lịch cho người. Bởi vợ chồng cám ơn thần, nên biên sự tích vào đây mà khuyên đời, không dám giấu sự lỗi.
BỞI CHÊ NGỌC LỊCH BỊ PHẠT NHÃN TIỀN
Phan ngưỡng Chí là học nho, không tin Ngoc lịch, viết bậy vô mà kiêu ngạo. Phê tại câu :' Đâu thấy hồn ma mang gông '. Đề ba chữ son rằng :' Thị chi chỉ '. (rất phải lắm). Bởi mực mấy bài từ Nhứt điện tới thắt điện. Tại Ngũ điện lấy son gạt tréo. Trên câu nói :' Uống rượu lảng phí, ' nó đề hai chữ son lởn. ' Khả tiếu ' (Tức cười quá !). Chỗ Thập điện nói câu :' Đàn bà con gái bị học trò gật nên thuận theo thất tiết... ' Nó đề II chữ mực : ' Phụ nữ tự kỉ tầm tử, dữ nam tử hà thiệp?' (Tại phụ nữ liều mình, đàn ông có can cớ gì ?' Chỗ nói đầu thai, nó đề hai chữ son :' Loạn họa !' (nói bậy !) Chỗ Mạnh bà, mấy câu ấy, nó chấm mực vài hàng. Trên bốn chữ ' Khổ căn nan đoạn ' ( còn đầu thai cõi trần cực khổ ) nó khuyên son trết ! Tới câu :' Làm hồn ma mang thây nữa,' nó khuyên son 9 khuyên. Từ ấy sắp sau, chỗ bôi chỗ gạt tréo, cho tới chỗ câu : ' Hào quang chiếu sáng, Quan âm giáng hạ,' nó vùng phát điên. Nửa đêm nó mở cửa chạy ra phố chợ , hai tay chống đất, bò càng, lật phao tay đổ máu, trầy đầu gối lả giò, bò một hồi làm như bị trói cẳng, mọp đó la lớn rằng: ' Bớ con ơi ! ! Mau đem cuốn kinh Ngọc lịch ra đây, đặng đưa cho lối xóm, đem cúng trong chùa Tây Nhạc đại đế '. Con nó về lấy kinh trao cho xóm, trở vô thấy nhà phát hỏa, cóng cẳng chạy ra không kịp nên bị chết thiêu ! Nó nóng họng chạy về chữa lửa, thấy vợ nó là Hoăng thị lõa thể (trần truồng) chạy ra, Ngưỡng Chí mắc cở nói với xóm rằng : ' Người đời đừng bắt chước tôi ở độc nhiều năm, nay thấy Ngọc lịch, còn không tin mà chừa lỗi, lại phê ngạo nhiều câu, nên bị trời phạt nhãn tiền độc quá ! ' Nói rồi lửa cháy tới, cứng cẳng chạy không đặng, phải bị chết thiêu. Bầy chó nhảy vô kéo thây ra, xé ăn tới xương cốt ! Xóm coi thấy phê trong Ngọc lịch như vậy, ai cũng rùng mình ! Mới biết tại tội nặng quá, nên trả lẹ lắm ! ! ! Còn vợ nó mắc cở trốn xứ nào bặt tin không biết !
GANH GHÉT MUỐN DẸP NGỌC LỊCH BỊ BÁO NHÃN TIỀN
Tại xứ Tây hương, chùa Thổ cốc (ông Trương), có một sãi, tên Đạt Viễn, đặng cuốn ngọc lịch, cầm qua am Thuần dương mà coi với đạo -sĩ (thầy pháp) tên Quán-Tiên. Hai thầy coi tới chỗ thầy chùa thầy pháp ăn tiền tụng mướn mà tụng sót, thác sau phải vào sổ Bổ kinh mà tụng bổ, vân vân. Lại coi tới chỗ luân hồi, nói thầy chùa thầy pháp có tội nhiều, các ngục hành hình không đặng, phải cho uống thuốc mê, đầu thai tử phúc trung, hoặc chết yểu nhiều kiếp, cho lú quên hết kinh chú, rồi mới hành hình, vân vân. Đạt -Viễn nói : ' Chúng ta nhờ cậy tụng kinh mướn mà khá, nếu Ngọc lịch lưu truyền nhiều chỗ, thì nghề làm ăn chúng ta phải ế ! Dầu xé đốt Ngọc-lịch cũng không hết đặng, biết tính làm sao? Quán-Tiên nói : ' Tôi biết cầm cơ thỉnh tiên. Thầy sẽ bảo các sãi rủ người ngoài, hoặc bổn đạo đến coi thỉnh tiên. Tôi làm bộ cơ lên, viết chữ nói phá Ngọc-lịch thì chúng hết tin '. Đạt -Viễn đi khoe cùng nói tại am Thuần-dương (Lữ-đồng -Tân) thỉnh tiên linh lắm, ai cầu hỏi việc gì, thì đến mà hỏi, hoặc xin toa thuốc xin bùa, thần tiên cũng cho '. Thiên hạ nghe nói lưu truyền lần ra, nên ngày nọ nhiều người đến am Thuần-dương coi đạo -sĩ thỉnh tiên tới dưng hương chật trong chật ngoài. Quán-Tiên làm bộ lập bàn xông cơ, lúc đỏ đèn niệm chú, phun nước đốt bùa... Một lát cơ lên, đồng bưng cơ, thầy lại coi, viết chữ trên mâm cây vuông đổ cát. Quán-Tiên kêu ai biết chữ lên coi chữ tiên viết, Người biết chữ lên đàn, coi thấy trong mâm cát có bảy chữ lớn rằng : ' Ngô Thuần-dương tổ-sư chí hỉ ' và chín chữ nhỏ : ' Phàm nhơn khấu vấn giả, tốc tốc lai vấn '. (Nghĩa là : Ta là Thuần-dương tổ-sư đến rồi. Ai hỏi sự chi, mau lên mà hỏi). Ai nấy nghe đọc như vậy, thì rùng rùng lên đàn. Quán-Tiên nói : ' Đừng lại đông lắm, hỏi rộn không nên, vô từ người mà hỏi tử tế '. Đạt -Viễn quì lạy vái lớn rằng : ' Chẳng hay trong đời việc chi quí hơn hết, xin tổ-sư chỉ dạy Cơ viết nhiều chữ nhỏ như vầy :
' Thứ nhứt kính đạo -sĩ (thầy pháp) thứ nhì trọng thầy chùa, Đạo -sĩ dâng sớ, cầu đặng sống lâu. Hòa-thượng tụng kinh siêu-độ, đưa vong hồn về Tây-phương. Duy có một chuyện không nên nghe, là thứ Ngọc-lịch bảo ăn năn chừa lỗi làm lành mà trừ tội ! Có đâu dễ như vậy ! Nhiều người tin khắc bản lưu truyền mà gạt kẻ dốt phải lầm ! Nếu ai gặp Ngọc-lịch thì xé mà đốt đi, thì đặng phước lớn '.
Người coi đọc rồi, lấy giấy chép ra chưa rồi bài ấy. Xảy thấy hào quang xanh lét chiếu vô đàn, Quán Tiên rùng mình té xuống đất, Đạt Viễn cũng nhào theo. Người chép bài ấy, đứng dựa bàn Lữ tổ, trợn mắt hét lớn rằng : ' Ta là Liễu tiên đây ! Vưng lịnh tổ sư truyền dạy cho đời rõ : Bởi vì người đời vô phước làm dữ không ăn năn. May nhờ trời nhậm lời Thập vương các thần tâu, ban phát Ngọc Lịch cho Đạm Si đem về, truyền người đời xem mà chừa lỗi, không dám phạm nữa, lời thần tiếng Phật tiên thánh khuyên răn. Thượng đế truyền chỉ Đô thành hoàng mỗi ngày canh phân phiên các du thần ngày đêm soi xét nhơn gian lành dữ. Nay có thầy chùa là Đạt Viễn, thầy pháp là Quán Tiến, dám ganh ghét Ngọc lịch, lên cơ mà giả nói gạt đời. Tội hai đứa ấy đáng đọa địa ngục hành tội cho đến kiếp rồi giam ngoài ngục A tì, không đặng đầu thai. Nếu ai ghét Ngọc lịch, mà không tin, cũng phạt như Quán Tiên Đạt Viễn vậy '. Nói rồi, ngó thấy cơ tự nhiên không ai vịn mà lên, viết 33 chữ như vầy :
Tâm bịnh tư tương tâm dược y.
Huyến nhục huân tính thiểu ngật ta.
Thơ trung tự hữu ba la mật.
Năng sử oan khiên tận thoát ly.
Ngô Liễu Tiên khứ dã
Thích nôm :
Bịnh tâm, thời trị thuốc bằng tâm.
Huyết thịt ít ăn đặng phước thầm.
Ngọc lịch thánh thần tiên Phật dạy.
Độ đời khỏi đọa, hết mê lầm,
Ta là Liễu Tiên đi rồi
Người coi chữ sao chép rồi, bước xuống nói rằng : ' Hồi nãy tôi chép còn một ít chữ thì hết bài trước. Xảy thấy một ông mặt xanh môi đỏ, lên đàn, bảo tôi truyền lời Lữ-tổ dạy, rồi đằng vân bay mất ! '. Ai nấy hãi kinh về hết. Không biết Quán Tiên với Đạt Viễn đâu mất ! Cách vài bữa nghe nói Quán Tiên với Đạt Viễn hai người bầm mình la hoài cho tới chết, mới biết quả báo nhãn tiền lẹ quá ! Ghê thay ! !
KINH-TÍN -LỤC
(truyền Ngọc-lịch, được phước)
Người bị chết trôi, lửa cháy, trộm cướp, tai họa, đều đổ tại thời vận, không dè tại mình làm dữ mà ra. Bởi chẳng kiêng trời đất, không tin Tiên Phật Thánh Thần, bất trung, bất hiếu, bất nhơn, bất nghĩa, hủy hoại lúa gạo, bỏ xả giấy chữ nho, sát sanh hại vật, khoe mình hiếp người, mê đờn ca, đắm tửu sắc, theo bài bạc gian lận, nếu phạm các tội ấy, dẫu có khỏi tội dương pháp, thì cũng bị thần phạt mắc tai họa. Nếu in Ngọc -lịch, gặp ai cũng giảng tội phước quả báo, sau thác đã tiêu hết tội, mà còn sống bây giờ cũng được hưởng phước sống lâu. Nay mới nghe cái tích làm lành đặng phước đổi rủi ra may, kể ra sau nầy, đều việc nhãn tiền, thiên hạ có nghe có thấy.
Ông Huỳnh-phương-Châu ở huyện Đại hưng, trấn nhậm huyện Khúc Dương, làm quau giáo thọ, vợ cũng làm lành. Khi đương làm việc tại đó, khắc bản kinh Kim cang, kinh Cảm ứng, kinh Âm chất, in mỗi thứ vài ngàn bộ, vợ in Ngọc -lịnh vài ngàn cuốn mà cho người, phóng sanh chim cá không biết mấy muôn ngàn mạng. Sanh năm người con trai, đầu lòng là Thúc Lâm đậu Than hóa, còn bốn người kế là Thúc Kinh, Thúc Kỳ, Thúc Huyển, Thúc Tuyên đều đậu.
Mục-quốc-Duy ở huyện Ngộ, đậu Tiến sĩ trào Minh Thiên Khải, ở nhà không làm quan. Hay thỉnh nhiều thiện thơ (kinh lành), thấy Ngọc-lịch liền sao tả cho người thấy, có rách thì dán lại, năm thất mùa thì đâu đậu thí lúa, lúc thiên thời thí thuốc. Con trai là Huệ Viễn đậu Tiến sĩ trào Minh Thuận-trị, cháu tên Đồng đậu Trạng nguyên, Cảnh Tuyên đậu Truyền lô, Kế Nhượng đậu Tiến sĩ. Con của Đồng tên Tảo đậu Bảng nhãn, các chắt đều bổ Hàn-lâm, Tiến sĩ , nối đời làm quan, cũng nhờ bố thí.
Bành-nhất-Âm ở huyện Trường châu, gặp thất mùa thì thí lúa, thấy thiện thơ thì in. Con tên là Cần, sao tả Ngọc-lịch dư trăm mà cho người, thi đỗ Trạng nguyên, chắt là Khải Phong cũng đỗ Trạng nữa, bởi nhờ thí Ngọc lịch.
Từ trước Đình ở huyện Côn san, làm biện lại với quan Nghiêm văn Tịnh. Khi trấn nhậm tỉnh Chiết giang, dân bị nước lụt. Trước Đình nói nung cho ông Nghiêm văn Tịnh bố thí, cứu sống nhiều mạng. Còn làm phước điều nầy : Lúc trào Minh vua Sùng Trinh, bị loạn, giặc bắt vài trăm phụ nữ, gởi tại Trước Đình bảo giữ giùm. Từ trước Đình lén cho phụ nữ bạc tiền, mà thả đi hết, rồi lập thế đốt nhà mà phi tang, đem bản kinh Ngọc-lịch với gia quyến trốn qua ở huyện Thái dương mà lánh nạn. Thuở nay Từ trước Đình in Ngọc-lịch thí cũng nhiều lắm. Đến thái bình, con trai lớn là Từ kiền Học thi đỗ Thám hoa, làm tới chức Thượng thơ , con giữa là Bĩnh Nghĩa cũng đậu Thám hoa, làm tới chức Thị lang, con út là Nguơn Văn làm tới Thiên quan chủng tể. Năm người con của Từ kiền Học là Thọ Cốc, Huỳnh Thọ Mẫn Thọ, Từ Bình, Từ Tuấn đều thi đậu.
Thái bội Lan ở Hồ-châu, ở hiếu đễ (thảo thuận), tiện tặn cho dư mà bố thí, hay thí thuốc cho nhà nghèo, con côi đàn bà góa cậy mượn thì chẳng tiếc. Nếu phụ nữ hoặc trẻ thơ làm mất đồ không dám về nhà, thì cho mà thường lại. Hay cho kinh Ngọc lịch, 84 tuổi không bịnh ngồi xếp bằng mà mãn phần. Lối xóm thấy có Tiên đồng Tiên nữ mời Bội Lan lên xe. Cháu là Khải Tôn, chắt là Thăng Nguơn đều đỗ Trạng.
Hùng triệu Đãnh ở huyện Nam-xương, làm thầy thuốc thuở 19 tuổi. Coi Ngọc lịch thấy khoản dung y hại người bị vào Hụơt -đại địa - ngục nên giữ mình trị bịnh kỹ càng và giảng cho thầy thuốc khác nghe nữa. Mình đã in thí, lại rủ nhiều Người, Phàm trị bịnh không nài cực khổ. chẳng luận giàu nghèo Nếu kẻ nghèo không có sậm, cũng tán nhỏ mà cho không. Nhà giàu thưởng bao nhiêu tiền, đều tùy cơ bố thí cho kẻ khó. Gặp năm thất mùa, thì đi bộ coi mạch chẳng nỡ làm tốn tiền xe người. Vợ cũng hiền đức, thuận theo ý chồng, mùa đông bận áo vải cũng không phiền. Đến 80 tuổi, nhằm ngày sanh Triệu-Đãnh, xảy thấy thinh không hiện ra một bức lụa đỏ, thông giữa căn nhà để chữ vàng rằng :
Phụng thiên đế mạng, Hùng-triệu-Đãnh phó Phước-kiến tỉnh thành hoàng tử nhậm '. (Vương chỉ thượng đế phong, Triệu Đãnh làm thành hoàng tỉnh Phước-kiến)
Cách ba bữa mùi hương đầy nhà. Triệu Đãnh tắm gội, thay y phục mới, ngồi xếp bằng mà mãn phần, con cháu thi đậu nhiều đời.
Trung-mạnh-Cầu làm quan Án-sát trấn tỉnh Hà-Nam, tánh ở thanh liêm có ân oai nhơn chánh. Có khắc bản Ngọc lịch, Âm-chất, văn giới sát của Liên-trì đại sư (nay đem chung vô Ngọc-Lịch rồi). Tánh ghét họa hình tục tĩu, bài thuốc tráng dương, bài thuốc phá thai và đồ nghề bài bạc. Nếu gặp thì hủy hết, ai cáo thì được hưởng. Năm nào thất mùa dân đói thì thí lúa, cho tới xứ khác nữa. Vợ cũng cầm đồ mà phụ với chồng in Ngọc-lịch và thiện thơ. Những kẻ nghèo bệnh đều nhờ ơn hai ông bà. Sanh năm trai đều thi đỗ làm quan.
Trương-xuân-Phố nhà giàu mà cần kiệm như nhà nghèo thấy thiện-thơ thì bảo con cháu sao tả cho người. Tánh ở thuần hậu, con cháu hay tả kinh, sau thi đậu tới đời chắt.
Tỉnh Chiết-giang phủ Hàng-châu, Từ-văn-Kỉnh làm đại thần mà hay giảng kinh sách tam-giáo, in Ngọc-lịch, có khắc thêm Kỉnh-tín-Lục là các bài nói trước đó mà cho đời. Mẹ ngày nào cũng niệm Phật Quan-Âm. Năm đói thời thí lúa. Sau con làm tới Chủng-tể, các cháu thi đỗ làm quan.
Trần-thị là họ lớn tại huyện Hải-ninh lập trại hàng thí quan khách, thí thuốc, thí đất cúng, tối trời thấp đèn ngoài đường đi, thí Ngọc-lịch. Con cháu thi đậu, nổi danh tỉnh Chiết-giang.
Tại tỉnh Chiết-giang, phủ Hàng-châu, có bốn họ đại phú là : họ Quan, họ Uông, họ Tôn, họ Triệu, đều nối đời nhơn đức bố thí nên giàu bền không cổi. Họ Quan, cha con thi rồi, về lo giải thiện-thơ, kế nghe báo, cha con đều đậu. Còn họ Uông tới đời nay còn thí thuốc Tử Hà, giàu hoài không cổi. Họ Tôn thí Ngọc-lịch và các thiện-thơ. Họ Triệu thí quan quách quần áo, Bốn họ ấy giàu bền, lại phát quan, là nhờ bố thí làm phước.
Lưu-học-Triều ở huyện San-âm, năm Bính Thân, trào Càn-Long dắt gia quyến đến kinh đô đợi bổ ra làm quan. Dọc đường gặp đàn bà bận áo đỏ, nói : ' Hồi tôi còn sống, muốn in Ngọc-lịch một trăm bộ, bị ông cản trở hại tôi bây giờ mắc tội dưới Âm-phủ '. Lưu học-Triều hãi kinh nhìn lại, là nàng họ Trịnh vợ của người đầy tớ cũ. Đi tới kinh phát bịnh, hay thấy hồn nàng họ Trịnh đến gây hoài. Vợ là họ Khương hay sự ấy, vái in hai trăm bộ thí cho họ Trịnh. Lưu-học Triều vùng nói : ' May nhờ ơn Phật tôi được siêu độ '. Nghe in vọng nàng họ Trịnh ! Khương thị càng tin, lo in lập tức cúng tại am cô vãi. Cách nửa tháng, hai vợ chồng đồng thấy nàng họ Trịnh về lạy tạ rằng :' Nhờ ơn in Ngọc-lịch, tôi đặng đầu thai, Diêm vương chia phước cho bà phân nửa, sau gặp nhiều sự may '. Lưu-học-Triều thức dậy, liền mạnh.
Cầu-phục-Sơ ở tỉnh Nam-kinh là người chí hiếu với cha mẹ, Vợ chết, có con là Đại Vinh cũng có hiếu. Tánh Phục-Sơ không tin có quỉ thần địa ngục. Ngày kia đi buôn bán đặng cuốn Ngọc-lịch đem về, cha con coi với nhau, cha gọi nói huyễn nên bỏ dẹp trên gát ! Con là Đại Vinh mộ lắm, muốn kiếm bản in ra lưu truyền, sợ cha quở nên không dám. Phục-Sơ bịnh nặng, ngó thấy nhiều con quỉ dị hình tới phá, bèn kêu con mà than rằng : ' Nay mới biết có quỉ ma địa ngục, ăn năn xưa không tin Ngọc-lịch mà ở theo ! Đại -Vinh nghe nói, liền vái in ba trăm cuốn mà lưu truyền, cầu cha mau mạnh. Phục-Sơ nghe quỉ nói :' Ông Táo đã đề hai chữ Thuận Tuân trên trán Phục-Sơ, không bao lâu sẽ có chiếu chỉ Ngọc đế đến, chúng ta trốn trước cho mau, kẻo nữa bị quở '. Phục-Sơ liền mạnh.
Hạ-kiến-Mô tự Hữu-kiều, ở huyện Tiền-đường, thuật chuyện chiêm bao rằng :' Năm Mậu Dần ta dạy học tại nhà họ Cao, Lúc tháng tư, ta soạn sách cũ trên gác, gặp cuốn Ngọc-lịch, coi rồi thì xét lẽ dạy thì phải, song không chắc thiệt sự như vậy. Nhưng mà thấy lời nói rẽ ròi, tuy kẻ dốt đàn bà nghe cũng dễ hiểu, vậy là một lẽ chánh, khuyên đời làm lành răn dữ như sách nho. Vả lại giá in cũng rẻ nên vái in thí một trăm cuốn. Cách vài ngày xem lại, thấy nhiều lời nói quái gở, mình là người học nho, không lẽ nói cho ai nghe. Nghĩ như vậy nên tính lại không in Đã gần đi thi, không rảnh đâu mà suy xét việc ấy. Vào thi nạp quyển rổi, về nhà ngẫm nghĩ mình đặt hai câu chưa êm, e khi phải rớt, nên trong bụng buồn bực, nằm mơ màng thấy một ông cao lớn, ăn mặc đồ xưa, gò má có triều, râu dài như hình ông Tô-đông -Pha vậy. Ta lấy não bài vở trong trường đưa xin xem thử đâu rớt. Ngài dạy rằng :' Ta biết tánh chàng đủ tài đức, khoa nầy chắc đậu còn ngại nỗi gì ! Song ngươi đã gặp Ngọc-lịch, sao không in mà cho thiên hạ ? ' Ta nhớ trực lại, thưa rằng :' Ngọc lịch e sợ không thiệt chăng ? ' Ông già nói :' Địa ngục dưới Âm phủ, là tại lòng người làm phạm các tội nơi địa ngục. Nếu lòng người chẳng phạm các điều ấy thì có địa ngục cũng như không. Mình thông lý sao còn chưa hiểu mà nghi không thiệt ? Mau in mà thí, đừng dụ dự hồ nghi nữa ? Ta thức dậy, chưa dám nói với ai. Thiệt tới kêu tên mới biết chắc đậu nên in một trăm cuốn và phụ thêm sự chiêm bao vô đây.
Tôi là Cao-Lan, tự Nhơn-Hòa ngày 11 tôi qua mừng cậu tôi là Hạ-hữu-Kiều thi đỗ. Cậu tôi thuật chuyện chiêm bao điềm lạ... và đưa bài tự thuật cho tôi xem, tôi cũng lấy làm lạ ! Khi ấy con tôi là Hiển Tăng có đậu ba bốn ngày mà không tốt. Đến rằm vợ tôi là Phùng thị, con gái tôi là Trinh-Khanh cũng có đậu nữa. Kế một tên học trò, một con tỉ tất cũng có đậu, tôi lấy làm hãi kinh ! Đêm ấy thắp hương đốt sớ chịu ăn năn chừa lỗi, nguyện in ba trăm cuốn Ngọc-lịch cho người và thả 30 muôn vạn cá. Vái rồi không đầy mười ngày mà bốn người mạnh. Còn Hiển Tăng yếu đuối nên chậm hơn, sau ra mũ lỗ tai rồi cũng mạnh. Lấy làm lạ điều nầy : vợ tôi đậu rựng mọc, mà mọc không đặng, thầy thuốc sợ nhập vô làm khổ, kể từ tôi đốt sớ ba ngày, ra mồ hôi ba lần, rồi tiêu mất ! Nhờ ơn thần phò hộ bình an là vì vái in Ngọc-lịch mà linh nghiệm như vậy mới tin cậu tôi thấy chiêm bao là điềm thiệt, nên khắc thêm sự tôi vào đây, cho thiên hạ biết. Nhằm tháng 9, vua Gia-Khánh 23.
Kinh Ngọc-lịch lưu truyền đã lâu. Ông nội tôi là Văn-Kỉnh có khắc bản in thí, ai tin làm theo đặng gặp phước đều khắc thêm vào đây rồi. Năm ngoái Hạ-hữu-Kiều thấy chiêm bao, in một trăm bộ. đưa cho tôi một cuốn, tôi động lòng muốn in thêm, ngặt lúc không dự, Năm nay thi đỗ, thân hữu lễ mừng, tôi đều lấy mà in một trăm cuốn và khắc thêm lời nầy vào đây. Từ-Chương ở huyện Tiền-đường, ghi tháng mười, năm Kỉ-Mảo Năm Mậu-Dần, Hạ-hữu-Kiều làm chức Hiếu liêm, qua Tô-châu cho tôi một bổn Ngọc-lịch, tôi coi tới câu : ' Địa ngục là tại lòng.' Tôi ngẫm nghĩ ra lý quả báo. Qua năm Kỉ-Mão cháu lớn tôi bịnh nặng tôi vái in Ngọc-lịch cầu cho cháu mạnh, thiệt quả đặng sống. Tháng hai năm nay, con trai lớn tôi là Lượng-Dần đau chứng yết hầu gần chết, tôi vái trời xin cho con mạnh, thì in Ngọc-lịch phái liền. May ra mồ hôi mà mạnh đổi họa ra phước, nên cám ơn trời phật thánh thần. Khi trước tôi gởi cho bằng hữu qua Hàng-châu in ba trăm bổn nữa, có khắc in thêm khoản nầy cho các nơi khác. Kinh nầy đáng kính, nên tôi ghi vài lời xin các vị thiện tâm rán rủ in ra khuyên đời, thì đặng phước nhiều lắm. Khi ấy niên hiệu vua Đạo Quang năm thứ nhứt là Tân-tị, tháng tám. Cát-võ Điền hiệu Du -nhuận đương ngụ ở Tô Châu đề.
Niên hiệu Dạo-Quang năm Quí-Tị, mùa thu, tôi là Phan-quang Thọ ở sông Tiền đường, bởi em bạn dì tôi là Châu-phước-Tăng, Táo-thủ-Tăng khắc bản khuyên tiếc lúa gạo, trọng giấy chữ, lại tính khắc Ngọc lịch in cho đời. Tôi nói : ' Sự địa ngục là u minh, không đáng tin. Vả lại muốn lượm giấy chữ đà tốn hao, khắc bản tốn nhiều, vô ích '. Hai anh em nghe tôi nói thôi làm. Qua mồng ba tháng giêng, năm Giáp Thân (năm sau), tôi chiêm bao đến chùa Văn Xương đế quân, kêu tên thì vào hầu. Tôi vào quì lạy. Phán quan nói lớn rằng :' Ngươi đã chẳng tin thì thôi, sau cản người làm lành ? '
Tôi tâu rằng :' Thuở nay tôi không cản ai làm việc lành '. Phán quan hét lớn rằng : ' Ngươi quên sự cản khắc bản Ngọc-lịch sao ? Ngươi hãy nói nhiều chuyện nên trễ đậu tú tài đã mười năm và chết nhiều đời vợ ; nếu còn nói điên như vậy, thì thấy chết yểu ! Như biết ăn năn, nguyện khắc bản kinh, khuyên đặng ngàn người chừa lỗi làm lành sắp lên, thì tiêu tội trước, mà được phước sau '. Ta giựt mình thức dậy, mồ hôi dầm mình ! Song còn nghi mộng mị không chắc. Vả lại nhằm dịp Tết, bằng hữu rủ chơi bời, nên chưa lo khắc bản. Qua 27 tháng sau, ta thổ huyết hai búng, mệt xỉu ! Thấy phán quan khi trước, mặt giận nạt rằng : ' Ngươi mới ăn năn rồi cũng quên nữa, nay họa đến rồi ! Bữa sau tôi kêu hai người em mà nói các điềm ấy nguyện ăn chay bảy ngày, mướn nhiều thợ khắc rút, mười ngày rồi bản nầy, khắc thêm sự mình in luôn cho người, xin thiện nam tín nữ rán khuyên đời ăn năn hoặc vẽ ra bức Thập điện theo trong kinh mà treo trên vách, ngó thấy mà giựt mình, năng coi năng đọc Ngọc lịch mà sửa lòng chừa lỗi, làm lành lâu ngày thì có phước. Nếu chẳng tin. e phải bị gương tôi. Phan-quan-Thọ ở huyện Tiền-đường đề.
Tiên Phật hay nói nhơn quả, còn kẻ học nho hay chê là dị đoan ! Sao chẳng xét ? Thích là Phật, đạo là tiên tuy dạy khác đạo Nho của thánh song cũng dạy người làm lành như nhau, nên tam giáo như một. Tôi xem hết cuốn Ngọc-lịch, ý dạy cũng như sách Nho, mà nói rành rẽ dễ hiểu, không cần văn chương đối đáp, miễn cho đời dễ hiểu mà ở thì hơn, tới đám đàn bà con nít cũng nghe chung đặng nữa. Người đời ít kẻ văn học nên bảo ở nhơn nghĩa trung hiếu thì mấy ai hiểu thấu mà làm, chi bằng Ngọc-lịch nói sự báo ứng, làm điều chi được phước, ở làm sao thì mang họa, người thấy giựt mình mà hồi tâm. Mới coi thì là lời khuyên răn, xét kỹ thiệt dạy đường đạo đức, phải là gìn lòng sửa nết cho nên người trung hiếu nhơn nghĩa chăng ? Như vậy thì công lớn lắm, có phải thua sách nho đâu ? Niên-hiệu Gia-Khánh 22 là năm Dinh-Sửu, mùa xuân ghi lời bạt (không để tên).
KHUYÊN PHỤ ÍT LỜI
(cũng không đề tên)
Lành dữ người đã làm, phước họa trời không vị. Biết lành đáng làm mà không làm, sao phải người lành. Biết dữ đáng chừa mà không chừa, thiệt là tội dữ. Sự quả báo ai mà không hiểu ? Sao lại không làm phải can tâm làm quấy mà chịu trầm luôn ! Người đời nhờ cơm mà sống nếu có hơi muốn thiu, thì đem đổ, có khi đạp . cơm cháo cũng không sợ tội. Nếu kẻ ăn mày, đặng cơm cháo thiu ấy mà ăn, cũng sống đỡ một lát. Đồ ăn ngon vào bụng thì hóa đồ dơ, sao lại chê cơm nguội ! Huống chi kẻ làm ruộng gần bên lúa gạo cực khổ trăm bề, mình có mà ăn, lại hủy hoại như vậy, tội biết chừng nào ? Họ ăn mì hay đổ nước, sao không nghĩ đồ vụn, cũng là cơm cháo, nếu chừa cặn, thì tôi tớ nó đổ nơi chỗ dơ ! Nếu không ăn nước, thì vớt mì vụn mà ăn cho hết . Nếu huỷ -hoại cơm cháo vật thực thái quá, e bị Lôi -công . Kinh nói cữ sát sanh, hoặc phóng sanh, là nói vật lớn : còn ta nhắc vật mọn cho đời nhớ . Người hay nuôi chim, như chim quyên nhồng sảnh keo két cưỡng sáo, các loài chim hay ăn trùng dế cào -cào, châu chấu v .v ... thường ngày phải bắt vật các ấy mà nuôi nó kêu nó nói cho êm tai mà thôi, chẳng kể giết không biết mấy muôn ngàn mạng vật mọn mà nuôi nó, trong lương tâm đành đoạn hay sao ? Còn người gọi ốc là rẻ nên hay ăn song thiếu chi vật rẻ tiền, mà phải ăn ốc ? Một bữa ăn hơn vài trăm mạng ! Đáng lẽ đã cữ, lại mua ốc mà phóng sanh, đặng chuộc tội trước . Còn ăn cá là thường, song những cá nhiều trứng, nếu trứng cá tươi, chưa vấy muối, để lâu cũng còn nở . Sao không dặn kẻ nấu ăn, nếu làm cá gặp trứng thì lấy bao đất mà bỏ xuống sông, mình nhín ăn một đũa mà phóng cả ngàn mạng cá con (ấy là lời ông Lữ đồng Tân giáng cơ có dạy). Phóng sanh thế ấy khỏi tốn tiền mà phước lớn lắm . Nếu vì một miếng ăn mà chết trăm ngàn trứng cá sao đành, dầu vật mọn cũng vậy .
KHUYÊN ĐỪNG MÊ TỬU SẮC TÀI KHÍ
Rượu chớ uống nhiều, nhiều thì say, say thì hư việc cả .
Sắc chớ ngó nhìn, nhìn thì mê, mê thì mắc tội đầu .
Bạc chớ tập đánh, đánh thì tham, tham thì thâm vốn liếng .
Giận chớ làm dữ, dữ thì đánh, đánh thì bị lao tù (củ).
(Phủ) : Kiêng rượu không say, giữ tánh thường .
Đừng mê hoa nguyệt, chẳng tai ương,
Không theo bài bạc, còn gia sản .
Giận tức mà dằn, hoạ khỏi vương (Hành tố).
TÍCH NGƯỜI KHÔNG TIN GIÁNG CƠ
có người kia thấy thỉnh cơ thì không tin, nói bày đặt lên giả . Lúc đó cơ lên xưng Ngọc -Hổ tiên sanh . Va cười ! Cơ viết bài thơ 8 câu, va thất sắc, quì lạy . Cơ nói nàng ấy đã thôi ở lầu xanh, có chồng rồi, ngươi đặt thơ gởi âm phủ có lục bài thơ , ta thấy làm án nặng, viết cho ngươi sửa nết, y hoảng, vì mới đặt não chưa gởi mà thần tiên hay . Năm sau y thác . Tám câu thơ y sau đây: Tử quỉ bay hoảng khóc tàn canh .
Đoái lại Chương đài cụm liễu xanh .
Hoa nở có kỳ tằm ruột đứt,
Mây tan không ngỡ bướm hồn đoanh (giấc điệp)
Nhớ chừng ngõ phớt xô khuôn cửa .
Quá chén cười mơn nựng bức tranh .
Còn ấp tì bà năm trước chẳng ?
Tầm Dương tình cũ trả lời rành ?
BÀI THỜ KẾT :
Trần làm gia chánh sách nêu danh :
Hành thiện tu tâm tại học hành .
Tố vị giàu nghèo dùng phải tố .
Thanh liêm phận sự giữ cho thanh .
Phước nhiều bởi dạ làm lành lắm .
Đạo cả nhờ kinh giảng nghĩa rành .
Nhơn đạo xong rồi tiên đạo có .
Kỳ công chừa quá bước mây xanh .
PHỤ DỊCH
LỜI TỰA DƯƠNG-PHÁP -TRÌNH IN KINH NGỌC LỊCH
Quan-đế giáng bút tại đàn nhà Dương-pháp -Trình, bảo in Ngọc lịch phải thêm 20 khoản hựu tội của Lữ Tổ xin phép Đại -Sĩ với Địa tạng mà giáng cơ và có các tiên giáng .
LỮ TỔ PHỤNG SẮC GIÁNG BÚT
và chú giải 20 khoản
Ta là Thuần -Dương đặt 20 khoản xin ân xá, nhờ Quan-âm Địa -Tạng nhận lời tâu lại, nên truyền chỉ cho ta phải phụng chỉ Thế -tôn Như lai truyền dụ 20 xá khoản . Nếu ai lương thiện, làm theo 20 khoản ầy, thì thành Phất tiên thánh, hiền . Nếu kẻ dữ, thấy 20 khoản nầy, thề cải ác, ở theo điều lệ đây, thì khỏi luân hồi trả quả . Ta giáng bút sau đây :
1. HIẾU : Con có hiếu với cha mẹ là điều lành trước hết, học trò có hiếu thì thi đỗ . Nếu ai bất hiếu thì trời phạt khốn khổ, tai nạn, chết tật bịnh, chết yểu (chết cách dữ). Dầu người tu tam giáo cũng vậy, hiếu thì siêu, bất hiếu thì đoạ . Sự hiếu đã hết lòng phụng dưỡng, biết có cha mẹ chớ không biết có mình, phải cung kỉnh chịu lụy thiệt tình cho song thân đẹp ý . Nếu cha mẹ bất bình thì con mang bất hiếu .
2. KỈNH : Kính sợ trời Phật thánh thần, nên không dám làm việc quấy, lòng kiêng sợ là kỉnh, không phải lạy cúng là kỉnh . Như kỉnh kiêng phép nước, không dám phạm phép luật, chớ không quì lạy .
3. TRUNG : Như tôi ra trận, liều mình trả ơn chúa . Còn quan gián nghị can vua không tiếc mạng . Quan Trấn thanh liêm, thương dân, mảng lo việc nước mà quên việc nhà, vì hết lòng hết sức . Tôi tớ phải hết lòng trung với chủ nhà . Bạn bè trung tín với chủ tiệm . Người thay mặt trung với chủ . Còn như tá điền lo lúa ruộng, dân lo xâu thuế nước, cũng gọi là trung (hết lòng).
4. NGHĨA : Là sự phải lẽ, không làm trái lẽ, chẳng dám quên ơn, không làm việc quấy . Xử cho phải nghĩa là quân tử .
5. THỦ : Giữ bổn phận bền chí cho qua thời, không vì nghèo nàn mà đổi tiết, Phải thủ thân vì trọng, không dám làm cho hư thân thể mình, thủ khẩu không dám nói tổn đức .
6. NHẪN : Nhịn dằn thì được phược khỏi hoạ . Như Lâu sư Đức, Trương công Nghệ, Lưu Khoan . Nếu không nhịn, thì chẳng hoà .
7. ĐOAN : Ngay thẳng, một sự ngay thẳng thì không tội . không nhập bọn tà vạy, cứ chánh trực công bình, sẽ thành thần thánh .
8. PHƯƠNG : (Vuông) : Ở có mực thước, làm việc vuông tròn .
9. NHƠN : Ở có nhơn là hay thương xót, chẳng nỡ hại người hại vật, mình no mà người đói không đành, hay làm ơn phước .
10. HẬU : Ở có hậu, thì không vong ân bạc ngãi, không khắc bạc ai hết . Người có ân hậu là người hiền lành lắm .
11. BẤT KIÊU BẤT TRÁ : Chẳng kiêu chẳng gạt : giàu cũng không khoe khoang, giỏi cũng không kiêu ngạo . Châu-công là bực thánh, làm ngự đệ mà còn chẳng dám kiêu . Kiêu như Thạch -sùng, giàu cũng mắc họa . Còn không dối thì là chơn thiệt, chẳng gạt ai, chẳng thất ngôn thất tín thì khỏi phạm vọng ngữ, chơn thiệt mới thành .
12. BẤT THAM BẤT SÂN : không tham không giận, Tham thì sanh giận, giận thì sanh dữ, nên tam giáo đêu cấm hai điều ấy . Qang-âm nói:
Sân thị tâm trung hỏa, năng thiêu công đức lâm,
Dục hành bồ tát đạo, nhẫn nhục hộ chơn âm .
Thích nôm :
Giận thiệt lửa trong lòng, như thiêu hết đức công .
Muốn theo bồ tát dạy, dằn nhịn dạ như không .
13. BẤT KHÍ BẤT VÕNG : Không dối, không ngang . Không dối thì lòng công, không ngang thì khỏi phạm thượng, giữ tánh khiêm nhường .
14. BẤT TÀ BẤT DÂM : không vạy, không tà dâm . Lòng không chánh là tà, không phải thê thiếp mình, mà muốn là tà dâm (dâm ác) chẳng nên thấy sắc tốt mà sanh lòng tà dâm vọng tưởng .
15. TƯƠNG THÂN TƯƠNG MỤC : Thương nhau, hòa nhau . Lòng thân là tưởng không ghét ai, hòa là không gây tung với ai . Coi bốn biển như một nhà, coi thân ai như thân này . thương người như thể thương ta .
16. ĐỒNG THIÊN ĐỒNG THÀNH : Mình lành khuyên người làm lành, mình thiệt tình, khuyên người thiệt tình cũng hết lòng thành như mình .
17. HÓA KỶ HÓA NHƠN : Sửa mình cho thành đức, rồi lo dạy người sửa người đặng đức hạnh như mình, không tiếc công dạy .
18. HÓA ĐẠO HÓA NGHĨA : Giữ theo đạo luân hồi, xử cho phải nghĩa,
hay trượng nghĩa giúp người, nhứt là bằng hữu sửa lỗi nhau .
19. QẢNG KHUYẾN QUẢNG HÀNH : Rộng khuyên, rộng làm . Mình khuyên người làm lành làm phải, mà mình cũng làm ơn làm phước cho nhiều .
20. VÔ PHI, VÔ THỊ : Không sanh việc thị phi . Nếu lòng ở công, không phân người phân ta, nói người phải mình quấy, thì không sanh việc thị phi .
Nên giữ được 20 điều ân xá thì siêu .
ĐỊA -TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT GIÁNG BÚT
(Tựa Công-quá-cách)
Người đời không cho con học chữ nho, nên không thông đạo lý. Cứ tưởng cúng chùa dưng hương là lành, rước sãi thầy tu tụng kinh làm chay thì siêu độ vong hồn đặng ! Các điều ấy có phải làm lành làm phước đâu ? Làm lành là làm phải lý, lại khuyên người làm phải, thì trời xuống phước. Ta thấy người đời ở với cha mẹ không hiếu gì, cha mẹ mãn phần thì nói : ' Sa địa ngục rồi ! Phải rước sãi làm siêu độ ! ' Các sãi bày ra làm mị, như gởi kho vàng bạc, phá ngục, bong đầu phướng đặng tiếp dẫn vong hồn lên Tây phương. Có lẽ gì thọc cây tre mà phá đặng địa ngục ? Nếu quả như vậy, thì kẻ giàu sang làm dữ, thác rồi con cháu rước đông sãi tụng kinh niệm Phật thì vong ra khỏi ngục sao ? Người hiền lành mà nghèo, không tiền rước sãi làm như vậy, thì không ra khỏi ngục sao ? Như vậy trời đất cũng vị nhà giàu mà hà hiếp nhà khó hay sao ?
Còn như Phật ở Tây phương, công đâu mà vị nhà có tiền phải cứu vớt ? Tâm là Phật, tâm là thiên đường, lòng lành thuận lòng trời thì cầu vong khỏi tội, lòng chẳng lành nghịch lòng trời thì cầu không đặng. Nếu không làm phước cứ mỗi ngày rước thầy tụng kinh cầu siêu hoài, Phật muốn cứu cũng không lẽ cứu được. Ta cũng là Phật lẽ đâu không hiểu phép. Làm lành tuy không cầu Phật mà Phật cũng phò hộ. Nếu làm dữ, có lạy Phật cho đến sói đầu, cầu cũng không đặng. Ta khuyên đời nghe lời ta, cứ ở theo luật Công quá cách, đừng làm các điều dị đoan trái lẽ, tuy chẳng cầu ta cũng độ vọng, không cần rước sãi.
VĂN-ĐẾ BÁ-TỰ-MINH (GHI TRĂM CHỮ DẠY ĐỜI)
Quả dục tinh thần sảng Dục ít tinh thần khoẻ.
Đa tư huyết khí suy, Lo nhiều khí huyết phai.
Thiểu bôi bất loạn tánh. Vài chung khôn loạn tánh.
Nhẫn khí miễn thương tài. Một nhịn khỏi hao tài.
Quí tự tân cần đắc. Sang tại siêng năng, đổ.
Phú tùng kiệm ước lai. Giàu nhờ tiện tặn dai.
On nhu chung hữu ích. Dịu mềm sau có ích.
Cường bạo tất chiêu tai, Hung dữ sẽ mang tai.
Thuận xử chơn quân tử.
Khiêu toa thị họa tại.
Am trung hưu sử tiễn.
Qai lý Phóng ta ngai.
Dưỡng tánh nghi tu thiện
Khi tâm mạt ngật trai,
Nha môn hưu xuất nhập
Hương đảng yếu hòa hài.
An phận thân vô nhục.
Nhàn phi khẩu vật khai.
Thế nhơn y thử khuyến.
Nạn thối phước tin hồi.
Khéo xử nên quân tử,
Xui mưu rấm họa thai.
Chốn thầm đừng bắn lén
Cảnh nghịch giả ngây hoài.
Tánh tốt gìn tam thiện.
Lòng gian uổng thập trai.
Nha môn đừng kiện cáo
Làng xóm chớ chê bai.
Bổn phận nương cơ tạo.
Thị phi lấp lỗ tai.
Lời nầy ai giữ đặng.
Nạn khỏi phước lâu dài.
ĐƯƠNG -THỦ TRAI -KỲ
(một năm ăn chay 61 ngày vía lớn)
Bốn ngày tháng giêng : mồng 1 , lệ tế trời và vía Phật Di -Lạc, (vái...) Mồng 8 vía Ngũ -điện Diêm La Vương (vía ăn năn làm lành như mồng 1). Mồng 9 vía Ngọc-hoàng thượng đế (bái cải quá...) Rằm Thiên quan đại đế.
Sáu ngày tháng hai : Mồng 1 vía Nhứt điện Tân -quáng vương (nguyên y Ngọc lịch ). Mồng 2 vía Thổ địa chánh-thần. Mồng 3 vía Tử -đồng Văn -xương đế quân. Mồng 8 vía Tam điện Tống đế vương (vái...). Rằm vía Thái thượng Nhạc nguyên soái (tụng Cảm ứng). 19 Quan-âm, (tụng Phổ môn Cứu khổ, Cao-vương).
Sáu ngày tháng ba : Mồng 1 vía Nhị -điện Sở-giang-vương (vía...). Mồng 2 Chơn -Võ Huyền thiên thượng đế (nguyện tụng kinh Báo ân). Mồng 8 vía Lục điện Biện -thành -vương (vái...). Rằm Lôi -đình đại tướng. 16 vía Chuẩn -đề Bồ -tát. 27 Thất điện : Thái sơn vương, 28 Đông -nhạc đại -đế.
Năm ngày tháng tư : Mồng 1 Bát đẳng vương (vái...) Mồng 8 Cửu điện Đô thị vương (vái...) 14 Lữ Tổ Rằm Thích -ca Như -lai (tụng Kim -cang). 17 Thập -điện Chuyển -luân xương (vái...)
Sáu ngày tháng năm : Mồng 1 Nam-cực tiên ông. Mồng 5
Lôi đình Đặng thiên quân, 11 Đô-thành - hoàng . 13 Quan Thái tử, (14, rằm 2 ngày cấm phòng).
Bốn ngày tháng sáu : Mồng 1 Rằm 19 Quan-âm thành . 23 Quan đế Linh quan .
Bốn ngày tháng bảy ; Mồng 1 ngày sóc . Rằm Địa -quang đại đế . 18 Diêu-trì Tây vương mẫu . 30 Địa tạng vương (vái ...).
Bốn ngày tháng tám : Mồng 1 Diệu -tế chơn-quân, Mồng 3 Táo -quân (tụng kinh ...) Rằm Thái âm hoàng hậu (tụng thái -âm). 24 Táo mẫu (bà Táo) tụng kinh ông Táo).
Bốn ngày tháng chín : Mồng 1 Nam-đẩu . Mồng 9 Phong đô đại đế, 13 vía Mạnh -bà . Rằm ngày vọng .
Năm ngày tháng mười : Mồng 1 Đông-hoàng đại -đế . Mồng 8 Niết bàn (phóng sanh). Mồng 10 ngày cấm phòng . Rằm Thủy quan đại đế . 30 Châu tướng quân (ông Châu).
Bảy ngày tháng mười một : Mồng 1 ngày sóc . Mồng 4 Khổng tử thánh nhơn . Mồng 6 Tây nhạc đại đế . Rằm ngày vọng . 17 A Di Đà Phật (tụng Di Đà). 19 Thái dương (tụng kinh Thái dương), 23 Trương tiên (Phàm vía này, vía Linh quan Thái tử, ông Châu, vía ông Quan đế, đều tụng kinh ông ; Minh thánh Vĩnh Mạng).
Sáu ngày tháng chạp : Mồng 1 ngày sóc . Mồng 8 Thích ca . Rằm ngày vọng, 23 đưa ông Táo chánh vía 24, 30 chư Phật giáng thế .
Tháng nào thiếu, 29 thế 30 . Tháng nhuần tính theo tháng trước .
Nếu ai ăn chay vía trước nhiều không nổi, thì giữ chay nầy .
BÀI SÁM HỐI QUÁ, TIÊU TỘI NHỰT KỲ
Trần -huyền -Trang là thầy Tam-Tạng thỉnh kinh Tây-phương về, có dưng sớ cho vua Đường Thái -Tôn, mỗi tháng có một ngày nhằm giờ lay sám hối cho nhằm hướng chư Phật hội nghị . Vái nguyện ăn năn chừa lỗi cữ và nguyện làm phước mới cho tiêu tội . Chẳng phải lạy không mà trừ tội đặng . Phật cho hối quá tùng thiện .
Tháng giêng, tảng sáng ngày mùng 1, lạy hướng nam 4 lạy, vái .' 2, mùng 9, 5 giờ sáng, lạy hướng nam 4 lạy, nguyện . ' 3, ' 7, tối 10 giờ, lạy hướng tây 4 lạy, tháng 4, mùng 8, tối 10 giờ rưỡi lạy hướng đông 4 lạy, nguyện '
' 5, ' 3, mặt trời lặn, lạy hướng đông 4 lạy, '
' 6, ' 7, tối 10 giờ rưỡi lạy hướng nam 4 lạy, '
' 7, ' 6, mặt trời lặn, lạy hướng đông 4 lạy, '
' 8, ' 8, đứng bóng , lạy hướng nam 9 lạy, '
' 9, ' 9, đứng bóng, lạy hướng nam 9 lạy, '
' 10, ' 1, đứng bóng, lạy hướng nam 9 lạy, '
' 11, ' 3, đỏ đền, lạy hướng tây 9 lạy, '
' chạp ' 3, mặt trời lặn, lạy hướng tây 9 lạy, '
Ngày ấy ăn chay niệm thầm : Nam mô A-di-đà Phật, đặng lấy câu lạy mấy câu . Chừng lạy, thắp nhang ba cây, căm trên hương, nhắc ghế (bàn) để ngay hướng đó, có đèn cũng đủ, à quả tự ý, không ngơ cũng được . Bận áo dài, đứng chắp tay iệm 6 chữ Di-đà 100 câu, ít nữa 10 câu . Rồi vái tên họn mình gày nay nguyện cải ác tùng thiện . Ở theo Công-quá -cách, cầu êu tội cũ, mà nhờ phước trời Phật thánh thần cho, rồi lạy y số . ân hương, dẹp bàn ghế, niệm Phật . Làm được như vậy ba ăm, thì cảm động bề trên, trong nhà bình an, tai qua nạn khỏi, làm hoài chung thân, sống được phước, thác khỏi tội . Cũng như lặt bàn lạy vía Thập -vương, lạy Thập -vương cứ hướng bắc .
VĂN-XƯƠNG ĐẾ QUÂN GIÁNG CƠ DẠY CẦN GẤP
Ta đã thấy chiếu chỉ Thượng -đế ban cho Bắc -đế (Huyền hiên Thượng -đế) nội tháng chạp, dẫn âm binh đi tra xét tội bất hiếu mà phạt, có hiếu thưởng phước, là xét các mồ mả tử tế, thì là coi con cháu là tên họ gì mà lo cho cha mẹ ông bà, thì hưởng phước lộc thọ gọi là thưởng thiện (hiếu). Nếu mả nào hoang lạnh, tồi tệ, bỏ bê thì tra ra con cháu bất hiếu, thì phạt tai hoạ, bịnh hoạn, nghèo khổ thác yểu . Tùy theo hư nhiều ít ; mà hạt nặng nhẹ . Tại con cháu không biết cội rễ, nên phạt gia đạo hông an . Vì Huyền -thiên thượng -đế là giáo chủ việc báo ân, nên in thưởng có hiếu và phạt bất hiếu . Nên ta cho đời hay trước là giữ .
KHẮC BẢN NGỌC -LỊCH, THỈNH TIÊN CHO TỰA
Lữ Tổ giáng bút :
Người đời làm dữ thái quá, nhờ ơn Địa -tạng truyền chỉ Phong-đô, Thập -vương dọn Ngọc -lịch, xin chỉ Thượng -đế, ban phát trung giới cho người ăn năn chừa lỗi, làm phước đền tội . Lúc đời Tống, nhằm nước Liêu niên hiệu Thái -bình năm Canh-ngũ, sãi nước Liêu là Đạm Si lãnh về, giao cho Phạm nhứt Chơn là Vật Mê đạo -nhơn truyền cho đời . Sau ta đã dọn 20 khoảng xin chỉ ân -xá, giáng bút đem vào sau Ngọc -lịch . Thượng -đế truyền chỉ các thành hoàng mỗi ngày Canh-thân sai du thần đi xét những người tin Ngọc -lịch ăn năn chừa lỗi làm lành, thì cho tiêu tội, ai khắc bản in thí thì cho phước, có bịnh hứa in mà cầu tiêu bịnh lượng theo số mà cho . Bất luận cầu việc chi, cũng cho nguyện in thứ Ngọc -lịch cho nhiều thì đặng . Nay khắc bản thêm, xin ta cho tựa ta nói thêm ít lời . Sự thiên -đường địa -ngục rõ ràng, đừng nghi không có, cứ làm dữ mà mang khổ . Y theo Ngọc -lịch, ăn năn chừa lỗi, làm lành làm phước chuộc tội, công lớn thì theo tiên Phật thánh thần, dư phước đức con cháu được hiển vinh miên viễn . Lành ít sau khỏi sa địa -ngục, đầu thai hưởng phước . Khuyên đời chớ hồ nghi .
LIỄU -TIÊN GIÁNG CƠ TỰA CHÓT
Thượng -đế cho tựa kinh nầy là Từ -ân Ngọc -lịch, nghĩa là như lịch ngọc thường ngày xem, ban ân xá, tha tội kẻ ăn năn . Nếu làm một phước cho trừ hai tội cũ . Làm dư phước thì Táo -quân tâu thưởng nhiều sự may, vân vân .
HỒI -DƯƠNG BIÊN HOẶC
Trào Thanh Nhơn -quả Hồi -dương,
Tự -Kỳ tâu hỏi, Minh -vương phán rành :
Là vua Nhứt -điện U-minh (Tần -quảng -vương)
Dạy việc tu hành chỉ nẻo siêu thăng :
' Ngũ -luân là đạo lẽ hằng,
Tam cang, huynh đệ, hữu bằng năm phe,
Thảo, ngay, chồng bảo vợ nghe,
Anh em yêu mến bạn bè thiệt tin .
1. TRUNG : Làm quan trung với triều đình,
Quên nhà vì nước, quên mình vì dân,
Công bình chẳng vị tư ân,
Xứng ngôi chức phận, vẹn phần thanh liêm .
Còn như dân dã trọn niềm :
Lo xong xâu thuế, giữ nghiêm luật điều .
Gìn lòng trung tín mến yêu,
Không lời phạm thượng, giữ điều tôn quân .
Khuyên người noi đạo Ngũ -luân,
Sửa nền phong hoá, dạy lần ngu ngoan .
2. HIẾU : Cha con đứng giữa tam cang,
Đạo làm cha mẹ, dạy đàn trẻ thơ .
Đừng cho hoang đảng bạc cờ,
Nông thương nghề nghiệp, thi thơ học hành .
Cưng hư thời uổng công sanh,
Dạy nên là việc tu hành với con .
Làm con chữ hiếu vuông tròn,
Một lo thi đỗ, tông môn rỡ ràng .
Hai lo thần tĩnh mộ khan,
Giàu ra công khó, nghèo càng dưỡng nuôi,
Kính thờ cha mẹ đồng vui,
Hết lòng hết sức, lo nuôi lo đền .
Thần mình cha mẹ gầy nên,
Giữ cho toàn vẹn, như đền cù lao .
3. HÒA : Thứ ba chồng vợ làm sao ?
Chồng ra xử thế, vợ vào tề gia .
Giàu nghèo cũng ở thuận hoà,
Xướng tuỳ phải đạo, vào ra giữ lời .
Phần chồng dạy vợ ở đời,
Làm dâu vẹn thảo, đãi người trọn ân .
Bạn dâu hòa thuận mười phần,
Bà con yêu dấu, xa gần ngợi khen,
Lòng chồng chớ ở bạc đen,
Nhan sắc là hèn, đức hạnh là hơn .
Chớ mê tiếng quyển tiếng đờn,
Cũ vong mới chuộng, đèn hơn trăng lờ .
Đàn bà giữ vẹn một thờ,
Tháng đợi năm chờ, chồng chúa vợ tôi .
Kinh chồng, hiền đức vô hồi .
Sắt cầm hoà thuận, đắp bồi gia cang .
4. ĐỄ : Thứ tư huynh đệ yêu đương,
Ấy là chữ đễ, cũng ngang chữ hoà .
Thịt xương một chỗ mà ra,
Anh dầu bị khổ, em đà chẳng an .
Em may anh nở lá gan,
Anh mà đau nhức, em càng xót xa .
Anh em yêu mến thuận hoà,
Mẹ cha đẹp ý, ông bà mát gan .
Mồ côi càng chạnh trăm đàng,
Nhìn xem thủ túc, mơ màng xuân huyên .
Thương anh như mến cha hiền,
Nếu phiền huynh đệ, như phiền mẹ cha .
Anh em ai dẫu bất hòa,
Bị người đánh chửi, cũng ra binh liền .
Bởi vì thiên hiệp tự nhiên,
Anh em cha mẹ căn nguyên tại trời .
Trời xanh không thế đổi dời,
Khó tìm cha mẹ, không rời anh em .
Vợ, con, người chọn mắt xem,
Nối đây dễ quá, sanh thêm khó gì ?
Ấy là nhơn hiệp lạ chi,
Chớ khinh huynh đệ mà vì vợ con .
Mẹ cha anh chị vuông tròn,
Anh em bực nhứt, vợ con bực nhì .
5. TÍN : Thứ năm bằng hữu trọn nghì .
Giúp giùm sửa lỗi, yêu vì khuyên nhau .
Nội nhà ngộ biến lòng đau,
Có khi bằng hữu giúp nhau được toàn .
Việc nhà khó nỗi trở đang,
Có khi bằng hữu giúp cang đặng hòa .
Vậy nên chỉ tín đừng ngoa,
Càng lâu càng mặn, rán la rán giùm
Chọn người tài đức yêu dùng,
Khuyên lơn làm phải, chung cùng giúp nhau
Năm điều vẹn giữ trước nhau
Tu ròng ngũ đạt, đạo mầu nhứt tâm
Năm điều giữ vẹn chẳng lầm .
Thì là hành đạo phải tầm kiếm đâu ?
Trẫm đà truyền đủ đạo mầu,
Người khuyên thiên hạ rán tu cho thành,
Ấy là chánh phép tu hành,
Tại gia cũng đủ bao đành xuất gia .
Gái trai lớn bé trẻ già,
Sang hèn giàu khó đều là phải tu .
Gồm tam giáo : Thích, Đạo, nhu (nho),
Ai tu cũng đặng người tu thời thành .
Làm người tùy sức tu hành,
Cảnh nào cũng vậy lòng lành bấy nhiêu .
Tuy giàu, nhưng khó chẳng kiêu,
Dầu nghèo như khá, chẳng điều gian hung,
Ở đời biết xét hay dung,
Trị nhà nhẫn nhịn, đủ dùng tu thân,
Sự nào mình phải mười phần .
Xét ra còn lỗi một phân sửa liền .
Việc chi người quấy cả thiên,
Tìm ra lẽ phải không phiền chấp chi .
Siêng làm ra của khó gì,
Biết lo tiện tăn, mấy khi nghèo nàn .
Gốc là Hiếu Đễ giữ ràng,
Thảo cha kính mẹ, yêu đang ruột rà .
Ở đời phương tiện mới là,
Người lo chẳng tiện, ta thà giúp phương .
Làm lành là gốc thiên đường,
Tùy cơ bố thí chánh phương tu hành .
Trọn đời như vậy là lành,
Công đầy quả đủ thì thành chẳng ngoa .
An chay niệm Phật thêm lòa,
Bằng không cũng đặng theo khoa thánh thần .
Tự -Kỳ còn ngại tâu rằng :
' Khó bề bố thí, vì thân nghèo nàn ! '
Tần -quảng -vương phán rõ ràng,
' Nhiều phương bố thí, lắm đàng tế nhân .
Trừ ra túng ngặt cơ bần,
Mình đành thí của, cứu lần gian nguy .
Chớ như đói khát một khi,
Bữa cơm bát nước, tốn gì bao nhiêu ?
Người đời lo sợ chít chiu,
Mình khuyên bớt ngại cũng đều tế nhân .
Người mê lầm lỗi cõi trần,
Mình khuyên tu niệm đặng phần siêu thăng .
Giúp điều phương tiện bủa giăng,
Ra công, mỏi miệng, cũng bằng thí thiên .
Người gây tụng, kẻ thù riêng .
Giải hòa thôi kiện, răn khuyên hết rầy .
Tuy nghèo thương chúng chẳng khuây,
Cũng là bố thí lựa chi có tiền '
Tự Kỳ còn ngại tâu liền :
Sãi gọi tu thiền, niệm Phật ăn chay '.
Đức vua Tần Quảng phán ngay :
' Bày ra niệm Phật ăn chay sửa lòng
Ăn chay không ích Thế tôn (Thích -ca).
Công chi với Phật, mà hòng ỷ chay ?
Dẫu cho niệm Phật đêm ngày,
Ích chi cho chúng, rằng hay tu hành ?
Phép tu gốc tại làm lành,
Đừng vương việc dữ thời thành xưa nay
Dẫu cho niệm Phật ăn chay,
Tránh làm lành dữ, tội đày đọa sâu .
Mới giam mấy sãi chẳng lâu,
Hòa thượng khẩn cầu, niệm Phật ăn chay !
Lòng chẳng tịnh, tánh không ngay,
Đời niệm Phật, ròng chay cũng cầm .
Ngũ luân tu nhứt chẳng lầm,
Chay bố thí, niệm thầm thứ hai
Trí tại tâm, chẳng tại tài,
Lòng chay khó lắm, miệng ngoài có chi
Một đồng nhà khó thí đi,
Phước ấy dám bì giàu thí một phiên
Giàu sang một bữa chay tuyền,
Cũng bằng nhà khó chay liền một trăng .
Vì suy chỗ khó làm căn,
Khó mà làm đặng, thiệt bằng lòng tu '.
GIÁC MÊ DIỄN CA
Từ mở mang trời đất những nay,
Cũng có cuộc tang thương canh cải .
Ngươn ba ngươn tuần huờn dựng lại .
Hội mười hai cho đủ mới rằng .
Cõi hồng trần còn hỡi lăng xăng,
Người lành phải chịu bề cay đắng,
Chữ tam đạt thì lòng phải gắng,
Muốn lên bờ phải thác bến mê,
Học Phật gia niệm chữ từ bi,
Tu tiên đạo giữ câu cảm ứng .
Trung thứ này cho là bằng chứng,
Phật Thánh Tiên tam giáo một lòng,
Dọn chông gai đường cả mới thông,
Chịu tân khổ gọi là thượng trí
Người trượng phu phải gìn tam qui,
Đứng anh hùng đừng bỏ cửu tư,
Đạo tiên thiên lập đảnh an lư,
Hạng cũng có trong hư ngoài thiệt .
Tánh tòng bá phải y một tiết,
Nếu đổi dời khổ đọa trầm -luân .
Nhắn với ai qui giới phải tuân,
Một phen khổ muôn đời thong thả,
Nợ tiền khiên buổi nầy phải trả,
Nợ trả rồi vật ngoại thảnh thơi
Mặc dầu trong trời đất vui chơi,
Năm hồ rộng thần tiên thú lạ .
Muốn nên mình phải bền chí cả,
Công cho dày thì quả mới cao .
Dốc lòng đền chín chữ cù lao,
Hành chánh đạo dương danh hậu thế .
Ấy vậy mới tứ ân bất phế .
Hỡi đạo người đừng bỏ nghĩa nhơn,
Làm sao cho tiệp thủy đăng sơn .
Chữ Hầm cốc cùng ông Tương -Tử,
Công danh lợi thì mình phải xử .
Cuộc phù hoa nhắm cũng cheo leo,
Tần -Thỉ -Hoàng tiếng hỡi còn nêu,
Thâu lục quốc phàn sơ khanh sĩ,
Núi Thú -dương Di -Tề danh để .
Giữa một lòng tiết nghĩa mà thôi,
Làm chi Tần -Ngụy cao ngôi,
Thanh sử tạc muôn đời cho tệ .
Đậu yên sơn ngũ chi đơn quế,
Bởi vì chàng cải quá tự tân,
Người đời lấy đức tu thân,
Đừng học thói vua Tần mà bất nghĩa,
Trắc ẩn chi tâm tùng thiên lý,
Nỡ lòng nào giết vật cho đành .
Người úy tử vật lại tham sanh,
Gẫm người vật máu xương không khác .
Thấy thửa sống không đành thửa thác,
Lời Mạnh -kha sách để hẳn hòi,
Xin hiền lương xét lại mà coi,
Sao là phải, sao là chẳng phải .
Sách có câu quá nhi tất cải,
Tử -Lộ xưa nghe lỗi thì mừng,
Võ -Vương làm thiên hạ chi quân,
Còn phải văn thiện ngôn tắc bái,
Nói ra thì tai nghe cũng trái,
Bởi vì nhơn sự cách thiên cơ .
Việc thị phi tai phải làm ngơ,
Học Nhan -tử đai cơm bầu nước .
Đạo muốn cao tỏ đường sau trước,
Cách chỉ mành nào có xa đâu .
Cõi nam đà mở rộng cửa lần,
Đèn trí huệ hào quang chói chói,
Thuyền bát nhã nghinh ngang bốn biển .
Nước ma ha rửa sạch ba lòng,
Rượu Quỳnh hoa mời khách tây đông .
Ngựa không bóng rước người Nam Bắc,
Máy sau lưng xảy bày trước mặt .
Nửa hông nồi nấu khắp non sông .
Muốn cho thấy đặng chủ nhơn ông,
Non vô ảnh âu tâm mới hãn,
Trong hang thần đừng cho gián đoạn,
Độc mộc kiều có gã Quỳnh nương,
Cõi nê hoàn mua rượu Quỳnh tương
Đặng một chén uống thời bất lão,
Việc tu hành phải suy mùi đạo .
Nếu bơ thờ quả vị khó trông,
Tiếng đờn thì tai lóng cho thông,
Chơn như thể giai không ngũ uẫn,
Thập tam ma khuyên đừng lấp lửng,
Gươm huệ mài trừ nó mới an,
Giảng cho thông tứ cú kim -cang,
Thời mới thấy bổn lai diện mục,
Tuy sắc thân hỡi còn ở tục,
Lòng cho riêng mới gọi là thần,
Ai còn mang những thói tham sân,
E khó nỗi luân hồi lục đạo,
Hoạ phước vô môn nhơn tự triệu,
Muốn hi hiền phải liễu phàm tâm,
Đạo Như-Li vô thượng thậm thâm,
Biển cho lặng minh châu mới hiện,
Ngọc cửu khúc gắng công giồi huyện,
Tầm thư hùng hái nước non nam .
Mười hai giờ quyền hộ phải tham,
Thiên giao thời pháp luân thường chuyển .
Rồng trên non cọp kia xuống biển .
Đầy ba xe chở những vàng ròng,
Làm sao rằng lôi phục thiên phong .
Buôn sáu hiệp thâu vào lại gắn .
Thuốc ba phẩm công phu luyện chính
Muốn đơn thành văn võ phải toan,
Ai dốc lòng đến núi linh san
Đóng sáu cửa cho bền then khóa .
Cửu cửu ma thử lòng vàng đá .
Ấy mới rằng biết giả biết chơn .
Thầy Huyền -Trang tiệp thủy đăng sơn .
Trái tám mối Lôi Âm mới tới .
Lòng Bồ -đề không dời không đổi .
Tánh yêu ma còn tiếc nhục phòng,
Bởi chưng qui gới chưa thông .
Căn duyên nợ năm dây khó dứt,
Đạo muốn cao phải bồi chí đức,
Đạo đức toàn quỉ phục thần khâm .
Trời đâu có phụ đạo tâm,
Nghiệm kim cổ người lành mắc nạn .
Việc tu hành phải soi cho rạng,
Nếu không minh ắt chẳng đốc hành,
Đạo Phật Tiên có chí thì thành,
Người bao thuở thủy cầu chung đãi .
Nương phép thuyền mà qua khổ hải .
Sóng muôn trùng còn đoái làm chi .
Bền một lòng niệm chữ A-di
Sau cũng đặng thảnh thơi muôn kiếp .
Máy quang âm lẹ thoi như nhíp,
Người trăm năm chẳng khác chiêm bao .
Cõi bờ này sóng bủa lao xao,
Cuộc danh lợi gẫm như bọt nước,
Đọc sách kinh nhớ người đời trước .
Ông Thạch -Sùng giàu có muôn xe .
Qua đời này tiếng hỡi còn nghe,
Sao chẳng thấy mặt trường sanh thọ hưởng .
Hàn -Tín xưa là mưu thần chi tướng .
Cũng chưa nên mười mặt phô trương,
Người ở đời lấy đó mà răn,
Kim như thị cổ hà như thị .
Xử thế phải biết liêm biết sĩ,
Tu thân thời vô lự vô tư,
An một lòng mau ốc thảo lư .
Đừng học thói Triệu Tần mộ Sở .
Đường Huỳnh -Đạo trời đà rộng mở .
Khách Tây -du sớm nhớ quày đầu .
Kiếp duyên khương sáu vạn dư niên,
Dưng thiên mạng kíp truyền y-bát .
Sông Ai-hà khuyên người kíp thoát .
Khỏi lưới trần cực lạc cũng xinh .
Cuộc diêm -phù nhiều nỗi nhục vinh .
Không lại có, giàu sang dời đổi .
Thú thảnh thơi màu thoàn quen dõi .
Đất Bồ -đề sớm tối xuê-xoang .
Chữ Danh lợi, sao bằng chữ nhàn .
Cửa Bát nhã vào ra thong thả .
Trống Đại Hùng đà thâu ý mã .
Chuông linh sơn hỡi toả tâm duyên .
Ngọc mu ni há dễ khinh truyền .
Kinh Bạch tư dám đâu vọng triết .
Địch không lỗ có duyên mới biết .
Đờn không dây vô phước khó nghe .
Rượu đề hồ chứa để đầy ve .
Say một cuộc bất tri nhơn sự .
Ngâm chỉ huyền say cùng ông Lữ .
Đọc tỉnh mê say với ông La .
Kim huỳnh -đình rảnh đọc năm ba .
Vô bồng tháp buồn xem tạo hóa .
Ngó Nam lãnh vui màu tòng bá,
Nhìn Bắc Hà rùa cá lội vởn vơ .
Chốn Đơn phòng tỏ nỗi huyền cơ .
Mặc dầu kẻ ngộ cùng không ngộ .
Có duyên gặp tam kỳ phổ độ .
Muôn đời còn Tử phủ nên danh,
Ba ngàn công quả đặng viên thành,
Đơn thơ chiếu hiển vinh thiên tước .
Chín phẩm sen vàng khai thấy Phật .
Cữu huyền thất tổ đặng tiêu diêu .
THẬP NGOẠT CA
Hiệu đề thập ngoạt hoài thai,
Tam niên nhủ bộ ai ai cho tường .
Kể ra mỗi việc trăm đường,
Nghe thời phải gắng cho thường chớ sai .
Dặn dò già trẻ gái trai,
Tưởng ơn cha khổ, nhớ hoài mẹ lao .
Trước thưa anh chị nhậm ngôn,
Sau cùng thiện tín bát phương đạo tình .
Khá ăn chay niệm Phật tụng kinh,
Tuân qui giới đền ơn thiênđịa
Người trượng phu phải gìn chữ nghĩa .
Đứng anh hùng trung hiếu đừng sai .
Anh đừng quên thập ngoạt hoài thai,
Chị phải nhớ tam niên nhủ bộ .
Lòng tưởng tới cửu huyền thất tổ .
Dạ khăng khăng báo bổ song thân .
Làm sao cho báo đáp tứ ân .
Lo những cứu tam đồ chi khổ .
Ơn phụ mẫu sanh con quá khổ .
Mẹ đặt con vào dạ thêm lo .
Chín tháng trường chẳng dám ăn no .
Năm canh ấy ngủ không ngon giấc .
Chưn mẹ không rời dưới đất,
Dạ cưu mang lật đật dám đâu .
Tưởng chừng nào lụy nhỏ thâm bâu,
Chạnh nhớ đến ruột đau từ đoạn .
Việc sanh đẻ mẹ đà xuất hạng .
Tán loạn lo sanh tử không chừng .
Vì chậm sổ thời cha vái tưng bừng,
Bằng trì huỡn phụ vào bái tử .
Chốn ô uế đứng trong giường cữ,
Cúi đầu chờ con sổ cho mau .
Đến bây giờ phải nghĩ trước sau .
Ơn nghĩa ấy tương rau cũng đáng .
Huyết ô trì mẹ nằm một tháng,
Bởi vì con, thịt nát dạ càng,
Trên thời vầy nồi nước vung thang,
Nơi phía dưới lửa vây hừng hực .
Chịu cay đắng mẹ không than cực,
Đạo làm con phải nhớ sanh thành .
Thập ngoạt đà nhứt tử nhứt sanh,
Tam niên ấy ốm gầy mình mẹ .
Nuôi con trẻ không cho tiếng khóc,
Hễ khóc lên lật đật chạy quay
Công mẹ rày giặt rửa liền tay .
Vì con trẻ bao nài khai thúi .
Mới ngon giấc ỉa ra lụi hụi,
Cha đốt đèn mẹ lại rửa trôn .
MƯỜI -CÔNG ĐỨC ẤN TỐNG KINH, TƯỢNG PHẬT
* Một là, những tội lỗi đã tao từ trước, nhe thì được tiêu từ . nàng thì chuyền thành nhe .
* Hai là, thường được các thiên thần ùng hộ, tránh được tất cả tai ương hoạn nạn, ôn dịch, nước, lửa, trộm cướp, đao binh, ngục tù,
* Ba là, vĩnh viễn tránh khỏi những quả báo phiền khổ, oán cừu oan trái của đời trước cũng như đời này .
* Bốn là, các vị hộ pháp thiện thần thường gia hộ nên những loài dạ xoa ác quỷ, rắn độc hùm beo tránh xa không dám hảm hại .
Năm là, tâm được an vui, ngày không gặp việc nguy khốn, đêm ngủ không thấy ác mộnh . Diện mạo hiền sáng, mạnh khoẻ an lành, việc làm thuận lợi, được kết quả tốt .
* Sáu là, chí thành hộ pháp, tâm không cầu lợi, tự nhiên y thực đầy đủ gia đình hoà thuận, phước lộc đời đời .
* Bảy là, lời nói việc làm trời người hoan hỷ, đến đâu cũng được mọi người kính mến ngợi khen .
* Tám là, ngu chuyển thành trí, bệnh lành mạnh khoẻ, khốn nghèo chuyển thành thịnh đạt . Nhâm chán nữ thân, mệnh chung liền được nam thân .
* Chín là, vĩnh viễn xa lìa đường ác, sanh vào cõi thiện, tướng mạo đoan nghiêm, tâm trí siêu việt, phước lộc tròn đầy .
* Mười là, hay vỉ tất cả chúng sanh trồng các cân lành . Lấy tâm cầu của chúng sinh làm ruộng phước điền cho mình . Nhờ công đức ấy đạt được vô lượng phước quả thù thắng . Sanh ra nơi nào cũng thường được thấy Phật, nghe Phép, phước huệ rông lớn, chúng đạt lục thông, sớm thành Phật quả .
ẤN QUANG TỔ SƯ DẠY :
Ấn tống Kinh, tượng Phật được công đức thù thắng như vậy, nên gặp khi chúc thọ, thành hôn, cầu phước, thoát nạn, sám hối, cầu tiêu trừ tặt bịnh, cầu siêu độ hương linh, hãy tinh tấn phát tâm Bồ Đề ấn tống, để trồng cội phước đức cho chính mình và thân bằng quyến thuộc .
ẤN TỐNG KINH
Chúng con góp lòng thành Tâm Ấn Tống 1000 cuốn Kinh Nhơn Quả, Nghiệp và Luân Hồi để cầu an và cầu siêu.
Nam Mô bổn sư thích ca Mâu Ni Phật
Nam Mô a Di đà Phật .
Nam Mô đương lai hạ sanh di lặc Tôn Phật .
Nam Mô Quang Thế Âm Bồ Tát .
Cầu An
Nguyện cầu hồng ân tam bảo . Thế giới Hoà Bình an lạc thịch vượng và Gia Hộ toàn thể thân bằng quyến thuộc Nội Ngoại, Ông Bà Cha Mẹ, Cô Chú Dì Dượng, Anh Chị Em con cháu Thân Tầm thường an lạc, Bồ đề tâm tân trưởng, Tu hành kinh tiến .
Cầu Siêu
Cầu nguyện Hồi hướng công đức đến bảy đời phụ mẫu và tất cả Chư Vong Linh đồng bào tử nạn khắp cõi hoàn cầu được siêu sanh tịnh độ .
Nam Mô đại nguyện địa Tạn Vương bồ tát Ma Ha Tát .
CÁC NGÀY KỶ NIỆM
(Tính theo Âm-lịch)
THÁNG GIÊNG
Ngày 1.- Vía đức Di-Lặc .
22.- Tổ Thập -Tháp (Phước -Huệ,chứng -minh Đạo sư Hội
Phật -giáo Trung-Phần) viên tích .
23.- Tổ Khánh -Anh (Thượng -thủ Giáo -hội Tăng-Già toàn
quốc V.N. niên khóa II . Pháp -chủ Gióa -hội Tăng -già
V.N. niên khóa II) viên tịch 30.
THÁNG HAI :
Ngày 8.- Vía Phật Thích -Ca xuất -gia .
15.- Vía Phật Thích -Ca nhập - diệt .
19.- Vía Phật Quán -Thế -Âm Bồ -Tát .
20.- Vía Đức Phổ -Hiền Bồ -Tát .
THÁNG BA :
Ngày 16.- Vía Đức Chuẩn -Đề Bồ -Tát .
THÁNG TƯ :
Ngày 3.- Tổ Tuệ -Tạng (Thượng -thủ Giáo -hội Tâng già toàn
quốc V.N. niên khóa I) viên tịch .
04.- Vía Đức Vân -Thù Bồ Tát .
15.- Vía Phật Thích -Ca Giáng -sanh .
20.- Bồ Tát Thích Quảng -Đức vị pháp thiêu thân
(nhằm 11-6-1963). 20.-
THÁNG SÁU :
Ngày 15.- Đại -Thích -Nguyên-Hương vị pháp thiêu thân
(nhằm 4-8-1963).
19.- Vía Đức Quán -Thế -Âm Bồ -Tát .
19.- Tổ Khánh -Hòa (Sơ-tổ Phong-trào Chấn -hưng
Phật giáo miền Nam) viên tịch .
24.- Đại -đức Thích -Thanh-Tuệ vị pháp thiêu thân
(nhằm 15-8-1963).
26.- Thích -nử Diệu -Quang vị pháp thiêu thân
(nhằm 15-8-1963).
27.- Đại -đức Thích -Tiêu -Diêu vị pháp thiêu thân
(nhằm 16-8-1963).
THÁNG BẢY :
Ngày 13.- Vía Đức Đại -Thế -Chí Bồ -tát .
15.- Lễ Vu -Lan Bồn .
30.- Vía Đức Địa -Tạng Bồ -tát .
THÁNG CHÍN :
Ngày 02.- Đại đức Thích -Quãng -Hương vị pháp thiêu thân
(nhằm 5-10-1963).
11.- Đại đức Thích -Thiện -Mỹ vị pháp thiêu thân
(nhằm ngày 27-10-1963).
19.- Vía Đức Quán -Thế -Âm Bồ -tát .
30.- Vía Phật Dược -Sư .
THÁNG MƯỜI MỘT :
Ngày 01.- Tổ Huệ -Quang (pháp chủ G.H.T.G.N.V. niên khóa I)
viên tịch .
07.- Vía Phật -A-Di-Đà .
THÁNG CHẠP :
Ngày 08.- Vía Phật Thích -Ca thành đạo .
08.- Tổ Vĩnh -Nghiêm (Thiên-gia Pháp -chủ Giáo hội Tăng -
già BV) viên tịch .
NHỮNG NGÀY TRAI
Thập trai : Mổi tháng mười ngày :
Mồng 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29, 30 .
(nếu tháng thiếu thì kể cả ngày 27).
Lục trai : Mổi tháng sáu ngày :
Mồng 8, 14, 15, 23, 29, 30 .
Tứ trai : Mỗi tháng bốn ngày :
Mồng 1, 14, 15, 30 .
Nhị trai : Mỗi tháng hai ngày :
Mồng 1, 15 .
Tam ngoạt trai : Một năm ba tháng :
Tháng giêng, tháng bảy, tháng mười .
*** Những ngày trai không nên dùng các món
gia-vị như : hành, hẹ, nên, tỏi, tổi tây v.v...
*** Người tu hành ăn các món này thì tụng kinh
trì chú không linh nghiệm và khiêu gợi dục tình,
sanh thêm các tánh hung dữ .